Luận án Tính phổ biến và tính đặc thù của nhận thức mới về chủ nghĩa xã hội trên thế giới hiện nay

HỌC VIỆN CHÍNH TRỊ QUỐC GIA HỒ CHÍ MINH VŨ THẾ TÙNG TÍNH PHỔ BIẾN VÀ TÍNH ĐẶC THÙ CỦA NHẬN THỨC MỚI VỀ CHỦ NGHĨA XÃ HỘI TRÊN THẾ GIỚI HIỆN NAY LUẬN ÁN TIẾN SĨ CHUYÊN NGÀNH: CHỦ NGHĨA XÃ HỘI KHOA HỌC HÀ NỘI - 2017 HỌC VIỆN CHÍNH TRỊ QUỐC GIA HỒ CHÍ MINH VŨ THẾ TÙNG TÍNH PHỔ BIẾN VÀ TÍNH ĐẶC THÙ CỦA NHẬN THỨC MỚI VỀ CHỦ NGHĨA XÃ HỘI TRÊN THẾ GIỚI HIỆN NAY LUẬN ÁN TIẾN SĨ CHUYÊN NGÀNH: CHỦ NGHĨA XÃ HỘI KHOA HỌC Mã số: 62.22.03.08 NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC: 1. PGS.TS

pdf166 trang | Chia sẻ: huong20 | Ngày: 15/01/2022 | Lượt xem: 436 | Lượt tải: 0download
Tóm tắt tài liệu Luận án Tính phổ biến và tính đặc thù của nhận thức mới về chủ nghĩa xã hội trên thế giới hiện nay, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
. NGUYỄN QUỐC PHẨM 2. PGS.TS. NGUYỄN VĂN OÁNH HÀ NỘI - 2017 LỜI CAM ĐOAN Tôi xin cam đoan dưới đây là công trình nghiên cứu của riêng tôi. Các số liệu, kết quả nêu trong luận án là trung thực, có nguồn gốc rõ ràng và được trích dẫn đầy đủ theo quy định. Tác giả Vũ Thế Tùng MỤC LỤC Trang MỞ ĐẦU 1 Chương 1: TỔNG QUAN TÌNH HÌNH NGHIÊN CỨU LIÊN QUAN ĐẾN ĐỀ TÀI LUẬN ÁN 5 1.1. Những công trình đã công bố liên quan đến luận án 5 1.2. Giá trị, hạn chế của các công trình nghiên cứu đã công bố và hướng nghiên cứu của luận án 25 Chương 2: LÝ LUẬN CHUNG VỀ TÍNH PHỔ BIẾN VÀ TÍNH ĐẶC THÙ CỦA NHẬN THỨC VỀ CHỦ NGHĨA XÃ HỘI 28 2.1. Một số khái niệm cơ bản của luận án 28 2.2. Quan niệm của chủ nghĩa Mác - Lênin về tính phổ biến và tính đặc thù của nhận thức về chủ nghĩa xã hội 37 2.3. Quan điểm của các đảng cộng sản về tính phổ biến và tính đặc thù của nhận thức về chủ nghĩa xã hội thời kỳ trước cải cách, cải tổ, đổi mới 46 Chương 3: TÍNH PHỔ BIẾN VÀ TÍNH ĐẶC THÙ CỦA NHẬN THỨC MỚI VỀ CHỦ NGHĨA XÃ HỘI TRÊN THẾ GIỚI THỜI KỲ CẢI CÁCH, ĐỔI MỚI 63 3.1. Bối cảnh tác động đến nhận thức mới về tính phổ biến và tính đặc thù của chủ nghĩa xã hội thời kỳ cải cách, đổi mới 63 3.2. Tính phổ biến của nhận thức mới về chủ nghĩa xã hội trên thế giới thời kỳ cải cách, đổi mới 68 3.3. Tính đặc thù của nhận thức mới về chủ nghĩa xã hội trên thế giới hiện nay 105 Chương 4: Ý NGHĨA ĐỐI VỚI SỰ NGHIỆP XÂY DỰNG CHỦ NGHĨA XÃ HỘI TRÊN THẾ GIỚI VÀ VIỆT NAM HIỆN NAY 120 4.1. Ý nghĩa thời đại của việc quán triệt, vận dụng những giá trị phổ biến và đặc thù trong nhận thức về chủ nghĩa xã hội trên thế giới hiện nay 120 4.2. Ý nghĩa đối với Việt Nam trên con đường đi lên chủ nghĩa xã hội 133 KẾT LUẬN 148 DANH MỤC CÔNG TRÌNH ĐÃ CÔNG BỐ CỦA TÁC GIẢ LIÊN QUAN ĐẾN LUẬN ÁN 151 DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO 152 DANH MỤC CÁC CHỮ VIẾT TẮT CNCS : Chủ nghĩa cộng sản CNTB : Chủ nghĩa tư bản CNXH : Chủ nghĩa xã hội GDP : Tổng sản phẩm quốc nội TBCN : Tư bản chủ nghĩa USD : Đô la Mỹ XHCN : Xã hội chủ nghĩa 1 MỞ ĐẦU 1. Tính cấp thiết của đề tài Năm 1848, chủ nghĩa Mác ra đời đánh dấu một bước chuyển biến quan trọng trong lịch sử tư tưởng xã hội chủ nghĩa, đưa chủ nghĩa xã hội (CNXH) từ không tưởng trở thành khoa học. Dựa trên quan niệm duy vật lịch sử, C.Mác và Ph.Ăngghen đã đưa ra những dự báo khoa học về sự xuất hiện của một hình thái kinh tế - xã hội mới, hình thái kinh tế - xã hội cộng sản chủ nghĩa với những quy luật có tính phổ biến, làm cơ sở cho các nước xây dựng chủ nghĩa xã hội, chủ nghĩa cộng sản (CNCS), đồng thời cũng chỉ rõ, việc vận dụng những quy luật phổ biến đó phải luôn đặt trên “mảnh đất hiện thực”, phù hợp với điều kiện đặc thù của từng quốc gia. Sau cách mạng tháng Mười Nga năm 1917, chủ nghĩa xã hội từ lý luận trở thành hiện thực, những nguyên lý phổ biến của chủ nghĩa xã hội khoa học được vận dụng trên đất nước Liên Xô và đã đạt được những thành tựu quan trọng. Đặc biệt, từ sau Chiến tranh thế giới thứ hai, chủ nghĩa xã hội trở thành một hệ thống thế giới. Các nước xã hội chủ nghĩa trên con đường phát triển đều vận dụng những quy luật phổ biến mà chủ nghĩa Mác - Lênin đã chỉ ra và giành được những thành tựu hết sức rực rỡ trên các lĩnh vực: kinh tế, chính trị, văn hóa, xã hội, khoa học - kỹ thuật, an ninh - quốc phòng Riêng Liên Xô đã vươn lên trở thành siêu cường trên thế giới, là nguồn cổ vũ to lớn đối với phong trào giải phóng dân tộc và cách mạng xã hội chủ nghĩa, là trụ cột giữ gìn hòa bình cho sự phát triển chung của nhân loại. Tuy nhiên, bên cạnh những thành tựu đạt được, các nước xã hội chủ nghĩa cũng mắc phải những hạn chế trong nhận thức và xây dựng chủ nghĩa xã hội, đó là: tuyệt đối hóa quy luật phổ biến, coi nhẹ quy luật đặc thù; coi kinh nghiệm của Đảng Cộng sản Liên Xô trong xây dựng chủ nghĩa xã hội là vấn đề có tính nguyên tắc đối với toàn bộ phong trào cộng sản quốc tế; những sáng tạo, tìm tòi con đường xây dựng chủ nghĩa xã hội theo cách riêng được cho là “chủ nghĩa xét lại”, “chệch hướng”, “xa rời chủ nghĩa Mác - Lênin”. Điều này dẫn đến vận dụng giáo điều mô hình Xô viết cho các nước xã hội 2 chủ nghĩa, làm suy giảm sự sáng tạo trong việc tìm tòi con đường phát triển, và, khi mô hình Xô viết không phù hợp với thực tế, rơi vào khủng hoảng đã dẫn đến sự khủng hoảng của toàn bộ hệ thống. Trước thực tế đó, Liên Xô và các nước Đông Âu tiến hành công cuộc cải tổ. Tuy nhiên, do dần xa rời những nguyên lý phổ biến của CNXH khoa học, công cuộc cải tổ ở Liên Xô và Đông Âu đã thất bại vào cuối thập niên 80, đầu thập niên 90 thế kỷ XX. Các nước xã hội chủ nghĩa như Trung Quốc, Việt Nam, Lào, Cuba tiến hành cải cách, đổi mới, giữ vững nguyên lý phổ biến của chủ nghĩa xã hội khoa học, kiên trì chủ nghĩa Mác - Lênin, kết hợp hài hòa giữa tính phổ biến với tính đặc thù, hình thành con đường phát triển riêng, đưa đất nước vượt qua khó khăn, từng bước giành được những thành công trên con đường đi lên CNXH. Đến nay, việc nghiên cứu về tính phổ biến và tính đặc thù của nhận thức mới về chủ nghĩa xã hội trên thế giới là một vấn đề lý luận và thực tiễn cấp thiết, giúp các nước xã hội chủ nghĩa thấy rõ những quy luật phổ biến và đặc thù đang được vận dụng trong điều kiện hiện nay; quán triệt sâu sắc bài học về sự kết hợp tính phổ biến và tính đặc thù trong nhận thức và xây dựng chủ nghĩa xã hội; vận dụng sáng tạo và phát triển chủ nghĩa Mác - Lênin vào điều kiện cụ thể mỗi nước; tăng cường tổng kết thực tiễn, bổ sung, phát triển lý luận, hoàn thiện hơn nhận thức về chủ nghĩa xã hội trong điều kiện mới Đối với Việt Nam, việc nghiên cứu tính phổ biến và tính đặc thù của những nhận thức mới về chủ nghĩa xã hội trên thế giới hiện nay sẽ giúp chúng ta kiên định với chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, mục tiêu độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội, tiếp tục vận dụng sáng tạo những quy luật phổ biến kết hợp với tính đặc thù trong xây dựng xã hội mới. Đồng thời, tham khảo những kinh nghiệm của các nước xã hội chủ nghĩa, các đảng cộng sản trên thế giới để bổ sung, phát triển lý luận về chủ nghĩa xã hội; tăng cường đấu tranh chống biểu hiện xa rời mục tiêu chủ nghĩa xã hội, “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” trong Đảng; phản bác những quan điểm sai trái, thù địch, tạo ra sự đồng thuận xã hội cùng hướng tới mục tiêu chung là xây dựng nước Việt Nam: “Dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh”. 3 Với những lý do trên, tác giả chọn vấn đề “Tính phổ biến và tính đặc thù của nhận thức mới về chủ nghĩa xã hội trên thế giới hiện nay” làm đề tài luận án tiến sỹ chuyên ngành Chủ nghĩa xã hội khoa học. 2. Mục tiêu và nhiệm vụ nghiên cứu 2.1. Mục tiêu: trên cơ sở nghiên cứu tính phổ biến và tính đặc thù của nhận thức mới về chủ nghĩa xã hội trên thế giới, luận án rút ra ý nghĩa đối với sự nghiệp xây dựng chủ nghĩa xã hội trên thế giới và Việt Nam hiện nay. 2.2. Nhiệm vụ: để đạt được mục tiêu trên, luận án tập trung giải quyết những nhiệm vụ cơ bản sau: - Tổng quan tình hình nghiên cứu liên quan đến đề tài luận án, từ đó xác định hướng nghiên cứu của luận án; - Làm rõ lý luận chung về tính phổ biến và tính đặc thù của nhận thức về chủ nghĩa xã hội; - Phân tích tính phổ biến và tính đặc thù của những nhận thức mới về chủ nghĩa xã hội trên thế giới thời kỳ cải cách, đổi mới; - Rút ra ý nghĩa đối với sự nghiệp xây dựng chủ nghĩa xã hội trên thế giới và Việt Nam hiện nay. 3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu 3.1. Đối tượng nghiên cứu: những vấn đề có tính phổ biến và tính đặc thù của nhận thức mới về chủ nghĩa xã hội trên thế giới hiện nay. 3.2. Phạm vi nghiên cứu Không gian: luận án tập trung nghiên cứu tính phổ biến và tính đặc thù của nhận thức mới về CNXH ở 4 nước: Trung Quốc, Việt Nam, Lào, Cuba. Thời gian: từ khi các nước này tiến hành cải cách, đổi mới đến nay. 4. Cơ sở lý luận và phương pháp nghiên cứu 4.1. Cơ sở lý luận Luận án được thực hiện dựa trên cơ sở lý luận của chủ nghĩa Mác - Lênin, quan điểm của các đảng cộng sản, các lãnh tụ, các nhà lãnh đạo ở các nước xã hội chủ nghĩa. Luận án cũng tham khảo các kết quả nghiên cứu của các nhà khoa học ở trong và ngoài nước liên quan đến chủ đề của luận án. 4 4.2. Phương pháp nghiên cứu Luận án dựa trên phương pháp luận của chủ nghĩa duy vật biện chứng và chủ nghĩa duy vật lịch sử, kết hợp các phương pháp cụ thể như: logic - lịch sử, phân tích, tổng hợp, so sánh 5. Đóng góp mới về khoa học của luận án Một là, góp phần làm rõ những vấn đề lý luận chung về tính phổ biến và tính đặc thù của nhận thức về chủ nghĩa xã hội; Hai là, phân tích làm rõ những vấn đề có tính phổ biến và tính đặc thù của nhận thức mới về chủ nghĩa xã hội trên thế giới thời kỳ cải cách, đổi mới. Ba là, luận án chỉ ra ý nghĩa của việc nghiên cứu tính phổ biến và tính đặc thù của nhận thức mới về chủ nghĩa xã hội trên thế giới đối với sự nghiệp xây dựng chủ nghĩa xã hội trên thế giới và Việt Nam hiện nay. 6. Ý nghĩa khoa học và thực tiễn của đề tài nghiên cứu 6.1. Ý nghĩa khoa học Luận án góp phần làm sáng tỏ hơn những vấn đề về tính phổ biến và tính đặc thù của nhận thức mới về chủ nghĩa xã hội trên thế giới. Từ đó, cung cấp cơ sở lý luận cho việc bổ sung, phát triển và hoàn thiện nhận thức về chủ nghĩa xã hội ở các nước xã hội chủ nghĩa trên thế giới và Việt Nam hiện nay. 6.2. Ý nghĩa thực tiễn Luận án có thể làm tài liệu phục vụ cho nghiên cứu và giảng dạy những chuyên đề: xã hội xã hội chủ nghĩa và con đường đi lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam; chủ nghĩa xã hội hiện thực và các mô hình chủ nghĩa xã hội trên thế giới hiện nay trong chuyên ngành chủ nghĩa xã hội khoa học và các chuyên ngành liên quan khác. 7. Kết cấu của luận án Ngoài phần mở đầu, kết luận, danh mục công trình đã công bố của tác giả liên quan đến luận án và danh mục tài liệu tham khảo, luận án gồm 4 chương, 10 tiết. 5 Chương 1 TỔNG QUAN TÌNH HÌNH NGHIÊN CỨU LIÊN QUAN ĐẾN ĐỀ TÀI LUẬN ÁN 1.1. NHỮNG CÔNG TRÌNH ĐÃ CÔNG BỐ LIÊN QUAN ĐẾN LUẬN ÁN 1.1.1. Những công trình nghiên cứu của các tác giả trong nước về tính phổ biến và tính đặc thù của nhận thức mới về chủ nghĩa xã hội 1.1.1.1. Những công trình nghiên cứu của các tác giả trong nước về tính phổ biến và tính đặc thù của nhận thức mới về chủ nghĩa xã hội trên thế giới Nguyễn An Ninh, Về triển vọng chủ nghĩa xã hội trong hai thập niên đầu thế kỷ XXI [72]. Trong công trình này, tác giả luận giải về triển vọng phát triển của chủ nghĩa xã hội trong những thập niên đầu của thế kỷ XXI đầy biến động, chỉ rõ rằng đó là một xu thế phát triển tất yếu của toàn thể nhân loại trong thời đại ngày nay. Với cách đặt vấn đề đi từ phương pháp luận nhận thức về triển vọng của chủ nghĩa xã hội đến phân tích một số yếu tố cơ bản tác động đến triển vọng của chủ nghĩa xã hội và tiến trình phát triển của chủ nghĩa xã hội trong hai thập niên đầu thế kỷ XXI, tác giả đã cung cấp cách nhìn biện chứng về xu hướng phát triển khách quan của chủ nghĩa xã hội trong tương lai để từ đó phân tích những nhiệm vụ đặt ra cho Đảng Cộng sản và giai cấp công nhân Việt Nam trong quá trình thực hiện sứ mệnh lịch sử của mình. Nguyễn Ngọc Long, Chủ nghĩa Mác - Lênin với vận mệnh và tương lai của chủ nghĩa xã hội hiện thực [59]. Trong công trình này, tác giả đã phân tích sự hình thành và phát triển của CNXH hiện thực thời kỳ trước cải cách, cải tổ, đổi mới, trong đó tập trung phân tích, đánh giá về chủ nghĩa xã hội ở Liên Xô và các nước Đông Âu với thành tựu, hạn chế, nguyên nhân và bài học kinh nghiệm. Cũng trong công trình này, tác giả đã đi sâu phân tích về công cuộc cải cách, xây dựng chủ nghĩa xã hội đặc sắc Trung Quốc; công 6 cuộc đổi mới trên con đường “quá độ lên chủ nghĩa xã hội bỏ qua chế độ tư bản chủ nghĩa” ở Việt Nam; về con đường đi lên chủ nghĩa xã hội ở Cộng hòa Cuba, Cộng hòa Dân chủ Nhân dân Lào, Cộng hòa Dân chủ Nhân dân Triều Tiên. Khi đánh giá về công cuộc cải cách, đổi mới, tác giả đã chỉ rõ, các nước xã hội chủ nghĩa đã vận dụng những quy luật phổ biến của chủ nghĩa Mác - Lênin một cách sáng tạo trên tinh thần nhận thức mới. Đồng thời, tác giả cũng phân tích những nét đặc thù, sáng tạo của các nước trong quá trình xây dựng xã hội mới. Từ sự phân tích trên, tác giả đưa ra những dự báo về tương lai của chủ nghĩa xã hội, trong đó, khẳng định quá độ đi lên CNXH là xu thế khách quan của thời đại, đồng thời, cũng khẳng định giá trị, sức sống của chủ nghĩa Mác - Lênin trong thời đại ngày nay. Trịnh Quốc Tuấn, Về chủ nghĩa xã hội mang đặc sắc Trung Quốc - những vấn đề có thể tham khảo cho công cuộc đổi mới ở nước ta [103]. Đây là công trình tập hợp nhiều bài nghiên cứu dưới những góc độ khác nhau về chủ nghĩa xã hội mang đặc sắc Trung Quốc. Các tác giả tập trung vào bốn nhóm nội dung lớn như: chủ nghĩa xã hội mang đặc sắc Trung Quốc là gì; một số quan điểm lý luận về thể chế kinh tế xã hội chủ nghĩa; thể chế chính trị xã hội chủ nghĩa; lý luận về xây dựng văn minh tinh thần xã hội chủ nghĩa; tập trung làm rõ quá trình đổi mới nhận thức của Đảng Cộng sản Trung Quốc về CNXH và xây dựng CNXH kể từ sau Hội nghị Trung ương 3 khóa XI (1978); phân tích quá trình hình thành, đặc trưng của CNXH mang đặc sắc Trung Quốc, lộ trình, bước đi trong quá trình cải cách, mở cửa nhằm hướng tới thực hiện mục tiêu xây dựng chủ nghĩa xã hội ở Trung Quốc. Đỗ Tiến Sâm, Trung Quốc với việc xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa [90]. Đây là công trình nghiên cứu chuyên sâu về tính phổ biến và tính đặc thù trong nhận thức về xây dựng nhà nước pháp quyền ở Trung Quốc. Những nội dung chủ yếu được tác giả phân tích như: hoàn thiện chế độ đại biểu nhân dân và hệ thống pháp luật; cải cách bộ máy hành chính nhà 7 nước và thực hiện hành chính theo pháp luật; cải cách, hoàn thiện thể chế tư pháp và thực hiện tư pháp công bằng. Tác giả cũng chỉ rõ, để xây dựng nhà nước pháp quyền có hiệu quả thì một nhiệm vụ quan trọng là phải cải cách, hoàn thiện phương thức lãnh đạo, phương thức cầm quyền và nâng cao năng lực lãnh đạo của Đảng Cộng sản Trung Quốc. Đỗ Tiến Sâm, Chủ nghĩa xã hội đặc sắc Trung Quốc - quá trình hình thành và phát triển [91]. Tác giả đã phân tích quá trình nhận thức của các thế hệ lãnh đạo Trung Quốc về chủ nghĩa xã hội, từ thế hệ lãnh đạo thứ nhất do Mao Trạch Đông làm đại biểu, đến thế hệ lãnh đạo thứ tư do Hồ Cẩm Đào làm đại biểu. Tác giả chỉ rõ hệ thống lý luận chủ nghĩa xã hội đặc sắc Trung Quốc bao gồm: “Lý luận Đặng Tiểu Bình, tư tưởng quan trọng “ba đại diện” và quan điểm phát triển khoa học”. Tác giả cũng nêu rõ một số nội dung cơ bản của lý luận về CNXH đặc sắc Trung Quốc biểu hiện trên các mặt như: kinh tế, chính trị, văn hóa, xã hội. Từ sự phân tích đó, tác giả đi tới một số kết luận: CNXH đặc sắc Trung Quốc là sản phẩm của sự kết hợp giữa những nguyên lý cơ bản của chủ nghĩa Mác với thực tế cụ thể Trung Quốc; chủ nghĩa xã hội đặc sắc Trung Quốc là một mô hình CNXH hiện thực, tuy mang tính đặc thù nhưng cũng có những giá trị phổ biến nhất định. Từ đó tác giả chỉ ra “Việt Nam là nước láng giềng có nhiều điểm tương đồng, có thể tham khảo những kinh nghiệm phổ biến từ sự phát triển CNXH đặc sắc Trung Quốc”. Nguyễn An Ninh, Nguyễn Văn Quyết, Chủ nghĩa xã hội đặc sắc Trung Quốc [76]. Các tác giả đã phân tích tính phổ biến, tính đặc thù của nhận thức mới về chủ nghĩa xã hội thông qua mô hình “Chủ nghĩa xã hội đặc sắc Trung Quốc” với các đặc trưng cơ bản như: sự lãnh đạo của đảng cộng sản, lấy chế độ công hữu làm chủ thể, xây dựng nền văn hóa xã hội chủ nghĩa Tuy nhiên, bên cạnh những nét phổ biến, nhận thức về CNXH hiện nay còn có nhiều nét đặc thù phản ánh sự vận dụng sáng tạo lý luận chủ nghĩa xã hội của chủ nghĩa Mác - Lênin để phù hợp với “mảnh đất hiện thực” ở Trung Quốc. 8 Trương Duy Hòa, Một số vấn đề và xu hướng chính trị - kinh tế của Cộng hòa Dân chủ Nhân dân Lào trong hai thập niên đầu thế kỷ XXI [40]. Cuốn sách tập trung phân tích tính phổ biến và tính đặc thù của nhận thức về chủ nghĩa xã hội của Đảng Nhân dân Cách mạng Lào, với các đặc điểm cơ bản như: vấn đề xây dựng bộ máy quyền lực nhà nước và củng cố hệ thống chính trị, vấn đề hòa hợp dân tộc, vấn đề mở rộng dân chủ và nâng cao vai trò của đảng cầm quyền, vấn đề cạnh tranh ảnh hưởng chính trị của một số nước tại LàoĐồng thời, tác giả phân tích triển vọng về chính trị đối nội và đối ngoại của Cộng hòa Dân chủ Nhân dân Lào giai đoạn 2011 - 2020. Về mặt kinh tế, trong cuốn sách, tác giả đã tổng quan hai kỳ kế hoạch 5 năm từ 2001 - 2010 ở Lào, dự báo về những triển vọng kinh tế nổi bật của Lào đến 2020 và phân tích tác động của tình hình chính trị - kinh tế của Cộng hòa Dân chủ Nhân dân Lào đối với Việt Nam giai đoạn 2011 - 2020. Lê Hữu Nghĩa, Trương Thị Thông, Mạch Quang Thắng, Nguyễn Văn Giang, Xây dựng đảng cầm quyền trong quá trình phát triển kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam và nền kinh tế hàng hóa theo cơ chế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa ở Lào [71]. Các tác giả đã làm rõ những vấn đề lý luận và thực tiễn về đảng cộng sản cầm quyền và xây dựng đảng cầm quyền trong quá trình phát triển kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam và kinh tế hàng hóa theo cơ chế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa ở Lào; phân tích về thực trạng, nguyên nhân và kinh nghiệm về đảng và xây dựng đảng cầm quyền trong quá trình phát triển kinh tế thị trường ở Việt Nam và Lào; đưa ra những dự báo xu hướng phát triển và tác động tới xây dựng đảng cầm quyền, những quan điểm chỉ đạo và những giải pháp lớn xây dựng đảng cầm quyền trong quá trình phát triển kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam và kinh tế hàng hóa theo cơ chế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa ở Lào. 9 Vũ Trung Mỹ, Đại hội VII Đảng Cộng sản Cuba: tiếp tục hướng tới mục tiêu xây dựng chủ nghĩa xã hội thịnh vượng và bền vững [69]. Tác giả đã khái quát chặng đường phát triển của Cuba từ năm 1961 đến nay; phân tích những kết quả chính trong việc thực hiện nghị quyết Đại hội VI của Đảng Cộng sản Cuba, đồng thời, chỉ ra định hướng của Đại hội VII đối với sự phát triển của cách mạng Cuba trong thời gian tới nhằm hướng tới mục tiêu xây dựng nước Cuba XHCN thịnh vượng và bền vững. Đinh Công Tuấn, Mô hình phát triển Bắc Âu [105]. Cuốn sách gồm 3 chương: ở chương 1, tác giả phân tích những vấn đề tổng quan về mô hình Bắc Âu như nguồn gốc ra đời, nội dung và đặc trưng cơ bản và sự phát triển của mô hình Bắc Âu; ở chương 2, tác giả phân tích đi sâu phân tích mô hình phát triển của các nước Bắc Âu điển hình như: Thụy Điển, Phần Lan, Đan Mạch, Na Uy, trong đó, nêu bật tính phổ biến của các mô hình này như: coi trọng phân phối, thực hiện tốt các chính sách xã hội “hệ thống giáo dục miễn phí”, “hệ thống chăm sóc sức khỏe gia đình và trẻ em”, “hệ thống bảo hiểm xã hội cho người lao động” và nhiều chính sách ưu việt khác; ở chương 3, tác giả phân tích tính đặc thù của các nước trong mô hình phát triển Bắc Âu, đánh giá những thành công và hạn chế của mô hình này và dự báo triển vọng của mô hình Bắc Âu trong những thập kỷ tới. Phạm Quý Long, Cộng hòa Dân chủ Nhân dân Triều Tiên trong thập niên đầu thế kỷ XXI [60]. Trong cuốn sách, tác giả đã khái quát những nét cơ bản của Cộng hòa Dân chủ Nhân dân Triều Tiên, những đặc điểm của khu vực Đông Bắc Á thập niên đầu thế kỷ XXI; đánh giá sự phát triển của Cộng hòa Dân chủ Nhân dân Triều Tiên trên các lĩnh vực kinh tế, chính trị, an ninh, đối ngoại, văn hóa - xã hội. Từ đó, khái quát về hình ảnh một đất nước Triều Tiên trong suốt quá trình phát triển từ 1945 đến thập niên đầu thế kỷ XXI, với nhiều nét đặc thù, nhiều vấn đề còn đặt ra trong quá trình phát triển. 10 Tạ Ngọc Tấn, Những tranh luận mới của các học giả Nga về chủ nghĩa xã hội [94]. Cuốn sách là tập hợp 28 công trình nghiên cứu của các học giả Nga với những quan điểm, đánh giá, bình luận liên quan đến chủ nghĩa xã hội. Nội dung cuốn sách đề cập đến nhiều khía cạnh khác nhau, song tập trung chính vào một số vấn đề cơ bản như: thứ nhất: nguyên nhân sụp đổ của mô hình chủ nghĩa xã hội Xô viết, trong đó, các tác giả tập trung nhấn mạnh những nguyên nhân chủ quan; thứ hai: nhìn nhận, đánh giá và khẳng định tính khoa học và cách mạng của chủ nghĩa Mác, các tác giả cũng thống nhất rằng, “chủ nghĩa Mác không phải là giáo điều mà là kim chỉ nam cho hành động”, vì vậy, cần vận dụng và luôn luôn phát triển trong thực tế; thứ ba: các trào lưu chủ nghĩa xã hội mới; thứ tư: về triển vọng và tương lai của chủ nghĩa xã hội, các tác giả cho rằng, dù còn phải trải qua nhiều khó khăn, thách thức nhưng triển vọng của chủ nghĩa xã hội là khả quan và CNXH là xu hướng đi tới của nhân loại. Nguyễn An Ninh, Về mô hình “chủ nghĩa xã hội thế kỷ XXI” của khu vực Mỹ Latinh hiện nay [74]. Tác giả phân tích bối cảnh Mỹ Latinh trong những thập niên gần đây, khái quát nội dung cơ bản của mô hình “Chủ nghĩa xã hội thế kỷ XXI”, khái quát quá trình hiện thực hóa “chủ nghĩa xã hội thế kỷ XXI” ở khu vực này. Tác giả cũng phân tích những vấn đề có tính phổ biến của mô hình “Chủ nghĩa xã hội thế kỷ XXI”, đồng thời, chỉ rõ những nét đặc thù, những đóng góp mới đối với nhận thức về chủ nghĩa xã hội; những vấn đề đặt ra từ mô hình “Chủ nghĩa xã hội thế kỷ XXI” đối với quá trình xây dụng chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam. Bùi Thị Ngọc Lan, Chủ nghĩa xã hội thế kỷ XXI ở khu vực Mỹ Latinh - thực trạng và triển vọng [51]. Tác giả phân tích những đặc điểm có tính phổ biến của mô hình chủ nghĩa xã hội thế kỷ XXI ở Mỹ Latinh như: “công hữu hóa những ngành kinh tế chiến lược”, mở rộng dân chủ, xây dựng hệ thống công xã nhân dân nhằm “bảo đảm cho nhân dân là chủ thể tối thượng của 11 quyền lực nhà nước”, chú trọng phát triển và thực hiện các chính sách xã hội như: xóa đói giảm nghèo, nâng cao mức sống và đảm bảo chất lượng sống của nhân dân, chú trọng phát triển giáo dục - đào tạo, xóa nạn mù chữ, nâng cao dân trí; khôi phục và thúc đẩy hợp tác giữa các nước trong khu vực. Đồng thời, tác