VIỆN HÀN LÂM
KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM
HỌC VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI
BÙI THỊ THU THỦY
THƠ MỚI (1932 - 1945) TỪ GÓC NHÌN
PHÊ BÌNH SINH THÁI
Ngành: Lí luận Văn học
Mã số: 9 22 01 20
LUẬN ÁN TIẾN SĨ VĂN HỌC
Ngƣời hƣớng dẫn khoa học: 1- PGS. TS Lƣu Khánh Thơ
2- TS. Phạm Phƣơng Chi
Hà Nội, 2020
LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan đây là công trình nghiên cứu của riêng tôi. Các số liệu,
kết quả nêu trong luận án là trung thực và chưa từng được ai công bố trong
bất cứ công
208 trang |
Chia sẻ: huong20 | Ngày: 13/01/2022 | Lượt xem: 607 | Lượt tải: 3
Tóm tắt tài liệu Luận án Thơ mới (1932 - 1945) từ góc nhìn phê bình sinh thái, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
g trình nào khác
Hà Nội, ngày tháng năm 2020
Tác giả luận án
Bùi Thị Thu Thủy
MỤC LỤC
MỞ ĐẦU ................................................................................................................ 1
CHƢƠNG 1: TỔNG QUAN VẤN ĐỀ NGHIÊN CỨU ....................................... 6
1.1. Nghiên cứu phê bình sinh thái ở nƣớc ngoài ................................................. 6
1.1.1.Phê bình sinh thái ở phương Tây .................................................................. 6
1.1.1.1. Thời kỳ đầu ................................................................................................. 6
1.1.1.2. Thời kỳ phát triển ........................................................................................ 7
1.1.2.Phê bình sinh thái các quốc gia ngoài phương Tây ...................................... 9
1.2.Nghiên cứu phê bình sinh thái ở Việt Nam ................................................... 13
1.2.1.Cây cối, con vật và những khủng hoảng môi trường trong nghiên cứu văn
học ở Việt Nam ..................................................................................................... 13
1.2.2.Văn học và công lí môi trường trong nghiên cứu phê bình sinh thái ở Việt
Nam ...................................................................................................................... 21
Chƣơng 2: PHÊ BÌNH SINH THÁI NHƢ LÀ MỘT HƢỚNG TIẾP CẬN ...... 31
VĂN HỌC ............................................................................................................ 31
2.1. Phê bình sinh thái lấy trái đất làm trung tâm trong nghiên cứu văn học ....... 31
2.1.1. Tiền đề triết học của phê bình sinh thái ..................................................... 31
2.1.2. Phê bình sinh thái và “các câu chuyện có cây cối” .................................... 36
2.2. Diễn trình của phê bình sinh thái ................................................................. 42
2.2.1. Khủng hoảng của phê bình sinh thái cổ điển ............................................. 42
2.2.2. Công lí môi trường trong phê bình sinh thái .............................................. 46
2.2.3. Phê bình sinh thái với cái toàn cầu, sự tuyệt chủng, động vật và tính liên
ngành .................................................................................................................... 51
2.2.3.1. Sự manh nha của phê bình sinh thái làn sóng thứ ba................................. 51
2.2.3.2. Cái toàn cầu, sự tuyệt chủng, động vật và tính liên ngành ......................... 52
2.3. Xác định cách tiếp cận văn học từ góc độ phê bình sinh thái ..................... 58
Chƣơng 3: NHỮNG BÌNH DIỆN SINH THÁI CỦA MỐI QUAN HỆ TỰ
NHIÊN VÀ CON NGƢỜI TRONG THƠ MỚI ................................................ 63
3.1. Tự nhiên nhƣ một khách thể ........................................................................ 63
3.1.1. Tự nhiên như là một sinh thể tồn tại bên ngoài con người ........................ 63
3.1.2. Tự nhiên như là phản chiếu những dự cảm bất an về sinh thái của con
người .................................................................................................................... 73
3.2. Tự nhiên nhƣ một chủ thể ............................................................................ 86
3.2.1. Tự nhiên như là lực hút và lực đẩy của chốn đô thị .................................. 86
3.2.2. Tự nhiên như là cõi đi về của con người trong thế giới hiện đại .............. 95
Chƣơng 4: NGÔN NGỮ VÀ BIỂU TƢỢNG SINH THÁI TRONG THƠ MỚI
............................................................................................................................ 105
4.1. Ngôn ngữ sinh thái trong Thơ mới............................................................. 106
4.1.1. Vấn đề ngôn ngữ sinh thái trong thơ ca .................................................. 106
4.1.2. Hệ thống ngôn ngữ sinh thái trong Thơ mới............................................ 107
4.1.2.1. Thơ mới như là những bảng màu sinh thái .............................................. 107
4.1.2.2. Thơ mới như là những khởi đầu của lí thuyết phê bình sinh thái ở Việt Nam
............................................................................................................................ 116
4.1.2.3. Thơ mới như là những tiềm ẩn lí luận bằng thơ về sự chấn thương sinh thái
............................................................................................................................ 122
4.2. Biểu tƣợng sinh thái trong Thơ mới .......................................................... 129
4.2.1. Biểu tượng và biểu tượng “vườn” trong phê bình sinh thái..................... 129
4.2.2. Biểu tượng “vườn” trong Thơ mới ........................................................... 132
4.2.2.1. Vườn - tưởng nhớ cảnh sắc bản địa ........................................................ 132
4.2.2.2. Vườn – nơi cứu rỗi tâm hồn .................................................................... 139
4.2.2.3. Vườn – bám rễ vào trần gian .................................................................. 144
KẾT LUẬN ........................................................................................................ 148
MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
1.1. Bắt đầu từ cuối thế kỷ XX đến nay, những hiểm họa về suy thoái môi
trường đã trở nên trầm trọng. Điều đó đặt ra những vấn đề liên quan đến sự tồn
vong của nhân loại. Và đây là lí do vì sao trong lĩnh vực kinh tế xuất hiện khái
niệm phát triển bền vững với chủ trương phát triển kinh tế nhưng không làm tổn
hại đến môi trường sinh thái vì các thế hệ tương lai. Trong địa hạt khoa học xã
hội và nhân văn cũng đã xuất hiện khái niệm phê bình sinh thái. Về bản chất đó
là bộ môn nghiên cứu mối quan hệ giữa con người và tự nhiên. Đây được xem
là một hướng nghiên cứu mới có tính liên ngành, ngày càng có ảnh hưởng lớn.
1.2. Phê bình sinh thái còn gọi là nghiên cứu xanh xuất hiện ở Tây Âu rồi
lan rộng ra toàn cầu. Trải qua nhiều giai đoạn phát triển phê bình sinh thái thể
hiện rõ những tiềm năng và đã được giới nghiên cứu văn học Việt Nam tiếp
cận, giới thiệu, ứng dụng, nghiên cứu.
1.3. Hiện nay, những nghiên cứu dựa trên nền tảng phê bình sinh thái chủ
yếu hướng đến các sáng tác văn học đương đại, nghiên cứu những sáng tác văn
học trước đó còn hạn chế, đặc biệt tập trung nghiên cứu nhiều vào thể loại văn
xuôi mà chưa có nhiều nghiên cứu về thơ. Với lí do đó, chúng tôi muốn soi rọi
lý thuyết phê bình sinh thái vào tìm hiểu một thực thể quan trọng của văn học
Việt Nam thế kỷ XX là Thơ mới.
1.4. Gợi ý từ phê bình sinh thái khi nghiên cứu Thơ mới chúng tôi nhận thấy
theo quan điểm của nhiều nhà nghiên cứu có thể xem văn học sinh thái xuất hiện
từ thời kỳ lãng mạn. Đó là thời kỳ chủ nghĩa tư bản với sự phát triển như vũ bão đã
lộ dần mặt trái đen tối của sự tàn phá, hủy hoại môi trường tự nhiên. Các nhà lãng
mạn đã sớm dự cảm về những hư tổn mất mát đó và đưa chúng vào văn học đương
thời. Thơ mới Việt Nam (1932 – 1945) mặc dù xuất hiện muộn hơn so với văn học
lãng mạn phương Tây nhưng cũng ra đời trong bối cảnh thực dân Pháp xâm lược
và khai thác thuộc địa. Nền văn minh công nghiệp xuất hiện đã bước đầu tàn phá
tự nhiên và môi trường sống. Trong văn học lãng mạn có một khuynh hướng viết
về đồng quê. Trong đó, nhiều nghệ sỹ coi sự trở về với thiên nhiên, thôn dã như
1
một nẻo đường tìm kiếm sự bình yên, thể hiện thái độ phản ứng lại sự ngột ngạt
của đời sống đô thị. Chúng ta có thể tìm thấy ở Thơ mới một tấm mạng sinh thái
mê đắm lòng người, thế giới vạn vật hữu linh giao cảm hài hòaNhững vần thơ
viết về thiên nhiên, tự nhiên trong Thơ mới cũng có ý nghĩa đánh thức sự gắn kết
giữa con người với môi trường nhân tính của tự nhiên, thanh tẩy, ngăn cho con
người không trượt vào con đường tha hóa, để từ đây rung lên hồi chuông cảnh tỉnh
về khủng hoảng sinh thái.
2. Mục đích, nhiệm vụ nghiên cứu
2.1. Mục đích nghiên cứu
Đề tài xem xét phê bình sinh thái, một hướng tiếp cận văn học xuất phát từ
phương Tây sẽ có những thích hợp hay sự khác biệt gì khi được nhìn nhận
trong sự tương quan với văn học Việt Nam, đặc biệt là với Thơ mới.
Đề tài muốn khám phá Thơ mới từ một góc nhìn mới, đó là sự gắn kết của
trường phái thơ này với các vấn đề môi sinh, môi trường và tự nhiên. Từ đó, đề
tài khẳng định giá trị trường tồn và sự đa diện của Thơ mới. Thơ mới có giá trị
ngay cả khi được khám phá dưới những cách tiếp cận xuất hiện sau sự ra đời và
phát triển của nó rất nhiều.
Đưa ra các cách hiểu về phê bình sinh thái như vậy, chúng tôi muốn
khẳng định rằng phê bình sinh thái cũng chỉ là một hướng tiếp cận mới đối với
Thơ mới, giống như các cách tiếp cận khác đã từng được dùng để tiếp cận bộ
phận thơ ca đó. Luận án của chúng tôi không nhằm xác định Thơ mới như một
chỉnh thể sinh thái. Bởi lẽ trọng tâm của Thơ mới là bộc lộ cái tôi cá nhân và sự
cô đơn của con người. Nhưng nghiên cứu trào lưu văn học này với công cụ là
phê bình sinh thái chúng tôi muốn khám phá thêm các ý nghĩa, giá trị của Thơ
mới. Do vậy, lí thuyết phê bình sinh thái sẽ góp phần soi tỏ những khía cạnh
khác nhau của khuynh hướng văn chương sinh thái trong Thơ mới. Theo đó,
Thơ mới được hình dung như một trường hợp để chứng minh sự hữu dụng của
phê bình sinh thái trong việc nghiên cứu thực tiễn văn học Việt Nam.
2.2. Nhiệm vụ nghiên cứu
- Tổng quan tình hình nghiên cứu lí thuyết phê bình sinh thái trên thế giới
và ở Việt Nam.
2
- Phân tích sự ra đời và phát triển phê bình sinh thái trên thế giới, từ đó
đưa ra nhận định riêng về sự phát triển và nội hàm của phê bình sinh thái.
- Tìm hiểu mối quan hệ giữa tự nhiên và con người trong Thơ mới.
- Tìm hiểu ngôn ngữ và biểu tượng trong Thơ mới.
3. Đối tƣợng, phạm vi nghiên cứu
3.1. Đối tượng nghiên cứu
- Luận án xác định đối tượng nghiên cứu là những tác phẩm trực tiếp, gián
tiếp thể hiện mối quan hệ giữa tự nhiên và con người trong Thơ mới.
-Vận dụng những tri thức của phê bình sinh thái để cắt nghĩa lý giải mối
quan hệ giữa tự nhiên và con người trong Thơ mới. Từ đó khẳng định những
đóng góp của Thơ mới một cách đầy đủ, toàn diện hơn.
3.2. Phạm vi nghiên cứu
Luận án của chúng tôi được thực hiện dựa trên sự khảo sát chính ở tuyển
tập: Thơ mới 1932 – 1945 tác giả và tác phẩm, Lại Nguyên Ân (biên soạn),
1999, NXB Hội nhà văn, Hà Nội - (tập 1, tập 2 - 1401 trang).
Ngoài khảo sát các diễn ngôn phê bình sinh thái trong Thơ mới chúng tôi
cũng khảo sát mối quan hệ giữa tự nhiên và con người trong văn học các giai
đoạn trước và sau nó, nhằm làm nổi bật cũng như rõ hơn sự khác biệt của mối
quan hệ trên trong Thơ mới.
