HỌC VIỆN CHÍNH TRỊ QUỐC GIA HỒ CHÍ MINH
VŨ THẾ TÙNG
TÍNH PHỔ BIẾN VÀ TÍNH ĐẶC THÙ
CỦA NHẬN THỨC MỚI VỀ CHỦ NGHĨA XÃ HỘI
TRÊN THẾ GIỚI HIỆN NAY
LUẬN ÁN TIẾN SĨ
CHUYÊN NGÀNH: CHỦ NGHĨA XÃ HỘI KHOA HỌC
HÀ NỘI - 2017
HỌC VIỆN CHÍNH TRỊ QUỐC GIA HỒ CHÍ MINH
VŨ THẾ TÙNG
TÍNH PHỔ BIẾN VÀ TÍNH ĐẶC THÙ
CỦA NHẬN THỨC MỚI VỀ CHỦ NGHĨA XÃ HỘI
TRÊN THẾ GIỚI HIỆN NAY
LUẬN ÁN TIẾN SĨ
CHUYÊN NGÀNH: CHỦ NGHĨA XÃ HỘI KHOA HỌC
Mã số: 62.22.03.08
NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC:
1. PGS.TS
166 trang |
Chia sẻ: huong20 | Ngày: 15/01/2022 | Lượt xem: 436 | Lượt tải: 0
Tóm tắt tài liệu Luận án Tính phổ biến và tính đặc thù của nhận thức mới về chủ nghĩa xã hội trên thế giới hiện nay, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
. NGUYỄN QUỐC PHẨM
2. PGS.TS. NGUYỄN VĂN OÁNH
HÀ NỘI - 2017
LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan dưới đây là công trình nghiên cứu
của riêng tôi. Các số liệu, kết quả nêu trong luận án là
trung thực, có nguồn gốc rõ ràng và được trích dẫn đầy đủ
theo quy định.
Tác giả
Vũ Thế Tùng
MỤC LỤC
Trang
MỞ ĐẦU 1
Chương 1: TỔNG QUAN TÌNH HÌNH NGHIÊN CỨU LIÊN QUAN ĐẾN
ĐỀ TÀI LUẬN ÁN 5
1.1. Những công trình đã công bố liên quan đến luận án 5
1.2. Giá trị, hạn chế của các công trình nghiên cứu đã công bố và hướng
nghiên cứu của luận án 25
Chương 2: LÝ LUẬN CHUNG VỀ TÍNH PHỔ BIẾN VÀ TÍNH ĐẶC THÙ
CỦA NHẬN THỨC VỀ CHỦ NGHĨA XÃ HỘI 28
2.1. Một số khái niệm cơ bản của luận án 28
2.2. Quan niệm của chủ nghĩa Mác - Lênin về tính phổ biến và tính đặc
thù của nhận thức về chủ nghĩa xã hội 37
2.3. Quan điểm của các đảng cộng sản về tính phổ biến và tính đặc thù của
nhận thức về chủ nghĩa xã hội thời kỳ trước cải cách, cải tổ, đổi mới 46
Chương 3: TÍNH PHỔ BIẾN VÀ TÍNH ĐẶC THÙ CỦA NHẬN THỨC MỚI
VỀ CHỦ NGHĨA XÃ HỘI TRÊN THẾ GIỚI THỜI KỲ CẢI CÁCH, ĐỔI MỚI 63
3.1. Bối cảnh tác động đến nhận thức mới về tính phổ biến và tính đặc thù
của chủ nghĩa xã hội thời kỳ cải cách, đổi mới 63
3.2. Tính phổ biến của nhận thức mới về chủ nghĩa xã hội trên thế giới
thời kỳ cải cách, đổi mới 68
3.3. Tính đặc thù của nhận thức mới về chủ nghĩa xã hội trên thế giới
hiện nay 105
Chương 4: Ý NGHĨA ĐỐI VỚI SỰ NGHIỆP XÂY DỰNG CHỦ NGHĨA XÃ
HỘI TRÊN THẾ GIỚI VÀ VIỆT NAM HIỆN NAY 120
4.1. Ý nghĩa thời đại của việc quán triệt, vận dụng những giá trị phổ biến
và đặc thù trong nhận thức về chủ nghĩa xã hội trên thế giới hiện nay 120
4.2. Ý nghĩa đối với Việt Nam trên con đường đi lên chủ nghĩa xã hội 133
KẾT LUẬN 148
DANH MỤC CÔNG TRÌNH ĐÃ CÔNG BỐ CỦA TÁC GIẢ LIÊN QUAN
ĐẾN LUẬN ÁN 151
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO 152
DANH MỤC CÁC CHỮ VIẾT TẮT
CNCS : Chủ nghĩa cộng sản
CNTB : Chủ nghĩa tư bản
CNXH : Chủ nghĩa xã hội
GDP : Tổng sản phẩm quốc nội
TBCN : Tư bản chủ nghĩa
USD : Đô la Mỹ
XHCN : Xã hội chủ nghĩa
1
MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Năm 1848, chủ nghĩa Mác ra đời đánh dấu một bước chuyển biến quan
trọng trong lịch sử tư tưởng xã hội chủ nghĩa, đưa chủ nghĩa xã hội (CNXH)
từ không tưởng trở thành khoa học. Dựa trên quan niệm duy vật lịch sử,
C.Mác và Ph.Ăngghen đã đưa ra những dự báo khoa học về sự xuất hiện của
một hình thái kinh tế - xã hội mới, hình thái kinh tế - xã hội cộng sản chủ
nghĩa với những quy luật có tính phổ biến, làm cơ sở cho các nước xây dựng
chủ nghĩa xã hội, chủ nghĩa cộng sản (CNCS), đồng thời cũng chỉ rõ, việc vận
dụng những quy luật phổ biến đó phải luôn đặt trên “mảnh đất hiện thực”, phù
hợp với điều kiện đặc thù của từng quốc gia.
Sau cách mạng tháng Mười Nga năm 1917, chủ nghĩa xã hội từ lý luận
trở thành hiện thực, những nguyên lý phổ biến của chủ nghĩa xã hội khoa học
được vận dụng trên đất nước Liên Xô và đã đạt được những thành tựu quan
trọng. Đặc biệt, từ sau Chiến tranh thế giới thứ hai, chủ nghĩa xã hội trở thành
một hệ thống thế giới. Các nước xã hội chủ nghĩa trên con đường phát triển
đều vận dụng những quy luật phổ biến mà chủ nghĩa Mác - Lênin đã chỉ ra và
giành được những thành tựu hết sức rực rỡ trên các lĩnh vực: kinh tế, chính
trị, văn hóa, xã hội, khoa học - kỹ thuật, an ninh - quốc phòng Riêng Liên
Xô đã vươn lên trở thành siêu cường trên thế giới, là nguồn cổ vũ to lớn đối
với phong trào giải phóng dân tộc và cách mạng xã hội chủ nghĩa, là trụ cột
giữ gìn hòa bình cho sự phát triển chung của nhân loại.
Tuy nhiên, bên cạnh những thành tựu đạt được, các nước xã hội chủ
nghĩa cũng mắc phải những hạn chế trong nhận thức và xây dựng chủ nghĩa
xã hội, đó là: tuyệt đối hóa quy luật phổ biến, coi nhẹ quy luật đặc thù; coi
kinh nghiệm của Đảng Cộng sản Liên Xô trong xây dựng chủ nghĩa xã hội là
vấn đề có tính nguyên tắc đối với toàn bộ phong trào cộng sản quốc tế; những
sáng tạo, tìm tòi con đường xây dựng chủ nghĩa xã hội theo cách riêng được
cho là “chủ nghĩa xét lại”, “chệch hướng”, “xa rời chủ nghĩa Mác - Lênin”.
Điều này dẫn đến vận dụng giáo điều mô hình Xô viết cho các nước xã hội
2
chủ nghĩa, làm suy giảm sự sáng tạo trong việc tìm tòi con đường phát
triển, và, khi mô hình Xô viết không phù hợp với thực tế, rơi vào khủng
hoảng đã dẫn đến sự khủng hoảng của toàn bộ hệ thống.
Trước thực tế đó, Liên Xô và các nước Đông Âu tiến hành công cuộc cải
tổ. Tuy nhiên, do dần xa rời những nguyên lý phổ biến của CNXH khoa học, công
cuộc cải tổ ở Liên Xô và Đông Âu đã thất bại vào cuối thập niên 80, đầu thập niên
90 thế kỷ XX. Các nước xã hội chủ nghĩa như Trung Quốc, Việt Nam, Lào, Cuba
tiến hành cải cách, đổi mới, giữ vững nguyên lý phổ biến của chủ nghĩa xã hội
khoa học, kiên trì chủ nghĩa Mác - Lênin, kết hợp hài hòa giữa tính phổ biến với
tính đặc thù, hình thành con đường phát triển riêng, đưa đất nước vượt qua khó
khăn, từng bước giành được những thành công trên con đường đi lên CNXH.
Đến nay, việc nghiên cứu về tính phổ biến và tính đặc thù của nhận
thức mới về chủ nghĩa xã hội trên thế giới là một vấn đề lý luận và thực tiễn
cấp thiết, giúp các nước xã hội chủ nghĩa thấy rõ những quy luật phổ biến và
đặc thù đang được vận dụng trong điều kiện hiện nay; quán triệt sâu sắc bài
học về sự kết hợp tính phổ biến và tính đặc thù trong nhận thức và xây dựng
chủ nghĩa xã hội; vận dụng sáng tạo và phát triển chủ nghĩa Mác - Lênin vào
điều kiện cụ thể mỗi nước; tăng cường tổng kết thực tiễn, bổ sung, phát triển
lý luận, hoàn thiện hơn nhận thức về chủ nghĩa xã hội trong điều kiện mới
Đối với Việt Nam, việc nghiên cứu tính phổ biến và tính đặc thù của
những nhận thức mới về chủ nghĩa xã hội trên thế giới hiện nay sẽ giúp chúng
ta kiên định với chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, mục tiêu độc
lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội, tiếp tục vận dụng sáng tạo những quy luật
phổ biến kết hợp với tính đặc thù trong xây dựng xã hội mới. Đồng thời, tham
khảo những kinh nghiệm của các nước xã hội chủ nghĩa, các đảng cộng sản
trên thế giới để bổ sung, phát triển lý luận về chủ nghĩa xã hội; tăng cường
đấu tranh chống biểu hiện xa rời mục tiêu chủ nghĩa xã hội, “tự diễn biến”,
“tự chuyển hóa” trong Đảng; phản bác những quan điểm sai trái, thù địch, tạo
ra sự đồng thuận xã hội cùng hướng tới mục tiêu chung là xây dựng nước Việt
Nam: “Dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh”.
3
Với những lý do trên, tác giả chọn vấn đề “Tính phổ biến và tính đặc
thù của nhận thức mới về chủ nghĩa xã hội trên thế giới hiện nay” làm đề
tài luận án tiến sỹ chuyên ngành Chủ nghĩa xã hội khoa học.
2. Mục tiêu và nhiệm vụ nghiên cứu
2.1. Mục tiêu: trên cơ sở nghiên cứu tính phổ biến và tính đặc thù của
nhận thức mới về chủ nghĩa xã hội trên thế giới, luận án rút ra ý nghĩa đối với
sự nghiệp xây dựng chủ nghĩa xã hội trên thế giới và Việt Nam hiện nay.
2.2. Nhiệm vụ: để đạt được mục tiêu trên, luận án tập trung giải quyết
những nhiệm vụ cơ bản sau:
- Tổng quan tình hình nghiên cứu liên quan đến đề tài luận án, từ đó
xác định hướng nghiên cứu của luận án;
- Làm rõ lý luận chung về tính phổ biến và tính đặc thù của nhận thức
về chủ nghĩa xã hội;
- Phân tích tính phổ biến và tính đặc thù của những nhận thức mới về
chủ nghĩa xã hội trên thế giới thời kỳ cải cách, đổi mới;
- Rút ra ý nghĩa đối với sự nghiệp xây dựng chủ nghĩa xã hội trên thế
giới và Việt Nam hiện nay.
3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
3.1. Đối tượng nghiên cứu: những vấn đề có tính phổ biến và tính đặc
thù của nhận thức mới về chủ nghĩa xã hội trên thế giới hiện nay.
3.2. Phạm vi nghiên cứu
Không gian: luận án tập trung nghiên cứu tính phổ biến và tính đặc thù
của nhận thức mới về CNXH ở 4 nước: Trung Quốc, Việt Nam, Lào, Cuba.
Thời gian: từ khi các nước này tiến hành cải cách, đổi mới đến nay.
4. Cơ sở lý luận và phương pháp nghiên cứu
4.1. Cơ sở lý luận
Luận án được thực hiện dựa trên cơ sở lý luận của chủ nghĩa Mác -
Lênin, quan điểm của các đảng cộng sản, các lãnh tụ, các nhà lãnh đạo ở các
nước xã hội chủ nghĩa.
Luận án cũng tham khảo các kết quả nghiên cứu của các nhà khoa học
ở trong và ngoài nước liên quan đến chủ đề của luận án.
4
4.2. Phương pháp nghiên cứu
Luận án dựa trên phương pháp luận của chủ nghĩa duy vật biện chứng
và chủ nghĩa duy vật lịch sử, kết hợp các phương pháp cụ thể như: logic - lịch
sử, phân tích, tổng hợp, so sánh
5. Đóng góp mới về khoa học của luận án
Một là, góp phần làm rõ những vấn đề lý luận chung về tính phổ biến
và tính đặc thù của nhận thức về chủ nghĩa xã hội;
Hai là, phân tích làm rõ những vấn đề có tính phổ biến và tính đặc thù
của nhận thức mới về chủ nghĩa xã hội trên thế giới thời kỳ cải cách, đổi mới.
Ba là, luận án chỉ ra ý nghĩa của việc nghiên cứu tính phổ biến và tính
đặc thù của nhận thức mới về chủ nghĩa xã hội trên thế giới đối với sự nghiệp
xây dựng chủ nghĩa xã hội trên thế giới và Việt Nam hiện nay.
6. Ý nghĩa khoa học và thực tiễn của đề tài nghiên cứu
6.1. Ý nghĩa khoa học
Luận án góp phần làm sáng tỏ hơn những vấn đề về tính phổ biến và
tính đặc thù của nhận thức mới về chủ nghĩa xã hội trên thế giới. Từ đó,
cung cấp cơ sở lý luận cho việc bổ sung, phát triển và hoàn thiện nhận thức
về chủ nghĩa xã hội ở các nước xã hội chủ nghĩa trên thế giới và Việt Nam
hiện nay.
6.2. Ý nghĩa thực tiễn
Luận án có thể làm tài liệu phục vụ cho nghiên cứu và giảng dạy những
chuyên đề: xã hội xã hội chủ nghĩa và con đường đi lên chủ nghĩa xã hội ở
Việt Nam; chủ nghĩa xã hội hiện thực và các mô hình chủ nghĩa xã hội trên
thế giới hiện nay trong chuyên ngành chủ nghĩa xã hội khoa học và các
chuyên ngành liên quan khác.
7. Kết cấu của luận án
Ngoài phần mở đầu, kết luận, danh mục công trình đã công bố của tác
giả liên quan đến luận án và danh mục tài liệu tham khảo, luận án gồm 4
chương, 10 tiết.
