Luận án Tính chính luận trong chương trình đàm thoại truyền hình ở Việt Nam hiện nay

BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO HỌC VIỆN CHÍNH TRỊ QUỐC GIA HỒ CHÍ MINH HỌC VIỆN BÁO CHÍ VÀ TUYÊN TRUYỀN NGUYỄN NGA HUYỀN TÍNH CHÍNH LUẬN TRONG CHƢƠNG TRÌNH ĐÀM THOẠI TRUYỀN HÌNH Ở VIỆT NAM HIỆN NAY (Khảo sát các chƣơng trình Đối thoại chính sách (VTV1), Sự kiện và Bình luận (VTV1), 45 phút (HTV9) trong năm 2014 và 2015) LUẬN ÁN TIẾN SỸ BÁO CHÍ HỌC HÀ NỘI - 2021 BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO HỌC VIỆN CHÍNH TRỊ QUỐC GIA HỒ CHÍ MINH HỌC VIỆN BÁO CHÍ VÀ TUYÊN TRUYỀN NGUYỄN NGA HUYỀN TÍNH

pdf341 trang | Chia sẻ: huong20 | Ngày: 15/01/2022 | Lượt xem: 331 | Lượt tải: 0download
Tóm tắt tài liệu Luận án Tính chính luận trong chương trình đàm thoại truyền hình ở Việt Nam hiện nay, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
CHÍNH LUẬN TRONG CHƢƠNG TRÌNH ĐÀM THOẠI TRUYỀN HÌNH Ở VIỆT NAM HIỆN NAY (Khảo sát các chƣơng trình Đối thoại chính sách (VTV1), Sự kiện và Bình luận (VTV1), 45 phút (HTV9) trong năm 2014 và 2015) Ngành: Báo chí học Mã số: 9 32 01 01 LUẬN ÁN TIẾN SĨ BÁO CHÍ HỌC Ngƣời hƣớng dẫn khoa học: PGS, TS. Đinh Thị Thúy Hằng PGS, TS. Đỗ Chí Nghĩa HÀ NỘI - 2021 LỜI CAM ĐOAN Tôi xin cam đoan đây là công trình nghiên cứu của riêng tôi. Các kết quả số liệu nêu trong luận án là trung thực, có nguồn gốc rõ ràng, chính xác. Những kết luận khoa học của luận án là mới và chƣa công bố trong bất cứ công trình khoa học nào. Hà Nội, ngày.. tháng .. năm 2021 Tác giả luận án Nguyễn Nga Huyền LỜI CẢM ƠN Sau một thời gian học tập và nghiên cứu chuyên ngành Báo chí học tại Học viện Báo chí và Tuyên truyền, đến nay tôi đã hoàn thành bản luận án tốt nghiệp để bảo vệ cấp Học viện. Để có đƣợc kết quả này, trƣớc hết, tôi xin đƣợc bày tỏ lòng biết ơn chân thành của mình tới hai ngƣời hƣớng dẫn khoa học của tôi là PGS,TS. Đinh Thị Thúy Hằng và PGS,TS. Đỗ Chí Nghĩa đã hƣớng dẫn, định hƣớng cho tôi về đề tài, phƣơng pháp nghiên cứu và hoàn thiện luận án! Đồng thời, tôi trân trọng cảm ơn các nhà khoa học tham gia hội đồng chuyên đề, hội đồng cơ sở, phản biện kín, hội đồng cấp Học viện đã đóng góp nhiều ý kiến quý báu để tôi có thể hoàn thiện luận án! Trân trọng cảm ơn các thầy cô đã trực tiếp giảng dạy, cung cấp cho tôi hệ thống kiến thức lý luận và thực tiễn đáng quý! Những kiến thức này đã và sẽ giúp ích cho tôi trong quá trình học tập, nghiên cứu, công tác hiện tại cũng nhƣ trong tƣơng lai. Trân trọng cảm ơn thầy cô Viện Báo chí, Ban Quản lý Đào tạo đã tận tâm giúp đỡ và chỉ bảo cho chúng tôi trong suốt quá trình học tập, nghiên cứu tại Học viện Báo chí và Tuyên truyền! Tôi cũng xin chân thành cảm ơn các đồng nghiệp, ngƣời thân, bạn bè đã ủng hộ và tạo điều kiện giúp tôi hoàn thành luận án này. Hà Nội, ngày ..... tháng ...... năm 2021 Tác giả luận án Nguyễn Nga Huyền MỤC LỤC MỞ ĐẦU ........................................................................................................................ 1 TỔNG QUAN ............................................................................................................. 14 Chƣơng 1. CƠ SỞ LÝ LUẬN VÀ THỰC TIỄN CỦA TÍNH CHÍNH LUẬN TRONG CHƢƠNG TRÌNH ĐÀM THOẠI TRUYỀN HÌNH Ở VIỆT NAM HIỆN NAY .................................................................................................................. 39 1.1. Cơ sở lý luận của tính chính luận trong chƣơng trình đàm thoại truyền hình ở Việt Nam .......................................................................................... 39 1.2. Cơ sở thực tiễn của tính chính luận trong chƣơng trình đàm thoại truyền hình ở Việt Nam ............................................................................... 58 1.3. Các tiêu chí đánh giá tính chính luận trong chƣơng trình đàm thoại truyền hình................................................................................................... 75 Chƣơng 2. THỰC TRẠNG TÍNH CHÍNH LUẬN TRONG CÁC CHƢƠNG TRÌNH ĐÀM THOẠI TRUYỀN HÌNH THUỘC DIỆN KHẢO SÁT .......... 86 2.1. Biểu hiện của tính chính luận thông qua các yếu tố cấu thành của các chƣơng trình đàm thoại truyền hình thuộc diện khảo sát ............................ 86 2.2. Nhận xét về thực trạng tính chính luận trong các chƣơng trình đàm thoại truyền hình thuộc diện khảo sát ....................................................... 134 Chƣơng 3. NHỮNG YÊU CẦU ĐẶT RA VÀ GIẢI PHÁP, KHUYẾN NGHỊ NÂNG CAO TÍNH CHÍNH LUẬN TRONG CHƢƠNG TRÌNH ĐÀM THOẠI TRUYỀN HÌNH ....................................................................................... 139 3.1. Những yêu cầu đặt ra đối với tính chính luận trong chƣơng trình đàm thoại truyền hình ở Việt Nam hiện nay ..................................................... 139 3.2. Một số giải pháp và khuyến nghị nâng cao chất lƣợng tính chính luận trong chƣơng trình đàm thoại truyền hình ................................................ 155 KẾT LUẬN VÀ KHUYẾN NGHỊ ....................................................................... 173 1. Kết luận ................................................................................................. 173 2. Khuyến nghị .......................................................................................... 176 CÁC CÔNG TRÌNH ĐÃ CÔNG BỐ CỦA TÁC GIẢ LIÊN QUAN ĐẾN ĐỀ TÀI LUẬN ÁN ......................................................................................................... 178 TÀI LIỆU THAM KHẢO ..................................................................................... 180 PHỤ LỤC .................................................................................................................. 189 CÁC THUẬT NGỮ VÀ CHỮ VIẾT TẮT THUẬT NGỮ: 1. Chat show: Là thuật ngữ tiếng Anh, chỉ một chƣơng trình phát thanh/truyền hình có nội dung chính là cuộc nói chuyện, trao đổi (có thể về một chủ đề hoặc hơn) của ít nhất hai ngƣời, trong đó có ngƣời dẫn chƣơng trình và khách mời. 2. Ê-kíp: Nhóm ngƣời cùng thực hiện một nhiệm vụ, công việc với nhau (từ gốc tiếng Pháp: équipe). 3. Online: Trực tuyến (chỉ việc đang kết nối trực tiếp với mạng Internet hoặc đang liên kết trong mạng cục bộ). 4. Talk show: (giống Chat show) 5. Video clip: Chƣơng trình phát thanh/truyền hình có nội dung chính là cuộc nói chuyện, trao đổi (có thể về một chủ đề hoặc hơn) của ít nhất hai ngƣời, trong đó có ngƣời dẫn chƣơng trình và khách mời. 6. Xê-ri: Chuỗi, loạt (từ gốc tiếng Anh: series). CHỮ VIẾT TẮT: 1. 45p: 45 phút 2. ĐTCS: Đối thoại Chính sách 3. Đài THVN: Đài Truyền hình Việt Nam 4. KM: Khách mời 5. NDCT: Ngƣời dẫn chƣơng trình. 6. PSLK: Phóng sự linh kiện 7. SK&BL: Sự kiện và Bình luận DANH MỤC BẢNG Bảng 2.1.1.1. Các sự kiện, vấn đề nổi bật năm 2014, 2015.85 DANH MỤC SƠ ĐỒ Sơ đồ 2.1.5.1 Kết cấu chƣơng trình 45 phút ............................................................ 121 Sơ đồ 2.1.5.2. Kết cấu chƣơng trình ĐTCS ............................................................. 123 Sơ đồ 2.1.5.3. Kết cấu chƣơng trình SK&BL ......................................................... 123 Sơ đồ 2.1.5.4. Kết cấu chƣơng trình 23 giờ ............................................................. 124 DANH MỤC HÌNH ẢNH Ảnh 2.1.6.1. Giao diện chƣơng trình 45 phút .......................................................... 127 Ảnh 2.1.6.2. Giao diện chƣơng trình SK&BL có kết nối cầu truyền hình ........... 128 Ảnh 2.1.6.3. Giao diện chƣơng trình ĐTCS nhìn từ trên cao và nhìn chính diện129 Ảnh 2.1.6.4. ĐTCS ghi hình tại cảng Hải Phòng .................................................... 129 Ảnh 2.1.6.5. ĐTCS ghi hình tại cảng cá Bình Định ............................................... 129 Ảnh 2.1.6.6. Khách mời chƣơng trình Ghế không tựa lần lƣợt đổi chỗ với ngƣời dẫn chƣơng trình để ngồi lên hai chiếc ghế, đại diện cho các giai đoạn thăng trầm của sự nghiệp, cuộc sống. .......................................................................................... 130 Ảnh 2.1.6.7. Chƣơng trình Ghế đỏ đƣợc ghi hình tại các địa điểm khác nhau. ... 131 Ảnh 2.1.6.8. Hai bối cảnh cố định của chƣơng trình Chuyện đêm muộn. ........... 131 Ảnh 2.1.6.9. Bối cảnh quán bar của chƣơng trình 23 giờ....................................... 131 Ảnh 2.1.6.10. Giao diện chƣơng trình SK&BL, góc máy ghi hình ...................... 132 ngƣời dẫn chƣơng trình trƣớc đây (trái) và hiện nay (phải). .................................. 132 Ảnh 2.1.6.11. Giao diện chƣơng trình SK&BL, góc máy ghi hình khách mời trƣớc đây (trái) và hiện nay (phải). ..................................................................................... 132 1 MỞ ĐẦU 1. Lý do chọn đề tài Truyền hình là phƣơng tiện truyền thông ra đời ở các quốc gia có nền kỹ thuật phát triển ở châu Âu, châu Mỹ từ những năm 30 của thế kỷ XX. Mặc dù xuất hiện muộn hơn vài trăm năm so với báo in và sau phát thanh vài chục năm, nhƣng truyền hình đã nhanh chóng khẳng định đƣợc chỗ đứng vững chắc của mình trong hệ thống các phƣơng tiện truyền thông đại chúng. Nhờ thành tựu to lớn của cuộc cách mạng khoa học và công nghệ, nhất là về công nghệ thông tin, ngành truyền hình có những bƣớc tiến vƣợt bậc về nhiều mặt, trở thành phƣơng tiện truyền thông và giải trí có mặt ở tất cả các quốc gia, lãnh thổ và hầu khắp các gia đình. Ngay cả khi báo mạng điện tử - một loại hình báo chí ƣu việt xuất hiện cùng với sự phát triển bùng nổ của công nghệ thông tin trong thế kỷ XXI mà đỉnh cao là mạng Internet, thì truyền hình vẫn đang tỏ ra là một loại hình truyền thông có sức cạnh tranh rất đáng nể. Để có đƣợc khả năng này, trƣớc hết là do truyền hình đƣợc sở hữu sức mạnh vô cùng to lớn, đó là khả năng tác động đến công chúng bằng hình ảnh động và âm thanh, vốn là những yếu tố rất thu hút sự chú ý thông qua thị giác và thính giác của công chúng. Nếu nhƣ thông tin trên báo in đƣợc chuyển tải đến độc giả thông qua con chữ, ảnh - tức là chỉ có thể tác động duy nhất vào thị giác, còn thông tin qua phát thanh đƣợc gửi đến thính giả bằng âm thanh, (lời nói, tiếng động, âm nhạc) - tức là chỉ có thể tác động qua thính giác, thì với truyền hình, mọi thứ diễn ra sống động nhƣ khán giả đƣợc trực tiếp chứng kiến sự thật bằng cả tai nghe, mắt nhìn. Chính vì thế, dù là loại hình báo chí sinh sau, nhƣng truyền hình vẫn là lựa chọn hàng đầu của đa số công chúng ở mọi quốc gia trên thế giới. Tại Việt Nam, trong nhiều năm qua, truyền hình luôn giữ vai trò là một loại hình truyền thông đại chúng hấp dẫn. Không chỉ ở thành thị mà ngay cả ở 2 các vùng nông thôn, vùng sâu vùng xa hiện nay, chiếc ti-vi đã thành một vật dụng rất phổ biến. Tỷ lệ sở hữu ít nhất một chiếc ti-vi tại các hộ gia đình ở Việt Nam là 83% [102, truy cập ngày 07/6/2016, 22:13]. Thậm chí ở thành thị, việc mỗi một thành viên trong gia đình có một ti-vi trong phòng riêng đã không còn là điều xa xỉ. Ngƣời ta có thể thấy phƣơng tiện nghe - nhìn này ở trong các cửa hàng, quán xá... Điều này cho thấy rõ tầm quan trọng và mức độ phổ biến của truyền hình trong đời sống của ngƣời dân Việt Nam hiện nay. Trong hệ thống phân chia các thể loại báo chí tại Việt Nam hiện nay, nhóm các thể loại báo chí chính luận (hay còn gọi là nhóm báo chí chính luận, nhóm chính luận báo chí) là nhóm nhận đƣợc nhiều sự thống nhất cao giữa các nhà nghiên cứu, lý luận báo chí về mặt phân loại. Đặc trƣng của nhóm này là năng lực thông tin lý lẽ, tức là việc sử dụng khả năng lập luận, phân tích, đánh giá để đƣa ra quan điểm (của một cá nhân hoặc tổ chức) về một thông tin, vấn đề, sự kiện, hiện tƣợng nào đó mà báo chí phản ánh. Trong nhóm các thể loại báo chí chính luận, những thể loại cơ bản có thể kể đến là: bình luận, chuyên luận, xã luận, đàm luận, phiếm luận [56]. Trên sóng truyền hình tại Việt Nam hiện nay, không khó để khán giả có thể nghe thấy những lời giới thiệu về một chƣơng trình truyền hình thuộc nhóm các thể loại báo chí chính luận, nhƣ: “chương trình talkshow chính luận với mục tiêu chú trọng vào những chính sách, dự án và kế hoạch phát triển trong các lĩnh vực như kinh tế, chính trị, xã hội, văn hoá” [98, truy cập ngày 09/10/2014, 11:12], hay “lên sóng vào 08h00 Chủ nhật hàng tuần, 90 phút để hiểu là một điểm hẹn chính luận hấp dẫn với khán giả truyền hình trong hơn 2 tháng qua. Thông qua các chuyên mục trong chương trình, khán giả được hiểu thêm về một chính sách đem lại lợi ích cho cuộc sống, khám phá góc nhìn biếm họa về những điều còn chưa đẹp trong đời sống và cùng tìm hiểu về những dự án góp phần mang tới một tương lai tươi đẹp hơn cho đất nước.” [94, truy cập ngày 30/5/2017, 18:20] v.v. 3 Trong số nhiều hình thức thể hiện của chƣơng trình chính luận trên truyền hình, không khó để nhận thấy hình thức đàm thoại vẫn chiếm giữ những vị trí quan trọng trên các kênh thời sự - chính luận, ví dụ nhƣ các chƣơng trình đã và đang phát sóng: Đối thoại chính sách (VTV1), Sự kiện và Bình luận (VTV1), Toàn cảnh thế giới (VTV1), Những góc nhìn (Truyền hình Nhân Dân), Nhận diện sự thật (Truyền hình Quốc phòng), Câu chuyện hôm nay (Truyền hình Quốc hội), Góc nhìn HTV (Truyền hình TP.HCM - HTV), Hà Nội - Những góc nhìn (Truyền hình Hà Nội - HaTV) v.v. Ở những kênh truyền hình hàng đầu thế giới, có thể kể tên các chƣơng trình đã và đang rất nổi tiếng nhƣ: Larry King Live và Larry King Specials (những chƣơng trình góp phần làm nên danh tiếng của kênh CNN do nhà báo huyền thoại Larry King phụ trách), Amanpour (chƣơng trình chuyên về các vấn đề thời sự quốc tế, do nữ nhà báo nổi tiếng Amanpour phụ trách và dẫn trên kênh CNN), Hardtalk (chƣơng trình phỏng vấn các vấn đề thời sự của đài BBC) v.v. Tất cả đều là những đàm thoại, do các nhà báo, ngƣời dẫn chƣơng trình kỳ cựu, kinh nghiệm phụ trách. Mức độ phủ sóng và ảnh hƣởng của những chƣơng trình này mang tầm quốc tế, không chỉ thu hút sự chú ý của dƣ luận mà còn của các chính khách, những nhân vật quan trọng bởi khách mời tham gia chƣơng trình không chỉ dừng lại ở những chuyên gia, ngƣời nổi tiếng, mà còn là nguyên thủ các quốc gia. Nhƣ vậy, dù là ở Việt Nam hay trên thế giới, bên cạnh những hình thức khác, thì hình thức đàm thoại của chƣơng trình chính luận trên truyền hình vẫn luôn có một vị trí ổn định và thậm chí đƣợc nhiều kênh, đài truyền hình chú trọng. Chính vì vậy, việc tìm hiểu, phân tích về đàm thoại trên truyền hình là một nghiên cứu cần thực hiện trong bối cảnh hiện nay. Bên cạnh đó, cũng cần phân tích thêm rằng về mặt khái niệm, thuật ngữ cũng nhƣ cách hiểu trong thực tế thì chƣơng trình chính luận có hình thức đàm thoại cũng hoàn toàn có thể đƣợc hiểu thành chƣơng trình đàm thoại 4 mang tính chính luận. Vì vậy, yếu tố “đàm thoại” ở đây thuộc về mặt hình thức và “chính luận” ở đây là thuộc về tính chất, nội dung của chƣơng trình truyền hình. Do vậy, trong luận án này, tác giả nhìn nhận từ góc độ: nghiên cứu “tính chính luận” trong các chƣơng trình đàm thoại truyền hình. Theo đó, tác giả kỳ vọng sẽ rút ra đƣợc kết luận về biểu hiện của tính chính luận trong từng loại đàm thoại trên truyền hình, từ đó quay ngƣợc trở lại để đánh giá những yếu tố tác động đến tính chính luận trong chƣơng trình đàm thoại truyền hình. Việc này đặt ra đòi hỏi cần phải hệ thống hoá các chƣơng trình đàm thoại truyền hình cũng nhƣ phân tích đƣợc mức độ của tính chính luận trong từng loại. Nếu làm rõ đƣợc những cơ sở lý luận và thực tiễn về tính chính luận trong các chƣơng trình đàm thoại truyền hình ở Việt Nam hiện nay, nghiên cứu sinh cho rằng có thể tạo ra những tiền đề cần thiết nhằm đề ra những giải pháp phù hợp, có tính khả thi cho việc nâng cao chất lƣợng các chƣơng trình đàm thoại chính luận truyền hình. Vì thế, việc nghiên cứu đề tài này cũng có thể góp phần bổ sung những vấn đề lý luận báo chí truyền hình. Cụ thể hơn, việc tổ chức các chƣơng trình đàm thoại đảm bảo tính chính luận là một công việc phức tạp, đòi hỏi phải có sự chuẩn bị kỹ lƣỡng và phối hợp nhuần nhuyễn của nhóm thực hiện chƣơng trình. Trong nhóm này, mỗi thành viên với chức danh và nhiệm vụ cụ thể cần có những phẩm chất, kinh nghiệm, kỹ năng riêng, đặc biệt là ngƣời dẫn chƣơng trình. Ngoài ra, một đàm thoại truyền hình mang tính chính luận còn đòi hỏi phải có những vị khách mời phù hợp, đáp ứng tốt yêu cầu cụ thể của mỗi chƣơng trình. Trong luận án này, nghiên cứu sinh khảo sát ba chƣơng trình đàm thoại chính luận, hai chƣơng trình đàm thoại chân dung và hai chƣơng trình đàm thoại giải trí của Việt Nam trong hai năm 2014 và 2015. Cụ thể, ba chƣơng trình đàm thoại chính luận là: Đối thoại Chính sách, Sự kiện và Bình luận trên 5 kênh VTV1, và 45 phút trên kênh HTV9; hai chƣơng trình đàm thoại giải trí là: Chuyện đêm muộn (VTV3), 23 giờ (VTV2); và hai chƣơng trình đàm thoại chân dung là Ghế đỏ (YanTV), Ghế không tựa (VTV6). VTV1, VTV2, VTV3 và VTV6 là những kênh truyền hình quyen thuộc với khán giả cả nƣớc của Đài truyền hình Việt Nam, còn kênh HTV9 thuộc Đài truyền hình thành phố Hồ Chí Minh và kênh YanTV (phát trên hệ thống truyền hình cáp Việt Nam) là kênh truyền hình xã hội hoá. Do đó, việc lựa chọn các chƣơng trình trên những kênh này để khảo sát là có tính đại diện cao. Hơn nữa, do mật độ xuất hiện các chƣơng trình đàm thoại ở các kênh này khá lớn và công tác tổ chức đàm thoại tại các kênh này cũng rất tiêu biểu nên có thể thông qua việc khảo sát để rút ra đƣợc những kết luận khoa học. Việc lựa chọn số lƣợng chƣơng trình đàm thoại chính luận để khảo sát nhiều hơn so với hai loại chƣơng trình đàm thoại còn lại là do nghiên cứu sinh chọn đàm thoại chính luận sẽ là đối tƣợng khảo sát chính, còn đàm thoại chân dung, đàm thoại giải trí sẽ là đối tƣợng khảo sát mang tính tham chiếu. Bên cạnh đó, nghiên cứu sinh mong muốn khảo sát tham chiếu thêm hai chƣơng trình đàm thoại nổi tiếng của thế giới là Amanpour của đài truyền hình Mỹ CNN và Hardtalk của kênh truyền hình Anh BBC cũng trong khoảng thời gian trên. Cả hai đều là những chƣơng trình đàm thoại về các vấn đề thời sự trong nƣớc và quốc tế. Trong đó, Amanpour do nhà báo nữ Christiane Amanpour đảm nhiệm, còn Hardtalk so nhà báo Stephen Sackur phụ trách. Việc lựa chọn hai chƣơng trình này để khảo sát sẽ mang ý nghĩa so sánh, đối chiếu với các chƣơng trình đàm thoại chính luận đƣợc khảo sát trong nƣớc. Ngoài ra, còn có một lý do khác khiến tác giả quyết định chọn đề tài này là do bản thân nghiên cứu sinh đã có nhiều năm trực tiếp làm công việc biên tập, tổ chức sản xuất, dẫn chƣơng trình đàm thoại. Qua thực tế, tác giả nhận thấy để tính chính luận trong chƣơng trình đàm thoại truyền hình ở Việt 6 Nam đƣợc nhận diện rõ nét hơn, thì còn nhiều vấn đề cần phải đƣợc làm sáng tỏ về phƣơng diện lý luận. Chính vì vậy, tác giả tin tƣởng rằng với những kinh nghiệm đúc kết đƣợc, lại đƣợc sự chỉ bảo, giúp đỡ của các nhà khoa học, tác giả sẽ thực hiện thành công đề tài nghiên cứu này. 2. Mục đích nghiên cứu Trên cơ sở nghiên cứu các lý luận về đàm thoại truyền hình và khảo sát, phân tích thực trạng tính chính luận trong các chƣơng trình đàm thoại truyền hình đã chọn, đề tài nghiên cứu này sẽ đề xuất các giải pháp, kiến nghị cụ thể nhằm nâng cao chất lƣợng, hiệu quả của các chƣơng trình đàm thoại chính luận truyền hình. 3. Nhiệm vụ nghiên cứu Thứ nhất, cần làm rõ đƣợc cơ sở lý luận và thực tiễn của việc phân tích tính chính luận trong chƣơng trình đàm thoại truyền hình; Thứ hai, cần nhận diện đƣợc biểu hiện của tính chính luận thông qua các yếu tố cấu thành của chƣơng trình đàm thoại truyền hình tại Việt Nam; Thứ ba, cần xác định rõ vai trò, trách nhiệm của các thành viên tham gia đàm thoại chính luận truyền hình, đặc biệt là ngƣời dẫn chƣơng trình và khách mời; Thứ tƣ, xác định các tiêu chí đối với tính chính luận trong đàm thoại truyền hình tại Việt Nam; Thứ năm, nêu ra một số giải pháp, kiến nghị có tính khả thi cao nhằm nâng cao chất lƣợng tính chính luận trong đàm thoại truyền hình tại Việt Nam. 4. Đối tƣợng và phạm vi nghiên cứu - Đối tượng nghiên cứu Đối tƣợng nghiên cứu của luận án là tính chính luận của chương trình đàm thoại truyền hình ở Việt Nam hiện nay. 7 - Phạm vi nghiên cứu Trong các kênh thuộc diện khảo sát của luận án này, VTV1 là kênh thông tin - thời sự - chính luận tổng hợp của đài quốc gia, phủ sóng khắp cả nƣớc. Trên VTV1 có một chƣơng trình ra mắt từ tháng 6/2011 với tên gọi Đối thoại chính sách - một chƣơng trình toạ đàm chính luận phát sóng vào 22 giờ 45 tối thứ Tƣ hằng tuần, thu hút đƣợc sự chú ý của công luận với những chủ đề thảo luận nóng bỏng. Đó là lý do để nghiên cứu sinh chọn chƣơng trình này trên VTV1 để khảo sát. Bên cạnh Đối thoại chính sách, một chƣơng trình khác trên kênh VTV1 đƣợc chọn để khảo sát là Sự kiện và Bình luận - một chƣơng trình ra đời từ những năm 2000 và đƣợc phát sóng trực tiếp lúc 9 giờ 30 sáng thứ 7 hằng tuần. Với những nội dung đề cập đến những sự kiện nóng hổi trong tuần, đây cũng là một chƣơng trình rất đƣợc chú ý trên sóng VTV1. Kênh truyền hình thứ hai đƣợc lựa chọn để khảo sát trong luận án này là HTV9 - kênh thông tin chính trị, kinh tế, xã hội của Đài Truyền hình thành phố Hồ Chí Minh (HTV). Trên kênh này, nghiên cứu sinh chọn chƣơng trình 45 phút (đƣợc phát sóng lúc 20 giờ 40 tối thứ Tƣ hằng tuần) cho khảo sát của mình. 45 phút là chƣơng trình chính luận với mục tiêu chú trọng vào những chính sách, dự án và kế hoạch phát triển trong các lĩnh vực nhƣ kinh tế, chính trị, xã hội, văn hóa. Chƣơng trình là một diễn đàn để ngƣời dẫn chƣơng trình và các khách mời trò chuyện, trao đổi về những chủ đề nổi bật đang đƣợc xã hội quan tâm. Chƣơng trình do HTV phối hợp thực hiện cùng FBNC - kênh truyền hình kinh tế tài chính chuyên biệt đầu tiên tại thành phố Hồ Chí Minh (TP.HCM). Điều đặc biệt là chƣơng trình do nhà báo - TS. Trần Ngọc Châu dẫn dắt. Ông là ngƣời đã nhận bằng tiến sĩ khoa học Báo chí - Truyền thông đại chúng tại đại học Washington, Hoa Kỳ (2005); bằng thạc sĩ truyền thông tại đại học Trinity College, Scotland (từ xa, 1995); bằng thạc sĩ Triết học Tây 8 phƣơng và văn chƣơng Anh, Trƣờng Đại học Văn khoa, Viện Đại học Sài Gòn (1974). Nhà báo Trần Ngọc Châu từng là Tổng biên tập kênh FBNC. Song song với VTV1 và HTV, tác giả lựa chọn thêm các chƣơng