4. Cơ sở lý thuyết và phƣơng pháp nghiên cứu
Dựa trên nền tảng của các tri thức nghiên cứu hiện đại trong khoa học xã
hội và nhân văn, dựa trên tri thức của phê bình sinh thái và những đặc trưng cơ
bản của bối cảnh lịch sử đã sản sinh ra Thơ mới, chúng tôi lựa chọn các phương
pháp nghiên cứu:
- Phương pháp hệ thống: Nghiên cứu xem xét mối quan hệ giữa các yếu
tố cấu thành nên hệ thống, trên cơ sở hệ thống hóa các yếu tố, tính chỉnh thể sẽ
được bộc lộ rõ. Áp dụng phương pháp này, chúng tôi tiếp cận một cách hệ
thống các yếu tố cấu thành tạo nên chỉnh thể Thơ mới từ phương diện nội dung
và nghệ thuật từ đó cho thấy cái nhìn khái quát, tổng thể về Thơ mới dưới sự soi
chiếu của lý thuyết phê bình sinh thái.
3
- Phương pháp thống kê: Bằng quá trình thống kê chi tiết, cụ thể những
dấu hiệu sinh thái trong các sáng tác Thơ mới, phương pháp này giúp chúng tôi
phân loại, mô tả được tổng thể mối quan hệ giữa tự nhiên và con người cũng
như bao quát rõ hơn những yếu tố ngôn ngữ và biểu tượng sinh thái trong các
tác phẩm Thơ mới.
- Phương pháp liên ngành: Luận án vận dụng kết quả của nhiều chuyên ngành
như: triết học, văn hóa học, tâm lý học, sinh học, sử học, địa lý, chính trị, đạo đức...
Bởi lẽ, phê bình sinh thái vốn dĩ là một phương pháp nghiên cứu mang tính liên
ngành. Kết hợp tri thức các ngành khoa học trên đề tài mong muốn hướng đến khái
quát một bức tranh đa diện về mối quan hệ tự nhiên và con người những năm 1932
– 1945 của giai đoạn Thơ mới ra đời và cũng để tránh cái nhìn đơn giản, một chiều
cho những kết luận rút ra trong quá trình nghiên cứu.
- Phương pháp tiếp cận văn hóa học: Vận dụng phương pháp tiếp cận văn hóa
học trong nghiên cứu, luận án muốn đề cập đến vấn đề con người trong Thơ mới
nhìn từ góc độ văn hóa ứng xử với tự nhiên. Trong cách ứng xử giữa con người với
tự nhiên qua các giai đoạn văn học từ văn học dân gian sang văn học trung đại và
hiện đại đã có sự thay đổi do văn hóa cũng biến chuyển theo thời gian.
- Phương pháp tiếp cận thi pháp học: Thi pháp học hiện đại cũng giúp
nhìn nhận rõ hơn tác giả, lịch sử văn học, giọng điệu...là những căn cứ chân
thực để soi rọi Thơ mới từ góc nhìn phê bình sinh thái.
- Phương pháp so sánh: Khi nghiên cứu mối quan hệ giữa con người và tự
nhiên trong Thơ mới, luận án cũng tiến hành so sánh với văn học dân gian, văn
học trung đại và văn học hiện đại, đương đại nhằm tìm ra những nét tương
đồng cũng như khác biệt trong mối quan hệ trên.
5. Đóng góp mới về khoa học của luận án
Đây là công trình đầu tiên nghiên cứu một cách toàn diện và hệ thống về Thơ
mới từ lý thuyết phê bình sinh thái.
Luận án đã tổng thuật, phân tích, đánh giá chi tiết, cụ thể các công trình
nghiên cứu phê bình sinh thái trên thế giới và Việt Nam, chỉ ra vị trí và xu
hướng phát triển của phê bình sinh thái nước nhà trong thời gian hiện nay.
4
Luận án không nhằm trả lời Thơ mới có phải là văn học sinh thái hay
không mà chủ yếu chỉ ra những giá trị đa diện, ý nghĩa của Thơ mới dưới sự soi
chiếu của lý thuyết phê bình sinh thái.
Dưới lý thuyết phê bình sinh thái, luận án đã khám phá trên những bình
diện cơ bản về mối quan hệ con người và tự nhiên trong Thơ mới: Tự nhiên với
tư cách như một khách thể và như là chủ thể; Đồng thời, luận án đã khám phá
hệ thống ngôn ngữ sinh thái cùng biểu tượng cơ bản trong Thơ mới tiêu biểu là
biểu tượng vườn.
6. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn của luận án
Ý nghĩa lý luận: Luận án tập trung trả lời câu hỏi Thơ mới có thể đóng
góp gì cho phê bình sinh thái, tức là khi được xét trong trường hợp cụ thể là thơ
ca về thiên nhiên của Thơ mới thì phê bình sinh thái có thể cần phải bổ sung
điều gì; từ trường hợp của Thơ mới, có thể bình luận, bàn luận thêm gì về phê
bình sinh thái. Một lí thuyết của thế giới, được sinh ra trong một bối cảnh lịch
sử xã hội khác Việt Nam, khi đem quy chiếu đến thơ ca Việt Nam - vốn cũng
được ra đời trong một bối cảnh lịch sử xã hội đặc trưng - chắc chắn sẽ có nhiều
điểm phát hiện mới, khám phá mới. Nghiên cứu Thơ mới từ góc nhìn phê bình
sinh thái để phần nào cho thấy sự mới mẻ này sẽ là một đóng góp về lí luận của
đề tài và Thơ mới vì thế cũng có thêm giá trị lí luận.
Ý nghĩa thực tiễn: Đề tài là tài liệu tham khảo cho những người quan tâm
và nghiên cứu về phê bình sinh thái cũng như muốn khám phá thêm những giá
trị của Thơ mới (1932 -1945).
7. Cấu trúc của luận án
Ngoài phần mở đầu, kết luận, tài liệu tham khảo, phụ lục, phần nội dung
chính của luận án gồm 4 chương như sau:
Chương 1: Tổng quan vấn đề nghiên cứu
Chương 2: Phê bình sinh thái như là một hướng tiếp cận văn học
Chương 3: Những bình diện sinh thái của mối quan hệ tự nhiên và con
người trong Thơ mới
Chương 4: Ngôn ngữ và biểu tượng sinh thái trong Thơ mới
5
CHƢƠNG 1
TỔNG QUAN VẤN ĐỀ NGHIÊN CỨU
1.1.Nghiên cứu phê bình sinh thái ở nƣớc ngoài
1.1.1.Phê bình sinh thái ở phương Tây
Cho đến nay phê bình sinh thái đã trở thành một xu hướng nghiên cứu liên
ngành và không ngừng mở rộng.Trên đại thể, phê bình sinh thái đã trải qua hai
giai đoạn: Giai đoạn thứ nhất gắn với thời kỳ lãng mạn; Giai đoạn thứ hai là sự
gặp gỡ các diễn ngôn sinh thái và diễn ngôn hậu thực dân sinh thái. Đây là
hướng nghiên cứu văn học khởi nguồn từ Mỹ vào những năm 1960 - 1970 và
mở rộng ra các nước phương Tây. Phê bình sinh thái nghiên cứu mối quan hệ
giữa văn học và môi trường tự nhiên. Nếu như phê bình nữ quyền xem xét ngôn
ngữ với văn học dưới góc độ của ý thức về giới, phê bình Marxist đưa ý thức về
các hình thái sản xuất và các tầng lớp kinh tế vào việc đọc văn bản thì phê bình
sinh thái lại lấy cách tiếp cận lấy trái đất - tự nhiên làm trung tâm khi phân tích
tác phẩm văn học.
Mặc dù phê bình sinh thái đã manh nha từ trước, nhưng phải đến những
năm 70 của thế kỷ XX, khi Joseph W. Meeker cho xuất bản Sinh thái học của
văn học chính thức đề xuất tên gọi sinh thái học văn học (literary ecology) thì
các nhà nghiên cứu bắt đầu quan tâm sâu sắc đến mối quan hệ giữa văn hóa và
văn học với môi trường. Cũng từ đây phê bình sinh thái trở thành một lĩnh vực
nghiên cứu văn học được quan tâm trên thế giới.
1.1.1.1. Thời kỳ đầu
Năm 1973, Raymond Williams – học giả người Anh công bố cuốn Nông
thôn và thành thị (The country and the city). Đây là công trình được xem là
khởi đầu của nghiên cứu phê bình sinh thái ở nước Anh.Tác giả đã làm rõ mối
quan hệ giữa thành thị và nông thôn trong văn học Anh từ lập trường của chủ
nghĩa chỉnh thể sinh thái. Ông đã chỉ rõ đó là mối quan hệ vừa chứa đựng sự
mâu thuẫn lại vừa thống nhất.
Năm 1985, Frederick O. Waage cho ra đời cuốn sách Dạy văn học môi
trường: tài liệu, phương pháp và tiềm năng phát triển (Teaching environmental
literature materials methods resources). Với “mục đích thúc đẩy mọi người
6
tăng cường quan hệ và hiểu biết sâu hơn về vấn đề môi trường trong văn học”
[143] cuốn sách đã như một gợi ý cho các giáo sư Mĩ mở các môn học liên
quan đến văn học sinh thái và tiến hành nghiên cứu lĩnh vực này.
Năm 1989, tại Mỹ đã dành một bản tin có tên Bản tin sáng tác về đề tài tự
nhiên trong văn học Mỹ (The American nature writing newsletter) để đăng tải
những bài viết về phê bình sinh thái. Và cũng năm này, trong Đại hội “Hội văn
học miền Tây”, học giả Cheryll Glotfelty công bố báo cáo Vì một nền phê bình
văn học sinh thái (Toward an ecological literary criticism) và Lough với bài
Định giá lại tự nhiên: Vì một nền phê bình sinh thái học (Revaluing nature:
Toward and ecological criticism), với hai báo cáo nói trên các học giả đã góp
phần đề xướng và làm sống lại thuật ngữ phê bình sinh thái.
Năm 1990 đánh dấu sự ra đời bộ sách đồ sộ có tên Cuốn sách viết về tự nhiên
(The norton: book of nature writing) do Robert Finch và John Elder chủ biên.
Cuốn sách dày gần 1000 trang đã giới thiệu những tác phẩm quan trọng viết về tự
nhiên của các nhà văn Âu Mĩ từ thế kỉ XVIII. Đây có thể xem như là một tài liệu
quý bổ sung hữu ích cho người nghiên cứu tìm hiểu về văn học sinh thái.
Có thể nhận thấy, thời kỳ đầu những nghiên cứu về văn học và môi trường
đã bắt đầu được chú ý và ngày càng gia tăng trên thế giới. Song hầu như chỉ tập
trung vào các nghiên cứu ở Anh và Mỹ đặc biệt là miền Tây nước này. Nhiều
công trình tập trung viết về cái hoang dại, sự hiển linh của cá nhân, chỉ ra sự hài
hòa, cân bằng giữa con người với thiên nhiên – những thứ thực ra là do văn hóa
con người và ngôn ngữ con người tạo ra chứ không phải là thực tế thiên nhiên
có như vậy. Chính vì thế, các nhà phê bình sinh thái gọi đây là giai đoạn tụng ca
phê bình sinh thái.
1.1.1.2. Thời kỳ phát triển
Phê bình sinh thái ra đời ở Hoa Kì và bắt đầu phát triển mạnh vào những năm
90. Đặc biệt là sự ra đời của Hội nghiên cứu văn học và môi trường (The
Association for the study of study of literature and environment), gọi tắt là
ASLE được thành lập ở trường đại học Nevada Mĩ vào năm 1992. Đây là một
tổ chức học thuật phê bình sinh thái mang tính quốc tế, thường xuyên tổ chức
7
các cuộc thảo luận, xuất bản các tập san của hội, giới thiệu những thành quả phê
bình sinh thái mới nhất.
Năm 1993, tạp chí Nghiên cứu liên ngành văn học và môi trường
(Interdisciplinary studies in literature and environment) gọi tắt là ISLE ra đời.
Tạp chí sau đó trở thành cuốn sách học thuật có tính hạt nhân trong lĩnh vực
phê bình sinh thái, mỗi số đều có dung lượng hàng trăm trang. Cùng với sự ra
đời của ASLE, ISLE đã làm tăng tính học thuật cho các thành quả nghiên cứu
phê bình sinh thái.
Năm 1998, tại Luân Đôn, R. Kerridge và N. Sammells chủ biên tuyển tập
Viết về môi trường: Phê bình sinh thái và văn học (Writing the
environment:Ecocriticism and literature). Tác giả là những nhà phê bình sinh
thái Âu Mỹ đã giới thiệu phê bình sinh thái từ góc độ nhân văn, thể hiện nhiều
lập trường nghiên cứu của các nhà phê bình sinh thái.