5
Chương 1
TỔNG QUAN TÌNH HÌNH NGHIÊN CỨU
LIÊN QUAN ĐẾN ĐỀ TÀI LUẬN ÁN
1.1. NHỮNG CÔNG TRÌNH ĐÃ CÔNG BỐ LIÊN QUAN ĐẾN LUẬN ÁN
1.1.1. Những công trình nghiên cứu của các tác giả trong nước về
tính phổ biến và tính đặc thù của nhận thức mới về chủ nghĩa xã hội
1.1.1.1. Những công trình nghiên cứu của các tác giả trong nước về
tính phổ biến và tính đặc thù của nhận thức mới về chủ nghĩa xã hội trên
thế giới
Nguyễn An Ninh, Về triển vọng chủ nghĩa xã hội trong hai thập niên
đầu thế kỷ XXI [72]. Trong công trình này, tác giả luận giải về triển vọng phát
triển của chủ nghĩa xã hội trong những thập niên đầu của thế kỷ XXI đầy
biến động, chỉ rõ rằng đó là một xu thế phát triển tất yếu của toàn thể nhân
loại trong thời đại ngày nay. Với cách đặt vấn đề đi từ phương pháp luận
nhận thức về triển vọng của chủ nghĩa xã hội đến phân tích một số yếu tố cơ
bản tác động đến triển vọng của chủ nghĩa xã hội và tiến trình phát triển của
chủ nghĩa xã hội trong hai thập niên đầu thế kỷ XXI, tác giả đã cung cấp
cách nhìn biện chứng về xu hướng phát triển khách quan của chủ nghĩa xã
hội trong tương lai để từ đó phân tích những nhiệm vụ đặt ra cho Đảng Cộng
sản và giai cấp công nhân Việt Nam trong quá trình thực hiện sứ mệnh lịch
sử của mình.
Nguyễn Ngọc Long, Chủ nghĩa Mác - Lênin với vận mệnh và tương lai
của chủ nghĩa xã hội hiện thực [59]. Trong công trình này, tác giả đã phân
tích sự hình thành và phát triển của CNXH hiện thực thời kỳ trước cải cách,
cải tổ, đổi mới, trong đó tập trung phân tích, đánh giá về chủ nghĩa xã hội ở
Liên Xô và các nước Đông Âu với thành tựu, hạn chế, nguyên nhân và bài
học kinh nghiệm. Cũng trong công trình này, tác giả đã đi sâu phân tích về
công cuộc cải cách, xây dựng chủ nghĩa xã hội đặc sắc Trung Quốc; công
6
cuộc đổi mới trên con đường “quá độ lên chủ nghĩa xã hội bỏ qua chế độ tư
bản chủ nghĩa” ở Việt Nam; về con đường đi lên chủ nghĩa xã hội ở Cộng hòa
Cuba, Cộng hòa Dân chủ Nhân dân Lào, Cộng hòa Dân chủ Nhân dân Triều
Tiên. Khi đánh giá về công cuộc cải cách, đổi mới, tác giả đã chỉ rõ, các nước
xã hội chủ nghĩa đã vận dụng những quy luật phổ biến của chủ nghĩa Mác -
Lênin một cách sáng tạo trên tinh thần nhận thức mới. Đồng thời, tác giả cũng
phân tích những nét đặc thù, sáng tạo của các nước trong quá trình xây dựng
xã hội mới. Từ sự phân tích trên, tác giả đưa ra những dự báo về tương lai của
chủ nghĩa xã hội, trong đó, khẳng định quá độ đi lên CNXH là xu thế khách
quan của thời đại, đồng thời, cũng khẳng định giá trị, sức sống của chủ nghĩa
Mác - Lênin trong thời đại ngày nay.
Trịnh Quốc Tuấn, Về chủ nghĩa xã hội mang đặc sắc Trung Quốc -
những vấn đề có thể tham khảo cho công cuộc đổi mới ở nước ta [103]. Đây
là công trình tập hợp nhiều bài nghiên cứu dưới những góc độ khác nhau về
chủ nghĩa xã hội mang đặc sắc Trung Quốc. Các tác giả tập trung vào bốn
nhóm nội dung lớn như: chủ nghĩa xã hội mang đặc sắc Trung Quốc là gì;
một số quan điểm lý luận về thể chế kinh tế xã hội chủ nghĩa; thể chế chính trị
xã hội chủ nghĩa; lý luận về xây dựng văn minh tinh thần xã hội chủ nghĩa;
tập trung làm rõ quá trình đổi mới nhận thức của Đảng Cộng sản Trung Quốc
về CNXH và xây dựng CNXH kể từ sau Hội nghị Trung ương 3 khóa XI
(1978); phân tích quá trình hình thành, đặc trưng của CNXH mang đặc sắc
Trung Quốc, lộ trình, bước đi trong quá trình cải cách, mở cửa nhằm hướng
tới thực hiện mục tiêu xây dựng chủ nghĩa xã hội ở Trung Quốc.
Đỗ Tiến Sâm, Trung Quốc với việc xây dựng Nhà nước pháp quyền xã
hội chủ nghĩa [90]. Đây là công trình nghiên cứu chuyên sâu về tính phổ biến
và tính đặc thù trong nhận thức về xây dựng nhà nước pháp quyền ở Trung
Quốc. Những nội dung chủ yếu được tác giả phân tích như: hoàn thiện chế độ
đại biểu nhân dân và hệ thống pháp luật; cải cách bộ máy hành chính nhà
7
nước và thực hiện hành chính theo pháp luật; cải cách, hoàn thiện thể chế tư
pháp và thực hiện tư pháp công bằng. Tác giả cũng chỉ rõ, để xây dựng nhà
nước pháp quyền có hiệu quả thì một nhiệm vụ quan trọng là phải cải cách,
hoàn thiện phương thức lãnh đạo, phương thức cầm quyền và nâng cao năng
lực lãnh đạo của Đảng Cộng sản Trung Quốc.
Đỗ Tiến Sâm, Chủ nghĩa xã hội đặc sắc Trung Quốc - quá trình hình
thành và phát triển [91]. Tác giả đã phân tích quá trình nhận thức của các thế
hệ lãnh đạo Trung Quốc về chủ nghĩa xã hội, từ thế hệ lãnh đạo thứ nhất do
Mao Trạch Đông làm đại biểu, đến thế hệ lãnh đạo thứ tư do Hồ Cẩm Đào
làm đại biểu. Tác giả chỉ rõ hệ thống lý luận chủ nghĩa xã hội đặc sắc Trung
Quốc bao gồm: “Lý luận Đặng Tiểu Bình, tư tưởng quan trọng “ba đại diện”
và quan điểm phát triển khoa học”. Tác giả cũng nêu rõ một số nội dung cơ
bản của lý luận về CNXH đặc sắc Trung Quốc biểu hiện trên các mặt như:
kinh tế, chính trị, văn hóa, xã hội. Từ sự phân tích đó, tác giả đi tới một số kết
luận: CNXH đặc sắc Trung Quốc là sản phẩm của sự kết hợp giữa những
nguyên lý cơ bản của chủ nghĩa Mác với thực tế cụ thể Trung Quốc; chủ
nghĩa xã hội đặc sắc Trung Quốc là một mô hình CNXH hiện thực, tuy mang
tính đặc thù nhưng cũng có những giá trị phổ biến nhất định. Từ đó tác giả chỉ
ra “Việt Nam là nước láng giềng có nhiều điểm tương đồng, có thể tham khảo
những kinh nghiệm phổ biến từ sự phát triển CNXH đặc sắc Trung Quốc”.
Nguyễn An Ninh, Nguyễn Văn Quyết, Chủ nghĩa xã hội đặc sắc Trung
Quốc [76]. Các tác giả đã phân tích tính phổ biến, tính đặc thù của nhận thức
mới về chủ nghĩa xã hội thông qua mô hình “Chủ nghĩa xã hội đặc sắc Trung
Quốc” với các đặc trưng cơ bản như: sự lãnh đạo của đảng cộng sản, lấy chế
độ công hữu làm chủ thể, xây dựng nền văn hóa xã hội chủ nghĩa Tuy
nhiên, bên cạnh những nét phổ biến, nhận thức về CNXH hiện nay còn có
nhiều nét đặc thù phản ánh sự vận dụng sáng tạo lý luận chủ nghĩa xã hội của
chủ nghĩa Mác - Lênin để phù hợp với “mảnh đất hiện thực” ở Trung Quốc.
8
Trương Duy Hòa, Một số vấn đề và xu hướng chính trị - kinh tế của
Cộng hòa Dân chủ Nhân dân Lào trong hai thập niên đầu thế kỷ XXI [40].
Cuốn sách tập trung phân tích tính phổ biến và tính đặc thù của nhận thức về
chủ nghĩa xã hội của Đảng Nhân dân Cách mạng Lào, với các đặc điểm cơ
bản như: vấn đề xây dựng bộ máy quyền lực nhà nước và củng cố hệ thống
chính trị, vấn đề hòa hợp dân tộc, vấn đề mở rộng dân chủ và nâng cao vai trò
của đảng cầm quyền, vấn đề cạnh tranh ảnh hưởng chính trị của một số nước
tại LàoĐồng thời, tác giả phân tích triển vọng về chính trị đối nội và đối
ngoại của Cộng hòa Dân chủ Nhân dân Lào giai đoạn 2011 - 2020. Về mặt
kinh tế, trong cuốn sách, tác giả đã tổng quan hai kỳ kế hoạch 5 năm từ 2001 -
2010 ở Lào, dự báo về những triển vọng kinh tế nổi bật của Lào đến 2020 và
phân tích tác động của tình hình chính trị - kinh tế của Cộng hòa Dân chủ
Nhân dân Lào đối với Việt Nam giai đoạn 2011 - 2020.
Lê Hữu Nghĩa, Trương Thị Thông, Mạch Quang Thắng, Nguyễn Văn
Giang, Xây dựng đảng cầm quyền trong quá trình phát triển kinh tế thị trường
định hướng xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam và nền kinh tế hàng hóa theo cơ chế
thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa ở Lào [71]. Các tác giả đã làm rõ
những vấn đề lý luận và thực tiễn về đảng cộng sản cầm quyền và xây dựng
đảng cầm quyền trong quá trình phát triển kinh tế thị trường định hướng xã hội
chủ nghĩa ở Việt Nam và kinh tế hàng hóa theo cơ chế thị trường định hướng
xã hội chủ nghĩa ở Lào; phân tích về thực trạng, nguyên nhân và kinh nghiệm
về đảng và xây dựng đảng cầm quyền trong quá trình phát triển kinh tế thị
trường ở Việt Nam và Lào; đưa ra những dự báo xu hướng phát triển và tác
động tới xây dựng đảng cầm quyền, những quan điểm chỉ đạo và những giải
pháp lớn xây dựng đảng cầm quyền trong quá trình phát triển kinh tế thị trường
định hướng xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam và kinh tế hàng hóa theo cơ chế thị
trường định hướng xã hội chủ nghĩa ở Lào.
9
Vũ Trung Mỹ, Đại hội VII Đảng Cộng sản Cuba: tiếp tục hướng tới
mục tiêu xây dựng chủ nghĩa xã hội thịnh vượng và bền vững [69]. Tác giả đã
khái quát chặng đường phát triển của Cuba từ năm 1961 đến nay; phân tích
những kết quả chính trong việc thực hiện nghị quyết Đại hội VI của Đảng
Cộng sản Cuba, đồng thời, chỉ ra định hướng của Đại hội VII đối với sự phát
triển của cách mạng Cuba trong thời gian tới nhằm hướng tới mục tiêu xây
dựng nước Cuba XHCN thịnh vượng và bền vững.
Đinh Công Tuấn, Mô hình phát triển Bắc Âu [105]. Cuốn sách gồm 3
chương: ở chương 1, tác giả phân tích những vấn đề tổng quan về mô hình
Bắc Âu như nguồn gốc ra đời, nội dung và đặc trưng cơ bản và sự phát triển
của mô hình Bắc Âu; ở chương 2, tác giả phân tích đi sâu phân tích mô hình
phát triển của các nước Bắc Âu điển hình như: Thụy Điển, Phần Lan, Đan
Mạch, Na Uy, trong đó, nêu bật tính phổ biến của các mô hình này như: coi
trọng phân phối, thực hiện tốt các chính sách xã hội “hệ thống giáo dục miễn
phí”, “hệ thống chăm sóc sức khỏe gia đình và trẻ em”, “hệ thống bảo hiểm
xã hội cho người lao động” và nhiều chính sách ưu việt khác; ở chương 3, tác
giả phân tích tính đặc thù của các nước trong mô hình phát triển Bắc Âu, đánh
giá những thành công và hạn chế của mô hình này và dự báo triển vọng của
mô hình Bắc Âu trong những thập kỷ tới.
Phạm Quý Long, Cộng hòa Dân chủ Nhân dân Triều Tiên trong thập
niên đầu thế kỷ XXI [60]. Trong cuốn sách, tác giả đã khái quát những nét cơ
bản của Cộng hòa Dân chủ Nhân dân Triều Tiên, những đặc điểm của khu
vực Đông Bắc Á thập niên đầu thế kỷ XXI; đánh giá sự phát triển của Cộng
hòa Dân chủ Nhân dân Triều Tiên trên các lĩnh vực kinh tế, chính trị, an ninh,
đối ngoại, văn hóa - xã hội. Từ đó, khái quát về hình ảnh một đất nước Triều
Tiên trong suốt quá trình phát triển từ 1945 đến thập niên đầu thế kỷ XXI, với
nhiều nét đặc thù, nhiều vấn đề còn đặt ra trong quá trình phát triển.
10
Tạ Ngọc Tấn, Những tranh luận mới của các học giả Nga về chủ nghĩa
xã hội [94]. Cuốn sách là tập hợp 28 công trình nghiên cứu của các học giả
Nga với những quan điểm, đánh giá, bình luận liên quan đến chủ nghĩa xã
hội. Nội dung cuốn sách đề cập đến nhiều khía cạnh khác nhau, song tập
trung chính vào một số vấn đề cơ bản như: thứ nhất: nguyên nhân sụp đổ của
mô hình chủ nghĩa xã hội Xô viết, trong đó, các tác giả tập trung nhấn mạnh
những nguyên nhân chủ quan; thứ hai: nhìn nhận, đánh giá và khẳng định tính
khoa học và cách mạng của chủ nghĩa Mác, các tác giả cũng thống nhất rằng,
“chủ nghĩa Mác không phải là giáo điều mà là kim chỉ nam cho hành động”,
vì vậy, cần vận dụng và luôn luôn phát triển trong thực tế; thứ ba: các trào lưu
chủ nghĩa xã hội mới; thứ tư: về triển vọng và tương lai của chủ nghĩa xã hội,
các tác giả cho rằng, dù còn phải trải qua nhiều khó khăn, thách thức nhưng
triển vọng của chủ nghĩa xã hội là khả quan và CNXH là xu hướng đi tới của
nhân loại.
