HỌC VIỆN CHÍNH TRỊ QUỐC GIA HỒ CHÍ MINH
PHAN HUY TRƯỜNG
THỰC HIỆN CÔNG BẰNG XÃ HỘI
VỚI VIỆC PHÁT TRIỂN NGUỒN NHÂN LỰC
Ở VIỆT NAM HIỆN NAY
LUẬN ÁN TIẾN SĨ
CHUYÊN NGÀNH: CHỦ NGHĨA DUY VẬT BIỆN CHỨNG
VÀ CHỦ NGHĨA DUY VẬT LỊCH SỬ
Mã số: 62 22 03 02
Người hướng dẫn khoa học: 1. PGS.TS. NGUYỄN MINH HOÀN
2. PGS.TS. ĐẶNG QUANG ĐỊNH
HÀ NỘI - 2017
LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan đây là công trình nghiên cứu của
riêng tôi. Các số liệu, kết quả nêu trong luận án là trung
thực
169 trang |
Chia sẻ: huong20 | Ngày: 15/01/2022 | Lượt xem: 475 | Lượt tải: 0
Tóm tắt tài liệu Luận án Thực hiện công bằng xã hội với việc phát triển nguồn nhân lực ở Việt Nam hiện nay, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
c, có nguồn gốc rõ ràng và được trích dẫn đầy đủ theo
quy định.
Tác giả luận án
Phan Huy Trường
MỤC LỤC
Trang
MỞ ĐẦU 1
Chương 1: TỔNG QUAN TÌNH HÌNH NGHIÊN CỨU 5
1.1. Những công trình nghiên cứu lý luận về thực hiện công bằng xã
hội và về phát triển nguồn nhân lực 5
1.2. Các công trình nghiên cứu về thực trạng vai trò thực hiện công
bằng xã hội với việc phát triển nguồn nhân lực ở Việt Nam 15
1.3. Các công trình nghiên cứu liên quan đến quan điểm và giải pháp
phát huy vai trò thực hiện công bằng xã hội với việc phát triển
nguồn nhân lực 19
1.4. Hướng nghiên cứu của luận án 24
Chương 2: THỰC HIỆN CÔNG BẰNG XÃ HỘI VÀ PHÁT TRIỂN
NGUỒN NHÂN LỰC - MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN 27
2.1. Thực hiện công bằng xã hội - Một số vấn đề lý luận 27
2.2. Phát triển nguồn nhân lực - Một số vấn đề lý luận 40
2.3. Vai trò của thực hiện công bằng xã hội với việc phát triển nguồn
nhân lực ở Việt Nam 50
Chương 3: THỰC TRẠNG VAI TRÒ CỦA THỰC HIỆN CÔNG BẰNG
XÃ HỘI VỚI VIỆC PHÁT TRIỂN NGUỒN NHÂN LỰC Ở
VIỆT NAM HIỆN NAY 69
3.1. Tác động của việc thực hiện công bằng về cơ hội trong một số
lĩnh vực cơ bản đối với phát triển nguồn nhân lực 69
3.2. Thành tựu và hạn chế của vai trò thực hiện công bằng xã hội đối với
việc phát triển nguồn nhân lực ở Việt Nam hiện nay 93
Chương 4: MỘT SỐ QUAN ĐIỂM VÀ GIẢI PHÁP CHỦ YẾU THỰC
HIỆN CÔNG BẰNG XÃ HỘI VỚI VIỆC PHÁT TRIỂN
NGUỒN NHÂN LỰC Ở VIỆT NAM HIỆN NAY 114
4.1. Một số quan điểm chủ yếu nhằm phát huy vai trò thực hiện công
bằng xã hội với việc phát triển nguồn nhân lực ở Việt Nam hiện nay 114
4.2. Một số giải pháp chủ yếu nhằm phát huy vai trò thực hiện công
bằng xã hội với việc phát triển nguồn nhân lực ở Việt Nam
hiện nay 125
KẾT LUẬN 151
DANH MỤC CÁC CÔNG TRÌNH KHOA HỌC CỦA TÁC GIẢ 153
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO 154
DANH MỤC CÁC CHỮ VIẾT TẮT
CBXH : Công bằng xã hội
CNH, HĐH : Công nghiệp hóa, hiện đại hóa
NNL : Nguồn nhân lực
NNL CLC : Nguồn nhân lực chất lượng cao
Nxb : Nhà xuất bản
DANH MỤC CÁC BẢNG
Trang
Bảng 3.1: Tình hình chuyển dịch cơ cấu lao động theo ngành thời kỳ
1991-2014 97
Bảng 3.2: Phân bố lao động theo thành phần kinh tế 100
Bảng 3.3: Tỷ lệ lực lượng lao động đã qua đào tạo năm 2014 107
1
MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Từ khi xã hội phân chia giai cấp, CBXH luôn luôn là khát vọng, là mục
tiêu đấu tranh của con người và xã hội loài người. Ngày nay, thực hiện công
bằng xã hội trở thành một trong những tiêu chí đánh giá sự phát triển bền
vững và tiến bộ xã hội của mỗi quốc gia.
Ở Việt Nam, thực hiện CBXH đang trở thành nhu cầu bức thiết, điều
kiện đem lại sự thành công của công cuộc đổi mới đất nước. Trong xây dựng
và phát triển đất nước, Việt Nam lựa chọn con đường phát triển theo định
hướng xã hội chủ nghĩa, việc lựa chọn con đường phát triển ngày càng khẳng
định rõ hơn, sâu sắc hơn nhu cầu thực hiện CBXH. Hơn thế nữa, thực hiện
CBXH không chỉ là nhu cầu, điều kiện, động lực phát triển mà còn là mục
tiêu của sự phát triển phát triển đất nước Việt Nam và khẳng định rõ mục tiêu
đó, trong quá trình lãnh đạo cách mạng Việt Nam, Đảng Cộng sản Việt Nam
khẳng định là xây dựng đất nước nhằm thực hiện xã hội "dân giàu, nước
mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh" [37, tr.16].
Trên thế giới hiện nay, trong sự phát triển của các quốc gia lợi thế so
sánh của sự phát triển nhanh và bền vững đang chuyển dần từ yếu tố giàu về
tài nguyên, tiền vốn, giá nhân công rẻ sang lợi thế về trình độ trí tuệ của con
người và về phát huy vai trò của NNL trong tiến trình phát triển đó. Vì vậy,
phát triển NNL đang trở thành một yêu cầu quan trọng, là nguồn tài sản quý
giá, là nhân tố góp phần đem lại sự tăng trưởng, phát triển kinh tế của mọi
quốc gia, điều này được minh chứng qua mô hình tăng trưởng kinh tế của
Nhật Bản, Hàn Quốc, Thái Lan, Sinhgapo.và một số nước khác trên thế
giới. Bởi thế, phát huy vai trò NNL trong tiến trình phát triển kinh tế - xã hội
đang trở thành vấn đề chiếm vị trí trọng tâm trong hệ thống các nguồn lực
trong sự phát triển của các quốc gia, trong đó có Việt Nam.
Trong thực tiễn phát triển kinh tế - xã hội Việt Nam, thực hiện CBXH
đang trở thành một nội dung cơ bản trong đời sống kinh tế - xã hội và đặc biệt
2
thực hiện CBXH với việc phát triển NNL đang đặt ra những vấn đề lý luận và
thực tiễn bức thiết. Nếu không giải quyết tốt vấn đề này, nó sẽ là trở lực đối
với sự phát triển kinh tế - xã hội nói chung.
Tại sao việc thực hiện CBXH, việc phát triển NNL và việc thực hiện
CBXH đối với phát triển NNL xuất hiện những vấn đề phức tạp, nó có là trở
lực đối với sự phát triển đất nước hay không? Liệu có thể thực hiện CBXH
đối với phát triển NNL trong điều kiện phát triển kinh tế thị trường, trong điều
kiện thực hiện đẩy mạnh CNH, HĐH, hướng tới phát triển kinh tế tri thức,
trong điều kiện số lượng NNL đang tăng nhanh, trong điều kiện nước ta đang
được hưởng lợi từ “dân số vàng” hay không? Để giải đáp câu hỏi này một vấn
đề cấp thiết khác cũng đang được đặt ra trong thực hiện công bằng xã hội đối
với việc phát triển NNL, vạch ra và tìm phương hướng giải quyết những tồn tại,
những hạn chế, những vấn đề có liên quan trực tiếp đến việc thực hiện công bằng
xã hội đối với phát triển NNL và có ý nghĩa quan trọng đối với giải quyết vấn đề
đó nhằm tạo lên động lực cho sự phát triển kinh tế - xã hội, hướng tới thực hiện
mục tiêu dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh.
Với những lý do đó, tôi lựa chọn đề tài: "Thực hiện công bằng xã hội với
việc phát triển nguồn nhân lực ở Việt Nam hiện nay" làm đề tài nghiên cứu
luận án tiến sĩ chuyên ngành Chủ nghĩa duy vật biện chứng và Chủ nghĩa duy
vật lịch sử góp phần làm sáng tỏ vấn đề nêu trên.
2. Mục đích, nhiệm vụ nghiên cứu
2.1. Mục đích nghiên cứu
Trên cơ sở phân tích, khảo sát thực trạng thực hiện CBXH với việc
phát triển NNL ở Việt Nam hiện nay, luận án đề xuất một số giải pháp
nhằm phát huy vai trò của thực hiện CBXH với việc phát triển NNL ở Việt
Nam hiện nay.
2.2. Nhiệm vụ nghiên cứu
Để đạt được mục đích nghiên cứu nêu trên, luận án có các nhiệm vụ chính:
3
Thứ nhất, khái quát một số vấn đề lý luận về thực hiện CBXH và phát
triển NNL.
Thứ hai, khảo sát thực trạng vai trò của thực hiện CBXH với việc phát
triển NNL ở Việt Nam.
Thứ ba, đưa ra một số quan điểm và giải pháp nhằm phát huy vai trò
của thực hiện CBXH với việc phát triển NNL.
3. Đối tượng, phạm vi nghiên cứu
3.1. Đối tượng nghiên cứu
Nghiên cứu vai trò thực hiện công bằng xã hội với việc phát triển nguồn
nhân lực ở Việt Nam hiện nay.
3.2. Phạm vi nghiên cứu
- Thực hiện CBXH diễn ra trên nhiều lĩnh vực khác nhau của đời sống
kinh tế - xã hội, trong nghiên cứu của mình, tôi tập trung vào nghiên cứu thực
hiện công bằng xã hội về cơ hội đối với việc phát triển NNL.
- Nghiên cứu thực hiện công bằng về cơ hội đối với việc phát triển nguồn
nhân lực ở Việt Nam trong giai đoạn từ 1986 đến nay.
4. Cơ sở lý luận và phương pháp nghiên cứu
4.1. Cơ sở lý luận
Luận án dựa trên hệ thống quan điểm của chủ nghĩa Mác - Lênin, tư
tưởng Hồ Chí Minh và đường lối của Đảng Cộng sản Việt Nam về thực hiện
CBXH, về phát triển NNL và thực hiện CBXH với việc phát triển NNL.
Ngoài ra, luận án còn kế thừa và phát triển những quan điểm lý luận của các
nhà khoa học trong nước và thế giới về những nội dung có liên quan.
4.2. Phương pháp nghiên cứu
- Luận án sử dụng phương pháp luận của chủ nghĩa duy vật biện chứng
và chủ nghĩa duy vật lịch sử, luận điểm mang tính nguyên tắc phương pháp
luận trong tư tưởng Hồ Chí Minh làm cơ sở phương pháp luận định hướng
cho quá trình nghiên cứu, thực hiện nhiệm vụ của luận án.
4
- Luận án kết hợp với việc sử dụng phương pháp: khái quát hoá, trừu
tượng hoá, kết hợp lịch sử - lôgic, phân tích - tổng hợp, quy nạp - diễn dịch,
hệ thống - cấu trúc, phân tích....để triển khai nhiệm vụ đề ra.
5. Đóng góp về khoa học của luận án
Với tư cách là một công trình nghiên cứu từ góc độ triết học, từ quan
điểm duy vật biện chứng và quan điểm duy vật lịch sử về thực hiện CBXH
với việc phát triển NNL, luận án có những điểm mới sau:
- Phân tích và đánh giá khái quát về thực trạng vai trò thực hiện CBXH
với việc phát triển NNL trong quá trình phát triển kinh tế - xã hội ở Việt Nam
hiện nay.
- Đề xuất một giải pháp chủ yếu góp phần nâng cao vai trò của thực hiện
công bằng xã hội với việc phát triển nguồn nhân lực ở Việt Nam hiện nay.
6. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn
6.1. Ý nghĩa lý luận
Luận án góp phần làm sáng tỏ thêm những vấn đề lý luận và thực tiễn về
thực hiện công bằng xã hội với việc phát triển nguồn nhân lực ở Việt Nam
hiện nay
6.2. Ý nghĩa thực tiễn
- Luận án góp phần tìm động lực NNL đối với sự phát triển của lực
lượng sản xuất hiện đại ở Việt Nam hiện nay.
- Luận án có thể sử dụng làm tài liệu tham khảo cho hoạt động nghiên
cứu. Những quan điểm và giải pháp được luận án đề xuất có thể gợi mở cho
các cơ quan quản lý có những điều chỉnh phù hợp để thực hiện chính sách
đảm bảo vai trò của thực hiện CBXH với việc phát triển NNL.
7. Kết cấu của luận án
Ngoài phần mở đầu, kết luận và danh mục tài liệu tham khảo, nội dung
luận án bao gồm 4 chương, 11 tiết.
5
Chương 1
TỔNG QUAN TÌNH HÌNH NGHIÊN CỨU
Công bằng xã hội, thực hiện CBXH, phát triển NNL đang được nhiều tác
giả quan tâm nghiên cứu, đây vừa là vấn đề lý luận nhưng đồng thời cũng là vấn
đề thực tiễn phức tạp, cấp bách. Ở Việt Nam, có nhiều đề tài khoa học, sách, tạp
chí khoa học, các nhà nghiên cứu vấn đề CBXH, phát triển NNL và những vấn
đề ít nhiều ở khía cạnh này hay khía cạnh khác liên quan đến việc thực hiện
CBXH với việc phát triển NNL.
1.1. NHỮNG CÔNG TRÌNH NGHIÊN CỨU LÝ LUẬN VỀ THỰC HIỆN
CÔNG BẰNG XÃ HỘI VÀ VỀ PHÁT TRIỂN NGUỒN NHÂN LỰC
1.1.1. Những công trình nghiên cứu về thực hiện công bằng xã hội
Trong quá trình xây dựng và phát triển đất nước theo định hướng xã hội
chủ nghĩa, Đảng Cộng sản Việt Nam khẳng định mục tiêu xây dựng nước Việt
Nam hướng tới và thực hiện "dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn
minh" [37, tr.16]. Đặc biệt, trong quá trình phát triển kinh tế thị trường định
hướng xã hội chủ nghĩa, đẩy mạnh sự nghiệp CNH, HĐH đất nước và hội nhập
kinh tế quốc tế, vấn đề thực hiện CBXH được toàn xã hội quan tâm nhiều hơn.