giả cũng chỉ ra một số nét đặc thù trong mô hình này như: lấy chủ nghĩa Mác - Lênin, kết hợp với tư tưởng tiến bộ của cách mạng Simon Bolivar và tinh thần nhân đạo của Thiên Chúa giáo làm nền tảng tư tưởng; giành chính quyền thông qua con đường tranh cử dân chủ, sửa đổi hiến pháp nhằm từng bước phá bỏ bộ máy nhà nước cũ Nguyễn An Ninh, Tính phổ biến và đặc thù của các mô hình và con đường đi lên chủ nghĩa xã hội hiện nay [75]. Trong công trình này, tác giả trình bày những nhận thức về mô hình và con đường đi lên chủ nghĩa xã hội trong xây dựng chủ nghĩa xã hội hiện thực, trong đó, làm rõ quan niệm về mô hình chủ nghĩa xã hội và con đường đi lên chủ nghĩa xã hội; nhận thức và thực hiện trước đây về mô hình và con đường đi lên chủ nghĩa xã hội; những nhận thức mới về mô hình chủ nghĩa xã hội và con đường đi lên chủ nghĩa xã hội. Về tính phổ biến của mô hình chủ nghĩa xã hội, tác giả đã khái quát 7 điểm tương đồng thể hiện tính phổ biến, đó là: Các nước kiên định mục tiêu xã hội chủ nghĩa đều tiến hành cải cách, đổi mới từ sự khủng hoảng của một mô hình đã không còn phù hợp; quá trình cải cách, đổi mới của các nước đều bắt đầu từ sự điều chỉnh quan niệm về mô hình chủ nghĩa xã hội; hầu hết các nước đều coi lý luận chủ nghĩa xã hội khoa học là nền tảng lý luận cho quá trình đổi mới quan niệm về mô hình chủ nghĩa xã hội; các mô hình đều mang dấu ấn từ “mảnh đất hiện thực” và chấp nhận sự khác biệt trong quan niệm về chủ nghĩa xã hội; đa số mô hình mới qua thể nghiệm đã được thực tiễn xác nhận và đạt được thành công nhất định; các mô hình đều phải đối diện với một số vấn đề thực tiễn và lý luận khá giống nhau; nhận thức về đặc trưng của mô hình chủ nghĩa xã hội thường xuyên được cải cách, đổi mới ở các nước. 12 Cùng với 7 điểm tương đồng về mô hình, tác giả cũng đã phân tích 7 điểm tương đồng về biện pháp xây dựng chủ nghĩa xã hội như vấn đề về vai trò của đảng cộng sản, về mục tiêu chủ nghĩa xã hội, về xây dựng nền kinh tế thị trường, về công nghiệp hóa, về quan hệ sản xuất theo tư duy mới 1.1.1.2. Những công trình nghiên cứu của các tác giả trong nước về tính phổ biến, tính đặc thù của nhận thức mới về chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam Đào Duy Tùng, Quá trình hình thành con đường đi lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam [106]. Tác giả khái quát về lịch sử hình thành, phát triển của nhận thức về con đường đi lên CNXH ở Việt Nam, phân tích và so sánh giữa tư duy cũ và tư duy đổi mới về CNXH và con đường đi lên chủ nghĩa xã hội. Tác giả cũng phân tích quá trình vận dụng và phát triển những quy luật phổ biến kết hợp với những yếu tố đặc thù của Việt Nam để xây dựng mô hình xã hội xã hội chủ nghĩa với 6 đặc trưng cơ bản được trình bày trong Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội (1991). Tác giả cũng phân tích những khó khăn, phức tạp và nỗ lực của Đảng ta trong quá trình đổi mới tư duy, thành tựu và những vấn đề đặt ra đối với cách mạng nước ta trong tình hình mới. Nguyễn Văn Oánh, Về con đường đi lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam [78]. Trong công trình này, tác giả chỉ ra một số điểm phổ biến và đặc thù về con đường đi lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam, đó là: con đường đi lên CNXH gắn bó mật thiết với củng cố nền độc lập dân tộc, thống nhất Tổ quốc, chủ quyền quốc gia; quá trình chuyển biến cơ cấu kinh tế theo hướng công nghiệp hóa, hiện đại hóa và quá trình xây dựng nền kinh tế hàng hóa nhiều thành phần, với cơ chế thị trường, có sự quản lý của Nhà nước theo định hướng XHCN; quá trình đẩy nhanh tốc độ tăng trưởng kinh tế cùng với đảm bảo tiến bộ và công bằng xã hội, bảo vệ môi trường sinh thái; nhân dân lao động ở vị trí trung tâm của con đường đi lên chủ nghĩa xã hội; xây dựng một chế độ dân chủ, nhà nước pháp quyền của dân, do dân và vì dân do Đảng 13 Cộng sản lãnh đạo trên cơ sở liên minh giữa giai cấp công nhân với giai cấp nông dân và tầng lớp trí thức; con đường đi lên CNXH ở Việt Nam hòa nhập với quá trình phát triển của nhân loại trên tinh thần hòa bình, hợp tác và hữu nghị; sự lãnh đạo của Đảng là nhân tố quyết định con đường phát triển của nước ta theo đúng định hướng XHCN. Tác giả cũng chỉ ra rằng, cùng với việc áp dụng những nguyên lý phổ biến của CNXH cần có sự nghiên cứu, tìm tòi, vận dụng và phát triển sáng tạo những nguyên lý đó vào điều kiện cụ thể của nước ta, không ngừng tổng kết thực tiễn và nghiên cứu lý luận để từng bước hình dung ngày càng sáng tỏ về CNXH và con đường xây dựng CNXH ở nước ta. Nguyễn Văn Oánh, Về khái niệm định hướng xã hội chủ nghĩa [77]. Tác giả đã phân tích tính phổ biến của chủ nghĩa xã hội thông qua việc làm rõ khái niệm “định hướng xã hội chủ nghĩa” theo nghĩa rộng, tức là, sự định hướng mục tiêu và con đường phát triển của đất nước theo quy luật khách quan được chủ nghĩa Mác chỉ ra: loài người nhất định sẽ tiến tới chủ nghĩa xã hội và CNCS. Theo nghĩa hẹp hơn, định hướng xã hội chủ nghĩa “là con đường phát triển không tư bản”, đây là khái niệm được đặt ra với các “nước kinh tế lạc hậu”, “kém phát triển”, “các nước đang phát triển” trong bối cảnh nhân loại đang trong thời kỳ quá độ từ chủ nghĩa tư bản (CNTB) lên CNCS trên phạm vi toàn thế giới và các nước này đã giành được chính quyền về tay nhân dân và do đảng mácxít lêninnít lãnh đạo. Từ đó, tác giả phân tích, làm rõ cơ sở khoa học của “định hướng xã hội chủ nghĩa”, khẳng định tính đúng đắn và niềm tin vào sự thành công của con đường đi lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam. Nguyễn Duy Quý, Những vấn đề lý luận về chủ nghĩa xã hội và con đường đi lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam [85]. Trong công trình này, tác giả phân tích quan điểm của chủ nghĩa Mác - Lênin về tính phổ biến của chủ nghĩa xã hội thể hiện qua những đặc trưng của xã hội XHCN. Đồng thời, tác giả cũng phân tích tính phổ biến và tính đặc thù của nhận thức về chủ nghĩa xã hội và con đường đi lên CNXH ở Việt Nam thể hiện trong sáu đặc trưng 14 của xã hội xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam được trình bày trong Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội (1991). Trịnh Quốc Tuấn, Nguyễn Khánh Bật, Hồ Chí Minh về chủ nghĩa Mác - Lênin, chủ nghĩa xã hội và con đường đi lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam [102]. Công trình bao gồm 2 nội dung lớn: Hồ Chí Minh về chủ nghĩa Mác - Lênin, chủ nghĩa xã hội; con đường đi lên CNXH ở Việt Nam. Thông qua hai nội dung này, các tác giả đã phân tích những quan niệm của Hồ Chí Minh về chủ nghĩa Mác - Lênin, CNXH và con đường đi lên CNXH ở Việt Nam trên cơ sở tập trung chọn lọc những quan điểm, tư tưởng của Người từ bộ sách Hồ Chí Minh, toàn tập. Từ góc độ lý luận, các tác giả đã phân tích quá trình vận dụng của Đảng ta trong việc xây dụng mô hình chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam cũng như vận dụng những nguyên lý khoa học để hiện thực hóa mô hình đó. Phạm Đình Đảng, Tính thống nhất và tính đa dạng của chủ nghĩa xã hội với sự nghiệp xây dựng chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam [15]. Tác giả đã phân tích, làm rõ lý luận mác xít về tính thống nhất và tính đa dạng của chủ nghĩa xã hội; thực tiễn vận động và xu thế phát triển của chủ nghĩa xã hội hiện thực trong tính thống nhất và tính đa dạng. Trên cơ sở đó, tác giả đi sâu phân tích tính thống nhất và tính đa dạng của chủ nghĩa xã hội trong thực tiễn xây dựng chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam, chỉ rõ định hướng xã hội chủ nghĩa là một vấn đề hợp quy luật khách quan của sự phát triển Việt Nam. Tác giả cũng phân tích thực trạng và những mâu thuẫn nảy sinh trong xây dựng chủ nghĩa xã hội, đồng thời, chỉ ra những phương hướng và 3 giải pháp chủ yếu đảm bảo tính thống nhất và tính đa dạng của chủ nghĩa xã hội trong sự nghiệp xây dựng chủ nghĩa xã hội ở Việ...1]. Từ những quan niệm trên cho thấy, trong mỗi sự vật, hiện tượng riêng lẻ đều có những đặc tính chung, những đặc tính chung có ở hầu hết (hoặc tất cả) các sự vật, hiện tượng được xét đến thì được gọi là tính phổ biến, những đặc tính chung chỉ có ở một loại sự vật hoặc những nhóm nhỏ sự vật, hiện tượng được gọi là tính đặc thù. 30 Mối quan hệ giữa tính phổ biến và tính đặc thù: tính phổ biến và tính đặc thù luôn có mối quan hệ khăng khít, không tách rời nhau, quy định lẫn nhau, chúng là một bộ phận của cái riêng, tồn tại trong cái riêng và thông qua cái riêng, chúng phản ánh tính thống nhất khách quan của các sự vật, hiện tượng của thế giới, trong sự tồn tại, vận động, phát triển của các sự vật, hiện tượng đó gắn với điều kiện lịch sử cụ thể. Sự giống nhau cơ bản của các sự vật, các quá trình chỉ là biểu hiện của mối quan hệ khách quan sâu sắc đó. Hình thức của tính phổ biến trong tự nhiên, - Ăng-ghen viết, - đó là quy luật Hình thức của tính phổ biến là hình thức của sự hoàn chỉnh bên trong và, do đó, là hình thức của tính vô hạn; nó là sự liên kết nhiều sự vật hữu hạn thành cái vô hạn. Vì vậy, cái phổ biến thể hiện sự phong phú của cái đặc thù, cái cá thể, cái riêng lẻ. Mối quan hệ giữa cái phổ biến và cái đặc thù còn thể hiện ở chỗ, cái này lấy cái kia làm tiền đề cho sự tồn tại và phát triển của mình. Trong Từ điển Triết học có viết: “Phép biện chứng của cái đơn nhất, cái đặc thù, cái phổ biến nằm trong mối liên hệ của chúng, ở chỗ cái đơn nhất không thể tồn tại nếu không có cái phổ biến, cái phổ biến không thể tồn tại nếu không có cái đơn nhất và trong điều kiện nào đó, cái đơn nhất có thể chuyển hóa thành cái đặc thù và cái phổ biến, v.v”. Sự chuyển hóa giữa cái đơn nhất, cái phổ biến và cái đặc thù gắn liền với quá trình vận động, phát triển của các sự vật, hiện tượng; với sự hình thành cái mới và sự mất đi của cái cũ. Sự chuyển hóa đó diễn ra theo một cơ chế nhất định, thông qua cái đặc thù, cái đơn nhất có thể chuyển hóa dần dần thành cái phổ biến và ngược lại, cũng thông qua cái đặc thù, cái phổ biến có thể chuyển hóa thành cái đơn nhất. Trong tự nhiên và xã hội, cái mới khi xuất hiện lần đầu nó chỉ là cái đơn nhất, nếu cái đơn nhất này là tiến bộ, phù hợp, nó sẽ dần chuyển thành cái đặc thù và phát triển lên trở thành cái phổ biến. Cái cũ khi không còn phù hợp thì nó sẽ chuyển dần thành cái đặc thù, cái đơn 31 nhất rồi mới mất hẳn. Trong xã hội, sự chuyển hóa cái mới từ cái đơn nhất thành cái đặc thù, cái phổ biến là một quá trình lâu dài, phức tạp, với nhiều bước quá độ, trung gian, nhiều khi có cả những thất bại tạm thời. Việc nghiên cứu về mối quan hệ giữa tính phổ biến và tính đặc thù có ý nghĩa quan trọng trong nhận thức và cải tạo thế giới, đặc biệt, trong quá trình xây dựng chủ nghĩa xã hội, việc phân tích về mối liên hệ biện chứng này sẽ làm rõ được những quy luật chung của chủ nghĩa xã hội và sự thể hiện đặc thù, độc đáo, sáng tạo những quy luật ấy ở từng quốc gia riêng lẻ. 2.1.2. Khái niệm chủ nghĩa xã hội Chủ nghĩa xã hội là một khái niệm xuất hiện trước sự ra đời của chủ nghĩa Mác. Theo Từ điển Tân Anh ngữ cho các nguồn gốc lịch sử (A New English Dictionary on Historical Principles) xuất bản năm 1888 của Oxford thì khái niệm về chủ nghĩa xã hội lần đầu tiên trong lịch sử nhân loại được ông Pielơrut xơ (Pierre Leroux, 1797 - 1871) đưa ra năm 1832 trên tờ báo Le Globe. Chủ nghĩa xã hội là một khái niệm rộng bao gồm nhiều nghĩa khác nhau, khái niệm này đã được nhiều nhà khoa học, nhiều công trình khoa học đề cập tới. Tuy nhiên, tùy từng cách tiếp cận có thể đưa ra quan điểm khác nhau về chủ nghĩa xã hội. Có một số cách tiếp cận cơ bản sau: Theo Từ điển Tiếng Việt do Hoàng Phê (chủ biên), chủ nghĩa xã hội được hiểu là: “Giai đoạn đầu, giai đoạn thấp của chủ nghĩa cộng sản, theo chủ nghĩa Marx” [83, tr.173]. Theo Chủ nghĩa cộng sản khoa học Từ điển, chủ nghĩa xã hội là: Chế độ xã hội thay thế chủ nghĩa tư bản. Một chế độ xã hội mà đặc điểm là chế độ công hữu về tư liệu sản xuất, không có tình trạng người bóc lột người, có nền sản xuất xã hội kế hoạch hóa trong phạm vi toàn xã hội; là giai đoạn đầu của hình thái kinh tế - xã hội cộng sản chủ nghĩa [1, tr.400]. 