Nguyễn An Ninh, Về mô hình “chủ nghĩa xã hội thế kỷ XXI” của khu
vực Mỹ Latinh hiện nay [74]. Tác giả phân tích bối cảnh Mỹ Latinh trong
những thập niên gần đây, khái quát nội dung cơ bản của mô hình “Chủ nghĩa
xã hội thế kỷ XXI”, khái quát quá trình hiện thực hóa “chủ nghĩa xã hội thế
kỷ XXI” ở khu vực này. Tác giả cũng phân tích những vấn đề có tính phổ
biến của mô hình “Chủ nghĩa xã hội thế kỷ XXI”, đồng thời, chỉ rõ những nét
đặc thù, những đóng góp mới đối với nhận thức về chủ nghĩa xã hội; những
vấn đề đặt ra từ mô hình “Chủ nghĩa xã hội thế kỷ XXI” đối với quá trình xây
dụng chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam.
Bùi Thị Ngọc Lan, Chủ nghĩa xã hội thế kỷ XXI ở khu vực Mỹ Latinh -
thực trạng và triển vọng [51]. Tác giả phân tích những đặc điểm có tính phổ
biến của mô hình chủ nghĩa xã hội thế kỷ XXI ở Mỹ Latinh như: “công hữu
hóa những ngành kinh tế chiến lược”, mở rộng dân chủ, xây dựng hệ thống
công xã nhân dân nhằm “bảo đảm cho nhân dân là chủ thể tối thượng của
11
quyền lực nhà nước”, chú trọng phát triển và thực hiện các chính sách xã hội
như: xóa đói giảm nghèo, nâng cao mức sống và đảm bảo chất lượng sống của
nhân dân, chú trọng phát triển giáo dục - đào tạo, xóa nạn mù chữ, nâng cao
dân trí; khôi phục và thúc đẩy hợp tác giữa các nước trong khu vực. Đồng
thời, tác giả cũng chỉ ra một số nét đặc thù trong mô hình này như: lấy chủ
nghĩa Mác - Lênin, kết hợp với tư tưởng tiến bộ của cách mạng Simon
Bolivar và tinh thần nhân đạo của Thiên Chúa giáo làm nền tảng tư tưởng;
giành chính quyền thông qua con đường tranh cử dân chủ, sửa đổi hiến pháp
nhằm từng bước phá bỏ bộ máy nhà nước cũ
Nguyễn An Ninh, Tính phổ biến và đặc thù của các mô hình và con
đường đi lên chủ nghĩa xã hội hiện nay [75]. Trong công trình này, tác giả
trình bày những nhận thức về mô hình và con đường đi lên chủ nghĩa xã hội
trong xây dựng chủ nghĩa xã hội hiện thực, trong đó, làm rõ quan niệm về mô
hình chủ nghĩa xã hội và con đường đi lên chủ nghĩa xã hội; nhận thức và
thực hiện trước đây về mô hình và con đường đi lên chủ nghĩa xã hội; những
nhận thức mới về mô hình chủ nghĩa xã hội và con đường đi lên chủ nghĩa xã
hội. Về tính phổ biến của mô hình chủ nghĩa xã hội, tác giả đã khái quát 7
điểm tương đồng thể hiện tính phổ biến, đó là: Các nước kiên định mục tiêu
xã hội chủ nghĩa đều tiến hành cải cách, đổi mới từ sự khủng hoảng của một
mô hình đã không còn phù hợp; quá trình cải cách, đổi mới của các nước đều
bắt đầu từ sự điều chỉnh quan niệm về mô hình chủ nghĩa xã hội; hầu hết các
nước đều coi lý luận chủ nghĩa xã hội khoa học là nền tảng lý luận cho quá
trình đổi mới quan niệm về mô hình chủ nghĩa xã hội; các mô hình đều mang
dấu ấn từ “mảnh đất hiện thực” và chấp nhận sự khác biệt trong quan niệm về
chủ nghĩa xã hội; đa số mô hình mới qua thể nghiệm đã được thực tiễn xác
nhận và đạt được thành công nhất định; các mô hình đều phải đối diện với
một số vấn đề thực tiễn và lý luận khá giống nhau; nhận thức về đặc trưng của
mô hình chủ nghĩa xã hội thường xuyên được cải cách, đổi mới ở các nước.
12
Cùng với 7 điểm tương đồng về mô hình, tác giả cũng đã phân tích 7 điểm
tương đồng về biện pháp xây dựng chủ nghĩa xã hội như vấn đề về vai trò của
đảng cộng sản, về mục tiêu chủ nghĩa xã hội, về xây dựng nền kinh tế thị
trường, về công nghiệp hóa, về quan hệ sản xuất theo tư duy mới
1.1.1.2. Những công trình nghiên cứu của các tác giả trong nước về tính
phổ biến, tính đặc thù của nhận thức mới về chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam
Đào Duy Tùng, Quá trình hình thành con đường đi lên chủ nghĩa xã
hội ở Việt Nam [106]. Tác giả khái quát về lịch sử hình thành, phát triển của
nhận thức về con đường đi lên CNXH ở Việt Nam, phân tích và so sánh giữa
tư duy cũ và tư duy đổi mới về CNXH và con đường đi lên chủ nghĩa xã hội.
Tác giả cũng phân tích quá trình vận dụng và phát triển những quy luật phổ
biến kết hợp với những yếu tố đặc thù của Việt Nam để xây dựng mô hình xã
hội xã hội chủ nghĩa với 6 đặc trưng cơ bản được trình bày trong Cương lĩnh
xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội (1991). Tác giả
cũng phân tích những khó khăn, phức tạp và nỗ lực của Đảng ta trong quá
trình đổi mới tư duy, thành tựu và những vấn đề đặt ra đối với cách mạng
nước ta trong tình hình mới.
Nguyễn Văn Oánh, Về con đường đi lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam
[78]. Trong công trình này, tác giả chỉ ra một số điểm phổ biến và đặc thù về
con đường đi lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam, đó là: con đường đi lên
CNXH gắn bó mật thiết với củng cố nền độc lập dân tộc, thống nhất Tổ quốc,
chủ quyền quốc gia; quá trình chuyển biến cơ cấu kinh tế theo hướng công
nghiệp hóa, hiện đại hóa và quá trình xây dựng nền kinh tế hàng hóa nhiều
thành phần, với cơ chế thị trường, có sự quản lý của Nhà nước theo định
hướng XHCN; quá trình đẩy nhanh tốc độ tăng trưởng kinh tế cùng với đảm
bảo tiến bộ và công bằng xã hội, bảo vệ môi trường sinh thái; nhân dân lao
động ở vị trí trung tâm của con đường đi lên chủ nghĩa xã hội; xây dựng một
chế độ dân chủ, nhà nước pháp quyền của dân, do dân và vì dân do Đảng
13
Cộng sản lãnh đạo trên cơ sở liên minh giữa giai cấp công nhân với giai cấp
nông dân và tầng lớp trí thức; con đường đi lên CNXH ở Việt Nam hòa nhập
với quá trình phát triển của nhân loại trên tinh thần hòa bình, hợp tác và hữu
nghị; sự lãnh đạo của Đảng là nhân tố quyết định con đường phát triển của
nước ta theo đúng định hướng XHCN. Tác giả cũng chỉ ra rằng, cùng với việc
áp dụng những nguyên lý phổ biến của CNXH cần có sự nghiên cứu, tìm tòi,
vận dụng và phát triển sáng tạo những nguyên lý đó vào điều kiện cụ thể của
nước ta, không ngừng tổng kết thực tiễn và nghiên cứu lý luận để từng bước
hình dung ngày càng sáng tỏ về CNXH và con đường xây dựng CNXH ở
nước ta.
Nguyễn Văn Oánh, Về khái niệm định hướng xã hội chủ nghĩa [77]. Tác
giả đã phân tích tính phổ biến của chủ nghĩa xã hội thông qua việc làm rõ khái
niệm “định hướng xã hội chủ nghĩa” theo nghĩa rộng, tức là, sự định hướng
mục tiêu và con đường phát triển của đất nước theo quy luật khách quan được
chủ nghĩa Mác chỉ ra: loài người nhất định sẽ tiến tới chủ nghĩa xã hội và
CNCS. Theo nghĩa hẹp hơn, định hướng xã hội chủ nghĩa “là con đường phát
triển không tư bản”, đây là khái niệm được đặt ra với các “nước kinh tế lạc
hậu”, “kém phát triển”, “các nước đang phát triển” trong bối cảnh nhân loại
đang trong thời kỳ quá độ từ chủ nghĩa tư bản (CNTB) lên CNCS trên phạm vi
toàn thế giới và các nước này đã giành được chính quyền về tay nhân dân và do
đảng mácxít lêninnít lãnh đạo. Từ đó, tác giả phân tích, làm rõ cơ sở khoa học
của “định hướng xã hội chủ nghĩa”, khẳng định tính đúng đắn và niềm tin vào
sự thành công của con đường đi lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam.
Nguyễn Duy Quý, Những vấn đề lý luận về chủ nghĩa xã hội và con
đường đi lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam [85]. Trong công trình này, tác giả
phân tích quan điểm của chủ nghĩa Mác - Lênin về tính phổ biến của chủ
nghĩa xã hội thể hiện qua những đặc trưng của xã hội XHCN. Đồng thời, tác
giả cũng phân tích tính phổ biến và tính đặc thù của nhận thức về chủ nghĩa
xã hội và con đường đi lên CNXH ở Việt Nam thể hiện trong sáu đặc trưng
14
của xã hội xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam được trình bày trong Cương lĩnh xây
dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội (1991).
Trịnh Quốc Tuấn, Nguyễn Khánh Bật, Hồ Chí Minh về chủ nghĩa Mác -
Lênin, chủ nghĩa xã hội và con đường đi lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam [102].
Công trình bao gồm 2 nội dung lớn: Hồ Chí Minh về chủ nghĩa Mác - Lênin,
chủ nghĩa xã hội; con đường đi lên CNXH ở Việt Nam. Thông qua hai nội
dung này, các tác giả đã phân tích những quan niệm của Hồ Chí Minh về chủ
nghĩa Mác - Lênin, CNXH và con đường đi lên CNXH ở Việt Nam trên cơ sở
tập trung chọn lọc những quan điểm, tư tưởng của Người từ bộ sách Hồ Chí
Minh, toàn tập. Từ góc độ lý luận, các tác giả đã phân tích quá trình vận dụng
của Đảng ta trong việc xây dụng mô hình chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam cũng
như vận dụng những nguyên lý khoa học để hiện thực hóa mô hình đó.
Phạm Đình Đảng, Tính thống nhất và tính đa dạng của chủ nghĩa xã
hội với sự nghiệp xây dựng chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam [15]. Tác giả đã phân
tích, làm rõ lý luận mác xít về tính thống nhất và tính đa dạng của chủ nghĩa
xã hội; thực tiễn vận động và xu thế phát triển của chủ nghĩa xã hội hiện thực
trong tính thống nhất và tính đa dạng. Trên cơ sở đó, tác giả đi sâu phân tích
tính thống nhất và tính đa dạng của chủ nghĩa xã hội trong thực tiễn xây dựng
chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam, chỉ rõ định hướng xã hội chủ nghĩa là một vấn
đề hợp quy luật khách quan của sự phát triển Việt Nam. Tác giả cũng phân
tích thực trạng và những mâu thuẫn nảy sinh trong xây dựng chủ nghĩa xã hội,
đồng thời, chỉ ra những phương hướng và 3 giải pháp chủ yếu đảm bảo tính
thống nhất và tính đa dạng của chủ nghĩa xã hội trong sự nghiệp xây dựng chủ
nghĩa xã hội ở Việ...1].
Từ những quan niệm trên cho thấy, trong mỗi sự vật, hiện tượng riêng
lẻ đều có những đặc tính chung, những đặc tính chung có ở hầu hết (hoặc tất
cả) các sự vật, hiện tượng được xét đến thì được gọi là tính phổ biến, những
đặc tính chung chỉ có ở một loại sự vật hoặc những nhóm nhỏ sự vật, hiện
tượng được gọi là tính đặc thù.
30
Mối quan hệ giữa tính phổ biến và tính đặc thù: tính phổ biến và tính
đặc thù luôn có mối quan hệ khăng khít, không tách rời nhau, quy định lẫn
nhau, chúng là một bộ phận của cái riêng, tồn tại trong cái riêng và thông qua
cái riêng, chúng phản ánh tính thống nhất khách quan của các sự vật, hiện
tượng của thế giới, trong sự tồn tại, vận động, phát triển của các sự vật, hiện
tượng đó gắn với điều kiện lịch sử cụ thể. Sự giống nhau cơ bản của các sự
vật, các quá trình chỉ là biểu hiện của mối quan hệ khách quan sâu sắc đó.
Hình thức của tính phổ biến trong tự nhiên, - Ăng-ghen viết, - đó là quy
luật Hình thức của tính phổ biến là hình thức của sự hoàn chỉnh bên trong
và, do đó, là hình thức của tính vô hạn; nó là sự liên kết nhiều sự vật hữu hạn
thành cái vô hạn. Vì vậy, cái phổ biến thể hiện sự phong phú của cái đặc thù,
cái cá thể, cái riêng lẻ.
Mối quan hệ giữa cái phổ biến và cái đặc thù còn thể hiện ở chỗ, cái
này lấy cái kia làm tiền đề cho sự tồn tại và phát triển của mình. Trong Từ
điển Triết học có viết: “Phép biện chứng của cái đơn nhất, cái đặc thù, cái phổ
biến nằm trong mối liên hệ của chúng, ở chỗ cái đơn nhất không thể tồn tại
nếu không có cái phổ biến, cái phổ biến không thể tồn tại nếu không có cái
đơn nhất và trong điều kiện nào đó, cái đơn nhất có thể chuyển hóa thành cái
đặc thù và cái phổ biến, v.v”.
Sự chuyển hóa giữa cái đơn nhất, cái phổ biến và cái đặc thù gắn liền
với quá trình vận động, phát triển của các sự vật, hiện tượng; với sự hình
thành cái mới và sự mất đi của cái cũ. Sự chuyển hóa đó diễn ra theo một cơ
chế nhất định, thông qua cái đặc thù, cái đơn nhất có thể chuyển hóa dần dần
thành cái phổ biến và ngược lại, cũng thông qua cái đặc thù, cái phổ biến có
thể chuyển hóa thành cái đơn nhất. Trong tự nhiên và xã hội, cái mới khi xuất
hiện lần đầu nó chỉ là cái đơn nhất, nếu cái đơn nhất này là tiến bộ, phù hợp,
nó sẽ dần chuyển thành cái đặc thù và phát triển lên trở thành cái phổ biến.
Cái cũ khi không còn phù hợp thì nó sẽ chuyển dần thành cái đặc thù, cái đơn
31
nhất rồi mới mất hẳn. Trong xã hội, sự chuyển hóa cái mới từ cái đơn nhất
thành cái đặc thù, cái phổ biến là một quá trình lâu dài, phức tạp, với nhiều
bước quá độ, trung gian, nhiều khi có cả những thất bại tạm thời.
Việc nghiên cứu về mối quan hệ giữa tính phổ biến và tính đặc thù có ý
nghĩa quan trọng trong nhận thức và cải tạo thế giới, đặc biệt, trong quá trình
xây dựng chủ nghĩa xã hội, việc phân tích về mối liên hệ biện chứng này sẽ
làm rõ được những quy luật chung của chủ nghĩa xã hội và sự thể hiện đặc
thù, độc đáo, sáng tạo những quy luật ấy ở từng quốc gia riêng lẻ.
