BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM HÀ NỘI
LÊ THÙY NHUNG
THƠ NỮ VIỆT NAM SAU 1975
NHỮNG TÌM TÒI VÀ CÁCH TÂN
LUẬN ÁN TIẾN SĨ NGỮ VĂN
HÀ NỘI - 2021
BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM HÀ NỘI
LÊ THÙY NHUNG
THƠ NỮ VIỆT NAM SAU 1975
NHỮNG TÌM TÒI VÀ CÁCH TÂN
Chuyên ngành: Văn học Việt Nam - hiện đại
Mã số: 9.22.01.21
LUẬN ÁN TIẾN SĨ NGỮ VĂN
Người hướng dẫn khoa học: TS. NGUYỄN PHƯỢNG
PGS. NGUYỄN VĂN LONG
HÀ NỘI - 2021
LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan đây là công
170 trang |
Chia sẻ: huong20 | Ngày: 14/01/2022 | Lượt xem: 626 | Lượt tải: 8
Tóm tắt tài liệu Luận án Thơ nữ Việt Nam sau 1975 những tìm tòi và cách tân, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
trình nghiên cứu của tôi dưới sự hướng dẫn của PGS. NGUYỄN VĂN LONG và TS. NGUYỄN PHƯỢNG. Các luận điểm và kết quả nghiên cứu được đưa ra trong luận án là trung thực và chưa từng được công bố trong bất kỳ công trình nào khác.
Tác giả
Lê Thùy Nhung
LỜI CẢM ƠN
Trước tiên, tôi xin bày tỏ lòng tri ân sâu sắc đến với PGS. NGUYỄN VĂN LONG và TS. NGUYỄN PHƯỢNG, người đã tận tình hướng dẫn và giúp đỡ tôi hoàn thành luận án này.
Tôi cũng xin bày tỏ lòng biết ơn chân thành đến với các nhà khoa học, các thầy cô giáo của tổ Văn học Việt Nam - hiện đại, khoa Ngữ văn, trường Đại học Sư phạm Hà Nội đã góp ý, nhận xét và tạo mọi điều kiện thuận lợi cho tôi trong quá trình thực hiện đề tài luận án.
Trân trọng biết ơn gia đình, bạn bè và đồng nghiệp tại trường CĐSP Hòa Bình, trường THPT Chuyên Hoàng Văn Thụ đã luôn quan tâm, động viên, khích lệ, giúp đỡ tôi trong suốt quá trình học tập và nghiên cứu.
Tác giả
Lê Thùy Nhung
MỤC LỤC
MỞ ĐẦU
1. LÍ DO CHỌN ĐỀ TÀI
1.1. Như một quy luật tất yếu, văn học luôn có xu hướng thay đổi tìm đến những cái mới, hiện đại. Văn học đòi hỏi nhà văn phải có những tìm tòi và cách tân mới để đáp ứng nhu cầu tinh thần của người đọc, đáp ứng nhu cầu tồn tại của nghệ thuật. Việc chỉ ra những tìm tòi và cách tân trong văn học là cần thiết giúp chúng ta có được cái nhìn rõ nét hơn về sự phát triển của văn học với những đặc điểm, sự vận động qua mỗi chặng đường, mỗi giai đoạn, đồng thời mở ra những hướng nghiên cứu mới cho nền văn học ấy.
1.2. Cùng với sự vận động, phát triển ngày càng mạnh mẽ và toàn diện của nền văn học Việt Nam sau 75, thơ nữ có những thay đổi lớn trong diện mạo của mình. Trên các diễn đàn, cuộc tranh luận về đổi mới trong thơ nữ diễn ra khá sôi nổi. Đa số ý kiến cho rằng, vị thế của các nhà thơ nữ đang dần được khẳng định với sự hiện diện của một đội ngũ thơ nữ đông đảo, với những quan niệm nghệ thuật rất riêng và những khám phá về nội dung, nghệ thuật. Nhiều hiện tượng thơ nữ được đánh giá cao, tác động tích cực tới sự phát triển của nền thơ đương đại và ghi dấu ấn tượng cả ở trong nước và nước ngoài với nhiều giải thưởng lớn như: Ý Nhi - nhà thơ đầu tiên của Việt Nam được đón nhận giải thưởng Cikada của Thụy Điển (2015), Nguyễn Phan Quế Mai - nhà thơ Đông Nam Á đầu tiên có tập thơ in trong Lannan Translations Selection Series của Mỹ (2014), Vi Thùy Linh - nhà thơ nữ trẻ tuổi thực hiện nhiều tour diễn thơ Pháp - Châu Âu, được mời thực hiện đêm thơ riêng tại Paris Tuy nhiên, thơ nữ cũng xuất hiện nhiều hiện tượng gây tranh cãi, những nhận xét trái chiều về những tìm tòi và cách tân quá táo bạo, nhất là ở một số hiện tượng thơ nữ trẻ đương đại. Trước những tranh luận ấy, việc phân tích được cụ thể sự tìm tòi cách tân trong thơ nữ sẽ giúp người đọc, người nghiên cứu có thêm cái nhìn, cách đánh giá khách quan hơn về diện mạo và những đóng góp tích cực của bộ phận thơ này cho sự phát triển của thơ Việt Nam đương đại.
1.3. Trong xu thế hội nhập của đời sống văn hóa tinh thần, sự phát triển của các phong trào nữ quyền trên thế giới có tác động đáng kể tới sự phát triển của văn học nghệ thuật ở nước ta. Đặc biệt với thơ nữ sau 75, sự tác động ấy càng đậm nét hơn khi âm hưởng nữ quyền trở thành một trong những mạch nguồn cảm hứng sáng tác, ảnh hưởng tới sự đổi mới của cái tôi trữ tình và đưa đến một số thể nghiệm hình thức nghệ thuật mới. Nó góp phần tạo nên những quan niệm, xu hướng trong diện mạo riêng cho thơ nữ Việt Nam sau 1975.
1.4. Từ những thành tựu nghệ thuật đã đạt được, thơ nữ Việt Nam sau 1975 đã và đang tạo sự thu hút với giới nghiên cứu phê bình văn học. Tuy nhiên, đa số những công trình nghiên cứu thơ nữ từ sau 75 đến nay thường theo hướng tổng quát về những đặc điểm chung, những đóng góp chung, hoặc khái quát đặc điểm, phong cách sáng tác của một nhà thơ, một nhóm nhà thơ ở một giai đoạn nhất định. Đã đến lúc cần có thêm công trình nghiên cứu bao quát rộng hơn những tìm tòi và cách tân trong thơ nữ Việt Nam từ sau 75 đến nay để thấy được đổi mới và đóng góp cụ của thể bộ phận thơ này.
Từ những lí do trên, chúng tôi thực hiện nghiên cứu đề tài Thơ nữ Việt Nam sau 1975, những tìm tòi và cách tân. Cho đến khi thực hiện đề tài này, những tranh luận về thơ nữ chưa phải đã chấm dứt, đặc biệt ở những hiện tượng thơ mang tính thời sự nên chúng tôi mong muốn kết quả nghiên cứu sẽ góp thêm cho người đọc, người nghiên cứu thơ nữ cái nhìn cụ thể về những tìm tòi cách tân của thơ nữ sau 75. Từ đó, chúng ta nhận diện sâu sắc hơn sự chuyển mình, những thành tựu nghệ thuật thơ nữ và gợi mở thêm nhiều hướng nghiên cứu, tiếp cận khác về thơ nữ.
2. ĐỐI TƯỢNG, PHẠM VI NGHIÊN CỨU
2.1. Đối tượng nghiên cứu
Sau năm 1975, tình hình sáng tác thơ nữ ở Việt Nam có nhiều thay đổi tích cực với sự xuất hiện những thể nghiệm và hàng loạt tên tuổi mới. Tuy nhiên, luận án chỉ hướng tới đối tượng nghiên cứu là những tìm tòi và cách tân của thơ nữ sau 1975 trên một số phương diện nội dung (cảm hứng trữ tình, cái tôi trữ tình) và hình thức nghệ thuật (cấu trúc, hình ảnh, ngôn ngữ, giọng điệu) qua một số hiện tượng thơ tiêu biểu.
2.2. Phạm vi nghiên cứu
Luận án tập trung khảo sát một số hiện tượng thơ nữ tiêu biểu sau 75 cho sự tìm tòi và cách tân của thơ Việt:
Ở thế hệ nhà thơ nữ từng trưởng thành trong kháng chiến chống Mỹ, chúng tôi chú ý tới các tác giả Xuân Quỳnh, Ý Nhi, Phan Thị Thanh Nhàn, Lâm Thị Mỹ Dạ, Nguyễn Thị Hồng Ngát.
Ở thế hệ nhà thơ nữ chỉ mới bắt đầu xuất hiện ở chặng đầu đổi mới, chúng tôi chú ý tới Phạm Thị Ngọc Liên, Lê Thị Mây, Đoàn Thị Lam Luyến, Dư Thị Hoàn, Lê Khánh Mai, Vũ Thị Huyền.
Ở thế hệ nhà thơ nữ xuất hiện từ nửa cuối thập niên 90 đến nay, chúng tôi tập trung vào các nhà thơ Phan Huyền Thư, Nguyễn Phan Quế Mai, Vi Thùy Linh, Ly Hoàng Ly, Nguyễn Ngọc Tư, Từ Huy, Ng.anhanh, Lữ Thị Mai, Như Quỳnh de Prelle, Nguyễn Thị Thúy Hạnh.
Luận án khảo sát tập trung các tác phẩm nổi bật được dư luận chú ý của các nhà thơ trên (xem chi tiết hơn ở Danh mục tài liệu tham khảo/ III. Các tác phẩm khảo sát tr.163).
3. MỤC ĐÍCH, NHIỆM VỤ NGHIÊN CỨU
3.1. Mục đích nghiên cứu
Nhận diện, lí giải những tìm tòi và cách tân của thơ nữ Việt Nam từ sau 1975 đến nay trên một số phương diện chính của nội dung và nghệ thuật.
Đánh giá ý nghĩa của sự đổi mới thơ nữ sau 75 với sự phát triển của thơ Việt, đồng thời khẳng định vị trí và những đóng góp của các nhà thơ.
3.2. Nhiệm vụ nghiên cứu
Luận án xác định những nhiệm vụ trọng tâm sau:
Xác định quan niệm tìm tòi và cách tân để làm cơ sở lí luận cho việc triển khai đề tài, đồng thời nhìn lại tình hình nghiên cứu về thơ nữ sau 75 để có cơ sở thực tiễn hơn khi tiếp cận đối tượng nghiên cứu.
Nhận diện khái quát bức tranh diện mạo của thơ nữ Việt Nam sau 75 qua các chặng đường nối tiếp song hành giữa các thế hệ nhà thơ, những quan niệm thơ và những xu hướng cách tân thơ chủ yếu.
Tập trung phân tích những tìm tòi, cách tân của thơ nữ sau 75 trên phương diện nội dung, trọng tâm là cảm hứng trữ tình, cái tôi trữ tình, đồng thời chỉ ra những tìm tòi và cách tân cụ thể trên các phương diện cấu trúc, hình ảnh, ngôn ngữ, giọng điệu.
Những tìm tòi, cách tân của thơ nữ sau 75 được khảo sát và đối chiếu so sánh với thơ Việt nói chung, thơ nữ nói riêng ở những giai đoạn trước 1975; đối chiếu so sánh với thơ nam giới cùng thời để nhận ra sự tiếp nối, đổi mới riêng trong sáng tạo nghệ thuật của thơ nữ.
4. PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU
Phương pháp hệ thống cấu trúc: Hệ thống, cấu trúc không chỉ là thao tác mà còn là một phương pháp khoa học giúp chúng ta bao quát, nhận diện cụ thể hơn những dạng thức, đặc điểm sáng tác của các nhà thơ nữ. Phương pháp này được chúng tôi sử dụng xuyên suốt luận án.
Phương pháp phân tích tác phẩm theo đặc trưng thể loại: Bất kì tác phẩm nào cũng gắn liền với hình thức của thể loại văn học cụ thể. Khi phân tích tác phẩm chúng ta cần căn cứ vào những đặc trưng thể loại, từ đó tìm ra những đặc điểm nổi trội trong tìm tòi và cách tân của các nhà thơ nữ sau 75.
Phương pháp loại hình: nhìn nhận thơ nữ sau 75 như là một loại hình của văn học, phương pháp này giúp chúng tôi nhận thấy được sự thay đổi loại hình từ văn học cách mạng đến văn học thời kì đổi mới và sự ít nhiều chạm tới kiểu tư duy hậu hiện đại.
Phương pháp liên ngành: Chúng tôi đặt vấn đề nghiên cứu trong mối quan hệ liên ngành với các lĩnh vực có liên quan như phân tâm học, tâm lí học, xã hội học, văn hóa... để lí giải, nhìn nhận sâu sắc hơn những tìm tòi và cách tân của thơ nữ sau 75.
Phương pháp so sánh, đối chiếu: Để làm sáng rõ hơn những đóng góp của các nhà thơ nữ sau 1975, chúng tôi còn sử dụng phương pháp so sánh đối chiếu. Phương pháp dựa trên so sánh đồng đại - đặt đối tượng nghiên cứu trong sự so sánh với các nhà thơ nam cùng thời và so sánh lịch đại - so sánh thơ nữ giai đoạn trước và sau 1975 để thấy rõ hơn những điểm khác biệt trong sáng tạo.
5. ĐÓNG GÓP CỦA LUẬN ÁN
Luận án là công trình khoa học chuyên sâu về những đóng góp của thơ nữ Việt Nam giai đoạn sau 1975. Thông qua cơ sở lí thuyết về tìm tòi và cách tân và từ những kết quả nghiên cứu về thơ nữ sau 75 đã có ở những người nghiên cứu trước, luận án đem đến cái nhìn rõ nét về sự đổi mới diện mạo của thơ nữ trên tiến trình vận động, phát triển của thơ Việt Nam hiện đại.
Luận án khái quát những đổi mới của thơ nữ sau 75 trên phương diện nội dung, trọng tâm là sự chuyển đổi của cảm hứng trữ tình, cái tôi trữ tình. Luận án cố gắng lí giải những yếu tố tác động và thôi thúc sự tìm tòi, cách tân ở các nhà thơ nữ. Từ sự ảnh hưởng của ý thức nữ quyền luận án nghiên cứu sâu hơn về những đặc điểm riêng trong thơ nữ.
Luận án chỉ ra những tìm tòi, cách tân hình thức của thơ nữ sau 75 ở 4 phương diện: cấu trúc, hình ảnh, ngôn ngữ, giọng điệu để giúp người nghiên cứu nhận thấy rõ hơn sự thay đổi tư duy nghệ thuật và nỗ lực kiến tạo, đổi mới thơ ở những nhà thơ nữ.
Kết quả nghiên cứu của luận án góp thêm hướng tiếp cận, kiến giải về những đóng góp của thơ nữ Việt Nam sau 75. Từ đó chúng ta có những đánh giá phù hợp về sự phát triển đa chiều của thơ Việt trong đời sống hôm nay.
Bổ sung thêm tư liệu cho việc nghiên cứu, giảng dạy một số tác phẩm thơ nữ sau 75 trong nhà trường cũng như việc nghiên cứu thơ ca trữ tình sau 75.
6. CẤU TRÚC LUẬN ÁN
Ngoài phần mở đầu, kết luận, danh mục tài liệu tham khảo, nội dung chính của luận án được triển khai thành bốn chương:
Chương 1: Tổng quan vấn đề nghiên cứu.
Chương 2: Khái quát diện mạo của thơ nữ Việt Nam sau 1975.
Chương 3: Những đổi mới về cảm hứng và cái tôi trữ tình trong thơ nữ Việt Nam sau 1975.
Chương 4: Những tìm tòi và cách tân về hình thức nghệ thuật trong thơ nữ Việt Nam sau 1975.
Chương 1
TỔNG QUAN VẤN ĐỀ NGHIÊN CỨU
Tìm tòi và cách tân trong thơ
Văn học nghệ thuật muốn tồn tại và phát triển cần luôn đổi mới, không thể là sự dập khuôn máy móc hay lặp lại chính mình. Nói như nhà văn Nam Cao: “Văn chương không cần những người thợ khéo tay, làm theo một vài kiểu mẫu đưa cho. Văn chương chỉ dung nạp những người biết đào sâu, biết tìm tòi, khơi những nguồn chưa ai khơi, và sáng tạo những cái gì chưa có”(Đời thừa). Từ quan điểm ấy ta có thể hiểu tìm tòi, cách tân là đòi hỏi của người đọc và cũng là nhu cầu tự thân để nghệ thuật tồn tại.
