1
LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan luận án tiến sĩ Tính hiện đại trong kịch nói Việt
Nam về đề tài lịch sử là công trình nghiên cứu của riêng tôi. Các trích dẫn và
kết quả nêu trong luận án là trung thực và có xuất xứ rõ ràng.
Hà Nội, ngày 28 tháng 2 năm 2016
Tác giả luận án
Phạm Thị Hà
2
MỤC LỤC
LỜI CAM ĐOAN ......................................................................................................1
DANH MỤC TỪ VIẾT TẮT TRONG LUẬN ÁN..............................
149 trang |
Chia sẻ: huong20 | Ngày: 14/01/2022 | Lượt xem: 488 | Lượt tải: 0
Tóm tắt tài liệu Luận án Tính hiện đại trong kịch nói Việt Nam về Đề tài lịch sử, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
...................3
PHẦN MỞ ĐẦU ........................................................................................................4
Chương 1: KHÁI NIỆM TÍNH HIỆN ĐẠI TRONG NGHỆ THUẬT
SÂN KHẤU VÀ KỊCH NÓI ĐỀ TÀI LỊCH SỬ
1.1. Tính hiện đại trong nghệ thuật sân khấu qua nghiên cứu của các học giả .....11
1.2. Khái niệm tính hiện đại trong nghệ thuật sân khấu........................................26
1.3. Khái niệm về sân khấu đề tài lịch sử..............................................................28
1.4. Tính hiện đại trong kịch nói về đề tài lịch sử.................................................31
Tiểu kết ..................................................................................................................34
Chương 2: TÍNH HIỆN ĐẠI TRONG CÁCH TIẾP CẬN,
TÁI HIỆN SỰ KIỆN LỊCH SỬ.........................................................36
2.1. Tổ chức lại sự kiện, hình thành diện mạo lịch sử mới trong tác phẩm ..........36
2.2. Phát hiện và phát triển ý nghĩa của sự kiện lịch sử ........................................52
2.3. Nhận thức lại sự kiện lịch sử ..........................................................................60
2.4. Hư cấu hợp lý sự kiện lịch sử.........................................................................75
Tiểu kết ................................................................................................................282
Chương 3: TÍNH HIỆN ĐẠI TRONG CÁCH TIẾP CẬN,
SÁNG TẠO NHÂN VẬT LỊCH SỬ...................................................84
3.1. Hiện thực hóa nhân vật lịch sử .......................................................................84
3.2. Đánh giá lại nhân vật lịch sử ..........................................................................97
3.3. Hiện thực hóa ngôn ngữ nhân vật lịch sử.....................................................107
3.4. Hư cấu nhân vật không có trong lịch sử.......................................................118
Tiểu kết ................................................................................................................128
KẾT LUẬN ............................................................................................................129
DANH MỤC CÁC CÔNG TRÌNH NGHIÊN CỨU CỦA TÁC GIẢ...............138
TÀI LIỆU THAM KHẢO ....................................................................................139
PHỤ LỤCP... .........................................................................................................145
3
DANH MỤC TỪ VIẾT TẮT TRONG LUẬN ÁN
TT Viết tắt Viết đầy đủ
1 CLB Câu lạc bộ
GS Giáo sư
2 GS.TS Giáo sư, Tiến sĩ
HCV Huy chương Vàng
HCB Huy chương Bạc
3 NCS Nghiên cứu sinh
4 Nxb Nhà xuất bản
5 PGS Phó Giáo sư
6 PGS.TS Phó Giáo sư, Tiến sĩ
SK Sân khấu
7 tr Trang
TS Tiến sĩ
8 VHNT Văn học nghệ thuật
4
PHẦN MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài
Làm sống lại những nhân vật, sự kiện và câu chuyện trong lịch sử luôn
là nguồn cảm hứng của sáng tạo văn học nghệ thuật ở nhiều quốc gia, dân tộc
trên toàn thế giới, bởi con người dù ở thời đại nào cũng đều mong muốn tìm
đến với cội nguồn của mình, muốn đi tìm câu trả lời cho những bí ẩn và
những tồn nghi quá khứ. Hơn thế nữa, lịch sử còn là điểm tựa văn hóa, là lòng
tự hào, tự tôn dân tộc, giúp con người hiểu cha ông và hiểu chính mình.
Đề tài lịch sử đã và luôn có sức hấp dẫn với những thế mạnh của riêng
nó, thông qua tác phẩm nghệ thuật, lịch sử không được tái hiện vì bản thân nó
mà bao giờ cũng hướng tới đời sống đương đại. Nói cách khác, sự trở về của
những nhân vật, sự kiện, câu chuyện lịch sử qua lăng kính sáng tạo của người
nghệ sĩ đương thời đã làm nên tính hiện đại cho tác phẩm. Tính hiện đại chính
là mối dây liên hệ giữa tác phẩm văn học nghệ thuật với đời sống đương đại,
là sự thẩm định sức sống của mỗi tác phẩm cùng với thời gian. Tính hiện đại
làm nên giá trị của tác phẩm sân khấu về đề tài lịch sử, đưa những vấn đề
được phản ánh trong tác phẩm vươn tới được tầm nhìn lịch sử, không tách
bạch sự kiện lịch sử của một thời với sự vận động liên tục của cả tiến trình
lịch sử. Khi đó, lịch sử trong tác phẩm không còn đơn thuần là sự chuyển dịch
từ con số và những sự kiện được liệt kê trong sử sách sang ngôn ngữ của hình
ảnh, của hình tượng nhân vật, mà là hành trình tiếp tục chặng đường mà các
sử gia dừng lại để có thể tìm tòi, tiên nghiệm một sự thật còn hơn cả sự thật
được ghi trong sử sách, đó là sự thật theo lòng người, theo lẽ đời mà con
người ở mọi thời đại khác nhau đều có thể đồng cảm, sẻ chia.
Trong lịch sử hình thành và phát triển của mình, kịch nói Việt Nam đã
có những vở diễn về đề tài lịch sử để lại những dấu ấn đậm nét như Vũ Như
Tô, Nguyễn Trãi ở Đông Quan, Rừng trúc, Đêm trắng, Lịch sử và nhân
5
chứng, Bài ca Điện Biên Song, so với bề dầy lịch sử hào hùng của dân tộc
thì đó vẫn là một số lượng khiêm tốn. Kịch nói Việt Nam về đề tài lịch sử
phần lớn thiếu sức hấp dẫn, thường rơi vào một trong hai tình trạng: Hoặc lệ
thuộc lịch sử đến mức trở thành mô phỏng lịch sử; hoặc áp đặt thô bạo cách
nghĩ, cách tư duy của con người hiện đại lên lịch sử, biến hiện thực lịch sử trở
nên méo mó, khó chấp nhận.
Sáng tạo của sân khấu về đề tài lịch sử thực chất là hiện thực hóa nhu
cầu khám phá quá khứ bằng quan điểm, cách nghĩ của con người đương thời,
qua đó, tạo một sự kết nối tinh tế giữa những vấn đề của lịch sử với hiện thực
đương đại. Trong quá trình khám phá và tái tạo quá khứ ấy, người sáng tạo
hiển nhiên sẽ mang theo bản ngã, nhận thức, trình độ, nhân sinh quan và thế
giới quan của mình. Dù muốn dù không, thì tinh thần thời đại vẫn sẽ ùa vào
tác phẩm, nó chi phối người sáng tạo một cách vừa có ý thức, vừa vô thức.
Dấu ấn của con người hiện đại, của tinh thần thời đại được thể hiện rõ
nhất trong tác phẩm sân khấu về đề tài lịch sử ở việc tiếp cận, lý giải sự kiện
lịch sử và sáng tạo nhân vật lịch sử của người nghệ sĩ. Nếu các tác giả thiếu
nhạy cảm, lựa chọn những sự kiện lịch sử không còn giá trị với đời sống
đương thời hoặc không phát hiện ra giá trị tiềm ẩn của sự kiện lịch sử sẽ dẫn
đến việc minh họa lịch sử, tái hiện lịch sử một cách khô khan, giáo điều. Nếu
các tác giả không nắm vững kiến thức lịch sử, quá nôn nóng với việc bày tỏ,
gửi gắm quan điểm và thông điệp cho hiện tại sẽ dẫn đến tình trạng bóp méo
lịch sử, mượn xưa nói nay một cách khiên cưỡng.
Trên thực tế, mỗi tác giả khi tìm đến đề tài lịch sử hoặc do chính sự
thôi thúc của hiện thực thời đại mình, hoặc chính lịch sử đã gợi mở những
liên tưởng nào đó đến vấn đề của ngày hôm nay. Và dù tác giả có dụng ý hay
không, bao giờ họ cũng “làm mới” lịch sử bởi chính tầm nhìn, nhận thức của
mình về lịch sử. Sự hiện diện của tính hiện đại trong tác phẩm kịch nói Việt
6
Nam về đề tài lịch sử không nằm ngoài xu thế khám phá quá khứ và nhận
thức hiện tại của con người. Khi đã đưa những vấn đề của lịch sử trở về với
đương thời, hiển nhiên người sáng tạo sẽ làm mới nó bằng nhận thức, quan
điểm, cách nghĩ hôm nay. Tính hiện đại sẽ hiện diện trong tác phẩm một cách
hiển nhiên mà không người nghệ sĩ sáng tạo nào có thể phủ nhận hay đi
ngược lại xu thế đó. Bên cạnh việc mang lại sức hấp dẫn cho tác phẩm, tính
hiện đại cũng có thể ảnh hưởng đến tính chân thực lịch sử trong sáng tác kịch
nói đề tài lịch sử. Tuy nhiên, vấn đề này chưa từng được nghiên cứu một cách
có hệ thống ở một công trình khoa học nào. Đó là lý do NCS lựa chọn đề tài
Tính hiện đại trong kịch nói Việt Nam về đề tài lịch sử.
2. Mục đích nghiên cứu
2.1. Mục đích tổng quát
Thông qua việc nghiên cứu tính hiện đại trong các kịch bản kịch nói
Việt Nam về đề tài lịch sử, tác giả luận án muốn góp phần giải quyết những
vấn đề lý luận về sáng tác kịch bản sân khấu kịch nói đề tài lịch sử.
2.2. Mục tiêu cụ thể
- Nghiên cứu tính hiện đại trong cách tiếp cận, lý giải sự kiện lịch sử
được phản ánh trong tác phẩm sân khấu kịch; đánh giá những thành công và
hạn chế, bước đầu rút ra bài học kinh nghiệm trong việc lựa chọn những sự
kiện lịch sử và cách thức thể hiện nó trên sân khấu kịch hôm nay.
- Nghiên cứu tính hiện đại trong cách tiếp cận, sáng tạo nhân vật lịch sử
trong tác phẩm sân khấu kịch; đánh giá những thành công và hạn chế, đề xuất
giải pháp nhằm xây dựng những nhân vật lịch sử tích hợp được sự thật quá
khứ và hơi thở cuộc sống hôm nay trong tác phẩm kịch nói Việt Nam về đề
tài lịch sử.
7
3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
3.1. Đối tượng nghiên cứu
Luận án nghiên cứu tính hiện đại trong tác phẩm kịch nói Việt Nam về
đề tài lịch sử, tập trung ở các kịch bản viết về các triều đại phong kiến Việt
Nam.
Bên cạnh đó, luận án có bàn tới một số vở diễn sân khấu thuộc đối
tượng nghiên cứu trên mà NCS đã có điều kiện xem trực tiếp, nhằm chứng
minh hay làm sáng tỏ hơn một số luận điểm của luận án.
3.2. Phạm vi nghiên cứu
Luận án tập trung khảo sát, nghiên cứu tính hiện đại trong các tác phẩm
sân khấu về đề tài lịch sử, thuộc thể loại kịch nói. Các tác phẩm về đề tài lịch
sử ở thể loại kịch thơ, kịch hát không thuộc phạm vi nghiên cứu của luận án
này.
Trong số các tác phẩm kịch nói Việt Nam về đề tài lịch sử, NCS chỉ tập
trung khảo sát, nghiên cứu các kịch bản viết về các triều đại phong kiến Việt
Nam, cụ thể là 11 kịch bản sau:
- Vũ Như Tô của tác giả Nguyễn Huy Tưởng;
- Nguyễn Trãi ở Đông Quan của tác giả Nguyễn Đình Thi;
- Rừng trúc của tác giả Nguyễn Đình Thi;
- Ngọc Hân công chúa của tác giả Lưu Quang Vũ;
- Hoàng hậu của hai vua của tác giả Lê Duy Hạnh;
- Độc thoại đêm của tác giả Lê Duy Hạnh;
- Cột trụ chống trời của tác giả Nguyễn Anh Biên;
- Mệnh đế vương của tác giả Hùng Tấn;
- Đời luận anh hùng của tác giả Lê Chí Trung;
- Mỹ nhân và anh hùng của tác giả Chu Thơm;
- Ngàn năm tình sử của tác giả Nguyễn Quang Lập.
8
Đây là những kịch bản đã được dàn dựng và biểu diễn, một số vở đã
được giải trong các kỳ liên hoan, hội thi, hội diễn sân khấu chuyên nghiệp
toàn quốc, là những tác phẩm sân khấu thu hút được sự quan tâm của giới
chuyên môn vì đặt ra nhiều vấn đề đáng được nghiên cứu xung quanh việc
sáng tác và biểu diễn về đề tài lịch sử.
4. Phương pháp luận và phương pháp nghiên cứu
4.1. Phương pháp luận
Luận án nghiên cứu về tính hiện đại trong kịch nói Việt Nam về đề tài
lịch sử. NCS nhận thức được rằng, tính hiện đại không phải là một khái niệm
“đông cứng”, mà là một khái niệm có tính lịch sử, có vận động và không
ngừng tiếp nhận vào mình những thành quả của nhân loại trong tiến trình phát
triển; tính hiện đại cũng không phải là một hằng số, hay là mẫu số chung bất
biến, mà có sự biến đổi qua các thời kỳ, tùy thuộc vào các quan niệm, các yêu
cầu khác nhau của các trào lưu hay quan điểm tư tưởng, nghệ thuật khác
nhau. Vì vậy, luận án cần vận dụng phương pháp luận của chủ nghĩa duy vật
biện chứng, với hệ thống quan điểm của chủ nghĩa duy vật lịch sử trong quá
trình tiếp cận, nghiên cứu.
Trên cơ sở các quan điểm và phương pháp luận khoa học trên của triết
học Mác - Lênin, luận án sẽ luận giải về tính hiện đại trong tác phẩm kịch nói
Việt Nam về đề tài lịch sử được thể hiện trong cách tiếp cận, lý giải sự kiện
lịch sử và cách tiếp cận, sáng tạo nhân vật lịch sử. Tiếp cận, lý giải tính hiện
đại trong sự vận động, phát triển của kịch nói đề tài lịch sử và mối quan hệ
của tính hiện đại với sự thật lịch sử và chân thực nghệ thuật.
4.2. Phương pháp tiếp cận
Đề tài luận án Tính hiện đại trong kịch nói Việt Nam về đề tài lịch sử
đòi hỏi sự tiếp cận từ ba thành tố: Tính hiện đại - Kịch nói Việt Nam - đề tài
lịch sử. Trong đó, tính hiện đại được nhìn nhận dưới góc độ là một đặc tính, là
9
phẩm chất của tác phẩm văn học nghệ thuật; Kịch nói là một loại hình nghệ
thuật sân khấu; đề tài lịch sử nói lên phạm vi, tính chất hay thể loại của đề tài.