2.1.2. Khái niệm chủ nghĩa xã hội
Chủ nghĩa xã hội là một khái niệm xuất hiện trước sự ra đời của chủ
nghĩa Mác. Theo Từ điển Tân Anh ngữ cho các nguồn gốc lịch sử (A New
English Dictionary on Historical Principles) xuất bản năm 1888 của Oxford
thì khái niệm về chủ nghĩa xã hội lần đầu tiên trong lịch sử nhân loại
được ông Pielơrut xơ (Pierre Leroux, 1797 - 1871) đưa ra năm 1832 trên tờ
báo Le Globe.
Chủ nghĩa xã hội là một khái niệm rộng bao gồm nhiều nghĩa khác
nhau, khái niệm này đã được nhiều nhà khoa học, nhiều công trình khoa học
đề cập tới. Tuy nhiên, tùy từng cách tiếp cận có thể đưa ra quan điểm khác
nhau về chủ nghĩa xã hội. Có một số cách tiếp cận cơ bản sau:
Theo Từ điển Tiếng Việt do Hoàng Phê (chủ biên), chủ nghĩa xã hội
được hiểu là: “Giai đoạn đầu, giai đoạn thấp của chủ nghĩa cộng sản, theo chủ
nghĩa Marx” [83, tr.173].
Theo Chủ nghĩa cộng sản khoa học Từ điển, chủ nghĩa xã hội là:
Chế độ xã hội thay thế chủ nghĩa tư bản. Một chế độ xã hội mà đặc
điểm là chế độ công hữu về tư liệu sản xuất, không có tình trạng
người bóc lột người, có nền sản xuất xã hội kế hoạch hóa trong
phạm vi toàn xã hội; là giai đoạn đầu của hình thái kinh tế - xã hội
cộng sản chủ nghĩa [1, tr.400].
32
Những cách tiếp cận trên cho thấy, chủ nghĩa xã hội được hiểu là giai
đoạn đầu của hình thái kinh tế - xã hội cộng sản chủ nghĩa, là một chế độ xã
hội ra đời thay thế cho CNTB với những đặc trưng là chế độ công hữu về
những tư liệu sản xuất, xóa bỏ áp bức, bóc lột, thực hiện bình đẳng, giải
phóng con người
Theo Từ điển Bách Khoa Việt Nam (1995), chủ nghĩa xã hội được hiểu
theo hai nghĩa: thứ nhất, chủ nghĩa xã hội là “trào lưu tư tưởng, học thuyết
chính trị” [42, tr.517], trào lưu này được hình thành và phát triển qua hai trình
độ là chủ nghĩa xã hội không tưởng và chủ nghĩa xã hội khoa học; thứ hai, chủ
nghĩa xã hội được hiểu là một chế độ xã hội hiện thực, “xã hội xã hội chủ nghĩa
được xây dựng trong thực tế” [42, tr.517], chế độ này xuất hiện từ sau thắng lợi
của Cách mạng Tháng Mười Nga 1917 và sau đó phát triển thành một hệ thống
trên thế giới.
Theo quan điểm của PGS.TS. Nguyễn Đức Bách, khái niệm chủ nghĩa
xã hội được trình bày với 5 nội dung cơ bản sau: (1) Chủ nghĩa xã hội là những
nhu cầu và hoạt động thực tiễn của nhân dân trong sản xuất và thực thi dân chủ
(quyền lực của dân); (2) Chủ nghĩa xã hội là những phong trào thực tiễn của
nhân dân đấu tranh chống chế độ tư hữu, áp bức, bóc lột; giành dân chủ; (3)
Chủ nghĩa xã hội là ước mơ, lý tưởng của nhân dân về xã hội không còn chế độ
tư hữu, không có giai cấp, không có áp bức, bóc lột; nhân dân làm chủ, hạnh
phúc; (4) Chủ nghĩa xã hội là những tư tưởng, học thuyết về giải phóng con
người và xã hội, (trước Mác là “Chủ nghĩa xã hội không tưởng”, từ Mác là Chủ
nghĩa xã hội khoa học); (5) Chủ nghĩa xã hội là chế độ xã hội hiện thực, do
nhân dân mỗi nước xây dựng dưới sự lãnh đạo của giai cấp công nhân thông
qua đảng của nó [4, tr.154-172].
Kế thừa từ những quan niệm trên, tác giả luận án cho rằng, thuật ngữ chủ
nghĩa xã hội được nhận thức theo những nghĩa cơ bản sau:
33
Một là, chủ nghĩa xã hội là một phong trào thực tiễn, đó là những phong
trào đấu tranh của quần chúng nhân dân lao động chống lại giai cấp thống trị,
chống lại mọi sự áp bức, bóc lột, bất công, đòi lại quyền bình đẳng, quyền dân
chủ để nhân dân được hoàn toàn giải phóng. Những phong trào hiện thực này
bắt đầu xuất hiện từ trong xã hội chiếm hữu nô lệ, phản ánh cuộc đấu tranh của
giai cấp nô lệ và nhân dân lao động chống giai cấp chủ nô và kéo dài trong các
xã hội còn tồn tại giai cấp và áp bức giai cấp.
Hai là, chủ nghĩa xã hội với tư cách là mơ ước, lý tưởng, khát vọng của
nhân dân lao động về một xã hội tốt đẹp, không còn giai cấp, áp bức, bóc lột,
nghèo nàn lạc hậu, chiến tranh và tội ác, con người được giải phóng, có
quyền dân chủ - quyền lực của dân.
Ba là, chủ nghĩa xã hội với ý nghĩa là tư tưởng, lý luận, học thuyết về
giải phóng giai cấp, giải phóng xã hội, giải phóng con người khỏi chế độ tư
hữu, áp bức, bóc lột, bất công; về xây dựng một xã hội mới dựa trên chế độ
công hữu, không còn giai cấp và đối kháng giai cấp, một xã hội dân chủ, văn
minh, con người có cuộc sống ấm no, tự do, hạnh phúc, có điều kiện phát triển
toàn diện. Chủ nghĩa xã hội với ý nghĩa là tư tưởng, lý luận, học thuyết trải qua
hai thời kỳ phát triển (từ thế kỷ XVI đến trước khi chủ nghĩa Mác ra đời được
gọi là chủ nghĩa xã hội không tưởng; từ khi chủ nghĩa Mác ra đời (1848) được
gọi là chủ nghĩa xã hội khoa học).
Bốn là, chủ nghĩa xã hội với ý nghĩa là chế độ xã hội hiện thực, đó là
một chế độ chính trị - kinh tế - xã hội được thiết lập trên thực tế sau khi giai
cấp công nhân, dưới sự lãnh đạo của đảng cộng sản, giành được chính quyền,
từ đó xây dựng cơ sở vật chất, kỹ thuật của xã hội với kiến trúc thượng tầng về
chính trị, tư tưởng, văn hoá phù hợp, theo những nguyên lý, quy luật của chủ
nghĩa xã hội khoa học kết hợp với điều kiện lịch sử cụ thể của từng quốc gia.
Chủ nghĩa xã hội hiện thực trên thế giới ra đời từ sau thắng lợi của Cách mạng
34
xã hội chủ nghĩa Tháng Mười Nga năm 1917, trở thành hệ thống trên thế giới
từ sau năm 1945 và trải qua nhiều giai đoạn phát triển.
Như vậy, có nhiều cách tiếp cận khác nhau về chủ nghĩa xã hội. Tuy
nhiên, trong luận án này, khi đề cập đến “tính phổ biến và tính đặc thù của
nhận thức mới về chủ nghĩa xã hội trên thế giới hiện nay” thì khái niệm “chủ
nghĩa xã hội” được sử dụng chủ yếu với hai nghĩa: một là, chủ nghĩa xã hội với
ý nghĩa là tư tưởng, lý luận, học thuyết; hai là, chủ nghĩa xã hội với ý nghĩa là
một chế độ xã hội hiện thực.
2.1.3. Khái niệm nhận thức mới về chủ nghĩa xã hội
Khái niệm, bản chất của nhận thức: theo quan điểm của chủ nghĩa duy
vật biện chứng, nhận thức là quá trình phản ánh tích cực, tự giác, sáng tạo hiện
thực khách quan vào trong đầu óc con người trên cơ sở thực tiễn, nhằm sáng
tạo ra những tri thức về hiện thực khách quan đó. Nhận thức là một quá trình
biện chứng, đó là quá trình đi từ chưa biết đến biết, từ biết ít đến biết nhiều, từ
chưa đầy đủ đến đầy đủ hơn. Do đó, việc thay đổi, bổ sung và phát triển nhận
thức là một quá trình diễn ra liên tục.
Thực tiễn là cơ sở, động lực chủ yếu và trực tiếp nhất của nhận thức, là
mục đích của nhận thức, đồng thời là tiêu chuẩn của chân lý. Với vai trò đó, khi
thực tiễn vận động, thay đổi, nó đòi hỏi nhận thức cũng phải có sự thay đổi
theo, những nhận thức cũ không phù hợp sẽ bị loại bỏ và mất đi, nhận thức mới
tiến bộ sẽ ra đời thay thế cho nhận thức cũ lạc hậu. Tuy nhiên, nhận thức mới
không phải là sự phủ định sạch trơn đối với những nhận thức cũ mà là sự kế
thừa, bổ sung, phát triển và sáng tạo tri thức mới cho phù hợp với bối cảnh lịch
sử đó.
Nhận thức về chủ nghĩa xã hội thực chất là quá trình phản ánh các quy
luật, đặc trưng, bản chất, cách thức xây dựng chủ nghĩa xã hội vào đầu óc con
người. Nhận thức về chủ nghĩa xã hội có thể chia làm bốn thời kỳ chính: thời
kỳ những nhà CNXH không tưởng nhận thức về chủ nghĩa xã hội; thời kỳ các
35
nhà kinh điển của chủ nghĩa Mác - Lênin nhận thức về chủ nghĩa xã hội; thời
kỳ các đảng cộng sản nhận thức về chủ nghĩa xã hội giai đoạn trước cải cách,
cải tổ, đổi mới; thời kỳ các đảng cộng sản nhận thức về chủ nghĩa xã hội giai
đoạn cải cách, đổi mới (hay là nhận thức mới về chủ nghĩa xã hội).
Nhận thức mới về chủ nghĩa xã hội là nhận thức của các đảng cộng sản
về bản chất, đặc trưng, con đường, biện pháp xây dựng chủ nghĩa xã hội, hình
thành trong quá trình cải cách, đổi mới. Đó là những nhận thức đúng quy luật,
phù hợp với thực tiễn; có sự bổ sung, phát triển những nguyên lý khoa học,
cách mạng của chủ nghĩa Mác - Lênin về chủ nghĩa xã hội và con đường đi lên
chủ nghĩa xã hội; có sự khác biệt với nhận thức của các đảng cộng sản thời kỳ
trước cải cách, đổi mới; có sự kết hợp hài hòa giữa tính phổ biến và tính đặc
thù; phù hợp với điều kiện, đặc điểm của mỗi quốc gia và phản ánh xu thế phát
triển chung của thời đại.
Cơ sở để xác định nhận thức “mới” về chủ nghĩa xã hội căn cứ vào hai
tiêu chí sau: Một là, căn cứ vào thời gian, nhận thức mới về chủ nghĩa xã hội là
những nhận thức xuất hiện trong thời kỳ cải cách, đổi mới (dùng để phân biệt
với nhận thức truyền thống về chủ nghĩa xã hội - giai đoạn trước cải cách, đổi
mới). Hai là, căn cứ vào nội dung, những nhận thức mới về chủ nghĩa xã hội là
những nhận thức có sự bổ sung, phát triển so với quan điểm của các nhà kinh
điển của chủ nghĩa Mác - Lênin và quan điểm của các đảng cộng sản giai đoạn
trước cải cách, đổi mới.
Nguyên tắc của những nhận thức mới về chủ nghĩa xã hội: khi bước vào
cải cách, đổi mới, các nước xã hội chủ nghĩa đã nêu ra những nguyên tắc cơ
bản, định hướng cho toàn bộ quá trình cải cách, đổi mới nói chung và “nhận
thức mới về chủ nghĩa xã hội” nói riêng. Ở Trung Quốc, đó là bốn nguyên tắc
cơ bản chỉ đạo quá trình xây dựng “chủ nghĩa xã hội đặc sắc Trung Quốc”; ở
Việt Nam, Hội nghị Trung ương VI khóa VI (1989) đề ra 6 nguyên tắc cơ bản
36
cho sự nghiệp đổi mới Các nguyên tắc này được hoàn thiện trong quá trình
cải cách, đổi mới, nhưng có thể khái quát chung là:
Một là, nhận thức mới về chủ nghĩa xã hội không phải là từ bỏ mục tiêu
chủ nghĩa xã hội mà là “kiên trì” và làm cho chủ nghĩa xã hội được nhận thức
đúng đắn, đầy đủ, sáng tạo hơn và được xây dựng có hiệu quả hơn.
Hai là, cải cách, đổi mới không phải là xa rời mà là nhận thức đúng, vận
dụng sáng tạo và phát triển chủ nghĩa Mác - Lênin trong điều kiện cụ thể ở mỗi
quốc gia dân tộc.
Ba là, cải cách, đổi mới là phải kiên trì, bảo đảm sự lãnh đạo của đảng
cộng sản, đó là nhân tố quyết định thắng lợi của công cuộc cải cách, đổi mới
đất nước. Không ngừng hoàn thiện hệ thống chính trị, mở rộng dân chủ trong
nhân dân.
Bốn là, nhận thức mới về CNXH không phải là quá trình phủ định sạch
trơn những nhận thức trước đó mà là quá trình nhận thức toàn diện, đồng bộ, có
kế thừa, có bước đi, hình thức và cách làm phù hợp. Phải đổi mới từ nhận thức,
tư duy đến hoạt động thực tiễn; từ kinh tế, chính trị, văn hóa đến tất cả các lĩnh
vực của đời sống xã hội; từ hoạt động lãnh đạo của Đảng, quản lý của Nhà
nước đến hoạt động cụ thể trong từng bộ phận của hệ thống chính trị. Đổi mới
tất cả các mặt của đời sống xã hội nhưng phải có trọng tâm, trọng điểm, có
những bước đi thích hợp.
Năm là, nhận thức mới về CNXH trên cơ sở lợi ích của nhân dân, dựa
vào nhân dân, phát huy vai trò chủ động, sáng tạo của nhân dân, xuất phát từ
thực tiễn, nhạy bén với cái mới. Cách mạng là sự nghiệp của nhân dân, vì nhân
dân và do nhân dân. Dựa vào nhân dân, xuất phát từ thực tiễn và thường xuyên
tổng kết thực tiễn, phát hiện nhân tố mới, từng bước tìm ra quy luật phát triển.
Phát huy cao độ nội lực, đồng thời ra sức tranh thủ ngoại lực, kết hợp sức mạnh
dân tộc với sức mạnh thời đại trong điều kiện mới.