Phê bình sinh thái phát triển thực sự mạnh mẽ và sâu rộng. Hàng loạt các
công trình nghiên cứu ra đời khiến văn học môi trường trở thành hiện tượng văn
học mang tính toàn cầu. Đặc biệt phê bình sinh thái còn trở thành môn học
trong nhiều trường đại học ở Anh và Mỹ. Đại học Naveda là trung tâm giảng
dạy và nghiên cứu văn học sinh thái của toàn nước Mỹ. Ở đây tập hợp nhiều
giáo sư, nghiên cứu sinh chuyên nghiên cứu văn học sinh thái. Bên cạnh đó là
các trường đại học như Virginia, Arizona, Georgia, Oregen.đều là cơ sở quan
trọng của phê bình sinh thái.
Năm 2000, cũng là năm phát triển mạnh của phê bình sinh thái với sự
công bố hàng loạt công trình phê bình sinh thái xuất sắc như Tính đa ngành
trong nghiên cứu văn học viết về tự nhiên (Father afield in the study of nature –
oriented literature) của Patrick D. Murphy; Cuốn Chủ nghĩa môi trường trong
văn học Mỹ (American literary environmentalism) của David Mazel; Bài ca trái
đất (The song of the earth) của Jonathan Bate; Tuyển tập nghiên cứu xanh; từ
chủ nghĩa lãng mạn đến phê bình sinh thái (The green studies reader: From
romanticism to ecocriticism) của Laurence Coupe; Ý thức nơi chốn của
Thoreau: Những tiểu luận về văn học môi trường Mỹ (Thoreau’s sense of pace:
Essays in American environmental writing) của Richard J. Schneider Với sự
8
ra đời của rất nhiều các tác phẩm phê bình sinh thái nói trên đã cho thấy tiềm
năng phát triển của lĩnh vực nghiên cứu này.
Năm 2008, Scott Slovic cho xuất bản cuốn sách Đi xa để suy nghĩ: Nhập
thế, xuất thế và trách nhiệm của phê bình sinh thái (Going away to think:
Engagement, retreat, and ecocritical responsibility). Tại đây, tác giả đã đề xuất
trách nhiệm của sinh thái chính là sự dung hợp của hai luồng tư tưởng “nhập
thế” và “xuất thế”, nghĩa là nhà phê bình sinh thái cần tham gia vào việc hưởng
thụ tự nhiên nhưng cũng nêu cao tinh thần chăm sóc và bảo vệ tự nhiên.
Năm 2009, Peter Barry cung cấp thêm một công trình có đề cập đến một vấn
đề lý thuyết mới của phê bình sinh thái bao gồm các vấn đề như: chủ nghĩa nhân
văn tự do, chủ nghĩa cấu trúc, chủ nghĩa hậu cấu trúc Lý thuyết nhập môn: Giới
thiệu về lý thuyết văn học và văn hóa (Beginning theory: An introduction to
literary and cultural theory). Cũng trong năm này nhiều chuyên luận đã đề cập đến
phê bình sinh thái đô thị như Tự nhiên của đô thị: Phê bình sinh thái và môi
trường đô thị (The nature of cities: Ecocriticism and urban environments)của
Michael Bennett và David W. Teague; Xem xét lại công viên đô thị: Không gian
công cộng và đa dạng văn hóa (Rethinking urban parks: Public space and cultural
diversity) của Setha Low, Dana Taplin và Suzanne Scheld.
Khởi nguồn ở Anh và Mỹ, phê bình sinh thái đã mở rộng nghiên cứu ra
toàn cầu. Nếu như phê bình sinh thái manh nha hình thành khoảng từ những
năm 70 của thế kỉ XX, phát triển mạnh khoảng từ năm 1990 đến năm 2007 thì
sang khoảng năm 2008 vẫn trên đà phát triển đó phê bình sinh thái đã có nhiều
sự chuyển hướng trong nghiên cứu, mở rộng nhiều hơn tới các vấn đề giới,
chủng tộc và giai cấp cũng như nhấn mạnh đến các góc nhìn liên văn
hóaĐiều đó càng chứng tỏ sự hứa hẹn phê bình sinh thái là một hướng nghiên
cứu phát triển và mang tính toàn cầu. Song trên hết, chúng ta phải thừa nhận ý
nghĩa đúng đắn của sứ mệnh phê bình sinh thái: “Góp phần thay đổi thái độ
nhân loại với tự nhiên”.[76]
1.1.2. Phê bình sinh thái các quốc gia ngoài phương Tây
Việc mở rộng kinh điển sinh thái để bao gồm tất cả các nền văn học trên
thế giới với sự đóng góp của các nhà phê bình toàn cầu được coi như là một cột
9
mốc gần đây nhất trong thực hành phê bình sinh thái. Mặc dù, thành viên của
Hiệp hội Nghiên cứu Văn học và Môi trường (ASLE) cho đến nay phần lớn là
các học giả nổi tiếng Anh, làm việc trên các văn bản tiếng Anh nhưng cũng đã
có những nỗ lực đáng chú ý nhằm khám phá các vấn đề môi trường và hướng
đến phê bình môi trường trong các truyền thống văn học ở Châu Á, đặc biệt là
Nhật Bản, Hàn Quốc, hay các nền văn học tiếng Hán. Nói cách khác, phê bình
sinh thái có gốc gác trong các tác phẩm lý thuyết cuối thế kỷ XX của Raymond
Williams ở Anh, Lawrence Buell ở Hoa Kỳ, Kate Rigby và những học giả khác
ở Úc nghiên cứu phê bình sinh thái cổ điển chủ yếu dựa trên văn bản tiếng Anh.
Phải đến bộ tuyển tập gần đây Phê bình sinh thái Đông Á: Tuyển tập có phê
bình: Các nền văn học, các nền văn hóa, và môi trường (East Asian
ecocriticisms: A critical reader (literatures, cultures, and the environment. New
York: Palgrave Macmillan, 2013) của S. Estok và W. Kim mới có chú ý tới các
tác phẩm văn học và nhà văn của Nhật Bản, Hàn Quốc, Đài Loan và Trung
Quốc. Bên cạnh đó, cuốn Mơ hồ sinh thái: Khủng hoảng môi trường và văn học
Đông Á (Ecoambiguity: environmental crises and East Asian literatures,
University of Michigan Press, 2012) của Karen Thornber phân tích khủng
hoảng môi trường trong văn học Đông Á, đặc biệt, cuốn sách tập trung phân
tích vào văn học mang tính sinh thái của toàn bộ khu vực này từ thời cổ điển
cho đến hiện tại. Bà nhấn mạnh đặc tính “nước đôi” hay là sự “nghịch lí” trong
các xã hội Đông Á, nhất là Trung Quốc, Nhật Bản, Hàn Quốc, trong quan niệm
của họ về tự nhiên. Bà đưa ra một ví dụ về việc song hành tôn kính thiên nhiên và
việc khai thác hay bóc lột thiên nhiên trong văn hóa các nước Đông Á. Cái nghịch lí
sinh thái đó tiếp tục thách thức các xã hội trên toàn thế giới [139]. Cuốn Phê bình
sinh thái Đông Nam Á: Lí thuyết, thực hành và triển vọng (Southeast Asian
Ecocriticism: Theories, practices, prospects, Maryland: Lexington Books, 2018) do
John Ryan biên tập bao gồm các bài viết phân tích các tác phẩm văn học các nước
Đông Nam Á từ góc nhìn của phê bình sinh thái.
Còn nữa, trên thế giới đã có vô số các công trình nghiên cứu tập trung khai
thác văn học của các khu vực phi phương Tây và thuộc nhiều thời kì khác nhau
từ góc độ phê bình sinh thái. Có thể kể ra đây bài viết nghiên cứu của Scott
10
Slovic, người sáng lập Hội văn học và môi trường thế giới, Phong cảnh trong
phê bình sinh thái và văn học môi trường Trung Quốc: Sự xuất hiện của một
nền văn minh sinh thái mới (Landmarks in Chinese ecocriticism and
environmental literature:the emergence of a new ecological civilization) đăng
trên tờ Khoa học xã hội Trung Quốc ngày nay (Chinese social sciences today
press) số ra ngày 31/7/2013. Bài viết tập trung phân tích các vấn đề sinh thái,
thế giới môi trường trong truyền thống thơ Trung Quốc - từ thơ Đường cho đến
thơ hiện đại, thơ đương đại Trung Quốc. Trong bài viết, tác giả đề cập đến một
loạt các trung tâm nghiên cứu và hội thảo nghiên cứu văn học, văn hóa qua các
thời đại của Trung Hoa từ góc độ phê bình sinh thái.
Thú vị hơn là đã có nhiều công trình nghiên cứu các tác phẩm văn học cổ
đại của Ấn Độ, như sử thi Ramayana, từ góc độ phê bình sinh thái. Có thể kể ra
đây cuốn sách Phê bình sinh thái và sử thi Ramayana của Tulsidasa (LAP
Lambert Acad. Publ., 2011) của Pankaj Sharma, bài nghiên cứu Phê bình sinh
thái trong các truyền thống phương Tây và phương Đông (IUP Journal of
English Studies Vol. 7, No. 1, March 2012) của Mishra, Raj Kumar nghiên cứu
tác phẩm của Kalidasa và Valmiki từ lăng kính của phê bình sinh thái. Học giả
Aiyer, K. R. có một loạt bài viết nghiên cứu sử thi Mahabharata từ góc nhìn
sinh thái, đó là bài nghiên cứu Đạo trong Mahabharata như là cách phản ứng
đối với sự khủng hoảng môi trường: một dự đoán (Dharma in the Mahabharata
as a response to ecological crises: A speculation. The Trumpeter, số 9 năm
2009) và bài viết Một cái nhìn sinh thái xã hội về vài đoạn trong sử thi
Mahabharata (A social ecological perspective on some episodes from the
Mahabharata, Indian Journal of Eco-criticism 2 năm 2009).
Trong bài viết gây tiếng vang Quá trình xanh về sự phản kháng trong thơ
Ả rập: Diễn giải một số bài thơ Ả rập chọn lọc từ góc độ phê bình sinh thái
(Greening of resistance in Arabic poetry: An ecocritical interpretation of
selected Arabic poems, The Southeast Asian Journalof English Language
Studies – Vol 21(1): 13 – 22), Hamoud y’ahya Ahmed phân tích một số bài thơ
Ả rập từ lăng kính phê bình sinh thái để khám phá cách thức môi trường tự
nhiên là một lực định hình cá thể và góp phần vào sự xanh hóa phong trào phản
11
kháng thông qua các cộng đồng sinh học trong thế giới Ả rập. Tiền đề của bài
báo xuất phát từ những khẳng định của phê bình sinh thái gần đây về ranh giới
linh hoạt mềm dẻo, có thể tràn qua được, của lĩnh vực này và về khả năng ứng
dụng của nó như là một lăng kính mà qua đó chúng ta có thể đọc bất cứ văn bản
văn học nào. Bài viết tập trung vào các bài thơ Ả rập để xem xem các nhà thơ
Ả rập đã gắn bó với môi trường tự nhiên và được thể hiện ra sao trong các bài
thơ của mình. Bài viết dựng lại việc những nhà thơ Ả rập đã nỗ lực như thế nào
để biểu hiện theo kiểu sinh thái về sự phản kháng trong thơ Ả rập. Từ đó, bài
viết kết luận về sự hiện diện sâu sắc và gắn bó của thế giới tự nhiên trong việc
miêu tả những phản kháng của con người đối với việc lấn chiếm đất đ... xuất đã, đang và sẽ là vấn nạn, đại nạn đối với con người và vạn vật.