Như vậy, để giải quyết các vấn đề của luận án, NCS đã sử dụng phương pháp
tiếp cận liên ngành như: văn học, nghệ thuật học (trong đó có sân khấu học),
sử học, xã hội học và văn hóa học, v.v...
4.3. Phương pháp nghiên cứu - thao tác cụ thể
Để thực hiện các nhiệm vụ nghiên cứu trong quá trình triển khai luận
án, NCS sử dụng các phương pháp - thao tác cụ thể như:
- Phương pháp lịch sử
Phương pháp lịch sử được sử dụng để tiếp cận đến thời điểm ra đời của
các kịch bản mà NCS đã chọn để bàn luận, liên hệ với hoàn cảnh lịch sử giai
đoạn đó, nhằm nhận diện tính hiện đại trong từng tác phẩm. Trong quá trình
này, người viết cũng đặt các kịch bản trong mối quan hệ đồng đại và lịch đại
để tiếp cận, nghiên cứu tính hiện đại trong tác phẩm.
- Phương pháp phân tích, tổng hợp
Đây là những phương pháp – thao tác phổ biến và không thể thiếu khi
làm việc với tư liệu, nhằm hệ thống hóa và đúc kết các vấn đề lý luận, các
luận điểm nghiên cứu được đặt ra trong luận án.
- Phương pháp khảo tả
Phương pháp này được sử dụng khi NCS tiếp cận các kịch bản kịch nói
Việt Nam đề tài lịch sử, qua đó, phân tích, chứng minh làm rõ sự hiện diện
của tính hiện đại trong tác phẩm.
- Phương pháp so sánh, đối chiếu
Luận án xem xét 11 kịch bản sân khấu (và một số vở diễn) của nhiều
tác giả khác nhau, sáng tác ở các thời điểm khác nhau, dàn dựng và biểu diễn
ở các đơn vị nghệ thuật khác nhau. Vì vậy, NCS sử dụng phương pháp so
sánh, đối chiếu là các thao tác không thể thiếu.
10
5. Đóng góp của luận án
5.1. Đóng góp về mặt lý luận
Từ góc độ nghiên cứu tính hiện đại trong kịch nói Việt Nam đề tài lịch
sử, luận án sẽ góp phần giải quyết một số vấn đề về phương diện lý luận đối
với nghệ thuật sáng tác kịch bản kịch nói đề tài lịch sử. Đây là vấn đề đã và
đang được các nhà hoạt động sân khấu và xã hội quan tâm, hướng tới xây
dựng nền sân khấu Việt Nam có nhiều tác phẩm phản ánh chân thực và sáng
tạo những trang sử hào hùng của dân tộc.
5.2. Đóng góp về mặt thực tiễn
Sân khấu là nghệ thuật tổng hợp, trong đó mọi thành phần và công
đoạn sáng tạo đều có mối liên quan và tác động chặt chẽ đến nhau. Vì vậy,
mặc dù luận án tập trung nghiên cứu các kịch bản kịch nói về đề tài lịch sử,
nhưng kết quả nghiên cứu của luận án cho thấy tính hiện đại không chỉ chi
phối công việc của người sáng tác kịch đề tài lịch sử, mà còn chi phối cả công
việc dàn dựng và biểu diễn các tác phẩm ấy. Vì vậy, luận án sẽ có một số
đóng góp đối với thực tiễn hoạt động sân khấu ở nước ta nói chung và với
thực tiễn sáng tác, dàn dựng, biểu diễn kịch nói đề tài lịch sử ở Việt Nam
6. Kết cấu của luận án
Ngoài phần Mở đầu (7 trang), phần Kết luận (9 trang), Tài liệu tham
khảo (6 trang) và Phụ lục (4 trang), nội dung luận án gồm 3 chương.
Chương 1: Khái niệm tính hiện đại trong nghệ thuật sân khấu và kịch
nói đề tài lịch sử (25 trang).
Chương 2: Tính hiện đại trong cách tiếp cận, tái hiện sự kiện lịch sử (48 trang).
Chương 3: Tính hiện đại trong cách tiếp cận, sáng tạo nhân vật lịch sử
(45 trang).
11
Chương 1
KHÁI NIỆM TÍNH HIỆN ĐẠI TRONG NGHỆ THUẬT SÂN KHẤU
VÀ KỊCH NÓI ĐỀ TÀI LỊCH SỬ
1.1. Tính hiện đại trong nghệ thuật sân khấu qua nghiên cứu của
các học giả
Tính hiện đại là một khái niệm, một thuật ngữ luôn song hành cùng với
sự phát triển và tiến bộ của xã hội loài người. Đối với nghệ thuật sân khấu,
tính hiện đại được xem là một phẩm chất của tác phẩm khi nó đạt tới những
sáng tạo mới mẻ, hấp dẫn và chuyển tải được hơi thở của thời đại. Cùng với
sự phát triển của nghệ thuật sân khấu, tính hiện đại cũng luôn được các nhà
hoạt động sân khấu ở Việt Nam và trên thế giới tiếp cận, nghiên cứu.
1.1.1. Nghiên cứu của các học giả nước ngoài
Tính hiện đại trong nghệ thuật sân khấu luôn đi cùng với sự cách tân là
quan điểm của đạo diễn sân khấu người Nga G.Tốpxtônôgốp trong cuốn sách
Tính hiện đại trong nghệ thuật sân khấu [52] đã được đạo diễn Dương Ngọc
Đức dịch và giới thiệu tại Việt Nam. Trên cương vị của một đạo diễn,
G.Tốpxtônôgốp cho rằng: "Hiện đại ở đây được hiểu là đề tài hiện đại,
phương tiện diễn tả hiện đại, nhân vật hiện đại, diễn viên hiện đại Tính hiện
đại và sự cách tân luôn đứng gần nhau" [52, tr15, tr16]. Theo G.Tốpxtônôgốp:
Sân khấu mang tính hiện đại - đó là sự kết hợp của kịch bản hiện
đại, đạo diễn hiện đại, diễn viên hiện đại, khán giả hiện đại. Sân
khấu hiện đại - đó là tư tưởng hiện đại được biểu hiện bằng hình
thức hiện đại, đó là sân khấu phản ánh cuộc sống một cách đầy đủ
và sâu sắc nhất [52, tr 15].
Về kịch bản hiện đại, tác giả cho rằng: Một kịch bản hiện đại là ở trong
đó có những con người, mà hành động của họ theo những nguyên tắc đạo đức
mới..., nói theo cách nói của những người thời đại, nghĩ theo cách nghĩ của
12
người thời đại, cảm theo cách cảm của người thời đại. Theo ông, người tác giả
- hiện đại chân chính là người biết nhìn thấy cái mới đang nảy sinh trong cuộc
sống Tài năng của người tác giả là ở chỗ biết làm mới những chất liệu cũ.
Tính hiện đại trong nghệ thuật đạo diễn đó chính là tính công dân,
người đạo diễn mà không yêu thích tư tưởng của công dân thì sẽ không thể là
người đạo diễn hiện đại. Theo G.Tốpxtônôgốp, sẽ không thể thành một đạo
diễn hiện đại, chân chính nếu thiếu hiểu biết sâu sắc về tất cả những di sản
của nghệ thuật sân khấu cổ điển Nga và thế giới.
Đối với nghệ thuật diễn viên, G.Tốpxtônôgốp cho rằng: Tính chất đặc
biệt của diễn viên hiện đại trên sân khấu là biết diễn cho chính xác và ngắn
gọn. Người diễn viên hiện đại cần liên tục đặt ra cho khán giả những câu đố
và để họ tự giải đáp. Nếu diễn viên biểu diễn mà để khán giả hiểu trước được
mọi điều chưa diễn ra thì đó là cách diễn cổ lỗ sĩ
Về khán giả, theo G.Tốpxtônôgốp, ở mỗi thời đại khán giả lại đòi hỏi
một hình thức cảm thụ nghệ thuật phù hợp. Khán giả hiện đại là bộ phận cấu
thành của sân khấu hiện đại. Không có khán giả hiện đại, không thể có sân
khấu hiện đại.
Trên cương vị của một đạo diễn, G.Tôpxtônôgốp đã tiếp cận tính hiện
đại trong nghệ thuật sân khấu từ hầu hết các thành phần sáng tạo, nhận diện
tính hiện đại trong cả nội dung và hình thức của tác phẩm. Theo ông, sân khấu
mang tính hiện đại là phải phản ánh cuộc sống một cách đầy đủ và sâu sắc nhất.
G.Tôpxtônôgốp đã lượng hóa tính hiện đại thành số lượng (đầy đủ) và chất
lượng (sâu sắc). Sự đầy đủ và sâu sắc ở đây chính là khả năng phát hiện, nắm
bắt những vấn đề của hiện thực và cách thức phản ánh vấn đề đó trong tác
phẩm. Tuy nhiên, khi phân tích về tính hiện đại trong các thành phần sáng tạo
G.Tôpxtônôgốp đã đồng nhất tính hiện đại trong nghệ thuật sân khấu với sân
khấu hiện đại cùng những tiêu chuẩn của cái mới, cái hiện đại, sự cách tân,
13
đánh đồng một thuộc tính mang tính bản chất sang những biểu hiện của hình
thức. Điều này chỉ phù hợp khi ông đi tìm lời giải cho khái niệm về một sân
khấu hiện đại chứ không phải tính hiện đại trong nghệ thuật sân khấu. Có lẽ
đó là lý do mà những lập luận, phân tích của ông về tính hiện đại trong nghệ
thuật sân khấu chưa rõ ràng và thống nhất.
Không trực tiếp gọi tên những nghiên cứu của mình là tính hiện đại
trong nghệ thuật sân khấu, nhưng trong bài viết Những tìm tòi mới [52], tác
giả X.A Liôsin đã đưa ra khái niệm tính thời đại khi bàn về sự gắn kết của
những vấn đề được phản ánh trong tác phẩm với hiện thực cuộc sống đương
thời. Tác giả cho rằng, thực chất của vấn đề tiến bộ trong kịch, trong sân khấu
là ở chỗ sáng tạo ra được những tác phẩm có tính thời đại với ý nghĩa sâu xa
nhất của từ này. “Một tác phẩm chỉ có thể có ý nghĩa thời đại thực sự nếu nó
gắn liền được một cách hữu cơ cái vĩnh cửu và cái của ngày hôm nay” [52, tr
114]. Nói cách khác, nếu tác phẩm trả lời được những câu hỏi mà khán giả
hôm nay quan tâm thì tác phẩm đó có tính thời đại. Sự thể hiện của tính thời
đại trong tác phẩm đôi khi có thể chỉ là một sự đặt vấn đề, nhưng vấn đề đó
phải được mọi người đang quan tâm, kích thích được mọi người cùng suy
nghĩ và cùng tìm câu trả lời. Theo tác giả, để đạt được tính thời đại trong nội
dung và hình thức của tác phẩm thì tác phẩm phải phản ánh được sự thật ở
một dạng thật đông đặc về cuộc sống ngày hôm nay và biểu hiện nó qua ngôn
ngữ của các nhân vật kịch; người đạo diễn phải nắm bắt được ý tưởng của tác
giả và hiện thực hóa nó trên sân khấu (về nội dung) và nghệ thuật biểu diễn
phải tái hiện được những giọng điệu mới của thời đại trong vở diễn; sân khấu
cần phải được giải phóng đến mức tối đa khỏi những chi tiết thừa (hình
thức) Tính thời đại không phải là tính kịp thời cũng không phải là cái vĩnh
cửu mà là sự gắn liền một cách hữu cơ cái vĩnh cửu và cái của ngày hôm nay,
trả lời được những câu hỏi mà khán giả hôm nay quan tâm.
14
Tính thời đại cũng chính là khái niệm quen thuộc, trở thành một trong
những tiêu chí không thể thiếu của sân khấu đề tài lịch sử. Từ năm 1840, nhà
lý luận phê bình sân khấu người Đức Heeman Hetne khi nghiên cứu về kịch
lịch sử đã viết rằng: “Kịch lịch sử cần phải thấm nhuần bầu nhiệt huyết của
trái tim thời đại mình, quan sát ở đó mẩu vụn vỡ lịch sử một cách cần thiết,
làm cho các nhân vật nổi bật lên... Và chỉ khi mà nhiệm vụ lớn lao đó được
giải quyết thì mới có thể bắt đầu nói rằng, chúng ta có kịch lịch sử mới” [2, tr
125]. “Bầu nhiệt huyết của trái tim thời đại mình” trong quan điểm của
Heeman Hetne chính là tính thời đại, hơi thở thời đại theo như quan điểm của
X.A Liôsin và của chúng ta ngày hôm nay.
Như vậy, có thể thấy rằng, tính thời đại trong quan điểm của X.A
Liôsin và khái niệm thời đại trong quan điểm của Heeman Hetne cũng chính
là tính hiện đại mà đạo diễn G.Tôpxtônôgốp đã nghiên cứu. Mặc dù xác lập
hai khái niệm khác nhau, nhưng các nhà hoạt động sân khấu đều hướng đến
một nội dung, đó là tính chất mới mẻ, phản ánh được sự thật cuộc sống ở
dạng đông đặc và sâu sắc, tích hợp được hơi thở cuộc sống đương đại của
nghệ thuật sân khấu.
Một số học giả khi nghiên cứu về sân khấu đề tài lịch sử đã cho rằng
tinh thần thời đại là yếu tố làm nên sức sống, sức hấp dẫn của tác phẩm. Các
học giả Trung Quốc đã rất quan tâm đến vấn đề lấy xưa, vì nay (cổ vi kim
dụng) và tinh thần thời đại trong kịch về đề tài lịch sử. Theo đó, kịch lịch sử
muốn có tính hiện đại, đáp ứng được nhu cầu của khán giả hôm nay, phục vụ
cuộc sống hôm nay thì phải phản ánh được tinh thần thời đại, phải mang tính
thời đại. Trong cuộc Thảo luận về vấn đề kịch lịch sử [66], tác giả Tư Tiến
cho rằng: “Kịch lịch sử nếu không thể hiện được tinh thần thời đại hiện nay,
tất nhiên sẽ thiếu hẳn sức sống” [66, tr 75]. Theo tác giả Mã Thiếu Ba: “Xử lý
tinh thần thời đại của các vở kịch lịch sử chủ yếu là thông qua việc gắn liền
15
những tinh thần tốt đẹp của thời đại lịch sử mà tác phẩm thể hiện một cách
đúng đắn với tinh thần của thời đại vĩ đại của chúng ta hiện nay” [66, tr 75, 76].
Các học giả Lý Kiên Ngô, Tiền Anh Úc, Mao Thuẫn trong các bài viết
của mình [66] đều cho rằng, viết kịch lịch sử, viết chuyện người xưa, không có
nghĩa là viết cho người xưa, viết kịch lịch sử vì lịch sử. Với tư cách là một
thành viên trong đời sống hiện thực, người viết kịch không thể không theo yêu
cầu của thời đại mà chọn lọc trong những tài liệu lịch sử mịt mù như bể khói,
lấy những đề tài có ý nghĩa đối với hiện tại để viết kịch.
Các học giả cho rằng, sự lan tỏa, gắn kết những giá trị tốt đẹp của lịch
sử với cuộc sống hôm nay trong mỗi tác phẩm về đề tài lịch sử chính là các
nghệ sĩ sáng tạo đã mang đến tinh thần thời đại cho tác phẩm. Chính tinh thần
thời đại đã mang đến sự mới mẻ, sức hấp dẫn cho tác phẩm, bởi vì chúng ta
không viết kịch lịch sử vì lịch sử. Và như thế, cuộc sống đương đại có vai trò
hết sức quan trọng trong sáng tác về đề tài lịch sử. Những vấn đề lịch sử được
lựa chọn để phản ánh trong tác phẩm phải thực sự có ý nghĩa với cuộc sống
đương đại, xuất phát từ yêu cầu của cuộc sống đương đại.