32 Những cách tiếp cận trên cho thấy, chủ nghĩa xã hội được hiểu là giai đoạn đầu của hình thái kinh tế - xã hội cộng sản chủ nghĩa, là một chế độ xã hội ra đời thay thế cho CNTB với những đặc trưng là chế độ công hữu về những tư liệu sản xuất, xóa bỏ áp bức, bóc lột, thực hiện bình đẳng, giải phóng con người Theo Từ điển Bách Khoa Việt Nam (1995), chủ nghĩa xã hội được hiểu theo hai nghĩa: thứ nhất, chủ nghĩa xã hội là “trào lưu tư tưởng, học thuyết chính trị” [42, tr.517], trào lưu này được hình thành và phát triển qua hai trình độ là chủ nghĩa xã hội không tưởng và chủ nghĩa xã hội khoa học; thứ hai, chủ nghĩa xã hội được hiểu là một chế độ xã hội hiện thực, “xã hội xã hội chủ nghĩa được xây dựng trong thực tế” [42, tr.517], chế độ này xuất hiện từ sau thắng lợi của Cách mạng Tháng Mười Nga 1917 và sau đó phát triển thành một hệ thống trên thế giới. Theo quan điểm của PGS.TS. Nguyễn Đức Bách, khái niệm chủ nghĩa xã hội được trình bày với 5 nội dung cơ bản sau: (1) Chủ nghĩa xã hội là những nhu cầu và hoạt động thực tiễn của nhân dân trong sản xuất và thực thi dân chủ (quyền lực của dân); (2) Chủ nghĩa xã hội là những phong trào thực tiễn của nhân dân đấu tranh chống chế độ tư hữu, áp bức, bóc lột; giành dân chủ; (3) Chủ nghĩa xã hội là ước mơ, lý tưởng của nhân dân về xã hội không còn chế độ tư hữu, không có giai cấp, không có áp bức, bóc lột; nhân dân làm chủ, hạnh phúc; (4) Chủ nghĩa xã hội là những tư tưởng, học thuyết về giải phóng con người và xã hội, (trước Mác là “Chủ nghĩa xã hội không tưởng”, từ Mác là Chủ nghĩa xã hội khoa học); (5) Chủ nghĩa xã hội là chế độ xã hội hiện thực, do nhân dân mỗi nước xây dựng dưới sự lãnh đạo của giai cấp công nhân thông qua đảng của nó [4, tr.154-172]. Kế thừa từ những quan niệm trên, tác giả luận án cho rằng, thuật ngữ chủ nghĩa xã hội được nhận thức theo những nghĩa cơ bản sau: 33 Một là, chủ nghĩa xã hội là một phong trào thực tiễn, đó là những phong trào đấu tranh của quần chúng nhân dân lao động chống lại giai cấp thống trị, chống lại mọi sự áp bức, bóc lột, bất công, đòi lại quyền bình đẳng, quyền dân chủ để nhân dân được hoàn toàn giải phóng. Những phong trào hiện thực này bắt đầu xuất hiện từ trong xã hội chiếm hữu nô lệ, phản ánh cuộc đấu tranh của giai cấp nô lệ và nhân dân lao động chống giai cấp chủ nô và kéo dài trong các xã hội còn tồn tại giai cấp và áp bức giai cấp. Hai là, chủ nghĩa xã hội với tư cách là mơ ước, lý tưởng, khát vọng của nhân dân lao động về một xã hội tốt đẹp, không còn giai cấp, áp bức, bóc lột, nghèo nàn lạc hậu, chiến tranh và tội ác, con người được giải phóng, có quyền dân chủ - quyền lực của dân. Ba là, chủ nghĩa xã hội với ý nghĩa là tư tưởng, lý luận, học thuyết về giải phóng giai cấp, giải phóng xã hội, giải phóng con người khỏi chế độ tư hữu, áp bức, bóc lột, bất công; về xây dựng một xã hội mới dựa trên chế độ công hữu, không còn giai cấp và đối kháng giai cấp, một xã hội dân chủ, văn minh, con người có cuộc sống ấm no, tự do, hạnh phúc, có điều kiện phát triển toàn diện. Chủ nghĩa xã hội với ý nghĩa là tư tưởng, lý luận, học thuyết trải qua hai thời kỳ phát triển (từ thế kỷ XVI đến trước khi chủ nghĩa Mác ra đời được gọi là chủ nghĩa xã hội không tưởng; từ khi chủ nghĩa Mác ra đời (1848) được gọi là chủ nghĩa xã hội khoa học). Bốn là, chủ nghĩa xã hội với ý nghĩa là chế độ xã hội hiện thực, đó là một chế độ chính trị - kinh tế - xã hội được thiết lập trên thực tế sau khi giai cấp công nhân, dưới sự lãnh đạo của đảng cộng sản, giành được chính quyền, từ đó xây dựng cơ sở vật chất, kỹ thuật của xã hội với kiến trúc thượng tầng về chính trị, tư tưởng, văn hoá phù hợp, theo những nguyên lý, quy luật của chủ nghĩa xã hội khoa học kết hợp với điều kiện lịch sử cụ thể của từng quốc gia. Chủ nghĩa xã hội hiện thực trên thế giới ra đời từ sau thắng lợi của Cách mạng 34 xã hội chủ nghĩa Tháng Mười Nga năm 1917, trở thành hệ thống trên thế giới từ sau năm 1945 và trải qua nhiều giai đoạn phát triển. Như vậy, có nhiều cách tiếp cận khác nhau về chủ nghĩa xã hội. Tuy nhiên, trong luận án này, khi đề cập đến “tính phổ biến và tính đặc thù của nhận thức mới về chủ nghĩa xã hội trên thế giới hiện nay” thì khái niệm “chủ nghĩa xã hội” được sử dụng chủ yếu với hai nghĩa: một là, chủ nghĩa xã hội với ý nghĩa là tư tưởng, lý luận, học thuyết; hai là, chủ nghĩa xã hội với ý nghĩa là một chế độ xã hội hiện thực. 2.1.3. Khái niệm nhận thức mới về chủ nghĩa xã hội Khái niệm, bản chất của nhận thức: theo quan điểm của chủ nghĩa duy vật biện chứng, nhận thức là quá trình phản ánh tích cực, tự giác, sáng tạo hiện thực khách quan vào trong đầu óc con người trên cơ sở thực tiễn, nhằm sáng tạo ra những tri thức về hiện thực khách quan đó. Nhận thức là một quá trình biện chứng, đó là quá trình đi từ chưa biết đến biết, từ biết ít đến biết nhiều, từ chưa đầy đủ đến đầy đủ hơn. Do đó, việc thay đổi, bổ sung và phát triển nhận thức là một quá trình diễn ra liên tục. Thực tiễn là cơ sở, động lực chủ yếu và trực tiếp nhất của nhận thức, là mục đích của nhận thức, đồng thời là tiêu chuẩn của chân lý. Với vai trò đó, khi thực tiễn vận động, thay đổi, nó đòi hỏi nhận thức cũng phải có sự thay đổi theo, những nhận thức cũ không phù hợp sẽ bị loại bỏ và mất đi, nhận thức mới tiến bộ sẽ ra đời thay thế cho nhận thức cũ lạc hậu. Tuy nhiên, nhận thức mới không phải là sự phủ định sạch trơn đối với những nhận thức cũ mà là sự kế thừa, bổ sung, phát triển và sáng tạo tri thức mới cho phù hợp với bối cảnh lịch sử đó. Nhận thức về chủ nghĩa xã hội thực chất là quá trình phản ánh các quy luật, đặc trưng, bản chất, cách thức xây dựng chủ nghĩa xã hội vào đầu óc con người. Nhận thức về chủ nghĩa xã hội có thể chia làm bốn thời kỳ chính: thời kỳ những nhà CNXH không tưởng nhận thức về chủ nghĩa xã hội; thời kỳ các 35 nhà kinh điển của chủ nghĩa Mác - Lênin nhận thức về chủ nghĩa xã hội; thời kỳ các đảng cộng sản nhận thức về chủ nghĩa xã hội giai đoạn trước cải cách, cải tổ, đổi mới; thời kỳ các đảng cộng sản nhận thức về chủ nghĩa xã hội giai đoạn cải cách, đổi mới (hay là nhận thức mới về chủ nghĩa xã hội). Nhận thức mới về chủ nghĩa xã hội là nhận thức của các đảng cộng sản về bản chất, đặc trưng, con đường, biện pháp xây dựng chủ nghĩa xã hội, hình thành trong quá trình cải cách, đổi mới. Đó là những nhận thức đúng quy luật, phù hợp với thực tiễn; có sự bổ sung, phát triển những nguyên lý khoa học, cách mạng của chủ nghĩa Mác - Lênin về chủ nghĩa xã hội và con đường đi lên chủ nghĩa xã hội; có sự khác biệt với nhận thức của các đảng cộng sản thời kỳ trước cải cách, đổi mới; có sự kết hợp hài hòa giữa tính phổ biến và tính đặc thù; phù hợp với điều kiện, đặc điểm của mỗi quốc gia và phản ánh xu thế phát triển chung của thời đại. Cơ sở để xác định nhận thức “mới” về chủ nghĩa xã hội căn cứ vào hai tiêu chí sau: Một là, căn cứ vào thời gian, nhận thức mới về chủ nghĩa xã hội là những nhận thức xuất hiện trong thời kỳ cải cách, đổi mới (dùng để phân biệt với nhận thức truyền thống về chủ nghĩa xã hội - giai đoạn trước cải cách, đổi mới). Hai là, căn cứ vào nội dung, những nhận thức mới về chủ nghĩa xã hội là những nhận thức có sự bổ sung, phát triển so với quan điểm của các nhà kinh điển của chủ nghĩa Mác - Lênin và quan điểm của các đảng cộng sản giai đoạn trước cải cách, đổi mới. Nguyên tắc của những nhận thức mới về chủ nghĩa xã hội: khi bước vào cải cách, đổi mới, các nước xã hội chủ nghĩa đã nêu ra những nguyên tắc cơ bản, định hướng cho toàn bộ quá trình cải cách, đổi mới nói chung và “nhận thức mới về chủ nghĩa xã hội” nói riêng. Ở Trung Quốc, đó là bốn nguyên tắc cơ bản chỉ đạo quá trình xây dựng “chủ nghĩa xã hội đặc sắc Trung Quốc”; ở Việt Nam, Hội nghị Trung ương VI khóa VI (1989) đề ra 6 nguyên tắc cơ bản 36 cho sự nghiệp đổi mới Các nguyên tắc này được hoàn thiện trong quá trình cải cách, đổi mới, nhưng có thể khái quát chung là: Một là, nhận thức mới về chủ nghĩa xã hội không phải là từ bỏ mục tiêu chủ nghĩa xã hội mà là “kiên trì” và làm cho chủ nghĩa xã hội được nhận thức đúng đắn, đầy đủ, sáng tạo hơn và được xây dựng có hiệu quả hơn. Hai là, cải cách, đổi mới không phải là xa rời mà là nhận thức đúng, vận dụng sáng tạo và phát triển chủ nghĩa Mác - Lênin trong điều kiện cụ thể ở mỗi quốc gia dân tộc. Ba là, cải cách, đổi mới là phải kiên trì, bảo đảm sự lãnh đạo của đảng cộng sản, đó là nhân tố quyết định thắng lợi của công cuộc cải cách, đổi mới đất nước. Không ngừng hoàn thiện hệ thống chính trị, mở rộng dân chủ trong nhân dân. Bốn là, nhận thức mới về CNXH không phải là quá trình phủ định sạch trơn những nhận thức trước đó mà là quá trình nhận thức toàn diện, đồng bộ, có kế thừa, có bước đi, hình thức và cách làm phù hợp. Phải đổi mới từ nhận thức, tư duy đến hoạt động thực tiễn; từ kinh tế, chính trị, văn hóa đến tất cả các lĩnh vực của đời sống xã hội; từ hoạt động lãnh đạo của Đảng, quản lý của Nhà nước đến hoạt động cụ thể trong từng bộ phận của hệ thống chính trị. Đổi mới tất cả các mặt của đời sống xã hội nhưng phải có trọng tâm, trọng điểm, có những bước đi thích hợp. Năm là, nhận thức mới về CNXH trên cơ sở lợi ích của nhân dân, dựa vào nhân dân, phát huy vai trò chủ động, sáng tạo của nhân dân, xuất phát từ thực tiễn, nhạy bén với cái mới. Cách mạng là sự nghiệp của nhân dân, vì nhân dân và do nhân dân. Dựa vào nhân dân, xuất phát từ thực tiễn và thường xuyên tổng kết thực tiễn, phát hiện nhân tố mới, từng bước tìm ra quy luật phát triển. Phát huy cao độ nội lực, đồng thời ra sức tranh thủ ngoại lực, kết hợp sức mạnh dân tộc với sức mạnh thời đại trong điều kiện mới. 37 2.2. QUAN NIỆM CỦA CHỦ NGHĨA MÁC - LÊNIN VỀ TÍNH PHỔ BIẾN VÀ TÍNH ĐẶC THÙ CỦA NHẬN THỨC VỀ CHỦ NGHĨA XÃ HỘI 2.2.1. Quan niệm của chủ nghĩa Mác - Lênin về tính phổ biến của nhận thức về chủ nghĩa xã hội Theo quan điểm duy vật lịch sử, tính phổ biến của nhận thức về chủ nghĩa xã hội là nhận thức chung về những vấn đề có tính quy luật, những giá trị bền vững được chủ nghĩa Mác - Lênin chỉ ra, phản ánh những nét đặc trưng, bản chất của chủ nghĩa xã hội và con đường đi lên chủ nghĩa xã hội mà các quốc gia có thể vận dụng vào trong quá trình xây dựng chủ nghĩa xã hội. 2.2.1.1. Trên lĩnh vực chính trị Thứ nhất, bảo đảm sự lãnh đạo của giai cấp công nhân thông qua đội tiên phong của mình là đảng cộng sản. Các nhà kinh điển của chủ nghĩa Mác - Lênin chỉ rõ, giai cấp công nhân chỉ có thể hoàn thành sứ mệnh lịch sử của mình khi có chính đảng cách mạng, để tập hợp và lãnh đạo toàn thể giai cấp công nhân, nhân dân lao động chống lại giai cấp tư sản. Bàn về vai trò của Đảng trong sự nghiệp cách mạng của giai cấp công nhân, trong tác phẩm Tuyên ngôn của Đảng Cộng sản (1848), C.Mác và Ph.