24
Rừng khô, suối cạn, biển nhiễm độc, cá chết, lũ lụt, hạn hán, vỡ đập, tràn
bùnliên tục ập đến như những mối “họa vô đơn chí”. Vì thế, với động thái
trách nhiệm và lắng nghe trái đất, nghiên cứu văn học từ góc nhìn sinh thái học
chắc chắn không phải là “thấy người ta ăn khoai, mình vác mai đi đào”, cũng
không phải thương vay khóc mướn, mà là công việc cần làm, phải làm của
người trong cuộc, thể hiện sự hồi đáp của khoa học văn chương đối với tiếng
kêu cứu của môi trường sinh thái” [76,17]. Những điều “tâm sự” của nữ học giả
Nguyễn Thị Tịnh Thy với bạn đọc như là đồng vọng với lời gan ruột của Karen
Warren trong Triết học nữ quyền sinh thái: Cái nhìn phương Tây về định nghĩa
và tại sao triết lí đó quan trọng (Ecofeminist philosophy: A Western perspective
on what It is and why it matters; Lanham: Rowman&Littlefield Publishers,
Inc, 2000). Ngay mở đầu chương 1, trước khi bàn về mối liên hệ giữa các vấn
đề môi trường và vấn đề xã hội, trong đó có vấn đề nữ quyền, tác giả viết “Cây,
rừng, và sự phá rừng. Nước, hạn hán, và sa mạc hóa. Sản xuất thực phẩm,
nghèo đói, và chất thải độc hại. Cuộc khủng hoảng về đa dạng sinh học, sinh
vật hoang dã, và sự ngược đãi động vật”[144]. Định nghĩa của Nguyễn Thị Tịnh
Thy về văn học sinh thái cũng cho thấy sự nhấn mạnh của tác giả đối với tinh
thần dấn thân xã hội của bộ phận văn học này: “Văn học sinh thái còn thể hiện
trách nhiệm sinh thái, lý tưởng sinh thái, phê phán mặt trái của văn minh, phản
ánh nguy cơ sinh thái, nguy cơ tinh thần, nguy cơ tư tưởng và nguồn gốc xã
hội của các nguy cơ đó”[76,93].Với những băn khoăn về vấn đề xã hội, chính
trị của phê bình sinh thái, cả hai tác giả đều tham gia vào làn sóng thứ hai của
cách tiếp cận đối với văn học, văn hóa trên. Trong các bài tạp chí và các bài
tham luận tại các hội thảo như Trăm năm còn lại của Trần Duy Phiên – nhìn từ
lí thuyết phê bình sinh thái (Nghiên cứu văn học (898), số 1, 2015) và Khủng
hoảng môi trường và trách nhiệm của nhà văn; Đọc hiểu xanh về Thập giá giữa
rừng sâu của Nguyễn Khắc Phê (Tạp chí khoa học - 385, Đại học sư phạm Huế,
số 8, 2016). Ở đây, Nguyễn Thị Tịnh Thy chỉ ra thực tế con người cưỡng đoạt,
tàn phá tự nhiên (rừng sâu nước thẳm, gió núi mưa ngàn, chim muông thú
hoang, vàng sa khoáng...), thiên nhiên cuồng nộ trừng phạt lại con người. Cuộc
chiến bảo vệ rừng xanh giữa kiểm lâm và bọn lâm tặc. Mặt trái của văn minh đô
25
thị khiến tài nguyên rừng bị tàn phá, khai thác, tận diệt. Thiên nhiên hung dữ
trừng phạt con người. Trong bài viết Sáng tác và phê bình sinh thái – tiềm năng
cần khai thác của văn học Việt Nam (Tạp chí văn nghệ quân đội, số 10 năm
2014), Nguyễn Thị Tịnh Thy chỉ ra phê bình sinh thái còn là một sự “phản ứng
chậm”, các sáng tác và phê bình sinh thái nên trở thành một khuynh hướng gắn
bó thiết thực với đời sống văn chương và đời sống xã hội, phát huy trách nhiệm
của nhà văn trong việc bảo vệ môi trường. Các nhận định của nữ tác giả rõ ràng
là nằm trong sự chuyển hướng của phê bình sinh thái thế giới ở làn sóng thứ
hai, đó là sự quan tâm đến các vấn đề xã hội, chính trị.
Công trình hệ thống tiếp theo thể hiện phê bình sinh thái ở Việt Nam cộng
hưởng với làn sóng thứ hai của phê bình sinh thái trên thế giới là cuốn Phê bình
sinh thái với văn xuôi Nam Bộ (Bùi Thanh Truyền chủ biên, NXB Văn hóa –
Văn nghệ Thành phố Hồ Chí Minh, 2018). Cuốn sách thể hiện một cách rõ nét
quan điểm “dấn thân” và “có trách nhiệm với xã hội” trong cách tiếp cận văn
chương từ góc độ phê bình sinh thái. Điều này thể hiện ở ngay định nghĩa về
phê bình sinh thái bao trùm cuốn sách này, đó là: “Phê bình sinh thái là sự
lên tiếng của khoa học văn chương trước sự lâm nguy của môi trường, những
kết quả bước đầu của phê bình sinh thái là một minh chứng về sự nhạy cảm,
bản lĩnh, cái tâm và trách nhiệm công dân của người nghiên cứu đối với thực
trạng xã hội hôm nay” (trang bìa)[82]. Tác giả Trần Thị Ánh Nguyệt trong bài
Phê bình sinh thái – khuynh hướng nhiều tiềm năng trong phê bình văn học Việt
Nam liệt kê một loạt các sự kiện lịch sử xã hội (chiến tranh, quá trình công
nghiệp hóa hiện đại hóa) như là những tác nhân gây nên sự hủy hoại về môi
trường, môi sinh ở Việt Nam. Điều đặc biệt là các sự kiện tác giả liệt kê là
những gì đang diễn ra, hay diễn ra gần đây và là những việc gây chú ý sâu rộng
với cộng đồng như sự kiện tê giác biến mất ở Việt Nam năm 2010, sự kiện voi
Tây Nguyên không có rừng để sống về tàn sát những cánh đồng, sự kiện sếu
đầu đỏ di cư hoàn toàn sang Campuchia, việc sử dụng thuốc trừ sâu trong nông
nghiệp đã tiêu hủy môi trường sống của thực vật, động vật.. tại các khu vực của
đất nước. Các tác giả khác như Bùi Thanh Truyền, Phạm Ngọc Lan nêu ra sự
thực về Nam Bộ với sự gánh chịu của cuộc biến đổi khí hậu toàn cầu, việc phá
26
rừng đầu nguồn, phá rừng phòng hộ do “lòng tham xé đáy” [82,156] của con
người. Như vậy, phê bình sinh thái với các học giả Việt Nam là một hành động
mang tính trách nhiệm xã hội của trí thức nước nhà trước các vấn đề môi trường
trong sự liên đới với các vấn đề xã hội, chính trị, lịch sử quốc gia.
Bài phát biểu đề dẫn cho hội thảo quốc tế “Phê bình sinh thái: Tiếng nói
toàn cầu, tiếng nói bản địa” của Nguyễn Đăng Điệp Thời đại khủng hoảng môi
trường và vai trò, vị thế của phê bình sinh thái cũng cho thấy một cách hàm ẩn
các vấn đề thuộc về chính trị, xã hội là động lực, cũng là mục tiêu của các
nghiên cứu và các sự kiện phê bình sinh thái ở Việt Nam. Lớp hiển lộ và được
cấu trúc có hệ thống trong bài viết này là những quan sát của nhà nghiên cứu về
sự ra đời, phát triển và những thành tựu của phê bình sinh thái. Cụ thể tác giả đi
vào phân tích bốn đặc trưng nổi bật của phê bình sinh thái: Thứ nhất, phê bình
sinh thái đề xuất tư tưởng lấy sinh thái là trung tâm thay thế tư tưởng coi con
người là trung tâm; Thứ hai, phê bình sinh thái kiếm tìm mối quan hệ giữa “văn
hóa” và “tự nhiên”; “văn minh” và “hoang dã”; Thứ ba, phê bình sinh thái có
hướng tiếp cận liên ngành; Thứ tư, phê bình sinh thái có đối tượng và phạm vi
nghiên cứu riêng. Lớp ý nghĩa đã được tác giả cấu trúc một cách tầng bậc trong
bài viết còn là những đánh giá chung của nhà nghiên cứu về sự phát triển của
văn học sinh thái và phê bình sinh thái ở Việt Nam. Nhưng điều thú vị hơn là
những hàm ý về các vấn đề xã hội, chính trị, lịch sử trong cách tiếp cận các
phương diện sinh thái, môi trường trong văn học. Đó là khi tác giả khẳng định
hội thảo quốc tế Phê bình sinh thái tiếng nói bản địa, tiếng nói toàn cầu trong
việc đã tạo ra một diễn đàn khoa học để các nhà nghiên cứu trong và ngoài
nước bàn thảo, đối thoại làm sâu sắc hơn những vấn đề lí luận của phê bình sinh
thái, “phân tích và truy vấn mối quan hệ giữa con người và tự nhiên”, “góp phần
làm thay đổi nhận thức của cộng đồng, điều chỉnh những nhầm lẫn tai hại về môi
trường sinh thái, từ đó có những ứng xử phù hợp với tự nhiên, biết lắng nghe
tiếng nói của tự nhiên vì mục tiêu phát triển bền vững” [18, 46]. Cách viết hàm
ẩn và kết luận của bài đề dẫn về sự hợp nhất tam vị nhất con người - xã hội - tự
nhiên như là nền tảng của xu hướng văn học sinh thái và phê bình sinh thái cho
thấy quan niệm nổi bật của phương Đông về sự hài hòa giữa thiên nhiên và con
27
người là đặc trưng của phê bình sinh thái ở Việt Nam. Nói cách khác, những
khám phá và truy vấn về các phương diện môi trường, tự nhiên trong công trình
phê bình sinh thái ở Việt Nam có đặc trưng là khẳng định lại quan điểm văn hóa
truyền thống của phương Đông (Nho giáo, Phật giáo) về mối quan hệ giữa con
người và thiên nhiên chứ không phải là nêu lên trách nhiệm của lịch sử, xã hội,
chính trị như là những tác nhân gây nên các vấn đề về môi trường, sinh thái.
Theo đó, các quan điểm Phật giáo đề xuất tư tưởng thiên nhân bất nhị (con
người và thế giới sinh tồn là một), hay quan điểm Nho giáo về con người và
thiên nhân hợp nhất, coi sự hài hòa giữa con người và thiên nhiên là chuẩn mực
sống của nhân sinh thường được các nhà phê bình sinh thái Việt Nam đưa ra
(một cách trực tiếp hay gián tiếp) như là điểm tựa cho cách tiếp cận văn học
theo hướng phê bình sinh thái. Có thể thấy điều này trong bài viết Nghiên cứu
phê bình sinh thái hiện đại và di sản hóa; nhìn từ cách Sinh thái học tìm về Tam
giáo (Bài viết in trong: Hội thảo khoa học Phát triển văn học Việt Nam trong
bối cảnh đổi mới và hội nhập quốc tế, Viện Văn học, 2014) của Trần Hải Yến;
bài viết Thiên nhiên hợp nhất, từ góc nhìn sinh thái (Phê bình sinh thái – tiếng
nói bản địa, tiếng nói toàn cầu, Kỷ yếu hội thảo quốc tế, Viện Văn học) của
Phương Lựu, v.v... Cuốn sách do Bùi Thanh Truyền chủ biên, dù không nêu lên
một cách trực tiếp, nhưng những nhấn mạnh trong lời đề tựa như “trên cơ sở
phân tích, đánh giá bước đầu văn xuôi Nam Bộ từ góc nhìn phê bình sinh thái,
cuốn sách Phê bình sinh thái với văn xuôi Nam Bộ sẽ góp phần làm sáng tỏ
thêm mối quan hệ hài hòa giữa con người với môi trường tự nhiên, xã hội trên
tinh thần nhân văn hiện đại vì sự phát triển bền vững của vùng đất phương Nam
hiện tại và tương lai” hay “văn học vùng đất này đã góp phần kiến dựng triết lý
tân tự nhiên của thế kỷ XXI: con người là một phần của tự nhiên vì thế phải biết
sống bình đẳng, tế nhị, hòa điệu với tự nhiên hơn là vô cảm, phá phách hoặc tìm
mọi cách để chiến thắng tự nhiên”, và đặc biệt những dòng thổn thức về thiên
nhiên “Chính trái tim biết thổn thức vì môi sinh đã giúp người viết cảm nhận
những cung bậc trầm lắng của cuộc đời. Đó là những con người đang nhẫn nại
góp phần giữ sạch môi trường sống, cả trên phương tiện vật chất lẫn tinh thần.
Từ đây, con người có thể tìm lại sợi dây thiêng liêng kết nối với tự nhiên để dệt
28
hy vọng, giấc mơ bay đến tương lai bằng tình yêu thiên nhiên và trách nhiệm
đối với chính môi trường sống của mình “âm vọng diễn ngôn của triết học
phương Đông về mối quan hệ hợp nhất con người và tự nhiên”[82].
Như vậy, phê bình sinh thái ở Việt Nam mặc dù phản ánh sự phát triển của
phê bình sinh thái thế giới qua những giai đoạn khác nhau (từ xu hướng gắn với
các văn bản thiên nhiên đến việc xem xét các vấn đề chính trị, xã hội đặc trưng
như chiến tranh, công nghiệp hóa và hiện đại hóa) nhưng vẫn có những nét riêng
khi hướng đến quan điểm truyền thống về mối quan hệ hợp nhất con người - tự
nhiên. Điều này làm nên đặc trưng của phê bình sinh thái ở Việt Nam trong sự
tương quan với phê bình sinh thái ở một số nước khác trong khu vực. Ví dụ, ở Thái
Lan, như khảo sát của John Ryan (với cách lập bảng khảo sát tương tự) chỉ ra sự
phân tích vấn đề môi trường trong các tác phẩm văn học thường được giới hạn
trong những thảo luận về chủ nghĩa khu vực, lịch sử và tôn giáo. Trong khi đó, ở
Ấn Độ, như thống kê (với bản khảo sát tương tự) của Rayson K. Alex, đã có một
số nghiên cứu về nữ quyền sinh thái và có sự nhấn mạnh vào sự cần thiết của cách
tiếp cận sinh thái hậu thuộc địa. Nhìn chung, phong trào có tổ chức về phê bình
sinh thái bắt đầu vào năm 2004 ở Ấn Độ đã chứng kiến một sự chuyển động theo
cấu trúc xã hội - chính trị - văn hóa - tôn giáo tìm ra ảnh hưởng của phê bình sinh
thái đến cấu trúc sinh thái của cộng đồng bản địa.