Tuy nhiên, về vấn đề này, một số học giả khác cho rằng, không nên để
tinh thần thời đại chi phối quá nhiều đến hiện thực lịch sử được phản ánh
trong tác phẩm. Karl Marx và Friedrich Engels sau khi xem vở kịch Franz von
Sickingen của F. Lassalle cũng đã có những góp ý rất xác đáng về vấn đề này.
Lá thư của Marx gửi cho F. Lassalle ngày 19/4/1859 viết: “Khuyết điểm lớn
nhất của đồng chí là bắt chước theo Schiller, tức là biến những nhân vật thành
ra chỉ là những người phát ngôn cho tinh thần của thời đại” [6, tr 310] và lá
thư của Engels gửi F. Lassalle ngày 18/5/1859: “Theo quan niệm về kịch của
tôi là không thừa nhận người ta chạy theo lý tưởng mà quên mất thực tế, chạy
theo Schiller mà quên mất Shakespeare” [6, tr 315]. Karl Marx và Friedrich
16
Engels đều thể hiện sự không tán thành với những sáng tác hướng theo lý
tưởng, thiếu thực tế, bị tinh thần thời đại chi phối.
Như vậy, tính hiện đại, tính thời đại, tinh thần thời đại trong nghệ
thuật sân khấu nói chung và sân khấu về đề tài lịch sử nói riêng đã được các
học giả nước ngoài tiếp cận, nghiên cứu, đồng thời xem đó là tiêu chí đánh
giá tác phẩm sân khấu trước yêu cầu đổi mới, phản ánh trúng những vấn đề
của thời đại và đáp ứng nhu cầu tinh thần của khán giả đương thời. Qua
nghiên cứu của mình, các học giả đã bộc lộ rõ quan điểm về vấn đề này: Tính
hiện đại, đó là sự phản ánh cuộc sống một cách đầy đủ và sâu sắc nhất; Tính
thời đại, đó là sự phản ánh sự thật cuộc sống ở dạng đông đặc, trả lời được
những câu hỏi mà khán giả hôm nay quan tâm; Tinh thần thời đại trong tác
phẩm là sự lựa chọn trúng những vấn đề lịch sử có giá trị với đương đại, gắn
kết những vấn đề đó với cuộc sống hôm nay.
Tuy khác nhau về tên gọi, nhưng những khái niệm mà các học giả đưa
ra lại thống nhất với nhau về nội dung, đó là: để có thể đồng hành cùng đời
sống hiện đại, các tác phẩm sân khấu phải lựa chọn được những vấn đề có giá
trị với cuộc sống đương thời, lý giải nó bằng quan điểm khoa học, sâu sắc, trả
lời được những câu hỏi mà khán giả hôm nay quan tâm. Nói cách khác, cuộc
sống ngày hôm nay chính là lý do để sân khấu đưa các vấn đề của lịch sử, của
ngày hôm qua trở về. Sự trở về này phải bằng một hình thức, nội dung mới
mẻ, hấp dẫn, vừa trung thành với bản chất của lịch sử, vừa không xa lạ với
khán giả hôm nay. Đây chính là những vấn đề mà luận án Tính hiện đại trong
kịch nói Việt Nam về đề tài lịch sử tiếp tục kế thừa, nghiên cứu, đi tới thống
nhất một tên gọi, một khái niệm về một trong những phẩm chất quan trọng
của tác phẩm sân khấu nói chung và kịch nói về đề tài lịch sử nói riêng.
17
1.1.2. Nghiên cứu của các học giả trong nước
Tính hiện đại trong nghệ thuật sân khấu nói chung và sân khấu về đề tài
lịch sử nói riêng đã được các nhà hoạt động sân khấu trong nước nghiên cứu
cùng với sự đa dạng về thể tài, thể loại và đề tài của sân khấu Việt Nam. Tính
hiện đại cũng được tiếp cận trong mối tương đồng với tính đương thời, tính
đương đại, tính thời đại và tính thời sự.
Tại Hội nghị đầu tiên Bàn về đề tài lịch sử của Viện Sân khấu [74] tổ
chức ngày 17/12/1979 tại Hà Nội, tính đương thời trong sân khấu về đề tài
lịch sử đã được đặt ra và nhiều học giả đã xem đó như một tiêu chí, một giải
pháp để đổi mới, mang đến tính hiện đại cho nghệ thuật sân khấu. Các tác giả
Lê Ngọc Cầu, Nguyễn Đức Lộc, Nguyễn Đức Nam đã đưa ra quan điểm rằng,
nếu không vì những vấn đề của hiện tại thì lịch sử không được hồi sinh trên
sân khấu hiện đại. Bản thân lịch sử ngày hôm qua không thể giải quyết trực
tiếp được những vấn đề của hôm nay, nhưng thông qua tác phẩm nghệ thuật,
giá trị của lịch sử được phát huy và nhân lên bởi những con người đang làm
nên lịch sử hôm nay, nhằm thúc đẩy, cổ vũ và nâng cao những tình cảm
đương thời.
Đến Hội nghị chuyên đề Sân khấu với đề tài lịch sử [37] do Cục Nghệ
thuật biểu diễn tổ chức ngày 20, 21/9/1996 tại Hà Nội thì vấn đề tính đương
thời trong sân khấu đề tài lịch sử vẫn tiếp tục được đặt ra. Qua các bài tham
luận, các tác giả đều thống nhất rằng những vấn đề của cuộc sống đương thời
chính là lý do để câu chuyện lịch sử trong quá khứ được trở về với hiện tại.
Các tác giả Tất Thắng, Lê Duy Hạnh, Mịch Quang, Xuân Yến, Dương Ngọc
Đức, Hồ Ngọc, Trần Trí Trắc... cho rằng viết về đề tài lịch sử chính là hướng
tới con người đương thời, con người hôm nay, lấy chuyện ngày xưa để nói
chuyện ngày nay. Các tác giả Nguyễn Đình Thi, Ngô Thảo, Nguyễn Đức Lộc,
Hà Văn Cầu, Hoàng Luyện cho rằng sân khấu đề tài lịch sử chính là làm cho
18
lịch sử sống lại với đương thời... Tính đương thời ở đây được các học giả lý
giải trên cơ sở mối quan hệ giữa cuộc sống đương thời với những vấn đề của
lịch sử trong tác phẩm. Khi hình thành được sự kết nối giữa những vấn đề
được phản ánh trong tác phẩm với cuộc sống hôm nay thì tác phẩm có tính
đương thời. Chính tính đương thời đã làm nên giá trị của tác phẩm sân khấu
về đề tài lịch sử.
Khi bàn về tính đương thời trong sân khấu về đề tài lịch sử, một số học
giả đã nhấn mạnh đến vai trò, sự hiện diện của cuộc sống hôm nay trong mỗi
tác phẩm. Tại Tọa đàm Nghệ thuật sân khấu sáng tạo về đề tài lịch sử [18] do
Hội Nghệ sĩ Sân khấu Việt Nam tổ chức ngày 14/11/2012 tại Hà Nội, các tác
giả Phạm Duy Khuê, Nguyễn Văn Thành, Lê Quý Hiền qua các bài tham luận
của mình đều tán thành quan điểm rằng: Những vấn đề của lịch sử cần phải
được cảm nhận, lý giải theo quan điểm của ngày hôm nay, của đương thời,
tìm được mối dây liên hệ với cuộc sống hôm nay thì tác phẩm mới có giá trị.
Đến Hội thảo khoa học toàn quốc Sáng tạo văn học, nghệ thuật về đề
tài lịch sử [17] do Hội đồng Lý luận phê bình Văn học, Nghệ thuật Trung
ương tổ chức ngày 15/12/2012 tại Hà Nội thì mối quan hệ giữa sáng tạo văn
học, nghệ thuật về đề tài lịch sử với cuộc sống đương đại đã trở thành một
chủ đề được quan tâm. Trong bài tổng kết Hội thảo, PGS.TS Nguyễn Hồng
Vinh đã viết rằng, ông rất tâm đắc với ý kiến của nhà văn Thái Bá Lợi: “Lịch
sử là hôm nay”, đồng thời nhấn mạnh “nếu ...o mang
được tinh thần thời đại nhưng không xung đột với tâm thức của cộng đồng về
các giá trị lịch sử.
Như vậy, quá trình tiếp cận, tái hiện sự kiện lịch sử và tiếp cận, sáng
tạo nhân vật lịch sử sẽ quyết định rất lớn đến thành công và mang đến tính
hiện đại cho tác phẩm kịch nói về đề tài lịch sử. Quá trình sáng tạo này sẽ
được chúng tôi nghiên cứu, luận giải cụ thể ở hai chương sau của luận án.
Tiểu kết
Tính hiện đại trong nghệ thuật sân khấu là tính mới trong cách tiếp cận,
khám phá, tái tạo hiện thực, thể hiện ở quan điểm, cách nghĩ, cách làm mới,
khoa học và nhân văn, sản phẩm sáng tạo phải đề cập đến những vấn đề mà
con người, xã hội quan tâm, hướng tới cuộc sống tốt đẹp hơn cho con người.
Một tác phẩm sân khấu có tính hiện đại phải đạt tới những tiêu chí:
Phát hiện, tiếp cận, phản ánh những vấn đề đang là mối quan tâm chung của
mọi con người, mọi xã hội; lý giải những vấn đề được phản ánh bằng quan
điểm mới, tiến bộ, khoa học, nhân văn; tác phẩm mang được tinh thần thời đại
của đối tượng phản ánh, của người sáng tác và có sự kết nối tinh tế với những
vấn đề mà xã hội đương đại quan tâm; tác phẩm được chuyển tải bằng một
35
hình thức và phương tiện nghệ thuật hiện đại, giàu tính biểu cảm, đáp ứng
được nhu cầu thưởng thức của khán giả đương thời.
Tính hiện đại trong tác phẩm kịch nói về đề tài lịch sử thể hiện ở việc
lựa chọn, phản ánh những tư liệu lịch sử có thể gợi mở đến những vấn đề
đang là mối quan tâm chung của con người, xã hội. Hiện thực lịch sử ấy phải
được lý giải bằng quan điểm tiến bộ, khoa học, nhân văn, vừa trung thành với
tinh thần của lịch sử, vừa kết nối tinh tế với hiện thực đương đại. Tính hiện
đại trong tác phẩm kịch nói về đề tài lịch sử được thể hiện tập trung nhất
trong quá trình tiếp cận, tái hiện sự kiện lịch sử và tiếp cận, sáng tạo nhân
vật lịch sử. Tính hiện đại đã góp phần làm nên giá trị của tác phẩm kịch nói
về đề tài lịch sử.
36
Chương 2
TÍNH HIỆN ĐẠI TRONG CÁCH TIẾP CẬN,
TÁI HIỆN SỰ KIỆN LỊCH SỬ
2.1. Tổ chức lại sự kiện, hình thành diện mạo lịch sử mới trong tác
phẩm
Khi nói về lịch sử, Romain Rolland - nhà văn Pháp đã viết rằng:
Lịch sử anh hùng mà tôi hình dung được trong óc, chẳng phải là
ngọn đèn sau đuôi một đoàn tàu, mà ánh sáng bập bùng của nó chỉ
chiếu rọi lờ mờ quãng đường đã đi. Nó phải là ngọn hải đăng ban
đêm, bằng một tia chói lọi, chỉ rõ vị trí của con tàu giữa đại dương:
từ nơi nào nó tới và nó sẽ đi tới nơi nào. Quá khứ không hề có một
thực tế nào tách khỏi hiện tại [76, tr 49, 50].
Quá khứ không thể và không có một giây phút nào có thể tách khỏi
hiện tại, cũng như hiện tại không thể tách mình ra khỏi tương lai. Cuộc sống
vốn là sự vận động và hoán đổi liên tục vị trí giữa quá khứ - hiện tại - tương
lai, tiến tới hình thành cả tiến trình lịch sử. Lịch sử, theo như cách quan niệm
của Romain Rolland thì nó chính là ngọn hải đăng ban đêm, chỉ rõ cho con
người hiện đại biết mình đang đứng ở đâu (về dân tộc, văn hóa), mình đã
đến từ đâu (xuất xứ, truyền thống) và sẽ đi tới đâu (tương lai). Nghĩa là, khi
am hiểu lịch sử, hiểu ông cha, thì con người hiện đại sẽ nhận diện được chính
mình, hiểu chính mình và sẽ định hướng được tương lai của mình. Sáng tạo
tác phẩm kịch về đề tài lịch sử tức là sáng tạo trên cơ sở chất liệu cuộc sống
của quá khứ, về lý tưởng, tác phẩm ấy phải là chiếc cầu kết nối để con người
hiện đại khám phá quá khứ, lý giải hiện tại và định hướng tương lai. Khám
phá quá khứ chính là quá trình người tác giả dùng quan điểm, tư duy của
mình nhận thức, đánh giá lịch sử; lý giải hiện tại là khi người tác giả bằng
cảm quan của mình phân tích, lý giải những vấn đề đặt ra từ hiện thực lịch sử,
37
kết nối nó với đời sống hiện tại; định hướng tương lai chính là ý nghĩa tư
tưởng toát ra từ những sự kiện lịch sử được tái hiện trong tác phẩm. Giá trị và
tính hiện đại của tác phẩm kịch về đề tài lịch sử được hình thành trong quá
trình này.
Lựa chọn, tổ chức sự kiện lịch sử, hình thành một diện mạo lịch sử mới
trong tác phẩm là thao tác cần thiết của hầu hết các nhà viết kịch lịch sử. Quá
trình này sẽ mang theo quan điểm, nhận thức của tác giả về lịch sử, đồng thời,
hiện thực hóa ý đồ sáng tạo của tác giả. Việc tổ chức sự kiện lịch sử trong tác
phẩm còn phải được đặt trong mối quan hệ hữu cơ với thể tài và thể loại tác
phẩm mà tác giả lựa chọn. Xuất phát từ mục đích sáng tạo khác nhau sẽ dẫn
đến việc lựa chọn, tổ chức sự kiện lịch sử không giống nhau ở mỗi nhà viết
kịch. Có người chọn một sự kiện, có người chọn nhiều sự kiện, có người đặt
sự kiện này làm trung tâm, có người đặt sự kiện khác làm trung tâm. Việc tổ
chức sự kiện lịch sử này có thể làm thay đổi hoặc tạo nên những xung đột mới
của hiện thực lịch sử được phản ánh trong tác phẩm.
Cuộc chuyển giao quyền lực giữa nhà Lý và nhà Trần mà cụ thể là giữa
Lý Chiêu Hoàng và Trần Cảnh có lẽ đã trở thành câu chuyện bi thương, khốc
liệt và nhuốm màu huyền thoại nhất trong lịch sử các triều đại Việt Nam. Bản
thân câu chuyện lịch sử này đã đặt ra rất nhiều vấn đề về nhân tình thế sự, về
nghĩa nước, tình nhà, về quyền lực và hạnh phúc riêng tư chưa bao giờ hết
"nóng", chưa bao giờ thôi ám ảnh, cũng như chưa bao giờ có thể khai thác cạn
cùng. Câu chuyện lịch sử này gắn liền với số phận nhân vật Lý Chiêu Hoàng
cùng với 4 sự kiện đáng nhớ: Sự kiện truyền ngôi (Lý Huệ Tông truyền ngôi
cho con gái Chiêu Hoàng khi mới 7 tuổi), sự kiện nhường ngôi (Chiêu Hoàng
nhường ngôi cho chồng là Trần Cảnh và lui xuống làm hoàng hậu), sự kiện
truất ngôi (Chiêu Hoàng bị truất ngôi hoàng hậu, giáng xuống làm công chúa)
và sự kiện gả chồng (Trần Thái Tông gả Chiêu Thánh cho tướng quân Lê
38
Tần). Tất cả đã trở thành đề tài của rất nhiều tác phẩm sân khấu, trong đó có
kịch nói.