Quan niệm về tìm tòi và cách tân
Theo Từ điển tiếng Việt, “tìm tòi là tìm một cách công phu, kiên nhẫn để thấy ra, nghĩ ra cái khác” [90, tr.1276] còn “cách tân thì giống đổi mới, cải cách, canh tân, là thay đổi hoặc làm cho thay đổi tốt hơn, tiến bộ so với trước đáp ứng yêu cầu của sự phát triển và thường gắn liền với văn hóa nghệ thuật” [90, tr.141]
Theo Từ điển tiếng Pháp (Larousse.com), tìm tòi (rechérche) “là sự tìm kiếm” còn cách tân (rénovation) “là sự làm mới lại, cải tạo, cải thiện cái gì đó”.
Theo Từ điển tiếng Anh (Vdict.com), tìm tòi (reseach) “là sự khám xét, khám phá, sưu tầm” còn cách tân (innovation) “là sự đưa vào những cái mới, sáng kiến, phương pháp mới, hay là sự tiến hành đổi mới”.
Từ những định nghĩa trên, chúng ta có thể hiểu khái quát:
Tìm tòi chính là sự khám phá, kiếm tìm ra những giá trị mới, phá bỏ thế tĩnh tại của hiện hữu sáng tạo. Nó phụ thuộc chủ yếu vào ý thức chủ quan của người sáng tác. Nói như Thạch Lam có những cái đẹp người ta không ngờ, ai cũng nhìn nhưng không phải ai cũng thấy. Nhiều người dù có tư tưởng đổi mới nhưng có thể họ cũng không tìm thấy điều nghệ thuật cần, không thấy những điều cần trong đời sống. Bởi vậy, nếu ta không có ý thức tìm thì sẽ không thấy và sẽ không có thay đổi trong sáng tạo.
Cách tân, ở nghĩa cơ bản được hiểu tương đồng với nghĩa của từ đổi mới, nhưng vì là từ Hán Việt nên có thể mang nét nghĩa khái quát cao hơn, toàn diện hơn từ đổi mới (là từ thuần Việt). Cách tân có thể hiểu là làm mới lại (thay đổi) cái cũ và làm ra cái mới hoàn toàn. Chẳng hạn, có những đề tài trước kia trong văn học từng được xem là cấm kị thì bây giờ nhà văn sẵn sàng xông pha, chạm tới vùng cấm và trưng ra những cảm xúc, những cách nói mới khác nhau cho những đề tài đó. Bên cạnh đó, nếu đổi mới thường dùng bao trùm cho nhiều lĩnh vực, nhiều bình diện khác nhau thì cách tân thường được dùng nhiều hơn trong lĩnh vực của văn học nghệ thuật. Nhiều ý kiến còn cho rằng cách tân thường nghiêng về thủ pháp nghệ thuật nhưng thực ra thủ pháp nghệ thuật chỉ là một bình diện còn cách tân bao hàm nội dung căn bản hơn cả về hệ tư tưởng, quan niệm... Từ cách hiểu đó, chúng ta có thể nhận ra những biểu hiện của cách tân ở các mức độ, cấp độ hoặc các bình diện khác nhau ngay cả trong cùng một trào lưu, một phương pháp. Ở mức độ hẹp, cách tân có thể bao hàm sự thay đổi căn bản cả một giai đoạn văn học. Nhiều người dùng cách tân với hàm nghĩa như “cuộc cách mạng trong thi ca” để nói về phong trào Thơ Mới (Hoài Thanh - Thi nhân Việt Nam). Còn ở mức độ cao hơn, cách tân là sự làm thay đổi một hệ hình văn học thậm chí có thể làm thay đổi ngay trong cùng một hệ hình, một trào lưu. Ví dụ cùng là chủ nghĩa lãng mạn nhưng ở mỗi giai đoạn văn học, chủ nghĩa lãng mạn lại có những cách làm mới khác nhau, giữa những người khởi đầu và những người phát triển tiếp theo cũng có cách khám phá khác nhau.
Vậy về bản chất, tìm tòi và cách tân là hai phạm trù độc lập nhưng lại không thể tách rời nhau. Nếu tìm tòi là hành động tất yếu của sự khám phá và đi tìm cái mới thì cách tân chính là kết quả của sự khám phá, là cái mới, cái chất lượng, không trùng lặp mang đến những giá trị nghệ thuật phong phú. Ngược lại, nếu cách tân là hoạt động tất yếu của nghệ thuật thì tìm tòi trở thành một trong những điều kiện của cách tân vì không phải bất cứ sự tìm tòi nào cũng đem đến sự cách tân, nó có thể tạo ra cái khác mà không hẳn cái mới. Quá trình này không chỉ tác động thay đổi hệ hình văn học trên nền tảng tư duy mà còn làm mới đối tượng, đem đến những giá trị mỹ học mới cho văn học.
Mỗi thời đại, mỗi giai đoạn văn học, sự tìm tòi và cách tân sẽ tạo ra những tiền đề vừa đáp ứng đòi hỏi của văn học vừa phù hợp tâm thức thời đại, đem đến những cách tân kết tinh thành tựu nghệ thuật. Tuy nhiên, có những thời điểm, cách tân có thể đạt tới đỉnh cao, toàn bích nhưng lại nó không bao giờ dừng lại mãi mãi ở cái đỉnh ấy. Xem xét sự tìm tòi, cách tân chúng ta không chỉ nên so sánh hơn kém, quan trọng cần tìm ra bản chất, tìm ra những giá trị khác, giá trị mới hợp với thời đại không nhất thiết phải hơn cái cũ. Nó không phụ thuộc vào thế hệ, lứa tuổi mà ở sự mới mẻ người nghệ sĩ mang lại.
Tìm tòi, cách tân trong thơ và trong thơ Việt Nam hiện đại
1.1.2.1. Tìm tòi, cách tân trong thơ
Tìm tòi và cách tân trong văn chương không chỉ gắn với những thay đổi của thời đại mà còn gắn với đặc trưng thể loại. Đối với thơ, sự tìm tòi và cách tân bao giờ cũng thường bắt đầu từ sự thay đổi của chủ thể trữ tình, sau đó là phát hiện ra những cách cảm thụ thế giới, sự rung cảm mới phù hợp với sự chuyển biến của thời đại văn học. Vậy, tác phẩm văn học ngoài việc phải thể hiện được những đặc trưng riêng của thể loại thì còn phải chứa những cái mới làm thay đổi cách nhìn quen thuộc và phải khác đi với những gì có trước đó.
Trong thơ, sự tìm tòi và cách tân thường có sự thống nhất, hài hòa giữa ba phương diện cơ bản sau:
Thứ nhất, đó là sự đổi mới quan niệm về thơ. Nó được bộc lộ qua sự tinh lọc, kết tụ cảm quan mới của nhà thơ về thế giới, về con người, về cái đẹp và khơi dậy những mỹ cảm mới cho thơ qua từng giai đoạn phát triển.
Thứ hai, đó là sự khám phá ra những rung động, cảm xúc mới. Nhà thơ muốn sáng tác một tác phẩm nghệ thuật hay, có giá trị tồn tại mãi với thời gian thì ngoài tài năng, sự hiểu biết, sự nếm trải buồn vui trong cuộc đời cũng cần có xúc cảm chân thật tự đáy tâm hồn. Nó phải là “trạng thái tâm lí đang rung chuyển khác thường”(Nguyễn Đình Thi) chứ không tĩnh tại bất biến, phải là những rung động mới, trinh nguyên của tâm hồn khi tiếp xúc với cuộc sống. Thơ khác với thể loại tự sự ở chỗ không chỉ tập trung tái hiện khách quan hiện thực hay miêu tả sự kiện đời sống bên ngoài mà đi sâu khám phá những xúc cảm mới, biện giải về đời sống bên trong của con người với mối tương quan hiện thực nhiều chiều xung quanh con người.
Thứ ba, bất kì sự thay đổi nội dung nào trong thơ cũng sẽ đưa thơ đến những hình thức nghệ thuật mới tác động mạnh mẽ tới người đọc, thậm chí làm cho liên tưởng, tưởng tượng trong thơ đổi khác. Với thơ trữ tình, sự tìm tòi cách tân của hình thức nghệ thuật đóng vai trò quan trọng giúp ta nhìn rõ hơn những thay đổi trong tư duy nghệ thuật thơ ở kết cấu, từ ngữ, các biện pháp tu từ, hình ảnh, giọng điệu...
1.1.2.2. Tìm tòi, cách tân trong thơ Việt Nam hiện đại
Trong thơ Việt Nam hiện đại, sự tìm tòi và cách tân có sự tiếp nối ba giai đoạn:
Nửa đầu thế kỉ XX, cuộc cách mạng thi ca đã tạo nên những thay đổi sâu sắc, toàn diện trên cả phạm trù thơ. Thơ có sự chuyển đổi hệ hình từ thơ cổ điển sang thơ mới, trung tâm là sự thay đổi cái tôi trữ tình từ thời đại cái ta sang thời đại cái tôi. Đề xướng phá bỏ những khuôn mẫu của thể thơ cũ, các nhà thơ mới đề cao cảm xúc cá nhân, phát huy trí tưởng tượng, đem đến cho người đọc một thế giới tinh thần phong phú với những nỗi buồn âu lo, sự cô đơn nhưng cũng nhiều cảm xúc nồng nàn, rạo rực và khát vọng của thế hệ nhà thơ mới. Trên báo Nam Phong số 5/1917, Phạm Quỳnh thừa nhận: “Người ta nói tiếng thơ là tiếng kêu của con tim. Người Tàu định luật nghiêm cho người làm thơ thực là muốn chữa lại, sửa lại tiếng kêu ấy cho nó hay hơn nhưng cũng nhân đó mà làm mất đi cái giọng tự nhiên vậy”. Các cuộc tranh cãi thơ cũ và thơ mới cũng diễn ra khá gay gắt. Trong đó, nhiều bài viết chỉ trích nặng nề những trói buộc của thơ cũ và đòi hỏi phải cởi trói cho thơ ca. Cuộc canh tân này đi vào lịch sử văn học với sự ra đời của phong trào Thơ Mới. Tuy nhiên, ngoài yếu tố tác động bên ngoài buộc thơ phải đổi mới thì thực chất bản thân thơ giai đoạn này cũng có sự tự vận động, tự cách tân thành những xu hướng khác nhau để đi xa hơn trên hành trình mười mấy năm phát triển của mình. Ở chặng đầu từ năm 1932 - 1935, sự thay đổi căn bản nhất của thơ là sự xuất hiện của cái tôi cá nhân lãng mạn với những tên tuổi nổi bật như Thế Lữ, Lưu Trọng Lư. Khi Thơ Mới lên đến đỉnh cao, thơ lại xuất hiện những tìm tòi theo hướng tượng trưng siêu thực với những tên tuổi như Huy Cận, Xuân Diệu Đến chặng cuối,Thơ Mới vẫn có thêm những cách tân đột phá nhưng có lẽ do áp lực từ bối cảnh lịch sử, xã hội, văn hóa và văn học nên thơ một lần nữa có sự chuyển đổi sang hệ hình mới. Ta có thể kể tên một số nhà thơ tiêu biểu ở chặng này có nhiều đóng góp như Bích Khê, Hàn Mặc Tử
Sang giai đoạn 1945 - 1975, xuất phát từ nhiệm vụ chung của văn học, thơ chủ yếu gắn liền với nhiệm vụ chính trị, cách mạng, gắn liền với đời sống cộng đồng và đời sống dân tộc. Sự chuyển đổi căn bản từ nội dung cái tôi trữ tình cá nhân, cá thể sang cái tôi công dân, chiến sĩ, cái tôi sử thi đem đến những tình cảm, cảm xúc mới về quê hương, đất nước, dân tộc... Cùng với thế hệ trước như Xuân Diệu, Chế Lan Viên, Nguyễn Đình Thi, Chính Hữu các nhà thơ thế hệ sau như Phạm Tiến Duật, Lê Anh Xuân, Nguyễn Đức Mậu, Nguyễn Duy, Phan Thị Thanh Nhàn, Nguyễn Mỹ, Trần Đăng Khoa ... tập hợp với nhau tạo thành đội ngũ sáng tác với vai trò mới - nhà thơ chiến sĩ. Nhiệm vụ của họ không chỉ phải giải quyết mối quan hệ hòa hợp riêng chung, mà cần nhất là mang đến cho thơ một tinh thần cách tân phù hợp với tính chất anh hùng ca và trữ tình, truyền thống và hiện đại. Trong khoảng chín năm đầu, thơ có đóng góp tích cực vào cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp, thể hiện được tính chiến đấu, tính đại chúng sâu sắc. Nhưng từ sau năm 1954, thơ không chỉ tiếp tục mở rộng đề tài, bám sát hiện thực đời sống, khám phá những nguồn cảm hứng mới về sự hồi sinh của đất nước, về tình cảm con người miền Nam với khát vọng thống nhất tổ quốc, lao động xây dựng đất nước mà còn có xu hướng cách tân thơ mới mẻ. Đáng chú ý là những tìm tòi trong thơ của một bộ phận đô thị miền Nam với những hiện tượng Thanh Tâm Tuyền, Mai Thảo, Bùi Giáng... Trong khi những cái tìm tòi và cách tân trong thơ miền Bắc hướng vào màu sắc chính luận, thời sự, với tinh thần công dân, với hình tượng cái tôi chiến sĩ thì thơ miền Nam đã hướng những tìm tòi đi cách tân vào thế giới bên trong nhiều phức tạp, những cách tân mặt hình thức đi theo hướng trào lưu hiện đại chủ nghĩa cũng sớm được nhà thơ miền Nam chú ý. Về nội dung, “nó vẫn nhằm tranh đấu cho tự do về hình thức thể loại, nó cũng tự do hóa. Nhưng tự do hóa không theo kiểu phá thể, hợp thể... đơn giản như trong thơ kháng chiến. Mà tự do hóa trong liên tưởng, trong tưởng tượng, trong cấu trúc ngôn từ”[117, tr.306]. Theo Thanh Tâm Tuyền, siêu thực là một hướng phát triển và “Thơ bây giờ một sự xáo trộn ngôn ngữ”. Tuy nhiên, thực chất sự đổi mới này là sự kế tục của những tìm tòi trong thơ Mới (1930 -1945) với hiện tượng Xuân Thu nhã tập, Đinh Hùng... Thanh Tâm Tuyền cùng Mai Thảo và các nhà thơ kế tiếp đã có công lớn trong việc kiến tạo con đường thơ khác một cách tích cực Xin xem thêm chi tiết hơn trong tài liệu tham khảo [117]
.
Sau năm 1975, tìm tòi và cách tân trong thơ tiếp tục là cuộc chạy tiếp sức với nỗ lực chung của các nhà thơ. Ngay cả những nhà thơ từng đại diện cho tiếng nói của nền thơ cách mạng cũng có những đổi mới trong giai đoạn này như Nguyễn Duy, Thanh Thảo, Hữu Thỉnh, Xuân Quỳnh, Ý Nhi... Một số nhà thơ còn giữ vai trò quan trọng tạo nên những đổi mới mạnh mẽ như Hoàng Cầm (với Về Kinh Bắc), Trần Dần (với Cổng tỉnh), Lê Đạt (với Bóng chữ) Nhiều người đánh giá họ như một Thi sơn thơ (Trần Dần), một Phu chữ thơ (Lê Đạt), một Bến lạ thơ kỳ bí (Đặng Đình Hưng) Phần đa trong số họ đều đã manh nha có dấu hiệu tìm tòi, cách tân âm thầm quyết liệt từ giai đoạn trước. Đến cuối những năm 80, sau nhiều năm âm thầm viết nhưng chưa được công bố, gặp hoàn cảnh thuận lợi họ mới có dịp bộc lộ, trình bày những thể nghiệm đó một cách tự tin trước công chúng. Bên cạnh họ là sự xuất hiện của những nhà thơ mới có vai trò tiên phong trong thời kì đầu đổi mới, ít chịu ràng buộc của quá khứ truyền thống và có tinh thần cách tân mạnh bạo hơn như: Dư Thị Hoàn, Dương Kiều Minh, Nguyễn Lương Ngọc, Nguyễn Quang Thiều Gần đây (từ nửa cuối những năm 90 của thế kỉ trước đến nay), nền thơ còn xuất hiện rất nhiều cây bút nữ trẻ như Phan Huyền Thư, Vi Thùy Linh Nguyễn Phan Quế Mai, Ly Hoàng Ly, Nguyễn Ngọc Tư, Nguyễn Thị Khánh Minh, Lữ Thị Mai, Như Quỳnh Prelle Họ đã góp phần làm cho xu hướng cách tân thơ trở như một trào lưu phát triển mạnh mẽ với nhiều thể nghiệm mới lạ, mở ra nhiều xu hướng tìm tòi mới. Tuy nhiên, thơ giai đoạn này cũng xuất hiện nhiều hiện tượng có thể nghiệm đổi mới quá đà, cực đoan, có khi rơi vào phản mĩ cảm, hoặc hình thức cầu kì, rắc rối mà nghèo nàn về nội dung gây ra những tranh luận gay gắt.