trình đàm thoại chân dung và đàm thoại giải trí để khảo sát trên các kênh VTV2, VTV3, VTV6 (Đài THVN) và YanTV (Truyền hình cáp Việt Nam). Trong đó, hai đàm thoại giải trí là: Chuyện Đêm muộn, có thời lƣợng 30 phút, là chƣơng trình đàm thoại giải trí trên kênh VTV3 phát sóng vào 23h30 các ngày thứ Hai, Tƣ và Sáu hàng tuần, và phát lại cùng giờ các tối thứ Ba, Năm và Bảy, và 23 giờ có thời lƣợng 45 phút đƣợc phát sóng vào tối thứ 6 hàng tuần trên kênh VTV2. Hai chƣơng trình đàm thoại chân dung là: Ghế đỏ (kênh YanTV), phát sóng vào 22 giờ 30 phút thứ Hai hằng tuần, với thời lƣợng 15 phút và Ghế không tựa (VTV6) phát sóng tối thứ Tƣ hằng tuần. Phần giới thiệu chi tiết về các chƣơng trình sẽ đƣợc đề cập trong chƣơng 2 của luận án này. Ngoài các chƣơng trình đƣợc khảo sát trong nƣớc, luận án này sẽ khảo sát tham chiếu hai chƣơng trình đàm thoại chính luận của truyền hình nƣớc ngoài. Trong đó, CNN (Cable News Network) là kênh truyền hình Mỹ có mặt ở hơn 200 quốc gia trên thế giới với số lƣợng công chúng lên tới gần 2 tỷ ngƣời. Mạng lƣới tin tức của CNN trải rộng khắp thế giới và hoạt động 24/7 với tất cả những công nghệ, kỹ thuật, thiết bị hiện đại nhất. Ở kênh CNN, tác giả khảo sát chƣơng trình Amanpour - một trong những chƣơng trình nổi bật của CNN, do nữ nhà báo kỳ cựu Christiane Amanpour phụ trách. Nội dung của chƣơng trình làm về những vấn đề, sự kiện chính trị quốc tế nổi bật nhất. Khách mời của chƣơng trình thƣờng là những chính trị gia, thậm chí là nguyên thủ quốc gia, hoặc những ngƣời có địa vị cao nhƣ: Nguyên Tổng thƣ ký Liên Hợp quốc Ban Ki-moon, Cựu ngoại trƣởng Mỹ Hillary Clinton, Tổng thống Thổ Nhĩ Kỳ Recep Tayyip Erdogan, Cố lãnh đạo Libya Gaddafi, Cựu Đại sứ Việt Nam tại Mỹ Nguyễn Quốc Cƣờng Chƣơng trình có thời 9 lƣợng 30 phút, đƣợc phát sóng vào lúc 9 giờ tối trên Truyền hình Cáp Việt Nam, từ thứ 3 đến thứ 7 hằng tuần dƣới một dạng thức linh hoạt. Trong năm số mỗi tuần thƣờng sẽ có một đến hai số là đàm thoại chính về một chủ đề. Chƣơng trình đàm thoại chính luận nƣớc ngoài thứ hai tác giả lựa chọn để khảo sát là Hardtalk trên kênh BBC (British Broadcasting Channel) của Anh. Chƣơng trình này lựa chọn những chủ đề nhạy cảm, những câu hỏi khó, và chọn khách mời là những cá tính nổi bật. Nhà báo Stephen Sackur làm việc cho BBC với tƣ cách nhà báo nƣớc ngoài đã đƣợc 15 năm và mang lại cho kênh truyền hình này rất nhiều thành tích. Hardtalk có thời lƣợng 25 đến 30 phút, đƣợc phát sóng từ thứ 2 đến thứ 5 trên hệ thống BBC World Service mà Truyền hình cáp Việt Nam chuyển tải. Thời gian khảo sát đƣợc chọn là hai năm 2014 và 2015. Đây cũng là khoảng thời gian nghiên cứu sinh chính thức bắt tay vào việc thực hiện đề tài này nên việc thu thập các cứ liệu nghiên cứu có thuận lợi. Mặc dù tính đến thời điểm này, hai chƣơng trình đàm thoại chính luận, một chƣơng trình đàm thoại chân dung và một chƣơng trình đàm thoại giải trí trong nƣớc thuộc diện khảo sát đã dừng phát sóng, nhƣng những vấn đề đang đặt ra về tính chính luận trong các chƣơng trình này vẫn còn giữ nguyên tính thời sự và đòi hỏi những giải pháp cấp thiết. 5. Giả thuyết nghiên cứu của luận án - Một là, đàm thoại truyền hình là một chƣơng trình có tính chính luận. - Hai là, trong thực tế không phải chƣơng trình đàm thoại truyền hình nào cũng thể hiện tính chính luận do chất lƣợng các chƣơng trình không đồng đều và do mục đích của từng dạng đàm thoại truyền hình. - Ba là, để nâng cao tính chính luận, sự hấp dẫn của tính chính luận trong đàm thoại truyền hình, cần phụ thuộc vào nhiều yếu tố nhƣ: kịch bản, khách mời, ngƣời dẫn chƣơng trình... của đàm thoại truyền hình. 6. Cơ sở lý luận, thực tiễn và phƣơng pháp nghiên cứu của đề tài 10 - Cơ sở lý luận Hệ thống các quan điểm của chủ nghĩa Mác - Lênin, tƣ tƣởng Hồ Chí Minh về báo chí - truyền thông; các quan điểm và chính sách của Đảng, Nhà nƣớc về báo chí - truyền thông nói chung, các vấn đề liên quan đến báo chí chính luận và quy trình tổ chức sản xuất đàm thoại truyền hình; các công trình khoa học đã đƣợc công bố về Lý thuyết báo chí và truyền thông; Lý thuyết về báo chí chính luận. - Cơ sở thực tiễn Luận án dựa trên cơ sở thực tiễn vận hành sản xuất các chƣơng trình đàm thoại truyền hình ở một số kênh truyền hình ở Việt Nam hiện nay với những ƣu điểm và hạn chế thể hiện qua các số liệu thống kê, kết quả điều tra khảo sát, phỏng vấn chuyên sâu do chính tác giả thực hiện và thu thập từ những kết quả nghiên cứu có liên quan. - Phương pháp nghiên cứu Trong quá trình nghiên cứu luận án, nghiên cứu sinh sẽ sử dụng phần mềm xử lý thông tin định lƣợng SPSS. Các phƣơng pháp nghiên cứu định lƣợng và định tính sử dụng trong luận án nhƣ sau: - Phương pháp định lượng: + Phương pháp điều tra bằng bảng hỏi: Phƣơng pháp này đƣợc sử dụng nhằm mục đích thu thập các nhận xét, đánh giá của ngƣời xem truyền hình về 3 chƣơng trình đàm thoại chính luận truyền hình trong diện khảo sát, cũng nhƣ những tác động của các chƣơng trình này đối với công chúng. Dung lƣợng mẫu là 400, lựa chọn theo phƣơng pháp chọn mẫu điển hình. Phân bố mẫu theo nơi cƣ trú là: Hà Nội: 200, thành phố Hồ Chí Minh: 200. Theo giới tính: Nam: 190 Nữ: 210. + Phương pháp phân tích nội dung truyền thông: Sản phẩm phân tích bao gồm toàn bộ các chƣơng trình đàm thoại chính luận trong diện khảo sát đƣợc phát sóng trong hai năm 2014 và 2015 và lựa 11 chọn ngẫu nhiên mỗi tháng 1 đến 2 số của mỗi chƣơng trình đàm thoại giải trí và chân dung cũng trong khoảng thời gian này, sao cho trung bình mỗi năm khảo sát 12 số. Theo đó, tổng số chƣơng trình đàm thoại chính luận là: 225, trong đó Sự kiện & Bình luận: 84, Đối thoại Chính sách: 77, 45 phút: 64 (số lƣợng ít nhất do chƣơng trình dừng phát sóng từ tháng 10 năm 2015). Tổng số chƣơng trình đàm thoại giải trí là: 48, trong đó Chuyện đêm muộn: 24, 23 giờ: 24. Tổng số chƣơng trình đàm thoại chân dung là: 48, cụ thể là Ghế đỏ: 24, Ghế không tựa: 24. Phạm vi nghiên cứu 3 đàm thoại chính luận, 2 đàm thoại giải trí, 2 đàm thoại chân dung Mẫu nghiên cứu Tính chính luận của các chƣơng trình đàm thoại thuộc diện khảo sát, từ ngày 1/1/2014 đến ngày 31/12/2015 Đơn vị nghiên cứu Nội dung toàn chƣơng trình, biểu hiện của tính chính luận qua các yếu tố cấu thành chƣơng trình Phân tích định lƣợng Thống kê số lƣợng và so sánh số lƣợng những biểu hiện của tính chính luận thông qua các yếu tố cấu thành chƣơng trình trên 7 đàm thoại diện khảo sát trong 2 năm. - Phương pháp định tính: + Phương pháp nghiên cứu tài liệu: Đƣợc sử dụng để khảo sát các văn bản, các chỉ thị, nghị quyết và các tài liệu nghiên cứu nhằm hệ thống hóa một số vấn đề lý luận báo chí nói chung và báo chí truyền hình nói riêng nhằm xây dựng khung lý thuyết cho đề tài cũng nhƣ hệ thống hoá một số khái niệm, thuật ngữ quan trọng của đề tài. + Phương pháp phỏng vấn sâu: Sử dụng với mục đích nghiên cứu nhận thức, thực trạng sản xuất chƣơng trình đàm thoại chính luận tại các cơ quan báo chí truyền hình. Cụ 12 thể, nghiên cứu sinh đã tiến hành phỏng vấn sâu 25 trƣờng hợp thuộc các nhóm sau: Nhóm 1 (9 trƣờng hợp): Những ngƣời trực tiếp thực hiện, sản xuất các chƣơng trình trong diện khảo sát, bao gồm 3 ngƣời dẫn chƣơng trình, 2 biên tập viên, 2 đạo diễn, 2 quay phim. Nhóm 2 (7 trƣờng hợp): Những ngƣời làm công tác quản lý cơ quan báo chí truyền hình từ cấp Phó Giám đốc Đài trở lên. Nhóm 3 (9 trƣờng hợp): Những ngƣời là chuyên gia trong lĩnh vực truyền thông, báo chí. Để đảm bảo tính khách quan và nguyên tắc đạo đức trong nghiên cứu, các cá nhân tham gia phỏng vấn sâu đƣợc để ở tình trạng khuyết danh khi trình bày kết quả trong luận án. - Phương pháp quan sát, phân tích: Đƣợc sử dụng để làm sáng tỏ thực trạng quá trình tổ chức sản xuất các đàm thoại; qua đó chỉ rõ các đặc điểm, ƣu điểm và hạn chế của hoạt động này, từ đó đề xuất các giải pháp, kiến nghị có tính khả thi cao nhằm góp phần nâng cao chất lƣợng đàm thoại chính luận truyền hình trong diện khảo sát nói riêng và các đàm thoại chính luận truyền hình ở nƣớc ta nói chung. Tất cả các phƣơng pháp đƣợc vận dụng bổ trợ lẫn nhau để mang lại kết quả có ý nghĩa với luận án. 7. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn của đề tài - Ý nghĩa l...chữa, bổ sung. Đến nay, đây vẫn là tác phẩm nghiên cứu cập nhật và đầy đủ nhất về chính luận truyền hình. Cũng giống nhƣ phần khung của cuốn sách xuất bản năm 2014, cuốn sách này triển khai nội dung từ rộng đến hẹp: đi từ chính luận báo chí, chính luận truyền hình đến bình luận truyền hình, đàm luận truyền hình và khái quát tâm lý giao tiếp ảnh hƣởng của ngôn ngữ đến công chúng truyền hình. 29 Trong đó, nghiên cứu sinh đặc biệt quan tâm đến chƣơng 5 của cuốn sách nói về “Đàm luận truyền hình”. PGS.TS. Nguyễn Ngọc Oanh sử dụng khái niệm “đàm luận” để nhấn mạnh vào góc độ chính luận của những chƣơng trình mang tính trao đổi bàn luận. Điểm này vừa giống và vừa khác với nghiên cứu của nghiên cứu sinh trong luận án này. Điểm giống ở chỗ cả tác giả và nghiên cứu sinh đều nhất trí về yếu tố chính luận ở những chƣơng trình hội thoại, trao đổi về các đề tài báo chí, thời sự. Còn điểm khác ở chỗ nghiên cứu sinh sử dụng từ “đàm thoại”, và nói về “tính chính luận” của chƣơng trình đàm thoại để có sự phân tích độc lập đối với tính chính luận của chƣơng trình dạng này, phân biệt nó với chƣơng trình đàm thoại mang tính giải trí, chân dung. Trong chƣơng 5, PGS.TS. Nguyễn Ngọc Oanh tiến hành phân tích các đặc điểm của đàm luận truyền hình, các dạng đàm luận truyền hình và phân biệt nó với các dạng đàm thoại truyền hình khác. Nội dung trong chƣơng này có nhiều điểm tƣơng đồng về mặt ý tƣởng với nghiên cứu của nghiên cứu sinh. Tuy nhiên, với khuôn khổ 15 trang, chƣơng này chƣa trình bày chi tiết vào những yếu tố mà luận án của nghiên cứu sinh rất chú trọng tìm hiểu nhƣ: ngƣời dẫn chƣơng trình, khách mời (góc độ tham gia và số lƣợng khách mời), đề tài, câu hỏi chƣơng trình v.v. vốn là những yếu tố, theo quan điểm của nghiên cứu sinh, rất khác biệt và đặc trƣng khi nó ở trong một chƣơng trình đàm thoại có tính chính luận. Chính vì vậy, tuy bề ngoài có nhiều điểm tƣơng đồng, nhƣng cuốn sách của tác giả Nguyễn Ngọc Oanh và luận án là hai công trình có hƣớng nghiên cứu khác nhau. Không trực tiếp đề cập đến khái niệm này, nhƣng về mặt lý luận liên quan đến thể loại báo chí truyền hình có một công trình nghiên cứu mang tên “Sự vận động, phát triển của thể loại, tác phẩm báo chí truyền hình trong môi trường truyền thông hiện đại”. Đây đề tài nghiên cứu khoa học cấp cơ sở (của 30 Học viện Báo chí và Tuyên truyền) do ThS. Đinh Ngọc Sơn chủ nhiệm và bảo vệ thành công năm 2008. Công trình nghiên cứu này đã khái quát sự phát triển của thể loại tác phẩm báo chí truyền hình và chia thành ba nhóm: hội thoại, tin tức và gameshow. Trong đó, chƣơng trình đàm thoại truyền hình mà nghiên cứu sinh nghiên cứu thuộc vào nhóm hội thoại, và mang đầy đủ những đặc điểm của thể loại tác phẩm này. Nhƣ vậy, mặc dù có thể dễ dàng hiểu ý nghĩa của khái niệm “đàm thoại truyền hình”, nhƣng tác giả luận án chƣa khảo sát thấy nghiên cứu nào trực tiếp định nghĩa và sử dụng khái niệm này một cách chính thức. Trong chƣơng 1 của luận án, nghiên cứu sinh sẽ phân tích lý do sử dụng khái niệm này và phân biệt nó với các khái niệm có ý nghĩa tƣơng đƣơng. 