37
2.2. QUAN NIỆM CỦA CHỦ NGHĨA MÁC - LÊNIN VỀ TÍNH PHỔ BIẾN
VÀ TÍNH ĐẶC THÙ CỦA NHẬN THỨC VỀ CHỦ NGHĨA XÃ HỘI
2.2.1. Quan niệm của chủ nghĩa Mác - Lênin về tính phổ biến của
nhận thức về chủ nghĩa xã hội
Theo quan điểm duy vật lịch sử, tính phổ biến của nhận thức về chủ
nghĩa xã hội là nhận thức chung về những vấn đề có tính quy luật, những
giá trị bền vững được chủ nghĩa Mác - Lênin chỉ ra, phản ánh những nét
đặc trưng, bản chất của chủ nghĩa xã hội và con đường đi lên chủ nghĩa xã
hội mà các quốc gia có thể vận dụng vào trong quá trình xây dựng chủ
nghĩa xã hội.
2.2.1.1. Trên lĩnh vực chính trị
Thứ nhất, bảo đảm sự lãnh đạo của giai cấp công nhân thông qua đội
tiên phong của mình là đảng cộng sản.
Các nhà kinh điển của chủ nghĩa Mác - Lênin chỉ rõ, giai cấp công nhân
chỉ có thể hoàn thành sứ mệnh lịch sử của mình khi có chính đảng cách mạng,
để tập hợp và lãnh đạo toàn thể giai cấp công nhân, nhân dân lao động chống
lại giai cấp tư sản. Bàn về vai trò của Đảng trong sự nghiệp cách mạng của giai
cấp công nhân, trong tác phẩm Tuyên ngôn của Đảng Cộng sản (1848), C.Mác
và Ph.Ăngghen chỉ rõ:
Về mặt thực tiễn, những người cộng sản là bộ phận kiên quyết nhất
trong các đảng công nhân ở tất cả các nước, là bộ phận luôn thúc đẩy
phong trào tiến lên, về mặt lý luận, họ hơn bộ phận còn lại của giai
cấp vô sản ở chỗ là họ hiểu rõ những điều kiện, tiến trình và kết quả
chung của phong trào vô sản [62, tr.614-615].
V.I.Lênin đã kế thừa quan điểm của C.Mác và Ph.Ăngghen về đảng
cộng sản, bổ sung, phát triển lý luận đó, nêu ra quan điểm về xây dựng đảng
kiểu mới, theo đó, đảng vô sản kiểu mới là đội tiên phong giác ngộ và có tổ
chức của giai cấp công nhân, đồng thời đoàn kết những đại biểu tiên tiến nhất
38
của các giai cấp, tầng lớp lao động đứng trên lập trường của giai cấp công
nhân. V.I.Lênin đã chỉ rõ vai trò của lý luận cách mạng: “Không có lý luận
cách mạng thì không thể có phong trào cách mạng”; luận chứng một cách khoa
học các nguyên tắc tổ chức và sinh hoạt đảng, trong đó, tập trung dân chủ là
nguyên tắc tổ chức quan trọng nhất của xây dựng đảng kiểu mới và nêu tiêu
chuẩn của đảng viên. Đây là điều kiện để xây dựng đảng thành một tổ chức
chặt chẽ, là tiền đề vô cùng quan trọng để giai cấp công nhân hoàn thành sứ
mệnh lịch sử toàn thế giới của mình.
Thứ hai, xây dựng và hoàn thiện nhà nước chuyên chính vô sản trên nền
tảng liên minh giữa giai cấp công nhân, giai cấp nông dân và các tầng lớp
nhân dân lao động khác. Nhà nước chuyên chính vô sản là nhà nước kiểu mới,
nhà nước do đảng của giai cấp công nhân lãnh đạo nhân dân tổ chức ra. Chủ
yếu thông qua nhà nước mà đảng lãnh đạo xã hội về mọi mặt, nhân dân lao
động thực hiện quyền lực và lợi ích của mình trên mọi phương diện của xã hội,
ngày càng tham gia vào công việc của nhà nước. Sự liên minh giữa giai cấp
công nhân, giai cấp nông dân và các tầng lớp nhân dân lao động là cơ sở chính
trị - xã hội của nhà nước chuyên chính vô sản
Nhà nước xã hội chủ nghĩa không còn là nhà nước nguyên nghĩa mà là
“nhà nước nửa nhà nước” với chức năng cơ bản là tổ chức xây dựng xã hội mới
cao hơn CNTB, tính tự giác, tự quản cao của nhân dân, thể hiện quyền làm chủ
và lợi ích của mình ngày càng rõ.
Thứ ba, mở rộng và phát huy dân chủ xã hội chủ nghĩa trong nhân
dân. Dân chủ xã hội chủ nghĩa là một giá trị cốt lõi của chủ nghĩa xã hội, bởi
vậy, C.Mác và Ph.Ăngghen cho rằng, “bước thứ nhất trong cuộc cách mạng
công nhân là giai cấp vô sản biến thành giai cấp thống trị, là giành lấy dân
chủ”, đó là cuộc cách mạng đưa nhân dân lao động từ địa vị làm thuê trở
thành người làm chủ, đứng ra tổ chức, quản lý và xây dựng xã hội mới. Nền
dân chủ XHCN do đảng cộng sản lãnh đạo, dựa trên chế độ công hữu về
39
những tư liệu sản xuất chủ yếu và dựa trên nền tảng lý luận chủ chủ nghĩa
Mác - Lênin để xây dựng nền văn hóa mới, con người mới. Dân chủ xã hội
chủ nghĩa là dân chủ của số đông và tạo điều kiện cho số đông ngày càng
tham gia nhiều vào công việc của nhà nước và xã hội, dân chủ gắn bó chặt
chẽ với chuyên chính.
2.2.1.2. Trên lĩnh vực kinh tế
Thứ nhất, phát triển nhanh lực lượng sản xuất, xây dựng nền kinh tế hiện
đại. Các nhà kinh điển của chủ nghĩa Mác - Lênin chỉ rõ, giai cấp công nhân
khi trở thành giai cấp thống trị, thì nhiệm vụ quan trọng nhất là phải “tăng thật
nhanh số lượng những lực lượng sản xuất”, xây dụng nền kinh tế hiện đại với
năng suất lao động xã hội cao, bởi: “xét đến cùng, thì năng suất lao động là cái
quan trọng nhất, chủ yếu nhất cho thắng lợi của chế độ xã hội mới” [56, tr.25].
Thứ hai, từng bước xóa bỏ chế độ sở hữu tư nhân tư bản chủ nghĩa về tư
liệu sản xuất, thiết lập và hoàn thiện chế độ công hữu về những tư liệu sản xuất
chủ yếu; tổ chức lao động mới; thực hiện phân phối theo lao động. C.Mác và
Ph.Ăngghen khẳng định: Đặc trưng của chủ nghĩa cộng sản không phải là xóa
bỏ chế độ sở hữu nói chung mà là xóa bỏ chế độ sở hữu tư sản. Trong Tuyên
ngôn của Đảng Cộng sản, các ông viết:
Đặc trưng của chủ nghĩa xã hội không phải là xoá bỏ chế độ sở hữu
nói chung, mà là xoá bỏ chế độ sở hữu tư sản.
Nhưng chế độ tư hữu tư sản hiện thời, lại là biểu hiện cuối cùng và
đầy đủ nhất của phương thức sản xuất và chiếm hữu sản phẩm dựa
trên những đối kháng giai cấp, trên cơ sở những người này bóc lột
của những người kia.
Theo ý nghĩa đó, những người cộng sản có thể tóm tắt lý luận của mình
thành một luận điểm duy nhất là: xóa bỏ chế độ tư hữu [62, tr.615-616].
Xóa bỏ chế độ tư hữu tư bản là nhu cầu khách quan của sự phát triển lực
lượng sản xuất ngày càng xã hội hóa và mâu thuẫn gay gắt với quan hệ sản
40
xuất tư bản chủ nghĩa (TBCN). Xóa bỏ chế độ tư hữu tư bản không phải là
đồng nghĩa với xóa bỏ sở hữu cá nhân do lao động, từ thành quả lao động của
mỗi người, trong Tuyên ngôn của Đảng Cộng sản, C.Mác và Ph.Ăngghen viết:
“Điều chúng tôi muốn, là xóa bỏ tính chất bi thảm của các phương thức chiếm
hữu nó khiến cho người công nhân chỉ sống để làm tăng thêm tư bản và chỉ
sống trong chừng mực mà lợi ích của giai cấp thống trị đòi hỏi” [62, tr.617].
Thủ tiêu chế độ tư hữu tư bản chủ nghĩa, xác lập chế độ công hữu về
những tư liệu sản xuất chủ yếu là nhằm tạo ra cơ sở kinh tế để xây dựng một xã
hội công bằng, bình đẳng, tiến bộ. Tuy nhiên, đây là một quá trình lâu dài, khó
khăn, phức tạp, không thể ngay lập tức được. Trong Những nguyên lý của chủ
nghĩa cộng sản, khi trả lời câu hỏi: Liệu có thể thủ tiêu ngay lập tức chế độ tư
hữu được không? Ăngghen viết:
Không, không thể được cũng y như không thể làm cho lực lượng sản
xuất hiện có tăng lên ngay lập tức đến mức cần thiết để xây dựng
một nền kinh tế công hữu. Cho nên cuộc cách mạng của giai cấp vô
sản đang có tất cả những triệu chứng là sắp nổ ra, sẽ chỉ có thể cải
tạo xã hội hiện nay một cách dần dần, và chỉ khi nào đã tạo nên được
một khối lượng tư liệu sản xuất cần thiết cho việc cải tạo đó thì khi
ấy mới thủ tiêu được chế độ tư hữu [62, tr.469].
Về tổ chức lao động mới, các nhà kinh điển của chủ nghĩa Mác - Lênin
rất quan tâm và coi trọng việc tổ chức lao động và kỷ luật lao động nhằm khắc
phục những tàn dư của tình trạng lao động bị tha hóa trong xã hội cũ và tạo ra
một kiểu tổ chức lao động cao hơn so với chủ nghĩa tư bản. V.I.Lênin chỉ rõ:
chuyên chính vô sản không phải chỉ là bạo lực và chủ yếu là bạo lực, cơ sở
kinh tế của chuyên chính vô sản chính là việc giai cấp vô sản đưa ra được và
thực hiện được kiểu tổ chức lao động xã hội cao hơn so với chủ nghĩa tư bản.
Các nhà kinh điển nhấn mạnh, chỉ có tổ chức hết sức chặt chẽ và kỷ luật
lao động nghiêm ngặt mới dẫn tới chủ nghĩa xã hội. Lao động được tổ chức có
41
kế hoạch, kỷ luật chặt chẽ theo quy định chung của pháp luật, pháp chế xã hội
chủ nghĩa, vừa có tính tự nguyện, tự giác là đặc trưng của chủ nghĩa xã hội.
Thực hiện phân phối theo lao động, chủ nghĩa xã hội thực hiện hình thức
phân phối theo lao động. Đây là nguyên tắc phân phối cơ bản trong chủ nghĩa
xã hội. Theo nguyên tắc này, trong quá trình lao động cụ thể, sau khi đã trừ đi
những khoản đóng góp chung cho xã hội để tái sản xuất và cho phúc lợi xã hội
mỗi người lao động sẽ nhận được từ xã hội một số lượng sản phẩm tiêu dùng
trị giá tương đương số lượng, chất lượng và hiệu quả lao động mà họ cung cấp
cho xã hội được lượng hóa bằng giá trị hoặc vật phẩm. Nguyên tắc này thể hiện
sự công bằng dưới chủ nghĩa xã hội, nó phù hợp với tính chất và trình độ phát
triển của lực lượng sản xuất trong giai đoạn này.
2.2.1.3. Trên lĩnh vực văn hóa - xã hội
Thứ nhất, chủ nghĩa xã hội có nền văn hóa phát triển cao, kết tinh những
giá trị văn hóa dân tộc và nhân loại. Khi nghiên cứu về sự thay đổi của các
phương thức sản xuất, C.Mác đã kết luận rằng: chính sự thay đổi của phương
thức sản xuất mà trước hết do sự thay đổi của lực lượng sản xuất sẽ quyết định
sự biến đổi của đời sống tinh thần, quyết định sự chuyển biến từ một nền văn
hóa này sang một nền văn hoá cao hơn.
Khi CNXH ra đời thay thế cho CNTB, tất yếu ra đời nền văn hóa mới -
"nền văn hoá vô sản" hay “nền văn hoá xã hội chủ nghĩa”. Đây là nền văn hóa
kế thừa, kết tinh những giá trị văn hóa mà nhân loại đã tạo ra qua mọi thời đại,
đồng thời, là nền văn hóa của mỗi quốc gia mang đậm dấu ấn dân tộc với sự
tham gia của toàn thể nhân dân và vì lợi ích nhân dân. V.I.Lênin viết:
văn hoá vô sản không phải bỗng nhiên mà có, nó không phải do
những người tự cho mình là chuyên gia về văn hoá vô sản phát minh
ra. Đó là điều ngu ngốc. Văn hoá vô sản phải là sự phát triển hợp quy
luật, của tổng số kiến thức mà loài người đã tích luỹ được dưới ách
thống trị của xã hội tư bản, xã hội của bọn địa chủ, xã hội của bọn
quan liêu [57, tr.361].
42
Để xây dựng chủ nghĩa xã hội, chủ nghĩa cộng sản, cần phải có những
người cộng sản và theo V.I.Lênin thì "người ta chỉ có thể trở thành người cộng
sản khi biết làm giàu trí óc của mình bằng sự hiểu biết tất cả những kho tàng tri
thức mà nhân loại đã tạo ra" [57, tr.362].
Thứ hai, chủ nghĩa xã hội thực hiện giải phóng con người, tạo điều kiện
cho con người phát triển toàn diện. Giải phóng con người là mục tiêu cao nhất
của chủ nghĩa xã hội, CNCS, đó là một sự giải phóng toàn diện đối với con
người trên các mặt: chính trị, kinh tế, văn hóa, xã hội, đời sống vật chất và đời
sống tinh thần để tạo điều kiện cho con người phát triển toàn diện. Mục tiêu đó
thể hiện bản chất nhân văn, nhân đạo cao cả của chủ nghĩa xã hội, chủ nghĩa
cộng sản.
Trong Tuyên ngôn của Đảng Cộng sản, C.Mác và Ph.Ăngghen đã dự
báo về xã hội tương lai: “thay cho xã hội tư sản cũ, với những giai cấp và
đối kháng giai cấp của nó, sẽ xuất hiện một liên hợp, trong đó sự phát triển
tự do của mỗi người là điều kiện cho sự phát triển tự do của tất cả mọi
người” [62, tr.628].
2.2.2. Quan niệm của chủ nghĩa Mác - Lênin về tính đặc thù của
nhận thức về chủ nghĩa xã hội
Khi bàn đến tính đặc thù của nhận thức về chủ nghĩa xã hội, các nhà
kinh điển của chủ nghĩa Mác - Lênin chỉ nêu những vấn đề có tính phương
pháp luận cho quá trình nhận thức và xây dựng xã hội xã hội chủ nghĩa. Đây là
những định hướng hết sức quan trọng để trên cơ sở đó, các đảng cộng sản ở các
nước xã hội chủ nghĩa vận dụng linh hoạt các vấn đề có tính phổ biến vào điều
kiện cụ thể từng nước để tìm ra con đường xây dựng chủ nghĩa xã hội riêng,
phù hợp với dân tộc mình. Đồng thời, tránh việc nhận thức giản đơn về chủ
nghĩa xã hội; tránh sự dập khuôn máy những mô hình và con đường đi lên chủ
nghĩa xã hội của nước này cho nước khác; tránh sự đề cao tính phổ biến, coi
nhẹ tính đặc thù và ngược lại.