Ăngghen chỉ rõ: Về mặt thực tiễn, những người cộng sản là bộ phận kiên quyết nhất trong các đảng công nhân ở tất cả các nước, là bộ phận luôn thúc đẩy phong trào tiến lên, về mặt lý luận, họ hơn bộ phận còn lại của giai cấp vô sản ở chỗ là họ hiểu rõ những điều kiện, tiến trình và kết quả chung của phong trào vô sản [62, tr.614-615]. V.I.Lênin đã kế thừa quan điểm của C.Mác và Ph.Ăngghen về đảng cộng sản, bổ sung, phát triển lý luận đó, nêu ra quan điểm về xây dựng đảng kiểu mới, theo đó, đảng vô sản kiểu mới là đội tiên phong giác ngộ và có tổ chức của giai cấp công nhân, đồng thời đoàn kết những đại biểu tiên tiến nhất 38 của các giai cấp, tầng lớp lao động đứng trên lập trường của giai cấp công nhân. V.I.Lênin đã chỉ rõ vai trò của lý luận cách mạng: “Không có lý luận cách mạng thì không thể có phong trào cách mạng”; luận chứng một cách khoa học các nguyên tắc tổ chức và sinh hoạt đảng, trong đó, tập trung dân chủ là nguyên tắc tổ chức quan trọng nhất của xây dựng đảng kiểu mới và nêu tiêu chuẩn của đảng viên. Đây là điều kiện để xây dựng đảng thành một tổ chức chặt chẽ, là tiền đề vô cùng quan trọng để giai cấp công nhân hoàn thành sứ mệnh lịch sử toàn thế giới của mình. Thứ hai, xây dựng và hoàn thiện nhà nước chuyên chính vô sản trên nền tảng liên minh giữa giai cấp công nhân, giai cấp nông dân và các tầng lớp nhân dân lao động khác. Nhà nước chuyên chính vô sản là nhà nước kiểu mới, nhà nước do đảng của giai cấp công nhân lãnh đạo nhân dân tổ chức ra. Chủ yếu thông qua nhà nước mà đảng lãnh đạo xã hội về mọi mặt, nhân dân lao động thực hiện quyền lực và lợi ích của mình trên mọi phương diện của xã hội, ngày càng tham gia vào công việc của nhà nước. Sự liên minh giữa giai cấp công nhân, giai cấp nông dân và các tầng lớp nhân dân lao động là cơ sở chính trị - xã hội của nhà nước chuyên chính vô sản Nhà nước xã hội chủ nghĩa không còn là nhà nước nguyên nghĩa mà là “nhà nước nửa nhà nước” với chức năng cơ bản là tổ chức xây dựng xã hội mới cao hơn CNTB, tính tự giác, tự quản cao của nhân dân, thể hiện quyền làm chủ và lợi ích của mình ngày càng rõ. Thứ ba, mở rộng và phát huy dân chủ xã hội chủ nghĩa trong nhân dân. Dân chủ xã hội chủ nghĩa là một giá trị cốt lõi của chủ nghĩa xã hội, bởi vậy, C.Mác và Ph.Ăngghen cho rằng, “bước thứ nhất trong cuộc cách mạng công nhân là giai cấp vô sản biến thành giai cấp thống trị, là giành lấy dân chủ”, đó là cuộc cách mạng đưa nhân dân lao động từ địa vị làm thuê trở thành người làm chủ, đứng ra tổ chức, quản lý và xây dựng xã hội mới. Nền dân chủ XHCN do đảng cộng sản lãnh đạo, dựa trên chế độ công hữu về 39 những tư liệu sản xuất chủ yếu và dựa trên nền tảng lý luận chủ chủ nghĩa Mác - Lênin để xây dựng nền văn hóa mới, con người mới. Dân chủ xã hội chủ nghĩa là dân chủ của số đông và tạo điều kiện cho số đông ngày càng tham gia nhiều vào công việc của nhà nước và xã hội, dân chủ gắn bó chặt chẽ với chuyên chính. 2.2.1.2. Trên lĩnh vực kinh tế Thứ nhất, phát triển nhanh lực lượng sản xuất, xây dựng nền kinh tế hiện đại. Các nhà kinh điển của chủ nghĩa Mác - Lênin chỉ rõ, giai cấp công nhân khi trở thành giai cấp thống trị, thì nhiệm vụ quan trọng nhất là phải “tăng thật nhanh số lượng những lực lượng sản xuất”, xây dụng nền kinh tế hiện đại với năng suất lao động xã hội cao, bởi: “xét đến cùng, thì năng suất lao động là cái quan trọng nhất, chủ yếu nhất cho thắng lợi của chế độ xã hội mới” [56, tr.25]. Thứ hai, từng bước xóa bỏ chế độ sở hữu tư nhân tư bản chủ nghĩa về tư liệu sản xuất, thiết lập và hoàn thiện chế độ công hữu về những tư liệu sản xuất chủ yếu; tổ chức lao động mới; thực hiện phân phối theo lao động. C.Mác và Ph.Ăngghen khẳng định: Đặc trưng của chủ nghĩa cộng sản không phải là xóa bỏ chế độ sở hữu nói chung mà là xóa bỏ chế độ sở hữu tư sản. Trong Tuyên ngôn của Đảng Cộng sản, các ông viết: Đặc trưng của chủ nghĩa xã hội không phải là xoá bỏ chế độ sở hữu nói chung, mà là xoá bỏ chế độ sở hữu tư sản. Nhưng chế độ tư hữu tư sản hiện thời, lại là biểu hiện cuối cùng và đầy đủ nhất của phương thức sản xuất và chiếm hữu sản phẩm dựa trên những đối kháng giai cấp, trên cơ sở những người này bóc lột của những người kia. Theo ý nghĩa đó, những người cộng sản có thể tóm tắt lý luận của mình thành một luận điểm duy nhất là: xóa bỏ chế độ tư hữu [62, tr.615-616]. Xóa bỏ chế độ tư hữu tư bản là nhu cầu khách quan của sự phát triển lực lượng sản xuất ngày càng xã hội hóa và mâu thuẫn gay gắt với quan hệ sản 40 xuất tư bản chủ nghĩa (TBCN). Xóa bỏ chế độ tư hữu tư bản không phải là đồng nghĩa với xóa bỏ sở hữu cá nhân do lao động, từ thành quả lao động của mỗi người, trong Tuyên ngôn của Đảng Cộng sản, C.Mác và Ph.Ăngghen viết: “Điều chúng tôi muốn, là xóa bỏ tính chất bi thảm của các phương thức chiếm hữu nó khiến cho người công nhân chỉ sống để làm tăng thêm tư bản và chỉ sống trong chừng mực mà lợi ích của giai cấp thống trị đòi hỏi” [62, tr.617]. Thủ tiêu chế độ tư hữu tư bản chủ nghĩa, xác lập chế độ công hữu về những tư liệu sản xuất chủ yếu là nhằm tạo ra cơ sở kinh tế để xây dựng một xã hội công bằng, bình đẳng, tiến bộ. Tuy nhiên, đây là một quá trình lâu dài, khó khăn, phức tạp, không thể ngay lập tức được. Trong Những nguyên lý của chủ nghĩa cộng sản, khi trả lời câu hỏi: Liệu có thể thủ tiêu ngay lập tức chế độ tư hữu được không? Ăngghen viết: Không, không thể được cũng y như không thể làm cho lực lượng sản xuất hiện có tăng lên ngay lập tức đến mức cần thiết để xây dựng một nền kinh tế công hữu. Cho nên cuộc cách mạng của giai cấp vô sản đang có tất cả những triệu chứng là sắp nổ ra, sẽ chỉ có thể cải tạo xã hội hiện nay một cách dần dần, và chỉ khi nào đã tạo nên được một khối lượng tư liệu sản xuất cần thiết cho việc cải tạo đó thì khi ấy mới thủ tiêu được chế độ tư hữu [62, tr.469]. Về tổ chức lao động mới, các nhà kinh điển của chủ nghĩa Mác - Lênin rất quan tâm và coi trọng việc tổ chức lao động và kỷ luật lao động nhằm khắc phục những tàn dư của tình trạng lao động bị tha hóa trong xã hội cũ và tạo ra một kiểu tổ chức lao động cao hơn so với chủ nghĩa tư bản. V.I.Lênin chỉ rõ: chuyên chính vô sản không phải chỉ là bạo lực và chủ yếu là bạo lực, cơ sở kinh tế của chuyên chính vô sản chính là việc giai cấp vô sản đưa ra được và thực hiện được kiểu tổ chức lao động xã hội cao hơn so với chủ nghĩa tư bản. Các nhà kinh điển nhấn mạnh, chỉ có tổ chức hết sức chặt chẽ và kỷ luật lao động nghiêm ngặt mới dẫn tới chủ nghĩa xã hội. Lao động được tổ chức có 41 kế hoạch, kỷ luật chặt chẽ theo quy định chung của pháp luật, pháp chế xã hội chủ nghĩa, vừa có tính tự nguyện, tự giác là đặc trưng của chủ nghĩa xã hội. Thực hiện phân phối theo lao động, chủ nghĩa xã hội thực hiện hình thức phân phối theo lao động. Đây là nguyên tắc phân phối cơ bản trong chủ nghĩa xã hội. Theo nguyên tắc này, trong quá trình lao động cụ thể, sau khi đã trừ đi những khoản đóng góp chung cho xã hội để tái sản xuất và cho phúc lợi xã hội mỗi người lao động sẽ nhận được từ xã hội một số lượng sản phẩm tiêu dùng trị giá tương đương số lượng, chất lượng và hiệu quả lao động mà họ cung cấp cho xã hội được lượng hóa bằng giá trị hoặc vật phẩm. Nguyên tắc này thể hiện sự công bằng dưới chủ nghĩa xã hội, nó phù hợp với tính chất và trình độ phát triển của lực lượng sản xuất trong giai đoạn này. 2.2.1.3. Trên lĩnh vực văn hóa - xã hội Thứ nhất, chủ nghĩa xã hội có nền văn hóa phát triển cao, kết tinh những giá trị văn hóa dân tộc và nhân loại. Khi nghiên cứu về sự thay đổi của các phương thức sản xuất, C.Mác đã kết luận rằng: chính sự thay đổi của phương thức sản xuất mà trước hết do sự thay đổi của lực lượng sản xuất sẽ quyết định sự biến đổi của đời sống tinh thần, quyết định sự chuyển biến từ một nền văn hóa này sang một nền văn hoá cao hơn. Khi CNXH ra đời thay thế cho CNTB, tất yếu ra đời nền văn hóa mới - "nền văn hoá vô sản" hay “nền văn hoá xã hội chủ nghĩa”. Đây là nền văn hóa kế thừa, kết tinh những giá trị văn hóa mà nhân loại đã tạo ra qua mọi thời đại, đồng thời, là nền văn hóa của mỗi quốc gia mang đậm dấu ấn dân tộc với sự tham gia của toàn thể nhân dân và vì lợi ích nhân dân. V.I.Lênin viết: văn hoá vô sản không phải bỗng nhiên mà có, nó không phải do những người tự cho mình là chuyên gia về văn hoá vô sản phát minh ra. Đó là điều ngu ngốc. Văn hoá vô sản phải là sự phát triển hợp quy luật, của tổng số kiến thức mà loài người đã tích luỹ được dưới ách thống trị của xã hội tư bản, xã hội của bọn địa chủ, xã hội của bọn quan liêu [57, tr.361]. 42 Để xây dựng chủ nghĩa xã hội, chủ nghĩa cộng sản, cần phải có những người cộng sản và theo V.I.Lênin thì "người ta chỉ có thể trở thành người cộng sản khi biết làm giàu trí óc của mình bằng sự hiểu biết tất cả những kho tàng tri thức mà nhân loại đã tạo ra" [57, tr.362]. Thứ hai, chủ nghĩa xã hội thực hiện giải phóng con người, tạo điều kiện cho con người phát triển toàn diện. Giải phóng con người là mục tiêu cao nhất của chủ nghĩa xã hội, CNCS, đó là một sự giải phóng toàn diện đối với con người trên các mặt: chính trị, kinh tế, văn hóa, xã hội, đời sống vật chất và đời sống tinh thần để tạo điều kiện cho con người phát triển toàn diện. Mục tiêu đó thể hiện bản chất nhân văn, nhân đạo cao cả của chủ nghĩa xã hội, chủ nghĩa cộng sản. Trong Tuyên ngôn của Đảng Cộng sản, C.Mác và Ph.Ăngghen đã dự báo về xã hội tương lai: “thay cho xã hội tư sản cũ, với những giai cấp và đối kháng giai cấp của nó, sẽ xuất hiện một liên hợp, trong đó sự phát triển tự do của mỗi người là điều kiện cho sự phát triển tự do của tất cả mọi người” [62, tr.628]. 2.2.2. Quan niệm của chủ nghĩa Mác - Lênin về tính đặc thù của nhận thức về chủ nghĩa xã hội Khi bàn đến tính đặc thù của nhận thức về chủ nghĩa xã hội, các nhà kinh điển của chủ nghĩa Mác - Lênin chỉ nêu những vấn đề có tính phương pháp luận cho quá trình nhận thức và xây dựng xã hội xã hội chủ nghĩa. Đây là những định hướng hết sức quan trọng để trên cơ sở đó, các đảng cộng sản ở các nước xã hội chủ nghĩa vận dụng linh hoạt các vấn đề có tính phổ biến vào điều kiện cụ thể từng nước để tìm ra con đường xây dựng chủ nghĩa xã hội riêng, phù hợp với dân tộc mình. Đồng thời, tránh việc nhận thức giản đơn về chủ nghĩa xã hội; tránh sự dập khuôn máy những mô hình và con đường đi lên chủ nghĩa xã hội của nước này cho nước khác; tránh sự đề cao tính phổ biến, coi nhẹ tính đặc thù và ngược lại. 43 Một là, khi áp dụng những nguyên lý phổ biến của chủ nghĩa xã hội khoa học phải căn cứ vào tính đặc thù của từng quốc gia, dân tộc Cùng với việc chỉ rõ và phân tích những vấn đề có tính phổ biến của nhận thức về chủ nghĩa xã hội, các nhà kinh điển của chủ nghĩa Mác - Lênin cũng nhấn mạnh rằng: các vấn đề phổ biến này lại được biểu hiện một cách khác nhau trong những điều kiện đặc thù ở từng quốc gia riêng biệt với trình độ phát triển kinh tế, văn hóa, xã hội, truyền thống lịch sử, đặc điểm dân tộc không giống nhau. Đó là biểu hiện tính đặc thù và nó đòi hỏi việc vận dụng những nguyên lý của CNXH khoa học cần phải phù hợp với điều kiện của từng quốc gia cụ thể. Trong Lời tựa cho bản viết bằng tiếng Đức Tuyên ngôn của Đảng Cộng sản viết năm 1872, C.Mác và Ph. Ăngghen nhấn mạnh: “Chính ngay trong Tuyên ngôn cũng đã giải thích rõ rằng bất cứ ở đâu và bất cứ lúc nào, việc áp dụng những nguyên lý đó cũng phải tùy theo hoàn cảnh lịch sử đương thời, và do đấy, không nên quá câu nệ vào những biện pháp cách mạng nêu ra ở cuối chương II” [63, tr.128]. Trong tác phẩm Sự phát triển của chủ nghĩa xã hội từ không tưởng đến khoa học, Ph.