2.2.2. Tài liệu tiếng Việt và dịch sang tiếng Việt liên quan đến kỹ năng sản xuất chương trình đàm thoại truyền hình Cuốn sách đầu tiên đề cập đến việc việc sáng tạo các tác phẩm, thể loại truyền hình cơ bản nhƣ: tin truyền hình, phóng sự truyền hình, ký sự truyền hình, phỏng vấn truyền hình, tạp chí truyền hình, cầu truyền hình... là của tác giả Trần Bảo Khánh. Sách có tiêu đề “Sản xuất chương trình truyền hình”, do Nhà xuất bản Văn hóa - Thông tin in và phát hành năm 2002. Cho đến nay, đây vẫn là một trong số không nhiều những tài liệu tham khảo chính thức đƣợc in thành sách cho việc đào tạo chuyên ngành truyền hình tại Học viện Báo chí và Tuyên truyền. Cuốn sách đã phân tích về các thể loại báo chí cụ thể đƣợc sử dụng trên truyền hình, đồng thời phân tích phƣơng thức thực hiện ứng với từng thể loại. TS. Trần Bảo Khánh cũng trình bày các dạng phỏng vấn trên truyền hình - một hình thức gần gũi với đàm thoại truyền hình, và đƣa ra nhiều dạng thức thể hiện, phƣơng pháp tiến hành phỏng vấn truyền hình. Do đó, cuốn sách này có nhiều nội dung để nghiên cứu sinh kế thừa và phát triển. 31 Tiếp đến là cuốn “Sáng tạo tác phẩm báo chí” của tác giả Đức Dũng, đƣợc xuất bản năm 2002 tại Nhà xuất bản Văn hoá - Thông tin. Trong cuốn sách này, ở mục Phần thứ nhất, trong Chƣơng 2, tác giả đã phân tích nội dung “Viết và nói cho phát thanh, truyền hình”. Trong đó, đáng chú ý là những nguyên tắc viết cho phát thanh, truyền hình và kỹ năng trình bày văn bản phát thanh, truyền hình. Đây là một trong những nghiên cứu đầu tiên về kỹ năng nói và viết cho cả phát thanh, truyền hình. Tuy nhiên, phần về truyền hình còn chung chung và đôi chỗ còn đƣợc phân tích giống nhƣ phát thanh, trong khi trên thực tế văn bản viết cho truyền hình có một số nét khác biệt đặc trƣng. Ở mục Phần thứ hai, trong Chƣơng VI, tác giả đã đi sâu phân tích thể loại bình luận của báo chí. Đặc biệt, ngoài những nội dung khái quát chung về thể loại bình luận, tác giả đã phân tích cụ thể bài bình luận phát thanh, truyền hình. Theo đó, tác giả cho rằng, “do được sử dụng trên sóng nên tác phẩm bình luận phát thanh truyền hình cũng bị biến đổi theo quy luật của việc thông tin bằng lời nói” [19, tr.148]. Điều này đƣợc thể hiện ở các khía cạnh nhƣ dung lƣợng, cấu trúc, quy mô của tính chất, vấn đề, sự kiện Đây là những phân tích đầu tiên trong nghiên cứu báo chí về sự khác nhau của thể loại bình luận trên báo in và trên phát thanh, truyền hình và là tiền đề cho nghiên cứu của nghiên cứu sinh. Một cuốn sách khác của tác giả Đức Dũng viết cùng tác giả Hoàng Đình Cúc là cuốn “Những vấn đề của báo chí hiện đại”, cũng xuất bản tại Nhà xuất bản Văn hoá - Thông tin, năm 2007. Đáng chú ý là mục 14 trong phần 2, các tác giả bàn về “Lời dẫn và ngƣời dẫn chƣơng trình truyền hình”. Trong đó, vai trò của lời dẫn và ngƣời dẫn trong chƣơng trình cũng nhƣ các nguyên tắc viết lời dẫn và các tiêu chí đối với một ngƣời dẫn chƣơng trình truyền hình đã đƣợc đề cập. Đây cũng là một trong những nghiên cứu sớm về nội dung dẫn chƣơng trình truyền hình và mang giá trị tham khảo bƣớc đầu cho nghiên cứu của luận án này. 32 Trong các năm 2004, 2005, Nhà xuất bản Thông tấn đã cho xuất bản hàng loạt sách nghiên cứu lý luận và nghiệp vụ báo chí, truyền thông đƣợc dịch của nƣớc ngoài. Trong đó, một số cuốn sách ít nhiều có liên quan đến nghiên cứu của nghiên cứu sinh, cụ thể nhƣ sau: Sách “Báo chí truyền hình” (hai tập) [13 và 14] của các tác giả ngƣời Nga là G.V. Cudơnhetxốp, X.L. Xvich, và A.Ia.Iurrốpxki. Trong hai cuốn sách này, tập 1 đề cập đến những vấn đề lý luận chung và kịch bản truyền hình; tập 2 đề cập đến các thể loại truyền hình và kỹ năng. Trong tập 2 này, một số vấn đề có liên quan đến việc tổ chức sản xuất tác phẩm, chƣơng trình truyền hình đã đƣợc trình bày trong chƣơng II: “Các nghiệp vụ nhà báo trong truyền hình” và chƣơng IV: “Nhà báo với chiếc camera ghi hình”. Trong đó, chƣơng II đã phân chia và phân tích về các chức năng của nhà báo truyền hình gồm có: phóng viên truyền hình, nhà bình luận, nhà phân tích tổng quan, người phỏng vấn, người dẫn chương trình (trong cuộc tranh luận hoặc trong một chƣơng trình đối thoại nào đó), người dẫn chương trình gặp gỡ giao lưu, người dẫn chương trình thời sự. Cách tách biệt công việc ngƣời dẫn chƣơng trình đối thoại với ngƣời dẫn chƣơng trình thời sự, ngƣời phỏng vấn nhƣ trên của các tác giả ngƣời Nga khá tƣơng đồng với quan điểm của tác giả luận án. Bởi tuy cùng là công việc “dẫn chƣơng trình”, nhƣng mỗi một thể loại chƣơng trình, tính chất chƣơng trình lại đòi hỏi một cách dẫn dắt khác, một yêu cầu về kỹ năng dẫn khác. Trong chƣơng này, Cudơnhetxốp và Iurrốpxki cũng phân tích về những yêu cầu đối với một ngƣời dẫn chƣơng trình về mặt hình thức, trình độ, kỹ năng. Nội dung này là một tham khảo để tác giả luận án so sánh với yêu cầu đối với ngƣời dẫn chƣơng trình đàm thoại tại Việt Nam. Tài liệu khác cần đề cập là cuốn “Công nghệ phỏng vấn” của Maria Lukina (tác giả ngƣời Nga) [44]. Trong đó, chƣơng VI có đề cập đến vấn đề “Phỏng vấn trên báo in, báo nói, báo hình và báo điện tử”. Phần trình bày 33 phỏng vấn trên sóng có dung lƣợng 14 trang (278-292) đã đề cập đến công việc của ngƣời phỏng vấn trong trƣờng quay. Nội dung này có gắn bó mật thiết với công việc của ngƣời dẫn chƣơng trình đàm thoại truyền hình - vốn là một nhân tố quan trọng làm nên tính chính luận của chƣơng trình. Tuy nhiên, cần phải khẳng định thêm rằng công việc của ngƣời dẫn chƣơng trình đàm thoại truyền hình có tính chính luận không đơn giản chỉ là “phỏng vấn”. Bởi ngoài việc biết cách đặt câu hỏi cho các khách mời tham gia đàm thoại, ngƣời dẫn chƣơng trình còn phải đóng vai trò nhƣ một thành viên cùng tham gia bàn luận về vấn đề đƣợc nói đến. Do đó, những nội dung trong cuốn sách này không phải là tất cả công việc của ngƣời dẫn chƣơng trình đàm thoại truyền hình có tính chính luận, trong khi đó là nội dung mà luận án này sẽ cố gắng tìm hiểu một cách toàn diện. “Cách điều khiển cuộc phỏng vấn” là tác phẩm của hai tác giả ngƣời Nga là Makxim Kuzunhesop và Irop Sƣkunop [43]. Hai phần với tám chƣơng của cuốn sách này đã ít nhiều đề cập đến những nguyên tắc chung của sự giao tiếp và đi sâu phân tích các kỹ thuật phỏng vấn, kỹ năng thuyết phục, kỹ năng thƣơng lƣợng, phát biểu nơi công cộng Nếu nhƣ chƣơng I và II nêu lên những nội dung mang tính khái quát, cơ bản về nguyên tắc giao tiếp, tâm lý giao tiếp, thì chƣơng IV và V lại khắc hoạ chi tiết hơn các kỹ năng. Trong đó, chƣơng IV: “Làm phỏng vấn nhƣ thế nào” và chƣơng V: “Làm thế nào để thuyết phục ngƣời đối thoại” miêu tả rất chi tiết 13 bƣớc cần thực hiện để có cuộc phỏng vấn thành công và 6 bƣớc cần làm để thuyết phục đƣợc ngƣời đối thoại. Những nội dung này có tính tham khảo rất cao đối với những ngƣời dẫn chƣơng trình đàm thoại, bởi kỹ năng phỏng vấn, thuyết phục là những kỹ năng thiết thực đi liền với công việc của họ khi đàm thoại. Tuy đã ra đời cách đây hơn 10 năm nhƣng những giá trị của cuốn sách này vẫn có tính tham khảo rất cao đối với luận án của nghiên cứu sinh. 34 “Giao tiếp trên truyền hình - trước ống kính và sau camera” của tác giả ngƣời Nga X.A.Muratốp [46]. Đây là một trong số những cuốn sách có nội dung đề cập đến các kỹ năng của ngƣời phóng viên truyền hình cả trƣớc và sau ống kính camera. Trong bốn phần của cuốn sách này đã có tới ba phần dành cho việc trình bày về các kỹ năng của một phóng viên truyền hình hiện đại. Trong đó, theo nghiên cứu sinh, kinh điển và rất khái quát là nhận định: Nhƣng vấn đề là ở chỗ cuộc đối thoại diễn ra trƣớc ống kính chỉ là mở đầu đối với ngƣời đối thoại, còn nhà báo thì đã tiến hành cuộc trò chuyện ấy ngay từ khi anh ta bắt tay vào nghiên cứu tài liệu. Giai đoạn đối thoại trên màn ảnh chỉ là giai đoạn cuối trong cuộc trò chuyện đƣợc mở đầu bằng một cách gián tiếp ấy. [46, tr.114] Nhận định trên đã miêu tả một cách khái quát và dễ hiểu công việc của ngƣời đặt câu hỏi trong phỏng vấn và đàm thoại. Để có một cuộc phỏng vấn/đàm thoại thành công, ngƣời phỏng vấn/dẫn chƣơng trình đàm thoại phải có một sự chuẩn bị kỹ lƣỡng và biến mình thành một chuyên gia để có thể khai thác tối đa các “ngóc ngách” chiều sâu của thông tin cần tìm hiểu. Những phân tích của tác giả Muratốp có ý nghĩa rất lớn để tham khảo ở phƣơng pháp nghiên cứu tài liệu, cách đặt câu hỏi, và việc thu hút sự chú ý của công chúng vào cuộc phỏng vấn. Một cuốn sách đáng lƣu ý khác đƣợc Nhà xuất bản Thông tấn xuất bản năm 2007 dịch từ tiếng Anh là “Kỹ năng phỏng vấn dành cho các nhà báo” [59] của các tác giả Sally Adams và Wynford Hicks - các nhà báo kiêm giảng viên báo chí. Nội dung cuốn sách trình bày chi tiết kỹ năng đặt đƣợc câu hỏi trúng và tìm đƣợc cách thức đúng. Trong đó, đáng chú ý từ trang 176 đến trang 237, các tác giả đã phân tích những lƣu ý khi thực hiện phỏng vấn với các đối tƣợng khác nhau nhƣ: chính trị gia, ngƣời nổi tiếng, đối tƣợng đặc biệt (những đối tƣợng miễn cƣỡng, ngƣời thiếu kinh nghiệm, doanh nhân, trẻ em, ngƣời dễ bị tổn thƣơng...). 35 Qua việc trình bày và phân tích những kinh nghiệm của các nhà báo, các nhà lý luận báo chí, cũng nhƣ đúc kết từ các tài liệu phong phú, có thể nói những thông tin trong cuốn sách này khá hữu ích cho các phóng viên cũng nhƣ những nhà nghiên cứu để phục vụ cho hoạt động thực tiễn cũng nhƣ công tác nghiên cứu, giảng dạy chuyên về kỹ năng phỏng vấn. Năm 2011, tại Nhà xuất bản Đại học Quốc gia Hà Nội, TS. Nguyễn Thế Kỷ đã cho xuất bản một công trình nghiên cứu dƣới dạng sách chuyên khảo có tựa đề “Nói năng, giao tiếp trên đài truyền hình” [39]. Cuốn sách là kết quả của một luận án tiến sỹ Ngôn ngữ học mà tác giả đã bảo vệ thành công ở Viện Ngôn ngữ từ năm 2005. Trong đó, trên cơ sở xác định trên truyền hình có ba kênh chính: “kênh chữ, kênh lời (nói) và kênh hình”, công trình nghiên cứu này tập trung khảo sát kênh lời, cụ thể là cách nói năng, giao tiếp, là dạng nói trên truyền hình. Trên cơ sở phân biệt “người nói trên truyền hình (Speaker on Television, gọi tắt là STV)” với “người dẫn chương trình (Master of Ceremony, gọi tắt là MC)” và các “phát thanh viên” (theo quan niệm cũ trong cách làm truyền thống), tác giả Nguyễn Thế Kỷ đã khảo sát các đối tƣợng cụ thể là “một số hành vi, cách thức nói năng, giao tiếp của ngƣời nói trên truyền hình trong các chƣơng trình có thời lƣợng từ 4, 5 phút trở lên” của Đài Truyền hình Việt Nam, các Đài Phát thanh Truyền hình Nghệ An, Hà Nội, Đài Truyền hình Thành phố Hồ Chí Minh và một số đài khác. Về mặt lý luận, cuốn sách này đã góp phần làm rõ thêm một số khía cạnh của việc diễn ngôn trong giao tiếp trên truyền hình. Tác giả đã chỉ ra đƣợc vai trò của các phƣơng tiện ngữ âm, từ vựng, ngữ pháp, các yếu tố phi lời, kèm lời trong hành vi nói năng, giao tiếp trên truyền hình... Năm 2015, TS. Đinh Thị Thu Hằng (nay là PGS.TS. Đinh Thị Thu Hằng, Khoa