Đề cập đến vấn đề CBXH và thực hiện CBXH, trong cuốn sách "Công
bằng xã hội, trách nhiệm xã hội và đoàn kết xã hội" của tập thể tác giả Phạm
Văn Đức, Đặng Hữu Toàn, Trần Văn Đoàn, Utrich Dornberg [43] đã nêu lên vấn
đề CBXH và thực hiện CBXH; bài viết "Một số vấn đề lý luận và thực tiễn xung
quanh việc thực hiện công bằng xã hội ở Việt Nam hiện nay" của tác giả Lê Hữu
Tầng [126]; "Công bằng xã hội trong điều kiện kinh tế thị trường định hướng xã
hội chủ nghĩa" của tác giả Phạm Xuân Nam [103]; "Công bằng xã hội trong điều
kiện kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa" của tác giả Nguyễn Duy
Quý [122]; "Công bằng xã hội ở Việt Nam: nhận diện và giải pháp thực hiện"
của tác giả Đỗ Huy [63]; "Những vấn đề lý luận cơ bản về công bằng xã hội trong
điều kiện nước ta hiện nay" của tác giả Phạm Thị Ngọc Trầm [141]; "Công bằng
xã hội và phát triển con người bền vững" của tác giả Phạm Thành Nghị [109];
6
trong công trình nghiên cứu, các tác giả đã phân tích quan niệm về CBXH, về
thực hiện CBXH, làm nổi bật quan niệm về CBXH và thực hiện CBXH trên
nhiều khía cạnh khác nhau, trình bày quan hệ CBXH với bình đẳng xã hội, quan
hệ giữa CBXH với tăng trưởng kinh tế; các tác giả đã chỉ ra những nguyên tắc
thực hiện CBXH.
Trong nghiên cứu, đề cập đến khái niệm CBXH và bình đẳng xã hội, tác giả
Lê Hữu Tầng cho rằng, hai khái niệm này tuy gần nhau nhưng dẫu sao chúng cũng
có sự khác nhau. Trong đó tác giả chỉ ra nói tới bình đẳng xã hội là người ta muốn
nói về sự ngang bằng nhau giữa người với người về một phương diện xã hội nào
đấy, còn khi nói tới sự ngang bằng nhau giữa người với người về mọi phương diện,
là nói tới sự bình đẳng xã hội hoàn toàn. Tác giả đã chỉ ra rằng CBXH cũng chỉ là
một dạng của bình đẳng xã hội, sự bình đẳng đó chỉ về một phương diện hoàn toàn
xác định: phương diện quan hệ giữa cống hiến và hưởng thụ theo nguyên tắc cống
hiến ngang nhau thì hưởng thụ ngang nhau.
Tác giả Phạm Xuân Nam lại chỉ ra khía cạnh khác về thực hiện CBXH, đó
là đến nay, Việt Nam vẫn còn là một nước đang phát triển với mức thu nhập
thấp. Trong đó, tác giả chỉ ra rằng ở Việt Nam với khoảng 60% lực lượng lao
động xã hội tập trung trong các ngành nông - lâm - ngư; còn ngành công nghiệp
thì nhỏ bé, ngành dịch vụ chưa phát triển; nền kinh tế thị trường định hướng xã
hội chủ nghĩa chậm được thể chế hóa đồng bộ; chất lượng tăng trưởng, hiệu
quả và sức cạnh tranh của nền kinh tế còn kém. Tác giả đã khẳng định rằng đời
sống của một bộ phận dân cư, nhất là vùng sâu, vùng xa, vùng dân tộc thiểu số,
miền núi..v.v...còn nhiều khó khăn, khoảng cách giàu nghèo giữa các tầng lớp
dân cư, giữa thành thị và nông thôn đang có xu hướng doãng ra. Trong nghiên
cứu của mình, tác giả đề cập đến việc thực hiện CBXH trong điều kiện phát
triển kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa.
Với tác giả Đỗ Huy, nghiên cứu về thực hiện CBXH, tác giả chỉ ra các
thời kỳ biểu hiện của thực hiện CBXH, như thời kỳ trước năm 1945, Việt Nam là
một xã hội thuộc địa, nửa phong kiến; thời kỳ sau cách mạng Tháng Tám năm
1945; thời kỳ từ năm 1975 đến năm 1986 và từ năm 1986 đến nay, Việt Nam
7
thực hiện CBXH theo cơ chế thị trường. Trong đó, tác giả nêu lên nhận định về
thực hiện CBXH diễn ra qua các thời kỳ và chỉ ra rằng việc thực hiện, thiết lập
CBXH toàn diện trong cơ chế thị trường hiện nay, Việt Nam cần thực hiện nhiều
giải pháp, trong đó việc thực hiện các giải pháp cần tiến hành trong các lĩnh vực
như ngân hàng, tài chính, thuế, các chính sách xã hội.v.v...và cần phải phát huy
tối đa năng lực sáng tạo của con người trong các lĩnh vực của nền kinh tế. Tác
giả khẳng định rằng Việt Nam đang phấn đấu xây dựng đất nước theo định
hướng xã hội chủ nghĩa, đó là con đường duy nhất đúng để đảm bảo thực hiện
CBXH theo nội dung mà nhân dân mong đợi, là: moi người đều có công ăn việc
làm; mọi người đều sống no đủ và hạnh phúc; dân giàu, nước mạnh, dân chủ,
công bằng, văn minh.
Đối với tác giả Phạm Thành Nghị trong nghiên cứu về thực hiện CBXH,
chỉ ra rằng vấn đề CBXH xuất hiện ở tất cả các lĩnh vực của cuộc sống và công
bằng được phân bổ trong nhiều lĩnh vực, gắn với nhu cầu của con người, như các
quyền tự do cơ bản, tự do chính trị, quyền lực, thẩm quyền, vị thế, thu nhập, sự
giàu có.v.v....Tác giả chỉ ra, thông thường, sự công bằng liên quan đến những
thứ còn thiếu thốn, tuy nhiên không phải lúc nào cũng đúng như vậy. Tác giả ví
dụ, lúc nào người ta cũng cần được bảo đảm sự tự do cơ bản trong một nền dân
chủ có trật tự. Tuy nhiên, ngay cả khi của cải xã hội dư thừa và mang lại những
giá trị thỏa mãn tự thân đối với cá nhân thì sự phân bổ các nguồn lực trong xã
hội cũng vẫn phải tuân thủ nguyên tắc công bằng. Trong đó, tác giả nêu lên nội
dung về CBXH và phát triển con người bền vững, đó là tạo ra sự bình đẳng trong
cơ hội tiếp cận nguồn lực và phát triển năng lực giữa các nhóm người, tộc người,
vùng miền.v.v...trong đó, sự tham gia của người dân thông qua các tổ chức xã hội là
rất quan trọng, cần tạo dựng bộ máy và nguyên tắc làm việc minh bạch. Sự tham gia
của người dân vào việc ban hành các quyết định và giám sát việc thực thi các quyết
định, đó là một bảo đảm cho sự phát triển con người bền vững.
Vậy, trong nghiên cứu về CBXH, về thực hiện CBXH của các tác giả, mặc
dù các tác giả đã chỉ ra nhiều nội dung khác nhau trong việc thực hiện CBXH,
nhưng trong các nghiên cứu đó chưa chỉ ra làm thế nào để phát huy vai trò của thực
8
hiện CBXH với việc phát triển NNL. Do vậy, nhiệm vụ đặt ra với chúng tôi, một
mặt kế thừa những nội dung cơ bản của các tác giả nghiên cứu về thực hiện CBXH,
mặt khác chúng tôi phải phân tích để chỉ ra vai trò của thực hiện CBXH đối với việc
phát triển NNL trong thực tiễn kinh tế -xã hội, nhằm phát huy tính tích cực NNL,
yếu tố cơ bản của lực lượng sản xuất trong thực tiễn kinh tế - xã hội.
Phân tích trên bình diện lý luận về CBXH, thực hiện CBXH, trong cuốn
sách: "Những vấn đề lý luận cơ bản về công bằng xã hội trong điều kiện nước ta
hiện nay" của Phạm Thị Ngọc Trầm [141] đã đề cập đến nội dung lý luận về
thực hiện CBXH. Trong đó, tác giả chỉ ra phát triển bền vững là chiến lược phát
triển mới của xã hội loài người, điều này đã được khẳng định lần đầu tiên tại hội
nghị thượng đỉnh của Liên hợp quốc về môi trường và phát triển ở Rio De
Janeiro (Brazin) năm 1992. Tác giả Phạm Thị Ngọc Trầm chỉ ra mục tiêu cơ
bản của sự phát triển bền vững của các quốc gia, nằm trong "ba trụ cột phụ
thuộc và hỗ trợ lẫn nhau của phát triển bền vững cũng chính là ba mục tiêu cơ
bản của sự phát triển bền vững: kinh tế, xã hội nhân văn và sinh thái - môi
trường" [141, tr.276], trong các mục tiêu của sự phát triển bền vững đó, tác
giả chỉ ra thực hiện CBXH nằm ở mục tiêu xã hội nhân văn trong phát triển.
Trong đó, tác giả nêu lên quan điểm về CBXH và thực hiện CBXH, đó là:
Công bằng xã hội là sự ngang bằng nhau giữa người và người, nhưng đó
là nhất quyết không phải là sự chia đều mọi của cải của xã hội cho mọi
người một cách vô điều kiện...., là sự ngang bằng nhau trong mối quan
hệ giữa người và người. Sự ngang bằng nhau đó, phải tuân thủ theo
nguyên tắc về sự phù hợp giữa cống hiến và hưởng thụ [141, tr.279].
Tác giả khẳng định thực hiện CBXH với nội dung cơ bản là vấn đề phân
phối và tiền đề quan trọng để thực hiện CBXH là vấn đề bình đẳng về cơ hội.
Trong đó, tác giả chỉ ra việc xuất hiện thiếu sót, hiện tượng tiêu cực nảy sinh
trong quá trình thực hiện CBXH gắn với việc kết hợp giữa mục tiêu kinh tế với
mục tiêu xã hội nhân văn.
Có thể nói nội dung thực hiện CBXH mà tác giả Phạm Thị Ngọc Trầm chỉ
ra, mang đến những giá trị lý luận to lớn cho chúng tôi trong việc nghiên cứu về
9
thực hiện CBXH. Vấn đề đặt ra với chúng tôi trong nghiên cứu là, làm thế nào
sử dụng nguyên tắc phân phối như những cách thức nhằm đảm bảo việc thực
hiện CBXH đối với phát triển NNL trong thực tiễn kinh tế - xã hội ở Việt Nam.
Theo hướng tiếp cận chỉ ra vai trò của thực hiện CBXH thúc đẩy sự phát
triển và tiến bộ xã hội, trong cuốn sách: "Công bằng xã hội trong tiến bộ xã hội"
của tác giả Nguyễn Minh Hoàn [55] chỉ ra vị trí, vai trò của CBXH trong tiến bộ
xã hội. Tác giả đã khái lược lịch sử quan điểm về CBXH, từ quan niệm về
CBXH trong xã hội nguyên thủy đến xã hội chiếm hữu nô lệ, đến xã hội phong
kiến, đến xã hội tư bản chủ nghĩa và quan điểm của chủ nghĩa Mác - Lênin, quan
điểm của Đảng Cộng sản Việt Nam, cách thức thực hiện CBXH. Tác giả cho
rằng, trong tiến trình phát triển lịch sử xã hội, ở mỗi thời kỳ lịch sử nhất định,
nội dung của thước đo CBXH luôn bị quy định bởi quan hệ phân phối và quan
hệ trao đổi, mà các quan hệ này lại bị quy định bởi quan hệ sở hữu đối với tư liệu
sản xuất, đối với sức lao động của người lao động tham gia vào sản xuất. Trong
đó, tác giả khẳng định tiêu chí thực hiện CBXH luôn bị quy định bởi quan hệ sở
hữu đối với tư liệu sản xuất và đối với lao động.
Tác giả Nguyễn Minh Hoàn chỉ ra thực hiện CBXH là:
một nguyên tắc phân phối lợi ích vì nguyên tắc phân phối lợi ích
công bằng dựa vào một thước đo để phân chia lợi ích xã hội. Nhưng
khác với thước đo của nguyên tắc phân phối nói chung, thước đo
của nguyên tắc phân phối lợi ích công bằng chính là sự bình đẳng
giữa người với người trong mối quan hệ tương ứng giữa cống hiến
và hưởng thụ theo nguyên tắc: cống hiến ngang nhau thì hưởng thụ
ngang nhau....khiến cho mỗi người sẵn sàng tự nguyện lao vào hoạt
động "hơn nữa" và thông qua sự hoạt động "hơn nữa" ấy mà thúc
đẩy xã hội vận động phát triển [55, tr.112].
Tác giả chỉ ra rằng việc thực hiện CBXH trong thực tiễn không chỉ tạo sự
ổn định - điều kiện tối cần thiết cho sự phát triển theo hướng tiến bộ của xã hội -
mà còn tạo ra bầu không khí, tâm lý, xã hội lành mạnh, phấn khởi, có tác dụng
kích thích tính tích cực, năng động của con người trong hoạt động kinh tế - xã
10
hội. Tác giả khẳng định tác dụng kích thích đó của CBXH được thực hiện trong
các lĩnh vực khác nhau của đời sống xã hội không kém bao nhiêu so với thực
hiện CBXH trong lĩnh vực kinh tế.
Nghiên cứu của tác giả Nguyễn Minh Hoàn chỉ ra những khía cạnh có giá
trị lớn cho chúng tôi trong việc nghiên cứu. Tác giả đã chỉ ra rằng thực hiện
CBXH sẽ kích thích tính tích cực của con người tham gia hoạt động kinh tế - xã
hội. Nhưng trong những nội dung nghiên cứu đó, tác giả chưa chỉ ra vai trò của
thực hiện CBXH đối với việc phát triển NNL. Tác giả chưa cho thấy làm thế nào
để phát huy tác động của vai trò thực hiện CBXH nhằm thúc đẩy NNL phát triển
đáp ứng yêu cầu của sự vận động cơ cấu kinh tế trong nền kinh tế.