43
Một là, khi áp dụng những nguyên lý phổ biến của chủ nghĩa xã hội
khoa học phải căn cứ vào tính đặc thù của từng quốc gia, dân tộc
Cùng với việc chỉ rõ và phân tích những vấn đề có tính phổ biến của
nhận thức về chủ nghĩa xã hội, các nhà kinh điển của chủ nghĩa Mác - Lênin
cũng nhấn mạnh rằng: các vấn đề phổ biến này lại được biểu hiện một cách
khác nhau trong những điều kiện đặc thù ở từng quốc gia riêng biệt với trình độ
phát triển kinh tế, văn hóa, xã hội, truyền thống lịch sử, đặc điểm dân tộc
không giống nhau. Đó là biểu hiện tính đặc thù và nó đòi hỏi việc vận dụng
những nguyên lý của CNXH khoa học cần phải phù hợp với điều kiện của từng
quốc gia cụ thể. Trong Lời tựa cho bản viết bằng tiếng Đức Tuyên ngôn của
Đảng Cộng sản viết năm 1872, C.Mác và Ph. Ăngghen nhấn mạnh: “Chính
ngay trong Tuyên ngôn cũng đã giải thích rõ rằng bất cứ ở đâu và bất cứ lúc
nào, việc áp dụng những nguyên lý đó cũng phải tùy theo hoàn cảnh lịch sử
đương thời, và do đấy, không nên quá câu nệ vào những biện pháp cách mạng
nêu ra ở cuối chương II” [63, tr.128].
Trong tác phẩm Sự phát triển của chủ nghĩa xã hội từ không tưởng đến
khoa học, Ph.Ăngghen viết: “Muốn làm cho chủ nghĩa xã hội thành một khoa
học thì trước hết phải đặt chủ nghĩa xã hội trên một cơ sở hiện thực” [64,
tr.293]. Tới năm 1891, Ph.Ăngghen tiếp tục nhắc nhở: Biện pháp nào là cần
thiết trước hết, điều đó còn tùy thuộc vào điều kiện không gian và thời gian, về
vấn đề này không thể nói gì trước được và nói chung không thể nói gì được.
Kế thừa những quan điểm của chủ nghĩa Mác về tính phổ biến và tính
đặc thù trong nhận thức và xây dựng chủ nghĩa xã hội, năm 1916, trong tác
phẩm Về một sự biếm họa chủ nghĩa Mác, V.I.Lênin chỉ ra quy luật chung của
lịch sử loài người là tiến lên CNXH, đồng thời cũng nhấn mạnh tính đặc thù
của nhận thức về chủ nghĩa xã hội:
Tất cả các dân tộc đều sẽ đi đến chủ nghĩa xã hội, đó là điều không
tránh khỏi, nhưng tất cả các dân tộc đều tiến tới chủ nghĩa xã hội
44
không phải một cách hoàn toàn giống nhau; mỗi dân tộc sẽ đưa đặc
điểm của mình vào hình thức này hay hình thức khác của chế độ dân
chủ, vào loại này hay loại khác của chuyên chính vô sản, vào nhịp độ
này hay nhịp độ khác của việc cải tạo xã hội chủ nghĩa đối với các
mặt khác nhau của đời sống xã hội [53, tr.160].
Như vậy, V.I. Lênin đã chỉ ra quy luật chung của lịch sử nhân loại là các
quốc gia sẽ đi lên chủ nghĩa xã hội. Tuy nhiên, V.I. Lênin cũng nhấn mạnh
rằng, mỗi quốc gia, trên cơ sở đặc điểm dân tộc mình, sẽ có những cách thức,
biện pháp đi lên chủ nghĩa xã hội khác nhau, tạo lên sự đa dạng của các mô
hình và con đường đi lên chủ nghĩa xã hội. Các quốc gia khi đi lên chủ nghĩa
xã hội cần phải áp dụng linh hoạt những nguyên lý có tính phổ biến như: xây
dựng chuyên chính vô sản, chế độ dân chủ xã hội chủ nghĩa Đồng thời, dựa
trên đặc điểm dân tộc mà có các hình thức chế độ dân chủ hay loại hình chuyên
chính vô sản khác nhau. Tránh việc dập khuôn máy móc, áp dụng nguyên mô
hình và con đường đi lên chủ nghĩa xã hội của nước này cho nước khác, bởi
điều này có thể gây ra những hậu quả nghiêm trọng đối với phong trào cộng
sản và công nhân quốc tế.
Hai là, trong nhận thức và xây dựng chủ nghĩa xã hội hiện thực, các
đảng cộng sản không chỉ vận dụng sáng tạo mà còn phải bổ sung, phát triển
chủ nghĩa Mác phù hợp với điều kiện đặc thù để tìm con đường phát triển phù
hợp cho dân tộc mình
Trong tác phẩm Cương lĩnh của chúng ta, khi bàn về công cuộc xây
dựng chủ nghĩa xã hội ở nước Nga, V.I.Lênin chỉ rõ, cần phải sáng tạo, phát
triển chủ nghĩa Mác trong điều kiện mới và khi vận dụng chủ nghĩa Mác cũng
phát xét kỹ đến điều kiện cụ thể của từng quốc gia, Người viết:
Những người cộng sản chủ nghĩa ở Nga đặc biệt phải cần tự mình
phát triển hơn nữa những lý luận của Mác, vì lý luận này chỉ đề ra
những nguyên lý chỉ đạo chung, còn việc áp dụng những nguyên lý
45
ấy thì, xét riêng từng nơi, ở Anh không giống ở Pháp, ở Pháp không
giống ở Đức, ở Đức không giống ở Nga [52, tr.232].
Sau Cách mạng Tháng Mười, đặc biệt từ mùa xuân năm 1918, khi bước
vào xây dự...c nào, chế độ
nào cũng được miễn là dân giàu, nước mạnh”; “chủ nghĩa xã hội là ảo
tưởng, không bao giờ thực hiện được”; “Việt Nam tiến lên chủ nghĩa xã hội
bỏ qua chế độ tư bản chủ nghĩa là trái với tự nhiên và quy luật khách quan,
là duy ý chí”
Phủ nhận vai trò lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam, đòi thực
hiện đang nguyên chính trị, đa đảng đối lập: những quan điểm này tập
trung đòi xóa bỏ điều 4 Hiến pháp Nước Cộng hòa Xã hội chủ nghĩa Việt
Nam, điều này quy định: Đảng Cộng sản Việt Nam “là lực lượng lãnh đạo
Nhà nước và xã hội”; phê phán bản chất giai cấp công nhân của Đảng, cho
rằng: “giai cấp công nhân không thể lãnh đạo cách mạng trong điều kiện
ngày nay, chỉ có trí thức mới lãnh đạo được”, cho rằng, chỉ có đa nguyên
chính trị, đa đảng đối lập mới dân chủ
Đòi thay đổi bản chất giai cấp công nhân của Nhà nước xã hội chủ nghĩa
Phủ nhận vai trò của kinh tế thị trường đối với xây dựng chủ nghĩa
xã hội, cho rằng, “kinh tế thị trường không thể đi đôi với định hướng xã hội
chủ nghĩa, như nước với lửa”; hoặc không thể có “kinh tế thị trường định
hướng xã hội chủ nghĩa”
Phủ nhận vai trò nền tảng của chế độ công hữu trong xây dựng quan
hệ sản xuất mới xã hội chủ nghĩa, đòi xóa bỏ vai trò chủ đạo của kinh tế nhà
nước trong nền kinh tế quốc dân, thay vào đó là vai trò của kinh tế tư nhân
Đồng thời với việc phủ nhận những nguyên lý phổ biến, phủ nhận
con đường đi lên chủ nghĩa xã hội, những người theo khuynh hướng này
thường nhấn mạnh cái đặc thù, cho rằng cần dựa trên điều kiện cụ thể của
đất nước để xây dựng con đường đi riêng, một số lực lượng còn đưa ra ưu
145
sách chính trị đòi “cách mạng Việt Nam ngày nay phải chuyển hẳn sang
đường lối dân tộc và dân chủ” mà theo cách giải thích của họ là con
đường TBCN.
Những khuynh hướng chính trị này thường lợi dụng những dịp sinh
hoạt chính trị: thông qua góp ý Văn kiện Đại hội Đảng, góp ý sửa đổi Hiến
pháp sử dụng các phương tiện truyền thông, đặc biệt là mạng Internet
để đưa ra những quan điểm của mình.
Việc nghiên cứu về tính phổ biến và tính đặc thù của những nhận
thức mới về chủ nghĩa xã hội trên thế giới hiện nay cho chúng ta những cơ
sở lý luận và thực tiễn quan trọng để đấu tranh chống lại những khuynh
hướng đó. Đồng thời, chính sự thất bại của Liên Xô và Đông Âu trong quá
trình cải tổ đã cho thấy rằng, việc xa rời những nguyên lý phổ biến là một
sai lầm nghiêm trọng của các Đảng Cộng sản, nhưng nếu áp dụng máy
móc, giáo điều những nguyên lý phổ biến đó mà không tính đến yếu tố đặc
thù thì cũng gây ra những hậu quả khôn lường.
Việt Nam trong quá trình đổi mới tiếp tục giữ vững con đường đi lên
chủ nghĩa xã hội, giữ vững vai trò lãnh đạo của Đảng Cộng sản, vận dụng
và phát triển sáng tạo chủ nghĩa Mác - Lênin, những nguyên lý phổ biến
của chủ nghĩa xã hội khoa học đã thu được nhiều thành quả to lớn, có ý
nghĩa lịch sử đã giúp chúng ta củng cố niềm tin, khẳng định tính đúng đắn
của con đường đi lên chủ nghĩa xã hội, khẳng định vai trò lãnh đạo của
Đảng Cộng sản là nhân tố quyết định mọi thắng lợi của cách mạng Việt
Nam, khẳng định giá trị khoa học, cách mạng và thực tiễn của những
nguyên lý của chủ nghĩa Mác - Lênin trong thời đại ngày nay. Mặt khác,
hiện nay, chủ nghĩa tư bản cũng đang lâm vào khủng hoảng ở hàng loạt
nước: các cuộc khủng hoảng tài chính, nợ công ở nhiều nước tư bản; vấn
đề chiến tranh, khủng bố, phân hóa giàu nghèo đã chứng minh những
mâu thuẫn vốn có của CNTB là không thể khắc phục được, nó không thể là
146
“chế độ vĩnh hằng”, “chế độ cuối cùng trong lịch sử”, lịch sử phát triển của
nhân loại nhất định sẽ đi tới xã hội xã hội chủ nghĩa và cộng sản chủ nghĩa
tiến bộ hơn.
Qua thực tiễn cải cách, đổi mới, nhiều vấn đề lý luận cũng dần được
làm sáng tỏ và trở thành những vấn đề có tính phổ biến như: xây dựng nhà
nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa - nhà nước của nhân dân, do nhân dân
và vì nhân dân dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản; vấn đề phát triển kinh
tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa với nhiều thành phần kinh tế,
nhiều hình thức sở hữu, trong đó kinh tế Nhà nước giữ vai trò chủ đạo,
kinh tế tư nhân là một động lực quan trọng trong nền kinh tế; vấn đề đảng
viên được làm kinh tế tư nhân Những nhận thức mới này đã phát huy
những tác dụng to lớn, đóng góp vào thành công của sự nghiệp cải cách,
đổi mới thời gian qua. Đó cũng là minh chứng rõ nhất, phản bác lại những
quan điểm sai trái, thù địch đòi thay đổi bản chất nhà nước; phủ nhận vai
trò của kinh tế thị trường trong chủ nghĩa xã hội
TIỂU KẾT CHƯƠNG 4
Việc nghiên cứu về tính phổ biến và tính đặc thù của CNXH trên thế
giới hiện nay có ý nghĩa quan trọng đối với sự nghiệp xây dựng chủ nghĩa
xã hội trên thế giới nói chung và sự nghiệp xây dựng CNXH ở Việt Nam
nói riêng.
Đối với sự nghiệp xây dựng CNXH trên thế giới: ý nghĩa lý luận của
việc nghiên cứu về tính phổ biến và tính đặc thù chỉ ra rằng, trong quá trình
xây dựng chủ nghĩa xã hội, các nước cần kết hợp giữa tính phổ biến và tính
đặc thù để tìm ra con đường đúng đắn, phù hợp với từng quốc gia dân tộc,
trong đó phải kiên định và vận dụng sáng tạo những nguyên lý phổ biến của
chủ nghĩa Mác - Lênin vào điều kiện cụ thể của mỗi nước; bổ sung, “cập
147
nhật” những giá trị phổ biến mới, tiến bộ của nhân loại, làm phong phú thêm
lý luận về chủ nghĩa xã hội và con đường đi lên chủ nghĩa xã hội trong điều
kiện mới hiện nay; Trên cơ sở nghiên cứu về tính phổ biến và tính đặc thù của
chủ nghĩa xã hội trên thế giới hiện nay, các nước xã hội chủ nghĩa có thể trao
đổi, học tập, rút kinh nghiệm Về mặt thực tiễn, việc quán triệt và vận dụng
những giá trị phổ biến và đặc thù trong nhận thức và xây dựng CNXH trên thế
giới đã giúp sự nghiệp cải cách, đổi mới ở các nước XHCN thu được những
thành tựu quan trọng có ý nghĩa lịch sử, điều đó càng củng cố niềm tin và
thúc đẩy các nước XHCN tiếp tục đẩy mạnh công cuộc cải cách, đổi mới, đưa
đất nước vững bước đi lên CNXH. Đồng thời, đấu tranh chống những quan
điểm sai trái trong nhận thức và giải quyết mối quan hệ giữa tính phổ biến và
tính đặc thù trên thế giới
Đối với sự nghiệp xây dựng CNXH ở Việt Nam: việc nghiên cứu tính
phổ biến và tính đặc thù của nhận thức mới về CNXH trên thế giới có ý nghĩa
quan trọng đối với việc xây dựng mô hình và con đường đi lên CNXH, giúp
chúng ta củng cố niềm tin, kiên định mục tiêu độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã
hội; giữ vững những nguyên lý của chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí
Minh, kết hợp với thực tiễn cách mạng Việt Nam và thế giới; kiên trì thực
hiện đường lối, mục tiêu đổi mới toàn diện đất nước, tham khảo những kinh
nghiệm hay, những nét sáng tạo, những khảo nghiệm thành công của các
nước xã hội chủ nghĩa, các Đảng Cộng sản để từ đó bổ sung và phát triển lý
luận về mô hình và con đường đi lên chủ nghĩa xã hội. Đồng thời, giúp Việt
Nam đấu tranh phê phán những quan điểm sai trái, thù địch trong nhận thức
và giải quyết mối quan hệ giữa tính phổ biến và tính đặc thù của chủ nghĩa xã
hội ở Việt Nam hiện nay.
148
KẾT LUẬN
Trong quá trình cải cách, đổi mới, các nước như Trung Quốc, Việt
Nam, Lào, Cuba đều kiên định mục tiêu, con đường đi lên chủ nghĩa xã hội.