Khi vào tác phẩm, không phải tác giả nào cũng khai thác cả bốn sự kiện
trên. Có tác phẩm khai thác một sự kiện như Mệnh đế vương của tác giả Hùng
Tấn - chỉ khai thác sự kiện gả chồng; có tác phẩm khai thác hai sự kiện như
Rừng trúc của tác giả Nguyễn Đình Thi - khai thác sự kiện truất ngôi và sự
kiện gả chồng; có những tác phẩm khai thác ba sự kiện như Cột trụ chống trời
của tác giả Nguyễn Anh Biên; Độc thoại đêm của tác giả Lê Duy Hạnh - khai
thác sự kiện truyền ngôi, sự kiện nhường ngôi và sự kiện truất ngôi Sự khác
nhau này phải chăng nằm ở mục đích đối thoại với cuộc sống hôm nay của
mỗi tác giả? Nếu như Cột trụ chống trời muốn khẳng định vai trò của một cá
nhân trước cơn nguy biến của lịch sử nên đã lựa chọn cả ba sự kiện như là sự
dẫn giải cho sự ra đời của một triều đại mới thì Rừng trúc với thông điệp việc
nước là lớn nhất, nhưng việc người với người cũng không thể nhỏ hơn đã khai
thác sự kiện truất ngôi và sự kiện gả chồng, đặt thân phận người phụ nữ vào
những khúc quanh nghiệt ngã của số phận
Rừng trúc bắt đầu bằng âm mưu của Trần Thị Dung - lúc này đã là
công chúa Thiên Cực - phu nhân của Thống quốc thái sư Trần Thủ Độ. Bà ta
lo lắng vì nhà vua mãi chưa có con, tuổi xuân đang độ, cung phi mỗi ngày
một đông, con gái các quan lại thì ngấp nghé, ngôi hoàng hậu nhà Trần nếu về
tay dòng họ khác thì sinh nhiều chuyện, mà tính mạng mẹ con bà ta cũng khó
được bảo toàn. Thiên Cực bèn bàn với Trần Thủ Độ phải ngay lập tức lo cho
nhà vua có vợ và con trai, rồi nói luôn mục đích đưa Thuận Thiên vào thế chỗ
Chiêu Thánh, dù Trần Thủ Độ phản ứng rằng: Nhà vua mà lại đi cướp vợ ông
anh thì còn ra thế nào! Bằng lý lẽ xác đáng, Thiên Cực đã thuyết phục chồng
rằng lập Thuận Thiên lúc này là lựa chọn tốt nhất. Khi Thủ Độ e đức vua và
Thuận Thiên không chịu thì bà ta nhận sẽ đứng ra một tay tác thành.
39
Dù rất đỗi đau khổ, nhưng cuối cùng thì cả Chiêu Thánh, Trần Cảnh và
Thuận Thiên đều phải chấp nhận sự xếp đặt ngang trái này. Chiêu Thánh đã
từ bỏ tất cả, về ở trong ngôi nhà vườn bên Hồ Tây. Trần Cảnh bế tắc, chán
nản bỏ ngôi báu ra đi. Lo sợ việc lớn không thành, sau khi biết được nơi đức
vua đang trú ngụ, Trần Thủ Độ quyết: vua ở đâu là triều đình ở đó, và lệnh
cho các quan đầu triều lên đường đi Yên Tử. Không muốn việc nước thêm rối
ren, Trần Cảnh trở về, giảng hòa với Trần Liễu và chung sống với Thuận
Thiên. 20 năm sau, thắng giặc Nguyên Mông, Lê Tần đến thăm nhà công
chúa Chiêu Thánh vì lời hẹn ước, dù trong kịch họ chưa gặp được nhau,
nhưng người xem ngầm hiểu rằng hạnh phúc mới đã đến với cuộc đời của
Chiêu Thánh.
Như vậy, có thể thấy rằng, tác giả Rừng trúc chỉ sử dụng trực tiếp hai
sự kiện chính trong cuộc đời Lý Chiêu Hoàng, nhiều sự kiện quan trọng khác
chỉ được ông tái hiện gián tiếp. Nhà văn cũng không tuân thủ trình tự thời
gian xuất hiện các sự kiện như sử sách đã ghi chép mà có những sự kiện xảy
ra sau lại được ông đặt lên trước với mục đích làm nổi bật sự kiện trung tâm,
qua đó chuyển tải ý đồ sáng tạo của mình. Kịch bản bắt đầu bằng tấn bi kịch
cuối cùng của Chiêu Thánh, khi nàng buộc phải từ bỏ ngôi hoàng hậu theo
lệnh của mẹ là Trần Thị Dung và chú là Trần Thủ Độ. Trong chính sử, thì đó
là giai đoạn mà bản thân Chiêu Thánh đã không còn sức phản kháng, sau khi
phải nhường ngôi hoàng hậu cho chị, nàng đã sống lặng lẽ trong cung sâu cho
đến khi gặp được tình yêu của Lê Tần. Sử viết rằng:
Chiêu Thánh công chúa lên ngôi năm Giáp Thân (1224) tức là Lý
Chiêu Hoàng. Vua còn nhỏ nên quyền bính ở cả Trần Thủ Độ. Trần
Thủ Độ đưa các cháu vào cung cấm giữ các chức vụ lớn nhỏ Trần
Cảnh là con thứ hai của Trần Thừa, lúc đó mới lên 8 tuổi, cùng tuổi
với Lý Chiêu Hoàng. Một lần Trần Cảnh bưng nước rửa mặt cho
40
vua. Chiêu Hoàng thấy Trần Cảnh đem lòng yêu mến. Từ đó, mỗi
khi vui chơi, Chiêu Hoàng đều cho gọi Trần Cảnh đến cùng chơi.
Có hôm Trần Cảnh bưng chậu nước đứng hầu, Chiêu Hoàng rửa
mặt, lấy tay té nước ướt cả mặt Cảnh. Đến khi Cảnh bưng khăn chầu
thì vua bà lấy khăn ném cho Trần Cảnh. Khi về nhà Trần Cảnh đã
kể riêng với Trần Thủ Độ, Thủ Độ nói:
- Nếu thực như thế thì họ ta làm vua chăng? Hay chết cả họ chăng?
Hôm khác Chiêu Hoàng lại lấy khăn chầu ném cho Trần Cảnh. Cảnh
quỳ lạy:
- Bệ hạ có tha tội cho thần không? Thần xin vâng mệnh.
Chiêu Hoàng cười:
- Tha cho ngươi! Nay ngươi đã biết nói khôn đó!
Cảnh lại về nói với Thủ Độ. Sợ việc bị tiết lộ thì bị giết cả, Thủ Độ đem
gia thuộc thân thích vào trong cung cấm, sai đóng cửa thành và các cửa
cung. Các quan vào chầu đều không được vào. Thủ Độ loan báo:
- Bệ hạ đã có chồng rồi!
Các quan đều nói: Đó là việc tốt, xin cho chọn ngày vào chầu. Thế
là ngày 21 tháng 11 năm Ất Dậu có chiếu của Chiêu Hoàng nhường
ngôi cho Trần Cảnh và ngày 11 tháng 12 năm Ất Dậu (tháng 1 –
1225) Chiêu Hoàng thiết triều ở điện Thiên An ngự trên giường báu,
các quan mặc triều phục lạy ở sân rồng. Chiêu Hoàng trút bỏ áo
ngự, khuyên mời Trần Cảnh lên ngôi vua. Sau 3 lần nhún nhường
làm phép, Trần Cảnh ngồi lên ngai vàng chính thức làm hoàng đế
Lấy nhau hơn chục năm, Chiêu Thánh vẫn không sinh nở gì. Trần
Thủ Độ lo sợ vua Thái Tông Trần Cảnh tuyệt tự, không kẻ nối dõi
ngôi vua, bèn lấy Thuận Thiên chị ruột Chiêu Thánh, vợ Trần Liễu
(anh ruột Trần Cảnh) lúc này đang có mang ép gả cho Trần Cảnh.
41
Sau đó Trần Thủ Độ ép Thái Tông phải bỏ Chiêu Thánh mà lập
Thuận Thiên làm hoàng hậu. Chiêu Thánh đau khổ, ẩn trong cung
sâu, toan dứt nợ trần tục
Mùng một Tết năm Mậu Ngọ (1258), sau khi đánh tan cuộc xâm
lược của quân Nguyên lần thứ nhất, vua Thái Tông đặt đại lễ ở
chính điện, có lệnh gả Chiêu Hoàng cho Lê Phụ Trần, một đại tướng
có công lớn trong cuộc kháng chiến vừa qua [9, tr 48].
Nhưng ở Rừng trúc, tác giả không tái hiện toàn bộ câu chuyện lịch sử
này, mà dùng sự kiện truất ngôi hoàng hậu làm sự kiện mở đầu, để toàn bộ tấn
bi kịch cuộc đời Lý Chiêu Hoàng trở về. Khán giả được gặp lại tất cả, từ
chuyện của những ngày vua bà 8 tuổi ném khăn chầu cho Trần Cảnh và dẫn
đến chuyện hôn thú giữa hai người; chuyện nhường ngôi cho Trần Cảnh giữa
trời đất núi sông khi cả hai đã trưởng thành để Chiêu Hoàng chính thức tuyên
bố nhà Lý đã hết vai trò lịch sử và nhà Trần được chính danh lo việc nước
Tuy việc sắp xếp các sự kiện lịch sử không theo đúng trình tự thời gian của
lịch sử, nhưng câu chuyện lịch sử năm nào vẫn được tái hiện sinh động, tác
giả đã hướng các nhân vật lịch sử của mình vào trọng trách cao cả, vì sự tồn
vong của giang sơn, xã tắc.
Tác giả Rừng trúc đã sử dụng sự kiện truất ngôi hoàng hậu để bắt đầu
tấn bi kịch của Lý Chiêu Hoàng - khi nàng đã 20 tuổi. Đây là lúc nàng đủ
trưởng thành để thấu hết nỗi đau mất cha, mất ngôi báu mà tổ tiên để lại, là
lúc nàng đã biết phải đối phó với những mất mát như thế nào. Sau khi sự kiện
truất ngôi hoàng hậu diễn ra, sự kiện nhường ngôi hoàng đế mới được tái
hiện. Đặt buổi lễ nhường ngôi sau 11 năm so với thực tế, Nguyễn Đình Thi đã
biến một sự kiện vốn vùi dập hoàn toàn cuộc đời của một nữ vương trở thành
một sự kiện tất yếu nếu muốn giữ nước. Chiêu Thánh đã rất khảng khái mà
rằng:
42
Có ở đâu, bao giờ, như hôm nay, giữa thành Thăng Long mĩ lệ của
đất Việt ta, một đôi người cũ gặp nhau tâm sự lại chính là hai vua
của hai triều cao cả Cái ngày lễ năm Dậu, tôi từ ngai vàng bước
xuống mời bệ hạ lên ngôi, bây giờ nhớ lại, tôi thấy thương cho cả
hai đứa trẻ lúc ấy Tiếc rằng nhà Lý tôi đến đây là hết, nhưng tôi
mừng là nhà Trần mở đầu được có bệ hạ. Xin bệ hạ tha lỗi, tôi vẫn
thầm coi chuyện nhường ngôi mười một năm trước là không có.
Hôm nay mới thật là ngày, trước trời đất núi sông, Chiêu Hoàng tôi
kính mời đức vua mở nghiệp lớn nhà Trần nhận lấy công việc đất
nước Đại Việt này [59, tr 271, 272].
Chính Nguyễn Đình Thi đã “huyền thoại hóa” sự kiện lịch sử này. Ông
đã lùi nó về sau sự kiện Chiêu Thánh bị truất ngôi hoàng hậu. Việc truyền
ngôi trước đây giữa văn võ bá quan thì cả Chiêu Hoàng và Trần Cảnh đều là
hai đứa trẻ, giờ đây, khi cả hai đã đủ suy nghĩ để xét đoán mọi việc, Chiêu
Hoàng mới chính thức thực hiện nhiệm vụ quan trọng này vì xét thấy cần phải
làm như vậy. Với lịch sử, thì đây là một sự kiện động trời, nó đã chính thức
đánh dấu sự ra đời của một triều đại mới, vĩnh viễn khép lại một triều đại đã
hết vai trò lịch sử. Nguyễn Đình Thi lại chỉ coi nó như một sự kiện đã qua, đã
thuộc về lịch sử, tái hiện nó chẳng qua vì muốn khẳng định vị thế của Chiêu
Thánh, thể hiện cái Tâm và sự hy sinh của nàng cho xã tắc. Nàng muốn để
nhà Trần chính danh mà được lo việc nước. Lồng ghép sự kiện nhường ngôi
hoàng đế vào trong sự kiện truất ngôi hoàng hậu, tác giả đã tạo cho Chiêu
Hoàng một vị thế ngoài vòng tầm thường.
Không tổ chức sự kiện lịch sử theo nguyên tắc tăng dần đều về cấp độ
của xung đột, nhà văn Nguyễn Đình Thi chỉ lựa chọn hai sự kiện sau cùng của
bi kịch Lý Chiêu Hoàng để viết Rừng trúc. Qua hai sự kiện này, các sự kiện
quan trọng khác gián tiếp được tái hiện để kết nối logic, hoàn thiện một mạch
43
chảy liên tục của đời sống lịch sử trong tác phẩm. Việc lựa chọn phong cách
viết kịch luận đề của tác giả đã khiến cho sự đảo lộn trình tự xuất hiện các sự
kiện lịch sử trong tác phẩm trở thành hợp lý. Ý tưởng sáng tạo của tác giả qua
đó bộc lộ rõ ràng hơn, thuyết phục hơn. Diện mạo lịch sử của thời khắc
chuyển giao quyền lực giữa nhà Lý và nhà Trần đã được tác phẩm khắc họa
rõ nét cùng với dấu ấn sáng tạo không thể phủ nhận của nhà văn. Đó là một
thời khắc lịch sử vô cùng khốc liệt, đẩy nhân vật lịch sử đến giới hạn cao nhất
của thử thách để bộc lộ tính cách, còn tác giả có cơ hội bộc lộ quan điểm, tư
tưởng của mình. Vấn đề việc nước là lớn nhất, nhưng việc người với người
cũng không thể là nhỏ hơn đã được tác giả chuyển hóa vào từng sự kiện, nhân
vật kịch.
Vì mục đích nhấn mạnh đến “việc người” mà nhà văn Nguyễn Đình
Thi đã thay đổi diện mạo xung đột trong tác phẩm, đặt Trần Thị Dung vào vế
bên kia của xung đột, thay cho Trần Thủ Độ. Từ âm mưu soán đoạt ngôi báu
đến việc sắp đặt cuộc hôn nhân trái với cương thường đều do một mình Trần
Thị Dung là tác giả. Những hành động quyết liệt, chà đạp lên tình cảm ruột
thịt để đạt tới một mưu đồ chính trị của Trần Thị Dung đã tạo nên sự đối trọng
giữa việc nước và việc người mà tác phẩm muốn đề cập. Nguyễn Đình Thi
không thay đổi bản chất của xung đột mà thay đổi về “chất” của xung đột
khiến thông điệp của tác phẩm trở nên có sức nặng mà không xa lạ với lịch
sử.