Tóm lại, tìm tòi và cách tân trong thơ chưa bao giờ là con đường có giới hạn. Trên mỗi chặng đường, các nhà thơ đều có khát vọng cách tân và nỗ lực không ngừng để có thể tiệm cận đến những giá trị tiêu biểu của thời đại ấy, làm phong phú, thúc đẩy sự phát triển không ngừng của nền thơ ca dân tộc qua các thời đại. Sự nhận diện cách tân trong mỗi chặng đường là cơ sở để nhận ra đặc điểm, diện mạo của thơ chặng đường ấy.
1.2. Tình hình nghiên cứu về những tìm tòi và cách tân trong thơ nữ Việt Nam sau 75
Qua khảo sát bước đầu, chúng tôi nhận thấy số lượng bài nghiên cứu về những tìm tòi và cách tân trong thơ nữ sau 75 khá đa dạng, phong phú, nhưng tập trung chủ yếu vào hai hướng: một là nghiên cứu khái quát chung về những tìm tòi và cách tân của bộ phận thơ nữ sau 75, hai là nghiên cứu về những tìm tòi và cách tân qua một số hiện tượng thơ đơn lẻ hoặc nhóm tác giả/ nhóm tác phẩm.
1.2.1. Những nghiên cứu chung
Sau năm 75, sự bứt phá trong sáng tạo nghệ thuật của các nhà thơ nữ mang đến luồng không khí mới lạ cho một nền thơ vốn dĩ từng đổi mới rất chậm. Số lượng những bài viết, bài nghiên cứu về thơ nữ cũng tăng lên đáng kể tập trung chủ yếu vào những đóng góp trên các phương diện như thể loại, cảm hứng sáng tác, cái tôi trữ tình Có thể kể đến một số công trình nghiên cứu tiêu biểu sau:
Bích Thu trong bài viết “Nỗ lực đổi mới trong thơ nữ đương đại” khẳng định: “Trong thập niên đầu thế kỷ XXI, sự xuất hiện ngày càng nhiều, thậm chí ào ạt của các cây bút nữ trên thi đàn đã tạo thành một hiện tượng của đời sống văn học, làm nóng dần lên không khí văn chương đương đại Trong các thi phẩm của mình, các tác giả nữ đã không ngần ngại bộc lộ tới cùng tư tưởng và cảm xúc của chính mình, ý thức về bản thể và thế giới xung quanh” [126]. Theo tác giả, những tìm tòi và cách tân trong thơ nữ là sự thích ứng với không khí đổi mới, hội nhập trong một “thế giới phẳng” với nhiều liên kết. Để chỉ rõ những đổi mới đó, tác giả phân tích thơ nữ theo hai xu hướng: một là xu hướng tiếp nối truyền thống; hai là xu hướng thể nghiệm, sắp đặt, trình diễn, hướng tới những cái mới và nỗ lực làm mới thơ theo hướng hiện đại. Kết lại bài viết, tác giả khẳng định: “Trên mặt bằng chung, bên cạnh các cây bút nam giới, những người nữ làm thơ đã nỗ lực tìm tòi, thể hiện theo thi pháp truyền thống hay hiện đại đều góp phần làm cho đời sống thi ca được vận hành, cọ xát, va đập trở thành kích thích tố cho sự đổi mới thể loại trữ tình”[126].
Về mảng đề tài thơ tình - một trong những điểm đóng góp ưu trội nhất của thơ nữ, Đoàn Thị Đặng Hương trong “Lời tựa” của Thơ nữ Việt Nam tuyển chọn 1945 - 1995 cũng nhấn mạnh đặc điểm chung của thơ nữ là thường viết về tình yêu. Thơ tình yêu của các nhà thơ nữ trong giai đoạn này mang đến những vẻ đẹp riêng: “Những bài thơ tình của các chị có nhan sắc riêng của mình: dịu dàng, đam mê, mãnh liệt. Chinh phục thế giới vĩ mô, các chị còn chinh phục thế giới vi mô của tình yêu”[42, tr.4]. Vẻ đẹp đó được gợi ra từ truyền thống và hiện đại thể hiện tâm hồn người phụ nữ, phẩm chất thơ nữ đặc biệt: “Đây là tiếng hát của mẹ ta, chị ta, em ta, tiếng hát đó ngân vang xao xuyến mở rộng tâm hồn ta, khiến ta bị bất ngờ không phải bởi một sức mạnh to lớn hay vĩ đại mà bằng một sức mạnh dịu dàng và quyến rũ không gì cưỡng nổi”[42, tr.5].
Hà Minh Đức trong “Một vài suy nghĩ về thơ tình những năm gần đây” in trong Đi tìm chân lý nghệ thuật cho rằng thơ tình của các nhà thơ nữ sau 75 đã có nhiều đổi mới nhờ sự đóng góp tiếp tục của những tên tuổi Xuân Quỳnh, Ý Nhi, Lâm Thị Mĩ Dạ, Phan Thị Thanh Nhàn, Dư Thị Hoàn, Nguyễn Thị Hồng Ngát. “Thơ của các chị là tiếng nói của trái tim, xúc động da diết, chân thực. Nếu xem tình cảm sâu lắng chân thực như một phẩm chất quan trọng của thơ tình thì chính thơ tình của các tác giả nữ dễ ưu trội hơn về phương diện này”[18]. Với nhận xét trên, tác giả không chỉ nêu bật được đặc điểm sáng tác của thơ nữ sau 75 mà còn chỉ ra được những đóng góp mới của các nhà thơ nữ trong mảng thơ tình ở cảm xúc chân thành, giàu tính nữ, mang hơi thở của thời đại mới.
Những đổi mới mạnh mẽ ở mảng đề tài này còn được biểu hiện ngay trong sự chuyển động tiếp nối giữa các thế hệ nhà thơ. Để chỉ ra sự tiếp nối ấy, Nguyễn Lương Ba trong bài “Những chuyển động trong thơ hôm nay, chuyển động như thế nào?” (viết sau buổi hội thảo về đề tài “Những chuyển động trong thơ hôm nay” của Hội nhà văn ngày 17/9/2002) đã có những phân tích, đối sánh rất sâu sắc giữa hai thế hệ nhà thơ nữ là thế hệ từng trưởng thành trong kháng chiến như Ý Nhi, Phạm Thị Ngọc Liên, Lê Thị Kim và thế hệ trẻ mà Vi Thùy Linh là đại diện. Theo đó, tác giả mượn trích dẫn nhận định của nhà thơ Ý Nhi để khẳng định lại những đóng góp của các nhà thơ nữ: “Họ, mỗi người đã góp tiếng nói của riêng mình cho thơ tình yêu hôm nay. Họ yêu thương, họ hạnh phúc, họ đau đớn đến cùng kiệt nhưng không bi lụy. Tôi đọc những bài thơ tình của các chị chưa thấy ai, qua thơ, có ý muốn tự hủy mình vì một mối tình. Sức mạnh tình yêu của họ là sức mạnh của nước” [5], và nhấn mạnh thực tế nhận định này không hẳn còn chính xác bởi thơ hôm nay đã có những chuyển biến mạnh bạo hơn với những bài thơ chất chứa đầy cảm xúc si mê cuồng nhiệt trong tình yêu và tính dục. Nó như “một biến cố bất ngờ vượt ra ngoài những tư tưởng đã được hun đúc, học tập”[5, tr.160], “đầy thách thức, phản ứng lại chính bản thân cô nhưng đồng thời tác động tới xã hội”[5, tr.161]. Mặc dù những nhận xét trên chỉ hướng tới sự lí giải cho Những chuyển động trong thơ hôm nay, nhưng chúng ta cũng có thể xem nó như một gợi ý để tiếp cận đối tượng nghiên cứu ở mảng thơ tình của thơ nữ hôm nay.
Phạm Quốc Ca trong Mấy vấn đề về thơ Việt Nam 1975 - 2000 cũng khẳng định sự xuất hiện mảng đề tài tình yêu cá nhân trong các sáng tác của các nhà thơ Lâm Thị Mỹ Dạ, Phạm Thị Ngọc Liên, Đoàn Thị Lam Luyến, Dư Thị Hoàn, Nguyễn Thị Hồng Ngát, Giáng Vân đã đem đến sự thú vị riêng cho người đọc cảm nhận vì “những tiếng thơ bộc lộ hết mình của phụ nữ thời hiện đại” [7] và “Thơ tình hôm nay tỉnh táo hơn, duy lý hơn. Nó nghĩ về tình yêu hơn là nói cảm xúc yêu đương” [7].
Nghiên cứu về những tìm tòi, cách tân của thơ nữ sau 75, nhiều tác giả chú ý tới sự thay đổi ý thức của cái tôi trữ tình. Đặng Thu Thủy trong Thơ trữ tình Việt Nam từ giữa thập kỉ 80 đến nay, những đổi mới cơ bản, bàn về những đóng góp của thơ trữ tình từ sau những năm 86 đến nay tác giả có nhắc tới các nhà thơ nữ với nhận xét chung chung: “Nếu nhà...Nguyễn Duy với Mẹ và em, Đường xa, Dư Thị Hoàn với Lối nhỏ, Nguyễn Trọng Tạo với Sóng thủy tinh , Gửi người không quen, Phạm Thị Ngọc Liên với Những vầng trăng chỉ mọc một mình, Biển đã mất, Xuân Quỳnh với Hoa cỏ may, Đoàn Thị Lam Luyến với Lỡ một thì con gái Bên cạnh đó là Đặng Đình Hưng với Bến lạ, Ô mai, Dương Tường với Đàn, Hoàng Hưng với Ngựa biển và Người đi tìm mặt, Dương Kiều Minh với Củi lửa, Nguyễn Lương Ngọc với Từ nước, Ngày sinh lại, Nguyễn Quang Thiều với Sự mất ngủ của lửa, Những người đàn bà gánh nước sông... Sự xuất hiện trở lại của một số nhà thơ từng bị vắng bóng nhiều năm trên thi đàn như Hoàng Cầm, Lê Đạt, Trần Dần cũng đem lại những cách tân mới, trong đó có những cách tân do quá khác lạ nên cũng không tránh khỏi những tranh cãi gay gắt từ phía người phê bình, người đọc.
Cho đến những năm đầu thập kỉ 90, tinh thần đổi mới tư duy và nhìn thẳng sự thật thực sự phát huy mạnh mẽ trong đời sống xã hội. Cùng với những biến đổi trong đời sống kinh tế, chính trị là những vấn đề hợp tác đa phương với các nước khác trên thế giới. Cuộc cách mạng khoa học kĩ thuật phát triển như vũ bão tác động sâu sắc với đời sống của người. Với văn học nghệ thuật, mặc dù một số nhà nghiên cứu cho rằng nó có sự đổi mới nhưng cũng không còn như trước, thậm chí có phần chững lại. Về văn xuôi, các tập truyện ngắn mới của những cây bút quen thuộc vẫn tiếp tục được ra mắt nhưng thực sự không có nhiều tác phẩm tạo được dấu ấn trong lòng độc giả. Thơ dường như cũng lắng lại và không có cách tân nào nổi bật. Tuy nhiên thực chất thì nó vẫn đang âm thầm vận động và có xu hướng phát triển sang nhiều chiều hướng mới. Nguyễn Văn Long cho rằng: “Nếu như trước đó, động lực thúc đẩy văn học đổi mới là nhu cầu đổi mới xã hội và khát vọng dân chủ khoảng mười năm trở lại đây văn học quan tâm nhiều hơn đến sự đổi mới chính nó, mặc dù vẫn không đi ra khỏi xu hướng dân chủ hóa. Đây là lúc văn học quay trở về với đời sống thường nhật và vĩnh hằng, đồng thời có ý thức và nhu cầu tự đổi mới hơn bao giờ hết về hình thức nghệ thuật, phương thức thể hiện” [65; tr.13].
Từ giữa những năm 90 trở lại đây, khi nền văn hóa trong nước có sự mở cửa, tăng cường giao lưu và hội nhập quốc tế trên mọi lĩnh vực là lúc chúng ta nhận thấy có những luồng tư tưởng hiện đại tác động mạnh mẽ tới văn học. Người nghệ sĩ không chỉ có thêm nhiều điều kiện thuận lợi để phát huy sự nhanh nhạy, bắt kịp xu thế phát triển của thời đại mà hầu hết các thể loại văn học họ đều có những tìm tòi, đổi mới và sự xuất hiện ngày càng nhiều những tên tuổi mới. Ở truyện ngắn, những tên tuổi đã được khẳng định ở các giai đoạn trước đến giai đoạn này tiếp tục đạt được thành công như Nguyễn Khải, Ma Văn Kháng, Lê Minh Khuê, Đỗ Chu, Nguyễn Huy Thiệp, Tạ Duy Anh Văn học cũng ghi nhận nhiều tên tuổi mới như Võ Thị Hảo, Nguyễn Thị Thu Huệ, Y Ban, Phan Thị Vàng Anh, Nguyễn Ngọc Tư Đối với thơ, sự xuất hiện của những cây bút trẻ sớm trở thành hiện tượng thơ độc đáo, trong đó đặc biệt chú ý tới sự xuất hiện nhiều nhà thơ nữ mới như Vi Thùy Linh, Phan Huyền Thư, Ly Hoàng Ly, Thanh Xuân, Nguyệt Phạm, Trần Lê Sơn Ý, Từ Huy
Sự xuất hiện của đội ngũ thơ nữ đông đảo một phần do ảnh hưởng của các phong trào đấu tranh giải phóng con người, đấu tranh vì bình đẳng hay quyền lợi của phụ nữ trong xã hội đã tác động tới tư tưởng nghệ thuật cũng như ý thức sáng tạo nghệ thuật của các nhà thơ nữ. Một phần do sự phát triển ý thức phái tính, nữ quyền thúc đẩy, cổ vũ các nhà thơ nữ tự tin hơn, dám sống, dám đương đầu với hiện thực và thể hiện mình trong các lĩnh vực nghệ thuật. Sự tiếp nhận nền văn hóa phương Tây, các trào lưu tư tưởng mới của văn học nghệ thuật thế giới cũng đã kích thích các trào lưu đổi mới của thơ Việt, đã mở ra tầm nhìn, tầm văn hóa cho người sáng tác nữ. Bởi thế, ngay cả những thế hệ Ý Nhi, Xuân Quỳnh ở giai đoạn này cũng mở rộng tầm nhìn, nỗ lực đưa đến cho thơ thứ mỹ học mới với cách cảm thụ và đánh giá đời sống phù hợp sự thay đổi thời đại. Điều đó tồn tại như tất yếu không ngừng chảy trong tâm thức người cầm bút nữ.
Như vậy, sự trở về với đời sống thường ngày và mối quan hệ mới của con người trong thời đại văn học mới đã tác động đáng kể tới sự chuyển biến về đề tài, cảm hứng và cái nhìn về con người của văn học nói chung, trong đó có tác giả nữ, có thơ nữ. Với sự nhạy cảm, tinh tế họ viết lên cuộc sống thường nhật với biết bao nỗi lo âu khắc khoải, với những tưởng như vụn vặt, thường nhật không hề nhỏ bé. Tất cả trở thành đề tài ám ảnh, tạo nên chuyển biến trong cảm hứng chung của thơ nữ, trong giọng điệu của thơ nữ.
Nhìn chung về thơ nữ Việt Nam sau 1975
Thơ nữ sau 1975 - sự song hành, tiếp nối các thế hệ
Sau 1975, diện mạo của thơ nữ có nhiều thay đổi. Sự thay đổi này không chỉ được báo hiệu với sự xuất hiện đội ngũ thơ nữ đa dạng, phong phú và có nhiều hiện tượng thơ mới lạ mà còn có sự vận động phát triển tiếp nối giữa các thế hệ nhà thơ trên các chặng đường khám phá mới về nội dung, nghệ thuật.