Phát thanh Truyền hình - Học viện Báo chí và Tuyên truyền) đã cho ra mắt cuốn “Dẫn chương trình phát thanh, truyền hình” (Nhà xuất bản 36 Lý luận Chính trị) [33]. Đây là cuốn sách chuyên khảo đầu tiên của Học viện Báo chí và Tuyên truyền về nghề dẫn chƣơng trình nói chung và công việc dẫn chƣơng trình phát thanh, truyền hình nói riêng. Tác phẩm này, ngoài việc nêu ra một số vấn đề chung về hoạt động dẫn chƣơng trình phát thanh, truyền hình, đã phân tích các kỹ năng cần có của ngƣời dẫn chƣơng trình phát thanh, truyền hình dựa theo từng dạng chƣơng trình cụ thể nhƣ: chương trình tin tức, chương trình trao đổi, chương trình giải trí. Đồng thời, tác phẩm đã đƣa ra các yêu cầu cần có về mặt năng lực, phẩm chất của ngƣời dẫn chƣơng trình phát thanh, truyền hình. Chƣơng 4 của cuốn sách nói về “dẫn chƣơng trình trao đổi” sẽ là một nguồn đối chiếu với công việc của ngƣời dẫn chƣơng trình đàm thoại truyền hình mà nghiên cứu sinh khảo sát trong luận án này. Ngoài ra, các kỹ năng cũng nhƣ yêu cầu đối với ngƣời dẫn chƣơng trình truyền hình trên nhiều phƣơng diện cũng hoàn toàn có thể đƣợc tham khảo và so sánh. Dù mang nhiều nội dung có thể tham khảo đƣợc, nhƣng cuốn sách này thiên về các đặc điểm, kỹ năng của ngƣời dẫn chƣơng trình phát thanh, truyền hình, trong khi đây chỉ là một trong nhiều yếu tố cấu thành nên tính chính luận của chƣơng trình đàm thoại truyền hình mà luận án này đang nghiên cứu. - Nhận xét: Có thể nói, các kỹ năng đƣợc phân tích trên các cuốn sách, các công trình nghiên cứu trên đây chƣa khái quát đƣợc đầy đủ tất cả kỹ năng cần có cho việc sản xuất chƣơng trình đàm thoại truyền hình, tuy nhiên đây là những kỹ năng cơ bản và trực tiếp đóng góp vào thành công của chƣơng trình đàm thoại truyền hình. Trong các chƣơng 1 và 2 của luận án này, tác giả tiếp tục phân tích những kỹ năng khác liên quan đến việc sản xuất chƣơng trình đàm thoại truyền hình tại Việt Nam. 3. Một số nghiên cứu khác 37 Ngoài các nhóm tài liệu trên, trong những năm qua cũng đã có một số cuộc hội thảo khoa học đề cập đến những khía cạnh khác nhau của công tác tổ chức sản xuất các tác phẩm, chƣơng trình truyền hình ở Việt Nam. Tại các kỳ Liên hoan Truyền hình toàn quốc lần thứ 25 tại Nha Trang - Khánh Hoà (năm 2006) và và lần thứ 26 tại thành phố Hồ Chí Minh (năm 2007) đã có nhiều ý kiến, tham luận đề cập đến một số vấn đề nhƣ: vấn đề “tƣ nhân hoá”; vấn đề “truyền hình thƣơng mại”. Trong đó, các buổi hội thảo về chủ đề sản xuất chƣơng trình truyền hình theo phƣơng thức xã hội hoá đã thu hút đƣợc rất nhiều các đài truyền hình trong cả nƣớc và các đơn vị, tổ chức ngoài ngành truyền hình tham gia. Tại cuộc Hội thảo về Hợp tác sản xuất và phát sóng chương trình phát thanh, truyền hình do Đài Phát thanh - Truyền hình Nghệ An tổ chức (tháng 6/2011), 14 đại diện của các đài phát thanh - truyền hình địa phƣơng và Ban Truyền hình Tiếng dân tộc của Đài Truyền hình Việt Nam (THVN) đã trình bày các tham luận, các ý kiến xung quanh các vấn đề phát huy thế mạnh của các đài địa phƣơng; tìm các phƣơng thức liên kết, phối hợp nhằm nâng cao chất lƣợng và sức hấp dẫn của các chƣơng trình phát sóng. Hội thảo đã thống nhất về chủ trƣơng liên kết, hợp tác giữa các đài phát thanh - truyền hình trong tăng cƣờng trao đổi chƣơng trình phát sóng về các thể loại phim, phóng sự mang tính tổng kết kinh nghiệm thực tiễn, phim tài liệu, cầu truyền hình, cầu phát thanh trực tiếp về một số sự kiến lớn và các chƣơng trình ca nhạc về đất nƣớc, con ngƣời mang bản sắc văn hoá riêng của các địa phƣơng... Tháng 2 năm 2017, trƣờng Cao đẳng Truyền hình (thuộc Đài Truyền hình Việt Nam) đã tổ chức hội thảo khoa học “Phỏng vấn trong các chương trình chính luận của Đài truyền hình Việt Nam”. Hội thảo có sự tham gia của các nhà nghiên cứu, các chuyên gia lý luận báo chí, và đặc biệt là những ngƣời dẫn chƣơng trình chính luận trên sóng truyền hình Việt Nam. Tại đây, 38 những kỹ năng phỏng vấn, kỹ năng đặt câu hỏi phản biện đã đƣợc các chuyên gia đƣa ra trao đổi và bàn luận. Ngoài những nghiên cứu kể trên, trong những năm gần đây một số tờ báo, trang web cũng có những bài viết đề cập đến những khía cạnh khác nhau của vấn đề sản xuất chƣơng trình, tác phẩm truyền hình. Tuy nhiên, về mặt học thuật các công trình này chƣa đề cập đến các đàm thoại chính luận truyền hình tại Việt Nam và dó đó cũng chƣa đƣa ra đƣợc giải pháp, kiến nghị cụ thể, sát thực nhằm góp phần nâng cao chất lƣợng các các chƣơng trình đàm thoại chính luận truyền hình, đặc biệt là trong bối cảnh hội nhập, phát triển hiện nay. Nhƣ vậy, có thể nói đây vẫn là một khoảng trống về mặt lý luận cần phải đƣợc tiếp tục nghiên cứu sâu hơn. Trong luận án này, nghiên cứu sinh xin kế thừa và phát triển ý tƣởng và những thành quả của những công trình nghiên cứu đi trƣớc. Tuy nhiên, có thể khẳng định đề tài “Tính chính luận trong chương trình đàm thoại truyền hình ở Việt Nam hiện nay (Khảo sát chƣơng trình Đối thoại chính sách (VTV1), Sự kiện và Bình luận (VTV1), 45 phút (HTV9) trong năm 2014 và 2015)” là một đề tài nghiên cứu mới, không trùng lặp với những đề tài đã đƣợc công bố trƣớc đây. Trên tinh thần đó, đây sẽ là công trình đầu tiên đề cập một cách toàn diện, hệ thống về vấn đề này. 39 Chƣơng 1. CƠ SỞ LÝ LUẬN VÀ THỰC TIỄN CỦA TÍNH CHÍNH LUẬN TRONG CHƢƠNG TRÌNH ĐÀM THOẠI TRUYỀN HÌNH Ở VIỆT NAM HIỆN NAY 1.1. Cơ sở lý luận của tính chính luận trong chƣơng trình đàm thoại truyền hình ở Việt Nam 1.1.1. Những thuật ngữ, khái niệm cơ bản 1.1.1.1. Chính luận “Chính luận” là một từ Hán Việt, với từ gốc tiếng Hán là 政論 hoặc 政 论. Theo chiết tự chữ Hán, “chính” có nghĩa là việc liên quan đến chính trị của đất nƣớc, “luận” là bàn luận. Nhƣ vậy, gốc tiếng Hán của “chính luận” là “bàn luận về chính trị” [100, truy cập 12:02 ngày 08/3/2016]. Sau này, cách sử dụng đƣợc mở rộng hơn khi “chính luận” trở thành một thể loại trong văn học với nội dung là đề cập đến các vấn đề mang tính xã hội. Điều này đƣợc khẳng định ngắn gọn trong Từ điển tiếng Việt của Viện Ngôn ngữ học: chính luận là “thể văn phân tích, bình luận các vấn đề chính trị, xã hội đương thời” [72, tr.192]. Trong nghiên cứu về phong cách ngôn ngữ chính luận, PGS. TS. Vũ Quang Hào đã khái quát ba thời kỳ mà phong cách ngôn ngữ chính luận trải qua, đó là: thời kỳ manh nha trƣớc thế kỷ XX, thời kỳ tìm tòi trong đầu thế kỷ XX, và thời kỳ hình thành phong cách vào những năm 20 của thế kỷ XX [32, tr.57]. Cũng trong nghiên cứu này, PGS. TS. Vũ Quang Hào đã trích dẫn nghiên cứu của tác giả Lê Xuân Thoại về đặc điểm của ngôn ngữ chính luận trong tƣơng quan so sánh với văn bản nghệ thuật: 40 Văn bản nghệ thuật là văn bản miêu tả còn văn bản chính luận là văn bản lập luận. Về mặt này chính luận gần gũi với phong cách văn bản khoa học. Nhƣng tính đơn diện của ngôn ngữ chính luận không phải là dấu hiệu của sự nghèo nàn. Trái lại, chính đặc điểm này đã tạo điều kiện cho nhà chính luận diễn đạt sự bình giá, cảm xúc, sự suy tƣ đối với đề tài một cách trực tiếp và thẳng thắn, gây đƣợc những hiệu quả có khi còn vƣợt cả tác phẩm văn học. [32, tr.66] Trong hệ thống thể loại báo chí Việt Nam hiện nay, nhóm “chính luận báo chí” là nhóm có đƣợc sự thống nhất cao, ít xảy ra tranh luận trƣớc nhiều quan niệm phân chia hệ thống thể loại báo chí khác nhau. Nói một cách ngắn gọn, đây là một nhóm các thể loại báo chí có đặc trƣng cơ bản là “phản ánh hiện thực bằng phương thức luận bàn, phân tích, lý giải, nhằm giải quyết những vấn đề bằng lý lẽ” [54, tr.15]. Tác giả Nguyễn Ngoc Oanh tổng kết về chính luận nhƣ sau: “Trước hết phải khẳng định chính luận là một loại tác phẩm cơ bản của báo chí. Đặc trưng cơ bản của thể loại này là phản ánh hiện thực bằng phương thức phân tích, bình luận, lý giải nhằm giải quyết vấn đề bằng lý lẽ.” [54, tr.10]. Các chuyên gia trong phần phỏng vấn sâu của luận án cũng bày tỏ sự đồng thuận về cách hiểu “chính luận” nhƣ: - “Chính luận thường là bàn bạc và luận về những vấn đề chính trị xã hội” [Phụ lục 5, Chuyên gia số 1] - “Chính luận là luận bàn về những vấn đề chính trị, kinh tế, văn hóa, xã hội; những vấn đề thời sự mà nhiều người quan tâm.” [Phụ lục 5, Quản lý số 2] - “Chính luận là một thể loại văn học đồng thời là một thể tài báo chí có nội dung phản ánh các vấn đề có tính thời sự về chính trị, kinh tế, văn hóa, x hội, văn học tư tưởng của một chính thể, một tổ chức 41 kinh tế, x hội thường mang tính định hướng” [Phụ lục 5, Chuyên gia số 2] Trong đó, một chuyên gia về lý luận báo chí truyền hình chia sẻ: “Chính luận là một từ Hán việt mà nghĩa gốc của nó là bàn luận một cách ngay thẳng, trung thực về những vấn đề của đời sống. Đây là khái niệm xuất phát từ đời sống và chỉ một cách tiếp cận các vấn đề từ góc độ lí luận. Khi đã bàn luận rồi thì phải có lí có lẽ, bàn luận rồi phải có luận cứ, luận chứng, luận điểm Thậm chí bàn luận có thể dẫn tới các cuộc tranh luận, nhƣng mục đích cuối cùng là sử dụng lí lẽ để soi sáng những vấn đề, những sự kiện trong đời sống hàng ngày.” [Phụ lục 5, Quản lý số 1] Đáng chú ý hơn, chuyên gia này cũng cho rằng nên hiểu về khái niệm này một cách rộng mở chứ không nên bó hẹp: “Khi đã nói tới chính luận thì có rất nhiều ngƣời đã hiểu nhầm là bàn luận những chuyện chính sự, những chuyện chính yếu, những chuyện quan trọng, còn những cái lặt vặt thì không bàn tới. Cách hiểu này có thể nói là không hoàn toàn đúng. Chính luận cần phải đƣợc hiểu là bàn luận một cách ngay thẳng, trung thực về những vấn đề xung quanh chúng ta. Tuy nhiên, cũng tùy từng loại báo, tùy từng tính chất, tôn chỉ, mục đích của từng tờ báo hay là thế mạnh của từng loại hình báo chí Chẳng hạn nhƣ với báo Đảng, báo Nhân dân, rõ ràng là chính luận phải là những vấn đề rất quan trọng, những vấn đề đụng chạm đến quốc gia, quốc tế, những vấn đề lớn mà Đảng và Nhà nƣớc quan tâm. Tuy nhiên, một tờ báo nhỏ hơn nhƣ tờ báo Tuổi trẻ, báo Tiền phong thì sẽ bàn về những vấn đề của thanh niên. Hay là những tờ báo của ngành công an, chuyên về 42 những vấn đề an ninh trật tự, thì họ hoàn toàn có thể bàn đến những vấn đề rất nhỏ của đời sống nhƣ văn hóa giao thông đi đƣờng không nhƣờng nhau, đi lên vỉa hè, nạn bóp còi inh ỏi trên đƣờng Tất cả những chủ đề đó đều có thể đƣa ra để bàn luận và quan trọng là nó bàn một cách ngay thẳng và trung thực, thì đó là chính luận. Cho nên cần phải hiểu khái niệm chính luận một cách rộng mở, chứ không nên giới hạn rằng chính luận là chỉ bàn đến những chuyện chính trị, chính yếu.” [Phụ lục 5, Quản lý số 1] Quan điểm này khá tƣơng đồng với thực tế khi nhiều chƣơng trình chính luận truyền hình hiện nay phản ánh các đề tài thuộc nhiều lĩnh vực khác nhau của đời sống chứ không chỉ dừng lại ở chính trị. Ví dụ cụ thể về sự đa dạng trong đề tài của các chƣơng trình chính luận truyền hình hiện nay sẽ đƣợc trình bày cụ thể hơn trong chƣơng 2 về khảo sát thực trạng các chƣơng trình đàm thoại chính luận truyền hình. Nhƣ vậy, chiết tự chữ Hán thì “chính luận” khởi nguyên từ chính trị, sau đó phát triển thành một thể loại trong văn học, báo chí. Theo tác giả luận án, dựa trên nguồn gốc ra đời, sự