Ăngghen viết: “Muốn làm cho chủ nghĩa xã hội thành một khoa học thì trước hết phải đặt chủ nghĩa xã hội trên một cơ sở hiện thực” [64, tr.293]. Tới năm 1891, Ph.Ăngghen tiếp tục nhắc nhở: Biện pháp nào là cần thiết trước hết, điều đó còn tùy thuộc vào điều kiện không gian và thời gian, về vấn đề này không thể nói gì trước được và nói chung không thể nói gì được. Kế thừa những quan điểm của chủ nghĩa Mác về tính phổ biến và tính đặc thù trong nhận thức và xây dựng chủ nghĩa xã hội, năm 1916, trong tác phẩm Về một sự biếm họa chủ nghĩa Mác, V.I.Lênin chỉ ra quy luật chung của lịch sử loài người là tiến lên CNXH, đồng thời cũng nhấn mạnh tính đặc thù của nhận thức về chủ nghĩa xã hội: Tất cả các dân tộc đều sẽ đi đến chủ nghĩa xã hội, đó là điều không tránh khỏi, nhưng tất cả các dân tộc đều tiến tới chủ nghĩa xã hội 44 không phải một cách hoàn toàn giống nhau; mỗi dân tộc sẽ đưa đặc điểm của mình vào hình thức này hay hình thức khác của chế độ dân chủ, vào loại này hay loại khác của chuyên chính vô sản, vào nhịp độ này hay nhịp độ khác của việc cải tạo xã hội chủ nghĩa đối với các mặt khác nhau của đời sống xã hội [53, tr.160]. Như vậy, V.I. Lênin đã chỉ ra quy luật chung của lịch sử nhân loại là các quốc gia sẽ đi lên chủ nghĩa xã hội. Tuy nhiên, V.I. Lênin cũng nhấn mạnh rằng, mỗi quốc gia, trên cơ sở đặc điểm dân tộc mình, sẽ có những cách thức, biện pháp đi lên chủ nghĩa xã hội khác nhau, tạo lên sự đa dạng của các mô hình và con đường đi lên chủ nghĩa xã hội. Các quốc gia khi đi lên chủ nghĩa xã hội cần phải áp dụng linh hoạt những nguyên lý có tính phổ biến như: xây dựng chuyên chính vô sản, chế độ dân chủ xã hội chủ nghĩa Đồng thời, dựa trên đặc điểm dân tộc mà có các hình thức chế độ dân chủ hay loại hình chuyên chính vô sản khác nhau. Tránh việc dập khuôn máy móc, áp dụng nguyên mô hình và con đường đi lên chủ nghĩa xã hội của nước này cho nước khác, bởi điều này có thể gây ra những hậu quả nghiêm trọng đối với phong trào cộng sản và công nhân quốc tế. Hai là, trong nhận thức và xây dựng chủ nghĩa xã hội hiện thực, các đảng cộng sản không chỉ vận dụng sáng tạo mà còn phải bổ sung, phát triển chủ nghĩa Mác phù hợp với điều kiện đặc thù để tìm con đường phát triển phù hợp cho dân tộc mình Trong tác phẩm Cương lĩnh của chúng ta, khi bàn về công cuộc xây dựng chủ nghĩa xã hội ở nước Nga, V.I.Lênin chỉ rõ, cần phải sáng tạo, phát triển chủ nghĩa Mác trong điều kiện mới và khi vận dụng chủ nghĩa Mác cũng phát xét kỹ đến điều kiện cụ thể của từng quốc gia, Người viết: Những người cộng sản chủ nghĩa ở Nga đặc biệt phải cần tự mình phát triển hơn nữa những lý luận của Mác, vì lý luận này chỉ đề ra những nguyên lý chỉ đạo chung, còn việc áp dụng những nguyên lý 45 ấy thì, xét riêng từng nơi, ở Anh không giống ở Pháp, ở Pháp không giống ở Đức, ở Đức không giống ở Nga [52, tr.232]. Sau Cách mạng Tháng Mười, đặc biệt từ mùa xuân năm 1918, khi bước vào xây dự...c nào, chế độ nào cũng được miễn là dân giàu, nước mạnh”; “chủ nghĩa xã hội là ảo tưởng, không bao giờ thực hiện được”; “Việt Nam tiến lên chủ nghĩa xã hội bỏ qua chế độ tư bản chủ nghĩa là trái với tự nhiên và quy luật khách quan, là duy ý chí” Phủ nhận vai trò lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam, đòi thực hiện đang nguyên chính trị, đa đảng đối lập: những quan điểm này tập trung đòi xóa bỏ điều 4 Hiến pháp Nước Cộng hòa Xã hội chủ nghĩa Việt Nam, điều này quy định: Đảng Cộng sản Việt Nam “là lực lượng lãnh đạo Nhà nước và xã hội”; phê phán bản chất giai cấp công nhân của Đảng, cho rằng: “giai cấp công nhân không thể lãnh đạo cách mạng trong điều kiện ngày nay, chỉ có trí thức mới lãnh đạo được”, cho rằng, chỉ có đa nguyên chính trị, đa đảng đối lập mới dân chủ Đòi thay đổi bản chất giai cấp công nhân của Nhà nước xã hội chủ nghĩa Phủ nhận vai trò của kinh tế thị trường đối với xây dựng chủ nghĩa xã hội, cho rằng, “kinh tế thị trường không thể đi đôi với định hướng xã hội chủ nghĩa, như nước với lửa”; hoặc không thể có “kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa” Phủ nhận vai trò nền tảng của chế độ công hữu trong xây dựng quan hệ sản xuất mới xã hội chủ nghĩa, đòi xóa bỏ vai trò chủ đạo của kinh tế nhà nước trong nền kinh tế quốc dân, thay vào đó là vai trò của kinh tế tư nhân Đồng thời với việc phủ nhận những nguyên lý phổ biến, phủ nhận con đường đi lên chủ nghĩa xã hội, những người theo khuynh hướng này thường nhấn mạnh cái đặc thù, cho rằng cần dựa trên điều kiện cụ thể của đất nước để xây dựng con đường đi riêng, một số lực lượng còn đưa ra ưu 145 sách chính trị đòi “cách mạng Việt Nam ngày nay phải chuyển hẳn sang đường lối dân tộc và dân chủ” mà theo cách giải thích của họ là con đường TBCN. Những khuynh hướng chính trị này thường lợi dụng những dịp sinh hoạt chính trị: thông qua góp ý Văn kiện Đại hội Đảng, góp ý sửa đổi Hiến pháp sử dụng các phương tiện truyền thông, đặc biệt là mạng Internet để đưa ra những quan điểm của mình. Việc nghiên cứu về tính phổ biến và tính đặc thù của những nhận thức mới về chủ nghĩa xã hội trên thế giới hiện nay cho chúng ta những cơ sở lý luận và thực tiễn quan trọng để đấu tranh chống lại những khuynh hướng đó. Đồng thời, chính sự thất bại của Liên Xô và Đông Âu trong quá trình cải tổ đã cho thấy rằng, việc xa rời những nguyên lý phổ biến là một sai lầm nghiêm trọng của các Đảng Cộng sản, nhưng nếu áp dụng máy móc, giáo điều những nguyên lý phổ biến đó mà không tính đến yếu tố đặc thù thì cũng gây ra những hậu quả khôn lường. Việt Nam trong quá trình đổi mới tiếp tục giữ vững con đường đi lên chủ nghĩa xã hội, giữ vững vai trò lãnh đạo của Đảng Cộng sản, vận dụng và phát triển sáng tạo chủ nghĩa Mác - Lênin, những nguyên lý phổ biến của chủ nghĩa xã hội khoa học đã thu được nhiều thành quả to lớn, có ý nghĩa lịch sử đã giúp chúng ta củng cố niềm tin, khẳng định tính đúng đắn của con đường đi lên chủ nghĩa xã hội, khẳng định vai trò lãnh đạo của Đảng Cộng sản là nhân tố quyết định mọi thắng lợi của cách mạng Việt Nam, khẳng định giá trị khoa học, cách mạng và thực tiễn của những nguyên lý của chủ nghĩa Mác - Lênin trong thời đại ngày nay. Mặt khác, hiện nay, chủ nghĩa tư bản cũng đang lâm vào khủng hoảng ở hàng loạt nước: các cuộc khủng hoảng tài chính, nợ công ở nhiều nước tư bản; vấn đề chiến tranh, khủng bố, phân hóa giàu nghèo đã chứng minh những mâu thuẫn vốn có của CNTB là không thể khắc phục được, nó không thể là 146 “chế độ vĩnh hằng”, “chế độ cuối cùng trong lịch sử”, lịch sử phát triển của nhân loại nhất định sẽ đi tới xã hội xã hội chủ nghĩa và cộng sản chủ nghĩa tiến bộ hơn. Qua thực tiễn cải cách, đổi mới, nhiều vấn đề lý luận cũng dần được làm sáng tỏ và trở thành những vấn đề có tính phổ biến như: xây dựng nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa - nhà nước của nhân dân, do nhân dân và vì nhân dân dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản; vấn đề phát triển kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa với nhiều thành phần kinh tế, nhiều hình thức sở hữu, trong đó kinh tế Nhà nước giữ vai trò chủ đạo, kinh tế tư nhân là một động lực quan trọng trong nền kinh tế; vấn đề đảng viên được làm kinh tế tư nhân Những nhận thức mới này đã phát huy những tác dụng to lớn, đóng góp vào thành công của sự nghiệp cải cách, đổi mới thời gian qua. Đó cũng là minh chứng rõ nhất, phản bác lại những quan điểm sai trái, thù địch đòi thay đổi bản chất nhà nước; phủ nhận vai trò của kinh tế thị trường trong chủ nghĩa xã hội TIỂU KẾT CHƯƠNG 4 Việc nghiên cứu về tính phổ biến và tính đặc thù của CNXH trên thế giới hiện nay có ý nghĩa quan trọng đối với sự nghiệp xây dựng chủ nghĩa xã hội trên thế giới nói chung và sự nghiệp xây dựng CNXH ở Việt Nam nói riêng. Đối với sự nghiệp xây dựng CNXH trên thế giới: ý nghĩa lý luận của việc nghiên cứu về tính phổ biến và tính đặc thù chỉ ra rằng, trong quá trình xây dựng chủ nghĩa xã hội, các nước cần kết hợp giữa tính phổ biến và tính đặc thù để tìm ra con đường đúng đắn, phù hợp với từng quốc gia dân tộc, trong đó phải kiên định và vận dụng sáng tạo những nguyên lý phổ biến của chủ nghĩa Mác - Lênin vào điều kiện cụ thể của mỗi nước; bổ sung, “cập 147 nhật” những giá trị phổ biến mới, tiến bộ của nhân loại, làm phong phú thêm lý luận về chủ nghĩa xã hội và con đường đi lên chủ nghĩa xã hội trong điều kiện mới hiện nay; Trên cơ sở nghiên cứu về tính phổ biến và tính đặc thù của chủ nghĩa xã hội trên thế giới hiện nay, các nước xã hội chủ nghĩa có thể trao đổi, học tập, rút kinh nghiệm Về mặt thực tiễn, việc quán triệt và vận dụng những giá trị phổ biến và đặc thù trong nhận thức và xây dựng CNXH trên thế giới đã giúp sự nghiệp cải cách, đổi mới ở các nước XHCN thu được những thành tựu quan trọng có ý nghĩa lịch sử, điều đó càng củng cố niềm tin và thúc đẩy các nước XHCN tiếp tục đẩy mạnh công cuộc cải cách, đổi mới, đưa đất nước vững bước đi lên CNXH. Đồng thời, đấu tranh chống những quan điểm sai trái trong nhận thức và giải quyết mối quan hệ giữa tính phổ biến và tính đặc thù trên thế giới Đối với sự nghiệp xây dựng CNXH ở Việt Nam: việc nghiên cứu tính phổ biến và tính đặc thù của nhận thức mới về CNXH trên thế giới có ý nghĩa quan trọng đối với việc xây dựng mô hình và con đường đi lên CNXH, giúp chúng ta củng cố niềm tin, kiên định mục tiêu độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội; giữ vững những nguyên lý của chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, kết hợp với thực tiễn cách mạng Việt Nam và thế giới; kiên trì thực hiện đường lối, mục tiêu đổi mới toàn diện đất nước, tham khảo những kinh nghiệm hay, những nét sáng tạo, những khảo nghiệm thành công của các nước xã hội chủ nghĩa, các Đảng Cộng sản để từ đó bổ sung và phát triển lý luận về mô hình và con đường đi lên chủ nghĩa xã hội. Đồng thời, giúp Việt Nam đấu tranh phê phán những quan điểm sai trái, thù địch trong nhận thức và giải quyết mối quan hệ giữa tính phổ biến và tính đặc thù của chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam hiện nay. 148 KẾT LUẬN Trong quá trình cải cách, đổi mới, các nước như Trung Quốc, Việt Nam, Lào, Cuba đều kiên định mục tiêu, con đường đi lên chủ nghĩa xã hội. Tuy nhiên, các nước đã có những thay đổi quan trọng trong nhận thức về mô hình và con đường xây dựng xã hội mới, hình thành những nhận thức mới về chủ nghĩa xã hội Nhận thức mới về chủ nghĩa xã hội không phải là sự phủ nhận sạch trơn đối với những nhận thức trước cải cách, đổi mới là mà sự kế thừa, bổ sung và phát triển cho phù hợp với điều kiện mới, là kết quả của quá trình vận dụng và phát triển sáng tạo chủ nghĩa Mác - Lênin vào điều kiện cụ thể của mỗi nước, là sự tổng kết thực tiễn và phát triển lý luận đáp ứng yêu cầu, đòi hỏi của sự nghiệp cải cách, đổi mới đặt ra. Nhận thức mới về chủ nghĩa xã hội bao gồm những vấn đề có tính phổ biến được các đảng cộng sản ở các nước nhận thức, bổ sung, phát triển trên nền tảng của chủ nghĩa Mác - Lênin. Đó là, về vị trí, vai trò lãnh đạo của đảng cộng sản; xây dựng nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa của nhân dân, do nhân dân, vì nhân dân; mở rộng và phát huy dân chủ; về phát triển lực lượng sản xuất; về xây dựng quan hệ sản xuất mới xã hội chủ nghĩa trên cả 3 mặt sở hữu, tổ chức quản lý và phân phối; về xây dựng nền văn hóa kết tinh những giá trị của dân tộc và nhân loại và những quy luật