Câu chuyện lịch sử năm xưa không thể gói lại trong một ngày, càng
không thể gói lại trong 3 tiếng trên sàn diễn, nhưng cách đặt vấn đề của tác
giả đã khiến cho Rừng trúc có một diện mạo lịch sử vừa đậm chất nghệ thuật,
lại đầy chất lịch sử. Vẫn là những sự kiện và nhân vật lịch sử quen thuộc ấy,
nhưng hiện thực lịch sử trong tác phẩm đã trở thành hoàn cảnh thử thách nhân
vật lịch sử. Theo đó, các nhân vật lịch sử đều trở nên lý trí, tỉnh táo đến phi
44
thường. Hoàn cảnh lịch sử trong tác phẩm vừa tiếp tục được không khí bi kịch
của giai đoạn lịch sử đó, vừa mang chở được tâm sự của nhà văn.
Vượt lên một cốt truyện cụ thể, thì đây còn là câu chuyện của một thời
khắc lịch sử, khi những đòi hỏi tất yếu của lịch sử cho sự tồn vong của giang
sơn, buộc những nhân vật lịch sử phải cân nhắc giữa tình riêng và nghĩa
chung. Mẹ trở nên tàn tệ với con cũng bởi sự tồn vong của sơn hà xã tắc, của
sự biết nhìn xa trông rộng khi ba đời nhà Lý đã bê tha hưởng lạc để dân tình
khốn khổ. Chồng cạn tình với vợ cũng là bởi sự duy trì của dòng tộc. Chiêu
Thánh dám đối diện với tất cả sự thật cay đắng đó cũng là bởi đã ý thức hết
trọng trách lịch sử của mình, ý thức được sự cần thiết phải hy sinh của bản
thân mình cho xã tắc. Tất nhiên, điều này sẽ thuyết phục nếu nhìn từ yêu cầu
của “việc nước”, còn ở khía cạnh “việc người” với tinh thần nhân bản vốn có
trong mỗi người thì đây là những hành động không dễ gì được chấp nhận,
chia sẻ. Vì lẽ đó, thông điệp Việc nước là lớn nhất, nhưng việc người với
người cũng không thể là nhỏ hơn đã không những chuyển tải được tâm tư của
nhà văn mà còn kết nối được sự kiện lịch sử năm xưa với đời sống của hiện
thực đương đại. Diện mạo lịch sử trong Rừng trúc đã thể hiện rõ nhận thức và
quan điểm sáng tạo của nhà văn Nguyễn Đình Thi về lịch sử. Ông đã tái tạo
lịch sử bằng những luận giải sắc sảo của mình, đồng thời gửi gắm nhiều tâm
sự về việc nước, việc người - những vấn đề “nóng” đang được đặt ra ở thời
đại ông đang sống. Tác phẩm đã cập nhật được tới những vấn đề mà con
người hiện đại quan tâm, cho dù nó viết về một câu chuyện lịch sử từ triều đại
Lý - Trần.
Cùng viết về nhân vật lịch sử Lý Chiêu Hoàng, nhưng trong Cột trụ
chống trời, tác giả Nguyễn Anh Biên đã lựa chọn và xử lý sự kiện dưới một
góc tiếp cận khác. Giai đoạn khi Chiêu Hoàng còn nhỏ, tác giả đã khai thác
sự kiện Lý Huệ Tông truyền ngôi cho con. Khi đó, Chiêu Hoàng còn là một
45
đứa trẻ lên 8, trong sáng, thơ ngây, không ý thức hết được trọng trách cũng
như những vinh hoa mà ngai vàng mang lại. Khi được cha truyền ngôi, Chiêu
Hoàng ngỡ ngàng đến mức sợ hãi. Nàng không thể hiểu được chuyện gì đang
xảy ra và đã ngúng nguẩy từ chối “Con không thích ngồi trên ngai vàng đâu,
con không thích đội vương miện đâu, con không thích mặc áo long bào đâu.
Sao vua cha lại nhường ngôi cho con?”.
Sự kiện này được tác giả sử dụng như sự kiện khởi đầu, để sau đó, ông
dùng tiếng vọng trong cánh gà để khắc họa cảnh chơi đùa cưỡi ngựa, đuổi
bướm, hái hoa giữa Chiêu Hoàng và Trần Cảnh, dẫn đến ý đồ soán ngôi của
Trần Thủ Độ. Sự kiện Chiêu Hoàng lên ngôi không quan trọng đối với nhà
văn Nguyễn Đình Thi khi viết Rừng trúc nhưng lại vô cùng quan trọng với
tác giả Nguyễn Anh Biên khi ông viết Cột trụ chống trời. Có thể nói, đây là
sự kiện then chốt đưa đến tấn bi kịch của cuộc đời Lý Chiêu Hoàng sau này.
Sự kiện này được bắt đầu với bao dự báo bất trắc đang rình rập, vì vua cha từ
bỏ ngai vàng vào chùa Chân Giáo quy y cửa Phật, con gái lên kế nghiệp còn
quá nhỏ bé, ngây thơ. Tác giả Nguyễn Anh Biên đã lấy sự kiện khởi đầu tấn
bi kịch Lý Chiêu Hoàng làm sự kiện khởi đầu trong kịch của ông. Sự tuân
thủ về mặt logic thời gian này khiến câu chuyện kịch thống nhất về mặt nội
dung, phù hợp với kết cấu của một tác phẩm chính kịch, song lại chưa thực
sự tạo được ấn tượng.
Khi Chiêu Hoàng trở thành một thiếu nữ 19 tuổi, biết nhận thức sự
đúng sai, phải trái, đồng thời biết được mình đã trở thành một con rối trong
tay người khác thì bao nhiêu biến cố đã xảy ra với nàng: cha bị bức tử, mẹ đẻ
thông đồng với Trần Thủ Độ mưu toan cướp ngôi nhà Lý cho nhà Trần rồi tái
giá với Trần Thủ Độ, hoàng tử Trịnh vừa sinh ra đã chết yểu Nguyễn Anh
Biên không trực tiếp tái hiện lại những bi kịch đó trong kịch bản của mình mà
tập trung vào sự kiện Chiêu Thánh phải nhường nốt ngôi hoàng hậu. Hiện tại
46
bế tắc, quá khứ ám ảnh, đã khiến tâm tư nàng không lúc nào nguội, lúc nào
cũng sôi lên.
Bằng sự dồn nén sự kiện kịch, dẫn đến bội số về tấn bi kịch của Lý
Chiêu Hoàng, Nguyễn Anh Biên đã lý giải hợp lý tại sao nàng lại trở thành
một con người đầy thù hận, chứ không bao dung và rộng lượng như Chiêu
Thánh của Nguyễn Đình Thi. Bởi vì, qua Cột trụ chống trời, Nguyễn Anh
Biên muốn đề cập đến thân phận một con người trước ván cờ thế sự. Chiêu
Thánh là nạn nhân, là con rối trong tay những toan tính, sắp đặt, vì thế, nàng
không thể vượt lên hoàn cảnh để tha thứ hay bao dung cho những kẻ đã gây
nên bi kịch của đời nàng.
Diện mạo lịch sử ở thời khắc chuyển giao quyền lực giữa nhà Lý và
nhà Trần trong kịch Nguyễn Anh Biên nghiêng nhiều về thù hận và có phần u
uất. Chính tác giả đã từ ý đồ sáng tạo của mình mà tạo dựng lên không khí ấy.
Nếu như nhà văn Nguyễn Đình Thi gửi gắm những suy tư “luận đề” của mình
ở nhân vật Chiêu Thánh thì Nguyễn Anh Biên đặt lên vai nhân vật Trần Thủ
Độ. Tác giả đã ví Trần Thủ Độ với hình ảnh của chiếc cột trụ chống trời và
biện minh cho lỗi lầm của nhân vật bằng sứ mệnh gánh vác giang sơn.
Nguyễn Anh Biên đã tổ chức sự kiện theo đúng logic lịch sử, đặt nhân vật lịch
sử trong mối xung đột giữa lợi ích quốc gia và hạnh phúc riêng tư, hài hòa
trong “không gian” của tác phẩm chính kịch. Chính tác giả đã nâng tầm xung
đột trong lịch sử, chuyển nó thành mối quan hệ giữa chuyện quốc gia đại sự
với hạnh phúc riêng tư và lựa chọn của nhân vật hiển nhiên sẽ nghiêng về
phía quốc gia đại sự. Xung đột trong tác phẩm đã trở thành xung đột có tính
chất xã hội và tác giả Nguyễn Anh Biên có cơ hội để biện minh cho những
hành động của Trần Thủ Độ.
Nhà viết kịch Chu Thơm trong kịch bản Mỹ nhân và anh hùng lại lựa
chọn cách tổ chức sự kiện lịch sử theo mạch kể chuyện qua sự hiện diện của
47
các nhà chép sử. Vào kịch là sự kiện kiệu của Trần Thị Dung ngang nhiên đi
vào thềm cấm, bị quân hiệu ngăn lại, Trần Thị Dung và 2 lính tháp tùng tức
giận, xô xát xảy ra. Trần Thủ Độ xuất hiện, ông ta bênh vực quân hiệu vì họ
đang làm đúng chức trách của mình. Trần Thị Dung hờn dỗi quay kiệu về.
Những bí mật trong cung cấm được hé lộ qua cách kể của các nhà chép sử:
Vua Lý Huệ Tông bị trúng phong nên đau yếu, buồn bực, suốt ngày uống
rượu rồi ngủ li bì. Việc chính sự giao cả cho Trần Tự Khánh. Tự Khánh chết,
quyền lực rơi vào tay người em họ là Trần Thủ Độ. Thủ Độ ép Huệ Tông
nhường ngôi lại cho con gái thứ là Chiêu Thánh mới lên tám tuổi, bức tử Lý
Huệ Tông, dàn xếp cuộc hôn nhân giữa Chiêu Hoàng và Trần Cảnh, sau đó,
dàn xếp tiếp việc Chiêu Hoàng nhường ngôi cho Trần Cảnh.
Sự kiện thứ hai là việc Trần Thủ Độ ép Trần Cảnh lấy Thuận Thiên
đang bụng mang dạ chửa, vì Chiêu Thánh mãi không có con. Trần Cảnh đau
xót vì bị ép vào thế phải phụ bạc Chiêu Thánh, thương và lo cho số phận
Chiêu Thánh nên đã quyết định sống mái một trận với Trần Thủ Độ. Chiêu
Thánh can ngăn Trần Cảnh không nên vì nàng mà hãy vì giang sơn Đại Việt.
Trần Cảnh không còn lựa chọn nào khác đành quỳ xuống tạ tội với Chiêu
Thánh. Thuận Thiên và Chiêu Thánh tỏ thái độ oán hận với Thiên Cực. Trần
Thủ Độ bênh vực vợ, nhắc Chiêu Hoàng phải hiểu tình thế của mình. Ông ta
không phải là kẻ cướp ngôi nhà Lý, mà chỉ là người chuyển vương triều Lý
sang vương triều Trần khi triều Lý đã mục ruỗng không thể cứu vãn được,
nếu không dựng nhà Trần lên thì bọn phản loạn Quách Bốc, họ Nguyễn, họ
Đàm sẽ biến nước Đại Việt thành “nồi da nấu thịt”.
Sự kiện thứ ba là Trần Cảnh rời bỏ ngai vàng lên Yên Tử. Trần Thủ Độ
lên Yên Tử gặp Trần Cảnh báo tin Hoài Vương dấy binh khởi loạn và yêu cầu
nhà vua phải xử tội chết nhưng không được chấp nhận. Khuyên Trần Cảnh về
48
kinh không được, Trần Thủ Độ tuyên bố vua ở đâu thì triều đình ở đó, Trần
Cảnh buộc phải trở về kinh thành.
Sự kiện thứ tư là việc gả chồng cho Chiêu Thánh 20 năm sau. Trần
Cảnh muốn thưởng công cứu giá cho tướng quân Lê Phụ Trần nhưng xét thấy
vàng bạc, lụa là thì không xứng, mà chức Thái úy thì Tướng quốc Trần Quang
Khải đang nắm giữ nên hỏi ý kiến Trần Thủ Độ và Trần Thị Dung. Hai vợ
chồng xin Trần Cảnh tác thành cho Chiêu Thánh và Lê Phụ Trần.
Sự kiện thứ năm là thời điểm 19 năm sau (1278). Chiêu Thánh đã ở
tuổi 60, đã có với Lê Phụ Trần hai người con. Bà nhớ lại những sự kiện chính
đã xảy ra trong gia đình mình, nhớ lại những người đã khuất: Chị Thuận
Thiên, mẹ Trần Thị Dung, Trần Cảnh, Trần Thủ Độ Bà hiểu rằng, vương
triều Lý - một vương triều lẫy lừng kéo dài hơn hai trăm năm với chín đời
vua làm cho đất nước thái bình, trăm họ yên vui, no ấm. Cái cũ phải ra đi
thì cái mới mới đến. Vì vậy, cho dù rực rỡ đến mấy thì nhà Lý cũng phải tan
rã, nhường chỗ cho một vương triều mới - đó là vương triều Trần Rất may
đây là một vương triều được lãnh đạo bởi những con người kiệt xuất, đó là
Trần Thái Tông, Trần Thủ Độ, Trần Quốc Tuấn đó là những hào kiệt của
nước Nam.
Tác giả Chu Thơm vẫn tiếp tục xung đột trong lịch sử, đó là xung đột
giữa tham vọng thống trị, giữa sự tồn vong của giang sơn xã tắc với tình cảm
giữa con người với con người mà đại diện là Trần Thủ Độ, Trần Thị Dung với
Lý Chiêu Hoàng và nhà Lý. Trần Thủ Độ và họ Trần vẫn ở trên thế thắng,
trên danh nghĩa là người chuyển vương triều từ nhà Lý sang nhà Trần khi nhà
Lý đã hết vai trò lịch sử chứ không phải kẻ cướp ngôi. Đời sống lịch sử của
giai đoạn chuyển giao quyền lực giữa hai triều đại Lý - Trần đã được tác giả
Chu Thơm tái hiện sinh động, đầy đủ, qua đó, ông gửi gắm những tâm sự về
49
thế nước và tình nhà. Những hy sinh mà nhân vật lịch sử trong kịch phải trải
qua đã nhận được sự chia sẻ của khán giả đương thời.
Điều thú vị là các sự kiện lịch sử trong kịch Mỹ nhân và anh hùng đã
được kết nối bởi cách kể và cách dẫn của hai nhà chép sử. Tác giả đã chọn
cách đi vào chính sử qua thân phận của những người chép sử. Họ vừa là
người chép sử, là nhân chứng lịch sử, đồng thời là dẫn chuyện để mỗi cảnh
kịch giống như một trang sử mở ra. Những nỗi niềm về thế thái nhân tình của
tác giả qua đó được bộc lộ. Không giống với các nhà viết kịch đi trước, Chu
Thơm đã chọn cách tiếp cận từ thân phận lịch sử của Lý Chiêu Hoàng và Trần
Thủ Độ. Ông coi họ là mỹ nhân và anh hùng của giai đoạn lịch sử đó. Họ phải
chấp nhận hy sinh hạnh phúc của riêng mình, chấp nhận sự lên án của lịch sử
vì trọng trách lịch sử họ đã gánh trên vai. Hiện thực lịch sử trong tác phẩm
cũng được xây dựng theo cách hướng đến lý giải thân phận mỹ nhân và anh
hùng của Lý Chiêu Hoàng và Trần Thủ Độ. Điều thú vị là ngay tại vở diễn về
đề tài lịch sử, tác giả đã bày tỏ quan điểm về chân thực lịch sử qua chính thân
phận của những người chép sử. Đối diện với sức ép từ nhiều phía, có những
lúc nhà chép sử đã không còn được là chính mình, đã thỏa hiệp với giai cấp
thống trị để được sống, nhưng rồi tính mạng họ cũng không được bảo toàn.