Tuy nhiên, các nước đã có những thay đổi quan trọng trong nhận thức về mô
hình và con đường xây dựng xã hội mới, hình thành những nhận thức mới về
chủ nghĩa xã hội
Nhận thức mới về chủ nghĩa xã hội không phải là sự phủ nhận sạch trơn
đối với những nhận thức trước cải cách, đổi mới là mà sự kế thừa, bổ sung và
phát triển cho phù hợp với điều kiện mới, là kết quả của quá trình vận dụng và
phát triển sáng tạo chủ nghĩa Mác - Lênin vào điều kiện cụ thể của mỗi nước,
là sự tổng kết thực tiễn và phát triển lý luận đáp ứng yêu cầu, đòi hỏi của sự
nghiệp cải cách, đổi mới đặt ra.
Nhận thức mới về chủ nghĩa xã hội bao gồm những vấn đề có tính phổ
biến được các đảng cộng sản ở các nước nhận thức, bổ sung, phát triển trên
nền tảng của chủ nghĩa Mác - Lênin. Đó là, về vị trí, vai trò lãnh đạo của đảng
cộng sản; xây dựng nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa của nhân dân, do
nhân dân, vì nhân dân; mở rộng và phát huy dân chủ; về phát triển lực lượng
sản xuất; về xây dựng quan hệ sản xuất mới xã hội chủ nghĩa trên cả 3 mặt sở
hữu, tổ chức quản lý và phân phối; về xây dựng nền văn hóa kết tinh những
giá trị của dân tộc và nhân loại và những quy luật phổ biến mới, được các
đảng cộng sản rút ra trong quá trình cải cách, đổi mới như: phát triển kinh tế
thị trường có sự quản lý của nhà nước xã hội chủ nghĩa; công nghiệp hóa,
hiện đại hóa gắn với phát triển kinh tế tri thức Nhận thức mới về chủ nghĩa
xã hội cũng bao gồm những vấn đề có tính đặc thù thể hiện sự tìm tòi, sáng
tạo của các đảng cộng sản trong việc xác định con đường phát triển riêng, phù
hợp với đặc điểm mỗi nước.
Việc vận dụng những quy luật phổ biến và đặc thù trong quá trình cải
cách, đổi mới đã giúp các nước xã hội chủ nghĩa vượt qua nhiều khó khăn,
149
thách thức, đạt được những thành tựu quan trọng có ý nghĩa lịch sử, nâng cao
vị thế của đất nước, giữ vững ổn định chính trị, bảo đảm và phát huy quyền
làm chủ của nhân dân, phát triển mạnh nền kinh tế, xây dựng nền văn hóa
mới, con người mới; mở rộng quan hệ đối ngoại, kết hợp sức mạnh dân tộc và
sức mạnh thời đại tạo tiền đề quan trọng cho đất nước bước vào một giai đoạn
phát triển mới.
Hiện nay, sự nghiệp cách mạng vĩ đại đang đặt ra những nhiệm vụ
quan trọng đối với các nước xã hội chủ nghĩa, đòi hỏi mỗi nước phải tiếp
tục đẩy mạnh công cuộc cải cách, đổi mới, đưa đất nước phát triển đất
nước toàn diện, đồng bộ về chính trị, kinh tế, văn hóa, quốc phòng, đối
ngoại Để đạt được điều đó, các nước xã hội chủ nghĩa, các đảng cộng
sản tiếp tục đổi mới mạnh mẽ tư duy, vận dụng sáng tạo, phát triển chủ
nghĩa Mác - Lênin vào thực tiễn đất nước; tăng cường tổng kết thực tiễn,
trao đổi lý luận giữa các đảng cộng sản; bổ sung, phát triển nhận thức mới
về chủ nghĩa xã hội. Đặc biệt, cần phải nắm vững bài học về kết hợp chặt
chẽ giữa tính phổ biến và tính đặc thù trong nhận thức và xây dựng chủ
nghĩa xã hội, phát huy trí tuệ của Đảng, sức mạnh của nhân dân, đưa đất
nước vững bước đi lên chủ nghĩa xã hội.
Đối với Việt Nam, những thành tựu quan trọng của 30 năm đổi mới
giúp chúng ta giữ vững niềm tin, kiên định mục tiêu và con đường đi lên chủ
nghĩa xã hội, kiên định sự nghiệp đổi mới toàn diện đất nước. Hiện nay, đất
nước ta đang đứng trước những thời cơ đan xen với những khó khăn, thách
thức, để hoàn thành nhiệm vụ cách mạng trong giai đoạn mới, về mặt lý luận
phải nghiên cứu sâu sắc, toàn diện hơn về chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng
Hồ Chí Minh, vận dụng sáng tạo và phát triển chủ nghĩa Mác - Lênin, tư
tưởng Hồ Chí Minh phù hợp với điều kiện đặc thù của dân tộc, mặt khác, phải
tăng cường tổng kết thực tiễn, trao đổi kinh nghiệm với các đảng cộng sản,
150
hoàn thiện hơn lý luận về chủ nghĩa xã hội. Về mặt thực tiễn, cần tăng cường
công tác xây dựng Đảng để Đảng ta ngày càng trong sạch, vững mạnh; xây
dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa của nhân dân, do nhân dân, vì
nhân dân; xây dựng nền dân chủ xã hội chủ nghĩa, thực hiện đại đoàn kết toàn
dân tộc; đẩy mạnh công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước gắn với phát triển
kinh tế tri thức; phát triển nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa,
xây dựng nền văn hoá tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc; xây dựng con người;
bảo đảm vững chắc quốc phòng và an ninh quốc gia, trật tự, an toàn xã hội;
thực hiện đường lối đối ngoại độc lập, tự chủ, hoà bình, hữu nghị, hợp tác và
phát triển hướng tới xây dựng nước Việt Nam “dân giàu, nước mạnh, dân
chủ, công bằng, văn minh”.
151
DANH MỤC CÔNG TRÌNH ĐÃ CÔNG BỐ CỦA TÁC GIẢ
LIÊN QUAN ĐẾN LUẬN ÁN
1. Vũ Thế Tùng (2015), "Chủ nghĩa xã hội dân chủ ở Bắc Âu - lý luận, thực
tiễn và ý nghĩa đối với Việt Nam", Tạp chí Thông tin khoa học lý luận
chính trị, 3(4), tr.35-41.
2. Nguyễn Quốc Phẩm, Vũ Thế Tùng (2015), "Bàn thêm về vận dụng lý luận
mácxít về hình thái kinh tế - xã hội trong xây dựng chủ nghĩa xã hội ở
Việt Nam hiện nay", Tạp chí Lịch sử Đảng, (293), tr.44-46.
3. Nguyễn Quốc Phẩm, Vũ Thế Tùng (2015), "Quan niệm mới của các học
giả Nga về chủ nghĩa xã hội", Tạp chí Tuyên giáo, (4), tr.19-22.
4. Vũ Thế Tùng (2015), "Những điểm tương đồng và khác biệt trong nhận
thức về chủ nghĩa xã hội trên thế giới hiện nay", Kỷ yếu Hội thảo khoa
học Nhận thức mới về chủ nghĩa xã hội Việt Nam - những vấn đề lý
luận và thực tiễn, cơ quan chủ trì: Học viện Chính trị quốc gia Hồ Chí
Minh, tr.83-95.
5. Đỗ Thị Thạch, Vũ Thế Tùng (2015), "Giương cao ngọn cờ độc lập dân tộc
và chủ nghĩa xã hội trong thời kỳ kháng chiến chống Mỹ cứu nước",
trong cuốn Đại thắng mùa xuân 1975 sức mạnh đoàn kết thống nhất
non sông, cơ quan chủ trì: Học viện Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh,
Nxb Lý luận chính trị, tr.16-25.
6. Vũ Thế Tùng, Trịnh Văn Hiệp (2016), "Một số quan điểm của Đảng về chủ
nghĩa xã hội (1976-2011)", Tạp chí Lịch sử Đảng, (302), tr.61-66.
7. Vũ Thế Tùng (2016), "Quan điểm của các nước xã hội chủ nghĩa về phát
triển kinh tế thị trường", Tạp chí Lý luận chính trị điện tử, (12).
152
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. A. M. Ru-mi-an-txép (1986), Chủ nghĩa cộng sản khoa học Từ điển, Nxb
Sự thật, Hà Nội.
2. Admi Valhuerdi Cepero (2013), “Đại hội VI Đảng Cộng sản Cuba và
công cuộc cập nhật hóa mô hình kinh tế Cuba”, Đảng Cộng sản lãnh
đạo quá trình đổi mới ở Việt Nam cập nhật mô hình phát triển kinh tế
- xã hội tại Cuba - Một số vấn đề lý luận và thực tiễn, Nxb Chính trị
quốc gia - Sự thật, Hà Nội, tr.166-178.
3. Trần Thị Phúc An (2014), Tư tưởng Hồ Chí Minh về con đường đi lên chủ
nghĩa xã hội ở Việt Nam, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.
4. Nguyễn Đức Bách (2005), "Một số vấn đề lý luận về mục tiêu - con
đường đi lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam cần được làm rõ hơn",
Nhìn lại quá trình đổi mới tư duy lý luận của Đảng 1986 - 2005, Nxb
Lý luận Chính trị, Hà Nội, tập 1, tr.154-172.
5. Hoàng Chí Bảo (chủ biên) (2010), Bản chất khoa học và cách mạng của
chủ nghĩa Mác - Lênin, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.
6. Hoàng Chí Bảo (2012), Chủ nghĩa xã hội hiện thực và quá độ lên chủ
nghĩa xã hội ở Việt Nam, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.
7. Hoàng Chí Bảo (2012), Giá trị bền vững và sức sống của chủ nghĩa Mác -
Lênin và chủ nghĩa xã hội khoa học, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.
8. Nguyễn Đức Bình (chủ biên) (2003), Về chủ nghĩa xã hội và con đường đi
lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam, Nxb Chính trị quốc gia, Hà nội.
9. Nguyễn Đức Bình (chủ nhiệm) (2006), Về chủ nghĩa xã hội và con đường
đi lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam, Tổng quan đề tài KX 01-01,
Hà Nội.
10. Nguyễn Đức Bình (2010), Vững bước trên con đường xã hội chủ nghĩa,
Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.
153
11. Bosẻngkhăm Vôngđala (2013), “Một số điểm nổi bật về đổi mới văn hóa
- xã hội tại nước Cộng hòa Dân chủ Nhân dân Lào”, Hội động Lý
luận Trung ương, Một số vấn đề lý luận và thực tiễn chủ yếu trong
quá trình đẩy mạnh công cuộc đổi mới ở Việt Nam và Lào, Nxb
Chính trị quốc gia, Hà Nội.
12. Chalơn Diapaohơ (2013), “Củng cố quyền lực Nhà nước ở Cộng hòa
Dân chủ Nhân dân Lào”, Hội động Lý luận Trung ương, Một số vấn
đề lý luận và thực tiễn chủ yếu trong quá trình đẩy mạnh công cuộc
đổi mới ở Việt Nam và Lào, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.
13. Nguyễn Trọng Chuẩn, Hồ Sĩ Quý và Phạm Văn Đức (1997), Những
quan điểm của C.Mác, Ph.Ăngghen, V.I.Lênin về chủ nghĩa xã hội và
thời kỳ quá độ, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.
14. Chương Xổm Bun Khẳn (2013) “Tiếp tục đổi mới là sự nghiệp, nhiệm
vụ và trách nhiệm cao cả của Đảng Nhân dân Cách mạng Lào”, Hội
động Lý luận Trung ương, Một số vấn đề lý luận và thực tiễn chủ yếu
trong quá trình đẩy mạnh công cuộc đổi mới ở Việt Nam và Lào,
Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.
15. Phạm Đình Đảng (2000), Tính thống nhất và tính đa dạng của chủ nghĩa
xã hội với sự nghiệp xây dựng chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam, Luận án
tiến sĩ Triết học, Học viện Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh, Hà Nội.
16. Đảng Cộng sản Cuba (1997), Điều lệ Đảng Cộng sản Cuba (được sửa
đổi và thông qua tại Đại hội V, tháng 10/1997), Bản dịch của Ban
Đối ngoại Trung ương.
17. Đảng Cộng sản Cuba (2011), Nghị quyết về định hướng chính sách kinh
tế, xã hội của Đảng và Cách mạng, Đại hội VI Đảng Cộng sản Cuba,
bản dịch của Ban Đối ngoại Trung ương.
18. Đảng Cộng sản Trung Quốc (1998), Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần
thứ XV Đảng Cộng sản Trung Quốc, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.
154
19. Đảng Cộng sản Trung Quốc (2003), Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần
thứ XVI Đảng Cộng sản Trung Quốc, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.
20. Đảng Cộng sản Trung Quốc (2013), Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc
lần thứ XVIII Đảng Cộng sản Trung Quốc, Nxb Chính trị quốc gia,
Hà Nội.
21. Đảng Cộng sản Việt Nam (1994), Văn kiện Hội nghị toàn quốc giữa
nhiệm kỳ khóa VII, Hà Nội.
22. Đảng Cộng sản Việt Nam (2001), Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc
lần thứ IX, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.
23. Đảng Cộng sản Việt Nam (2005), Văn kiện thời kỳ đổi mới (Đại hội VI,
VII, VIII, IX), Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.
24. Đảng Cộng sản Việt Nam (2006), Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc
lần thứ X, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội
25. Đảng Cộng sản Việt Nam (2011), Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc
lần thứ XI, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.
26. Đảng Cộng sản Việt Nam (2016), Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc
lần thứ XII, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.
27. Đảng Cộng sản và Công nhân các nước xã hội chủ nghĩa (1958), Cương
lĩnh của chúng ta, Nxb Sự thật, Hà Nội.
28. Đảng Nhân dân Cách mạng Lào (1996), Báo cáo chính trị của Ban Chấp
hành Trung ương Đảng Nhân dân Cách mạng Lào tại Đại hội lần
thứ VI, Bản dịch của Ban Đối ngoại Trung ương, Hà Nội.
29. Đảng Nhân dân Cách mạng Lào (2001), Báo cáo chính trị của Ban Chấp
hành Trung ương tại Đại hội VII Đảng Nhân dân Cách mạng Lào,
Bản dịch của Ban Đối ngoại Trung ương, Hà Nội.
30. Đảng Nhân dân Cách mạng Lào (2011), Báo cáo chính trị của Ban Chấp
hành Trung ương Đảng Nhân dân cách mạng Lào khóa VIII tại Đại
hội đại biểu toàn quốc lần thứ IX của Đảng, bản dịch của Ban Đối
ngoại Trung ương.
155
31. Đảng Nhân dân Cách mạng Lào (2011), Nghị quyết Đại hội đại biểu
toàn quốc lần thứ IX, Bản dịch của Ban Đối ngoại Trung ương.
32. Nguyễn Hữu Đổng, Phạm Thế Lực (đồng chủ biên) (2013), Tính phổ
biến và đặc thù của con đường đi lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam,
Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.
33. Gennady Zyuganov (2016), "Nhân loại hướng tới chủ nghĩa xã hội - một
xu hướng không thể cưỡng lại", Tạp chí Lý luận Chính trị, (2), tr.3-12.
34. Vương Ngọc Giác (2015), “Tư duy chiến lược “bốn toàn diện”: phát
triển mới của hệ thống lý luận chủ nghĩa xã hội đặc sắc Trung Quốc”,
Thông tin những vấn đề lý luận, (12), tr.32-43.