phổ biến mới, được các đảng cộng sản rút ra trong quá trình cải cách, đổi mới như: phát triển kinh tế thị trường có sự quản lý của nhà nước xã hội chủ nghĩa; công nghiệp hóa, hiện đại hóa gắn với phát triển kinh tế tri thức Nhận thức mới về chủ nghĩa xã hội cũng bao gồm những vấn đề có tính đặc thù thể hiện sự tìm tòi, sáng tạo của các đảng cộng sản trong việc xác định con đường phát triển riêng, phù hợp với đặc điểm mỗi nước. Việc vận dụng những quy luật phổ biến và đặc thù trong quá trình cải cách, đổi mới đã giúp các nước xã hội chủ nghĩa vượt qua nhiều khó khăn, 149 thách thức, đạt được những thành tựu quan trọng có ý nghĩa lịch sử, nâng cao vị thế của đất nước, giữ vững ổn định chính trị, bảo đảm và phát huy quyền làm chủ của nhân dân, phát triển mạnh nền kinh tế, xây dựng nền văn hóa mới, con người mới; mở rộng quan hệ đối ngoại, kết hợp sức mạnh dân tộc và sức mạnh thời đại tạo tiền đề quan trọng cho đất nước bước vào một giai đoạn phát triển mới. Hiện nay, sự nghiệp cách mạng vĩ đại đang đặt ra những nhiệm vụ quan trọng đối với các nước xã hội chủ nghĩa, đòi hỏi mỗi nước phải tiếp tục đẩy mạnh công cuộc cải cách, đổi mới, đưa đất nước phát triển đất nước toàn diện, đồng bộ về chính trị, kinh tế, văn hóa, quốc phòng, đối ngoại Để đạt được điều đó, các nước xã hội chủ nghĩa, các đảng cộng sản tiếp tục đổi mới mạnh mẽ tư duy, vận dụng sáng tạo, phát triển chủ nghĩa Mác - Lênin vào thực tiễn đất nước; tăng cường tổng kết thực tiễn, trao đổi lý luận giữa các đảng cộng sản; bổ sung, phát triển nhận thức mới về chủ nghĩa xã hội. Đặc biệt, cần phải nắm vững bài học về kết hợp chặt chẽ giữa tính phổ biến và tính đặc thù trong nhận thức và xây dựng chủ nghĩa xã hội, phát huy trí tuệ của Đảng, sức mạnh của nhân dân, đưa đất nước vững bước đi lên chủ nghĩa xã hội. Đối với Việt Nam, những thành tựu quan trọng của 30 năm đổi mới giúp chúng ta giữ vững niềm tin, kiên định mục tiêu và con đường đi lên chủ nghĩa xã hội, kiên định sự nghiệp đổi mới toàn diện đất nước. Hiện nay, đất nước ta đang đứng trước những thời cơ đan xen với những khó khăn, thách thức, để hoàn thành nhiệm vụ cách mạng trong giai đoạn mới, về mặt lý luận phải nghiên cứu sâu sắc, toàn diện hơn về chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, vận dụng sáng tạo và phát triển chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh phù hợp với điều kiện đặc thù của dân tộc, mặt khác, phải tăng cường tổng kết thực tiễn, trao đổi kinh nghiệm với các đảng cộng sản, 150 hoàn thiện hơn lý luận về chủ nghĩa xã hội. Về mặt thực tiễn, cần tăng cường công tác xây dựng Đảng để Đảng ta ngày càng trong sạch, vững mạnh; xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa của nhân dân, do nhân dân, vì nhân dân; xây dựng nền dân chủ xã hội chủ nghĩa, thực hiện đại đoàn kết toàn dân tộc; đẩy mạnh công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước gắn với phát triển kinh tế tri thức; phát triển nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, xây dựng nền văn hoá tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc; xây dựng con người; bảo đảm vững chắc quốc phòng và an ninh quốc gia, trật tự, an toàn xã hội; thực hiện đường lối đối ngoại độc lập, tự chủ, hoà bình, hữu nghị, hợp tác và phát triển hướng tới xây dựng nước Việt Nam “dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh”. 151 DANH MỤC CÔNG TRÌNH ĐÃ CÔNG BỐ CỦA TÁC GIẢ LIÊN QUAN ĐẾN LUẬN ÁN 1. Vũ Thế Tùng (2015), "Chủ nghĩa xã hội dân chủ ở Bắc Âu - lý luận, thực tiễn và ý nghĩa đối với Việt Nam", Tạp chí Thông tin khoa học lý luận chính trị, 3(4), tr.35-41. 2. Nguyễn Quốc Phẩm, Vũ Thế Tùng (2015), "Bàn thêm về vận dụng lý luận mácxít về hình thái kinh tế - xã hội trong xây dựng chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam hiện nay", Tạp chí Lịch sử Đảng, (293), tr.44-46. 3. Nguyễn Quốc Phẩm, Vũ Thế Tùng (2015), "Quan niệm mới của các học giả Nga về chủ nghĩa xã hội", Tạp chí Tuyên giáo, (4), tr.19-22. 4. Vũ Thế Tùng (2015), "Những điểm tương đồng và khác biệt trong nhận thức về chủ nghĩa xã hội trên thế giới hiện nay", Kỷ yếu Hội thảo khoa học Nhận thức mới về chủ nghĩa xã hội Việt Nam - những vấn đề lý luận và thực tiễn, cơ quan chủ trì: Học viện Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh, tr.83-95. 5. Đỗ Thị Thạch, Vũ Thế Tùng (2015), "Giương cao ngọn cờ độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội trong thời kỳ kháng chiến chống Mỹ cứu nước", trong cuốn Đại thắng mùa xuân 1975 sức mạnh đoàn kết thống nhất non sông, cơ quan chủ trì: Học viện Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh, Nxb Lý luận chính trị, tr.16-25. 6. Vũ Thế Tùng, Trịnh Văn Hiệp (2016), "Một số quan điểm của Đảng về chủ nghĩa xã hội (1976-2011)", Tạp chí Lịch sử Đảng, (302), tr.61-66. 7. Vũ Thế Tùng (2016), "Quan điểm của các nước xã hội chủ nghĩa về phát triển kinh tế thị trường", Tạp chí Lý luận chính trị điện tử, (12). 152 DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO 1. A. M. Ru-mi-an-txép (1986), Chủ nghĩa cộng sản khoa học Từ điển, Nxb Sự thật, Hà Nội. 2. Admi Valhuerdi Cepero (2013), “Đại hội VI Đảng Cộng sản Cuba và công cuộc cập nhật hóa mô hình kinh tế Cuba”, Đảng Cộng sản lãnh đạo quá trình đổi mới ở Việt Nam cập nhật mô hình phát triển kinh tế - xã hội tại Cuba - Một số vấn đề lý luận và thực tiễn, Nxb Chính trị quốc gia - Sự thật, Hà Nội, tr.166-178. 3. Trần Thị Phúc An (2014), Tư tưởng Hồ Chí Minh về con đường đi lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội. 4. Nguyễn Đức Bách (2005), "Một số vấn đề lý luận về mục tiêu - con đường đi lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam cần được làm rõ hơn", Nhìn lại quá trình đổi mới tư duy lý luận của Đảng 1986 - 2005, Nxb Lý luận Chính trị, Hà Nội, tập 1, tr.154-172. 5. Hoàng Chí Bảo (chủ biên) (2010), Bản chất khoa học và cách mạng của chủ nghĩa Mác - Lênin, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội. 6. Hoàng Chí Bảo (2012), Chủ nghĩa xã hội hiện thực và quá độ lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội. 7. Hoàng Chí Bảo (2012), Giá trị bền vững và sức sống của chủ nghĩa Mác - Lênin và chủ nghĩa xã hội khoa học, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội. 8. Nguyễn Đức Bình (chủ biên) (2003), Về chủ nghĩa xã hội và con đường đi lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam, Nxb Chính trị quốc gia, Hà nội. 9. Nguyễn Đức Bình (chủ nhiệm) (2006), Về chủ nghĩa xã hội và con đường đi lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam, Tổng quan đề tài KX 01-01, Hà Nội. 10. Nguyễn Đức Bình (2010), Vững bước trên con đường xã hội chủ nghĩa, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội. 153 11. Bosẻngkhăm Vôngđala (2013), “Một số điểm nổi bật về đổi mới văn hóa - xã hội tại nước Cộng hòa Dân chủ Nhân dân Lào”, Hội động Lý luận Trung ương, Một số vấn đề lý luận và thực tiễn chủ yếu trong quá trình đẩy mạnh công cuộc đổi mới ở Việt Nam và Lào, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội. 12. Chalơn Diapaohơ (2013), “Củng cố quyền lực Nhà nước ở Cộng hòa Dân chủ Nhân dân Lào”, Hội động Lý luận Trung ương, Một số vấn đề lý luận và thực tiễn chủ yếu trong quá trình đẩy mạnh công cuộc đổi mới ở Việt Nam và Lào, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội. 13. Nguyễn Trọng Chuẩn, Hồ Sĩ Quý và Phạm Văn Đức (1997), Những quan điểm của C.Mác, Ph.Ăngghen, V.I.Lênin về chủ nghĩa xã hội và thời kỳ quá độ, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội. 14. Chương Xổm Bun Khẳn (2013) “Tiếp tục đổi mới là sự nghiệp, nhiệm vụ và trách nhiệm cao cả của Đảng Nhân dân Cách mạng Lào”, Hội động Lý luận Trung ương, Một số vấn đề lý luận và thực tiễn chủ yếu trong quá trình đẩy mạnh công cuộc đổi mới ở Việt Nam và Lào, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội. 15. Phạm Đình Đảng (2000), Tính thống nhất và tính đa dạng của chủ nghĩa xã hội với sự nghiệp xây dựng chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam, Luận án tiến sĩ Triết học, Học viện Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh, Hà Nội. 16. Đảng Cộng sản Cuba (1997), Điều lệ Đảng Cộng sản Cuba (được sửa đổi và thông qua tại Đại hội V, tháng 10/1997), Bản dịch của Ban Đối ngoại Trung ương. 17. Đảng Cộng sản Cuba (2011), Nghị quyết về định hướng chính sách kinh tế, xã hội của Đảng và Cách mạng, Đại hội VI Đảng Cộng sản Cuba, bản dịch của Ban Đối ngoại Trung ương. 18. Đảng Cộng sản Trung Quốc (1998), Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XV Đảng Cộng sản Trung Quốc, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội. 154 19. Đảng Cộng sản Trung Quốc (2003), Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XVI Đảng Cộng sản Trung Quốc, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội. 20. Đảng Cộng sản Trung Quốc (2013), Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XVIII Đảng Cộng sản Trung Quốc, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội. 21. Đảng Cộng sản Việt Nam (1994), Văn kiện Hội nghị toàn quốc giữa nhiệm kỳ khóa VII, Hà Nội. 22. Đảng Cộng sản Việt Nam (2001), Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ IX, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội. 23. Đảng Cộng sản Việt Nam (2005), Văn kiện thời kỳ đổi mới (Đại hội VI, VII, VIII, IX), Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội. 24. Đảng Cộng sản Việt Nam (2006), Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ X, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội 25. Đảng Cộng sản Việt Nam (2011), Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XI, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội. 26. Đảng Cộng sản Việt Nam (2016), Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XII, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội. 27. Đảng Cộng sản và Công nhân các nước xã hội chủ nghĩa (1958), Cương lĩnh của chúng ta, Nxb Sự thật, Hà Nội. 28. Đảng Nhân dân Cách mạng Lào (1996), Báo cáo chính trị của Ban Chấp hành Trung ương Đảng Nhân dân Cách mạng Lào tại Đại hội lần thứ VI, Bản dịch của Ban Đối ngoại Trung ương, Hà Nội. 29. Đảng Nhân dân Cách mạng Lào (2001), Báo cáo chính trị của Ban Chấp hành Trung ương tại Đại hội VII Đảng Nhân dân Cách mạng Lào, Bản dịch của Ban Đối ngoại Trung ương, Hà Nội. 30. Đảng Nhân dân Cách mạng Lào (2011), Báo cáo chính trị của Ban Chấp hành Trung ương Đảng Nhân dân cách mạng Lào khóa VIII tại Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ IX của Đảng, bản dịch của Ban Đối ngoại Trung ương. 155 31. Đảng Nhân dân Cách mạng Lào (2011), Nghị quyết Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ IX, Bản dịch của Ban Đối ngoại Trung ương. 32. Nguyễn Hữu Đổng, Phạm Thế Lực (đồng chủ biên) (2013), Tính phổ biến và đặc thù của con đường đi lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội. 33. Gennady Zyuganov (2016), "Nhân loại hướng tới chủ nghĩa xã hội - một xu hướng không thể cưỡng lại", Tạp chí Lý luận Chính trị, (2), tr.3-12. 34. Vương Ngọc Giác (2015), “Tư duy chiến lược “bốn toàn diện”: phát triển mới của hệ thống lý luận chủ nghĩa xã hội đặc sắc Trung Quốc”, Thông tin những vấn đề lý luận, (12), tr.32-43. 35. Nguyễn Thanh Giang (2015), "Công báo thống kê tình hình phát triển kinh tế và xã hội quốc dân nước Cộng hòa Nhân dân Trung Hoa năm 2014, Nghiên cứu Trung Quốc, (7), tr.83-87. 36. Nguyễn Thanh Giang (2015), "Công báo thống kê tình hình phát triển kinh tế và xã hội quốc dân nước Cộng hòa Nhân dân Trung Hoa năm 2014", Nghiên cứu Trung Quốc, (8), tr.85-88. 