Việc sắp xếp, tổ chức lại sự kiện lịch sử hiển nhiên sẽ dẫn đến sự hình
thành một diện mạo lịch sử mới trong tác phẩm, mang đầy dấu ấn và ý đồ
sáng tạo của nhà viết kịch. Quá trình tổ chức sự kiện lịch sử trong tác phẩm,
có tác giả lựa chọn cách trung thành với tinh thần của lịch sử, nhưng cũng có
những tác giả xây dựng một diện mạo lịch sử mới, tùy theo cách tiếp cận và
nhận thức của từng người về lịch sử. Điều này đã dẫn đến sự hình thành một
hiện thực lịch sử vô cùng phong phú trong các tác phẩm văn học nghệ thuật
nói chung và sân khấu kịch nói riêng. Sự phong phú này chỉ có thể có được
thông qua những dấu ấn sáng tạo, qua những trăn trở của con người hậu thế
50
khi nhìn về lịch sử. Ba tác phẩm của ba tác giả hiện đại đều mang đến những
tinh thần hiện đại cho những chất liệu lịch sử xưa cũ. Cả ba tác phẩm này đều
để lại những dấu ấn riêng trong đời sống tinh thần của khán giả đương thời.
Nhưng ở Rừng trúc là dấu ấn của những luận giải sắc sảo, những phát hiện
tinh tế về việc nước và việc người của một nhà văn, nhà thơ, một nhạc sĩ tài
hoa. Tư tưởng nhân văn của ông được gửi gắm lặn sâu vào tác phẩm trong
những quan điểm sống đầy vị tha của Chiêu Thánh và cái kết có hậu cho hạnh
phúc của nàng. Việc xử lý, tổ chức lại sự kiện lịch sử trong tác phẩm cũng
mang đầy dấu ấn của một thi sĩ tài hoa khi ông hoán đổi thứ tự xuất hiện của
chúng để khắc họa một không gian kịch đầy triết lý và không kém phần lãng
mạn. Không “chơi kịch” như nhà văn Nguyễn Đình Thi, tác giả Nguyễn Anh
Biên là người của sân khấu, ông thận trọng trong việc tuân thủ logic, cấu trúc
của tác phẩm kịch. Phát hiện của ông về biểu tượng cột trụ chống trời gắn với
hình tượng Trần Thủ Độ cùng những trọng trách lịch sử lớn lao mà nhân vật
phải đảm trách đã đưa câu chuyện lịch sử năm xưa kết nối được với đời sống
hiện thời. Có thể nói, đó là những vấn đề muôn thuở, đã được xác lập từ lâu
trong ý thức hệ của người phương Đông đã được tác giả phát hiện và lý giải
trong tác phẩm của mình. Tác phẩm xuất hiện sau nhất là Mỹ nhân và anh
hùng của tác giả Chu Thơm vào năm 2009. Đứng trước những thành công lớn
của các tác giả đi trước, ông đã biết tìm c...hí:
Phát hiện, tiếp cận, phản ánh những vấn đề đang là mối quan tâm chung của
con người, xã hội; Lý giải những vấn đề được phản ánh bằng quan điểm mới,
tiến bộ, khoa học, nhân văn; Tác phẩm mang được tinh thần thời đại của đối
tượng phản ánh, của người sáng tác và có sự kết nối tinh tế với những vấn đề
mà xã hội đương đại quan tâm; Tác phẩm được chuyển tải bằng một hình thức
và phương tiện nghệ thuật hiện đại, giàu tính biểu cảm, đáp ứng được nhu cầu
thưởng thức của khán giả đương thời.
Tính hiện đại trong nghệ thuật sân khấu đã được phần lớn các nhà hoạt
động sân khấu đồng nhất với tính đương đại, tính đương thời, tính thời đại với
mục đích diễn tả việc sáng tạo bằng quan điểm, tư duy hiện đại, hướng tới đời
sống đương đại của các tác phẩm sân khấu. Dưới góc độ nào đó, tính hiện đại
130
trong nghệ thuật sân khấu nói riêng và trong tác phẩm văn học nghệ thuật nói
chung đã bao hàm các giá trị của tính đương đại, tính thời đại, tính đương thời
và tính thời sự... Tuy nhiên, tính hiện đại đặc biệt chú trọng đến sự mới mẻ,
nhạy bén trong khả năng khám phá, phát hiện hiện thực và sự sâu sắc, tinh tế,
khoa học trong cách luận giải hiện thực được phản ánh trong tác phẩm.
2. Tác phẩm sân khấu về đề tài lịch sử lấy những sự kiện và nhân vật
có thật trong lịch sử làm đối tượng miêu tả. Khi đưa lịch sử trở về với hiện tại,
hiển nhiên người sáng tạo đã nhào nặn, làm mới lịch sử bằng quan điểm, nhận
thức của mình. Là sản phẩm của trí tuệ hiện đại nên tác phẩm sẽ mang hơi thở
hiện đại, tinh thần thời đại, cho dù tác giả có dụng ý hay không. Nói cách
khác, sự trở về của những nhân vật, sự kiện, câu chuyện lịch sử qua lăng kính
sáng tạo của người nghệ sĩ đương thời đã làm nên tính hiện đại cho tác phẩm.
Tính hiện đại trong tác phẩm kịch nói về đề tài lịch sử là một sự chi
phối tất yếu, nó sẽ bộc lộ rõ ràng nhất ở hai quy trình sáng tạo là tiếp cận, tái
hiện sự kiện lịch sử và tiếp cận, sáng tạo nhân vật lịch sử trong tác phẩm. Tác
phẩm kịch nói về đề tài lịch sử sẽ đạt được tính hiện đại khi ở cả hai quy trình
này người nghệ sĩ tiếp cận, lý giải lịch sử, thậm chí nhận thức, đánh giá lại
lịch sử bằng quan điểm tiến bộ, khoa học, nhân văn của hôm nay trên cơ sở
tôn trọng logic và tinh thần lịch sử, những vấn đề lịch sử được lựa chọn phải
chứa đựng mối quan tâm của con người thời đại, mang chở được tâm tư của
nhiều người và đối thoại được với đương thời. Sản phẩm sáng tạo mang được
tinh thần thời đại nhưng không xung đột với tâm thức của cộng đồng về các giá
trị lịch sử.
Tuy nhiên, không phải mọi tác phẩm kịch nói về đề tài lịch sử đều có thể
đạt được tiêu chí này, nhưng cũng không vì thế mà chúng ta phủ nhận nó
không có tính hiện đại. Bản thân việc đưa các vấn đề lịch sử trở lại trên sân
khấu hôm nay là người sáng tạo đã đưa tính hiện đại vào tác phẩm qua quan
131
điểm, mục đích sáng tạo của mình cho dù có ý thức hay vô thức. Tính hiện đại
do đó là sự chi phối tất yếu đến tác phẩm kịch nói về đề tài lịch sử mà bản thân
người sáng tạo cũng không thể nào né tránh. Bên cạnh việc mang lại sức hấp
dẫn cho tác phẩm, mang đến một cách nhìn mới từ những câu chuyện, sự kiện,
nhân vật lịch sử xưa cũ, tính hiện đại cũng có thể khiến cho hiện thực lịch sử
trong tác phẩm bị bóp méo, xuyên tạc khi người nghệ sĩ áp đặt cách nghĩ, cách
tư duy của con người hiện đại lên lịch sử.
3. Quá trình tiếp cận, tái hiện sự kiện lịch sử trong tác phẩm bằng cảm
quan sáng tạo của người nghệ sĩ hôm nay là tác giả đã trực tiếp hoặc gián tiếp
mang đến tính hiện đại cho tác phẩm. Tính hiện đại khi đó sẽ được thể hiện ra
trong khả năng phát hiện, lựa chọn những sự kiện lịch sử chứa đựng những
vấn đề được con người trong mọi xã hội, mọi thời đại quan tâm. Ở khả năng
tổ chức lại sự kiện lịch sử, hình thành một diện mạo lịch sử mới trong tác
phẩm, mang chở được quan điểm và khát vọng sáng tạo. Là khả năng phát
hiện, phát triển để nhân lên ý nghĩa của sự kiện lịch sử, lan tỏa nó tới đời sống
đương thời. Là sự tỉnh táo, bản lĩnh, khoa học khi nhận thức lại sự kiện lịch sử
để tiếp cận gần hơn tới bản chất của lịch sử và hiện thực hóa nó trên sân khấu
hôm nay. Tính hiện đại trong tác phẩm kịch nói về đề tài lịch sử còn được thể
hiện trong khả năng hư cấu hợp lý sự kiện lịch sử của nhà viết kịch. Nó thể
hiện ở những sáng tạo trên quan điểm mới mẻ, nhưng hợp lý, logic trong hoàn
cảnh lịch sử và hoàn cảnh được quy định trong tác phẩm.
Quá trình sáng tạo nhân vật lịch sử trong tác phẩm, nhà viết kịch đã gửi
vào đó những cảm nhận, đánh giá của con người hôm nay về lịch sử. Đối với
sáng tạo nhân vật lịch sử, việc định hình tính cách, lý giải số phận, sáng tạo
ngôn ngữ đều thể hiện rõ ràng bản ngã sáng tạo của tác giả và giúp tác giả
mang đến cách tiếp cận, cách nhìn mới đối với nhân vật lịch sử. Khi sáng tạo
132
nhân vật lịch sử, người nghệ sĩ bao giờ cũng đứng trước những ranh giới không
thể bước qua, đó là logic lịch sử và bản chất của lịch sử.
4. Khi tìm đến với đề tài lịch sử, mỗi nghệ sĩ đều có lý do của riêng
mình, song tựu chung, họ đều gặp nhau ở chỗ, hoặc do sự thôi thúc của hiện
thực thời đại mình, hoặc chính lịch sử đã gợi mở những liên tưởng nào đó đến
vấn đề của ngày hôm nay. Và dù có dụng ý hay không, bao giờ người nghệ sĩ
cũng làm mới hiện thực lịch sử từ cách nhìn nhận, đánh giá lịch sử của mình.
Người nghệ sĩ không bao giờ có thể thoát ly khỏi môi trường, tâm thế, tinh
thần... của thời đại mình đang sống và sáng tạo. Khi sáng tác về đề tài lịch sử,
họ mặc nhiên được thừa hưởng những lợi thế và cả những hạn chế tự nhiên
mà thời đại mang lại. Đó là độ lùi về thời gian, giúp người nghệ sĩ có được cái
nhìn bao quát hơn, toàn diện hơn về lịch sử. Hơn nữa, môi trường sống hiện
đại với những tri thức mới mẻ mà thời đại đã tích lũy được sẽ giúp người
nghệ sĩ có được sự chiêm nghiệm sâu sắc hơn khi ngoái nhìn lại quá khứ. Đặc
biệt là sự cộng hưởng của tâm thế thời đại đã gợi mở, kích thích người nghệ sĩ
phát hiện ra những mối liên hệ sâu xa, những đồng vọng thiết tha giữa lịch sử
và hiện tại. Tất cả những điều này đều được cụ thể hóa trong mỗi sản phẩm
sáng tạo của người nghệ sĩ. Và ở tâm thế của thời đại mình, người nghệ sĩ đã
mang đến cách nhìn mới về lịch sử, sáng tạo theo sự mách bảo của những suy
cảm hôm nay khi nhìn về lịch sử. Vì thế, nếu như đồng nhất những vấn đề
được phản ánh trong tác phẩm nghệ thuật với hiện thực lịch sử được ghi chép
trong sử sách, lấy tiêu chí của khoa học sử để đánh giá tác phẩm là không
công bằng với lịch sử, cũng như không công bằng với tác phẩm nghệ thuật.
5. Từ những vấn đề nghiên cứu được đặt ra của luận án, chúng tôi xin
bày tỏ một vài quan điểm trong sáng tạo sân khấu về đề tài lịch sử.
Thứ nhất, sự cộng hưởng của tâm thế thời đại cùng với sự nhạy cảm
của bản thân đã khiến nhà viết kịch phát hiện ra mối liên hệ sâu xa giữa
133
những vấn đề của lịch sử và hiện tại, phát triển nó trong tác phẩm để đối thoại
với khán giả đương thời. Hầu hết các vấn đề của lịch sử đều có sự gắn bó nào
đó với hiện tại, ở phạm vi gần hoặc xa. Để đưa lịch sử ngày hôm qua trở về
với hiện tại một cách thực sự hữu ích, nhà viết kịch cần phát hiện và lựa chọn
trong lịch sử những vấn đề là mối quan tâm chung của con người thời đại.
Qua tác phẩm, những bài học, những kinh nghiệm của lịch sử cùng những
luận giải tích cực của tác giả trên quan điểm của ngày hôm nay sẽ gợi mở,
định hướng giúp khán giả đương đại hiểu hơn về lịch sử, đồng thời tháo gỡ
phần nào đó những bế tắc trong cuộc sống hiện thời, tiếp cận gần hơn tới lẽ
phải, sống hướng thiện và có ích hơn.
Để đạt tới hiệu quả đó, nhà viết kịch phải tiếp cận và lý giải lịch sử
bằng nhận thức và quan điểm khoa học, phát triển lịch sử trên cơ sở logic lịch
sử chứ không phải từ đòi hỏi của cuộc sống đương thời. Tuy nhiên, phải tạo
ra được sự kết nối tinh tế với hiện thực đương thời. Sự kiện và nhân vật lịch
sử trong tác phẩm phải được đặt trong mối quan hệ logic với thời đại của nó,
đồng thời, phải hợp lý trong sự lý giải bằng quan điểm của hôm nay.
Thứ hai, hư cấu sự kiện và nhân vật lịch sử để hoàn thiện đời sống lịch
sử trong tác phẩm là đòi hỏi tất yếu của sáng tác về đề tài lịch sử. Để những
hư cấu này hợp lý, có ích và không xung đột với lịch sử, nhà viết kịch nên hư
cấu những sự kiện, nhân vật mà lịch sử không ghi chép hoặc ghi chép vắn tắt.
Trong giới hạn này, người nghệ sĩ có thể phát huy tối đa khả năng sáng tạo
của mình, lấp đầy những khoảng trống mà các nhà viết sử không thể ghi chép
hết. Tuy nhiên, những sự kiện và nhân vật được hư cấu này phải được đặt trên
nền móng vững chắc của sự am hiểu lịch sử, tôn trọng logic và tinh thần lịch
sử, làm sao để chúng trở thành một bộ phận hữu cơ của đời sống lịch sử, hợp
lý trong hoàn cảnh lịch sử đó (cả trong hiện thực lịch sử và trong tác phẩm).
134
Thứ ba, mọi sáng tạo về tính cách, hoàn cảnh, số phận, ngôn ngữ
nhân vật lịch sử đều phải tuân thủ nguyên tắc sáng tạo nhân vật kịch và hợp lý
trong bối cảnh của thể tài, thể loại kịch mà tác giả lựa chọn. Những sáng tạo
này vừa phải tiếp tục được bản chất của nhân vật lịch sử, vừa hoàn thiện về
đời sống tinh thần, vật chất của nhân vật lịch sử. Phía sau mỗi nhân vật lịch sử
luôn là bóng dáng của nhà viết kịch, tuy nhiên, nhà viết kịch không thể chi
phối thô bạo, áp đặt cách nghĩ, cách hành động của con người hiện đại lên
nhân vật lịch sử. Việc gửi gắm quan điểm, tư tưởng tác giả qua nhân vật lịch
sử phải được tiến hành cẩn trọng, tinh tế, tôn trọng sự tồn tại độc lập của nhân
vật lịch sử. Mọi sự can thiệp thô bạo, thiếu hợp lý đều biến nhân vật lịch sử
trở thành cái loa phát ngôn cho lập trường, quan điểm của nhà viết kịch.