Cùng với phân tích về thực hiện CBXH, trong bài "Công bằng xã hội
trong điều kiện kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa" của tác giả
Nguyễn Duy Quý [122] đã phân tích cho thấy việc thực hiện CBXH trong điều
kiện phát triển kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa. Tác giả chỉ ra
rằng, trong điều kiện phát triển kinh tế thị trường, cần phải thực hiện tốt các
nguyên tắc phân phối, thực hiện phân phối chủ yếu theo kết quả lao động và hiệu
quả kinh tế, phân phối theo mức đóng góp vốn và các nguồn lực khác vào sản
xuất, kinh doanh, theo tác giả đây là những nguyên tắc phân phối công bằng phù
hợp với điều kiện của thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội của Việt Nam và việc
thực hiện các nguyên tắc này có tác dụng lôi cuốn mọi người tham gia tích cực
vào sản xuất, kinh doanh. Và trong điều kiện thực hiện kinh tế thị trường định
hướng xã hội chủ nghĩa, trước nhu cầu cấp bách phải thu hút vốn đầu tư để có
điều kiện mở rộng sản xuất, thực hiện các hình thức phân phối khác ngoài việc
thực hiện phân phối theo lao động và hiệu quả kinh tế, việc thực hiện phân phối
theo vốn và nguồn lực khác phải được coi là công bằng, đây là nội dung về thực
hiện CBXH trong nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa. Trong đó,
tác giả chỉ ra khi tăng trưởng kinh tế nhanh trong điều kiện cơ chế thị trường sẽ
xuất hiện mâu thuẫn giữa sự tăng trưởng kinh tế với phân phối các giá trị vật
chất cũng như các giá trị tinh thần do tăng trưởng kinh tế đem lại. Tác giả chỉ ra
vấn đề CBXH được đặt ra là vấn đề quan trọng nhất.
11
Trong nghiên cứu của tác giả Nguyễn Duy Quý đã chỉ ra thực hiện CBXH
thông qua nguyên tắc phân phối trong điều kiện tồn tại nền kinh tế thị trường
định hướng xã hội chủ nghĩa, bên cạnh tính tích cực của nó, việc thực hiện các
hình thức phân phối đó làm xuất hiện những bất công. Trong luận án chúng tôi
sẽ tiếp tục khai thác, làm rõ thêm vai trò của nguyên tắc phân phối nhằm thực
hiện CBXH, nhưng yêu cầu đặt ra là làm thế nào để phát huy vai trò thực hiện
CBXH nhằm thúc đẩy sự phát triển NNL trong điều kiện tồn tại kinh tế thị
trường định hướng xã hội chủ nghĩa và cần khai thác các nguyên tắc phân phối
như thế nào để góp phần thực hiện CBXH nhằm tạo nhân tố khách quan thúc đẩy
NNL phát triển.
1.1.2. Những công trình nghiên cứu về phát triển nguồn nhân lực
Thực hiện phát triển NNL là một trong ba khâu đột phá chiến lược, được
khẳng định trong Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XI của Đảng:
"phát triển nhanh NNL, nhất là NNL CLC, tập trung vào việc đổi mới căn bản và
toàn diện nền giáo dục quốc dân; gắn kết chặt chẽ phát triển NNL với phát triển
và ứng dụng khoa học, công nghệ" [35, tr.106].
Đề cập đến quan niệm NNL, phát triển NNL, trong tác phẩm, "Phát triển
nguồn nhân lực: kinh nghiệm thế giới và thực tiễn nước ta" của Trần Văn Tùng, Lê
Ái Lâm [149], trong đó các tác giả đã nêu khái quát về vai trò của NNL trong nền
kinh tế và kinh nghiệm phát triển NNL dựa trên phát triển giáo dục ở một số nước
trên thế giới. Theo các tác giả, vận dụng hiệu quả những kinh nghiệm quý báu đó
vào thực tiễn nước ta sẽ góp phần thúc đẩy phát triển NNL và tạo động lực thúc đẩy
phát triển kinh tế - xã hội. Trong nghiên cứu của mình, các tác giả đã phần nào chỉ
ra một số khía cạnh khác nhau của việc thực hiện CBXH gắn với thực hiện phát
triển giáo dục nhằm phát triển NNL. Một mặt, chúng tôi kế thừa những nội dung về
việc phát triển NNL nói trên, nhưng mặt khác, trong nghiên cứu đặt ra đối với
chúng tôi cần phải chỉ ra làm thế nào thúc đẩy phát triển NNL trên cơ sở phát huy
vai trò của thực hiện CBXH trong lĩnh vực giáo dục.
Với hướng tiếp cận nghiên cứu về NNL, về nguồn lực con người, trong cuốn
"Nghiên cứu con người và nguồn nhân lực đi vào công nghiệp hóa, hiện đại hóa "
12
của tác giả Phạm Minh Hạc [47] đã tập trung trình bày khái quát lịch sử hình thành
và phát triển của ngành khoa học xã hội nghiên cứu con người trên thế giới và ở
Việt Nam; cũng như quá trình nghiên cứu về NNL nhằm phục vụ sự nghiệp CNH,
HĐH ở nước ta; một số kết quả bước đầu trong chương trình nghiên cứu con người
và NNL; từ đó, đưa ra một số đề xuất và kiến nghị về chiến lược và chính sách
nhằm phát triển toàn diện con người và NNL ở Việt Nam trong điều kiện đất nước
đang bước vào thực hiện CNH, HĐH.
Trong đó, tác giả đã khẳng định rằng phát triển NNL là một mục tiêu quan
trọng trong chiến lược phát triển con người. Đứng về phương diện xã hội thì toàn
bộ chiến lược phát triển con người cuối cùng hình thành NNL và NNL ngày nay
đã trở thành một khái niệm công cụ để các quốc gia điều hành, thực thi chiến
lược và kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội. Trong đó, tác giả đã chỉ ra:
Nguồn nhân lực là tổng thể các tiềm năng lao động của một nước hay
một địa phương, tức là nguồn lao động được chuẩn bị (ở các mức độ khác
nhau) sẵn sàng tham gia một công việc lao động nào đó, tức là những
người lao động có kỹ năng (hay khả năng nói chung), bằng con đường
đáp ứng được yêu cầu của chuyển đổi cơ cấu lao động, chuyển đổi cơ cấu
kinh tế theo hướng CNH, HĐH [47, tr.269].
Tác giả khẳng định rằng việc đầu tư vào con người (thông qua giáo
dục, khoa học công nghệ và chăm lo sức khỏe...) chính là đầu tư cho phát
triển và phải làm sao phát triển NNL, phát triển vốn con người để họ có đủ
sức khỏe, trí tuệ, kỹ năng nghề nghiệp, lương tâm nghề nghiệp đáp ứng yêu
cầu công việc.
Trước hết, những nội dung nghiên cứu của tác giả Phạm Minh Hạc đã
cung cấp cho chúng tôi cơ sở lý luận tìm hiểu về phát triển NNL trong điều
kiện Việt Nam đang thực hiện sự nghiệp đẩy mạnh CNH, HĐH. Nhưng trong
nghiên cứu, tác giả chưa chỉ ra cách thức làm thế nào sử dụng có hiệu quả vai
trò của thực hiện CBXH nhằm thúc đẩy phát triển NNL trong thực tiễn khi đất
nước đang bước vào thời kỳ đẩy mạnh sự nghiệp CNH, HĐH. Bởi, một trong
nhân tố góp phần vào đảm bảo thành công sự nghiệp CNH, HĐH là vai trò của
13
NNL, phát triển NNL là tất yếu, là yêu cầu đặt ra của sự nghiệp CNH, HĐH,
nhưng làm cách nào để phát huy hiệu quả vai trò thực hiện CBXH tác động
thúc đẩy phát huy vai trò của NNL ngay càng hiệu quả trong tiến trình CNH,
HĐH đó thì chưa được tác giả đề cập đến, vậy, đặt ra nhiệm vụ đối với chúng
tôi trong triển khai nội dung luận án là phải làm rõ vai trò thực hiện CBXH đối
với phát triển NNL trong sự phát triển đất nước, trong tiến trình CNH, HĐH.
Trong cuốn sách "Nghiên cứu con người và nguồn nhân lực: Niên giám
nghiên cứu số 3" của Phạm Minh Hạc, Phạm Thành Nghị và Vũ Minh Chi [49]
đã khẳng định vai trò và thành tựu của việc thành lập viện nghiên cứu con người,
nêu lên vấn đề nghiên cứu con người và NNL đầu thế kỷ XXI. Các tác giả đã chỉ
ra những khía cạnh nghiên cứu về NNL và nguồn vốn xã hội. Đề cập đến NNL,
tác giả Phạm Minh Hạc chỉ ra NNL là tổng thể các tiềm năng lao động của một
nước hay một địa phương, là nguồn lao động được chuẩn bị sẵn sàng tham gia
một công việc lao động nào đó, đề cập đến phát triển NNL, tác giả chỉ ra phát
triển NNL là công việc đào tạo, đào tạo lại nguồn lao động xã hội, làm cho lực
lượng này trở thành những lực lượng lao động hữu ích từ đó, tác giả khẳng
định: học vấn chính là điều kiện tiên quyết để phát triển NNL.
Những nội dung nghiên cứu trên đây là những cơ sở lý luận quan trọng
để chúng tôi kế thừa, tiếp tục triển khai nghiên cứu trong luận án, nghiên cứu
của tác giả Phạm Minh Hạc cung cấp cho chúng tôi phương pháp để làm thế
nào có thể phát triển NNL, trong điều kiện nhân loại và Việt Nam đang bước vào
thế kỷ XXI.
Trong nghiên cứu, các tác giả chỉ ra những khía cạnh nghiên cứu về con
người, về việc hình thành NNL và tác động của môi trường tâm lý xã hội, của
hoạt động kinh tế, của vấn đề dân chủ, của giáo dục đến việc phát triển NNL,
cách thức sử dụng nhân tài,.... trong nội dung nghiên cứu của các tác giả chưa
đề cập đến tác động vai trò của thực hiện CBXH nhằm thúc đẩy việc phát triển
NNL, nhưng những nội dung đó cung cấp cho chúng tôi những nội dung cần
thiết để chúng tôi kế thừa, khai thác, sử dụng trong quá trình triển khai những
nhiệm vụ trong luận án của mình.
14
Trong đề tài khoa học: "Nghiên cứu văn hoá, con người, nguồn nhân lực
đầu thế kỷ XXI" của Nhiều tác giả [111], trong đó có các công trình "Vấn đề
nghiên cứu văn hóa - con người - nguồn nhân lực ở Việt Nam đầu thế kỷ XXI"
tác giả Phạm Minh Hạc; đề tài "nghiên cứu và phát triển văn hóa, con người và
nguồn nhân lực đầu thế kỷ XXI" của tác giả Nguyễn Phú Trọng; đề tài "Khoa
học xã hội Việt Nam với nhiệm vụ nghiên cứu văn hóa, con người, nguồn nhân
lực đầu thế kỷ XXI" của tác giả Đỗ Hoài Nam; đề tài "Nghiên cứu nguồn nhân
lực ở Việt Nam: khía cạnh kinh tế và khía cạnh văn hóa" của tác giả Phạm Văn
Đức; đề tài "Để có nguồn nhân lực chất lượng cao nhằm đáp ứng nhu cầu phát
triển đất nước tr...ệt được rõ quyền lợi với
nghĩa vụ, thì thời đại văn minh lại chỉ rõ ngay cả cho những người ngu
ngốc nhất ấy sự khác nhau và sự đối lập giữa quyền lợi và nghĩa vụ,
khi nó trao hết các quyền lợi cho một giai cấp này, và trái lại, trao hầu
hết các nghĩa vụ cho các giai cấp kia [85, tr.263].
Quan điểm chủ nghĩa Mác chỉ ra rằng, mỗi hình thái kinh tế - xã hội luôn
là sự thống nhất biện chứng giữa lực lượng sản xuất và quan hệ sản xuất, hình
thành quy luật quan hệ sản xuất phù hợp với trình độ phát triển của lực lượng sản
xuất. Trong một hình thái kinh tế - xã hội không chỉ có một loại hình quan hệ sản
xuất nhất định, mà thường tồn tại nhiều loại hình quan hệ sản xuất khác nhau và
bao giờ cũng có một loại hình quan hệ sản xuất chủ đạo, đặc trưng cho hình thái
kinh tế - xã hội đang hiện tồn, tương ứng với loại hình quan hệ sản xuất chủ đạo
ấy bao giờ cũng có một nguyên tắc phân phối chủ đạo (quan hệ sản xuất bao
gồm quan hệ sở hữu tư liệu sản xuất, quan hệ tổ chức, quản lý và quan hệ phân
phối, trong đó nguyên tắc phân phối giữ vai trò chủ đạo của quan hệ sản xuất sẽ
28
quy định bản chất của chế độ xã hội). Vì vậy, trong một hình thái kinh tế - xã hội
nguyên tắc phân phối chủ đạo nào mà đảm bảo CBXH và thực hiện CBXH với
nghĩa là hưởng thụ tương xứng với cống hiến, sự cống hiến đó mang lại hiệu quả
kinh tế cho nền sản xuất xã hội cao hơn, khi đó, nguyên tắc phân phối ấy sẽ góp
phần to lớn vào việc giải phóng con người khỏi sự bất công và bất bình đẳng xã hội.
Đứng trên lập trường bảo vệ lợi ích của giai cấp vô sản, C.Mác đi đến
quan điểm về CBXH và về thực hiện CBXH trong chế độ xã hội xã hội chủ
nghĩa với nội dung chủ yếu của nó là thực hiện nguyên tắc phân phối theo lao
động. Theo C.Mác chỉ ra trong nền sản xuất tư bản chủ nghĩa, quan hệ trao đổi
ngang giá khi mua - bán sức lao động được nhà tư bản coi là quan hệ công bằng,
vì theo họ nguyên tắc trao đổi ngang giá đã phân chia số giá trị gia tăng thu được
sau chu trình sản xuất biến thành tiền công của người công nhân và lợi nhuận
của nhà tư bản đúng với tỷ lệ công sức và tiền mà mỗi bên đã tham dự vào sản
xuất. Nhưng trên thực tế, hàng hóa sức lao động có đặc điểm là khi đưa vào sử
dụng nó còn tạo ra một số lượng giá trị mới lớn hơn giá trị bản thân nó, nên việc
người công nhân chỉ nhận lại "tiền công của lao động", còn phần giá trị gia tăng
do sức lao động tạo ra không được trả công và chuyển thành lợi nhuận của nhà
tư bản, đã làm cho quan hệ trao đổi ngang giá đó không thể được coi là công
bằng. Đó chính là bản chất bất công của chế độ phân phối trong nền sản xuất tư
bản chủ nghĩa.
Khẳng định sự thật bất công trong nền sản xuất tư bản chủ nghĩa với cái
gọi là "tiền công công bằng cho một ngày lao động công bằng" [84, tr.365],
Ph.Ăngghen đã vạch rõ, bản chất của chế độ phân phối được cho là công bằng
theo nguyên tắc trao đổi ngang giá đó, được coi là vị thế có lợi đối với riêng giai
cấp tư sản, nhưng nó lại là vị thế bất lợi đối với bản thân giai cấp công nhân
trong cuộc trao đổi "ngang giá", giữa sức lao động mà người công nhân bỏ ra và
tiền công mà nhà tư bản trả cho họ. Sự bất công đó biểu hiện ở chỗ "công nhân
bỏ ra nhiều, nhà tư bản chi ra ít" [84, tr.366]. Từ đó, Ph.Ăngghen đã viết một
cách châm biếm rằng: "Đó là một loại công bằng hết sức đặc biệt" [84, tr.366].