35. Nguyễn Thanh Giang (2015), "Công báo thống kê tình hình phát triển
kinh tế và xã hội quốc dân nước Cộng hòa Nhân dân Trung Hoa năm
2014, Nghiên cứu Trung Quốc, (7), tr.83-87.
36. Nguyễn Thanh Giang (2015), "Công báo thống kê tình hình phát triển
kinh tế và xã hội quốc dân nước Cộng hòa Nhân dân Trung Hoa năm
2014", Nghiên cứu Trung Quốc, (8), tr.85-88.
37. Vũ Văn Hiền (2014), Việt Nam và thế giới đương đại, Nxb Chính trị
quốc gia, Hà Nội.
38. Nguyễn Thị Thu Hiền, Võ Thị Minh Lệ (2015), “Kinh tế Trung Quốc
năm 2014 và triển vọng 2015”, Nghiên cứu Trung Quốc, 4 (164),
tr.12-19.
39. Dương Phú Hiệp (chủ biên) (2001), Tiến lên chủ nghĩa xã hội bỏ qua chế
độ tư bản chủ nghĩa ở Việt Nam, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.
40. Trương Duy Hòa (2012), Một số vấn đề và xu hướng chính trị - kinh tế
của Cộng hòa Dân chủ Nhân dân Lào trong hai thập niên đầu thế kỷ
XXI, Nxb Khoa học xã hội, Hà Nội.
41. Hội đồng Lý luận Trung ương (2013), Đảng Cộng sản lãnh đạo quá
trình đổi mới ở Việt Nam, cập nhật hóa mô hình phát triển kinh tế -
xã hội tại Cuba Một số vấn đề lý luận và thực tiễn, Nxb Chính trị
quốc gia, Hà Nội.
156
42. Hội đồng quốc gia chỉ đạo biên soạn từ điển Bách Khoa Việt Nam
(1995), Từ điển Bách Khoa Việt Nam 1, Trung tâm biên soạn Từ điển
Bách Khoa, Hà Nội.
43. Hội đồng Trung ương chỉ đạo biên soạn giáo trình quốc gia các môn
khoa học Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh (1999), Giáo trình triết
học Mác - Lênin, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.
44. Nguyễn Văn Huyên (2011), "Mô hình phát triển xã hội ở Việt Nam trong
thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội", Tạp chí Lý luận chính trị, (8).
45. Nguyễn Văn Huyên (2012), Giải phóng, đổi mới phát triển vì chủ nghĩa
xã hội, Nxb Chính trị quốc gia - Sự thật, Hà Nội.
46. Đinh Thế Huynh và các cộng sự (2015), 30 năm đổi mới và phát triển ở
Việt Nam, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.
47. Trương Lôi Khắc, Tự Lập Bình (1997), Lịch sử, hiện trạng, tương lai
chủ nghĩa xã hội”. Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.
48. Lưu Ngọc Khải (2013), "Về tính phổ biến và tính đặc thù trong đổi mới
chủ nghĩa xã hội hiện nay", Tạp chí Triết học, (1).
49. Không rõ tên (1986), Từ điển triết học, Nxb Tiến bộ Matxcơva.
50. Không rõ tên (2012), Những thành tựu giáo dục và y tế nổi bật ở Cuba,
tại trang [truy cập ngày 20/10/2015].
51. Bùi Thị Ngọc Lan (2015), "Chủ nghĩa xã hội thế kỷ XXI ở khu vực Mỹ
Latinh - thực trạng và triển vọng", Thông tin khoa học Lý luận chính
trị, tr.48-52.
52. V.I.Lênin (1978), Toàn tập, tập 4, Nxb Tiến bộ Matxcơva.
53. V.I.Lênin (1981), Toàn tập, tập 30, Nxb Tiến bộ Matxcơva.
54. V.I.Lênin (1978), Toàn tập, tập 36, Nxb Tiến bộ Matxcơva.
55. V.I.Lênin (1978), Toàn tập, tập 37, Nxb Tiến bộ Matxcơva.
56. V.I.Lênin (1979), Toàn tập, tập 39, Nxb Tiến bộ Matxcơva.
57. V.I.Lênin (1978), Toàn tập, tập 41, Nxb Tiến bộ Matxcơva.
157
58. Trang Phúc Linh (chủ biên) (2004), Lịch sử chủ nghĩa Mác, tập 4, Nxb
Chính trị quốc gia, Hà Nội.
59. Nguyễn Ngọc Long (chủ biên) (2009), Chủ nghĩa Mác - Lênin với vận
mệnh và tương lai của chủ nghĩa xã hội hiện thực, Nxb Chính trị
quốc gia, Hà Nội.
60. Phạm Quý Long (2009), Cộng hòa Dân chủ Nhân dân Triều Tiên trong
thập niên đầu thế kỷ XXI, Nxb Từ điển Bách Khoa, Hà Nội.
61. C.Mác và Ph.Ăngghen (1995), Toàn tập, tập 3, Nxb Chính trị quốc gia,
Hà Nội.
62. C.Mác và Ph.Ăngghen (2002), Toàn tập, tập 4, Nxb Chính trị quốc gia,
Hà Nội.
63. C.Mác và Ph.Ăngghen (1995), Toàn tập, tập 18, Nxb Chính trị quốc gia,
Hà Nội.
64. C.Mác và Ph.Ăngghen (1995), Toàn tập, tập 19, Nxb Chính trị quốc gia,
Hà Nội.
65. Maria De Jesús Calderius Fernández (2013), “Vai trò lãnh đạo và kiểm tra
của Đảng đối với Nhà nước và khu vực kinh tế ngoài quốc doanh”,
Đảng Cộng sản lãnh đạo quá trình đổi mới ở Việt Nam cập nhật mô
hình phát triển kinh tế - xã hội tại Cuba - Một số vấn đề lý luận và
thực tiễn, Nxb Chính trị quốc gia - Sự thật, Hà Nội, tr.207-218.
66. Hồ Chí Minh (1995), Toàn tập, tập 1, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.
67. Hồ Chí Minh (1995), Biên niên tiểu sử, tập 5, Nxb Chính trị quốc gia,
Hà Nội.
68. Hồ Chí Minh (1996), Toàn tập, tập 8, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.
69. Vũ Trung Mỹ (2016), “Đại hội VII Đảng Cộng sản Cuba: tiếp tục hướng
tới mục tiêu xây dựng chủ nghĩa xã hội thịnh vượng và bền vững”,
Tạp chí Cộng sản, (883).
70. Nguyễn Thị Ngân (2011), “Quan điểm của C.Mác về chủ nghĩa xã hội và
nhận thức của Đảng ta về con đường đi lên chủ nghĩa xã hội ở Việt
Nam”, Tạp chí Tuyên Giáo, (5).
158
71. Lê Hữu Nghĩa và các cộng sự (2013), Xây dựng đảng cầm quyền trong
quá trình phát triển kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa ở
Việt Nam và nền kinh tế hàng hóa theo cơ chế thị trường định hướng
xã hội chủ nghĩa ở Lào, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.
72. Nguyễn An Ninh (chủ biên) (2006), Về triển vọng chủ nghĩa xã hội trong
hai thập niên đầu thế kỷ XXI, Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội.
73. Nguyễn An Ninh (2010), Những nhân tố mới tác động đến triển vọng
của chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.
74. Nguyễn An Ninh (2012), Về mô hình “chủ nghĩa xã hội thế kỷ XXI” của
khu vực Mỹ la tinh hiện nay, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.
75. Nguyễn An Ninh (2015), “Tính phổ biến và đặc thù của các mô hình và
con đường đi lên chủ nghĩa xã hội hiện nay”, Tạp chí Thông tin Lý
luận chính trị, (3), tr.10-17.
76. Nguyễn An Ninh, Nguyễn Văn Quyết (2015), “Chủ nghĩa xã hội đặc sắc
Trung Quốc”, Tạp chí Thông tin Lý luận chính trị, (3), tr.42-47.
77. Nguyễn Văn Oánh (1996), “Về khái niệm định hướng xã hội chủ nghĩa”,
Tạp chí Cộng sản, (4), tr.16-19.
78. Nguyễn Văn Oánh (1996), “Về con đường đi lên chủ nghĩa xã hội ở Việt
Nam”, Tạp chí Công tác tư tưởng - văn hóa, (5).
79. Nguyễn Văn Oánh (2015), Chủ nghĩa xã hội - Lịch sử và hiện đại. Ý
nghĩa đối với Việt Nam, Hội thảo khoa học Nhận thức mới về chủ
nghĩa xã hội Việt Nam những vấn đề lý luận và thực tiễn, Học viện
Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh, Hà Nội, tr.1-9.
80. Nguyễn Quốc Phẩm (2006), “Đại hội X tiếp tục làm sáng tỏ con đường
đi lên chủ nghĩa xã hội ở nước ta”, Tạp chí Lý luận chính trị, (5).
81. Nguyễn Quốc Phẩm, Đỗ Thị Thạch (2012), Nhận thức mới về chủ nghĩa
xã hội và xây dựng chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam, Nxb Chính trị quốc
gia, Hà Nội.
159
82. Nguyễn Quốc Phẩm, Nguyễn Chí Dũng (2015), Những vấn đề cấp bách
trong vận dụng, phát triển lý luận về hình thái kinh tế - xã hội ở Việt
Nam hiện nay, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.
83. Hoàng Phê (1994), Từ điển Tiếng Việt, Nxb Khoa học xã hội, Hà Nội.
84. Nguyễn Trọng Phúc (2007), Đổi mới ở Việt Nam thực tiễn và nhận thức
lý luận, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.
85. Nguyễn Duy Quý (chủ biên) (1998), Những vấn đề lý luận về chủ nghĩa
xã hội và con đường đi lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam, Nxb Chính
trị quốc gia, Hà Nội.
86. Roberto Montesino Perez (2014), “Cập nhật hóa mô hình kinh tế - xã hội
và tăng cường công tác tư tưởng của Đảng Cộng sản Cuba”, Tạp chí
Lý luận và thực tiễn.
87. Rosario Pentón Diaz (2013), “Về vai trò của Đảng Cộng sản Cuba trong
cuộc cập nhật mô hình xã hội chủ nghĩa Cuba quá trình lịch sử”.
Đảng Cộng sản lãnh đạo quá trình đổi mới ở Việt Nam cập nhật mô
hình phát triển kinh tế - xã hội tại Cuba - Một số vấn đề lý luận và
thực tiễn. Nxb Chính trị quốc gia - Sự thật, Hà Nội, tr.67-77.
88. Tô Huy Rứa (2010), Bổ sung, phát triển Cương lĩnh năm 1991 của Đảng
- Cơ sở lý luận và thực tiễn, Đề tài KX.04.01/06-10, Cơ quan chủ trì:
Hội đồng Lý luận Trung ương.
89. Salvador Valdés Mesa (2014), “Hoàn thiện chủ nghĩa xã hội, con đường
duy nhất để củng cố vững chắc nền độc lập, tự do, phát triển, phúc lợi,
sự công bằng và công lý xã hội”, Tạp chí Lý luận và thực tiễn, (16).
90. Đỗ Tiến Sâm (chủ biên) (2008), Trung Quốc với việc xây dựng Nhà
nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa, Nxb Khoa học xã hội, Hà Nội.
91. Đỗ Tiến Sâm (2009), “Chủ nghĩa xã hội đặc sắc Trung Quốc - quá trình
hình thành và phát triển”, Tạp chí Nghiên cứu Trung Quốc, (12).
160
92. Sinlavông Khutphaithun (2013), “Các yếu tố chủ yếu đảm bảo sự thành
công của việc đổi mới kinh tế”, Hội đồng Lý luận Trung ương, Một
số vấn đề lý luận và thực tiễn chủ yếu trong quá trình đẩy mạnh công
cuộc đổi mới ở Việt Nam và Lào, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.
93. Trần Lập Tân, Trần Tuyết Cường (1997), “Ba phát triển trọng đại về lý
luận giai đoạn đầu của chủ nghĩa xã hội”, Tạp chí Lý luận và cải cách.
94. Tạ Ngọc Tấn (chỉ đạo biên soạn) (2013), Những tranh luận mới của các
học giả Nga về chủ nghĩa xã hội, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.
95. Tạ Ngọc Tấn (chủ biên) (2015), Chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam - những
vấn đề lý luận từ công cuộc đổi mới, Nxb Lý luận chính trị, Hà Nội.
96. Đỗ Thị Thạch (2011), “Mô hình (đặc trưng) chủ nghĩa xã hội trong
Cương lĩnh xây dựng đất nước thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội
(bổ sung, phát triển năm 2011)”, Tạp chí Khoa học chính trị, (2).
97. Trần Thành (2013), Chủ nghĩa xã hội Việt Nam - những quan điểm lý
luận cơ bản, Nxb Chính trị quốc gia - Sự thật, Hà Nội.
98. The World Bank (2015), tại trang
[truy cập ngày 12/8/2015].
99. The World Bank (2015), tại trang
[truy cập ngày 12/8/2015].
100. The World Bank (2015), tại trang
/indicator/NY.GDP.MKTP.CD, [truy cập ngày 10/9/2015].
101. Thông tấn xã Việt Nam (2013), "Về quá trình cải cách và mở cửa ở
Cuba", Tin tham khảo chủ nhật, ngày 12/1/2013.
102. Trịnh Quốc Tuấn, Nguyễn Khánh Bật (đồng chủ biên) (1998), Hồ Chí
Minh về chủ nghĩa Mác - Lênin, chủ nghĩa xã hội và con đường đi
lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.
103. Trịnh Quốc Tuấn (Chủ nhiệm) (2001), Về chủ nghĩa xã hội mang đặc
sắc Trung Quốc - những vấn đề có thể tham khảo cho công cuộc đổi
mới ở nước ta. Kỷ yếu đề tài khoa học cấp Bộ.
161
104. Trịnh Quốc Tuấn (2008), Một số vấn đề về con đường đi lên chủ nghĩa
xã hội ở nước ta, Nxb Lý luận chính trị, Hà Nội.
105. Đinh Công Tuấn (2011), Mô hình phát triển Bắc Âu, Nxb Từ điển Bách
khoa, Hà Nội.
106. Đào Duy Tùng (1994), Quá trình hình thành con đường đi lên chủ
nghĩa xã hội ở Việt Nam, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.
107. Đổng Liên Tường (2010), Cải cách xã hội Trung Quốc và những sáng tạo,
đổi mới trong xây dựng Đảng cơ sở, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.
108. Văn kiện Hội nghị các Đảng Cộng sản và công nhân quốc tế tại
Mátxcơva (1961), Nxb Sự thật, Hà Nội.
109. Văn tuyển Đặng Tiểu Bình (1995), quyển 3, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.
110. Chu Thượng Văn, Chu Cẩm Uy và Trần Tích Hỷ (1999), Chủ nghĩa xã
hội là gì? Xây dựng chủ nghĩa xã hội như thế nào?
111. Xỉlửa BunKhăm (2004), Xây dựng và phát triển nền văn hóa thẩm mỹ ở
Cộng hòa Dân chủ Nhân dân Lào, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.
112. Nguyễn Như Ý (chủ biên) (1998), Đại từ điển Tiếng Việt, Nxb Văn hóa
- Thông tin, Hà Nội.