phát triển qua thời gian, và với cách sử dụng thông dụng hiện nay, có thể hiểu: chính luận là việc phân tích, trao đổi, bàn luận các vấn đề thời sự một cách thẳng thắn, công khai, trực tiếp, đa chiều nhằm làm sáng tỏ vấn đề. 1.1.1.2. Tính chính luận Từ cách hiểu về thuật ngữ “chính luận” nhƣ trên, tác giả luận án cho rằng “tính chính luận” là tính chất phân tích, trao đổi, bàn luận về một vấn đề thời sự một cách thẳng thắn, công khai, trực tiếp, đa chiều nhằm làm sáng tỏ vấn đề. Nhƣ vậy, một chƣơng trình truyền hình nếu có “tính chính luận” sẽ phải là một chƣơng trình chọn đƣợc một đề tài báo chí thời sự và phân tích, 43 đánh giá, bình luận đề tài đó một cách chính thống, công khai, trực tiếp, đa chiều nhằm làm sáng tỏ vấn đề nhất có thể. Tuy nhiên, cũng cần phân tích thêm rằng, với cách hiểu về “tính chính luận” nhƣ vậy thì tính chính luận không chỉ nằm trong nhóm các thể loại báo chí chính luận. Vì một số thể loại thuộc nhóm khác nhƣ phóng sự, điều tra cũng có tính chính luận khi phân tích, bàn luận, làm sáng tỏ vấn đề. Tuy nhiên, đây chỉ là những tính chất không cơ bản của các thể loại này, chỉ góp phần làm nên sức mạnh của các thể loại này. Còn với các thể loại chuyên về chính luận (bình luận, xã luận, chuyên luận) thì “tính chính luận” là sức mạnh quan trọng nhất, là mục đích chính, là phƣơng tiện biểu đạt. Chính vì vậy, nhìn một cách toàn diện, tính chính luận đƣợc thể hiện rất đa dạng trong các nhóm thể loại báo chí nói chung. Nhƣng nó thể hiện tập trung và đạt đƣợc hiệu quả cao nhất ở nhóm các thể loại báo chí chính luận. 1.1.1.3. Chương trình đàm thoại truyền hình “Chƣơng trình đàm thoại truyền hình” là một cụm từ ghép mà ý nghĩa của nó đƣợc hình thành từ những thuật ngữ thành phần: chƣơng trình, đàm thoại, truyền hình. Vì vậy, để hiểu một cách toàn diện về khái niệm này, nghiên cứu sinh cho rằng cần xem xét các khái niệm và thuật ngữ nội hàm để phân tích. Trƣớc tiên, về khái niệm “truyền hình”, theo GS. Tạ Ngọc Tấn, đây là “một loại phương tiện truyền thông đại chúng chuyển tải thông tin bằng hình ảnh động và âm thanh” [64, tr.127]. Hay nói cách khác, truyền hình, với tƣ cách là một loại hình truyền thông đại chúng, có khả năng tác động đến công chúng của mình thông qua hình ảnh động và âm thanh. Đối với nghĩa của từ “chƣơng trình”, nếu hiểu theo nghĩa chung nhất thì trong sách “Từ điển Tiếng Việt 1994” của Trung tâm Từ điển học (Nhà xuất bản Đà Nẵng, 2008) là “toàn bộ những dự kiến hoạt động theo một trình tự nhất định và trong một thời gian nhất định ” [69, tr.250]. Trong thực tiễn 44 nói chung và thực tế đời sống báo chí nói riêng, đây là thuật ngữ đƣợc sử dụng rất phổ biến. Tuy nhiên, khi dùng trong phạm vi phát thanh - truyền hình thì thuật ngữ này không còn đƣợc hiểu hoàn toàn theo nghĩa rộng của nó. Theo đó, với cách hiểu thông thƣờng nhất thì “chƣơng trình” (phát thanh hay truyền hình) là một sản phẩm (có thể là báo chí hoặc không) có nội dung và hình thức được trình bày theo một trình tự nhất định, do nhiều cấu phần hợp thành. Cụ thể hơn, chƣơng trình truyền hình có thể là sản phẩm phát một lần là xong, hoặc là một phần của loạt, chuỗi sản phẩm đang đƣợc thực hiện, phát từng số nối tiếp nhau. Đó cũng có thể là một vở kịch (đƣợc dàn dựng để phát trên truyền hình); một bộ phim (phát trên truyền hình), hoặc bản tin thời sự, truyền hình thực tế, đàm thoại v.v. Nhƣ vậy, những gì phát trên truyền hình hiện nay có thể gọi chung là các chƣơng trình truyền hình. Tuy nhiên, không phải chƣơng trình truyền hình nào cũng là báo chí. Chỉ có những chƣơng trình nhƣ: bản tin thời sự, tọa đàm, phỏng vấn, phim tài liệu, bình luận, điều tra mới là chƣơng trình báo chí truyền hình. Còn phim ảnh, ca nhạc, trò chơi truyền hình không phải là báo chí, mặc dù vẫn là chƣơng trình truyền hình. Nhƣ vậy, cần phải có sự phân biệt giữa “chƣơng trình truyền hình” nói chung và “chƣơng trình báo chí truyền hình” nói riêng mà trong thực tế vẫn đƣợc gọi chung là “chƣơng trình truyền hình”. Cũng giống nhƣ các tác phẩm truyền hình, một chƣơng trình truyền hình dù có thời lƣợng phát sóng ra sao, phạm vi đề tài thế nào... cũng đều là sản phẩm lao động của một tập thể. Nhƣ vậy, theo nghiên cứu sinh, có thể hiểu “chƣơng trình truyền hình” là một sản phẩm truyền hình có nội dung và hình thức ổn định, mang đặc trưng của truyền hình (chuyển tải thông tin bằng hình ảnh động và âm thanh). 45 Hầu hết các chương trì...n đề thời sự của xã hội. Đối với các cơ quan báo chí, các chƣơng trình đàm thoại chính luận thể hiện vai trò của cả ba chức năng quan trọng của báo chí bao gồm: giám sát, phản biện và dự báo nhằm phục vụ phát triển bền vững. Thông qua các thông tin và đề xuất, báo chí tham gia sân chơi với ảnh hƣởng và sức chi phối để củng cố hoặc thay đổi các chính sách, các chƣơng trình hành động, và làm cho các nội dung trên gắn với, phù hợp hơn, với quyền lợi giai cấp hoặc với lý tƣởng xã hội và đạo đức. Với tầm quan trọng nhƣ vậy, nội dung của các chƣơng trình đàm thoại chính luận trên truyền hình luôn đƣợc chú trọng để xây dựng nội dung, đầu tƣ vào các câu hỏi và đòi hỏi những ngƣời làm công tác biên tập phải dày công nghiên cứu các vấn dề đƣợc khai thác để có một chƣơng trình thành công. Hiện đài truyền hình Việt Nam là cơ quan có nhiều chƣơng trình đàm thoại chính luận hay nhƣ các chƣơng trình “Sự kiện và bình luận”, “Vấn đề hôm nay”, “Đối thoại chính sách”... Những ngƣời dẫn dắt các chƣơng trình cũng là các nhà báo có uy tín và kỳ cựu trong nghề nhƣ BTV Quang Minh, BTV Thu Hà, BTV Đức Hoàng Những ngƣời góp phần không nhỏ vào thành công của các chƣơng trình đó. Vì vậy, có thể khẳng định vai trò cực kỳ quan trọng của chính luận trong báo chí, cụ thể là chính luận trên truyền hình có vai trò đặc biệt trong việc làm giàu thêm các hiểu biết lịch sử văn hóa, cổ vũ và động viên các phong trào vì lợi ích chung của xã hội và là một trong những thể loại sáng tác điển hình nhất, cái thể hiện đƣợc một cách toàn diện nhất giọng điệu, phong cách và ý thức hệ của ngƣời làm làm báo hình. Trả lời câu hỏi 4: Nhìn chung, các chƣơng trình đàm thoại chính luận truyền hình hiện nay đều đem lại cho khán giả những góc nhìn chuyên sâu, toàn diện và đa chiều về các vấn đề, sự kiện nóng trong nƣớc và quốc tế. Chƣơng trình đồng thời phỏng vấn ý kiến chuyên gia tại trƣờng quay về các vấn đề liên quan. Các chƣơng trình đã thể hiện những nét thay đổi lớn của chính luận trên truyền hình cả về chất và lƣợng. Về hình thức thể hiện, các chƣơng trình nhƣ Sự kiện và bình luận, Vấn đề hôm nay hay Báo chí toàn cảnh của kênh VTV1 đã đầu tƣ khá lớn về mặt kỹ thuật và các yếu 319 tố đồ hoạ. Cách thể hiện cũng rất linh hoạt dựa theo chủ đề của mỗi chƣơng trình. Chƣơng trình đã tạo ra một môi trƣờng hết sức thân thiện cho khán giả xem truyền hình và các khách mời, tăng sự gần gũi và tƣ thế tiếp nhận thông tin. Về nội dung, các câu hỏi đƣợc xây dựng hết sức mạch lạc, có mở đầu, dẫn dắt và kết thúc vấn đề một cách khoa học và logic. Các phóng sự xem kẽ phỏng vấn phục vụ tốt cho nội dung các câu hỏi và củng cố cho các nội dung bình luận. Những ngƣời tham gia trả lời là những nhân vật có trách nhiệm trực tiếp với sự kiện và có những ý kiến đóng góp quý báu cho chủ đề của chƣơng trình. Sự hấp dẫn của mỗi chƣơng trình luôn đòi hỏi những ngƣời làm truyền hình cần nỗ lực hơn nữa và sáng tạo không ngừng để có những chƣơng trình hay hơn, phản ánh những khía cạnh cụ thể hơn của đời sống xã hội. Các chƣơng trình cần xác định đƣợc đối tƣợng khán giả xem chƣơng trình để xác định tiêu chí “hấp dẫn” riêng của từng chƣơng trình. Ví dụ các đề tài phục vụ đối tƣợng chủ yếu là nông dân sẽ có cách thể hiện và dẫn dắt khác với các đề tài phục vụ các doanh nhân, học sinh hay các đối tƣợng cụ thể khác. Điều đó đòi hỏi kinh nghiệm của những ngƣời dẫn chƣơng trình đƣa ra các mục tiêu và nội dung phù hợp phục vụ các đối tƣợng khán giả của mình. Trả lời câu hỏi 5: Chính luận trên truyền hình là một thể loại tƣơng đối khó với truyền hình nói riêng và báo chí nói chung. Vì vậy ngƣời dẫn dắt các chƣơng trình bình luận chắc chắn phải là ngƣời nắm rất vững các lý thuyết và kỹ năng cơ bản của báo chí truyền hình, bao gồm dẫn chƣơng trình, xử lý tình huống, cách đặt câu hỏi, cách sử dụng nguồn, quy tắc đạo đức của nhà báo. Bên cạnh đó, họ cần là những ngƣời có kinh nghiệm, khả năng không tự nhiên đƣợc sinh ra mà đƣợc rèn luyện thông qua quá trình hoạt động thực tiễn. Các nhà báo có kinh nghiệm sẽ biết nên đƣa ra quyết định thế nào ở những thời điểm khác nhau, đây là khác biệt lớn với những ngƣời mới làm truyền hình. Tuy vậy, mỗi nhà báo lại có một cái “duyên” khác nhau trong việc trò chuyện với khách mời và khán giả, điều này giúp chúng ta nhận ra ngay các nhà báo khác nhau ở phong thái và cách dẫn dắt của họ. Ví dụ nhà báo Lại Văn Sâm, nhà báo Tạ Bích Loan có những cách thể hiện rất riêng của mình. Trả lời câu hỏi 6: Nhƣ tôi đã trả lời ở trên, truyền hình và các chƣơng trình của nó cần những biến tố đa sắc màu và đa dạng trong xu thế thay đổi nhanh chóng của truyền thông nói 320 chung, đặc biệt trong bối cảnh phát triển không ngừng của công nghệ số và mạng Internet. Việc giúp phân biệt các chƣơng trình báo chí với các thông tin truyền thông khác chính là ở chất lƣợng và thƣơng hiệu của thông tin. Để làm đƣợc điều này, các chƣơng trình truyền hình nói chung cần không ngừng cải tiến cả về nội dung và hình thức thể hiện, bắt kịp những vấn đề thời sự mà xã hội quan tâm. Con ngƣời là yếu tố quyết định cho tất cả các chƣơng trình truyền hình, thậm chí là thƣơng hiệu truyền hình. Các nhà báo luôn cần tự nâng cao năng lực chuyên môn và trình độ để đáp ứng và dự báo các xu thế phát triển của báo chí nói chung. Thành công của thƣơng hiệu truyền hình bắt nguồn từ chính các công việc cụ thể của các nhà báo. Đàm thoại chính luận trên truyền hình đề cao năng lực phản biện của nhà báo, họ cần là những chuyên gia trong lĩnh vực hỏi để đƣa ra những câu hỏi sắc xảo, có tính phản biện xã hội cao, đi đến tận cùng của các vấn đề và làm chủ cuộc đối thoại, điều tiết nhịp độ và tiết tấu của từng phần trong chƣơng trình. Áp dụng các thành tựu của công nghệ cũng là một phần rất quan trọng để nhà báo có các cách thể hiện mới, có khả năng bao phủ thông tin của mình một cách rộng rãi hơn, và quan trọng hơn cả là nâng cao uy tín của cá nhân các nhà báo. ----- 5.3.5. Chuyên gia 5 - Hình thức trả lời phỏng vấn: qua thƣ điện tử - Thời gian: ngày 20/3/2017 Trả lời câu hỏi 1: Tôi hiện là Trƣởng Ban Điện tử của Báo Đại Đoàn Kết. Trả lời câu hỏi 2: Theo tôi hiểu thì chính luận có cả trong văn học và trong báo chí. Đối với báo chí thì khi nói đến chính luận sẽ nói đến những chuyện nghiêm túc, quan trọng, chính thống. Thí dụ là chuyện quy hoạch cây xanh ở Hà Nội, chuyện xây đƣờng cao tốc trên cao chậm tiến độ, chuyện cải cách giáo dục còn nhiều bất cập v.v Trả lời câu hỏi 3: Tất nhiên là tác động của chƣơng trình đàm thoại truyền hình là rất lớn đối với công chúng. Vì họ có cơ hội đƣợc lắng nghe những phân tích, giải thích rất sâu sắc và đầy đủ của những