Bởi vì, Theo các nhà kinh tế học tư sản tiền công và ngày lao động do cạnh tranh
29
quy định, đã được thỏa thuận giữa hai bên theo nguyên tắc ngang giá, thuận mua
vừa bán. Vậy là rất công bằng. Nhưng như Ph.Ăngghen đã chỉ ra rằng:
Sự thật không phải như vậy. Nếu nhà tư bản không đồng ý với công nhân,
thì y có điều kiện để chờ đợi và sống bằng tư bản của y. Người công nhân
không thể làm như thế được (). Người công nhân ngay từ đầu đã ở vào
những điều kiện bất lợi trong cuộc đấu tranh. Cái đói đặt anh ta vào một
hoàn cảnh hết sức bất lợi. Thế mà, theo khoa kinh tế chính trị của giai cấp
các nhà tư bản, đó là đỉnh cao của sự công bằng [84, tr.367].
Đây là biểu hiện của sự bất công trong quan hệ lao động của nền sản xuất
tư bản chủ nghĩa. Bởi vậy, theo quan điểm của các nhà tư tưởng C.Mác và
Ph.Ăngghen, muốn có CBXH thực sự, đảm bảo thực hiện CBXH thực sự trong
đời sống thì phải thực hiện nguyên tắc phân phối theo lao động, phải thực hiện
phân phối đúng với giá trị của sức lao động.
Theo C.Mác, trước hết, việc thực hiện CBXH không chỉ phụ thuộc riêng
vào lĩnh vực phân phối, mà nó còn bị chi phối bởi toàn bộ tính chất của phương
thức sản xuất, bởi trong một phương thức sản xuất là sự kết hợp hữu cơ giữa lực
lượng sản xuất và quan hệ sản xuất, trong đó trình độ lực lượng sản xuất sẽ quy
định sự tồn tại và vận động của quan hệ sản xuất, trong hình thức của quan hệ
sản xuất thì quan hệ sở hữu về tư liệu sản xuất lại quy định tính chất quan hệ
phân phối, vì "bất kỳ một sự phân phối nào về tư liệu tiêu dùng cũng chỉ là hậu
quả của sự phân phối chính ngay những điều kiện sản xuất; nhưng sự phân phối
những điều kiện sản xuất lại là một tính chất của chính ngay phương thức sản
xuất" [84, tr.36-37]. Luận điểm này chỉ ra việc thực hiện CBXH, trước hết do
quan hệ phân phối quy định, đó là sự phân phối công bằng kết quả của sản xuất -
phân phối tư liệu tiêu dùng cho người lao động hay phân phối dựa trên kết quả
lao động của họ, tính chất của quan hệ phân phối này lại do "chính ngay điều
kiện sản xuất" - biểu hiện của sự phân phối các yếu tố "đầu vào" của quá trình
sản xuất quy định. Phân phối tư liệu sản xuất lại phụ thuộc vào tính chất của
phương thức sản xuất, vì phương thức sản xuất quy định quan hệ phân phối,
trong đó có cả phân phối "đầu vào" và "đầu ra" của sản xuất.
30
Thực hiện phân phối như phân tích trên cho thấy bên cạnh thực hiện phân
phối theo kết quả lao động là chủ yếu, thì nội dung đó cũng chỉ ra rằng "việc
phân phối những điều kiện sản xuất" là phân phối các yếu tố "đầu vào" của quá
trình sản xuất trong nền sản xuất của xã hội bao gồm: vốn, tư liệu sản xuất,
người lao động. Như vậy, quan điểm của chủ nghĩa Mác đã chỉ ra phân phối
công bằng tư liệu sản xuất đó là do và phụ thuộc vào "chính ngay phương thức
sản xuất", trình độ của phương thức sản xuất như thế nào sẽ quy định phương
thức, cách thức phân phối như vậy, đó là biểu hiện thực hiện CBXH gắn liền với
phân phối "đầu vào" của sản xuất được quy định bởi phương thức sản xuất trong
chủ nghĩa xã hội.
Theo quan điểm của C.Mác, CBXH và thực hiện CBXH chỉ thực sự có
được trong hình thái kinh tế - xã hội xã hội chủ nghĩa - giai đoạn đầu chủ nghĩa
cộng sản, bởi vì, trong chủ nghĩa xã hội khi chế độ tư hữu tư nhân tư bản về tư
liệu sản xuất bị thủ tiêu, chế độ công hữu mới được thiết lập và do đó mới hình
thành xuất phát điểm bình đẳng và công bằng trong quan hệ phân phối giữa
những chủ thể trong xã hội. Cơ sở của thực hiện CBXH trong chủ nghĩa xã hội là
dựa trên chế độ công hữu về tư liệu sản xuất. Chế độ công hữu về tư liệu sản
xuất tạo nên và hình thành quan hệ công bằng, bình đẳng cho mọi thành viên
trong xã hội xã hội, bởi vì mọi thành viên xã hội đều có quyền sở hữu đối với tư
liệu sản xuất, do đó việc phân phối sản phẩm của lao động mới có thể được tiến
hành dựa trên nguyên tắc phân phối theo lao động. Quan điểm trên đây cho thấy,
thực hiện CBXH dựa trên nguyên tắc phân phối theo lao động cũng đồng thời
đảm bảo thực hiện công bằng về cơ hội đối với việc hưởng thụ thành quả lao
động. Trong hoạt động sản xuất, sức lao động kết hợp với tư liệu lao động tác
động vào giới tự nhiên tạo ra sản phẩm, của cải cho xã hội, việc phân phối sản phẩm
đó - chỉ thực sự công bằng khi dựa trên căn cứ phân phối là lao động. Vì vậy,
nguyên tắc phân phối theo lao động thực hiện trong chủ nghĩa xã hội là một nguyên
tắc phân phối thực sự công bằng.
Trong giai đoạn chủ nghĩa xã hội sau khi đã khấu trừ các khoản cần thiết
để duy trì sản xuất và tái sản xuất mở rộng, để đề phòng thiên tai, địch họa, để
31
đáp ứng nhu cầu chung của cộng đồngv.v...mỗi người sản xuất sẽ nhận trở lại
từ xã hội một số lượng vật phẩm tiêu dùng trị giá ngang với số lượng lao động
mà anh ta đã cung cấp cho xã hội, với việc là: "Cùng một lượng lao động mà anh
ta đã cung cấp cho xã hội dưới một hình thức này thì anh ta lại nhận trở lại của
xã hội dưới một hình thức khác" [84, tr.34]. Đây là nguyên tắc phân phối theo
lao động trong chủ nghĩa xã hội. Nhưng bên cạnh đó khi nêu ra nguyên tắc phân
phối trong chủ nghĩa xã hội, C.Mác cũng chỉ ra rằng nguyên tắc phân phối trên
còn có mặt hạn chế so với giai đoạn xã hội cộng sản chủ nghĩa, cái hạn chế ở
đây, đó là cái ngự trị trong nguyên tắc phân phối theo lao động vẫn là nguyên tắc
trao đổi ngang giá trong nền kinh tế thị trường tư bản chủ nghĩa. Vì lẽ đó nên
yêu cầu của các tác giả Cương lĩnh Gôta là phải phân phối toàn bộ thu nhập do
lao động đem lại theo những quyền ngang nhau thì, như C.Mác đã vạch rõ, "cái
quyền ngang nhau này cũng vẫn là cái quyền tư sản, vẫn bị giới hạn trong khuôn
khổ tư sản. Quyền của người sản xuất là tỷ lệ với lao động mà người ấy đã cung
cấp; sự ngang nhau là ở chỗ người ta đo bằng thước đo như nhau, tức là bằng lao
động" [84, tr.34-35]. Nhưng trong xã hội, những người lao động không phải ai
cũng như ai, người này khác người kia về thể chất và tinh thần, về năng lực lao
động và tay nghề, về năng khiếu cá nhân và hoàn cảnh gia đình, về tính tích cực
trong quá trình lao động và sự hạn chế trong quá việc tham gia quá trình lao
động..v.vdo vậy, với một công việc ngang nhau và do đó, với một phần tham
dự như nhau vào quỹ tiêu dùng của xã hội thì trên thực tế, người này vẫn lĩnh
nhiều hơn người kia, người này vẫn giàu hơn người kia Muốn tránh tất cả
những thiếu sót ấy thì quyền là phải không bình đẳng, chứ không phải là bình
đẳng [84, tr.34-35].
Nhưng, mặc dù nguyên tắc phân phối theo lao động trên đây được coi là
một nguyên tắc rất công bằng, nhưng sự phân phối công bằng đó chẳng những
chưa loại trừ sự bất công mà vẫn còn hàm chứa trong nó việc chấp nhận một tình
trạng bất bình đẳng nhất định giữa các thành viên trong xã hộido đó, các nhà
tư tưởng chủ nghĩa Mác đã đi đến khẳng định "Đó vừa là ưu việt, vừa là thiếu sót
của nguyên tắc phân phối theo lao động - một thiếu sót, theo C.Mác, là không
32
thể tránh khỏi trong giai đoạn đầu của xã hội cộng sản chủ nghĩa" [125, tr.252].
Nên để đảm bảo thực hiện CBXH thực sự cần phải thực hiện các hình thức phân
phối khác và thực hiện công bằng về cơ hội cho mọi người trong xã hội, bởi vì
như trong quan điểm trên của C.Mác đã chỉ ra, muốn tránh tất cả những thiếu sót
trong việc thực hiện phân phối trong chế độ xã hội xã hội chủ nghĩa là thực hiện
công bằng dựa trên phân phối lao động thì quyền phải là không bình đẳng, có nghĩa
là cần phải thực hiện công bằng về cơ hội cho mọi người, để mọi thành viên trong
xã hội khi góp phần tham dự như nhau vào quỹ tiêu dùng của xã hội.v.v...khi đó họ
được hưởng công bằng như nhau trong quỹ tiêu dùng của xã hội. Bởi vì, do "quyền
không bình đẳng" trong việc sở hữu trong đời sống xã hội nên phải thực hiện công
bằng về cơ hội, là tạo cơ hội, điều kiện cho tất cả mọi người có thể tham gia vào
hoạt động kinh tế - xã hội để được hưởng thành quả công bằng từ quỹ tiêu dùng của
xã hội phù hợp với sự đóng góp của họ. Đó là biểu hiện của thực hiện công bằng về
cơ hội cho mỗi người phù hợp với điều kiện của họ.
Trong quan niệm của các nhà tư tưởng chủ nghĩa Mác khi nói đến quan hệ
phân phối nhằm thực hiện CBXH chưa đề cập đến các hình thức phân phối khác,
nhưng theo nghiên cứu của chúng tôi là bên cạnh thực hiện phân phối theo lao động
là chính, cần thực hiện các hình thức phân phối ngoài phân phối lao động, như thực
hiện phân phối các yếu tố "đầu vào" của sản xuất, phân phối vốn, tư liệu sản xuất,
phân phối sức lao động trong nền kinh tế, phân phối dựa trên kết quả lao động và
hiệu quả kinh tế là phân phối "đầu ra" trong hoạt động sản xuất, gắn liền với phân
công lao động xã hội. Như vậy, có thể khẳng định trong quan điểm của các nhà tư
tưởng chủ nghĩa Mác - Lênin, quan điểm về CBXH và thực hiện CBXH gắn liền
quan hệ phân phối và do nguyên tắc phân phối của phương thức sản xuất trong hình
thái kinh tế - xã hội quy định.
Vận dụng quan điểm của C.Mác và Ph.Ăngghen về CBXH, về thực hiện
CBXH vào điều kiện cụ thể của Việt Nam, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã từng bước
thực hiện CBXH phù hợp với hoàn cảnh thực tiễn.
Theo quan điểm của Chủ tịch Hồ Chí Minh, CBXH và thực hiện CBXH
không chỉ biểu hiện là mục tiêu của chủ nghĩa xã hội mà còn là một động lực
33
thúc đẩy sự phát triển kinh tế - xã hội, là một biện pháp căn bản hiện thực hóa
những giá trị, lý lưởng cao cả của chủ nghĩa xã hội. Nhưng khi thực hiện CBXH
trong điều kiện một nước nghèo, kém phát triển, một số nhà nghiên cứu cho
rằng, phải chăng là:
Đối với những nước nghèo, đang vươn ra khỏi vạch tất yếu, thì việc giải
quyết vấn đề CBXH dễ rơi vào công bằng bình quân và nhân văn theo
khung khổ của nền kinh tế sinh tồn, chậm phát triển. Mà sự tái lập công
bằng bình quân và nhân văn của nền kinh tế sinh tồn, chậm phát triển là
sự co kéo trong cái đạm bạc, nghèo, sẽ kìm hãm sự phát triển [41, tr.459].
Nhưng, vấn đề không hẳn là như vậy, một nước nghèo, với nền kinh tế kém
phát triển không có nghĩa là không thể thực hiện được CBXH. Theo quan điểm của
chủ tịch Hồ Chí Minh, thực hiện CBXH trong một nước nghèo, kém phát triển là
một yêu cầu bức thiết và yêu cầu đó lại càng bức thiết hơn khi cuộc sống còn nhiều
khó khăn. Chủ tịch Hồ Chí Minh đã chỉ ra rằng: "không phải chúng ta ham chuộng
khổ hạnh và bần cùng. Trái lại, chúng ta phấn đấu hy sinh, vì chúng ta muốn xây
dựng một xã hội ai cũng ấm no, sung sướng" [98, tr.568]. Hơn nữa, với quan niệm
thực hiện CBXH là thể hiện sự bình đẳng, công bằng về quyền lợi và nghĩa vụ giữa
con người với con người, một lần nữa, Người nhấn mạnh: "Ai làm nhiều thì ăn
nhiều, ai làm ít thì ăn ít, ai không làm thì không ăn, tất nhiên là trừ những người già
cả, đau yếu và trẻ con" [99, tr.226].
Quan điểm của chủ tịch Hồ Chí Minh một lần nữa cho thấy thực hiện
CBXH, ngoài ý nghĩa là mục tiêu của sự nghiệp xây dựng chủ nghĩa xã hội, thì
thực hiện CBXH còn mang ý nghĩa là động lực thúc đẩy sự phát triển của đất
nước. Như vậy, đảm bảo CBXH và thực hiện CBXH trong thực tiễn kinh tế - xã
hội sẽ góp phần kích thích tính tích cực của mọi người, tùy theo khả năng, sức
lực của mình, cùng tham gia vào công cuộc xây dựng một cuộc sống mới, từng
bước vươn tới xã hội mới tốt đẹp, nhân văn.