Từ năm 1975 đến đầu những năm 80, dù đội ngũ thơ nữ chủ yếu vẫn là những gương mặt từng trưởng thành từ kháng chiến chống Mĩ, có những nhà thơ đã khẳng định được chỗ đứng trên thi đàn như Ý Nhi, Xuân Quỳnh, Phan Thị Thanh Nhàn nhưng họ vẫn thực sự nổi bật với những cách tân hiện đại, làm mới thơ về cả nội dung và hình thức nghệ thuật. Năm 2015, khi Ý Nhi được nhận giải thưởng Cikada “Giải thưởng Cikada thành lập năm 2004, lấy theo tập thơ của Harry Martinson – nhà thơ Thụy Điển đoạt giải Nobel năm 1974. Đây là giải thưởng trao cho các nhà thơ vùng Đông Á. Năm 2015, Cikada mở rộng biên độ giải thưởng sang vùng Đông Nam Á và trao giải cho Ý Nhi”.
đánh dấu sự kiện quan trọng của văn học nước ta bởi bà là nhà thơ Việt Nam đầu tiên nhận giải thưởng cao quý này. Ý Nhi được đánh giá cao bởi sự tinh tế trong cách sử dụng từ ngữ, những xúc cảm buồn thương về thân phận cô đơn của con người trong chiến tranh, đặc biệt là của những người phụ nữ. “Thơ chị chiếm đầu bảng trong dòng thơ phái nữ phía Nam ở ta khác biệt ở chỗ nó nghĩ ngợi trở qua trở lại, nó lay thức người đọc. Thơ khiến ta thấu hiểu”(Lê Minh Khuê, “Cuộc độc thoại triền miên”, https://vanhocsaigon.com, ngày 20/6/2020). Hiện nay, thơ của Ý Nhi đã được dịch ra nhiều thứ tiếng trên thế giới, tên tuổi luôn có chỗ đứng nhất định trong ngôi nhà thơ “được các nhà nghiên cứu thơ phương Tây đánh giá là một trong những nhà thơ Việt Nam đương đại tiên phong sau Đổi mới” (Ba Chung Nguyen, Kevin Bowen, 'Six Vietnamese poets', 2002, tr.246) và có tầm ảnh hưởng tới lớp nhà thơ trẻ sau này.
Bước vào con đường thơ trước Ý Nhi, Xuân Quỳnh cũng là hiện tượng nữ đặc biệt. Nhà thơ được xem như người dự báo trước khuynh hướng của những nhà thơ nữ đổi mới. Khi nói về Xuân Quỳnh, nhà nghiên cứu Lại Nguyên Ân trong lời bình “Con người và nhà thơ Xuân Quỳnh” in trong tập Xuân Quỳnh - thơ và đời (Vân Long) đánh giá: “Xuân Quỳnh là hiện tượng thơ rất quan trọng của nền thơ chúng ta. Có lẽ từ thời Hồ Xuân Hương, qua các chặng phát triển, phải đến Xuân Quỳnh, nền thơ ấy mới thấy lại một nữ thi sĩ mà tài năng và sự đa dạng của tâm hồn được thể hiện ở một tầm cỡ đáng kể như vậy, dồi dào phong phú như vậy!” [69, tr.138]. Đến giờ, tên tuổi nhà thơ vẫn in dấu trong lòng người đọc với Sóng, Thuyền và biển, Thơ tình cuối mùa thu, Hoa cỏ may...trong những tâm trạng rất đời thường, chân thật như thơ chính là cuộc đời của nhà thơ.
Một trong những nhà thơ nữ tài hoa ở thế hệ này có những vần thơ tình dịu ngọt phải kể đến là Lâm Thị Mỹ Dạ. Từng nhận được những giải thưởng cao quý về thơ ca và có Tập Khoảng trời hố bom (1972) được dịch, xuất bản ở Mỹ, sau này có tập Đề tặng một giấc mơ gây ấn tượng với người đọc, Lâm Thị Mỹ Dạ đã tạo được dấu ấn mạnh mẽ “Vì cái đẹp/ Vì thơ” (Nguyện cầu), đem tới hướng đi mới cho mạch thơ trữ tình đời tư.
Tiếp tục nỗ lực đổi mới cùng những nhà thơ thế hệ trước, sự xuất hiện những thế hệ nhà thơ mới góp phần tạo dựng lên sắc diện mới cho thơ từ cuối những năm 80. Dư Thị Hoàn là hiện tượng nổi bật. Với chùm 3 bài thơ “Viên mãn”, “Bước chân chậm”, “Trong bệnh viện tâm thần” đăng trên báo Văn nghệ (1987), tiếp đó là sự ra đời của “Lối nhỏ”(1988), Dư Thị Hoàn gây chú ý với một hình thức là lạ, toàn những bài ngắn, câu ngắn, khước từ thể cách và rất nhiều vần điệu, thậm chí không nệ cả những tiết điệu của nhạc tính thông thường, “Y như những lời - nói - thơ, hiểu theo nghĩa: y như những lời nói thường có chất thơ, thế thôi”(Chu Văn Sơn) [101].
Vũ Thị Huyền, tên tuổi dù không thật phát sáng như các đàn chị nhưng vẫn có chỗ đứng trong thi đàn với sự lặng lẽ, ý vị và trầm lắng đến lạ. Đọc thơ Vũ Thị Huyền, người đọc ấn tượng bởi vẻ đẹp đậm chất đồng quê, mang âm hưởng phong vị đồng dao, gợi niềm hoài cảm sâu lắng - là những vẻ đẹp mang giá trị truyền thống mà không phải nhà thơ nào cũng lưu giữ được giữa dòng chảy hiện đại. Bên cạnh đó, thơ Vũ Thị Huyền cũng có xuất hiện tiếng nói mới, tiếng nói ý thức nữ quyền, đòi hỏi được giải phóng, đòi quyền nữ, đó không phải quyền bình đẳng với nam giới mà là quyền thể hiện tiếng nói của nữ giới.
Ngoài ra có những trường hợp thơ nữ hải ngoại cũng góp phần đem đến cho thơ nữ một diện mạo mới trong giai đoạn này như Nguyễn Thị Hoàng Bắc - một nhà thơ có tinh thần phản kháng mạnh mẽ. Nhưng khi bài “Ngọn cỏ” xuất hiện ở tạp chí Hợp lưu năm 1997, đã gây sốc, gây tranh cãi lớn cho người đọc. Không ít người trong giới văn chương phản ứng mạnh vì cho rằng nhà thơ đã đi rất xa, táo bạo (xem thêm bài viết “Nguyễn Thị Hoàng Bắc: Ngọn cỏ”, nguồn https://inrasara.com/2011/07/15).
Từ cuối những năm 90 đến nay, thơ nữ xuất hiện thêm hàng loạt những tên tuổi mới như Vi Thùy Linh, Ly Hoàng Ly, Phan Huyền Thư, Dạ Thảo Phương, Nguyệt Phạm, Thanh Xuân, Trần Lê Sơn Ý, Lynh Bacardy, Từ Huy, Nồng Nàn Phố, Nguyễn Ngọc Tư, Lữ Thị Mai, Như Quỳnh de prelle... Người ta gọi họ là thế hệ nhà thơ nữ trẻ có nhiều thể nghiệm độc đáo. Họ ít có sự ràng buộc bởi truyền thống, có cơ hội tiếp xúc những luồng tư tưởng, xu hướng nghệ thuật mới của thế giới cho nên những tìm tòi, cách tân trong thơ được đẩy xa hơn, khác lạ hơn. Khác lạ ngay cả cách đặt tên tập thơ như: Khát , Linh, Đồng tử, ViLi in love , Phim đôi - tình tự chậm của Vi Thùy Linh, Nằm nghiêng, Rỗng ngực của Phan Huyền Thư, Gửi VB của Phan Thị Vàng Anh, Chữ cái của Từ Huy; Trái cấm, Cởi gió của Nguyễn Phan Quế Mai; Chấm của Nguyễn Ngọc Tư, Đã là một phiền toái của Ng.anhanh, Anh ngủ thêm đi anh em phải dậy lấy chồng của Nồng Nàn Phố, Di chữ của Nguyễn Thị Thúy Hạnh Cách các nhà thơ đưa tác phẩm đến công chúng bạn đọc cũng rất cởi mở và hấp dẫn. Họ thường xuyên trình diễn thơ ở trong nước và nước ngoài kết hợp với nhiều loại hình nghệ thuật, in thơ song ngữ, viết bài quảng bá thơ tới bạn đọc nước ngoài
Poster quảng bá thơ năm 2008 với chủ đề Trình diễn thơ
Một số thành viên nhóm Ngựa trời: Thanh Xuân, Nguyệt Phạm và Phương Lan.
Ly Hoàng Ly trong một buổi trình diễn ở Pháp.
Những tấm hình xếp như tổ ong màu xám là sửa từ chính tấm hình màu
Là một trong những nhà thơ Việt Nam đầu tiên được Trung tâm Văn hóa Việt Nam tại Pháp mời thực hiện một đêm thơ riêng tại Paris mang tên Tình tự Hà Nội, Vi Thùy Linh cũng là nhà thơ đầu tiên thực hiện tour diễn Pháp - Châu Âu. 19 tuổi cho ra đời tập Khát (1999), Vi Thùy Linh được nhiều người đánh giá là hiện tượng thơ nữ trẻ đương đại có lối thơ tràn đầy cái tôi cá nhân không chịu bị khép mình vào bất kì khuôn mẫu nào. Sau đó, khi các tập Linh (2000), Đồng tử (prunelle, 2005), Vili in love (Vili đang yêu, 2008) lần lượt ra đời, chúng đưa đến một thương hiệu thơ Linh - người chuyển động bánh xe của ý thức tính nữ trong thơ Việt sau đổi mới. Thơ Vi Thùy Linh trẻ, lạ, có độ sâu của một tâm nữ. Chu Văn Sơn gọi ViLi là “thi sĩ ái quyền”. Nhà văn Nguyễn Huy Thiệp gọi những sáng tác của ViLi là “hiện tượng Vi Thùy Linh”. Ngô Văn Giá gọi thơ Linh là “những trận bạo động chữ” Song có lẽ do cách Linh tạo ấn tượng để nổi bật mình nên Vi Thùy Linh cũng nhận được khá nhiều ý kiến phê bình, chỉ trích (xem thêm bài viết “Vi Thùy Linh - giữa những quyền lực của lời” của Nguyễn Thanh Tâm nguồn https://toquoc.vn/vi-thuy-linh-giua-nhung-quyen-luc-cua-loi-99107333.htm). Với bản lĩnh của mình, Linh vẫn tiếp bước trên hành trình mà mình đã khai phá để chinh phục được không ít bạn đọc và giới nghiên cứu phê bình văn học.
Phan Huyền Thư cũng là gương mặt nổi bật của lớp nhà thơ này. Không bộc lộ bằng những mặt cảm xúc tràn đầy, mãnh liệt như Vi Thùy Linh nhưng ý thức về cá tính, tính độc lập, cá nhân trong thơ Phan Huyền Thư lại là điểm ưu trội. Luôn đi theo hướng khác để tìm đến biểu tượng thơ độc đáo, mở rộng liên tưởng nhiều hơn, Phan Huyền Thư khuyến khích thế hệ trẻ nên sáng tạo cái mới và nối dài sự sống cho chữ.
Sẵn sàng thích ứng với cái mới, Ly Hoàng Ly là gương mặt trong lớp nhà thơ trẻ năng động, trẻ trung, cá tính. Ngay từ tập đầu tiên Cỏ trắng (1999) người ta thấy xuất hiện một giọng thơ trẻ rất ấn tượng. Đến tập thứ hai Lô Lô ra đời, Ly Hoàng Ly được đánh giá là người mang nhiều hơi thở đương đại với những thể nghiệm của nghệ thuật trình diễn (performance) và sắp đặt (installation). Dù những thể nghiệm đó đã có từ trước nhưng ở Ly Hoàng Ly có những nét thú vị riêng. Ai từng theo dõi Ly Hoàng Ly qua những show trình diễn xếp đặt từ năm 2001 đến năm 2003, có thể thấy nhà thơ rất thành công khi tạo được tính tương tác trong cuộc thể nghiệm- trò chơi- nghệ thuật - đương đại, mở ra xu hướng tư duy thơ rất khác - không chỉ tư duy thơ bằng ngôn ngữ mà còn tư duy bằng chất liệu hội họa. Ly Hoàng Ly tác động tới cách đọc thơ truyền thống khi không chỉ quan tâm tới các thủ pháp ngôn từ mà sắp đặt, tương tác chúng với các hình thể, hội họa
Gần đây (năm 2014), Nồng Nàn Phố từng làm cho độc giả chú ý với sự xuất hiện của tập thơ có cách đặt nhan đề rất lạ: Anh ngủ thêm đi anh, em phải dậy lấy chồng. Ở đó là những bài thơ đầy nữ tính và những hình ảnh bình dị đời thường nhưng được hiện lên qua cái nhìn rất mới, táo bạo và độc đáo. Tập thơ đã chinh phục người đọc không chỉ bằng sự phóng khoáng, gợi mở sức liên tưởng, tưởng tượng trong thơ tự do mà còn ở những vần thơ đầy cảm xúc và rất đàn bà.
Nguyễn Thị Thúy Hạnh được biết đến nhà thơ nữ trẻ có những đổi mới cho thơ ca trong những năm gần đây. Thơ Thúy Hạnh có “những sắc thái lạ đi ra từ trái tim một cách tự nhiên, với những bước chân thanh tân, rất mới của chữ. Chữ như những viên nén chạm đến có thể vỡ ra, găm những mảnh cảm xúc sắc nhọn vào tâm thế của người đọc, phái sinh cộng cảm bùng vỡ” (giới thiệu thơ Nguyễn Thị Thúy Hạnh, ngày 12/6/2018). Thơ Thúy Hạnh mang tâm thế của thế hệ trẻ và chất chứa, đầy ắp suy tư, truyền lửa.
Người đọc cũng chú ý tới hiện tượng Ng.anhanh, một trong số nhà thơ nữ trẻ có bản lĩnh chữ nghĩa hiếm có. Sự ra đời của Đã là một phiền toái (bản in song ngữ tiếng Anh) được giới nghiên cứu phê bình đánh giá cao qua những dòng thơ tự thú. Ở đó, tác giả đi sâu vào cái tôi tác giả với những sự phơi bày bên trong đời sống tâm lý, tình dục. “Mỗi bài thơ dường như là một bản tự phân tích những chấn thương, nghịch lý trong cõi sâu của mình, rồi tự phản biện, tự tranh cãi, rồi van xin Hình như Thơ đã giúp tác giả thoát ra được khỏi “cái lồng” mà lâu nay một con người khác của cô đã “nhốt” cô vào, để cô nói ra được “câu chuyện của tôi” (Theo Hoàng Hưng, “Thơ Ng.anhanh: Đã là một phiên toái (Such a nuisance)”, nguồn ngày 11/8/2019)
Thơ ca nữ miền Nam cũng trở nên sôi động hơn với những tên tuổi mới. Trong đó phải kể đến sự xuất hiện những nhà thơ nữ Thanh Xuân, Phương Lan, Lynh Bacardi, Khương Hà và Nguyệt Phạm... Tên tuổi họ đã rất quen thuộc trên các trang báo tienve.org, vietbao.vn, vannghequandoi.com Năm 2005, năm nhà thơ nữ Sài Gòn đã tập hợp thành nhóm Ngựa Trời và cho ra mắt tập Dự báo phi thời tiết gây ra phản ứng mạnh mẽ trong dư luận vì những bài, những câu mang nặng tính khiêu dâm, đồi trụy, tục tĩu (xem thêm “Tập thơ quái đản của nhóm Ngựa trời”, nguồn https://thotre.com/luutru/include/printview.php?id=471, ngày 9/2/2006) ảnh bìa của tập thơ này cũng rất “quái. Cục Xuất bản cho đình chỉ phát hành bởi ấn phẩm bị chỉ trích là không phù hợp văn hóa Việt Nam, kì quái, tục tĩu Nhưng năm 2014, các nhà thơ ấy đã trở lại trong buổi Performance Poetry với chủ đề Under Southern Sky - Dưới Vòm Trời Phương Nam đem đến những chuyển động mới, thú vị hơn.