Điều này cho thấy phê bình sinh thái có khả năng cao được phát triển hơn
nữa trong nghiên cứu văn học Việt Nam. Sự cần thiết về các nghiên cứu phê bình
sinh thái ở Việt Nam càng được nhấn mạnh do sự nhận thức của cộng đồng trước
những thay đổi môi trường đặc biệt liên quan đến ô nhiễm không khí, vệ sinh thực
phẩm, sự phá hủy hệ thống thủy sinh và lâm sinh. Những công trình phê bình sinh
thái rất cần thiết với bộ phận văn học hiện đại Việt Nam (giai đoạn 1930-1945),
đặc biệt với bộ phận thơ. Điều đó là vì hiện tại bộ phận văn học này chưa trở thành
đối tượng của nhiều nghiên cứu phê bình sinh thái ở Việt Nam. Như bảng 2 chỉ ra,
hiện chỉ có hai bài viết về Thơ mới từ góc độ phê bình sinh thái (của tác giả
Nguyễn Đăng Điệp và Nguyễn Thị Minh Thương). Việc khám phá bộ phận văn
học ra đời trong bối cảnh Việt Nam có những tiếp xúc về văn hóa và kinh tế với
phương Tây hiện đại chắc chắn sẽ đem lại những lí giải và những tiếng nói mới về
29
lí thuyết cho phê bình sinh thái. Tóm lại, phê bình sinh thái hứa hẹn nhiều tiềm
năng phát triển trong nghiên cứu văn học ở Việt Nam.
Tiểu kết
Chương này của luận án khảo sát và phân tích lí thuyết phê bình sinh thái đã
được tiếp nhận và vận dụng trong việc nghiên cứu văn học nói chung và Thơ mới
nói riêng ở Việt Nam. Luận án đặt diện mạo và sự phát triển của phê bình sinh
thái ở Việt Nam trong dòng chảy của phê bình sinh thái thế giới trên cả hai
phương diện lí thuyết và ứng dụng. Nói cách khác, luận án không liệt kê và tóm
tắt các công trình phê bình sinh thái ở Việt Nam một cách riêng biệt và tràn lan
mà phân tích và khảo sát chúng theo một định hướng và phương pháp nhất định.
Cụ thể, chúng tôi đặt các sự kiện, các công trình, các xu hướng tiếp nhận và
nghiên cứu phê bình sinh thái ở Việt Nam trong mối tương quan với sự phát triển
và diện mạo của phê bình sinh thái trên thế giới, nhằm chỉ ra các dấu mốc, các xu
hướng của phê bình sinh thái trong nước đang nằm ở đâu và có mối tương quan
gì với phê bình sinh thái trên thế giới. Mục tiêu của chương cũng để chỉ ra sự kế
tục và khác biệt của phê bình sinh thái ở Việt Nam trong mối tương quan với Phê
bình sinh thái trên thế giới. Luận điểm chính của chương đã xem phê bình sinh
thái ở Việt Nam như một biểu hiện các hướng phát triển của lí thuyết phê bình
sinh thái trên toàn cầu; đồng thời, phê bình sinh thái trong nước có đặc trưng
riêng là gắn với vấn đề xã hội, lịch sử, chính trị của Việt Nam hiện đại. Phần lớn
tiêu đề của các phần trong chương nhằm cố gắng thể hiện mối liên quan của phê
bình sinh thái ở quốc gia với phê bình sinh thái thế giới (sẽ được trình bày ở
Chương 2). Bằng cách này, người viết hi vọng phần tổng quan về phê bình sinh
thái ở Việt Nam sẽ là một đóng góp cho những tổng kết về mặt lí luận đối với
hướng tiếp cận văn học từ sinh thái và môi trường, tức phê bình sinh thái.
30
Chƣơng 2
PHÊ BÌNH SINH THÁI NHƢ LÀ MỘT HƢỚNG TIẾP CẬN VĂN HỌC
2.1. Phê bình sinh thái lấy trái đất làm trung tâm trong nghiên cứu văn học
2.1.1. Tiền đề triết học của phê bình sinh thái
Những bàn luận mang tính lí thuyết về phê bình sinh thái phát triển về sau
chủ yếu dựa vào nội dung của phê bình sinh thái cổ điển, đó là việc đặt thiên
nhiên như là hệ quy chiếu trung tâm trong nghiên cứu tác phẩm văn học. Thể
hiện rõ nhất cho điều này là khi các nhà lí thuyết về phê bình sinh thái chỉ ra các
tiền đề triết học của hướng tiếp cận văn học và trước hết là các tư tưởng triết
học của Phương Tây. Trung tâm của phê bình sinh thái như đã nói đặt ra vấn đề
quan hệ giữa con người với tự nhiên, kêu gọi tôn trọng tự nhiên. Nhưng con
người dù muốn hay không muốn vẫn phải khai thác thế giới tự nhiên để đảm
bảo sự sinh tồn của mình. Khai thác tự nhiên để phục vụ lợi ích của loài người
đã diễn ra từ thời tiền sử. Đến thời hiện đại hóa, công nghiệp hóa, và đặc biệt
trong thời đại Ánh Sáng với tư tưởng của Descartes “Tôi tư duy tức là tôi tồn
tại” cùng chủ nghĩa duy lý ra đời đã khiến con người ảo tưởng và kiêu ngạo về
sức mạnh của mình. Vì vậy mà con người cho mình cái quyền được thống trị tự
nhiên, tước đoạt tự nhiên và thiết lập tư tưởng con người là trung tâm. Hệ lụy
của sự khai thác tự nhiên vô độ phục vụ cho nhu cầu của con người đã dẫn đến
những hiểm họa về suy thoái môi trường và ô nhiễm sinh quyển một cách
nghiêm trọng. Trong guồng quay hối hả tận diệt tự nhiên, con người rất cần
phải dừng lại, nhìn nhận lại sự sai lầm của chính mình, rất cần phải lên tiếng để
cảnh báo nguy cơ sinh thái, cảnh tỉnh nhân loại hãy tôn trọng tự nhiên và bảo vệ
tự nhiên vì đó cũng là cách để bảo vệ sự sống của loài người. Ở bối cảnh này,
nhiều học thuyết của các triết gia Phương Tây đã ra đời làm nền tảng triết học
cho sự hình thành của phê bình sinh thái.
Tiền đề thứ nhất - Ý thức sinh thái (Ecological consciousness): Ý thức
sinh thái, xuất hiện vào nửa cuối thế kỉ XX, đây được xem là một bước phát
triển của tư tưởng nhân loại về việc nhìn nhận mối quan hệ giữa con người với
31
tự nhiên. Nếu như sinh thái học cho rằng mọi sinh vật trong tự nhiên đều có mối
quan hệ mật thiết với nhau trong đó có con người thì trên cơ sở ấy ý thức sinh
thái cũng khẳng định mọi sinh thể trong thế giới đều có mối quan hệ bình đẳng
với nhau. Đây là tư tưởng phản tư lại quan điểm cho rằng con người là trung
tâm. Bởi lẽ con người cũng là một thực thể trong vũ trụ bao la. Trong thế giới
đó, nhiều cá thể liên quan mật thiết với nhau mà con người cũng không thể tách
mình ra khỏi mối quan hệ này. Đi ngược lại quy luật là phá vỡ chỉnh thể của sự
phát triển tự nhiên, điều đó đồng nghĩa với việc tìm đến con đường hủy diệt,
suy vong. Chính vì thế cần tạo ra sự phát triển hài hòa giữa con người và tự
nhiên, con người tôn trọng tự nhiên và bảo vệ tự nhiên chính là cội nguồn của ý
thức sinh thái. Và đó cũng là tư tưởng tiến bộ mà phê bình sinh thái tìm kiếm
trong các tác phẩm văn học sinh thái.
Tiền đề thứ hai - Triết học sinh thái (Ecological philosophy): Arne Naess
tác giả sinh thái học bề sâu và triết gia hậu Marxit – Félix Guattari được xem là
người khởi sướng thuật ngữ này. Theo quan điểm đó thì chỉ có một thế giới duy
nhất là thế giới vật chất tồn tại khách quan và độc lập với ý thức con người.
Con người là một phần của thế giới vật chất, các hoạt động sinh tồn của con
người liên quan chặt chẽ với môi trường xung quanh mình. Từ khi xuất hiện
cho đến nay thì con người luôn có khát vọng chinh phục và chế ngự tự nhiên.
Nhiều hoạt động của con người đã tác động vào tự nhiên nhưng sự lạm dụng
quá mức cũng sẽ dẫn đến nguy cơ mất cân bằng sinh thái thậm chí tự nhiên còn
có thể quay trở lại “trả thù” con người. Ph.Ăngghen từng viết “Chúng ta hoàn
toàn không thể thống trị giới tự nhiên như một kẻ xâm lược đi thống trị một dân
tộc khác,chúng ta nằm trong lòng tự nhiên và tất cả sự thống trị của chúng ta
đối với giới tự nhiên là ở chỗ, chúng ta khác với tất cả các sinh vật khác là
chúng ta nhận thức được các quy luật của giới tự nhiên và có thể sử dụng được
những quy luật đó một cách chính xác”[dẫn theo 81;19]. Trên cơ sở đó triết học
sinh thái đã chỉ ra con người là một phần của vũ trụ và không thể tồn tại độc lập
được. Con người cần tôn trọng sự phát triển bình đẳng của mọi sinh mệnh trong
chỉnh thể tự nhiên. Triết học sinh thái đề cao quan điểm con người và tự nhiên
phát triển hài hòa.
32
Tiền đề thứ ba, một tiền đề được nhà lí thuyết phê bình sinh thái Lawrence
Buell tập trung phân tích kĩ trong bài nghiên cứu “Phê bình sinh thái, những xu
hướng đang xuất hiện” [97; 87-115], là Sinh thái học bề sâu(Deep ecology):
Buell cho rằng, đây là một khái niệm được Arne Naess nhà triết học nổi tiếng
người Na Uy khởi xướng vào khoảng những năm 80 của thế kỷ XX. Sinh thái
học bề sâu ra đời đã “phê phán” lại quan niệm của sinh thái học truyền thống
hay còn gọi là sinh thái học bề mặt (Shallow ecology). Trong quan niệm của
sinh thái học bề mặt thì thiên nhiên và môi trường, sự sống chỉ có giá trị như
công cụ cung cấp và phục vụ những lợi ích cho con người. Từ cái nhìn đó mà
con người sẽ có thái độ cư xử với thiên nhiên sao cho thiên nhiên có thể đem lại
nhiều lợi ích nhất cho con người. Như vậy, bảo vệ môi trường hay thiên nhiên
chính là để cho đời sống con người tốt hơn chứ không phải là vì bản thân môi
trường tự nhiên. Có nghĩa là con người là trung tâm của thế giới, con người lấy
sức mạnh của mình để khai thác tự nhiên phục vụ cho sự phát triển của quốc gia
mình thêm giàu mạnh. Trái ngược với quan niệm trên, Sinh thái học bề sâu mà
cha đẻ là nhà triết học Arne Naess đã chỉ ra, con người không phải là trung tâm
của vũ trụ, mọi sinh vật trong sinh quyển đều có hình thức sống như con
người,vì thế đều có giá trị nội tại và có quyền tự bảo vệ sự sinh tồn của mình:
“mọi sinh vật, dù là người, động vật hay thực vật đều có quyền sinh sống bình
đẳng và nở hoa”[dẫn theo 24;107]. Sinh thái học bề sâu nhấn mạnh sự bình
đẳng của muôn loài trong chỉnh thể sinh thái. Nghĩa là mọi sinh vật kể cả con
người đều có giá trị nội tại và có quyền được phát triển như nhau. Ở đây không
có sự phân biệt loài nào cao hơn, loài nào thấp hơn cũng như loài nào quan
trọng hơn và loài nào không quan trọng bằng. Như thế, thì theo quan điểm này,
con người không phải là trung tâm, quyền lợi con người không phải là mục đích
tối cao để chi phối các hoạt động khác. Con người cũng chỉ là một sinh vật
sống, một bộ phận trong chỉnh thể sinh thái có mối quan hệ chặt chẽ với nhau.