2.1.2. Quan điểm của Đảng Cộng sản Việt Nam về thực hiện công
bằng xã hội
Vận dụng sáng tạo lý luận của chủ nghĩa Mác - Lênin về chủ nghĩa xã hội,
con đường đi lên chủ nghĩa xã hội, về thực hiện CBXH vào điều kiện cụ thể của
34
Việt Nam, phát triển tư tưởng của chủ tịch Hồ Chí Minh, trong thực tiễn lãnh
đạo đất nước, Đảng Cộng sản Việt Nam khẳng định rằng, chế độ tư hữu về tư
liệu sản xuất là nguồn gốc sâu xa dẫn đến sự áp bức, bóc lột và tình trạng bất
công trong xã hội. Do vậy, Đảng Cộng sản Việt Nam từng bước tiến hành cải
tạo, xây dựng quan hệ sản xuất mới xã hội chủ nghĩa với chế độ công hữu về tư
liệu sản xuất và xác lập nguyên tắc phân phối theo lao động. Về lý luận chúng ta
chủ trương thực hiện nguyên tắc phân phối theo lao động; song thực tế, nguyên
tắc phân phối này đã bị biến thành phân phối bình quân, cào bằng. Hệ quả
nguyên tắc phân phối này làm cho nền kinh tế nước ta rơi vào trì trệ, khủng
hoảng vào những năm 80 của thế kỷ XX.
Để đưa đất nước thoát khỏi tình trạng khủng hoảng, bước đột phá mà
Đảng Cộng sản Việt Nam thực hiện là tiến hành công cuộc đổi mới toàn diện đất
nước. Trong lĩnh vực phân phối, do tồn tại tình trạng "tách rời việc trả công lao
động với số lượng và chất lượng lao động" [27, tr.63], để khắc phục tình trạng
phân phối chưa hợp lý đó, Đảng ta đã khẳng định phải thực hiện CBXH trên cơ
sở thực hiện đúng nguyên tắc phân phối theo lao động, loại bỏ cách phân phối
bình quân, cào bằng. Thực hiện tinh thần đó, Đảng Cộng sản Việt Nam đã xác
định rõ rằng:
Việc thực hiện đúng nguyên tắc phân phối theo lao động đòi hỏi sửa đổi
một cách căn bản chế độ tiền lương theo hướng đảm bảo yêu cầu tái sản
xuất sức lao động, khắc phục tính chất bình quân, xóa bỏ từng bước phần
cung cấp còn lại trong chế độ tiền lương, áp dụng các hình thức trả lương
gắn chặt với kết quả lao động và hiệu quả kinh tế [27, tr.45, 72, 88].
Với sự đổi mới trong nhận thức về thực hiện nguyên tắc phân phối theo
lao động, chúng ta đã bước đầu bảo đảm thực hiện CBXH dựa trên nguyên tắc
làm nhiều hưởng nhiều, làm ít hưởng ít và không làm thì không hưởng, nên tạo
động lực thúc đẩy người lao động hăng hái, có trách nhiệm hơn trong sản xuất và
góp phần sử dụng có hiệu quả hơn sức lao động trong đời sống kinh tế - xã hội.
Khi nền sản xuất xã hội phát triển mạnh mẽ và tạo nhiều của cải vật chất, xã
hội có thể đáp ứng ngày càng tốt hơn nhu cầu không ngừng gia tăng của các thành
35
viên trong xã hội và điều này còn phụ thuộc vào nhiều yếu tố khác, như chế độ
chính trị, cơ chế nhà nước, sự phát triển của con người... khi đó thực hiện CBXH là
tất yếu. Vấn đề là, trong điều kiện đất nước còn nhiều khó khăn, thiếu thốn và khả
năng tạo ra nhiều sản phẩm vật chất của nền sản xuất còn hạn chế, chưa thể đáp ứng
được mọi nhu cầu của con người như nước ta, yêu cầu đặt ra để tạo động lực cho sự
phát triển đất nước, thực hiện phát triển, tăng trưởng kinh tế, chúng ta cần phải đảm
bảo thực hiện CBXH, thực hiện công bằng về cơ hội với tất cả mọi người trở thành
một nội dung cơ bản trong đời sống, nhằm tạo và kích thích tinh thần tích cực, tự
giác của người lao động trong thực tiễn lao động sản xuất. Theo đó, người nào
mà lao động nhiều hơn và đưa lại hiệu quả kinh tế cao hơn sẽ được hưởng nhiều
hơn; người nào lao động ít hơn hiệu quả kém hơn phải hưởng thụ ở mức thấp
hơn. Đó là thực hiện CBXH thực sự và hiện thực.
Đối với Việt Nam, khi đất nước vẫn đang ở giai đoạn quá độ lên chủ nghĩa
xã hội, thực hiện phát triển lực lượng sản xuất, phát triển kinh tế thị trường, thực
hiện đẩy mạnh sự nghiệp CNH, HĐH, trong điều kiện đó, nếu chỉ coi phân phối
theo lao động là hình thức duy nhất để nhằm thực hiện CBXH thì chưa thỏa đáng và
chưa đầy đủ. Do vậy, quan điểm Đảng ta khẳng định thực hiện phân phối theo lao
động là chính và thực hiện phân phối theo nguồn vốn và các nguồn lực khác đóng
góp vào sản xuất, kinh doanh, đây là một sự đổi mới, một sự sáng tạo rất quan trọng
về mặt lý luận và thực tiễn trong thực hiện phân phối nhằm thực hiện CBXH.
Trên cơ sở đánh giá thực tiễn 10 năm đổi mới và với phương châm kết hợp
hài hòa giữa tăng trưởng kinh tế với thực hiện tiến bộ và CBXH, nhằm tạo chuyển
biến mạnh mẽ trong việc giải quyết những vấn đề xã hội bức xúc, đẩy lùi tiêu cực,
bất công và các tệ nạn xã hội, trong thực tiễn lãnh đạo phát triển đất nước, Đảng
Cộng sản Việt Nam đề ra quan điểm chỉ đạo:
Không chờ kinh tế phát triển cao rồi mới giải quyết các vấn đề xã hội,
mà ngay trong từng bước và suốt quá trình phát triển, tăng trưởng kinh
tế phải luôn gắn liền với tiến bộ và CBXH. CBXH không chỉ được
thực hiện ở phân phối kết quả sản xuất, mà còn ở khâu phân phối tư
liệu sản xuất, ở việc tạo ra những điều kiện cho mọi người phát huy tốt
36
năng lực của mình. Khuyến khích làm giàu hợp pháp, chống làm giàu phi
pháp đi đôi với chăm lo xóa đói, giảm nghèo, thu hẹp dần khoảng cách về
trình độ phát triển, về mức sống giữa các vùng, giữa các dân tộc, giữa các
tầng lớp dân cư, đặc biệt quan tâm đến các vùng căn cứ cách mạng và
kháng chiến cũ, các gia đình thuộc diện chính sách, làm cho mọi người,
mọi nhà đều tiến tới cuộc sống ấm no, hạnh phúc, ai cũng có việc làm, có
cơm ăn, áo mặc, ai cũng được học hành và chữa bệnh [30, tr.31].
Có thể khẳng định thực hiện CBXH trong nền kinh tế thị trường đã
khuyến khích và tạo điều kiện cho mọi doanh nghiệp, cá nhân trong và ngoài
nước khai thác, phát huy mọi tiềm năng của mình, ra sức đầu tư phát triển, yên
tâm làm ăn lâu dài, hợp pháp và có lợi cho quốc kế dân sinh; thực hiện đối xử
bình đẳng với mọi thành phần kinh tế trước pháp luật, không phân biệt sở hữu và
hình thức tổ chức kinh doanh đã tạo cơ sở vật chất, cơ sở xã hội khách quan đảm
bảo thực hiện CBXH. Trong bối cảnh đó, nhằm tạo động lực thúc đẩy sự phát
triển sản xuất kinh doanh và thực hiện CBXH trong xã hội, xét trên phương diện
phân phối lợi ích, Đảng đề ra nội dung có tính nguyên tắc là:
Thực hiện nhiều hình thức phân phối, lấy phân phối theo kết quả lao động
và hiệu quả kinh tế là chủ yếu, đồng thời phân phối dựa trên mức đóng
góp các nguồn lực khác vào sản xuất - kinh doanh.Phân phối và phân
phối lại hợp lý các thu nhập; khuyến khích làm giàu hợp pháp đi đôi với
xóa đói giảm nghèo, không để diễn ra chênh lệch quá đáng về mức sống
và trình độ phát triển giữa các vùng, các tầng lớp dân cưBảo đảm sự
bình đẳng về quyền và nghĩa vụ trước pháp luật của mọi doanh nghiệp và
cá nhân không phân biệt các thành phần kinh tế [30, tr.92-93].
Như vậy, trong thực tiễn lãnh đạo đất nước, Đảng Cộng sản Việt Nam xác
định rõ ràng là thực hiện các hình thức phân phối trong thực tiễn kinh tế - xã hội
là nhằm thực hiện CBXH. Nhưng, thực hiện phân phối dựa trên mức đóng góp
các nguồn lực khác vào sản xuất kinh doanh ở đây là những nguồn lực nào?
Theo chúng tôi, các nguồn lực khác ở đây, mặc dù chưa được Đảng chỉ ra cụ thể
là những nguồn lực nào, nhưng ngoài nguồn lực là vốn, các yếu tố tư liệu sản
37
xuất, nguồn lực khác chính là nguồn lực lao động, là sức lao động, là NNL một
trong những yếu tố cấu thành lên lực lượng sản xuất của xã hội, là yếu tố nằm
trong các nguồn lực khác mà Đảng ta đề cập đến. Nhưng vấn đề đặt ra là lấy cái
gì để đo lường giá trị đóng góp của nguồn lực lao động vào trong hoạt động kinh
tế - xã hội, theo chúng tôi, tiêu chí và cơ sở để đo lường ở đây là kết quả lao
động và hiệu quả kinh tế mà nguồn lực lao động thực hiện trong sản xuất, kinh
doanh, đem lại kết quả cho nền kinh tế.
Đối với nước ta khi thực hiện đẩy mạnh sự nghiệp CNH, HĐH, phát triển
kinh tế thị trường, hướng tới phát triển kinh tế tri thức, trong điều kiện nguồn tài
chính và nguồn lực vật chất còn hạn hẹp, nhưng với lực lượng lao động dồi dào
về số lượng, về cả chất lượng sẽ là nguồn lực to lớn để chúng ta khai thác, phát
huy, sử dụng có hiệu quả trong quá trình phát triển kinh tế - xã hội. Để phát huy
NNL trong hoạt động kinh tế - xã hội, quan điểm quan trọng của Đảng đề ra
trong đường lối và chiến lược phát triển kinh tế - xã hội là gắn phát triển kinh
tế với thực hiện tiến bộ và CBXH trong từng bước, trong suốt quá trình phát
triển. Và nội dung đó được Đảng ta đã khẳng định như sau:
Kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa được thực hiện phân
phối chủ yếu theo kết quả lao động và hiệu quả kinh tế, đồng thời phân
phối theo mức đóng góp vốn và các nguồn lực khác vào sản xuất kinh
doanh Tăng trưởng kinh tế gắn với liền với đảm bảo tiến bộ và CBXH
ngay trong từng bước phát triển [31, tr.88].
Trong thực tiễn nước ta, chúng ta thực hiện đa dạng hóa các hình thức
phân phối nhằm thực hiện CBXH, một mặt, thể hiện sự nhận thức đúng đắn hơn
về vấn đề Việt Nam đang ở đâu trong tiến trình xây dựng chủ nghĩa xã hội, mặt
khác, cho thấy trình độ phát triển lực lượng sản xuất, phát triển kinh tế của nước
ta nhằm tạo cơ sở kinh tế khách quan cho vai trò thực hiện CBXH với việc phát
triển NNL được thực hiện thực sự. Xem xét từ bình diện quan hệ phân phối, việc
khẳng định cần phải áp dụng nhiều hình thức phân phối bên cạnh hình thức phân
phối theo lao động đã nói lên rằng, nước ta vẫn đang trong thời kỳ quá độ lên
chủ nghĩa xã hội chứ chưa phải đã có chế độ xã hội xã hội chủ nghĩa - giai đoạn
38
đầu của chủ nghĩa cộng sản với cách là một hình thái kinh tế - xã hội mới, cao
hơn hình thái kinh tế - xã hội tư bản chủ nghĩa.
Hiện thực hóa, cụ thể hóa vai trò thực hiện CBXH trong thực tiễn, Đảng ta
khẳng định:
Nhằm mục tiêu "dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh";
có quan hệ sản xuất tiến bộ phù hợp với trình độ phát triển của lực
lượng sản xuất; có nhiều hình thức sở hữu, nhiều thành phần kinh tế,
trong đó kinh tế nhà nước giữ vai trò chủ đạo, kinh tế tư nhân là một
động lực quan trọng của nền kinh tế; các chủ thể thuộc các thành phần
kinh tế bình đẳng, hợp tác và cạnh tranh theo pháp luật; thị trường
đóng vai trò chủ yếu trong huy động và phân bổ có hiệu quả các nguồn
lực phát triển, là động lực chủ yếu để giải phóng sức sản xuất; các
nguồn lực nhà nước được phân bổ theo chiến lược, quy hoạch, kế
hoạch phù hợp với cơ chế thị trường. Nhà nước đóng vai trò định
hướng, xây dựng và hoàn thiện thể chế kinh tế, tạo môi trường cạnh tranh
bình đẳng, minh bạch và lành mạnh; sử dụng các công cụ, chính sách và
các nguồn lực của Nhà nước để định hướng và điều tiết nền kinh tế, thúc
đẩy sản xuất kinh doanh và bảo vệ môi trường; thực hiện tiến bộ, CBXH
trong từng bước, từng chính sách phát triển. Phát huy vai trò làm chủ
của nhân dân trong phát triển kinh tế - xã hội [37, tr.25 - 26].
Như vậy, trong thực tiễn kinh tế - xã hội ở Việt Nam, vai trò của thực hiện
CBXH được thực hiện gắn liền với các hình thức phân phối là một trong những
"cú hích" quan trọng, tạo động lực thúc đẩy người lao động, các chủ thể kinh tế,
các thành phần kinh tế tích cực hoạt động kinh tế, trở thành nhân tố thúc đẩy
toàn bộ nền kinh tế vận hành thông suốt và có hiệu quả. Thực tế chỉ ra rằng,
thành phần kinh tế nhà nước và kinh tế tập thể, các thành phần kinh tế khác chỉ
có thể phát triển, tích cực tham gia hoạt động kinh tế khi các chủ thể thấy có lợi.
Chính nguồn lợi - lợi ích - là yếu tố kích thích, thúc đẩy các chủ thể kinh tế đầu
tư vốn, tài sản, công sức, chất xám, thời gianvào sản xuất, kinh doanh. Khi sản
xuất, kinh doanh phát triển, chẳng những các chủ thể kinh tế có lợi, xã hội có lợi,
39
mà cả người lao động cũng có lợi, đối với người lao động đó là có cơ hội tìm kiếm
được việc làm và có thu nhập để duy trì và đảm bảo cho cuộc sống của mình.