37. Vũ Văn Hiền (2014), Việt Nam và thế giới đương đại, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội. 38. Nguyễn Thị Thu Hiền, Võ Thị Minh Lệ (2015), “Kinh tế Trung Quốc năm 2014 và triển vọng 2015”, Nghiên cứu Trung Quốc, 4 (164), tr.12-19. 39. Dương Phú Hiệp (chủ biên) (2001), Tiến lên chủ nghĩa xã hội bỏ qua chế độ tư bản chủ nghĩa ở Việt Nam, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội. 40. Trương Duy Hòa (2012), Một số vấn đề và xu hướng chính trị - kinh tế của Cộng hòa Dân chủ Nhân dân Lào trong hai thập niên đầu thế kỷ XXI, Nxb Khoa học xã hội, Hà Nội. 41. Hội đồng Lý luận Trung ương (2013), Đảng Cộng sản lãnh đạo quá trình đổi mới ở Việt Nam, cập nhật hóa mô hình phát triển kinh tế - xã hội tại Cuba Một số vấn đề lý luận và thực tiễn, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội. 156 42. Hội đồng quốc gia chỉ đạo biên soạn từ điển Bách Khoa Việt Nam (1995), Từ điển Bách Khoa Việt Nam 1, Trung tâm biên soạn Từ điển Bách Khoa, Hà Nội. 43. Hội đồng Trung ương chỉ đạo biên soạn giáo trình quốc gia các môn khoa học Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh (1999), Giáo trình triết học Mác - Lênin, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội. 44. Nguyễn Văn Huyên (2011), "Mô hình phát triển xã hội ở Việt Nam trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội", Tạp chí Lý luận chính trị, (8). 45. Nguyễn Văn Huyên (2012), Giải phóng, đổi mới phát triển vì chủ nghĩa xã hội, Nxb Chính trị quốc gia - Sự thật, Hà Nội. 46. Đinh Thế Huynh và các cộng sự (2015), 30 năm đổi mới và phát triển ở Việt Nam, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội. 47. Trương Lôi Khắc, Tự Lập Bình (1997), Lịch sử, hiện trạng, tương lai chủ nghĩa xã hội”. Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội. 48. Lưu Ngọc Khải (2013), "Về tính phổ biến và tính đặc thù trong đổi mới chủ nghĩa xã hội hiện nay", Tạp chí Triết học, (1). 49. Không rõ tên (1986), Từ điển triết học, Nxb Tiến bộ Matxcơva. 50. Không rõ tên (2012), Những thành tựu giáo dục và y tế nổi bật ở Cuba, tại trang [truy cập ngày 20/10/2015]. 51. Bùi Thị Ngọc Lan (2015), "Chủ nghĩa xã hội thế kỷ XXI ở khu vực Mỹ Latinh - thực trạng và triển vọng", Thông tin khoa học Lý luận chính trị, tr.48-52. 52. V.I.Lênin (1978), Toàn tập, tập 4, Nxb Tiến bộ Matxcơva. 53. V.I.Lênin (1981), Toàn tập, tập 30, Nxb Tiến bộ Matxcơva. 54. V.I.Lênin (1978), Toàn tập, tập 36, Nxb Tiến bộ Matxcơva. 55. V.I.Lênin (1978), Toàn tập, tập 37, Nxb Tiến bộ Matxcơva. 56. V.I.Lênin (1979), Toàn tập, tập 39, Nxb Tiến bộ Matxcơva. 57. V.I.Lênin (1978), Toàn tập, tập 41, Nxb Tiến bộ Matxcơva. 157 58. Trang Phúc Linh (chủ biên) (2004), Lịch sử chủ nghĩa Mác, tập 4, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội. 59. Nguyễn Ngọc Long (chủ biên) (2009), Chủ nghĩa Mác - Lênin với vận mệnh và tương lai của chủ nghĩa xã hội hiện thực, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội. 60. Phạm Quý Long (2009), Cộng hòa Dân chủ Nhân dân Triều Tiên trong thập niên đầu thế kỷ XXI, Nxb Từ điển Bách Khoa, Hà Nội. 61. C.Mác và Ph.Ăngghen (1995), Toàn tập, tập 3, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội. 62. C.Mác và Ph.Ăngghen (2002), Toàn tập, tập 4, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội. 63. C.Mác và Ph.Ăngghen (1995), Toàn tập, tập 18, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội. 64. C.Mác và Ph.Ăngghen (1995), Toàn tập, tập 19, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội. 65. Maria De Jesús Calderius Fernández (2013), “Vai trò lãnh đạo và kiểm tra của Đảng đối với Nhà nước và khu vực kinh tế ngoài quốc doanh”, Đảng Cộng sản lãnh đạo quá trình đổi mới ở Việt Nam cập nhật mô hình phát triển kinh tế - xã hội tại Cuba - Một số vấn đề lý luận và thực tiễn, Nxb Chính trị quốc gia - Sự thật, Hà Nội, tr.207-218. 66. Hồ Chí Minh (1995), Toàn tập, tập 1, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội. 67. Hồ Chí Minh (1995), Biên niên tiểu sử, tập 5, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội. 68. Hồ Chí Minh (1996), Toàn tập, tập 8, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội. 69. Vũ Trung Mỹ (2016), “Đại hội VII Đảng Cộng sản Cuba: tiếp tục hướng tới mục tiêu xây dựng chủ nghĩa xã hội thịnh vượng và bền vững”, Tạp chí Cộng sản, (883). 70. Nguyễn Thị Ngân (2011), “Quan điểm của C.Mác về chủ nghĩa xã hội và nhận thức của Đảng ta về con đường đi lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam”, Tạp chí Tuyên Giáo, (5). 158 71. Lê Hữu Nghĩa và các cộng sự (2013), Xây dựng đảng cầm quyền trong quá trình phát triển kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam và nền kinh tế hàng hóa theo cơ chế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa ở Lào, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội. 72. Nguyễn An Ninh (chủ biên) (2006), Về triển vọng chủ nghĩa xã hội trong hai thập niên đầu thế kỷ XXI, Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội. 73. Nguyễn An Ninh (2010), Những nhân tố mới tác động đến triển vọng của chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội. 74. Nguyễn An Ninh (2012), Về mô hình “chủ nghĩa xã hội thế kỷ XXI” của khu vực Mỹ la tinh hiện nay, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội. 75. Nguyễn An Ninh (2015), “Tính phổ biến và đặc thù của các mô hình và con đường đi lên chủ nghĩa xã hội hiện nay”, Tạp chí Thông tin Lý luận chính trị, (3), tr.10-17. 76. Nguyễn An Ninh, Nguyễn Văn Quyết (2015), “Chủ nghĩa xã hội đặc sắc Trung Quốc”, Tạp chí Thông tin Lý luận chính trị, (3), tr.42-47. 77. Nguyễn Văn Oánh (1996), “Về khái niệm định hướng xã hội chủ nghĩa”, Tạp chí Cộng sản, (4), tr.16-19. 78. Nguyễn Văn Oánh (1996), “Về con đường đi lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam”, Tạp chí Công tác tư tưởng - văn hóa, (5). 79. Nguyễn Văn Oánh (2015), Chủ nghĩa xã hội - Lịch sử và hiện đại. Ý nghĩa đối với Việt Nam, Hội thảo khoa học Nhận thức mới về chủ nghĩa xã hội Việt Nam những vấn đề lý luận và thực tiễn, Học viện Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh, Hà Nội, tr.1-9. 80. Nguyễn Quốc Phẩm (2006), “Đại hội X tiếp tục làm sáng tỏ con đường đi lên chủ nghĩa xã hội ở nước ta”, Tạp chí Lý luận chính trị, (5). 81. Nguyễn Quốc Phẩm, Đỗ Thị Thạch (2012), Nhận thức mới về chủ nghĩa xã hội và xây dựng chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội. 159 82. Nguyễn Quốc Phẩm, Nguyễn Chí Dũng (2015), Những vấn đề cấp bách trong vận dụng, phát triển lý luận về hình thái kinh tế - xã hội ở Việt Nam hiện nay, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội. 83. Hoàng Phê (1994), Từ điển Tiếng Việt, Nxb Khoa học xã hội, Hà Nội. 84. Nguyễn Trọng Phúc (2007), Đổi mới ở Việt Nam thực tiễn và nhận thức lý luận, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội. 85. Nguyễn Duy Quý (chủ biên) (1998), Những vấn đề lý luận về chủ nghĩa xã hội và con đường đi lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội. 86. Roberto Montesino Perez (2014), “Cập nhật hóa mô hình kinh tế - xã hội và tăng cường công tác tư tưởng của Đảng Cộng sản Cuba”, Tạp chí Lý luận và thực tiễn. 87. Rosario Pentón Diaz (2013), “Về vai trò của Đảng Cộng sản Cuba trong cuộc cập nhật mô hình xã hội chủ nghĩa Cuba quá trình lịch sử”. Đảng Cộng sản lãnh đạo quá trình đổi mới ở Việt Nam cập nhật mô hình phát triển kinh tế - xã hội tại Cuba - Một số vấn đề lý luận và thực tiễn. Nxb Chính trị quốc gia - Sự thật, Hà Nội, tr.67-77. 88. Tô Huy Rứa (2010), Bổ sung, phát triển Cương lĩnh năm 1991 của Đảng - Cơ sở lý luận và thực tiễn, Đề tài KX.04.01/06-10, Cơ quan chủ trì: Hội đồng Lý luận Trung ương. 89. Salvador Valdés Mesa (2014), “Hoàn thiện chủ nghĩa xã hội, con đường duy nhất để củng cố vững chắc nền độc lập, tự do, phát triển, phúc lợi, sự công bằng và công lý xã hội”, Tạp chí Lý luận và thực tiễn, (16). 90. Đỗ Tiến Sâm (chủ biên) (2008), Trung Quốc với việc xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa, Nxb Khoa học xã hội, Hà Nội. 91. Đỗ Tiến Sâm (2009), “Chủ nghĩa xã hội đặc sắc Trung Quốc - quá trình hình thành và phát triển”, Tạp chí Nghiên cứu Trung Quốc, (12). 160 92. Sinlavông Khutphaithun (2013), “Các yếu tố chủ yếu đảm bảo sự thành công của việc đổi mới kinh tế”, Hội đồng Lý luận Trung ương, Một số vấn đề lý luận và thực tiễn chủ yếu trong quá trình đẩy mạnh công cuộc đổi mới ở Việt Nam và Lào, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội. 93. Trần Lập Tân, Trần Tuyết Cường (1997), “Ba phát triển trọng đại về lý luận giai đoạn đầu của chủ nghĩa xã hội”, Tạp chí Lý luận và cải cách. 94. Tạ Ngọc Tấn (chỉ đạo biên soạn) (2013), Những tranh luận mới của các học giả Nga về chủ nghĩa xã hội, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội. 95. Tạ Ngọc Tấn (chủ biên) (2015), Chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam - những vấn đề lý luận từ công cuộc đổi mới, Nxb Lý luận chính trị, Hà Nội. 96. Đỗ Thị Thạch (2011), “Mô hình (đặc trưng) chủ nghĩa xã hội trong Cương lĩnh xây dựng đất nước thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội (bổ sung, phát triển năm 2011)”, Tạp chí Khoa học chính trị, (2). 97. Trần Thành (2013), Chủ nghĩa xã hội Việt Nam - những quan điểm lý luận cơ bản, Nxb Chính trị quốc gia - Sự thật, Hà Nội. 98. The World Bank (2015), tại trang [truy cập ngày 12/8/2015]. 99. The World Bank (2015), tại trang [truy cập ngày 12/8/2015]. 100. The World Bank (2015), tại trang /indicator/NY.GDP.MKTP.CD, [truy cập ngày 10/9/2015]. 101. Thông tấn xã Việt Nam (2013), "Về quá trình cải cách và mở cửa ở Cuba", Tin tham khảo chủ nhật, ngày 12/1/2013. 102. Trịnh Quốc Tuấn, Nguyễn Khánh Bật (đồng chủ biên) (1998), Hồ Chí Minh về chủ nghĩa Mác - Lênin, chủ nghĩa xã hội và con đường đi lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội. 103. Trịnh Quốc Tuấn (Chủ nhiệm) (2001), Về chủ nghĩa xã hội mang đặc sắc Trung Quốc - những vấn đề có thể tham khảo cho công cuộc đổi mới ở nước ta. Kỷ yếu đề tài khoa học cấp Bộ. 161 104. Trịnh Quốc Tuấn (2008), Một số vấn đề về con đường đi lên chủ nghĩa xã hội ở nước ta, Nxb Lý luận chính trị, Hà Nội. 105. Đinh Công Tuấn (2011), Mô hình phát triển Bắc Âu, Nxb Từ điển Bách khoa, Hà Nội. 106. Đào Duy Tùng (1994), Quá trình hình thành con đường đi lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội. 107. Đổng Liên Tường (2010), Cải cách xã hội Trung Quốc và những sáng tạo, đổi mới trong xây dựng Đảng cơ sở, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội. 108. Văn kiện Hội nghị các Đảng Cộng sản và công nhân quốc tế tại Mátxcơva (1961), Nxb Sự thật, Hà Nội. 109. Văn tuyển Đặng Tiểu Bình (1995), quyển 3, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội. 110. Chu Thượng Văn, Chu Cẩm Uy và Trần Tích Hỷ (1999), Chủ nghĩa xã hội là gì? Xây dựng chủ nghĩa xã hội như thế nào? 111. Xỉlửa BunKhăm (2004), Xây dựng và phát triển nền văn hóa thẩm mỹ ở Cộng hòa Dân chủ Nhân dân Lào, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội. 112. Nguyễn Như Ý (chủ biên) (1998), Đại từ điển Tiếng Việt, Nxb Văn hóa - Thông tin, Hà Nội.

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • pdfluan_an_tinh_pho_bien_va_tinh_dac_thu_cua_nhan_thuc_moi_ve_c.pdf
  • pdfTrang thong tin Vu The Tung.pdf
  • pdfTT _ Vu The Tung - Anh _nop QD.pdf
  • pdfTT _ Vu The Tung _nop QD.pdf
Tài liệu liên quan