Cho nên cần tôn trọng sự phát triển của chỉnh thể mà không thể tự ý phá vỡ nó
bởi lẽ sự phát triển của con người và các loài sinh vật khác đều góp phần vào
việc tạo dựng những giá trị nội tại, sự đa dạng của các hình thức sống khác
nhau trong sinh quyển đóng góp vào quá trình thực hiện những giá trị nội tại
33
đó. Tóm lại, sinh thái học bề sâu lên tiếng bảo vệ tự nhiên, đòi quyền lợi cho tự
nhiên vì chính tự nhiên chứ không phải vì mục đích bảo vệ tự nhiên để mang lại
lợi ích nhiều hơn cho con người. Sinh thái học bề sâu đề cao tư tưởng bình đẳng
sinh thái trung tâm phủ nhận quan điểm con người là trung tâm. “Sinh thái học
chiều sâu chỉ việc đào sâu tư tưởng lý luận sinh thái để dò tìm những vấn đề
mang tính căn bản của sinh thái. Sinh thái học chiều sâu quan sát nguy cơ
nghiêm trọng của môi trường hiện tại, phê phán “độ nông” (Shallow ecology)
trong tư tưởng sinh thái học truyền thống, đồng thời trả lời cho câu hỏi nhân
loại sẽ đi về đâu”[24;106].
Tiền đề thứ tư - Luân lí học trái đất (The land ethic): Đây là học thuyết do
Aldo Leopoid đề xuất trong tác phẩm Niên giám xứ cát (A sand country Almanac).
Ở đây ông cho rằng thế giới tự nhiên hay trái đất có tên gọi là “cộng đồng trái đất”.
Trong quan niệm của mình Aldo Leopoid nhấn mạnh: “Cộng đồng trái đất” của
chúng ta là một thể thống nhất trong đó các yếu tố như động vật, thực vật hay
nước, không khí, đất đai và ngay cả con người đều góp phần tạo nên một chỉnh thể
hoàn chỉnh, ổn định của hệ thống sinh thái. Khi chỉnh thể sinh thái hoàn chỉnh
không bị chia tách, phá vỡ sẽ tạo nên vẻ đẹp sinh thái và đó là tư tưởng tiến bộ của
luân lí học trái đất hướng tới. Bởi lẽ, vẻ đẹp sinh thái là nguyên tắc luân lý và tiêu
chuẩn của thiện và ác. Theo ông “Khi một sự vật có ích cho việc giữ gìn vẻ đẹp, sự
ổn định, hài hòa của thể chung của sinh vật, thì nó là chính xác, và nó là sai lầm
khi đi ngược lại” [dẫn theo 27; 40]. Chính vì thế con người cần phải tôn trọng tính
chỉnh thể này để bảo vệ trái đất, bảo vệ tự nhiên.
Tiền đề thứ năm - Thuyết giải phóng động vật (Animal liberation theory).
Một giả thiết đặt ra nếu một ngày kia trên hành tinh của chúng ta xuất hiện một
loài sinh vật thông minh hơn hẳn con người và chúng cũng tàn sát, ăn thịt con
người thì loài người chúng ta sẽ kêu gào đau đớn ra sao? Lúc ấy ai sẽ lắng nghe
tiếng kêu cứu của chúng ta? Như thế, cũng rất có thể những loài động vật con
người đang ăn thịt cũng sẽ vang lên những tiếng kêu bi thương như vậy. Và đó
cũng là nền móng để Peter Singger giáo sư của trường đại học Princeton khởi
xướng ra thuyết giải phóng động vật. Năm 1975 với cuốn sách có tên Animal
Liberation (Giải phóng động vật) của Peter Singger đã gây được tiếng vang lớn
34
và trở thành cuốn sách bán chạy nhất lúc bấy giờ. Trong quan niệm của mình
ông đề cao sự bình đẳng của động vật với con người. Cùng với nhiều nghiên
cứu khác ông chỉ ra động vật cũng có thế giới nội tâm và có cảm xúc, chúng
cũng cảm thấy vui sướng, đau đớn, buồn bã, hờn giận, sợ hãi,..và chúng thông
minh hơn con người tưởng. Song điều quan trọng là động vật biết đau đớn khi
con người sát hại chúng. Như thế, động vật cũng là những sinh linh có linh hồn.
Cho nên giết hại động vật chẳng khác nào giết chết con người. Cần đối xử bình
đẳng và tôn trọng động vật. Ông khẳng định nếu con người cần có nhiều
phương thức khác nhau để tồn tại sự sống thì một trong những cách thức con
người cần phải thay đổi, dừng lại ngay là không gây thiệt hại cho động vật. Và
hành động thiết thực mà ông kêu gọi là hãy ăn chay. Thuyết giải phóng động
vật của Peter Singger đã góp phần thức tỉnh đạo đức của con người trong cách
cư xử với động vật. Kêu gọi con người yêu động vật, bảo vệ động vật và chính
là yêu môi trường sống xung quanh ta.
Tiền đề thứ sáu - Tư tưởng sinh thái học chủ nghĩa Marx và Engels: Marx
và Engels đã chỉ ra nguồn gốc phát sinh nguy cơ phá hủy môi trường của chủ
nghĩa tư bản. Theo hai ông, thì chủ nghĩa tư bản và tự nhiên có sự mâu thuẫn
với nhau. Phương thức sản xuất tư bản đã lợi dụng sự phát triển vượt bậc của
khoa học kỹ thuật để khai thác, bóc lột, tận diệt tự nhiên phục vụ cho sự phát
triển của mình. Trong cuốn Phép biện chứng tự nhiên, Engels cho rằng giữa con
người và tự nhiên có mối quan hệ phụ thuộc lẫn nhau. Song cần hạn chế sự
chiếm đoạt và thống trị của con người với tự nhiên. Ông cũng khẳng định một
cách biện chứng: con người luôn muốn khẳng định sức mạnh của mình và
muốn chinh phục tự nhiên nhưng muôn đời con người không bao giờ có thể
chiến thắng được tự nhiên hùng vĩ. Nếu con người càng cố gắng tận diệt tự
nhiên, khai thác để phục vụ cho lợi ích của mình thì đến một ngày tự nhiên sẽ
quay trở lại trừng phạt con người. Chính vì thế, con người không nên tìm cách
chống lại tự nhiên, coi tự nhiên là kẻ thù mà hãy sống hài hòa và tôn trọng quy
luật của tự nhiên.
Từ các nền tảng triết học trên, có thể nhận ra một luận điểm chung rằng
phê bình sinh thái, với việc đặt thiên nhiên hay sinh thái ở điểm quy chiếu trung
35
tâm trong nghiên cứu văn học, dựa trên tư duy mang tính kiểu thân rễ (rhizomic
thought) mà Gilles Deleuze và Félix Guattari phát triển trong công trình Chủ
nghĩa tư bản và Tâm thần phân liệt (Capitalism and Schizophrenia, 1972–
1980). Một bộ rễ chùm như miêu tả của Deleuze và Guattari không có điểm mở
đầu và không có điểm kết thúc, nó luôn luôn ở trung điểm, ở giữa mọi thứ, tồn
tại cùng nhau; cấu trúc rễ chùm là liên kết với nhau. Tương tự, tư duy theo kiểu
thân rễ chỉ một mạng lưới không có trật tự trên dưới, nó lan tỏa, không có điểm
cuối và không có nguồn gốc; thân rễ là kết nối với nhau, liên hợp với nhau, mở
rộng ra vô cùng và luôn trong quá trình hình thành. Nói cách khác, thân rễ được
hiểu như là một hệ thống phi trung tâm, không có trật tự cao thấp, nó hoạt động
bởi sự đa dạng hóa và sự liên kết. Tinh thần thân rễ của phê bình sinh thái thể
hiện ở chỗ các nhà sinh thái học cũng xóa bỏ mối quan hệ thứ tự, chia cắt, cố
định giữa con người và tự nhiên; thay vào đó, phê bình sinh thái đưa lại mô
hình liên kết, tương tác lẫn nhau và mang tính tạo sinh giữa con người và thế
giới tự nhiên [102].
2.1.2. Phê bình sinh thái và “các câu chuyện có cây cối”
Các nhà phê bình sinh thái thường kể hai câu chuyện mang tính tưởng
tượng nhằm ngầm khẳng định về vai trò của văn học viết về thiên nhiên trong
sự định hình hướng tiếp cận văn học từ góc độ phê bình sinh thái. Theo đó, một
cuốn sách tuyển chọn các tác phẩm kinh điển viết về thiên nhiên của Mỹ bị một
nhà xuất bản từ chối với nhận xét là “những câu chuyện này có cây cối ở trong
chúng”. Nhà xuất bản đã định vị mình là đang ở New York, từ chối những câu
chuyện đó bởi vì chúng có tính phương Tây và chúng có thiên nhiên ở trong
chúng. Một câu chuyện khác có một cốt truyện ngược lại, là tất cả các chuyện
kể đã được xuất bản hay ở dưới dạng bản thảo là có cây cối ở trong ấy bởi vì
chúng được làm từ thiên nhiên: thiên nhiên luôn luôn với chúng ta ở tại ngôi
nhà. Câu chuyện này cho thấy phương pháp tiếp cận cổ điển của phê bình sinh
thái là nói về văn học “cứ như là văn học có cây cối ở trong nó” [98,9-36]. Qua
đó, chúng ta thấy được điều gì về phương pháp tiếp cận văn học từ góc độ phê
bình sinh thái từ câu chuyện trên?
36
Câu chuyện trên cho thấy, phê bình sinh thái là “cách tiếp cận lấy trái đất
làm trung tâm trong nghiên cứu văn học”[111]. Đây là định nghĩa mang tính
tuyên ngôn của phê bình sinh thái, nó xác định đặc trưng của phê bình sinh thái
trong tương quan với các hướng nghiên cứu văn học khác. Tuyên ngôn này
được Cheryll Glotfelty nêu trong lời mở đầu của cuốn được gọi là sách giáo
khoa về phê bình sinh thái đó là Sách giáo khoa về phê bình sinh thái: Các dấu
mốc trong sinh thái văn học (The ecocriticism reader: Landmarks in lterary
ecology, Athens and London: University of Georgia, 1996) do Cheryll Glotfelty
và Harold Fromm biên tập.
Trong thực tế, phê bình sinh thái (ecocriticism), một hướng tiếp cận văn
học trong mối quan hệ với các vấn đề môi trường, sinh thái, được manh nha từ
những năm 60 ở Anh, Mỹ và phát triển rầm rộ từ những năm 90 của thế kỉ XX,
không chỉ ở phương Tây mà còn ở nhiều nước còn lại trên thế giới. Như vậy,
trước Glotfelty và nhóm tác giả của cuốn “sách giáo khoa”, các nhà nghiên cứu
văn học đã nhấn mạnh những khía cạnh khác nhau của văn học trong mối liên
hệ với môi trường sinh thái; sự khác nhau này phản ánh sự vận động, mở rộng
về nội dung của phê bình sinh thái.
Cụ thể, năm 1972, Joseph W Meeker, trong công trình Hài kịch sống sót:
nghiên cứu sinh thái văn học (The comedy of survival: Studies in literary ecology,
New York: Scribner's, 1972), đã kết nối nghiên cứu văn học và nghiên cứu môi
trường như là một lĩnh vực tìm hiểu khi ông phân tích hài kịch và bi kịch như là
những khái niệm sinh thái.Với khái niệm “sinh thái học văn học” (literary ecology)
[122,7], nhà học giả thuộc chuyên ngành văn học so sánh và dâ...ễn
gà lôi, chó sói).. bị săn bắn. Huy Thiệp
thuyết phê bình sinh
Thiên nhiên quay trở lại trừng
thái - 2014 phạt con người.
Nữ quyền luận sinh thái: thiên
tính nữ, vẻ đẹp của các sơn nữ.
5 Luận Văn – ĐHSP Hà Cái tự nhiên từ điểm Đặng Thị Thái Vận dụng hệ thống lí luận phê Qua tác phẩm
Nội Hà bình sinh thái trong cái nhìn về của Nguyễn
nhìn phê bình sinh thái
thế giới tự nhiên phi nhân. Đặc Minh Châu,
(Qua tác phẩm của biệt, luận văn đi sâu vào Nguyễn
nghiên cứu sự mơ hồ của HuyTthiệp,
Nguyễn Minh Châu,
những diễn ngôn văn học Nguyễn Ngọc
Nguyễn HuyTthiệp, trong việc tạo dựng cái tự Tư
nhiên phi nhân, qua các sáng
Nguyễn Ngọc Tư) -
tác của Nguyễn Minh Châu,
Nguyễn Huy Thiệp, Nguyễn
15
2014 Ngọc Tư nhằm làm rõ phản
ứng chung của văn học đối
với khủng hoảng sinh thái
đang diễn ra.
6 Luận văn – ĐHSP Thái Cảm quan sinh thái Ngô Thị Thu Khám phá nội dung và nghệ Truyện ngắn
Nguyên Giang thuật trong các truyện ngắn Nguyễn Huy
trong truyện ngắn
của Nguyễn Huy Thiệp để Thiệp
Nguyễn Huy Thiệp – nhận thấy cảm quan sinh thái
của nhà văn. Chỉ ra vai trò của
2014 .
vấn đề sinh thái trong văn học
đối với xã hội hiện nay. Góp
thêm một cái nhìn mới về giá
trị của truyện ngắn Nguyễn
Huy Thiệp, làm rõ hơn mối
quan hệ giữa con người và
thiên nhiên trong các sáng tác
này
7 Luận án – ĐHPS Hà Nội Con người và tự nhiên Trần Thị Ánh Tổng thuật chi tiết các nghiên Văn xuôi Việt
Nguyệt cứu về phê bình sinh thái trong Nam sau năm
trong văn xuôi Việt
nước và trên thế giới. Chứng 1975
Nam sau năm 1975 từ minh sau năm 1975, đặc biệt là
sau năm 1986 có một khuynh
góc nhìn phê bình sinh
hướng văn xuôi sinh thái.
thái – 2015 Chỉ ra những đặc điểm của văn
xuôi sinh thái như là một xu
hướng văn học có tầm quan
16
trọng xã hội thẩm mĩ và đứa
đựng những nhân tố cách tân
nghệ thuật.