Kết quả là khi xã hội ngày càng tạo ra nhiều sự công bằng và ngày càng
làm cho vai trò của thực hiện CBXH được hiện thực hóa trong thực tiễn, còn với
bản thân người lao động, trong nền kinh tế, khi họ tìm kiếm được việc làm, có
thu nhập, nó sẽ trở thành động lực thúc đẩy người lao động tích cực hoạt động
kinh tế - xã hội. Đây là biểu hiện của thực hiện CBXH căn cứ vào kết quả lao
động và hiệu quả kinh tế tác động đến NNL được hiện thực hóa trong thực tiễn
đời sống kinh tế - xã hội.
Trong nền kinh tế, tác động của thực hiện CBXH gắn liền với thực hiện
nguyên tắc phân phối thực hiện trong đời sống tác động đến người lao động, đến
NNL, đặt ra yêu cầu là để có thể tham gia tích cực, có hiệu quả trong thực tiễn và
có thu nhập thỏa đáng, phù hợp với công sức của mình đóng góp thì họ phải tự
giác nâng cao trình độ văn hóa, trình độ chuyên môn, nghiệp vụ để đáp yêu cầu
của đời sống kinh tế - xã hội, và nếu họ không có trình độ chuyên môn nghiệp
vụ, không có đủ năng lực, phẩm chất cần thiết đáp ứng yêu cầu của nền kinh tế
thì họ sẽ bị hạn chế trong việc tham gia trong hoạt động kinh tế hiện nay, nhưng
mặt khác cho thấy khi nền kinh tế thực hiện công bằng về cơ hội cho các chủ thể,
nhưng nếu các chủ thể kinh tế không tận dụng, không khai thác được cơ hội do
xã hội tạo ra đó, thì các chủ thể cũng không được nhận thành quả tương ứng, nếu
kết quả, hiệu quả kinh tế do họ thực hiện không cao. Trong thực tiễn kinh tế - xã
hội diễn ra sự tác động đó, nó tác động đến người lao động, đến NNL, đến các
chủ thể trong nền kinh tế, là động lực thúc đẩy hoặc hạn chế sự phát triển NNL,
các chủ thể kinh tế.
Công cuộc đổi mới kinh tế - xã hội của Việt Nam đã và đang mang lại
những thành tựu hết sức to lớn, có ý nghĩa quan trọng về mọi mặt, mọi phương
diện của đời sống kinh tế - xã hội. Tuy nhiên, không có nghĩa là những thành tựu
đó đã khẳng định vai trò tích cực của thực hiện CBXH, đặc biệt là thực hiện
CBXH đối với việc phát triển NNL được thực hiện có hiệu quả, mà thực tiễn
không còn bất công, không còn những vấn đề nổi cộm, bức xúc. Trên thực tiễn
40
đời sống vẫn diễn ra những vi phạm về nội dung của thực hiện CBXH, nhất là ở
khu vực kinh tế tư nhân, kinh tế có vốn đầu tư nước ngoài.
Đặc biệt đối với Việt Nam, do hệ quả của chiến tranh, nhiều người một
thời là bộ đội, thanh niên xung phong hoặc đã bị nhiễm chất độc da cam, bản
thân họ và con cháu họ phải gánh chịu nhiều thiệt thòi, đau khổ cả về thể xác và
tinh thầnTrong điều kiện đó đặt ra vấn đề là, bên cạnh đảm bảo vai trò thực
hiện CBXH, việc thực hiện công bằng về cơ hội đối với mọi người ngày càng tốt
hơn, có hiệu quả hơn, cần quán triệt và thực hiện đúng quan điểm của Đảng về
thực hiện tiến bộ và CBXH trong từng bước và suốt quá trình phát triển. Trong
thời kỳ quá độ đi lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam, việc thực hiện CBXH như đã
trình bày trên đây là yêu cầu trước tiên, ở Việt Nam hiện nay cần hơn nữa là thực
hiện công bằng về cơ hội đối với mọi người, mọi chủ thể.
Tóm lại, từ những nội dung phân tích về thực hiện CBXH, chúng tôi đưa
ra quan niệm mang tính khái quát như sau: Thực hiện công bằng xã hội là việc
đảm bảo sự phù hợp giữa khả năng công hiến và hưởng thụ thành quả cống hiến
của nguồn nhân lực trong quá trình tham gia hoạt động kinh tế - xã hội nhằm
thúc đẩy NNL phát triển tạo động lực phát triển lực lượng sản xuất, phát triển
kinh tế - xã hội.
2.2. PHÁT TRIỂN NGUỒN NHÂN LỰC - MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN
2.2.1.Quan niệm về nguồn nhân lực
Thực tiễn nghiên cứu về NNL, nhiều các nhà nghiên cứu đưa ra quan
điểm khác nhau, quan niệm về NNL rất đa dạng, trên nhiều lĩnh vực ...ủ là sự tham gia của quần chúng nhân dân vào công việc quản lý
Nhà nước, quản lý xã hội. Tổ chức và hoạt động của cơ quan Nhà nước đều phải
149
dựa trên những nguyên tắc dân chủ, do nhân dân bầu ra, được nhân dân kiểm tra,
giám sát. Để thực hiện phương hướng, nhiệm vụ cơ bản này, điều quan trọng
hàng đầu là nâng cao chất lượng chế độ dân chủ đại diện, mở rộng và có cơ chế
từng bước thực hiện chế độ dân chủ trực tiếp một cách thiết thực, đúng hướng và
có hiệu quả. Chế độ dân chủ vừa mang tính đại diện vừa mang tính trực tiếp đặt
ra nhiệm vụ cụ thể cấp bách, theo phương châm dân biết, dân bàn, dân làm, dân
kiểm tra.
Nhân dân có quyền và nghĩa vụ tham gia xây dựng pháp luật, đường lối,
chính sách của Đảng và Nhà nước. Chính nhân dân là người thực hiện chủ
trương, chính sách và qua thực hiện chủ trương, chính sách của Đảng và Nhà
nước mà kiểm tra, giám sát, kiểm tra đúng, sai. Chủ trương, chính sách phản ánh
đúng lợi ích và nguyện vọng chính đáng của nhân dân, phù hợp với hoàn cảnh
thực tế thì nhanh chóng đi vào cuộc sống. Do đó, Đảng và chính quyền các cấp
cần tạo mọi điều kiện để nhân dân phát huy quyền làm chủ,thảo luận một cách
dân chủ rộng rãi các bộ luật, chủ trương, chính sách, đảm bảo sự tham gia của
đông đảo quần chúng nhân dân vào công việc quản lý xã hội thông qua bộ máy
Nhà nước.
Hiện nay, trước những biến động phức tạp của tình hình thế giới và khu
vực, chúng ta cần khẳng định phải phát huy nội lực đồng thời tranh thủ tối đa
ngoại lực như là yếu tố quyết định đối với quá trình CNH, HĐH đất nước. Nội
lực là tổng hợp các nguồn lực vật chất và nguồn lực tinh thần, nguồn lực hữu
hình và vô hình, trong đó nhiều nguồn lực được tạo ra hoặc nhân lên gấp bội nhờ
cơ chế dân chủ. Dân chủ hóa trên lĩnh vực kinh tế sẽ tiếp tục làm tiền đề nền tảng
cho các lĩnh vực khác và làm cho nền kinh tế nhiều thành phần ở nước ta vận động
hiệu quả hơn. Dân chủ hóa trên các lĩnh vực khác sẽ làm cho bản thân các quan hệ
xã hội và bản thân NNL thực hiện tích cực hơn vai trò nhiệm vụ của mình trong
việc tham gia xây dựng, phát triển đất nước và thực hiện tốt dân chủ. Như vậy, mở
rộng dân chủ trên mọi lĩnh vực của đời sống xã hội có vai trò quan trọng tạo nên
sự tăng trưởng kinh tế cao, ổn định, bền vững và góp phần cao nhất vào phát huy
vai trò thực hiện CBXH đối với phát triển NNL trong thực tiễn đất nước.
150
Kết luận chương 4
Thực hiện tốt và có hiệu quả các chủ trương, giải pháp cơ bản là quá trình
phát huy vai trò thực hiện công bằng xã hội đối với việc phát triển NNL, từ đó
phát huy những thành tựu đạt được, khắc phục hạn chế, nguyên nhân của việc
thực hiện công bằng về cơ hội đối với sự vận động, phát triển của NNL trong
thực tiễn kinh tế và đời sống xã hội. Trong đó, quán triệt các quan điểm của
Đảng, các chính sách của Nhà nước là cơ sở lý luận, phương pháp luận định
hướng cho việc đảm bảo vai trò thực hiện công bằng xã hội đối với NNL được
thực hiện hiệu quả, là quá trình cụ thể hóa quan điểm về thực hiện CBXH ngay
trong từng bước và trong từng chính sách phát triển trở thành hiện thực và tạo
động lực cho phát triển lực lượng sản xuất, phát triển kinh tế - xã hội.
Thực hiện giải pháp phát huy vai trò thực hiện CBXH, trong đó đặc biệt là
thực hiện công bằng về cơ hội đối với phát triển NNL, sẽ từng bước hoàn thiện
cơ cấu NNL đảm bảo hình thành cơ cấu NNL phù hợp với cơ cấu kinh tế và góp
phần phát triển NNL CLC trong thực tiễn. Thực hiện có hiệu quả những giải
pháp căn bản đó sẽ làm cho NNL phát triển, vừa đáp ứng yêu cầu của sự vận
động của cơ cấu nền kinh tế vừa hình thành đội ngũ nhân lực đủ về số lượng,
phát triển về chất lượng, đáp ứng yêu cầu phát triển của lực lượng sản xuất, phát
triển kinh tế - xã hội của Việt Nam, góp phần đưa nền kinh tế Việt Nam thực
hiện thành công sự nghiệp CNH, HĐH, hướng tới phát triển kinh tế tri thức.
Thực hiện dân chủ hóa, đảm bảo quyền dân chủ của mọi người trong các
lĩnh vực của đời sống xã hội là yêu cầu quan trọng, là điều kiện, là môi trường
đảm bảo vai trò thực hiện CBXH đối với phát triển NNL ở Việt Nam trở thành
hiện thực và được thực hiện có hiệu quả trong thực tiễn kinh tế - xã hội hiện nay.
151
KẾT LUẬN
Thực hiện CBXH là một nội dung cơ bản trong các nội dung của đời sống
kinh tế - xã hội ở Việt Nam, mỗi thời điểm khác nhau việc thực hiện CBXH là
khác nhau. Thực hiện CBXH thúc đẩy phát triển NNL, phát huy vai trò tích cực
của NNL trong việc tham gia hoạt động kinh tế - xã hội.
Quan niệm của chủ nghĩa Mác - Lênin về CBXH và thực hiện CBXH, cho
thấy các ông đã lý giải về CBXH và cách thức thực hiện CBXH trong chủ nghĩa
xã hội - giai đoạn đầu của hình thái kinh tế cộng sản chủ nghĩa, thực hiện CBXH
trong thời kỳ quá độ đi lên chủ nghĩa xã hội. Những nội dụng đó là cơ sở lý luận
để Đảng Cộng sản Việt Nam kế thừa và bổ sung, phát triển trong quá trình thực
hiện CBXH trong thực tiễn lãnh đạo công cuộc xây dựng, phát triển đất nước
theo định hướng xã hội chủ nghĩa.
Trong đó, Đảng Cộng sản Việt Nam đã kế thừa giá trị lý luận về CBXH
của các nhà tư tưởng chủ nghĩa Mác - Lênin, phát triển tư tưởng đó và từng bước
xác lập các giá trị mới nhằm thực hiện CBXH trong thực tiễn đời sống kinh tế -
xã hội ở Việt Nam. Tiến trình phát triển đất nước, thực hiện CBXH thông qua
các hình thức phân phối công bằng tư liệu sản xuất, phân phối theo kết quả lao
động, hiệu quả kinh tế tác động đối với NNL, đã phát huy NNL tham gia tích cực
vào đời sống kinh tế - xã hội, góp phần đẩy mạnh sự nghiệp CNH, HĐH, phát triển
lực lượng sản xuất, hội nhập kinh tế quốc tế của Việt Nam.
Thực hiện CBXH thông qua các nguyên tắc phân phối công bằng tư liệu
sản xuất, phân phối dựa trên kết quả và hiệu quả sản xuất tác động đến sự phát
triển NNL, tạo động lực thúc đẩy phát triển NNL về số lượng, chất lượng và đảm
bảo sử dụng hiệu quả NNL trong thực tiễn. Trong đó, vai trò của thực hiện
CBXH tác động đến quá trình vận động, chuyển dịch của cơ cấu NNL, tạo hiệu
quả tích cực, làm cho cơ cấu NNL phát triển hợp lý, ngày càng phù hợp với cơ
cấu kinh tế.
Vai trò thực hiện CBXH với việc phát triển NNL, một mặt thúc đẩy NNL
phát triển về số lượng, nâng cao về chất lượng, hình thành cơ cấu NNL phù hợp
152
với cơ cấu kinh tế trong điều kiện kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ
nghĩa, măt khác tác động của vai trò đó đang làm cho NNL phát triển chưa hợp
lý, cơ cấu NNL phát triển có những khía cạnh chưa phù hợp với cơ cấu kinh tế,
cản trở sự phát triển lực lượng sản xuất. Do đó, để phát huy vai trò thực hiện
CBXH trong việc thúc đẩy NNL phát triển, chúng ta cần phải đề ra, xây dựng
những giải pháp cơ bản, măng tính căn cơ nhằm biến việc thực hiện CBXH trở
thành một trong những giải pháp quan trọng góp phần to lớn vào thúc đẩy phát
triển NNL, trong việc phát huy động lực của NNL trong nền kinh tế, để NNL
ngày càng được sử dụng có hiệu quả hơn trong tiến trình phát triển kinh tế - xã
hội ở Việt Nam.
Thực hiện tốt, có hiệu quả các chủ trương, giải pháp phát huy vai trò thực
hiện công bằng xã hội đối với NNL, góp phần quan trọng vào quá trình phát huy
NNL trong thực tiễn nước ta. Trong đó, việc quán triệt các quan điểm của Đảng,
các chính sách của Nhà nước là cơ sở lý luận, phương pháp định hướng cho thực
hiện công bằng về cơ hội đối với phát triển NNL.
Thực hiện giải pháp phát huy vai trò thực hiện CBXH sẽ từng bước góp
phần hoàn thiện cơ cấu NNL, đảm bảo hình thành cơ cấu NNL phù hợp với cơ
cấu kinh tế; phát huy vai trò thực hiện công bằng nhằm phát triển NNL CLC;
phát huy vai trò thực hiện CBXH thúc đẩy sự phát triển của NNL; quá trình thực
hiện dân chủ góp phần đảm bảo thực hiện CBXH đối với phát triển NNL, thực
hiện có hiệu quả những giải pháp căn bản đó sẽ thúc đẩy NNL phát triển vừa đáp
ứng yêu cầu của sự vận động của cơ cấu kinh tế, vừa hình thành đội ngũ nhân
lực đủ về số lượng, phát triển về chất lượng, đáp ứng yêu cầu phát triển của lực
lượng sản xuất hiện đại, phát triển kinh tế - xã hội của Việt Nam, góp phần đưa
nền kinh tế Việt Nam thực hiện thành công sự nghiệp CNH, HĐH, hướng tới
phát triển kinh tế tri thức, hội nhập kinh tế quốc tế.