Từ sự xuất hiện kế tiếp và song hành của các thế hệ nhà thơ nữ sau 75 có thể thấy thơ nữ có quá trình phát triển liền mạch nhiều sự thay đổi, đổi mới. Để thấy được những thay đổi mới mẻ ấy trong diện mạo của thơ nữ, chúng tôi mượn lời của Nguyễn Việt Chiến: “Họ đã làm nên dòng chảy đầy sức sống sáng tạo và đa dạng của nền thơ đương đại Dù ít hay nhiều họ đã tự tạo cho mình một lối đi riêng. Tinh tế hay bộc trực. Nhẹ nhàng hay mạnh mẽ. Gai góc, dữ dội hoặc dịu êm. Thách thức hoặc khiêm nhường. Thách thức hoặc làm xiếc câu chữ. Tất cả đã tạo cho thơ một dòng chảy liên tục không ngắt quãng” [8].
Những quan niệm thơ
Thơ là gì? Thơ là “cái gì huyền ảo, tinh khiết, thâm thúy, cao siêu” (Xuân Thu nhã tập), “là tiếng nói đầu tiên, tiếng nói thứ nhất của con người khi đụng chạm vào cuộc sống” (Nguyễn Đình Thi) hay “Mỗi khi có gì chất chứa trong lòng, không nói ra, không chịu được thì lại cần thấy làm thơ” (Tố Hữu)? Có nhiều quan niệm lí giải về thơ, nhưng chắc chắn thơ phải là tiếng nói của trái tim, những cảm xúc trào dâng mãnh liệt khó có thể kìm nén, được khởi nguồn từ cảm xúc trong sáng và chân thành nhất của tâm hồn con người trước những biến thiên của cuộc sống. Với một số nhà thơ nữ, quan niệm thơ có đặc biệt hơn và càng về sau càng định hình rõ nét hơn, mới mẻ hơn.
Phạm Thị Ngọc Liên cho rằng thơ “là nhu cầu bộc bạch, dù ở bất cứ vấn đề gì, thầm kín của trái tim, day dứt của số phận hoặc những bức xúc của cuộc sống. Bằng ngôn ngữ văn học, tôi có thể nói lên những cảm xúc tinh tế của niềm vui và nỗi buồn, điều u uất lẫn phút thăng hoa” [26; tr.73].
Nguyễn Thị Thúy Hạnh) cho rằng: “Viết, không phải là một tồn tại mà là lũy thừa của một tồn tại” (Trong lòng chữ), “Thơ ca, chẳng phải sao, trước hết là lời tự sự của/ về thân phận” (Những chuyển động chữ).
Thơ như một nhu cầu tinh thần không thể thiếu trong cuộc sống, nhất là khi tâm hồn con người chai sạn dần vô cảm theo những chiều hướng tiêu cực của lối sống hiện đại. Nhà thơ nữ cần có điểm tựa tinh thần để vượt qua, tìm lại cho mình những rung cảm mới, giúp họ vượt qua những mặc cảm thân phận, khó khăn trong đời sống tinh thần. Trong lần Đọc thơ ở Mỹ (Báo Tuổi trẻ online, ngày 10/7/2001), Ý Nhi tâm sự: “Tôi có cảm tưởng chính trong một đời sống hiện đại căng thẳng, người ta lại cần đến thơ như một sự nương tựa tinh thần”. Thơ chính là bệ đỡ để nhà thơ nương tựa, là cứu cánh hữu ích nhất trong đời sống tinh thần bởi “có những chuyện văn xuôi không nói được, có những cảm giác khó rạch ròi duy lý, tôi lấy thơ ra trút đỡ. Cùng là chữ cả những mỗi bề mỗi khác... Thơ thì gần người nhất, đôi khi cảm xúc lộ ra” (Nguyễn Ngọc Tư - mình thơm nắng thì khỏi cần nước hoa, báo Tiền phong online, số ngày 25/8/2013). Điều đó nằm sâu trong tâm thức của nhiều nhà thơ nữ như “Một cơ chế tinh thần éo le, nghịch lý như vậy phải chăng là bi kịch? Mà suy cho cùng, nó đâu phải của riêng người đàn bà nào, riêng thời nào. Nó là cơn khát muôn thưở. Dù thế nào, với cái Tôi ấy, bình yên đã thành thoáng chốc xa vời, bồn chồn mới là thường hằng vĩnh viễn. Trải qua năm tháng chính nó đã kết tinh thành một quan niệm thơ rất riêng của thi sĩ” (Ý Nhi) [95].
Lê Khánh Mai còn quan niệm về thơ thực hơn khi cho rằng mọi thứ vật chất như cơm ăn, nước uống, tiền bạc không thể đáp ứng được những thơ cần như người bạn sẻ chia, giúp nhà thơ vực đứng dậy lúc khốn cùng: “Tôi đói/ Thơ không thể là cơm ăn/ Tôi khát/ Thơ không biến thành nước uống/ Tôi nợ nần/ Thơ không đem cho tiền bạc/ Nhưng khi tôi rơi xuống hố thẳm khổ đau/ Thơ vực tôi đứng dậy” (Tôi và thơ). Đó là định mệnh nhưng cũng là quyền năng riêng của thơ. Nó xuất phát từ tấm lòng yêu thơ, đôi khi là nguyện ước, sự biết ơn chân thành của nhà thơ trước cuộc đời. Nhà thơ tin, thơ như mái hiên làm con người ấm áp, tin thơ sẽ là tiếng gõ cửa tâm hồn đem đến cho ta những trầm tư, trăn trở, để biết khát khao sự yên bình trong tâm hồn.
Thơ xuất phát từ trái tim nhưng cái đích vươn tới bao giờ cũng là những ý nghĩa về cuộc sống, con người. Thơ dạy con người biết yêu thương, biết trân trọng quá khứ và đem lại sự giàu có cho tâm hồn, cho nhân cách con người nhưng thơ cũng đâu phải con chữ vô nghĩa, đôi khi “Trả giá một đời chỉ gặt hái đôi câu” (Tâm sự thơ ca - Lê Khánh Mai). Thơ có thân phận và bổn phận riêng:
“Tôi cho rằng thơ cũng như con người có bổn phận và thân phận.
Bổn phận thơ là đồng cảm chia sẻ, yêu thương, bênh vực và dự báo.
Thân phận thơ là nghiệm, tìm kiếm chính mình; là nước mắt, tiếng kêu, lời tự thú, sự cứu rỗi; là nỗi khắc khoải không nguôi về ẩn ức trong tiền kiếp và ký thác cho mai sau.
Con người sinh ra, bổn phận cơ bản giống nhau nhưng thân phận thì hoàn toàn cá biệt”
(trích “Bàn về thơ của Lê Khánh Mai”, Văn nghệ quân đội số 609/11-2004)
Quan niệm thơ có bổn phận, thân phận là quan niệm rất khác, đem lại ý nghĩa về sự giải thoát thơ khỏi những mặc cảm về bổn phận, thân phận từng ăn sâu trong tiềm thức con người. Nó cũng đem lại sự sẻ chia, giãi bày và thức dậy người đọc tình yêu và khát vọng vươn lên trước “hố thẳm khổ đau” cuộc đời.
Nếu những năm kháng chiến, thơ được xem là vũ khí đắc lực để nhà thơ tuyên truyền cách mạng thì ngòi bút thơ nữ cũng không xa rời khỏi sứ mệnh, vai trò mang thép vào thơ, mài thơ thành kiếm sắc. Họ viết lên những tâm tư thầm kín nhưng tiếng thơ vẫn là tiếng gọi chung, tiếng nói chung của dân tộc. Hữu Thỉnh trong trường ca Đường tới thành phố từng nói: “Chúng tôi làm thơ ghi lấy cuộc đời mình” thì đó là cuộc đời của thế hệ vừa đánh giặc, vừa làm thơ, của những người luôn cố gắng làm tròn sứ mệnh đối với dân tộc. Nhưng kể từ sau năm 75, khi thơ có xu hướng trở về đời tư cá nhân, thơ trở thành phương tiện hữu ích để các nhà thơ nữ trải lòng và bộc lộ những tâm tư thầm kín, giải tỏa tâm trạng, những ẩn ức từ sâu trong đời sống tâm hồn. Tất cả cung bậc trạng thái cảm xúc ẩn trong tiềm thức, thuộc về bản thể bên trong từng bị che khuất lấp giờ đây được giãi bày một cách thành thực nhất, mạnh bạo nhất mà không bị vây bủa bởi giới hạn nào. Viết giống như “Giải thoát một món nợ truyền kiếp” (Hoàng Kim Dung); “viết là nỗi sống buồn”, “Khi làm thơ, hòa mình vào dòng chảy của thơ, tôi mới được trải hết lòng mình, được cáu giận, yêu thương mà không sợ ai phải buồn phải khổ” (Phan Huyền Thư) hay viết “để giải tỏa những mong đợi/ Con người tôi nếu trừ thơ, không còn là tôi nữa” (Nhà thơ và những lời đối thoại). Đó là những tiếng lòng thành thực nói lên nhu cầu bản năng tự nhiên của con người.
Vậy thì làm thơ là công việc lao động nghệ thuật nghiêm túc giúp các nhà thơ tìm tòi, khám phá ra thứ mỹ học mới, thoát khỏi trạng thái mòn cũ, xơ cứng. Ở đó, các nhà thơ được tự do thể nghiệm và thể hiện cá tính. Vi Thùy Linh cũng nhiều nhà thơ nữ trẻ đã có sự gặp gỡ nhau trong quan niệm này khi cho rằng thơ là phương tiện thể hiện tiếng nói chủ động, táo bạo của nữ giới trong việc giãi bày và thể nghiệm. Bản thân nhiều nhà thơ nữ, đặc biệt nhà thơ nữ trẻ không thích sự nhàm chán, lặp lại nên với họ làm thơ là “làm những điều chưa ai làm, hoặc không ai làm được, khó “nhái” được vì dù cho sự tiên phong mạnh mẽ, tôi đã chịu nhiều thiệt thòi, cô lập, thậm chí là sự tấn công của những người bảo thủ, tư duy cũ”(Vi Thùy Linh) [98].
Không phải ngẫu nhiên Ly Hoàng Ly quan niệm:“Tôi làm nghệ thuật là để khám phá thế giới quanh mình và khám phá chính mình” [54]. Ly Hoàng Ly nhấn mạnh hơn về vai trò của người làm nghệ thuật, nhưng từ đó cũng thấy quan niệm sáng tác của cái tôi tận hiến và dù nó có đi ngược với quan niệm của nhiều cây bút truyền thống, nhưng dễ dàng tạo ra đột phá. Nó cũng lí giải tại sao nhiều cây bút nữ trẻ có thiên hướng đi sâu vào địa phận một thời bị coi như cấm địa của thơ là tính dục, xem tính dục là những nhu cầu đòi hỏi bản năng tự nhiên. Thực chất đằng sau quan niệm ấy là sự thể hiện ý thức sâu sắc về giá trị và tiếng nói khẳng định quyền của phái mình - đó là quyền được yêu, được lựa chọn hạnh phúc, sự bình đẳng, quyền sống của con người.
Từ những nền tảng trong quan niệm về thơ đã có trong thơ ca truyền thống các nhà thơ nữ sau 75 tiếp tục đẩy mạnh, phát triển và đem đến những quan niệm thơ mới mẻ, riêng biệt. Trong đó có một số quan niệm thơ cũng thể hiện sự mạnh mẽ, đầy quyết đoán trong việc đi tìm cái mới, đi tìm một nguồn thơ dào dạt chảy về từ sự nổi loạn trong tâm hồn, đòi hỏi được giải tỏa, được dấn thân, được nói, được tung hoành cùng với lối viết bạo dạn, tự do phóng khoáng. Họ đã tạo ra cho mình những thể nghiệm nghệ thuật mới, mở ra những lựa chọn xu hướng cách tân thơ mới.
Những xu hướng cách tân thơ
Trước 75, trong những điều kiện của văn học thời chiến tranh, văn học sử thi, thơ khó thể hình thành những xu hướng thực sự, nếu có cũng chỉ là một vài hướng tìm tòi. Sau năm 1975, dưới sự tác động của môi trường xã hội, nền văn hóa mới và những điều kiện phát triển mới hướng tới hội nhập thế giới, nền thơ Việt Nam có điều kiện để hình thành nên nhiều xu hướng khác biệt. Việc phân chia các xu hướng thơ phụ thuộc vào nhiều tiêu chí phối, phụ thuộc vào quan điểm, cách phân tích đánh giá của người nghiên cứu.
Nguyễn Bá Thành trong Tư duy thơ hiện đại Việt Nam phân chia thơ từ sau năm 86 đến nay thành các xu hướng: Xu hướng đối thoại dân chủ và cảm hứng phê phán; Xu hướng chối bỏ các thể thơ truyền thống; Xu hướng duy trì các thể thơ truyền thống; Thế tục hóa và dung tục hóa biểu tượng thi ca; Đổi mới về chức năng xã hội và xu hướng thơ chơi [116].
Nguyễn Đăng Điệp đánh giá về tiến trình phát triển của nền thơ hiện đại phân chia thơ ra các xu hướng: Xu hướng viết về chiến tranh qua những khúc ca bi tráng về số phận của dân tộc; Xu hướng trở về với cái tôi cá nhân, những lo âu của đời sống thường nhật; Xu hướng đi sâu vào những vùng mờ tâm linh, đậm chất tượng trưng, siêu thực; Xu hướng hiện đại và hậu hiện đại [14].
Lê Lưu Oanh phân chia thơ trữ tình từ 1975 đến 1990 thành ba xu hướng chủ yếu: sử thi, thế sự đời tư và hiện đại chủ nghĩa [89].
Sự đa dạng, phong phú trong cách phân chia các xu hướng của thơ Việt chứng minh rằng thơ ngày nay càng ngày càng phát triển, đa dạng hóa và hội tụ rất nhiều dòng mạch. Với đề tài nghiên cứu này, nhìn từ sự cách tân của thơ nữ từ sau 75 đến nay chúng tôi tạm xếp thơ vào hai xu hướng chủ yếu: xu hướng cách tân trên nền truyền thống và xu hướng cách tân theo hướng hiện đại
Xu hướng cách tân trên nền truyền thống
Trước khi nhận diện cái mới, bao giờ người ta cũng có sự đối sánh giữa cái cũ - cái truyền thống và cái mới - cái hiện đại. Tuy nhiên không phải cứ cũ là lạc hậu, cần xóa bỏ mà bản thân trong những cái cũ ấy vẫn chứa đựng những cái hay, là tiền đề vươn tới những giá trị mới. Sau 75, nhiều nhà thơ nữ vẫn có xu hướng cách tân dựa trên sự tiếp nối, không đoạn tuyệt với thơ ca truyền thống, có thể kể tên như Xuân Quỳnh, Ý Nhi, Lâm Thị Mỹ Dạ, Đoàn Thị Lam Luyến, Phan Thị Thanh Nhàn, Nguyễn Thị Hồng Ngát... Phần đông là những tác giả từng xuất hiện, trưởng thành trong thơ ca chống Mĩ. Đến thời kì đổi mới, họ không ngừng thay đổi thậm chí quyết liệt về tư tưởng, nội dung cảm xúc. Nhưng ở một số phương diện họ vẫn có sự kế tục những cái cũ, cái đã tìm được, đã thành công và khá định hình trong phong cách sáng tác ở giai đoạn trước Xin xem thêm tài liệu tham khảo số [126]
.
Trên phương diện nội dung có thể thấy các nhà thơ nữ tiếp tục có những tìm tòi, khám phá nguồn cảm hứng hướng tới cuộc sống riêng tư, cá nhân, hạnh phúc đời thường nhưng không đẩy tới cái cực đoan mà vẫn hướng tới sự hòa nhập. Xuân Quỳnh là hiện tượng tiêu biểu. Trước 75, người đọc phát hiện ở nhà thơ một cái tôi nồng nàn, say đắm, thiết tha trong tình yêu nhưng thường gắn cái nhìn trong trẻo, trong sáng, đầy tin tưởng. Cái tôi tìm đến cái tuyệt đối, tuyệt đích, hòa nhập cộng đồng một cách dễ dàng (Chồi biếc, sóng). Sau 75, sự ý thức về thân phận, về khát khao, về mất mát, về suy tư đã khiến cái tôi ấy thấm thía sự từng trải hơn. Nó có cả nỗi đau, mong manh hơn trước đây, mặc dù đích cuối cùng vẫn đẩy tới khát khao hạnh phúc:
“Khắp nẻo dâng đầy hoa cỏ may/ Áo em sơ ý cỏ găm đầy/ Lời yêu mỏng mảnh như màu khói,/ Ai biết lòng anh có đổi thay?”