Khảo sát hai bình diện của
khuynh hướng văn xuôi sinh
thái xác lập cho văn chương
đương đại, đó là cảm hứng phê
phán trên tinh thần sinh thái và
xác lập đạo đức sinh thái
8 Tạp chí nghiên cứu văn Trăm năm còn lại của Nguyễn Thị Quá trình sinh tồn và hủy diệt Tiểu thuyết
Tịnh Thy của một gia đình trước sự “Trăm năm còn
học (898), số 1, 2015. Trần Duy Phiên – nhìn
trừng phạt của tự nhiên. lại” của Trần
từ lí thuyết phê bình Con người cưỡng đoạt, tàn phá Duy Phiên
tự nhiên (rừng sâu nước thẳm,
sinh thái - 2015
gió núi mưa ngàn, chim
muông thú hoang, vàng sa
khoáng...), thiên nhiên cuồng
nộ trừng phạt lại con người.
9 Tạp chí Sông Hương, Số Tư tưởng sinh thái Nguyễn Thị Cuộc đối đầu giữa con người Truyện ngắn
317, tháng 07 Tịnh Thy và côn trùng (kiến, mối, nhện). “Kiến và
trong truyện ngắn của
Trong cuộc chiến đó con người”, “Mối
Trần Duy Phiên - 2015. người tự mãn sẽ thuần hóa, và người”,
trừng trị những con trùng nhỏ “Nhện và
bé. Nhưng ngược trở lại con người” của
người lại thất bại thảm hại. từ Trần Duy Phiên
đó đặt ra vấn đề “giải cấu trúc
“nhân loại trung tâm”
17
10 Tạp chí khoa học (385), Khủng hoảng môi Nguyễn Thị Cuộc chiến bảo vệ rừng xanh Tiểu thuyết
Đại học sư phạm Huế, số trường và trách nhiệm Tịnh Thy giữa kiểm lâm và bọn lâm tặc. Thập giá giữa
8, 2016 của nhà văn. “Đọc hiểu Mặt trái của văn minh đô thị rừng sâu của
xanh” về Thập giá giữa khiến tài nguyên rừng bị tàn Nguyễn Khắc
rừng sâu của Nguyễn phá, khai thác, tận diệt. Thiên Phê
Khắc Phê - 2016 nhiên hng dữ trừng phạt con
người
11 http;//vietvan.vn/vi/bvct/i Bước đầu tìm hiểu Đặng Thị Thái Sự thất bại của con người Truyện ngắn
d3683/Buoc-dau-tim- Hà trước tự nhiên, mặc dù con Nguyễn Huy
truyện ngắn Nguyễn
hieu-truyyen-ngan- người luôn khát khao chinh Thiệp
Nguyen-Huy-Thiep-tu- Huy Thiệp từ điểm phục.
diem-nhin-phe-binh-sinh- Không gian sinh thái (không
nhìn phê bình sinh thái,
thai.. gian thôn dã): người nông dân
2016 chán ruộng đồng, chối bỏ chốn
đồng quê; Không gian hoang
dã (vì lợi ích trước mắt con
người phá hủy không gian
hoang dã)
12 Hội thảo khoa học Phát Vấn đề - sinh thái đô Đặng Thị Thái Sự phát triển đô thị và hiểm Truyện ngắn
Hà họa hủy diệt môi trường sống Nguyễn Minh
triển văn học Việt Nam thị trong truyện ngắn
- Đô thị hóa là sự phát triển: Châu
trong bối cảnh đổi mới và Nguyễn Minh Châu - nhịp sống, ánh sáng, tiện nghi,
vật chất..
hội nhập quốc tế, Viện 2016
- Đô thi hóa: sự ngột ngạt, tù
túng.
18
Văn học. Đối lập với không gian hoang
dã, rừng núi mênh mông, tự
do, khoáng đạt. Nảy sinh tâm
thức muốn chối bỏ đô thị
13 Thiên nhiên trong Trần Thị Ánh Mất cân bằng sinh thái vùng Truyện ngắn
Nguyệt Nam Bộ (đất lở, núi lở, hạn Nguyễn Ngọc
n/Home/ArticleDetail/vn/ truyện ngắn Nguyễn
hán, xâm ngập mặn, nước nổi Tư
103/1420/thien-nhien- Ngọc Tư (từ góc nhìn kéo dài...); Yêu thương và lắng
nghe, bảo vệ loài vật; Tìm về
trong-truyen-ngan- Phê bình sinh thái) -
nguồn cội tự nhiên để cứu rỗi
nguyen-ngoc-tu-tu-goc- 2016 tâm hồn
nhin-phe-binh-sinh-thai-
tran-thi-anh-nguyet.
14 Hội thảo khoa học Phát Hình tượng loài vật Trần Thị Ánh Lắng nghe tiếng nói từ các Văn xuôi Việt
Nguyệt sinh linh, loài vật biết cảm Nam sau năm
triển văn học Việt Nam trong văn xuôi Việt
nhận đời sống (con chó, con 1975
trong bối cảnh đổi mới và Nam sau năm 1975 từ bò, con bìm bịp, con vịt, con
khỉ, con mèo, ...); Loài vật
hội nhập quốc tế, Viện góc nhìn phê bình sinh
cũng phản chiếu đời sống tâm
Văn học. thái - 2016 hồn con người.
Với quan niệm trên nhằm bác
bỏ quan niệm “con người là
trung tâm” đề xuất tư tưởng
“sinh thái trung tâm luận”.
19
15 Luận Văn – ĐHSP Hà Con người và thiên Lê Thu Bồn Chỉ ra được những đặc trưng Truyện ngắn
cơ bản của mối quan hệ giữa Nguyễn Huy
Nội 2 nhiên trong truyện
con người và thiên nhiên trong Thiệp
ngắn Nguyễn Huy truyện ngắn Nguyễn Huy
Thiệp từ góc nhìn phê bình
Thiệp dưới góc nhìn
sinh thái.
phê bình sinh thái – Hệ thống hóa lại kiến thức về
phê bình sinh thái, chỉ ra đặc
2016
trưng cảm quan sinh thái
truyện ngắn Nguyễn Huy
Thiệp
16 Luận văn – ĐHKHXH và Thiên nhiên trong sáng Đinh Thị Khảo sát hệ thực vật, động vật Sáng tác của
Nhàn trong thơ Nguyễn Khuyến soi Nguyễn
nhân văn tác của Nguyễn
sáng dưới góc nhìn phê bình Khuyến
Khuyến từ góc nhìn sinh thái nhằm chỉ ra:Thiên
nhiên với Nguyễn Khuyến có
phê bình sinh thái -
ý nghĩa liên quan thế nào đến
2016 hành xử xã hội – đạo đức thẩm
mĩ của nhà thơ?; Mối quan hệ
đó chịu sự quy định thế nào từ
thế giới quan nhân sinh quan
tác giả?
17 Luận văn ĐHSP Thái Truyện ngắn Cao Duy Trịnh Thùy Chỉ ra mối quan hệ giữa con Truyện ngắn
Dương người và tự nhiên trong sự đối Cao Duy Sơn
Nguyên Sơn từ góc nhìn phê
sánh và hòa hợp. Tạo dựng
bình sinh thái - 2016 không gian hoang dã, nguyên
sơ và không gian miền núi.
20
18 Sinh thái môi trường Nguyễn Thị Đặt con người vào tự nhiên Văn xuôi Đoàn
Quế Vân, Lâm của không gian rừng U Minh Giỏi: Những
Tạp chí khoa học Đại học trong văn xuôi Đoàn
Hoàng Phúc hoang sơ, hoang dã; biển cả chuyện lạ về cá,
Văn Hiến, tập 5, số 1. Giỏi - 2017 hùng vĩ, mênh mông. Bài viết Rừng đêm xào
cho thấy sự thay đổi trong xạc; Đất rừng
nhận thức về mối quan hệ giữa phương nam...
con người và tự nhiên trong
văn xuôi Đoàn Giỏi, từ quan
niệm “nhân loại trung tâm
luận” sang xác lập quan niệm
“tự nhiên trung tâm luận”.
19 Biểu tượng lúa trong Nguyễn Huy Bài viết phân tích biểu tượng Thần thoại và
Bỉnh lúa dưới góc nhìn sinh thái nghi lễ các dân
Phê bình sinh thái – tiếng thần thoại và nghi lễ
nhằm đi đến quan niệm “vạn tộc thiểu số
nói bản địa, tiếng nói toàn các dân tộc thiểu số vật hữu linh”. Việt Nam
cầu, Kỷ yếu hội thảo quốc Việt Nam (Tiếp cận từ
tế, Viện văn học. góc độ sinh thái học
nhân văn) - 2017
20 Sinh hoạt kinh tế Lê Ngọc Bính Cuộc sống người Xơ Đăng gắn Sử thi Xơ Đăng
liền với rừng, canh tác nương
truyền thống trong sử
rẫy, chăn nuôi, các nghề thủ
thi Xơ Đăng với bối công truyền thống, thông
thương trao đổi hàng
cảnh môi trường sinh
hóa...nhắc nhở con người sống
chan hòa, tôn trọng tự nhiên.
21
thái ở Tây Nguyên -
2017
21 Khám phá bản chất hôn Dương Nguyệt Bài viết trả lời câu hỏi con Truyện cổ tích
Vân người có nguồn gốc từ tự Việt Nam
nhân người – con vật
nhiên, con người không thể
trong truyện cổ tích tách rời mối quan hệ với tự
nhiên.
Việt Nam dưới góc độ
phê bình sinh thái -
2017
22 Sáng tác của Trần Trần Thị Tìm ra ý thức thẩm mĩ sinh Sáng tác của
Nhung thái (cỏ cây, hoa lá, đồng quê, Trần Nhân
Nhân Tông dưới góc
chim muông, ...) trong thơ Tông
nhìn phê bình sinh thái Trần Nhân Tông để từ đó
mong muốn tôn trọng, sống
- 2017
hài hòa, có ý thức đấu tranh
bảo vệ tự nhiên
23 Thơ ca Nguyễn Trãi từ Đoàn Thị Thu Khảo sát hệ sinh thái (trăng, Thơ ca Nguyễn
Vân gió, nước, mây, núi, rừng, thực Trãi
góc nhìn phê bình sinh
vật, động vật...)trong thơ
thái - 2017 Nguyễn Trãi để thấy được tinh
thần nâng niu sự sống, trân
trọng môi trường của tác giả
24 Thiên nhiên trong thơ Nguyễn Thanh Từ thiên nhiên( mảnh vườn, Thơ ca Nguyễn
Tú núi rừng, sông suối, chim Trãi
22
Nguyễn Trãi từ góc muông..)trong thơ Nguyễn
Trãi để hiểu thêm về tấm lòng
nhìn phê bình sinh thái
trân trọng tự nhiên của thi
- 2017 nhân
25 Cảm thức “xanh” trong Nguyễn Thị Tự nhiên cũng là đối tượng Truyện Kiều
Thanh Xuân phản ánh trong Truyện Kiều, của Nguyễn Du
Truyện Kiều của
tự nhiên tham gia vào sự phát
Nguyễn Du và một vài triển của tác phẩm. Truyện
Kiều tràn đầy tinh thần sinh
suy nghĩ về phê bình
thái. Đồng thời tác giả đề xuất
sinh thái - 2017 những suy nghĩ của mình về
phê bình sinh thái phương Tây
và phương Đông với mong
muốn cùng nhau khám phá lý
thuyết sinh thái này.
26 Sinh thái tinh thần Hoàng Trọng Đặt con người trong mối quan Tác phẩm
Quyền hệ với xã hội, với chính mình Nguyễn Du
trong thế giới nghệ
và với tự nhiên trong các sáng
thuật Nguyễn Du- 2017 tác của Nguyễn Du nhằm
hướng đến câu trả lời con
người muốn có đời sống cân
bằng sinh thái cần giải quyết
vấn đề con người một cách
toàn diện trong cả ba mối quan
hệ trên.