153
DANH MỤC CÁC CÔNG TRÌNH KHOA HỌC CỦA TÁC GIẢ
1. Phan Huy Trường (2012), "Nâng cao chất lượng nguồn nhân lực đáp ứng
yêu cầu công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước", Tạp chí Giáo dục lý
luận, (7+8).
2. Phan Huy Trường (2013), "Phát triển nguồn nhân lực đáp ứng yêu cầu sự
nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa ở nước ta hiện nay", Tạp chí
Giáo dục lý luận, (196).
3. Phan Huy Trường (2013), "Tư tưởng của C.Mác và Ph. Ăngghen về đoàn
kết và ý nghĩa hiện nay", Tạp chí Giáo dục lý luận, (200).
4. Phan Huy Trường (2015), "Công bằng xã hội đối với phát triển nguồn nhân
lực ở Việt Nam hiện nay", Tạp chí Giáo dục lý luận, (235).
5. Phan Huy Trường (2016), "Thực hiện công bằng xã hội trong phân phối kết
quả lao động và tác động của nó đến phát triển nguồn nhân lực ở Việt
Nam hiện nay", Tạp chí Giáo dục lý luận, (250).
154
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Phạm Anh (2015), "Bằng Đại học mất giá: học xong rồithất nghiệp", tại
trang Vietnamnet.vn, [truy cập ngày 05/01/2016].
2. Hoàng Chí Bảo (1993), "Ảnh hưởng của văn hoá đối với việc phát huy
nguồn lực con người", Tạp chí Triết học, (01).
3. Hoàng Chí Bảo (2009), "Tăng trưởng kinh tế với tiến bộ và công bằng xã
hội ở nước ta trong đổi mới", Tạp chí Cộng sản, (806).
4. Đặng Quốc Bảo, Trương Thị Thuý Hằng (2003), "Mục tiêu phát triển thiên
niên kỷ- một chỉ số mới về phát triển con người trong tầm nhìn 2015",
Tạp chí Cộng sản, (6).
5. Nguyễn Trọng Bảo (1996), Gia đình, nhà trường, xã hội với việc phát hiện
phát hiện, tuyển chọn, đào tạo, bồi dưỡng, sử dụng và đãi ngộ người
tài, Nxb Giáo dục, Hà Nội.
6. Bộ Giáo dục và Đào tạo (2001), Chiến lược phát triển giáo dục- đào tạo
2001-2010, Hà Nội.
7. Bộ Giáo dục và Đào tạo, Viện Nghiên cứu Phát triển giáo dục (2002),
Chiến lược phát triển giáo dục trong thế kỷ XXI kinh nghiệm của các
quốc gia, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.
8. Bộ Giáo dục và Đào tạo (2016), "Nhìn lại sự kiện 20 năm phát triển hệ
thống giáo dục ngoài công lập", tại trang http//giaoduc.net.vn, [truy
cập ngày 23/12/2016].
9. Bộ Kế hoạch và Đầu tư, Tổng cục thống kê (2015), Báo cáo điều tra lao
động việc làm năm 2014, Hà Nội.
10. Bộ Lao động Thương binh và Xã hội (1998), Thực trạng Lao động - việc
làm ở Việt Nam: Từ kết quả điều tra lao động - việc làm 1997, Nxb
Thống kê, Hà Nội.
11. Bộ Lao động Thương binh và Xã hội (1999), Thuật ngữ lao động- thương
binh và xã hội, Tập 1, Nxb Lao động - xã hội, Hà Nội.
12. Bộ Lao động Thương binh và Xã hội, Tổng cục Dạy nghề (2014), Nhu cầu
phát triển nguồn nhân lực và cơ hội việc làm, Nxb Dân trí, Hà Nội.
155
13. Bộ Lao động - Thương binh và Xã hội, Tổng cục Thống kê (2015), "Bản tin
Cập nhật thị trường lao động Việt Nam - Số 8, quý IV năm 2015, được
thực hiện vào ngày 19 tháng 03 năm 2016", tại trang
[truy cập ngày 16/1/2017].
14. Mai Quốc Chánh (1999), Nâng cao chất lượng nguồn nhân lực đáp ứng yêu
cầu công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước, Nxb Chính trị quốc gia,
Hà Nội.
15. Trương Quốc Chính (2013), "Từ lý luận cánh tả về công bằng xã hội, suy
nghĩ về vấn đề công bằng xã hội ở Việt Nam hiện nay", Tạp chí Lý
luận Chính trị, (3).
16. Chính phủ (1994), Cải cách kinh tế theo hướng rồng bay, Nxb Chính trị
quốc gia, Hà Nội.
17. Nguyễn Trọng Chuẩn (2003), Nghiên cứu văn hóa, con người, nguồn nhân
lực đầu thế kỷ XXI, Chương trình Khoa học công nghệ cấp Nhà nước,
Kỷ yếu Hội thảo quốc tế, Hà Nội.
18. Chương trình phát triển Liên Hợp quốc (2010), Của cải thực sự của các
quốc gia: đường đi, thành tựu và thách thức, Hà Nội.
19. Trần Văn Chử (2005), "Tăng trưởng kinh tế và công bằng xã hội ở nước ta -
những vấn đề đặt ra và định hướng khắc phục", Tạp chí Kinh tế và
phát triển, (93).
20. Trần Văn Chử (2005), "Tư duy của Đảng ta về quan hệ giữa tăng trưởng kinh tế
với tiến bộ công bằng xã hội", Tạp chí Lý luận chính trị, (2).
21. Đỗ Minh Cương, Nguyễn Thị Doan (2001), Phát triển nguồn nhân lực giáo
dục đại học Việt Nam, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.
22. Phạm Tất Dong (2001), Định hướng phát triển đội ngũ trí thức Việt nam trong
công nghiệp hóa, hiện đại hóa, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.
23. Bùi Đại Dũng (2012), Công bằng trong phân phối cơ sở để phát triển bền
vững, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.
24. Nguyễn Hữu Dũng (2003), Sử dụng hiệu quả nguồn lực con người ở Việt
Nam, Nxb Lao động - xã hội, Hà Nội.
156
25. Đảng Cộng sản Việt Nam (1976), Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần
thứ IV, Nxb Sự thật, Hà Nội.
26. Đảng Cộng sản Việt Nam (1981), Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần
thứ V, Nxb Sự thật, Hà Nội.
27. Đảng Cộng sản Việt Nam (1986), Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần
thứ VI, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.
28. Đảng Cộng sản Việt Nam (1991), Chiến lược ổn định và phát triển kinh tế -
xã hội đến năm 2000, Nxb Sự thật, Hà Nội.
29. Đảng Cộng sản Việt Nam (1994), Văn kiện Hội nghị đại biểu toàn quốc
giữa nhiệm kỳ (khóa VII), Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.
30. Đảng Cộng sản Việt Nam (1996), Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần
thứ VIII, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.
31. Đảng Cộng sản Việt Nam (2001), Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần
thứ IX, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.
32. Đảng Cộng sản Việt Nam (2002), Văn kiện Đảng toàn tập, Tập 21, Nxb
Chính trị quốc gia, Hà Nội.
33. Đảng Cộng sản Việt Nam (2002), Văn kiện Hội nghị lần thứ sáu Ban chấp
hành Trung ương khóa IX, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.
34. Đảng Cộng sản Việt Nam (2006), Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần
thứ X, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.
35. Đảng Cộng sản Việt Nam (2011), Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần
thứ XI, Nxb Chính trị quốc gia - Sự thật, Hà Nội.
36. Đảng Cộng sản Việt Nam (2015), Báo cáo tổng kết một số vấn đề lý luận -
thực tiễn qua 30 năm đổi mới (1986-2016), Nxb Chính trị quốc gia -
Sự thật, Hà Nội.
37. Đảng Cộng sản Việt Nam (2016), Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần
thứ XII, Nxb Chính trị quốc gia - Sự thật, Hà Nội.
38. Đỗ Văn Đạo (2009), "Phát triển nguồn nhân lực chất lượng cao ở nước ta
hiện nay", Tạp chí Tuyên giáo, (10), tr.29-30.
39. Nguyễn Khoa Điềm (2005), Hai mươi năm đổi mới thực hiện tiến bộ công
bằng xã hội và phát triển văn hóa, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.
157
40. Lê Thị Hồng Điệp (2012), Phát triển nguồn nhân lực chất lượng cao đáp
ứng yêu cầu xây dựng nền kinh tế tri thức ở Việt Nam, một số vấn đề lý
luận và thực tiễn, Nxb Đại học quốc gia, Hà Nội.
41. Lê Cao Đoàn (2001), Triết lý phát triển - quan hệ công nghiệp - nông
nghiệp, thành thị,- nông thôn trong quá trình công nghiệp hóa, hiện
đại hóa ở Việt Nam, Nxb Khoa học xã hội, Hà Nội.
42. Trần Khánh Đức (2010), Giáo dục và phát triển nguồn nhân lực trong thế
kỷ XXI, Nxb Giáo dục, Hà Nội.
43. Phạm Văn Đức, Đặng Hữu Toàn và Trần Văn Đoàn (Đồng chủ biên)
(2008), Công bằng xã hội, trách nhiệm xã hội, đoàn kết xã hội, Nxb
Khoa học xã hội, Hà Nội.
44. Nguyễn Ngọc Hà (2008), "Tính giai cấp và tính nhân dân của nhà nước",
Tạp chí Triết học, (4).
45. Trần Thị Thái Hà, Trần Văn Hùng (2013), Đào tạo nhân lực trong giai
đoạn hội nhập và phát triển kinh tế, Nxb Thế giới, Hà Nội.
46. Phạm Minh Hạc (1996), Vấn đề con người trong sự nghiệp công nghiệp
hóa, hiện đại hóa, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.
47. Phạm Minh Hạc (2001), Nghiên cứu con người và nguồn nhân lực đi vào
công nghiệp hóa, hiện đại hóa, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.
48. Phạm Minh Hạc, Hồ Sĩ Quý (Đồng chủ biên) (2002), Nghiên cứu con
người: đối tượng và những hướng nghiên cứu chủ yếu, Nxb Khoa học
xã hội, Hà Nội.
49. Phạm Minh Hạc, Phạm Thành Nghị và Vũ Minh Chi (Đồng chủ biên)
(2004), Nghiên cứu con người và nguồn nhân lực: Niên giám nghiên
cứu số 3, Nxb Khoa học xã hội, Hà Nội.
50. Phạm Hảo, Mai Đức Lộc và Võ Xuân Tiến (Đồng chủ biên) (2000), Tăng
trưởng kinh tế và công bằng xã hội - một số vấn đề lý luận và thực tiễn
ở một số tỉnh miền Trung, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.
51. Nguyễn Thị Hằng, Lê Duy Đồng (2005), Phân phối và phân hóa giàu
nghèo sau 20 năm đổi mới, Nxb Lao động - xã hội, Hà Nội.
52. Trần Hậu (2004), "Phát triển kinh tế gắn với công bằng xã hội", Tạp chí
Cộng sản, (13).
158
53. Trương Thị Hiền (2009), Tuyển tập tạp chí phát triển nhân lực, Nxb Thành
phố Hồ Chí Minh, Hồ Chí Minh.
54. Võ Thị Hoa (2011), Vai trò của Nhà nước đối với việc thực hiện công bằng
xã hội trong điều kiện kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa
ở nước ta hiện nay, Luận án tiến sĩ Chính trị học, Học viện Chính trị
quốc gia Hồ Chí Minh, Hà Nội.
55. Nguyễn Minh Hoàn (2010), Công bằng xã hội trong tiến bộ xã hội, Nxb
Chính trị quốc gia, Hà Nội.
56. Nguyễn Minh Hoàn (2005), "Một số vấn đề đặt ra trong việc thực hiện công
bằng xã hội ở nước ta hiện nay", Tạp chí Xã hội học, (3).
57. Nguyễn Minh Hoàn (2005), "Vai trò của công bằng xã hội trong tiến bộ xã
hội", Tạp chí Triết học, (11).
58. Nguyễn Minh Hoàn (2006), "Vị trí của công bằng xã hội trong tiến bộ xã
hội", Tạp chí Triết học, (01).
59. Nguyễn Minh Hoàn (2010), Công bằng xã hội trong tiến bộ xã hội, Nxb
Chính trị quốc gia, Hà Nội.
60. Vũ Huy Hoàng, Hồ Trung Thành (2009), 20 năm Việt Nam gia nhập WTO -
đánh giá tác động hội nhập kinh tế quốc tế, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.
61. Học viện Chính trị - Hành chính khu vực I (2013), Kỷ yếu hội thảo quốc tế
chính sách an sinh xã hội trong bối cảnh khủng hoảng kinh tế, Hà Nội.
62. Hội đồng lý luận Trung ương (2013), Đổi mới mô hình tăng trưởng kinh tế
ở Việt Nam và chuyển đổi phương thức phát triển kinh tế ở Trung
Quốc, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.
63. Đỗ Huy (2008), "Công bằng xã hội ở Việt Nam: nhận diện và giải pháp
thực hiện", Tạp chí Triết học, (5).
64. Nguyễn Quỳnh Huy (2005), "Thành tựu về tiến bộ và công bằng xã hội của
Việt Nam trong những năm gần đây", Tạp chí Giáo dục lý luận, (3).
65. Ngọc Huyền (2008), "Vấn đề việc làm cho thanh niên nông thôn", Tạp chí
Lao động xã hội, (331).
66. Nguyễn Tấn Hùng, Lê Hữu Ái (2008), "Thực hiện công bằng xã hội ở Việt
Nam hiện nay mâu thuẫn và phương pháp giải quyết", Tạp chí Triết
học, (4).
159
67. Đặng Thành Hưng (2006), "Công bằng xã hội và cơ hội học tập trong phân
hóa chương trình giáo dục phổ thông", Tạp chí Khoa học giáo dục, (7).
68. N.H. Jean, Y.Martin (2001), Lao động; Việc làm và nguồn nhân lực ở Việt
Nam 15 năm đổi mới, Nxb Thế giới, Hà Nội.
69. Phan Văn Kha (2007), Đào tạo và sử dụng nhân lực trong nền kinh tế thị
trường ở Việt Nam, Nxb Giáo dục, Hà Nội.
70. Đoàn Văn Khái (2005), Nguồn lực con người trong quá trình công nghiệp hóa,
hiện đại hóa ở Việt Nam, Nxb Lý luận chính trị, Hà Nội.