(Hoa cỏ may)
“Em đâu dám nghĩ là vĩnh viễn/ Hôm nay yêu, mai có thể xa rồi/ Niềm đau đớn tưởng như vô tận/ Bỗng có ngày thay thế một niềm vui”
(Nói cùng anh)
Sự lựa chọn xu hướng cách tân thơ không phụ thuộc vào độ tuổi, thế hệ mà phụ thuộc vào cảm quan của người sáng tác bởi theo xu hướng này còn cả những cây bút mới xuất hiện sau 75 như Lê Thị Mây, Vũ Thị Huyền, Phạm Vân Anh, Đường Hải Yến, Lê Mỹ Ý, Chu Thị Minh Huệ, Nguyễn Thanh Vân, Trang Thanh, Tuyết Nga, Lê Ngân Hằng, Ngô Thị Hạnh, Nguyễn Phan Quế Mai... Ở họ cũng có những cách tân đáng kể trên nhiều phương diện nhưng ở những thể nghiệm ấy vẫn thấy có những yếu tố không tách rời với truyền thống. Họ vẫn phát hiện, khám phá ra những mặt phức tạp, đa diện của cái tôi đa ngã nhưng trong đó vẫn nổi bật lên là sự đào sâu vào tâm trạng, những nỗi niềm sâu kín bên trong con người:
“Con gái của mẹ sẽ lớn lên/ Mẹ thương vì con sẽ làm đàn bà giống mẹ/ Mẹ thương vì con sẽ chết đi sống lại vào những lần rặn đẻ/ Những lần con ứa máu nhưng mạnh mẽ nhiều hơn”
(Bởi con là đàn bà - Nồng Nàn Phố)
Thơ nữ vẫn tiếp tục đi vào những vấn đề thân phận của người phụ nữ ở đời sống hiện tại qua cảm nhận giàu tính nữ:
“Những thân phận tơ trời/ Thân phận gió/ Thân phận hương hoa/ Thân phận giọt sương/ Mỏng manh thế làm sao mang vác”
(Bi kịch của riêng tôi – Lâm Thị Mỹ Dạ)
Nếu những giai đoạn trước, các nhà thơ nữ cũng đã nhận thức được bi kịch của mình nhưng họ không thể hiện được thành tiếng nói trực tiếp, phải ẩn mình thì đến giai đoạn sau 75, tiếng nói đó trở nên mạnh mẽ hơn dù ít nhiều cũng chưa thực sự thoát khỏi ý thức thân phận nhưng trong cách chấp nhận bi kịch chúng ta vẫn thấy sự tự chủ, tự tin của nữ giới để đi đến sự giải phóng khỏi những tường thành do chính mình dựng lên và tự kêu g...ưa có tiếng nói riêng, là đối thoại với nhận thức cũ, với quan niệm như lẽ thường:
“Quá khứ với hai lần nước mắt/ Giọt lệ này ai chắc sẽ lau khô”
(Thế chấp - Lâm Thị Mỹ Dạ)
Biểu hiện cái tôi cá thể với những day dứt trước hiện thực đời sống, và khát tìm những chân lý sống, giọng thơ Dư Thị Hoàn có xu thế nghiêng về đối thoại. Vậy đâu là giá trị thật của cuộc sống? Tôi là ai trong cuộc sống này?
“Người là ai?/ Uy nghiêm trên ngai vàng tín ngưỡng/ Có giây phút nào người ái ngại/ Đất đai đóng khung vì người/ Tình yêu chật hẹp vì người”
(Tổ quốc)
Đối diện với tổ quốc, giọng đối thoại của Dư Thị Hoàn thể hiện băn khoăn bởi Tổ quốc là nơi tâm hồn chị được nuôi dưỡng trong những tháng ngày bình yên nhưng cũng là nơi chật hẹp với những bộn bề lo toan. Giọng điệu đối thoại đã đem đến cảm xúc chân thành, giản dị và sau đó là những bài học triết lí nhân sinh, bài học thái độ ứng xử của con người.
Thế giới bên trong người nữ thật phức tạp, mâu thuẫn, nhưng từ đó nó hình thành nên tính đa giọng trong thơ nữ. Tính chất ấy không chỉ làm phong phú hơn cho cảm xúc của cái tôi trữ tình mà còn giúp cho các nhà thơ nữ nhận thức, khám phá và giải phóng chính mình. Trong cái nhìn tổng quát, sự đan xen nhiều giọng điệu ở thơ nữ đã góp cho thơ nữ sau75 những cách tân độc đáo, thể hiện sự đổi mới trong tư duy thơ, khẳng định cái tôi mới mẻ và riêng biệt.
TIỂU KẾT CHƯƠNG 4
Từ những đổi mới trong nội dung, thơ nữ sau 75 đã có những tìm tòi, cách tân trong hình thức nghệ thuật với những thể nghiệm mới lạ và độc đáo.
Về cấu trúc, đa số những tác phẩm trong thơ nữ sau 75 có xu hướng tự do hóa cả hình thức bên ngoài lẫn bên trong, góp phần mở ra chiều nghiêng cho hình ảnh, khiến các câu chữ trở nên giàu sức gợi. Có thể thấy một số thể nghiệm dạng cấu trúc tiêu cho sự tìm tòi và cách tân hình thức của thơ nữ như: ghép mảng hội thoại, xóa từ hủy từ, thị giác Qua đó, các nhà thơ nữ đã thể hiện được những cảm xúc, tâm trạng, sự phức tạp của đời sống và cách nhìn mới về cuộc đời.
Trong những thể nghiệm ngôn ngữ, thơ nữ không chỉ có xu hướng lạ hóa ngôn từ trong cách kết hợp từ ngữ độc đáo, những từ địa phương, từ thuật ngữ chuyên ngành khác mà còn sử dụng nhiều ngôn từ mang màu sắc phái tính. Họ bắt đầu có những lối viết táo bạo, mới mẻ, hiện đại tách dần khỏi thơ truyền thống, tạo nên xu hướng mới cho thơ.
Thơ nữ sau 75 đặc biệt thành công khi xây dựng và kiến tạo hình ảnh nghệ thuật. Từ những hình ảnh rất quen thuộc trong thơ ca truyền thống, các nhà thơ nữ đã giới hóa một số hình ảnh để chúng sinh thêm những ý nghĩa, biểu tượng mới về thân phận, tình yêu Bên cạnh đó, họ cũng nỗ lực sáng tạo ra những hình mới, khác lạ khi viết về những vấn đề cá nhân, tính dục... Chúng không chỉ gợi ra những đặc trưng rất riêng trong thơ nữ mà còn góp phần nói lên cách nhìn mới mẻ của nhà thơ nữ trước thời đại mới văn học.
Giọng điệu thơ cũng là yếu tố then chốt góp phần làm nên những nét đặc sắc trong diện mạo thơ nữ sau 75. Với sự xuất hiện đa dạng, phong phú và thay đổi linh hoạt khi thì trầm tư sâu lắng, khi thì giễu nhại, khi thì đối thoại giúp cho nhà thơ dễ dàng thể hiện những chiêm nghiệm, triết lý, suy tư sâu sắc của nhà thơ về cuộc đời, nhân sinh, về tình yêu hạnh phúc
KẾT LUẬN
1. Sự phát triển của thơ Việt là hành trình dài. Trên hành trình ấy, các nhà thơ luôn không ngừng tìm tòi, đổi mới để khẳng định mình, đem đến những thành tựu nghệ thuật mang tính đột phá, mở ra nhiều xu hướng phát triển mới cho thơ Việt. Sự phát triển mạnh mẽ của thơ nữ sau 75 với những thành tựu của nó cũng là một hiện tượng tạo có những giá trị nghệ thuật, đóng góp đáng kể vào sự phát triển của nền thơ ấy.
So với thơ nữ những giai đoạn trước, thơ nữ giai đoạn sau 75 có sự phát triển vượt bậc hơn cả. Nó vừa mang đặc điểm chung của nền thơ đương đại, vừa có những nét mới mẻ riêng biệt làm thay đổi cách nhìn nhận về sự phát triển của bộ phận thơ nữ. Tìm hiểu về tìm tòi và cách tân trong thơ nữ không chỉ để khẳng định những đóng góp thành công của thơ nữ mà còn giúp người đọc hiểu đầy đủ hơn, toàn diện hơn về thành tựu nền thơ Việt Nam hiện đại. 2. Sau 1975, thơ nữ có nhiều đổi mới trong nhận thức và tư duy nghệ thuật chính bởi các nhà thơ nữ đã nỗ lực tìm tòi và cách tân rất nhiều. Chưa bao giờ ta thấy một diện mạo thơ nữ sinh động và phong phú như vậy. Sự xuất hiện đông đảo những hiện tượng thơ nữ mới lạ, độc đáo cùng với sự song hành tiếp nối giữa các thế hệ mang lại cho đội ngũ thơ nữ sự đa dạng và vượt trội hơn so với thơ nữ các giai đoạn trước. Các nhà thơ cũng nỗ lực thể hiện được những nét riêng trong quan niệm thơ với ý thức sâu sắc về giá trị và tiếng nói khẳng định quyền của phái mình, ý thức tìm tòi và thể hiện một mỹ học mới giúp các nhà thơ tự tin thể nghiệm, tự tin thể hiện cá tính. Với ý hướng khát vọng đổi mới ấy, thơ nữ có thêm nhiều thể nghiệm mới mẻ, độc đáo và được bộc lộ ra bên ngoài theo hai xu hướng cách tân chính: cách tân trên nền truyền thống, cách tân theo hướng hiện đại.
3. Trên phương diện nội dung, sự khám phá những nguồn cảm hứng mới về đời thường, về phận vị người nữ, về tình yêu của các nhà thơ nữ đem tới nguồn sống mới cho thơ nữ. Ở đó, người đọc cảm nhận được những khoảng sâu tâm hồn, những cảm xúc buồn thương, trăn trở, suy tư, những khát khao và cả những âu lo, tuyệt vọng, nuối tiếc được phơi trải thành thực trên từng trang giấy. Người đọc cũng hiểu sâu hơn về vẻ đẹp của đời sống tâm hồn, hiểu hơn về những đổi mới trong tìm tòi sáng tạo của họ.
Cái tôi trữ tình trong thơ nữ cũng có sự chuyển đổi vị thế mới, phong phú hơn ở dạng thức: từ cái tôi công dân đến cái tôi cá thể, từ cái tôi tòng thuộc đến cái tôi tự chủ, từ cái tôi đơn nhất đến cái tôi đa ngã. Sự chuyển đổi ấy không chỉ góp phần giúp các nhà thơ nữ biểu hiệu những tâm tư, tình cảm mang nét riêng của giới nữ mà chúng còn làm nên sắc thái đa diện của hình tượng cái tôi trong thơ nữ sau 75.
4. Đi liền với những đổi mới trong nội dung, thơ nữ sau 75 cũng có nhiều tìm tòi và cách tân trong nghệ thuật. Về cấu trúc thơ, các nhà thơ nữ có nhiều thể nghiệm mới trong các kiểu cấu trúc hội thoại, gián đoạn, thị giác... dựa trên xu hướng tự do hóa cả ở cấu trúc bên ngoài lẫn cấu trúc bên trong bài thơ. Về ngôn ngữ, thơ nữ sử dụng nhiều ngôn ngữ lạ hóa, hiện đại thể hiện trung thực, gần gũi những mảng hiện thực của đời sống mới. Nhưng xưa nay, thơ là tình cảm cảm xúc, là sự phản ánh tâm hồn con người, bởi thế chúng ta dễ dàng cảm nhận được yếu tố mới mẻ và làm nên đặc trưng ngôn ngữ của thơ nữ chính là màu sắc phái tính. Nó giúp thơ nữ thoát khỏi tiếng nói chung, từ đó phát huy sức sáng tạo của các nhà thơ nữ. Về hình ảnh, thơ nữ có sự đổi mới hình ảnh với hai xu thế cách tân chủ yếu là làm mới những hình ảnh quen thuộc, gần gũi với đời sống, tam hồn nữ giới và sáng tạo một số hình ảnh mới hoàn toàn đem đến những nét nghĩa biểu trưng, biểu tượng mới, mở ra trường liên tưởng, tưởng tượng phong phú cho hình ảnh thơ. Và để có thể bộc lộ hết tâm tư tình cảm, cảm xúc, thấy hết được vẻ đẹp tâm hồn và những khát vọng đổi mới, thơ nữ tìm đến chất giọng riêng nhưng hết sức mới mẻ, đó là giọng trầm tư sâu lắng, giọng giễu nhại và giọng đối thoại. Đây không phải là những giọng điệu chỉ có ở thơ nữ nhưng nhờ những giọng điệu này mà thơ nữ thể hiện được “tông” chính trong sự tìm tòi và cách tân giọng điệu. Tất cả điều đó làm cho thơ nữ không rơi vào đơn điệu mà còn bộc lộ được những phẩm chất mới, táo bạo, cá tính của các nhà thơ.
5. Khi thực hiện đề tài để chỉ ra cụ thể hơn những tìm tòi và cách tân trong thơ nữ sau 75, luận án có sự đối sánh với những thành tựu nghệ thuật của thơ nữ những giai đoạn trước 75, đôi chỗ đối sánh với thơ của các tác giả nam sau 75.
Luận án mong muốn khẳng định đó là kết quả của cả quá trình thay đổi khó khăn trong ý thức, quan niệm của các nhà thơ nữ, đồng thời tìm ra bản chất chính là giá trị khác, giá trị mới hợp với thời đại mới, khẳng định thơ nữ cũng có vẻ đẹp riêng. Qua đó khẳng định được vai trò, vị thế của các nhà thơ nữ sau 75 trong vai trò sáng tạo mới.
Luận án không nhằm đề cao bộ phận thơ này, hạ thấp bộ phận kia vì mỗi bộ phận thơ đều có vị trí, những đóng góp riêng cho nền thơ đương đại Việt Nam. Sự đối chiếu so sánh chủ yếu để người đọc có được cái nhìn, đánh giá hợp lý hơn, thuyết phục hơn những tìm tòi và cách tân của các nhà thơ sau 75 cho sự phát triển của thơ hôm nay.
6. Thơ nữ sau 75 với nhiều hiện tượng thơ mới lạ có những nét phá cách và thể nghiệm độc đáo, họ tạo nên những cuộc tranh luận sôi nổi về việc làm mới thơ. Tuy nhiên chúng ta cũng không thể những thành công nghệ thuật mà thơ nữ đạt được. Đến nay, những đóng góp đó được nhiều người trong giới nghiên cứu phê bình chú ý và phát triển trong nhiều công trình nghiên cứu, bài viết trên báo, tạp chí chuyên ngành, báo mạng cả trong và ngoài nước. Nối tiếp những nghiên cứu đã có về thơ nữ, luận án này là một kết quả nghiên cứu về thơ nữ nhưng kết quả đó không phải sự đóng lại và giải quyết được tất cả những điều còn gây tranh luận, những điều bỏ ngỏ chưa giải đáp. Trên cái nhìn toàn cảnh, khái quát chung của những tìm tòi cách tân ấy, thơ nữ sau 75 cũng cần được phát triển bằng những công trình nghiên cứu sâu hơn trong tiến trình vận động của thơ Việt Nam đương đại như:
- Nghiên cứu cụ thể hơn về vị trí đóng góp của mỗi thế hệ thơ nữ sau 75
- Nghiên cứu thơ nữ sau 75 đến nay trong sự phát triển của ý thức phái tính, nữ quyền...
- Nghiên cứu cụ thể đặc điểm, thành tựu của một số nhà thơ mới xuất hiện, tiêu biểu trong những năm gần đây.
- Nghiên cứu sự vận động đổi mới của thơ nữ sau 75 trong các phương diện khác của nội dung, nghệ thuật...
v.v...
Mặc dù những điều đó ít nhiều cũng có đề cập tới trong luận án nhưng có lẽ do còn quá nhiều vấn đề được gợi ra xung quanh những tìm tòi, cách tân của thơ nữ và luận án cũng có những nhiệm vụ nghiên cứu riêng nên người viết chưa có điều kiện khai thác sâu rộng hơn vào từng phương diện.