chuyên gia, những nhà lãnh đạo, quản lý về một vấn đề, sự kiện, hiện tƣợng nào đó, mà điều này không dễ có đƣợc ở những chƣơng trình khác. Khi tác động đến công chúng thì vai trò của chƣơng trình này cũng trở nên quan trọng 321 với cơ quan báo chí. Vì công chúng quan tâm đến sản phẩm của anh thì tức là anh có thu nhập, có khách hàng. Trả lời câu hỏi 4: Có cả chƣơng trình chính luận dạng đàm thoại và không phải đàm thoại, nhƣ các phim tài liệu chính luận chẳng hạn. Có cả những đàm thoại chính luận ở báo in, phát thanh, báo mạng chứ không phải không có. Nhƣng đối với truyền hình thì do có thế mạnh về hình ảnh nên có thể khả năng tác động sẽ cao hơn. Hiện nay các chƣơng trình đàm thoại chính luận truyền hình đang có chỗ đứng nhất định trong lòng ngƣời xem, nhất là những chƣơng trình do VTV1 sản xuất. Những ngƣời dẫn chƣơng trình và các nhân vật trong đàm thoại có uy tín và là những ngƣời có chuyên môn, có vị trí cao trong xã hội khiến chƣơng trình tạo đƣợc sự tin cậy về mặt nội dung. Tuy nhiên, việc ngồi trƣớc màn hình nửa tiếng đồng hồ và nghe chuyện trò của ngƣời khác là điều không dễ dàng, trong thời buổi mạng xã hội phát triển rất mạnh và có thể cung cấp nhiều thông tin cũng nhƣ tiện ích nhƣ hiện nay. Vì thế, cách làm của các đàm thoại chính luận, nếu không thay đổi, không hấp dẫn hơn, thì khó có đƣợc sự quan tâm của số đông công chúng. Trả lời câu hỏi 5: Nhƣ tôi đã nói phần nào ở câu 3, hạn chế này là do một phần ở sự cạnh tranh của các phƣơng tiện truyền thông mới nhƣ mạng xã hội, nhƣng mặt khác tôi cho rằng cũng là do một phần cách làm còn chƣa đổi mới, sáng tạo của chính những ngƣời trong ngành truyền hình. Trả lời câu hỏi 6: Nên có những cách làm sáng tạo hơn đối với chƣơng trình đàm thoại chính luận truyền hình. Ví dụ ở phƣơng Tây, khi nhà báo Amanpour của kênh truyền hình CNN phỏng vấn đại sứ Việt Nam ở Mỹ Nguyễn Quốc Cƣờng về tranh chấp trên biển Đông thì cách phỏng vấn của nhà báo Amanpour không đơn thuần là đặt câu hỏi. Bà ta còn cho phát những đoạn trích dẫn phát biểu của Đại sứ Trung Quốc tại Mỹ hoặc Bộ trƣởng Ngoại giao Trung Quốc rồi đặt câu hỏi để ông Cƣờng bình luận. Nhƣ thế thì chƣơng trình hấp dẫn ngƣời xem hơn và tạo đƣợc sự tin cậy đối với các câu hỏi. Tất nhiên việc so sánh truyền hình Mỹ và truyền hình Việt Nam là không thoả đáng, nhƣng về mặt chuyên môn thì tôi nghĩ là hoàn toàn có thể học tập đƣợc. ----- 5.3.6. Chuyên gia 6 322 - Hình thức trả lời phỏng vấn: qua thƣ điện tử - Thời gian: ngày 8/9/2016 Trả lời câu hỏi 1: Hiện tôi là Phó Tổng Biên tập Báo Gia đình và Xã hội. Trả lời câu hỏi 2: Chính luận là bàn luận về, phân tích về, lập luận về những vấn đề chính trị, kinh tế, xã hội lớn, đƣợc nhiều ngƣời quan tâm. Trả lời câu hỏi 3: Vai trò của chƣơng trình đàm thoại chính luận truyền hình là cung cấp thông tin mang tính định hƣớng cho khán giả. Nhƣng thực ra điểm này thì cũng giống các đàm thoại ở phát thanh, báo mạng, báo in. Còn điểm khác biệt là khán giả có thể nhìn thấy trực tiếp các nhân vật ở trong đàm thoại phát biểu và diễn đạt ý kiến, cảm xúc của mình, nên thông tin sẽ trở nên tin cậy hơn, sống động hơn. Đối với cơ quan báo chí, chƣơng trình đàm thoại chính luận, nếu làm đƣợc hay thì trở thành một chƣơng trình mang tính định hƣớng dƣ luận cao, tạo ra giá trị cao cho cơ quan báo chí. Trả lời câu hỏi 4: Tôi không xem nhiều chƣơng trình đàm thoại truyền hình vì thời lƣợng của nó khá dài và có những lúc lại phát sóng vào khi tôi bận. Nhƣng tôi thấy rằng nội dung chất lƣợng của các chƣơng trình đa phần là tốt và thời sự. Những nhà báo dẫn các chƣơng trình đều có một trình độ tốt và là ngƣời có kinh nghiệm chứ không phải những gƣơng mặt xinh đẹp hay ngoại hình bắt mắt. Trả lời câu hỏi 5: Tôi nghĩ có thể có nhiều nguyên nhân gây ra hạn chế. Có thể do cơ chế của cơ quan báo chí (yêu cầu từ phía lãnh đạo), cũng có thể do năng lực những ngƣời thực hiện, hoặc có thể do các yếu tố về kỹ thuật không đáp ứng đƣợc yêu cầu của chƣơng trình. Trả lời câu hỏi 6: Thời gian phát sóng chƣơng trình nên vào giờ vàng nhiều hơn hoặc có thể phát lại chƣơng trình để khán giả tiện theo dõi. Thời lƣợng chƣơng trình nên cắt ngắn đi tầm 15 đến 20 phút thôi chứ không nên dài quá, tạo sự mệt mỏi và khó khăn cho việc theo dõi. Một số chƣơng trình tôi xem đƣợc thì thấy chỉ có 1 nhân vật trả lời từ đầu đến cuối thì có thể sẽ tạo ra sự nhàm chán và đôi khi là phiến diện. Nhƣ thế theo tôi 323 nên phải mời thêm đƣợc những nhân vật khác có thêm các góc nhìn khác để khiến chƣơng trình đa chiều và sâu sắc hơn. ----- 5.3.7. Chuyên gia 7 - Hình thức trả lời phỏng vấn: qua thƣ điện tử - Thời gian: ngày Trả lời câu hỏi 1: Tôi giữ chức vụ Phó Ban Kinh tế của Báo Nhân Dân. Trả lời câu hỏi 2: Chính luận là một trong những dòng thể loại mang tính chiến đấu cao của báo chí. Những bài xã luận, đàm luận của Báo Nhân Dân là một ví dụ tiêu biểu cho nhận định này khi luôn luôn phản ánh những vấn đề nóng hổi, gây bức xúc, quan tâm trong dƣ luận dƣới ngòi bút sắc sảo của những nhà báo, nhà bình luận kì cựu. Trả lời câu hỏi 3: Vai trò của đàm thoại chính luận cũng giống nhƣ các tác phẩm xã luận, đàm luận, chuyên luận trên các báo Đảng. Đó là ngoài việc cung cấp thông tin thì nó còn định hƣớng thông tin, giúp nhân dân hiểu và điều chỉnh đƣợc hành vi của mình trƣớc vấn đề, sự kiện mà bài báo phản ánh. Ở nhiều cơ quan báo chí, những tác phẩm dạng này đƣợc coi là “bút chiến”, là yếu tố tiên phong trong việc thu hút sự chú ý của công chúng do ảnh hƣởng rộng khắp mà nó tạo ra. Trả lời câu hỏi 4: Hiện nay ở các kênh truyền hình chính luận nhƣ VTV1, Nhân Dân TV, Quốc hội TV, Quốc phòng TV thì những chƣơng trình đàm thoại chính luận có một vị trí ƣu tiên vì nó thuộc thế mạnh của những cơ quan này, còn những cơ quan khác khó có thể thực hiện đƣợc. Ƣu điểm là các chƣơng trình có đƣợc những tiếng nói hết sức chính thống, có sức nặng, có giá trị, tạo ra ảnh hƣởng rộng rãi trong xã hội trƣớc những vấn đề cần sự giải thích, cần sự định hƣớng thông tin cao. Nhƣợc điểm là vì đặc trƣng của chƣơng trình nằm ở yếu tố trao đổi, phân tích, lập luận nhiều chiều nên phải dài, mà dài thì đôi khi mất đi những công chúng bận rộn. Trả lời câu hỏi 5: Nguyên nhân do đặc trƣng của chƣơng trình. Tuy nhiên, có thể dùng đến một số yếu tố về kỹ thuật nhƣ: video clip, các gạt giữa chƣơng trình để làm chƣơng trình mềm mỏng hơn, sinh động hơn. 324 Trả lời câu hỏi 6: Để nâng cao chất lƣợng chƣơng trình đàm thoại truyền hình có lẽ cần phải có sự đầu tƣ hơn nữa vào những ngƣời cầm trịch, những ngƣời dẫn chƣơng trình sao cho họ có thể đạt đƣợc tầm ngang với những ngƣời ngồi cùng mình trong chƣơng trình, sao cho họ chính là những nhà bình luận có thể đƣa ra những phân tích không kém sức nặng. Vì chƣơng trình đàm luận cần sự định hƣớng thông tin khá cao và một tƣ tƣởng vững vàng, nên vai trò của ngƣời dẫn ở đây rất quan trọng và phải đƣợc nhìn nhận đúng mức. ----- 5.3.8. Chuyên gia 8 - Hình thức trả lời phỏng vấn: qua thƣ điện tử - Thời gian: ngày 12/11/2016 Trả lời câu hỏi 1: Tôi đã có vài chục năm kinh nghiệm làm báo, ở nhiều vị trí khác nhau, tại nhiều cơ quan báo chí cả báo in, truyền hình, báo mạng. Hiện, tôi đang giữ chức vụ Tổng Thƣ ký Hội truyền thông số. Trả lời câu hỏi 2: Nhắc đến chính luận là nhắc đến những đề tài về chính trị, kinh tế xã hội có ảnh hƣởng tới nhiều ngƣời, đƣợc thực hiện bởi những nhà báo có kinh nghiệm và có thƣơng hiệu. Nhƣ vậy chính luận là bàn luận về những chuyện thời sự quan trọng và dĩ nhiên đƣợc nhiều ngƣời quan tâm. Trả lời câu hỏi 3: Chính luận có vai trò định hƣớng và lan toả thông tin. Lấy ví dụ nếu một chƣơng trình đàm thoại chính luận mời đến Bộ trƣởng Bộ Giáo dục để trả lời những thắc mắc, những vấn đề nóng hổi đang đặt ra của ngành giáo dục, thì sẽ đƣợc công chúng hết sức quan tâm. Bởi họ đƣợc nghe trực tiếp ý kiến của ông Bộ trƣởng thông qua chính ông ta nói trực tiếp qua camera chứ không phải là đọc ý kiến của ông trên báo hay là chỉ nghe giọng trên radio. Truyền hình có cái lợi thế về hình ảnh, nên sự chuyển tải thông điệp ở truyền hình nó cũng có lợi thế hơn. Nhƣng đây cũng là điều hạn chế ở truyền hình, vì nó phụ thuộc vào mặt hình ảnh. Nếu nhƣ ông Bộ trƣởng ở một nơi xa, không đến đƣợc trƣờng quay thì phát thanh vẫn làm đƣợc thông qua điện thoại, báo in cũng vậy, nhƣng truyền hình thì khó hơn, có thể sẽ gọi điện phỏng vấn và để ảnh của nhân vật hiện trên màn hình, nhƣng nó mất đi cái sinh động cần có của truyền hình. Vì thế, chỉ khi truyền hình thực hiện đƣợc đúng chức năng của 325 mình trong tác phẩm chính luận đàm thoại thì nó mới chinh phục đƣợc công chúng theo cách hiệu quả hơn, thuyết phục hơn. Trả lời câu hỏi 4: Nói về hạn chế trƣớc, thì hạn chế lớn nhất hiện nay là không thấy những ngƣời đủ tầm để dẫn dắt các chƣơng trình đàm thoại chính luận trên truyền hình. Trƣớc đây có anh Trƣờng Phƣớc là ngƣời rất có uy tín và đủ khả năng đảm đƣơng chƣơng trình kiểu này. Còn lại các nhà báo khác thì thƣờng tập trung ở các tờ báo in lớn chứ trên truyền hình hiện nay những ngƣời trẻ tuổi chƣa thực sự tạo đƣợc ấn tƣợng nhƣ lớp đi trƣớc. Nhƣng không thể nói một cách phủ nhận hoàn toàn. Vẫn có nhiều chƣơng trình đƣợc công chúng quan tâm vì ngƣời dẫn chƣơng trình đã chuẩn bị tốt, và cả do có đƣợc nhân vật tốt đến đàm thoại nữa, thì đó là điểm vẫn cần phải ghi nhận. Về những ƣu điểm, thì nói chung tác phẩm đàm thoại chính luận trên truyền hình hiện nay cũng đã nói đến những gì mà ngƣời xem quan tâm, cũng đã có những nhân vật có tầm ảnh hƣởng và có khả năng định hƣớng dƣ luận tốt. Thì đó là những ƣu điểm không thể phủ nhận của chƣơng trình. Trả lời câu hỏi 5: Hạn chế trên có một số nguyên nhân nhƣ sau: Một là do hiện nay trình độ ngƣời dẫn còn hạn chế do bản thân họ quá bận rộn với những công việc khác nữa chứ không chỉ chuyên tâm vào một chƣơng trình. Hai là do sự yêu nghề của mỗi ngƣời mỗi khác, khi anh yêu nghề thì anh sẽ có động lực để thực hiện tin bài của mình một cách có tâm nhất, nhiệt huyết nhất có thể. Ba là có thể do định hƣớng của cấp trên, khiến cho việc phân tích, giải thích về một vấn đề, sự kiện nào đó phải theo một định hƣớng nhất định, điều này cũng khiến cho việc làm chƣơng trình có thể sẽ kém hay. Bốn là cũng có thể giờ đây thông tin ở dạng bão hoà rồi, nên ngƣời ta không quan tâm nhiều đến các chƣơng trình kiểu này mà thích lên mạng tìm kiếm thông tin hơn. Nói chung là có nhiều lý do hơn nhƣng đây là những nguyên nhân chính. Trả lời câu hỏi 6: Nhất thiết cần phải nâng cao công tác đào tạo báo chí, đặc biệt là về khả năng phân tích, bàn luận một vấn đề. Hiện nay nhiều sinh viên ra trƣờng đi làm báo, không có kinh nghiệm thì đã đành, nhƣng những kỹ năng tìm hiểu, nghiên cứu, khai thác đề tài còn yếu. Nhiều sinh viên nóng vội chạy theo nhuận bút hoặc lại học những “mánh” trong nghề để nhanh câu view, chứ không thực sự đầu tƣ vào căn bản nhƣ kiến thức xã hội, kỹ năng làm nghề. Điều này khiến cho lực lƣợng lao động trong 326 lĩnh vực báo chí giảm chất lƣợng, vì thế không thể có những nhà bình luận, những ngƣời dẫn chƣơng trình có tầm cho