Thứ tư, mọi sáng tạo của tác giả trong tác phẩm đều phải đặt trước
mục đích hiện thực hóa nó trên sàn diễn bằng nghệ thuật của đạo diễn và diễn
viên. Kịch là thể loại sân khấu diễn tả cuộc sống bằng hành động trong xung
đột, thông qua ngôn ngữ đối thoại, vì thế, những nguyên tắc của biên kịch sân
khấu về hành động, xung đột, ngôn ngữ, thể tài, thể loại cần được tác giả
quan tâm, tôn trọng. Ngôn ngữ nhân vật trong kịch bản không dừng lại ở yếu
tố “đọc” hay “nghe” mà bao giờ cũng hướng tới mục đích “nghe, nhìn”, phục
vụ cho yêu cầu “nghe, nhìn” của nghệ thuật sân khấu. Mọi nỗ lực “làm mới”
diện mạo lịch sử, tìm kiếm sự kết nối giữa hiện thực lịch sử với hiện thực
đương đại của tác giả chỉ thực sự có hiệu quả khi đạo diễn đồng cảm được với
tác giả, tiếp tục được ý tưởng sáng tạo của tác giả và phát triển nó trên sân
khấu. Nếu như những ý tưởng mới, khoa học của tác giả không gặp được
quan điểm sáng tạo tiến bộ của đạo diễn thì tác phẩm sân khấu ấy cũng khó có
thể đạt được tính hiện đại.
Thứ năm, do đặc thù của đề tài nên tác phẩm kịch về đề tài lịch sử
luôn phải chịu sức ép của cả lịch sử và nghệ thuật. Sức ép về mặt lịch sử, là
135
sự chi phối của những nguyên tắc, tiêu chí về chân thực lịch sử trước mỗi
sáng tác về đề tài lịch sử. Dưới góc độ nào đó, những đòi hỏi này là chính
đáng, bởi lẽ, kịch nói đã lựa chọn một đề tài lấy sự kiện và nhân vật có thật
làm đối tượng miêu tả. Sức ép về mặt nghệ thuật, đó là sự tươi mới, hấp dẫn,
sự hoàn thiện và sức sống của mỗi hình tượng nghệ thuật trong tác phẩm. Nếu
thiếu đi sự tươi mới, hấp dẫn, thiếu những hình tượng nghệ thuật có sức sống
thì tác phẩm nghệ thuật chưa thể được xem là thành công. Tuy nhiên, với tư
cách là tác phẩm nghệ thuật, kịch nói phải tuân thủ và đáp ứng tiêu chí của
một tác phẩm nghệ thuật mà không thể bị áp đặt bởi tiêu chí của khoa học sử.
Nghệ thuật xem trọng hư cấu, lấy hư cấu làm giá trị, sử học xem trọng
biên niên sự kiện, lấy sự thật làm giá trị. Trên thực tế, cả nghệ thuật và lịch sử
đều không thể thực hiện tôn chỉ này một cách toàn vẹn. Vì, cho dù có cố gắng
đến đâu thì sử học cũng không thể có được một cái nhìn khách quan, chân
thật tuyệt đối, bên cạnh dòng lịch sử thực tế khách quan bao giờ cũng tồn tại
dòng lịch sử nhận thức chủ quan của người đương thời, trong đó có người
chép sử. Dù nhà sử học có trình độ học vấn uyên thâm đến đâu, cũng không
thể khách quan hoàn toàn khi viết sử và bản thân khoa học sử cũng chưa thể
đạt đến sự khách quan tuyệt đối. Khái niệm "chân thật lịch sử" là lý tưởng,
thậm chí còn mang nhiều tính chủ quan thì tại sao lại áp đặt cho nghệ thuật -
một sản phẩm của trí tưởng tượng, sáng tạo phải đảm bảo sự "chân thật lịch
sử"?
Khoa học lịch sử đi tìm và dựng lại bộ mặt lịch sử như nó đã từng xảy
ra trong quá khứ theo trình tự thời gian, còn tác phẩm kịch nói về đề tài lịch
sử đi tìm những nét tiêu biểu, những hành động điển hình trong những hoàn
cảnh điển hình nhằm tái hiện con người và sự kiện lịch sử như nó có thể xảy
ra. Nhà sử học quan tâm đến sự đầy đủ, xác thực, cốt để mỗi sự kiện, nhân vật
tự nói lên ý nghĩa thì đối với người nghệ sĩ là sự sáng tạo ra những ý nghĩa
136
mới của sự kiện, nhân vật lịch sử. Khoa học lịch sử nhìn thấy những bài học
chính trị phía sau mỗi sự kiện lịch sử thì tác phẩm kịch gợi ý những bài học
có ý nghĩa nhân sinh. Nếu như công việc của nhà sử học có lúc đạt đến sự
hoàn tất thì công việc sáng tạo của người nghệ sĩ lại không cùng.
Lịch sử dù rộng lớn đến đâu, khi trở thành đề tài của kịch nói thì cũng
giống như bao đề tài khác, nó vẫn phải tuân thủ các đặc trưng, quy luật sáng
tạo của kịch nói. Nhân vật lịch sử khi đó sẽ trở thành nhân vật của kịch nói và
chịu sự chi phối của những nguyên tắc sáng tạo kịch nói. Dù có là anh hùng
hào kiệt, kinh bang tế thế thì nhân vật lịch sử vẫn phải do một nghệ sĩ thể hiện
và hiển nhiên nó sẽ mang những dấu ấn sáng tạo của cá nhân người nghệ sĩ
ấy. Tính chân thực ở đây chính là việc để người xem tin là thực, chứ không
phải giống như thực. Tiêu chí tin là thực chính là khoảng mở cho những sáng
tạo của người nghệ sỹ, tác phẩm hướng đến mục đích tái hiện cái tinh thần
lịch sử, tâm thức của lịch sử chứ không phải việc sao chép lịch sử. Tinh thần
và tâm thức của lịch sử là những điều có thể không được ghi chép trong sử
sách nhưng lại có thể xảy ra bởi mối liên hệ và sự vận động theo quy luật tất
yếu của nó.
Tác phẩm kịch nói về đề tài lịch sử không làm nhiệm vụ minh họa lịch
sử, cũng không phải là một bài học về luân lý đạo đức cũ. Các nghệ sĩ cũng
không ai đặt mục tiêu dạy sử bằng tác phẩm sân khấu. Thực chất của sáng tạo
kịch nói về đề tài lịch sử là khai thác hiện thực lịch sử theo một cách thức tiếp
cận mới, một cảm hứng mới trên nguyên tắc vừa tôn trọng lịch sử vừa tôn
trọng tính chân thực nghệ thuật. Sáng tạo ấy chuyển tải thông điệp của người
nghệ sĩ hướng tới người xem đương đại. Cũng giống như các loại hình nghệ
thuật khác, sân khấu kịch nói đề tài lịch sử có thể mang lại những bài học và
thực hiện chức năng giáo dục, tuy nhiên giáo dục thông qua tác phẩm kịch
không giống với việc dạy sử ở phổ thông mà bao giờ cũng thông qua các hình
137
tượng nghệ thuật, tuân thủ nguyên tắc của sáng tạo nghệ thuật. Nếu như lấy
tiêu chí phản ánh đúng "người thực việc thực" và lấy kiến thức trong sử sách
để cân đo những sáng tạo của người nghệ sĩ trong tác phẩm là đúng hay
không đúng với lịch sử thì sẽ không bao giờ tiếp cận được với giá trị đích
thực của tác phẩm.
Tác phẩm kịch nói về đề tài lịch sử là sản phẩm sáng tạo của cá nhân
người nghệ sĩ, cho dù có cố gắng đến đâu thì cũng không thể làm phép hồi
sinh đối với sự kiện và nhân vật lịch sử. Ngay cả khi người nghệ sỹ có may
mắn được sống cùng thời với sự kiện và nhân vật lịch sử nào đó thì cũng chỉ
tiệm cận đến sự thật nguyên mẫu của lịch sử mà thôi. Tác phẩm kịch về đề tài
lịch sử là hành trình tiếp tục chặng đường mà các sử gia dừng lại để tìm tòi,
tiên nghiệm một sự thật còn hơn cả sự thật được ghi trong sử sách, đó là sự
thật theo lòng người, theo lẽ đời mà con người ở mọi thời đại khác nhau đều
có thể đồng cảm, sẻ chia.
Với tác phẩm kịch nói đề tài lịch sử nói riêng và văn học nghệ thuật đề
tài lịch sử nói chung, khi nào nhà sử học ngừng bút thì người nghệ sĩ bắt đầu.
Sự bắt đầu ấy được sáng tạo trên nguyên tắc tuân thủ phẩm chất cốt lõi nhất
của lịch sử, đó là tinh thần của lịch sử, hồn cốt của lịch sử chứ không phải là
bản thân lịch sử và được kiểm soát bởi logic nghệ thuật và lịch sử. Để làm
được điều đó, người nghệ sĩ vừa phải có kiến thức uyên bác và phẩm chất
trung thực của nhà viết sử, đồng thời phải có tài năng của một nhà trần thuật
nghệ thuật. Nếu lựa chọn được cách tiếp cận đúng đắn, thì cũng giống như
các đề tài khác, đề tài lịch sử không hạn chế khả năng sáng tạo của người
nghệ sĩ.
138
DANH MỤC CÁC CÔNG TRÌNH NGHIÊN CỨU CỦA TÁC GIẢ
CÓ LIÊN QUAN ĐẾN ĐỀ TÀI LUẬN ÁN(1)
1. Phạm Thị Hà (2014), “Tính hiện đại trong kịch đề tài lịch sử”, Tạp
chí Văn hóa nghệ thuật, số 363, tháng 9, tr 57-60.
2. Phạm Thị Hà (2014), “Chân thực lịch sử và chân thực nghệ thuật
trong kịch đề tài lịch sử”, Tạp chí Văn hóa nghệ thuật, số 364, tháng 10, tr 72-
74, 84.
3. Phạm Việt Hà (2015), “Tính hiện đại trong tác phẩm sân khấu đề tài
lịch sử”, Tạp chí Văn hóa nghệ thuật, số 368, tháng 2, tr 74-77.
4. Phạm Việt Hà (2015), “Tiếp cận, lý giải sự kiện lịch sử trong tác
phẩm kịch đề tài lịch sử”, Tạp chí Văn hóa nghệ thuật, số 369, tháng 3, tr 78-
80.
(1) Phạm Việt Hà là bút danh của Phạm Thị Hà
139
TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Anhist A. (2003), Lý luận kịch từ Aristote đến Lessin, Tất Thắng dịch,
Nxb Văn học, Hà Nội.
2. Anhist A. (2007), Lý luận kịch ở phương Tây nửa cuối thế kỷ XIX, Tất
Thắng dịch, Trường Đại học Sân khấu Điện ảnh Hà Nội, Hà Nội.
3. Aristote (2007), Nghệ thuật thi ca, Lê Đăng Bảng, Thành Thế Thái
Bình, Đỗ Xuân Hà, Thành Thế Yên Bảy dịch, Đoàn Tử Huyến
hiệu đính, Nxb Lao động, Hà Nội.
4. Lại Nguyên Ân (1999), 150 thuật ngữ văn học, Nxb Đại học Quốc gia, Hà Nội.
5. BLốc B. (1970), Hệ thống Stanislavski và nghệ thuật biên kịch, Nguyễn
Thuỵ Ứng dịch, Hội Nghệ sĩ Sân Khấu Việt Nam, Hà Nội.
6. C. Mác-Ăng-ghen (1958), Về văn học nghệ thuật, Nxb Sự thật, Hà Nội.
7. C. Mác, Ph. Ăng-ghen, V.I. Lê-nin (1997), Về văn học và nghệ thuật,
Nxb Sự thật, Hà Nội.
8. Chu Trại (1962), Cuộc tranh luận về vấn đề kịch lịch sử, Thúc Cầu
dịch, Vụ Nghệ thuật Sân khấu.
9. Quỳnh Cư, Đỗ Đức Hùng (2000), Các triều đại Việt Nam, Nxb Thanh
niên, Hà Nội.
10. Song Cối (1942), "Tôi bào chữa cho Dương thái hậu", Tạp chí Tri Tân
số 41, tr 18-19.
11. Hoàng Chương (chủ biên) (2000), Hình tượng Quang Trung trên sân
khấu, Nxb Quân đội nhân dân, Hà Nội.
12. Đàm Thị Vân Dung (2005), “Tính hiện đại trong tác phẩm Múa Việt
Nam”, Tạp chí Văn hóa nghệ thuật, số 11, tr 70-73.
13. Hà Minh Đức (1995), Các Mác, Ăng-ghen, Lê-nin và một số vấn đề lý
luận văn nghệ, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.
140
14. Trúc Đường (1962), Quang Trung, Nxb Văn học, Hà Nội.
15. Trúc Đường (1994), Tuyển tập kịch Trúc Đường, Nxb Sân khấu, Hà Nội.
16. Gulaiep N.A. (1982), Lý luận văn học, Lê Ngọc Tân dịch, Nguyễn Đức
Nam hiệu đính, Nxb Đại học và Trung học chuyên nghiệp, Hà Nội.
17. Hội đồng Lý luận, phê bình Văn học, nghệ thuật Trung ương (2013),
Sáng tạo văn học nghệ thuật về đề tài lịch sử, Nxb Chính trị
quốc gia, Hà Nội.
18. Hội Nghệ sĩ Sân khấu Việt Nam (2012), Nghệ thuật sân khấu sáng tạo
về đề tài lịch sử, Tham luận Tọa đàm.
19. Đoàn Thị Hoa (2008), Nhân vật lịch sử trong kịch Rừng trúc của Nguyễn
Đình Thi, luận văn tốt nghiệp đại học, Trường ĐH Sân khấu Điện
ảnh Hà Nội.
20. Lê Ngọc Hùng (2005), “Lý thuyết phê phán và xã hội học về tính hiện
đại” Tạp chí Xã hội học, số 3 (91), tr 46-51.
21. Nguyễn Thị Thu Hiền (2009), “Tính hiện đại trong tác phẩm múa”,
Tạp chí Văn hóa nghệ thuật, số 302, tháng 8, tr 83-86.
22. Trịnh Quang Khanh (2009) “Tính dân tộc và tính hiện đại trong Chèo,
Tuồng, Rối nước, Cải lương”, Tạp chí Sân khấu, tháng 11, tr 2-4.
23. Phạm Duy Khuê (2013) “Sân khấu với đề tài lịch sử”, Tạp chí Sân
khấu, tháng 4, tr 16-17.
24. Lao-xơn G.H. (1997), Lý luận và kĩ xảo viết kịch, Hoàng Oánh dịch,
Hội Nghệ sĩ Sân khấu Việt Nam, Hà Nội.
25. Đinh Trọng Lạc (1998), 99 phương tiện và biện pháp tu từ Tiếng Việt,
Nxb Giáo dục, Hà Nội.
26. Ngô Phương Lan (2005), Tính hiện đại và tính dân tộc trong điện ảnh
Việt Nam, Nxb Văn hoá Thông tin & Viện Văn hoá Thông tin,
Hà Nội.