Chúng tôi hi vọng kết quả nghiên cứu sẽ góp thêm một cái nhìn sâu hơn, toàn diện hơn về sự đổi mới của thơ nữ, hứa hẹn nhiều con đường để nghiên cứu sâu hơn về các hiện tượng thơ, bổ sung thêm cho quá trình nghiên cứu thơ nữ sau 75 tiếp nối.
DANH MỤC CÁC CÔNG TRÌNH NGHIÊN CỨU CỦA TÁC GIẢ
LIÊN QUAN ĐẾN ĐỀ TÀI LUẬN ÁN
1. Lê Thùy Nhung (2017), “Chất đồng quê và niềm hoài niệm cố hương trong thơ Vũ Thị Huyền”, Diễn đàn văn nghệ Việt Nam, số 271 tháng 8, tr.7 - 10.
2. Lê Thùy Nhung (2019), “Ý Nhi và hành trình truy vấn tinh thần”, Diễn đàn văn nghệ Việt Nam, số 297 tháng 10, tr. 21 – 22.
3. Lê Thùy Nhung (2019), “Một số tìm tòi, đổi mới thi ảnh trong thơ nữ Việt Nam sau 1975”, Tạp chí khoa học Trường ĐH Hồng Đức, số 46 tháng 10, tr.56 - 66.
4. Lê Thùy Nhung (2019), “Triết lí hiện sinh trong thơ Lê Khánh Mai”, (12/36), Tạp chí khoa học Trường ĐH Thủ đô Hà Nội, số 36 tháng 12, tr.24 – 31.
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO
I. Tài liệu tham khảo tiếng Việt
Trần Hoài Anh (2015), “Khuynh hướng hiện sinh trong thơ nữ Việt Nam thời kỳ đổi mới”, Tạp chí Sông hương (320), tr.10-15.
Vũ Tuấn Anh (1997), Nửa thế kỉ thơ Việt Nam 1945-1995, Nxb Khoa học Xã hội, Hà Nội.
Trần Thị Việt Anh, Bùi Kim Anh, Phi Tuyết Ba, Thuý Bắc, Thành Đức Trinh Bảo (2003), Thơ tình của các nhà thơ nữ, Nxb Hội nhà văn, Hà Nội.
Lại Nguyên Ân (2003), 150 thuật ngữ văn học, Nxb Đại học quốc gia Hà Nội, Hà Nội.
Nguyễn Lương Ba (2003), “Chuyển động trong thơ hôm nay, chuyển động như thế nào?”, Tạp chí Thơ, số mùa xuân, P.O Box 1745 Garden Grove, CA 92842, tr.157-166.
Lê Huy Bắc (2015), Văn học hậu hiện đại lí thuyết và tiếp nhận, Nxb Đại học Sư phạm, Hà Nội.
Phạm Quốc Ca (2003), Mấy vấn đề về thơ Việt Nam 1975 - 2000, Nxb Khoa học Xã hội, Hà Nội.
Nguyễn Việt Chiến tuyển chọn giới thiệu (2016), Thơ Việt Nam tìm tòi và cách tân 1975 – 2015, Nxb Hội nhà văn & Công ty Văn hóa Đất Việt, Hà Nội.
Nguyễn Việt Chiến (2010), “Ly Hoàng Ly vẻ đẹp của thơ đọc chậm”, nguồn ngày 22/03.
Hà Thị Dung (2015), Đặc điểm thơ nữ thế hệ chống Mỹ cứu nước, Luận án tiến sĩ Văn học, Trường ĐH Khoa học Xã hội & Nhân văn, ĐH Quốc gia Hà Nội, Hà Nội.
Trần Quang Đạo (2004), “Cái tôi mang tính tự sự - một đặc điểm của thơ trẻ sau 1975”, Nghiên cứu văn học (5), tr 110 – 119.
Nguyễn Đăng Điệp (2002), Giọng điệu thơ trữ tình, Nxb Văn học, Hà Nội.
Nguyễn Đăng Điệp (2006), “Thơ Việt Nam sau 1975 - một cái nhìn toàn cảnh”, Nghiên cứu văn học (11), tr 29 – 44.
Nguyễn Đăng Điệp (2014), Thơ Việt Nam hiện đại, tiến trình và hiện tượng, Nxb Văn học, Hà Nội.
Nguyễn Đăng Điệp (2006), “Vấn đề phái tính và âm hưởng nữ quyền trong văn học Việt Nam đương đại”, Hội thảo Quốc tế Văn học Việt Nam trong bối cảnh giao lưu văn hóa khu vực và quốc tế, tháng 11, Viện Văn học & Harvard-Yenching Institute Hoa Kỳ, nguồn dẫn theo https://phebinhvanhoc.com.vn/van-de-phai-tinh-va-am-huong-nu-quyen-trong-van-hoc-viet-nam-duong-dai, ngày 20/4.
Nguyễn Đăng Điệp (2006), Vọng từ con chữ, Nxb Văn học, Hà Nội.
Hà Minh Đức chủ biên (1995), Lí luận văn học, Nxb Giáo dục, Hà Nội.
Hà Minh Đức (2000), “Một vài suy nghĩ về thơ tình những năm gần đây”, Đi tìm chân lý nghệ thuật, Nxb Văn học, Hà Nội.
Hà Minh Đức (1997), Thơ và mấy vấn đề trong thơ Việt Nam hiện đại, Nxb Giáo dục, Hà Nội.
Ngô Văn Giá (2011), “Thơ Vi Thùy Linh - những trận bạo động chữ”, Tạp chí nhà văn (5).
Nhiều tác giả (1998), Anh Thơ, Lâm Thị mỹ Dạ, Vân Đài, Nxb Văn nghệ, HCM.
Nhiều tác giả (2003), Các nhà thơ nữ Việt Nam, sáng tác và phê bình, Nxb Giáo dục, Hà Nội.
Nhiều tác giả (2000), Một số vấn đề về văn học Việt Nam, Trường ĐH Đà Lạt & Nxb Văn học.
Nhiều tác giả (1994), Những gương mặt thơ mới, Nxb Văn học, Hà Nội.
Nhiều tác giả (1998), Tạp chí Thơ, số mùa thu, P.O Box 1745 Garden Grove, CA 92842.
Nhiều tác giả (2003), Tạp chí Thơ, số mùa xuân, P.O Box 1745 Garden Grove, CA 92842.
Nhiều tác giả (1994), Thơ nữ Việt Nam 1945 – 1995, Nxb Văn học, Hà Nội.
Nhiều tác giả (2000), Tuyển tập thơ tác giả nữ Việt Nam, Nxb Phụ nữ, Hà Nội.
Nhiều tác giả (2002), 26 nhà thơ Việt Nam đương đại, Tân Thư xuất bản, Hoa Kì.
Ngô Hương Giang (2014), “Tiếp nhận phân tâm học ở Việt Nam 1975 đến nay nhìn từ lí thuyết và ứng dụng”, nguồn ngày 16/08/2012.
Hồ Thế Hà (2017), “Khoảng trời biếc xanh trong thơ Lâm Thị Mĩ Dạ”, nguồn ngày 01/03/2017.
Hồ Thế Hà (2003), “Khuynh hướng hiện đại trong thơ Lâm Thị Mỹ Dạ”, Văn học (3).
Hồ Thế Hà (2018), Các chuyên luận “Cái tôi trữ tình, Tiềm năng của ngôn ngữ trong sáng tạo và tiếp nhận thơ ca, thơ Xuân Quỳnh, Lâm Thị Mỹ Dạ, Lê Khánh Mai”, Thơ Việt Nam hiện đại thi luận và chân dung, NXB Hội nhà văn, Hà Nội
Lê Bá Hán, Trần Đình Sử, Nguyễn Khắc Phi (2000), Từ điển thuật ngữ văn học, Nxb Đại học Quốc gia Hà Nội, Hà Nội.
Nguyễn Văn Hạnh, Huỳnh Như Phương (1999), Lý luận văn học, vấn đề và suy nghĩ, Nxb Giáo dục, Hà Nội.
Nguyễn Văn Hạnh (1998), “Suy nghĩ về thơ Việt Nam từ sau 1975”, Kỷ yếu hội thảo quốc tế Việt Nam học lần thứ nhất, Trường ĐH Quốc gia Hà Nội, tr.304-311.
Trần Ngọc Hiếu (2013), Lý thuyết trò chơi và một số hiện tượng thơ Việt Nam đương đại, Luận án Tiến sĩ Ngữ văn, Trường ĐHSP Hà Nội, Hà Nội.
Trần Ngọc Hiếu (2005), “Tìm hiểu một quan niệm nghệ thuật về ngôn từ trong thơ Việt đương đại”, in trong Văn học Việt Nam sau 1975 - Những vấn đề nghiên cứu và giảng dạy, Nxb Giáo dục, Hà Nội.
Đổ Đức Hiểu (2000), Thi pháp hiện đại, Nxb Hội nhà văn, Hà Nội.
Nguyễn Thái Hòa (2005), Từ điển tu từ - phong cách - thi pháp học, Nxb Giáo dục, Hà Nội.
Hoàng Hưng (2014), “Một cái nhìn lướt về thơ Việt Nam hiện đại” bản dịch, Cho ngày hôm qua, Mười hai nhà thơ Việt Nam , nguồn ngày 8/01.
Đoàn Thị Đặng Hương (1994), “Lời tựa”, Thơ nữ Việt Nam 1945 - 1995, Nxb Văn học, Hà Nội.
Inrasara (2008), Song thoại với cái mới (tiểu luận), Nxb Hội Nhà văn, Hà Nội.
Inrasara (2009), “Thơ đổi mới, một khởi đầu mới”, Tạp chí Sông hương (245 và 256).
Inrasara (2015), Thơ nữ trong hành trình cắt đuôi hậu tố nữ & 20 tiếng thơ nữ quyền đương đại (tiểu luận và phê bình), Nxb Hội nhà văn, Hà Nội.
Inrasara (2011), “Thử đặt nền tảng cho phê bình thơ Việt đương đại”, Tạp chí Sông hương (1).
Nguyễn Thụy Kha (2009), “Thơ Phan Huyền Thư - nằm nghiêng về cách tân”, Tạp chí Sông hương (tháng 5/168), tr.02-03.
Châm Khanh, “Phụ nữ và văn chương”, nguồn https://www.tienve.org/home/literature/viewLiterature.do;jsessionid=C78C5F0C054040493D13EB50C7171BFF?action=viewArtwork&artworkId=279
Trần Thiện Khanh (2010), “Quy ước diễn ngôn văn chương giai đoạn 1986 - 1991”, Sông hương (254).
Phan Khôi (1929), “Lại nói về vấn đề văn học với nữ tánh”, Phụ nữ tân văn (6), Sài Gòn.
Phan Khôi (1929), “Văn học với nữ tánh”, Phụ nữ tân văn (6), Sài Gòn, tr.40 – 45.
Lê Minh Khuê (2018), “Ý Nhi cuộc đối thoại triền miên”, nguồn https://vanhocsaigon.com/y-nhi-cuoc-doc-thoai-trien-mien/, ngày 09/04.
Trần Thị Kim (2015), Thơ nữ Việt Nam hiện đại (Từ đầu TK XX đến nay), Luận án tiến sĩ Văn học, Viện Khoa học Xã hội Việt Nam, Hà Nội.
Trần Hoàng Thiên Kim (2012), “Thơ nữ trẻ đương đại quan niệm, thể nghiệm và xu hướng”, dẫn theo https://www.baoquangbinh.vn/van-hoa-van-nghe/201203/Tho-nu-tre-duong-dai-Quan-niem-the-nghiem-va-xu-huong-2098566, ngày 29/3.
Trần Hoàng Thiên Kim, “Thơ nữ trẻ đương đại và hành trình tìm kiếm cái tôi mới”, dẫn theo https://bichkhe.org/home.php?cat_id=147&id=4064
Lady Borton, Thanh Bình, Minh Hà (2008), Thơ nữ Việt Nam từ xưa đến nay (Tuyển tập song ngữ), Nxb Phụ nữ, Hà Nội.
Đông La (2001), Biên độ của trí tưởng tượng, Nxb Văn học, Hà Nội.
Đinh Trọng Lạc (1994), 99 phương tiện và biện pháp tu từ tiếng Việt, Nxb Giáo dục, Hà Nội.
Phạm Khắc Lãm (2015), Việt Nam sau 1975 - Đôi điều cảm nhận, Nxb Trẻ, TP HCM.
Mã Giang Lân, Hồ Thế Hà (1993), Sức bền của thơ – Tiểu luận phê bình, Nxb Hội nhà văn, Hà Nội.
Mã Giang Lân, Bùi Việt Thắng (2004), Văn học Việt Nam sau 75, Nxb ĐHQG, Hà Nội.
Mã Giang Lân (2000), Tiến trình thơ Việt Nam hiện đại, Nxb Giáo dục, Hà Nội.
Phong Lê, Vũ Văn Sỹ, Bích Thu, Lưu Khánh Thơ (2002), Thơ Việt Nam hiện đại, Nxb Lao động, Hà Nội.
Nguyễn Văn Long (2005), “Vài phương diện đổi mới thi pháp thơ từ sau tháng Tám năm 1945”, Phụ san báo Văn nghệ (25).
Nguyễn Văn Long (2003), Văn học Việt Nam trong thời đại mới, Nxb Giáo dục, Hà Nội.
Nguyễn Văn Long (2009), Văn học Việt Nam sau 1975 và việc giảng dạy trong nhà trường, Nxb Giáo dục Việt Nam, Hà Nội.
Nguyễn Văn Long, Lã Nhâm Thìn đồng chủ biên (2006), Văn học Việt Nam sau 1975 những vấn đề nghiên cứu và giảng dạy, Nxb Giáo dục, Hà Nội.
Nguyễn Văn Long (2003), Tiếp cận và đánh giá văn học Việt Nam sau cách mạng tháng Tám, Nxb Giáo dục, Hà Nội.
Vân Long (2006), Xuân Quỳnh - thơ và đời, Nxb Phụ nữ, Hà Nội.
Phương Lựu (2001), Lí luận phê bình văn học phương Tây thế kỉ XX, Nxb Văn học, Hà Nội.
Phương Lựu (2011), Lí thuyết văn học hậu hiện đại, Nxb Đại học Sư phạm, Hà Nội.
Phương Lựu (1998), “Suy nghĩ về đặc điểm nữ văn sỹ”, Tác phẩm mới (3).
Trần Hạnh Mai (2011), “Cảm hứng lạc loài trong văn nữ đương đại”, Nghiên cứu văn học (10).
Trần Hạnh Mai (2012), “Văn xuôi nữ giới trong văn học đương đại VN”, Kỉ yếu Diễn đàn văn học Á Phi Mỹ la tinh, In jeon- Hàn Quốc.
Nguyễn Đăng Mạnh (2000), Con đường đi vào thế giới nghệ thuật của nhà văn, Nxb Giáo dục, Hà Nội.
Hội nhà văn Việt Nam (2010), Nhà văn Việt Nam hiện đại, Nxb Hội Nhà văn, Hà Nội.
Viện Hàn lâm Khoa học xã hội Việt Nam (2015), “Sáng tác văn học Việt Nam thời kỳ đổi mới:Thực trạng và triển vọng”, Hội thảo khoa học.
Hồ Tiểu Ngọc (2019), Thơ nữ Việt Nam 1986 - 2015 nhìn từ lý thuyết giới, Luận án tiến sĩ ngôn ngữ, ĐH Khoa học Huế.
Bùi Văn Nguyên, Hà Minh Đức (2003), Thơ ca Việt Nam hình thức và thể loại, Nxb Đại học quốc gia Hà Nội, Hà Nội.
Lã Nguyên (2015), “Lạ hóa” (dịch từ Поэтика//Словарь актуальных терминов и понятий, Изд. Кулагиной, Intrada, Cтр. 154),
nguồn https://languyensp.wordpress.com/2015/02/06/la-hoa/, ngày 06/02.
Lã Nguyên (2018), Phê bình kí hiệu học, Nxb Phụ nữ, Hà Nội.
Lã Nguyên (1998), “Văn học Việt Nam trong bước ngoặt chuyển mình”, Văn nghệ (45), Hà Nội.
Phan Thị Thanh Nhàn tuyển chọn (1998), Những gương mặt thơ nữ Hà Nội, Nxb Thanh niên, Hà Nội.
Vương Trí Nhàn (1996), “Phụ nữ và sáng tác văn chương”, Văn học (6), Hà Nội, tr.64.