71. Nguyễn Khải (1998), Việt Nam 10 năm đổi mới kinh tế, Nxb Hà Nội, Hà Nội.
72. Phan Thanh Khôi (2004), Vấn đề phân phối và phân hóa giàu nghèo trong
điều kiện phát triển kinh tế thị trường theo hướng xã hội chủ nghĩa ở
nước ta, Nxb Lao động và Xã hội, Hà Nội.
73. Vi Thị Hương Lan (2012), Vai trò của Nhà nước trong việc thực hiện công
bằng xã hội ở Việt Nam thời kỳ hội nhập quốc tế, Luận án tiến sĩ Triết
học, Học viện Chính trị - Hành chính quốc gia Hồ Chí Minh, Hà Nội.
74. Bùi Thị Ngọc Lan (2002), Nguồn lực trí tuệ trong sự nghiệp đổi mới ở Việt
Nam, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.
75. V.I. Lênin (1980), Toàn tập, tập 18, Nxb Tiến bộ, Mátxcơva.
76. V.I. Lênin (1980), Toàn tập, tập 29, Nxb Tiến bộ, Mátxcơva.
77. Lê Bộ Lĩnh (1998), Tăng trưởng kinh tế và công bằng xã hội ở một số nước
Châu Á và Việt Nam, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.
78. Đỗ Thị Bích Loan (2004), "Công bằng xã hội trong giáo dục ở Việt Nam",
Tạp chí Phát triển giáo dục, (8).
79. Đặng Thị Loan, Lê Du Phong và Hoàng Văn Hoa (2006), Kinh tế Việt Nam
20 năm đổi mới (1986-2006), thành tựu và những vấn đề đặt ra, Nxb
Đại học kinh tế quốc dân, Hà Nội.
80. Trương Gia Long (2004), "Tăng trưởng kinh tế và công bằng xã hội trong
xu thế hội nhập hiện nay", Tạp chí Cộng sản, (24).
81. Trịnh Duy Luân (2008), "Quá trình bổ sung nhận thức về công bằng xã hội và
thực hiện công bằng xã hội ở nước ta hiện nay", Tạp chí Xã hội học, (4).
160
82. Cao Văn Lượng (1991), Việt Nam 1975-1990 thành tựu và kinh nghiệm,
Nxb Sự thật, Hà Nội.
83. Vũ Thị Phương Mai (2013), Nguồn nhân lực chất lượng cao trong sự nghiệp
công nghiệp hóa, hiện đại hóa ở Việt Nam hiện nay, Luận án tiến sĩ Triết
học, Học viện Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh, Hà Nội.
84. C.Mác và Ph.Ăng-ghen (1995), Toàn tập, Tập 19, Nxb Chính trị quốc gia,
Hà Nội.
85. C.Mác và Ph.Ăngghen (1995), Toàn tập, Tập 21, Nxb Chính trị quốc gia,
Hà Nội.
86. C.Mác và Ph.Ăngghen (1993), Toàn tập, Tập 23, Nxb Chính trị quốc gia,
Hà Nội.
87. C.Mác và Ph.Ăngghen (1995), Toàn tập, Tập 24, Nxb Chính trị quốc gia,
Hà Nội.
88. C.Mác và Ph.Ăngghen (1995), Toàn tập, Tập 25, Phần I và phần II, Nxb
Chính trị quốc gia, Hà Nội.
89. C.Mác và Ph.Ăngghen (1995), Toàn tập, Tập 26, Phần I, Nxb Chính trị
quốc gia, Hà Nội.
90. C.Mác và Ph.Ăngghen (1995), Toàn tập, Tập 42, Nxb Chính trị quốc gia,
Hà Nội.
91. Phan Sỹ Mẫn (1997), "Giải quyết việc làm ở nông thôn trong giai đoạn hiện
nay", Tạp chí Nghiên cứu kinh tế, (225).
92. Phan Tùng Mậu (2006), "Chính sách đối với trí thức khoa học và công nghệ: từ
bài học kinh nghiệm của Trung quốc", Tạp chí Khoa giáo, (8).
93. Hồ Chí Minh (1996), Toàn tập, Tập 1, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.
94. Hồ Chí Minh (1996), Toàn tập, Tập 2, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.
95. Hồ Chí Minh (1996), Toàn tập, Tập 3, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.
96. Hồ Chí Minh (1996), Toàn tập, Tập 4, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.
97. Hồ Chí Minh (1996), Toàn tập, Tập 5, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.
98. Hồ Chí Minh (2000), Toàn tập, Tập 7, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.
99. Hồ Chí Minh (2000), Toàn tập, Tập 8, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.
161
100. Phạm Xuân Nam (2001), Quản lý sự phát triển xã hội trên nguyên tắc tiến
bộ và công bằng, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.
101. Phạm Xuân Nam (2004), "Tăng trưởng kinh tế và công bằng xã hội trong
nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa", Tạp chí Cộng
sản, (13).
102. Phạm Xuân Nam (2004), "Thực hiện tiến bộ và công bằng xã hội trong nền
kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa", Tạp chí Xã hội học, (3).
103. Phạm Xuân Nam (2008), "Công bằng xã hội trong điều kiện kinh tế thị
trường và kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa", Tạp chí
Triết học, (2).
104. Nguyễn Thị Nga (2005), "Công bằng xã hội ở nước ta hiện nay - một số
thành tựu và vấn đề đặt ra", Tạp chí Lý luận Chính trị, (10).
105. Nguyễn Thị Nga (2007), Quan hệ giữa tăng trưởng kinh tế và công bằng xã
hội ở Việt Nam thời kỳ đổi mới - vấn đề và giải pháp, Nxb Lý Luận
chính trị, Hà Nội.
106. Hồ Sỹ Ngọc (2004), "Kinh nghiệm của một số nước trong việc giải quyết
tăng trưởng kinh tế với tiến bộ công bằng xã hội", Tạp chí Giáo dục lý
luận, (8).
107. Phạm Thành Nghị (2004), Quản lý nguồn nhân lực ở Việt Nam một số vấn
đề lý luận và thực tiễn, Nxb Khoa học xã hội, Hà Nội.
108. Phạm Thành Nghị (2006), Nâng cao hiệu quả quản lý nguồn nhân lực trong
quá trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước, Nxb Khoa học xã
hội, Hà Nội.
109. Phạm Thành Nghị (2007), "Công bằng xã hội và phát triển con người bền
vững", Tạp chí Nghiên cứu con người, (5).
110. Nhiều tác giả (2010), 35 năm thành tựu kinh tế Việt Nam và doanh nghiệp,
doanh nhân trong thời đổi mới, Nxb Văn hóa thông tin, Hà Nội.
111. Nhiều tác giả (2003), Nghiên cứu văn hóa, con người, nguồn nhân lực đầu
thế kỷ XXI, Chương trình khoa học công nghệ cấp nhà nước, Hà Nội.
112. Bùi Văn Nhơn (2006), Quản lý và phát triển nguồn nhân lực xã hội, Nxb
Tư pháp, Hà Nội.
162
113. Trịnh Nhu, Lê Mậu Hãn và Cao Văn Lượng (2005), 60 năm nước cộng hòa
xã hội chủ nghĩa Việt Nam - một số thành tựu chủ yếu, Nxb Khoa học
xã hội, Hà Nội.
114. Nguyễn Quốc Phẩm (2005), "Kết hợp giữa tăng trưởng kinh tế với tiến bộ
và công bằng xã hội", Tạp chí Cộng sản, (18).
115. Phân viện Đà Nẵng, Học viện chính trị quốc gia Hồ Chí Minh, Trường Đại
học kinh tế và quản trị kinh doanh Đà Nẵng, Trung tâm kinh tế Châu Á
- Thái Bình Dương (2000), Tăng trưởng kinh tế và công bằng xã hội
một số vấn đề lý luận và thực tiễn ở một số tỉnh miền trung, Nxb Chính
trị quốc gia, Hà Nội.
116. Nguyễn Ngọc Phú (2010), Nguồn nhân lực và nhân tài cho phát triển xã
hội và quản lý phát triển xã hội ở Việt Nam trong tiến trình đổi mới
những vấn đề lý luận, Nxb Đại học quốc gia, Hà Nội.
117. Vũ Văn Phúc, Nguyễn Duy Hùng (2012), Phát triển nguồn nhân lực đáp
ứng yêu cầu công nghiệp hóa, hiện đại hóa và hội nhập quốc tế, Nxb
Chính trị quốc gia, Hà Nội.
118. Nguyễn Văn Phúc, Mai Thị Thu (2012), Khai thác và phát triển tài nguyên
nhân lực Việt Nam, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.
119. Vũ Thị Ngọc Phùng (1999), Tăng trưởng kinh tế, công bằng xã hội và vấn
đề xóa đói giảm nghèo ở Việt Nam, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.
120. Quốc hội nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam (2005), Luật Giáo dục
năm 2005, Hà Nội.
121. Lương Xuân Quỳ (2002), Xây dựng quan hệ sản xuất định hướng xã hội
chủ nghĩa và thực hiện tiến bộ và công bằng xã hội ở Việt Nam, Nxb
Chính trị quốc gia, Hà Nội.
122. Nguyễn Duy Quý (2008), "Công bằng xã hội trong điều kiện kinh tế thị
trường định hướng xã hội chủ nghĩa", Tạp chí Triết học, (3).
123. Lê Văn Sang, Kim Ngọc (Đồng chủ biên) (1999), Tăng trưởng kinh tế và
công bằng xã hội ở Nhật Bản trong giai đoạn "thần kỳ" và Việt Nam
thời kỳ đổi mới, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.
163
124. Lê Hữu Tầng (1997), Về động lực của sự phát triển kinh tế - xã hội, Nxb
Khoa học xã hội, Hà Nội.
125. Lê Hữu Tầng (2003), Chủ nghĩa xã hội từ lý luận đến thực tiễn - những bài
học kinh nghiệm chủ yếu, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.
126. Lê Hữu Tầng (2008), "Về một số vấn đề lý luận và thực tiễn xung quanh
việc thực hiện công bằng xã hội ở Việt Nam hiện nay", Tạp chí Triết
học, (01).
127. Bùi Văn Thạch (2014), Kinh tế Việt Nam 2013, triển vọng 2014: nỗ lực
thực hiện 3 khâu đột phá chiến lược, Nxb Trí thức, Hà Nội.
128. Trần Thành (2006), "Vai trò của Nhà nước trong việc kết hợp tăng trưởng kinh
tế với công bằng xã hội ở nước ta", Tạp chí Triết học, (2).
129. Trần Thành (2009), "Vai trò của nhà nước trong nền kinh tế thị trường định
hướng xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam hiện nay", Tạp chí Triết học, (8).
130. Hoàng Đức Thân, Đinh Quang Ty (2010), Tăng trưởng kinh tế và tiến bộ
công bằng xã hội ở Việt Nam, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.
131. Thủ tướng Chính phủ (2011), Quyết định số 1216/QĐ-TTg ngày 22/7/2011
về phê duyệt quy hoạch phát triển nhân lực Việt Nam giai đoạn 2011 -
2020, Hà Nội.
132. Thủ tướng Chính phủ (2016), Quyết định số 1956/QĐ-TTg ngày 25/11/2016
phê duyệt Đề án "Đào tạo nghề cho lao động nông thôn đến năm
2020", Hà Nội.
133. Nguyễn Văn Thường, Thang Văn Phúc (2007), Một số vấn đề kinh tế - xã
hội sau 20 năm đổi mới ở Việt Nam: dự án hỗ trợ tổng kết 20 năm đổi
mới ở Việt Nam, Nxb Khoa học xã hội, Hà Nội.
134. Tổng cục Thống kê (1993), Niên giám thống kê 1992, Nxb Thống kê, Hà Nội.
135. Tổng cục Thống kê (1997), Niên giám thống kê 1996, Nxb Thống kê, Hà Nội.
136. Tổng cục Thống kê (2000), Niên giám thống kê 1999, Nxb Thống kê, Hà Nội.
137. Tổng cục Thống kê (2001), Niên giám thống kê 2000, Nxb Thống kê, Hà Nội.
138. Tổng cục Thống kê (2001), Niên giám thống kê 2001, Nxb Thống kê, Hà Nội.
139. Tổng cục Thống kê (2007), Niên giám thống kê 2006, Nxb Thống kê, Hà Nội.
140. Tổng cục Thống kê (2015), Niên giám thống kê 2014, Nxb Thống kê, Hà Nội.
164
141. Phạm Thị Ngọc Trầm (2009), Những vấn đề lý luận cơ bản về công bằng xã hội
trong điều kiện nước ta hiện nay, Nxb Khoa học xã hội, Hà Nội.
142. Trung tâm Biên soạn Từ điển bách khoa Việt Nam (1995), Từ điển bách
khoa Việt Nam, tập 1, Hà Nội.
143. Trung tâm Khoa học xã hội và nhân văn quốc gia (2000), Tư duy mới về phát
triển cho thế kỷ XXI, sách tham khảo, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.
144. Trung tâm Khoa học xã hội và nhân văn quốc gia (2001), Báo cáo phát
triển con người việt nam 2001: đổi mới và sự nghiệp phát triển con
người, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.
145. Vũ Anh Tuấn (2001), Vai trò của pháp luật trong việc đảm bảo công bằng
xã hội ở Việt Nam hiện nay, Luận án tiến sĩ Luật học, Học viện Chính
trị quốc gia Hồ Chí Minh, Hà Nội.
146. Hoàng Đức Tuấn, Đinh Quang Ty (2010), Tăng trưởng kinh tế và tiến bộ,
công bằng xã hội ở việt nam, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.
147. Trần Nguyễn Tuyên (2010), Gắn kết tăng trưởng kinh tế và tiến bộ, công
bằng xã hội, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.
148. Đỗ Thế Tùng (1996), Vấn đề lao động và việc làm, Học viện Chính trị quốc
gia Hồ Chí Minh, Trung tâm thông tin tư liệu, Hà Nội.
149. Trần Văn Tùng, Lê Ái Lâm (1996) Phát triển nguồn nhân lực: kinh nghiệm thế
giới và thực tiễn nước ta, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.
150. Viện Khoa học giáo dục Việt Nam (2010), Kinh nghiệm của một số nước về
phát triển giáo dục và đào tạo khoa học và công nghệ gắn với xây
dựng đội ngũ trí thức, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.
151. Viện Nghiên cứu khoa học dạy nghề, Vụ Công tác học sinh, sinh viên thuộc
Tổng cục Dạy nghề, Bộ Lao động Thương binh và Xã hội (2014), Nhu
cầu phát triển nguồn nhân lực và cơ hội việc làm, Nxb Dân trí, Hà Nội.
152. Đặng Vinh, Đăng Quang (2005), Việt Nam đổi mới và phát triển, Nxb Từ
điển bách khoa, Hà Nội.
153. Vũ Thị Vinh (2014), Tăng trưởng kinh tế với giảm nghèo ở Việt Nam hiện
nay, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.
154. Đức Vương (2013), Một số vấn đề về tri thức và nhân tài, Nxb Chính trị
quốc gia, Hà Nội.