141
27. Phương Lựu, Nguyễn Xuân Nam, Thành Thế Thái Bình (1988), Lý
luận văn học, Tập 3, Nxb Giáo Dục, Hà Nội.
28. Ngô Sĩ Liên (2004), Đại Việt sử ký toàn thư, Tập 1, Cao Huy Giu dịch,
Đào Duy Anh hiệu đính, Nxb Văn hóa Thông tin, Hà Nội.
29. Ngô Sĩ Liên (2004), Đại Việt sử ký toàn thư, Tập 2, Cao Huy Giu dịch,
Đào Duy Anh hiệu đính, Nxb Văn hóa Thông tin, Hà Nội.
30. Nguyễn Đức Lộc (1999), Chất thơ trong sân khấu, Viện Sân khấu-
Trường Đại học Sân khấu Điện ảnh Hà Nội, Hà Nội.
31. Mao Thuẫn (1961), Kế thừa và phát triển truyền thống, Huy Liên dịch,
Viện Sân khấu, Hà Nội.
32. Nguyễn Nam (1969), Tìm hiểu nghệ thuật viết kịch, Vụ văn hoá quần
chúng, Hà Nội.
33. Cao Thị Xuân Ngọc (1990), Tính đương đại của đề tài lịch sử trên sân
khấu Việt Nam hiện đại, luận văn tốt nghiệp đại học, Trường
Đại học Sân khấu Điện ảnh Hà Nội.
34. Hồ Ngọc (1977), Xây dựng cốt truyện kịch, Nxb Văn hoá, Hà Nội.
35. Hồ Ngọc (1973), Nghệ thuật viết kịch, Nxb Văn hoá, Hà Nội.
36. Nhiều tác giả (2002), Vũ Như Tô tác phẩm và dư luận, Nxb Văn học,
Hà Nội.
37. Nhiều tác giả (1997), Sân khấu với đề tài lịch sử, Kỷ yếu hội thảo, Nxb Sân
khấu, Hà Nội.
38. Nxb Thuận Hóa và Trung tâm Văn hóa ngôn ngữ Đông Tây (2005), Việt
sử lược, Trần Quốc Vượng dịch.
39. Nhiều tác giả (1997), Đại Việt sử ký tiền biên, Ngô Thì Sỹ biên soạn, Ngô
Thì Nhậm hiệu đính, Nxb Khoa học xã hội, Hà Nội.
40. Pôxpêlốp G.N. (1998), Dẫn luận nghiên cứu văn học, Trần Đình Sử,
Lại Nguyên Ân, Lê Ngọc Trà dịch, Nxb Giáo dục, Hà Nội.
142
41. Đinh Hồng Phúc (2009), "Phê phán tính hiện đại", Tạp chí Khoa học
xã hội số 06 (103), tr 101-102.
42. Nguyễn Khắc Phục (2005), Kịch tuyển chọn, Nxb Sân khấu, Hà Nội.
43. Lê Thị Hoài Phương (2006), Sân khấu nghề và nghiệp, Nxb Sân khấu,
Hà Nội.
44. P.V (1996) “Phỏng vấn nhà văn Nguyễn Đình Thi”, Tạp chí Sân khấu
số 184, tháng 8, tr 8.
45. Quách Mạt Nhược (1962), Lịch sử kịch hiện thực lịch sử, Viện Nghệ
thuật Sân khấu.
46. Quốc sử Quán triều Nguyễn (1998), Khâm định Việt sử thông giám
cương mục, Viện Sử học dịch, Nxb Giáo dục, Hà Nội.
47. Đình Quang (1999), Nghệ thuật biểu diễn hiện thực tâm lý, Viện Sân
khấu - Trường Đại học Sân khấu Điện ảnh Hà Nội, Hà Nội.
48. Đình Quang (2003), Về mĩ học và văn học kịch, Nxb Sân khấu, Hà Nội.
49. Trương Hữu Quýnh (chủ biên) (2000), Đại cương lịch sử Việt Nam,
tập I, Nxb Giáo dục, Hà Nội.
50. Văn Sử (2013), “Sáng tạo văn học nghệ thuật về đề tài lịch sử”, Tạp
chí Sân khấu, tháng 3, tr 20-21.
51. Touraine, Alaine (1996), Phê phán tính hiện đại, Huyền Giang dịch, Nxb
Thế giới, Hà Nội.
52. Tôpxtônôgốp G. (1982), Tính hiện đại trong nghệ thuật sân khấu, Dương
Ngọc Đức dịch, Hội Nghệ sĩ Sân khấu Việt Nam, Hà Nội.
53. Hồ Thị Thanh Tâm (2014), Tính hiện đại trong kịch múa Việt Nam đề tài
lịch sử, luận văn thạc sĩ, Trường Đại học Sân khấu Điện ảnh Hà Nội.
54. Trần Thái Tông (1996), Khóa hư lục, Thích Thanh Từ dịch, Nxb Tổng
hợp Thành phố Hồ Chí Minh, Hồ Chí Minh.
55. Trần Thị Minh Thu (2003), Kịch Việt Nam về đề tài lịch sử (giai đoạn
143
1985 đến nay), luận văn tốt nghiệp đại học, Trường Đại học Sân
khấu Điện ảnh Hà Nội.
56. Hà Văn Thư, Trần Hồng Đức (1998), Tóm tắt niên biểu lịch sử Việt
Nam, Nxb Văn hóa Thông tin, Hà Nội.
57. Phan Trọng Thưởng (1999), "Rừng trúc của Nguyễn Đình Thi và một số vấn
đề lý luận sáng tác về đề tài lịch sử", Tạp chí Văn học, số 11, tr 15-25.
58. Phan Trọng Thưởng (1996), Giao lưu văn học và sân khấu, Nxb Văn
học, Hà Nội.
59. Nguyễn Đình Thi (1993), Tuyển tập kịch, Nxb Văn học, Hà Nội.
60. Tất Thắng (2000), Về thi pháp kịch, Nxb Sân khấu, Hà Nội.
61. Tất Thắng (1996), Diện mạo sân khấu - nghệ sĩ và tác phẩm. Nxb Sân
khấu, Hà Nội.
62. Việt Thắng (2003), Tính hiện đại trong sân khấu chèo, luận văn tốt
nghiệp đại học, Trường Đại học Sân khấu Điện ảnh Hà Nội.
63. Nguyễn Thị Minh Thái (2005), Sân khấu và tôi, Nxb Sân khấu, Hà Nội.
64. Nguyễn Khắc Thuần (2005), Việt sử giai thoại, Nxb Giáo dục, Hà Nội.
65. Hà Văn Thư, Trần Hồng Đức (2010), Tóm tắt niên biểu lịch sử Việt
Nam, Nxb Văn hóa Thông tin, Hà Nội.
66. Tập thể (1964), "Thảo luận về vấn đề kịch lịch sử", Vân Hồ dịch, Tạp
chí Văn học số 2, tr 73-82.
67. Võ Gia Trị (2001), Văn chương và nghệ sĩ, Nxb Văn học, Hà Nội.
68. Văn phòng Ban Chỉ đạo kỷ niệm 1000 năm Thăng Long-Hà Nội, Sở
Văn hóa Thông tin, Hội Sử học Hà Nội (2005), Bối cảnh định đô
ở Thăng Long và sự nghiệp của Lê Hoàn, Nxb Hà Nội, Hà Nội.
69. Trần Trí Trắc (1995), Thể tài sân khấu và nghệ sỹ sáng tạo, Nxb Sân
khấu, Hà Nội.
70. Trần Quốc Vượng (2003), "Sân khấu và lịch sử", Tạp chí Sân khấu, số 01, tr 2-5.
144
71. Trần Vượng (2003), Giáo trình nghệ thuật biên kịch, Trường Đại học
Sân khấu Điện ảnh Hà Nội, Hà Nội.
72. Nguyễn Danh Phiệt (1981), "Lê Hoàn với tập thể anh hùng triều đình
Hoa Lư", Tạp chí Nghiên cứu lịch sử, số 2, tr 15.
73. Nguyễn Danh Phiệt (1998), "Dương hậu-Dương thái hậu, lịch sử và
huyền thoại", Tạp chí Nghiên cứu lịch sử, số 4, tr 42.
74. Viện Sân khấu (1979), Hội nghị bàn về đề tài lịch sử, Tham luận hội
thảo, Thư viện Viện Sân khấu Điện ảnh.
75. Viện Sân khấu (1980), Thông báo nghiên cứu sân khấu, Hà Nội.
76. Viện Sân khấu (1979), Sân khấu và lịch sử, phần sáng tác kịch bản, Vũ
Đình Phòng sưu tầm và trích dịch, Hà Nội.
77. Viện Sân khấu (1979), Những ý kiến về sân khấu với đề tài lịch sử,
Thụy Anh sưu tầm, Hà Nội.
78. Viện Sân khấu (1963), Thảo luận về vấn đề kịch lịch sử, Vân Hồ dịch,
Hà Nội.
79. Viện Sân khấu (1996), Vấn đề văn học kịch. Nxb Sân khấu, Hà Nội.
80. Nguyễn Như Ý (1999), Đại từ điển Tiếng Việt, Nxb Văn hoá Thông tin,
Hà Nội.
145
BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO BỘ VĂN HÓA, THỂ THAO VÀ DU LỊCH
VIỆN VĂN HÓA NGHỆ THUẬT QUỐC GIA VIỆT NAM
----------------------------------------
TÍNH HIỆN ĐẠI
TRONG KỊCH NÓI VIỆT NAM
VỀ ĐỀ TÀI LỊCH SỬ
PHỤ LỤC LUẬN ÁN
Hà Nội - 2016
146
Phụ lục
DANH MỤC CÁC KỊCH BẢN KỊCH NÓI VỀ ĐỀ TÀI LỊCH SỬ
ĐÃ ĐƯỢC DÀN DỰNG TRÊN SÂN KHẤU VIỆT NAM
TT Tên tác phẩm Tác giả/Đạo diễn
Năm
dàn
dựng
Đơn vị dàn
dựng
Giải
thưởng
1. Người Hoa Lư Lưu Quang Thuận 1944
Ban kịch
Hoan Châu
2. Đề Thám
Lưu Quang Thuận
Thế Lữ
1947
Ban kịch
Kháng chiến
3. Kim Đồng Hoàng Em 1962
Đoàn Văn công
Việt Bắc
4. Quang Trung
Trúc Đường
Hoàng Chương
1962
Nhà hát Tuồng
Đào Tấn
5. Lam Sơn tụ nghĩa Nguyễn Xuân Trâm 1962
Đoàn kịch
Hà Nội
6.
Người công dân
số một
Hà Văn Cầu
Vũ Đình Phòng
1970
Nhà hát Cải lương
Trung ương
7. Đêm trắng
Lưu Quang Hà
Doãn Hoàng Giang
1975
Nhà hát kịch
Trung ương
8. Đêm trắng
Lưu Quang Hà
Doãn Hoàng Giang
1975
Đoàn kịch
Quân khu II
9.
Nguyễn Trãi ở
Đông Quan
Nguyễn Đình Thi
Nguyễn Đình Nghi
1980
Nhà hát kịch
Trung ương
10. Bài ca Điện Biên
Lưu Quang Thuận
Doãn Hoàng Giang
1984
Nhà hát kịch
Trung ương
147
11.
Lịch sử và nhân
chứng
Hoài Giao
Vũ Minh
1985
Đoàn kịch nói
Hải Phòng
HCV
12.
Lịch sử và nhân
chứng
Hoài Giao
Đình Quang; Doãn Hoàng Giang
1985
Nhà hát kịch
Trung ương
HCV
13. Vũ Như Tô
Nguyễn Huy Tưởng
Nguyễn Đình Nghi;
Phạm Thị Thành
1985
Nhà hát
Tuổi trẻ
14.
Ngọc Hân công
chúa
Lưu Quang Vũ
Dương Ngọc Đức
1986
Đoàn chèo
Hà Nội
15. 10 đóa phong lan
Tất Đạt
Dương Ngọc Đức
1990
Đoàn kịch
Quân đội
16. Độc thoại đêm Lê Duy Hạnh 1992
CLB Sân khấu
Thể nghiệm
Hội SK Tp HCM
17. Thủ lĩnh áo chàm
Ngô Mạn - Hoài Giao
Ngọc Phương
1995
Đoàn kịch nói
Bắc Thái
HCB
18.
Trần Thủ Độ
(Cột trụ chống trời)
Nguyễn Anh Biên
Xuân Huyền
1995
Nhà hát kịch
Việt Nam
HCV
19. Tú Xương Nguyễn Khắc Phục 1995
Đoàn kịch nói
Nam Hà
20. Vũ Như Tô
Nguyễn Huy Tưởng
Nguyễn Đình Nghi
Phạm Thị Thành
1995
Nhà hát
Tuổi trẻ
HCV
21. Độc thoại đêm Lê Duy Hạnh 1996
Đoàn kịch Thể
nghiệm, Hội
VHNT Quảng Trị
148
22. Rừng trúc
Nguyễn Đình Thi
Nguyễn Đình Nghi
Phạm Thị Thành
1999
Nhà hát
Tuổi trẻ
HCV
23. Đạo học
Bùi Vũ Minh
Lê Hùng
1999
Đoàn kịch nói
Hải Dương
24.
Hoàng hậu của
hai vua
Lê Duy Hạnh 1999
CLB Sân khấu
Thể nghiệm
Hội SK Thành
phố Hồ Chí Minh
25. Ánh lửa Bồng Trung Ngọc Thụ 1999
Đoàn kịch nói
Thanh Hóa
26. Dời đô
Lê Duy Hạnh
Lê Hùng
2000
Nhà hát kịch
Quân đội
27. Bí mật vườn Lệ Chi
Hoàng Hữu Đản
Thành Lộc
2000
Sân khấu
Idecaf
28.
Thông điệp từ
Điện Biên
Nguyễn Khắc Phục
Lê Hùng
2004
Đoàn kịch nói
Quân đội
Tiết mục
xuất sắc
29.
Hoàng hậu của
hai vua
Lê Duy Hạnh
Minh Hải
2008
Nghệ sĩ
Bạch Tuyết
30. Độc thoại đêm
Lê Duy Hạnh
Lê Tiến Thọ
2008
Nhà hát Tuồng
Trung ương
31.
Mỹ nhân và anh
hùng
Chu Thơm
Lê Hùng
2009
Nhà hát kịch
Việt Nam
HCV
32. Ngàn năm tình sử
Nguyễn Quang Lập
Thành Lộc
2009
Sân khấu
Idecaf
33. Nỏ thần
Lê Duy Hạnh
Đức Thịnh
2009
Sân khấu kịch
Hồng Vân
HCV
149
34.
Ngọc Hân công
chúa
Lưu Quang Vũ
Thúy Mùi
2009
Nhà hát chèo
Hà Nội
HCB
35.
Đêm Ức Trai
(Oan khuất một
thời)
Lưu Quang Hà
Doãn Hoàng Giang
2009
Nhà hát chèo
Hà Nội
36. Tình sử ngàn năm
Nguyễn Quang Lập
Doãn Hoàng Giang
2010
Nhà hát kịch
Hà Nội
37.
Đời luận anh hùng
(Luận anh hùng)
Lê Chí Trung
Trần Quang Hùng
2010
Nhà hát
Cải lương Hà Nội
38. Đêm của bóng tối
Lê Chí Trung
Lê Hùng, Bạch Lan
2011
Nhà hát kịch
Việt Nam
39. Mệnh đế vương
Hùng Tấn
Trần Quang Hùng
2011
Nhà hát
Cải lương Hà Nội
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- luan_an_tinh_hien_dai_trong_kich_noi_viet_nam_ve_de_tai_lich.pdf