những chƣơng trình nhƣ thế này đƣợc. ----- 5.3.9. Chuyên gia 9 - Hình thức trả lời phỏng vấn: qua thƣ điện tử - Thời gian: ngày 30/7/2017 Trả lời câu hỏi 1: Tôi đang công tác tại Học viện Báo chí và Tuyên truyền và có thâm niên gần 30 năm đứng trên bục giảng. Chuyên môn của tôi là giảng dạy và nghiên cứu về báo chí truyền hình. Trả lời câu hỏi 2: Chính luận, nói một cách ngắn gọn, dễ hiểu, là bàn luận về một vấn đề một cách chính thức. Báo chí chính luận là các sản phẩm phân tích, chứng minh, bình luận, mổ xẻ một hiện tƣợng, sự kiện, vấn đề nào đó một cách trực tiếp, rõ ràng, khoa học, không dùng các hình thức biểu đạt nghệ thuật, các ẩn dụ, hƣ cấu... Có nhiều ngƣời hay đồng nhất chính luận và chính trị, nhƣng đó là sự nhầm lẫn. Chính luận là một phong cách báo chí, chứ không phải một từ chỉ nội dung của sản phẩm báo chí. Tác phẩm chính luận có thể bàn về bất cứ vấn đề gì, từ chính trị, kinh tế đến văn hóa, thể thao, nhƣng với một phong cách bày tỏ quan điểm trực tiếp, với những lập luận rõ ràng. Trả lời câu hỏi 3: Vai trò của chƣơng trình đàm thoại chính luận đối với công chúng: - Cung cấp thông tin đa chiều về một sự kiện, hiện tƣợng vấn đề. - Đáp ứng nhu cầu lắng nghe sự lý giải có chuyên môn (của ngƣời có chuyên môn). - Góp phần định hƣớng dƣ luận một cách khách quan và tích cực. Vai trò với cơ quan báo chí: - Thể hiện năng lực, trí tuệ, bản lĩnh của một đơn vị báo chí. - Tính dân chủ của báo chí. - Thực hiện chức năng tƣ tƣởng của báo chí. Trả lời câu hỏi 4: Ƣu điểm: - Nhiều chƣơng trình có nội dung tốt, đƣợc dƣ luận quan tâm, ví dụ những chƣơng trình của Sự kiện & Bình luận. 327 - Nhiều khách mời có khả năng lập luận và phân tích rất tốt, khiến cho chƣơng trình có “sức nặng” về nội dung và giá trị thông tin. - Ngƣời dẫn chƣơng trình nhìn chung tự tin, phong thái rất “chính luận”, có sự đầu tƣ về hình thức cũng nhƣ cách dẫn dắt. Nhƣợc điểm: - Một số chƣơng trình làm về những đề tài khi đề tài đã nguội rồi, mà lại chỉ mời đƣợc những nhân vật không quá xuất sắc, hoặc chỉ mời đƣợc 1 ngƣời (trong khi chƣơng trình tận 30 phút). - Thời lƣợng các chƣơng trình nhìn chung còn dài, không giống nhƣ talkshow về chính trị của phƣơng tây, làm rất cô đọng và ngắn gọn nhƣng nội dung rất hay và cuốn hút. Trả lời câu hỏi 5: Có thể do đặc thù của báo chí và truyền hình Việt Nam khiến cho việc nói thẳng về một đề tài nào đó không đƣợc dễ dàng. Trả lời câu hỏi 6: Nếu khắc phục đƣợc những nhƣợc điểm trên, chất lƣợng chƣơng trình sẽ tốt hơn. Hơn nữa nên có những chƣơng trình bình chọn để khán giả có thể bầu cho ngƣời dẫn chƣơng trình đàm thoại chính luận xuất sắc nhất, hoặc chọn ra chƣơng trình đàm thoại chính luận truyền hình hấp dẫn nhất Thì nhƣ thế cũng tạo động lực để những ngƣời làm chƣơng trình cố gắng hơn./. 328 PHỤ LỤC 6 THỐNG KÊ CÁC CHƢƠNG TRÌNH ĐÀM THOẠI CHÍNH LUẬN TRUYỀN HÌNH (TÍNH ĐẾN THÁNG 09 NĂM 2019) TT Tên chƣơng trình Thuộc Đài, Kênh Giờ, ngày phát Thời lƣợng (phút) Nội dung Hình thức 1 Đối thoại Chính sách VTV1 22h45 thứ 4 45 - Đề tài thƣờng là các nội dung liên quan đến chính sách quan trọng, do đó liên quan đến mọi lĩnh vực đời sống. - Thƣờng có 2-3 phóng sự linh kiện. - 1 ngƣời dẫn chƣơng trình và từ 2 khách mời trở lên, thậm chí có số tới 5 khách mời. - Ngồi ghi hình trong studio, một vài số đặc biệt quay ngoại cảnh. - Không dùng phông khi quay studio, mà dùng ánh sáng làm nổi bật khu vực đàm thoại. 2 Sự kiện & Bình luận VTV1 9h30 thứ 7 30 - Phân tích, bình luận về 1 sự kiện, vấn đề nổi bật trong tuần thuộc bất kỳ lĩnh vực nào của đời sống. - Phần cuối có mục Hình ảnh Bình luận, điểm lại những sự kiện nổi bật khác. - Có từ 2-3 phóng sự linh kiện. - 1 ngƣời dẫn chƣơng trình và 1 khách mời trở lên. - Hoàn toàn ghi hình trong studio. - Đôi lúc thực hiện cầu truyền hình để đàm thoại với khách mời ở địa điểm khác. 3 Toàn cảnh Thế giới VTV1 9h30 Chủ Nhật 30 - Phân tích, bình luận 1 vấn đề, sự kiện nổi bật của thế giới. - Phần cuối điểm lại một số sự kiện nổi bật khác đã diễn ra trong tuần. - 1 ngƣời dẫn chƣơng trình và 1 khách mời trở lên. - Ngồi ghi hình trong studio. 329 - Có 1-2 phóng sự linh kiện. 4 Vấn đề hôm nay VTV1 22h00 từ thứ 2 đến thứ 6 22 - Phân tích một vấn đề nổi bật trong ngày thông qua các phóng sự, phản ánh và phần trò chuyện với khách mời. - Thỉnh thoảng có số không có khách mời mà ngƣời dẫn chƣơng trình tự bình luận. - 1 ngƣời dẫn chƣơng trình 1 khách mời. - Ghi hình trong studio, khi đàm thoại cả khách mời và ngƣời dẫn đều đứng. 5 Tạp chí Kinh tế cuối tuần VTV1 8h30 thứ 7 30 - Bàn luận, phân tích một vấn đề về kinh tế nổi bật trong tuần. - Có 1-2 phóng sự linh kiện. - 1 ngƣời dẫn chƣơng trình 1 khách mời. - Ngồi ghi hình trong studio. 6 Hội nhập VTV1 21h00 thứ 7 cách tuần 25 - Xoay quanh chủ đề hội nhập, chƣơng trình nói về các góc độ khác nhau: nhân lực, kinh tế, các hiệp định thƣơng mại, các kỹ năng mềm - Có 1-2 phóng sự linh kiện. - 1 ngƣời dẫn chƣơng trình và 1 khách mời trở lên. - Ngồi ghi hình trong studio. 7 90 phút để hiểu VTV1 8h00 Chủ Nhật 90 - Đƣa tin và phân tích về nhiều chủ đề khác nhau, có phần đàm thoại, có phần điểm tin, có phần phỏng vấn - Chƣơng trình này chỉ có một phần là đàm thoại chính luận. - Chƣơng trình có phần đồ hoạ 3 chiều - 1 ngƣời dẫn chƣơng trình chính, 1 ngƣời dẫn điểm tin, một số phóng viên dẫn hiện trƣờng. - Khi đàm thoại, ngƣời dẫn chƣơng trình chính thƣờng ngồi cùng khách mời. Nhƣng khi dẫn những phần khác, có thể sẽ 330 minh hoạ cho nhiều nội dung. đứng, đi lại. 8 60 phút Mở VTV6 9h00 Chủ Nhật 45 - Phân tích, bàn luận về một chủ đề thời sự dƣới 2 góc độ thƣờng là phản biện nhau. - Có 2-3 phóng sự linh kiện. - Nhiều số có khán giả tham dự. - 1 ngƣời dẫn chƣơng trình và 2 khách mời trở lên. - Ghi hình trong studio. 9 Tâm điểm Truyền hình Nhân Dân 7h00 thứ 6 15 - Bàn luận, về các vấn đề nóng, thời sự trong nƣớc, đƣợc dƣ luận quan tâm chú ý. - Có 1-2 phóng sự linh kiện. - 1 ngƣời dẫn chƣơng trình và 1-2 khách mời. - Ngồi ghi hình trong studio. 10 Nhìn từ Hà Nội Truyền hình Nhân Dân 9h00 thứ 7 15 - Bình luận các vấn đề quốc tế nổi bật trong tuần. - Có 1-2 phóng sự linh kiện. - 1 ngƣời dẫn chƣơng trình và 1 khách mời. - Ngồi ghi hình trong studio. 11 Bàn tròn Truyền hình Nhân Dân Hằng tuần 30 - Phân tích, bàn luận những vấn đề đƣợc dƣ luận quan tâm chú ý. - Có 1-2 phóng sự linh kiện. - 1 ngƣời dẫn chƣơng trình và 2 khách mời. - Ngồi ghi hình trong studio. 12 Những góc nhìn Truyền hình Nhân Dân Hằng tuần 30 - Chọn một vấn đề thời sự nổi bật để phân tích, bàn luận. - Có 1-2 phóng sự linh kiện. - 1 ngƣời dẫn chƣơng trình và thƣờng là 2 khách mời. - Ngồi ghi hình trong studio. 13 Tiêu điểm kinh tế Truyền hình Thông tấn VNews 18h30 Chủ Nhật 30 - Bàn luận, phân tích một vấn đề về kinh tế nổi bật trong tuần. - Có 1-2 phóng sự linh kiện. - 1 ngƣời dẫn chƣơng trình 1 khách mời. - Ngồi ghi hình trong studio. 331 14 Thế giới 360 Truyền hình Thông tấn VNews 20h30 thứ 7 30 - Phân tích, bình luận 1 vấn đề, sự kiện nổi bật của thế giới. - Phần cuối điểm lại một số sự kiện nổi bật khác đã diễn ra trong tuần. - Có 1-2 phóng sự linh kiện. - 1 ngƣời dẫn chƣơng trình và 1 khách mời trở lên. - Ngồi ghi hình trong studio. 15 Ngƣời quan sát Truyền hình Quốc phòng QPVN 8h30 Chủ Nhật 30 - Phân tích, bình luận các vấn đề an ninh quốc phòng quốc tế. - Có 1-2 phóng sự linh kiện. - 1 ngƣời dẫn chƣơng trình và 2 khách mời. - Ngồi ghi hình trong studio. 16 Nhận diện sự thật Truyền hình Quốc phòng QPVN 20h40 thứ 6 15 - Mục đích của chƣơng trình nhằm chống diễn biến hoà bình, đấu tranh, vạch trần âm mƣu thủ đoạn, mục đích của các thế lực thù địch chống phá Đảng, Nhà nƣớc và quân đội. - Có 1-2 phóng sự linh kiện. - 1 ngƣời dẫn chƣơng trình và 1 khách mời. - Ngồi ghi hình trong studio. 17 Câu chuyện hôm nay Truyền hình Quốc hội 20h00 từ thứ 2 đến thứ 6 30 - Phân tích một vấn đề nổi bật trong ngày thuộc bất kỳ lĩnh vực nào thông qua đàm thoại với khách mời. - Có 1-2 phóng sự linh kiện. - 1 ngƣời dẫn chƣơng trình và 1 khách mời trở lên. - Ngồi ghi hình trong studio. 18 Focus in Viet Nam VTC10 19h00 Chủ Nhật 30 - Bàn luận một vấn đề kinh tế, xã hội, đặc biệt là ngoại giao của Việt Nam nổi bật trong tuần. - 1 ngƣời dẫn chƣơng trình và 1 khách mời trở lên. - Ngồi ghi hình trong studio. 332 - Có 1-2 phóng sự linh kiện. 19 Đối thoại mỗi ngày HTV9 6h20 mỗi ngày 10 - Đối thoại về các vấn dề chính trị, văn hoá, kinh tế, dân sinh mà ngƣời dân quan tâm. - 1 ngƣời dẫn chƣơng trình và 1 khách mời trở lên. - Ngồi ghi hình trong studio. 20 Góc nhìn HTV HTV 21h00 thứ 6 60 - Phân tích, bàn luận đã chiều về những vấn đề đang đƣợc dƣ luận quan tâm hiện nay. - 1 ngƣời dẫn chƣơng trình và 2-3 khách mời. - Bối cảnh ghi hình linh hoạt, không cố định. 21 Hà Nội - Những góc nhìn Truyền hình Hà Nội 11h00 thứ 7 cuối tháng 30 - Bình luận chuyên sâu về những sự kiện đang diễn ra, vừa diễn ra, những vấn đề nóng, nổi cộm đƣợc dƣ luận xã hội quan tâm từ giác độ rất đặc thù của thủ đô. - Có 1-2 phóng sự linh kiện. - 1 ngƣời dẫn chƣơng trình và 2-3 khách mời. - Ngồi ghi hình trong studio. 22 Cùng bàn luận Đài PTTH Hƣng Yên 20h45 thứ 3 tuần thứ 2 30 - Bàn luận về các vấn đề thời sự nóng xảy ra trên địa bàn. - Có 1-2 phóng sự linh kiện. - 1 ngƣời dẫn chƣơng trình và 2-3 khách mời. - Ngồi ghi hình trong studio. 23 Dân hỏi - Lãnh đạo trả lời Đài PTTH Trà Vinh thứ 3 12-14 - Đàm thoại với 1 vị lãnh đạo về nội dung liên quan đến lĩnh vực quản lý của lãnh đạo đó. - 1 ngƣời dẫn chƣơng trình và 1 nhân vật. - Ghi hình trong studio. 24 Đối thoại VITV 19h45 thứ 7 30-45 - Là một diễn đàn với sự tham gia của các chuyên gia kinh tế, những nhà hoạch định - 1 ngƣời dẫn chƣơng trình và 2 khách mời trở lên. - Ngồi ghi hình trong 333 chính sách hàng đầu về kinh tế vĩ mô có tác động lớn đến nền kinh tế Việt Nam, những vấn đề nóng đang đƣợc quan tâm, các quyết sách của Chính phủ, cơ quan chức năng cũng nhƣ giải pháp kinh tế trong ngắn, trung và dài hạn. - Có 2-3p phóng sự linh kiện. studio phông ảo. - Đôi lúc có nhận điện thoại của khán giả để giải đáp trực tiếp trong chƣơng trình (khi đó chƣơng trình phát sóng trực tiếp). 25 Thế giới Sự kiện VITV 9h15 thứ 7 30 - Bình luận về các sự kiện đƣợc tổng hợp, với phần phân tích chuyên sâu của khách mời là các chuyên gia có uy tín nhƣ giảng viên các trƣờng đại học, chuyên gia viện nghiên cứu thuộc Viện Hàn lâm Khoa Học Xã Hội Việt Nam, các quan chức Đại sứ quán; lãnh đạo các tổ chức quốc tế tại Việt Nam. - Có 2 phóng sự linh kiện trở lên. - 1 ngƣời dẫn chƣơng trình và 1 khách mời trở lên. - Ngồi ghi hình trong studio phông ảo. 26 Đồng tiền thông minh FBNC 19h00 thứ 7 30 - Phân tích, bàn luận các vấn đề liên quan đến tài chính, đầu tƣ, tiền tệ - Có 1-2 phóng sự linh kiện. - 1 ngƣời dẫn chƣơng trình và 1-2 khách mời. - Đôi lúc ghi hình trong studio, đôi lúc ở nơi khác. 334

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • pdfluan_an_tinh_chinh_luan_trong_chuong_trinh_dam_thoai_truyen.pdf
  • pdf3.Ket luan moi (Eng).pdf
  • pdf4.Ket luan moi (Vie).pdf
  • pdf6.Tom tat Luan an (VIE).pdf
  • pdf7.Tom tat Luan an (ENG).pdf