Vương Trí Nhàn (2009), “Văn học sex: chấp nhận để tìm cách đổi khác”, dẫn theo https://vuongtrinhan.blogspot.com/2009/06/chap-nhan-e-tim-cach-oi-khac.html, ngày 11/6.
Vương Trí Nhàn (2020), “Xuân Quỳnh, cuộc đời để lại trong thơ”, dẫn theo
https://taodan.com.vn/xuan-quynh-cuoc-doi-de-lai-trong-tho.html, ngày 14/04.
Lê Thiếu Nhơn (2018), “Dư Thị Hoàn, người chạy trốn đám đông”, nguồn
ngày 18/12.
Đại học Văn hóa Hà Nội (2016), Thế hệ nhà văn sau 75, Nxb Hội nhà văn, Hà Nội.
Lê Lưu Oanh (1998), Thơ trữ tình Việt Nam 1975 - 1990, Nxb Đại học Quốc gia Hà Nội, Hà Nội.
Hoàng Phê chủ biên (2011), Từ điển tiếng Việt, Nxb Đà Nẵng & Trung tâm Từ điển học.
Nguyễn Phượng (2015), “Tinh thần dân chủ và tư duy đối thoại trong Văn học Việt Nam sau 75”, nguồn
ngày 25/12.
Lê Hồ Quang (2019), Ý thức nữ quyền và thơ nữ Việt Nam đương đại từ 1986 đến nay, Trường ĐH Quốc Gia Hà Nội, Hà Nội.
Lê Hồ Quang (2015), Âm thanh của tưởng tượng, Nxb Đại học Vinh, Nghệ An.
Lê Thị Quý (2009), Giáo trình Xã hội học giới, Nxb Giáo dục, Hà Nội.
Chu Văn Sơn (2006), “Cách tân đi tìm cái mới hay cái tôi”, Tia sáng (24).
Chu Văn Sơn (1992), “Đến với từng bông tuyết”, Tác phẩm mới, Hà Nội.
Chu Văn Sơn (2014), “Thơ Ý Nhi - Lời nguyện cho nỗi yên hàn”, nguồn
https://phovanblog.blogspot.com/2014/07/tho-y-nhi-loi-nguyen-cho-noi-yen-han.html, ngày14/7
Chu Văn Sơn (2011), “Vi Thùy Linh Thi sĩ ái quyền”, Nghiên cứu văn học (9), tr.159-170.
Chu Văn Sơn (1992), “Sự giải toả bằng thơ”, Tác phẩm mới, Hà Nội.
Chu Văn Sơn (1995), “Thơ của tâm hồn “xao xác giữa ngày yên”, Tác phẩm mới.
Chu Văn Sơn (2001), “Thơ Dư Thị Hoàn, 15 năm nhìn lại”, Kỷ yếu hội thảo Thơ Hải Phòng 15 năm đổi mới và phát triển, Hội liên hiệp Văn học Nghệ thuật.
Trần Đình Sử (1998), Giáo trình dẫn luận thi pháp học, Nxb Giáo dục, Hà Nội.
Trần Đình Sử (1995), Những thế giới nghệ thuật thơ, Nxb Giáo dục, Hà Nội.
Trần Đình Sử (2001), Văn học và thời gian, Nxb Văn học, Hà Nội.
Trần Đình Sử (1994), “Thử suy nghĩ về ý thức cá tính trong Văn học Việt Nam”, Văn nghệ (4), Hà Nội.
Trần Đình Sử (2015), Trên đường biên của văn học, Nxb Văn học, Hà Nội.
Trần Đăng Xuyền (2002), “Người đàn bà trong nỗi nhớ và cơn khát”, Nhà văn hiện thực đời sống và cá tính sáng tạo, Nxb Văn học, Hà Nội, tr.184-190.
Trần Đăng Xuyền chủ biên (2008), Văn học Việt Nam thế kỉ XX (I), Nxb Đại học Sư phạm Hà Nội, Hà Nội.
Trần Đăng Xuyền chủ biên (2009), Văn học Việt Nam thế kỉ XX, (II) Nxb Đại học Sư phạm Hà Nội.
Trần Đăng Xuyền chủ biên (2008), Tư tưởng và phong cách nhà văn những vấn đề lí luận và thực tiễn, Nxb Đại học Sư phạm Hà Nội, Hà Nội.
Trần Thị Minh Tâm (2019), Thơ Việt Nam những năm đầu của thế kỉ XXI, Luận án Tiến sĩ Văn học, ĐH Khoa học Xã hội và Nhân văn, ĐH QG Hà Nội, Hà Nội.
Nguyễn Thị Minh Thái (1999), Xuân Quỳnh một giọng thơ tình ám ảnh, Nxb Hội nhà văn, Hà Nội.
Nguyễn Thị Minh Thái (1996), Đối thoại mới với văn chương, Nxb Hội Nhà văn, Hà Nội.
Đoàn Ngọc Thanh, Nguyễn Trọng Định dịch (1996), Giới nữ (bản gốc Le Deuxième Sexe của Simone de Beauvoir), Nxb Phụ nữ, Hà Nội.
Nguyễn Bá Thành (2006), Bản sắc Việt Nam qua giao lưu văn học, Nxb Đại học Quốc gia, Hà Nội.
Nguyễn Bá Thành (2011), Tư duy thơ hiện đại Việt Nam, Nxb Đại học Quốc gia Hà Nội.
Nguyễn Bá Thành (2015), Toàn cảnh thơ Việt Nam 1945 - 1975, Nxb Đại học Quốc gia, Hà Nội.
Trần Khánh Thành, Nguyễn Thanh Tâm, Vũ Thị Lan Anh (2014), Khuynh hướng tượng trưng & siêu thực trong thơ Việt Nam hiện đại , Nxb Đại học Quốc gia Hà Nội, Hà Nội.
Trần Ngọc Thêm (2005), “Quá trình hội nhập văn hóa nghệ thuật trước và sau 1975”, Văn hóa nghệ thuật (4), Hà Nội, tr.11 -16
Nguyễn Huy Thiệp (2005), tiểu luận “Giăng lưới bắt chim”, Nxb Hội Nhà văn, Hà Nội.
Trần Nho Thìn (2009), “Nho giáo và nữ quyền”, Hội thảo khoa học quốc tế Nho giáo Việt Nam và văn hóa Đông Á, Viện Triết học, ngày 23-24/6.
Lê Viết Thọ (2006), “Sức bật mới của các cây viết nữ”, nguồn ngày 07/03.
Nguyễn Huy Thông (2006), “Thơ trẻ, băn khoăn và mong đợi”, Văn nghệ quân đội (640), Hà Nội.
Lưu Khánh Thơ (2005), Thơ và một số gương mặt thơ Việt Nam hiện đại, Nxb Khoa học Xã hội, Hà Nội.
Bích Thu (1992), “Lê Thị Mây - tìm tòi và thể hiện”, Tạp chí Văn học (6).
Bích Thu (2011), “Nỗ lực đổi mới trong thơ nữ đương đại”, Văn nghệ trẻ (10), ngày 5,6/3.
Bích Thu (2015), Văn học Việt Nam hiện đại - Sáng tạo và tiếp nhận, NXB Văn học, Hà Nội.
Lý Hoài Thu (2018), Những sinh thể văn chương Việt, Nxb Văn học, Hà Nội.
Hoàng Vũ Thuật (2013), Tham luận “Vận mệnh thơ như vận mệnh con người”, nguồn https://vanhaiphong.com/vn-mnh-th-nh-vn-mnh-con-ngi/, ngày 14/10.
Nguyễn Thị Phương Thùy (2014), Xu hướng tự do hóa ngôn ngữ thơ Việt Nam thế kỷ XX, Nhà xuất bản Chính trị Quốc gia, Hà Nội.
Đỗ Lai Thúy (2008), Hồ Xuân Hương – hoài niệm phồn thực, Nxb Hội Nhà văn, Hà Nội.
Đỗ Lai Thúy (2000), Phân tâm học và văn hóa nghệ thuật, NXB Văn hóa thông tin, Hà Nội.
Đỗ Lai Thúy (2012), Thơ như là mỹ học của cái khác, Nxb Hội Nhà văn, Hà Nội.
Đặng Thu Thủy (2011), “Vài nét về phê bình thơ từ 1986 đến nay”, Khoa học Đại học Sư phạm, Hà Nội, (2), tr. 53-61.
Đặng Thu Thủy(2008), Vài nét về thơ tình đương đại Việt Nam, Đặc san Đại học Sư phạm, Hà Nội, tr.44-51.
Đặng Thu Thủy (2008), “Vài nét về thơ thị giác ở Việt Nam”, Khoa học Đại học Sư phạm, Hà Nội,(6), tr. 56-62.
Đặng Thu Thủy (2008), “Vài nhận xét về sự đổi mới ngôn ngữ thơ Việt Nam đương đại”, Ngôn ngữ (6), tr. 38-48.
Đặng Thu Thủy (2008), “Sự vận động của quan niệm thơ và nhà thơ thời kì đổi mới”, Nghiên cứu Văn học (7), tr.67-85.
Đặng Thu Thủy (2011), Thơ trữ tình Việt Nam từ giữa thập kỷ 80 đến nay, những đổi mới cơ bản, Nxb ĐHSP Hà Nội.
Đặng Tiến (2009), Thơ thi pháp và chân dung, Nxb Phụ nữ, Hà Nội.
Trần Mạnh Tiến (2019), Thơ Việt trên hành trình đổi mới, Nxb Hội nhà văn, Hà Nội.
Bùi Thị Tỉnh (2005), “Giới tính thứ hai của Simon de Beauvoir và vấn đề nữ quyền”, Thông tin KHXH, Khoa Giáo dục chính trị, Hà Nội, (7).
Trần Văn Toàn (2009), “Diễn ngôn tính dục trong văn xuôi hư cấu Việt Nam (từ đầu thế kỉ 20 đến 1945)”, Kỷ yếu Nghiên cứu văn học Việt Nam những khả năng và thách thức, Tủ sách KHXH do viện Harvard Yenching tài trợ, Nxb Thế giới, tr.247-300.
Trần Văn Toàn (2013), “Diễn ngôn về giới tính và thi pháp nhân vật”, Nghiên cứu văn học (8), tr.40-45.
Nguyễn Văn Trung (1963), Nhận định, I, Nam Sơn xuất bản.
Nguyễn Văn Trung (1963), Nhận định, II, Nam Sơn xuất bản.
Lê Dục Tú (1992), “Về một số đặc điểm thơ hôm nay”, Văn học (3).
Nguyễn Đức Tùng (2009), Thơ đến từ đâu, NXB Lao động, Hà Nội.
Hoàng Quảng Uyên (2001), “Lê Khánh Mai khai mở những con đường”, Sông hương (162).
Hồ Khánh Vân , Từ quan niệm lối viết văn nữ, Đại học Sài Gòn, HCM.
II. Tài liệu tham khảo tiếng nước ngoài
Ronald W. Hepburn (1999), Theories of art, (2) from A Companion to Aesthetics, David S. Cooper, Ed, Oxford, Blackwell Press.
III. Danh mục các tác phẩm khảo sát
Ng.Anhanh (2019), Đã là một phiền toái (such a nuisance), Nxb Đà Nẵng.
Lâm Thị Mĩ Dạ (1998), Đề tặng một giấc mơ, Nxb Thanh niên, Hà Nội.
Lâm Thị Mỹ Dạ (1989), Hái tuổi em đầy tay, Nxb Tác phẩm mới, Hà Nội.
Nguyễn Thị Thúy Hạnh (2017), Di chữ, Nxb Hội nhà văn, Hà Nội.
Vũ Thị Huyền (2001), Hoa cải ngồng trong mưa, Nxb Hải Phòng, Hải Phòng.
Dư Thị Hoàn (1993), Bài mẫu giáo sáng thế, Nxb Hải Phòng, Hải Phòng.
Dư Thị Hoàn (1987), Lối nhỏ, Nxb Hải Phòng, Hải Phòng.
Nguyễn Thị Từ Huy (2007), Chữ cái, Nhà xuất bản Phụ nữ, Hà Nội.
Phạm Thị Ngọc Liên (1992), Em muốn giang tay giữa trời mà hét, Nxb Hội Nhà văn, Hà Nội.
Phạm Thị Ngọc Liên (2004), Thức đến sáng và mơ, Nxb Văn nghệ TP Hồ Chí Minh, HCM.
Vi Thùy Linh (2005), Đồng tử, Nxb Văn nghệ, TP.HCM.
Vi Thùy Linh (2000), Linh, Nxb Thanh niên, Hà Nội.
Vi Thùy Linh (2010), Phim đôi - Tình tự chậm , Nxb Hội nhà văn, Hà Nội.
Vi Thùy Linh (2008), ViLi in love, Nxb Văn nghệ, TP.HCM.
Đoàn Thị Lam Luyến (1991), Chồng chị chồng em, Nxb Hội nhà văn, Hà Nội.
Đoàn Thị Lam Luyến (2000), Dại yêu, Nxb Hội nhà văn, Hà Nội.
Đoàn Thị Lam Luyến (1989), Lỡ một thì con gái, Nxb Hội nhà văn, Hà Nội.
Đoàn Thị Lam Luyến (2003), Thơ Đoàn Thị Lam Luyến, Nxb Hội nhà văn, Hà Nội.
Ly Hoàng Ly (1999), Cỏ trắng, Nxb Hội nhà văn, Hà Nội.
Ly Hoàng Ly (2005), Lô lô, Nxb Hội nhà văn, Hà Nội.
Lê Khánh Mai (2001), Cát mặn, Nxb Hội nhà văn, Hà Nội.
Lê Khánh Mai (2008), Giấc mơ hái từ cơn giông, Nxb Hội nhà văn, Hà Nội.
Lê Khánh Mai (1998), Nước mắt chảy về đâu, Nxb Hội nhà văn, Hà Nội.
Lữ Thị Mai (2010), Giấc, Nxb Hội Nhà văn, Hà Nội.
Lữ Thị Mai (2019), Thời ngăn cách trống rỗng, Nxb Hội Nhà văn, Hà Nội.
Nguyễn Phan Quế Mai (2010), Cởi gió, Nhà xuất bản Hội Nhà Văn, Hà Nội.
Nguyễn Phan Quế Mai (2008), Trái Cấm, Nhà xuất bản Văn Nghệ, Hà Nội.
Lê Thị Mây (2002), Những mùa trăng mong chờ , Nxb Hội nhà văn, Hà Nội.
Nguyễn Thị Hồng Ngát (1990), Ngôi nhà sau cơn bão, Nxb Văn học, Hà Nội.
Nguyễn Thị Hồng Ngát (1984), Nhớ và khát, Nxb Văn học, Hà Nội.
Phan Thị Thanh Nhàn (1987), Bông hoa không tặng, Nxb Tác phẩm mới, Hà Nội.
Phan Thị Thanh Nhàn (1977), Chân dung người chiến thắng, Nxb Hội nhà văn, Hà Nội.
Ý Nhi (1985), Người đàn bà ngồi đan, Nxb Hội nhà văn, Hà Nội.
Ý Nhi (1998), Vườn, Nhà xuất bản Hội Nhà văn, Hà Nội.
Ý Nhi (2000), Thơ Ý Nhi, Nhà xuất bản Hội Nhà văn, Hà Nội.
Nồng Nàn Phố (2014), Anh ngủ thêm đi anh em phải dậy lấy chồng, NXB Văn học, Hà Nội.
Nồng nàn phố (2015), Yêu lần nào cũng đau, Nxb Trẻ, TP Hồ Chí Minh.
Như Quỳnh de Prelle, Song tử, Nxb Hội nhà văn, Hà Nội.
Xuân Quỳnh (1989), Hoa cỏ may, Nxb Tác phẩm mới & Hội nhà văn Việt Nam.
Xuân Quỳnh (2015), Không bao giờ là cuối (tuyển thơ), Nxb Hội nhà văn, HN.
Xuân Quỳnh (1984), Tự hát, Nxb Tác phẩm mới, Hà Nội.
Phan Huyền Thư (1997), Nằm nghiêng, Nxb Hội nhà văn, Hà Nội.
Phan Huyền Thư (2005), Rỗng ngực, Nxb Hội nhà văn, Hà Nội.
Phan Huyền Thư (2014), Sẹo độc lập, Nxb Phụ nữ, Hà Nội.
Nguyễn Ngọc Tư (2013), Chấm, Nxb Hội Nhà văn, Hà Nội.
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- luan_an_tho_nu_viet_nam_sau_1975_nhung_tim_toi_va_cach_tan.doc