27 Dự báo qua thực vật, Trần Thị Thực vật (hoa sen, cây gạo, Văn xuôi tự sự
23
động vật trong văn Thanh Nhị cây chuối, cây lúa, cây đa, cây trung đại Việt
đề, cây mía, trầu cau...) Động Nam
xuôi tự sự trung đại
vật (chim, rắn, cá sấu, rồng,
Việt Nam – Từ góc rùa, trâu, gà, chó, cóc, chuột,
mèo, voi, ...). Người xưa đã sử
nhìn phê bình sinh thái
dụng động vật, thực vật như
- 2017 một phương diện dự báo, như
thế từ thời trung đại, con người
đã biết quan sát, lắng nghe và
tìm cách sống hài hòa với
thiên nhiên, vũ trụ, môi
trường.
28 Vai trò tiếng nói chủ Nguyễn Hữu Cảnh quan môi trường tự Du ký Miền
Sơn nhiên miền Trung, điều kiện Trung Việt
thể trong du ký Miền
thời tiết, khí hậu, địa hình, cơ Nam nửa đầu
Trung Việt Nam nửa sở truyền thống kinh tế, văn thế kỷ XX
hóa, phong tục, di tích lịch sử,
đầu thế kỷ XX nhìn từ
danh lam thắng cảnh, ...vấn đề
phê bình sinh thái.- môi trường sinh thái
2017
29 Mối quan hệ giữa con Trần Mạnh Thiên nhiên tươi đẹp, tràn đầy Văn xuôi Việt
Tiến sự sống, tràn đầy mĩ cảm : Nam giai đoạn
người với môi trường
Nhiều màu sắc (bờ cỏ xanh 1930 – 1945
sinh thái trong văn xuôi non, cánh rừng nhấp nhô, hoa (Truyện đường
trái rực rỡ, nắng vàng lấp rừng)
Việt Nam giai đoạn
lánh...); Đủ các âm thanh
24
1930 - 1945 2017 (chim kêu ríu rít: chim gõ
kiến, chim gầm nhì; chim họa
mi; chim cu, chim bạc má, sáo,
yểng, vẹt, tiếng côn trùng rủ
rỉ...)
Thiên nhiên hoang sơ, huyền
ảo (núi rừng, hang động, sông
suối, cây cỏ, hoa lá, chim
muông, khí hậu, thời tiết...)
vận động không ngừng của sự
sống.
30 Mối quan hệ giữa con Lê Dục Tú - Không gian sinh tồn là không Văn xuôi Việt
gian thôn dã. Nam giai đoạn
người và tự nhiên trong
- Tự nhiên tác động đến tính 1930 - 1945
văn xuôi Việt Nam giai cách, số phận và nội tâm nhân
vật
đoạn 1930 – 1945
2017
31 “Vườn” trong Thơ Mới Bùi Thị Thu - Vườn xứ Bắc Bộ, Thanh Thơ Mới (1932
Thủy Hóa, Huế.. là bức tranh thu -1945)
(1932 -1945) từ góc
nhỏ vẻ đẹp vùng miền.
nhìn phê bình sinh thá - Vườn (vườn xưa, vườn ái
tình, vườn yêu..) là nơi con
i- 2017
người gột rửa tâm hồn được
thanh thản, bình yên
- Vườn xuân, vườn trần gian
25
tràn đầy ánh sáng và sức sống
là nơi con người thêm tin yêu
cuộc đời.
32 Sáng tác của Ngọc Lê Tú Anh Cổ vũ lối sống trở về thôn quê Tiểu thuyết
và phê phán chiến tranh tàn “Nhà quê”,
Giao từ góc nhìn phê
phá tự nhiên đời sống con “Đất”.
bình sinh thái - 2017 người
33 Tinh thần sinh thái Bùi Thanh Bức tranh Nam Bộ đang bị ảnh Văn xuôi Nam
Truyền hưởng bởi biến đổi khí hậu, Bộ
trong văn xuôi Nam Bộ
rừng đầu nguồn, rừng phòng
- 2017 hộ bị tàn phá...Văn xuôi Nam
Bộ xây dựng và cổ vũ quan
niệm thẩm mỹ sinh thái.
34 Tiếng gọi của tự nhiên: Trần Ngọc Thiên nhiên phản ánh sự tàn Văn học Việt
Hiếu phá của chiến tranh Nam đương đại
khúc ngoặt sinh thái
Đặng Thị Thái Nỗi bất an trong đời sống tinh (tập trung vào
trong văn học Việt Hà thần con người đương đại văn xuôi hư
trong cái nhìn về tự nhiên cấu)
Nam đương đại - 2017
35 Giải nhị phân người/tự Trần Văn Bài viết cho thấy giải nhị Truyện ngắn
Toàn phân người/tự nhiên đã khiến Một lần đối
nhiên và diễn ngôn mới
con – người trở thành đối chứng, Phiên
về nhân tính (đọc tượng của sự miêu tả trong văn chợ Giát, Sống
học. Như vậy nhân tính đã mãi với cây
những truyện ngắn về
được kiến tạo từ điểm nhìn của xanh của
tự nhiên của Nguyễn tự nhiên. Như thế con người Nguyễn Minh
26
Minh Châu và Nguyễn hoàn toàn có thể lắng nghe, Châu. Muối của
thấu cảm sự lên tiếng của tự rừng của
Huy Thiệp) – 2017
nhiên Nguyễn Huy
Thiệp
36 Vấn đề thiên nhiên Nguyễn Thị Tác phẩm Nguyễn Huy Thiệp Truyện ngắn
Thúy Hằng kêu gọi sự lắng nghe tiếng gọi Nguyễn Huy
trong truyện ngắn
của tự nhiên, cảnh báo những Thiệp
Nguyễn Huy Thiệp - hệ lụy tàn phá môi sinh và giải
cấu trúc “nhân loại trung tâm”
2017
37 Người nông dân trong Trần Thị Ánh Cuộc sống hiện đại khiến Văn xuôi Việt
Nguyệt người nông dân mất chỗ dựa Nam đương đại
văn xuôi Việt Nam
vào không gian sinh thái nơi
đương đại từ góc nhìn đồng ruộng, họ trở nên bất an.
Đồng thời cũng cho thấy họ là
phê bình sinh thái -
những người yêu đồng ruộng,
2017 đất đai...bằng tấm lòng sâu
nặng
38 Kiểu nhân vật nạn nhân Nguyễn Thùy Nông dân, người nghèo với Tiểu thuyết
Trang vấn nạn sinh thái giai cấp Việt Nam từ
sinh thái trong tiểu
Thị dân, trí thức với làn sóng sau đổi mới đến
thuyết Việt Nam từ sau sinh thái đô thị. nay
Nữ giới – sinh thái nữ quyền
đổi mới đến nay - 2017
39 Khi nhà văn có trực Hỏa Diệu Thông điệp bảo vệ thiên nhiên, Sáng tác của
Thúy bảo vệ môi trường sinh thái; Nguyễn Minh
giác sinh thái (Khảo sát
phê phán, cảnh báo nguy cơ Châu, Hồ Anh
27
qua sáng tác của mất cân bằng sinh thái tinh Thái và Nguyễn
thần trong đời sống xã hội. Bình Phương
Nguyễn Minh Châu,
Hồ Anh Thái và
Nguyễn Bình Phương)
- 2017
40 Tiểu thuyết chiến tranh Lê Thị Hường Chiến tranh hủy diệt môi Tiểu thuyết
trường (hủy diệt thực vật, động chiến tranh Việt
Việt Nam đầu thế kỷ
vật), chấn thương tinh thần Nam đầu thế kỷ
XXI – từ góc nhìn sinh con người...khát vọng phục hồi XXI
sinh thái
thái - 2017
41 Cảm quan sinh thái Đinh Trí Dũng Phê phán thực trạng hủy hoại Tản văn trong
Lê Thanh Nga tự nhiên, tàn phá môi trường, văn học Việt
trong tản văn của một
cảnh báo sự xuống cấp không Nam đương đại
số nhà văn Việt Nam gian sống của con người. Suy
nghĩ đến những giải pháp...Với
đương đại - 2017
mong muốn giữ gìn môi
trường sinh thái
42 Đọc Cẩm cù của Y Ban Hoàng Tố Mai Mạch ngầm sinh thái về vấn đề Tự truyện dài
vệ sinh, phân bón hữu cơ, vô Cẩm cù của Y
dưới góc nhìn sinh thái
cơ và sự tác động vào môi sinh Ban
- 2017
43 “Tự nhiên” và “Nữ Hoàng Lê Anh Mối quan hệ giữa nữ giới với Truyện ngắn
Ly tự nhiên. Kêu gọi bảo vệ, che Quế Hương
28
giới” trong truyện ngắn chở tự nhiên.
Quế Hương nhìn từ nữ
quyền luận sinh thái –
2017
44 Khủng hoảng môi Đỗ Hải Ninh Môi trường và xã hội đô thị Tiểu thuyết
(“Được gợi hứng từ trận nóng Paris 11 tháng
trường và số phận của
năm 2003 mà đỉnh điểm là 8 của Thuận
cộng đồng thiểu số ngày 11 tháng 8, đã giết chết
gần mười lăm ngàn người
trong tiểu thuyết Paris
Pháp”). Qua góc nhìn sinh thái
11 tháng 8 của Thuận - bài viết cho thấy môi trường
và số phận người thiểu số ở đô
2017
thị khi đối diện với biến đổi
khí hậu (thủ đô Paris).
45 Những tiêu điểm thẩm Hồ Thế Hà Thiên nhiên (đại ngàn, biển, Thơ Trịnh
than, đá và nước, rừng đảo, ..) Công Lộc
mỹ thơ Trịnh Công
mang bức thông điệp về tình
Lộc nhìn từ quan hệ yêu quê hương, đất nước
sinh thái - 2017
46 Thơ của niềm “trinh Văn Giá Làng quê ( vườn chè, vạt mía, Thơ Trần Hùng
bờ vườn, rừng trăng, cánh
tĩnh” đầu nguồn - 2017
đồng, bó lạt, lưỡi hái,cánh
đồng, dòng sông, đống
dấm, ...); ( rau dền gai, rau sam
29
tím, sên đen, đom đóm ma,
con trâu, con cua càng, con
dế mèn..) thiên nhiên như một
sinh quyển – thi quyển với số
lượng lớn, phổ khắp tràn đầy
trong thơ Trần Hùng
47 Cảm quan sinh thái Lê Hương Đời sống đô thị (ô nhiễm môi Sáng tác của
Thủy trường, ô nhiễm tiếng ồn, ô Đỗ Phấn: Rụng
trong sáng tác của Đỗ
nhiễm khói bụi, cây xanh bị xuống ngày hư
Phấn – 2017 tàn phá, ô nhiễm nguồn nước, ảo, Chảy qua
săn bắt thú rừng, sát sinh,...) bóng tối, Vết
con người sống bức bối, ngột gió, Vắng mặt,
ngạt trong nỗi bất an sinh thái. dằng dặc triền
Dự cảm và khát vọng về sông mưa...
không gian sống an lành
48 Mơ hồ sinh thái và sự Đặng Thị Thái Từ lý thuyết mơ hồ sinh thái, Sáng tác
Hà bài viết chỉ ra nghịch lý của Nguyễn Ngọc
chất vấn những ảo
việc say mê thưởng ngoạn vẻ Tư: Sông, Khói
tưởng du lịch sinh thái đẹp tự nhiên dẫn đến những trời lộng lẫy,
hành động hủy diệt tàn phá hệ Ngắm cảnh,
trong văn xuôi đương
sinh thái (phá rừng, xẻ núi); du Gáy người thì
đại lịch sinh thái tước đi vùng bờ lạnh, Yêu người
biển của người dân, trục xuất ngóng núi, Gió
(Trường hợp Nguyễn
những người có số phận nhỏ lẻ và 9 câu
Ngọc Tư) – 2017 bé ra khỏi không gian sống núi chuyện khác,
rừng quen thuộc của họ, biến Còn lại chỉ mây
người dân bản địa thành những mù..
30
thứ kì lạ gây hiếu kì cho
khách...Như vậy có một mâu
thuẫn trong cách con người
ứng xử với tự nhiên hiện tại,
nảy sinh sự hoài nghi về văn
minh, phát triển, du lịch...
49 Sông của Nguyễn Ngọc Trịnh Đặng Sông hạ nguồn:bị xâm mặn Tiểu thuyết
Nguyên khiến thực vật bị tàn phá (rừng Sông của
Tư và những vấn đề
Hương bần xác sơ, thưa thớt), san lấp Nguyễn Ngọc
sinh thái môi trường – sông và sông bị sạt lở (nhiều Tư
người bị cuốn trôi bất thình
2017
lình, thảm họa kinh hoàng).
Sông thượng nguồn: rừng bị
tàn phá, tuyệt chủng tộc người
Môi sinh bị tàn phá trước biến
đổi khí hậu: mặt nước, rừng
cây, động thực vật, con
người...cằn cỗi, xác xơ, tàn lụi,
dạt trôi, tha hóa...
50 Sự thức tỉnh ý thức Nguyễn Thị Thiên nhiên: khu vườn, loài Truyện Nguyễn
Hải Phương hoa cánh đồng, khu rừng, dòng Ngọc Thuần:
sinh thái trong sáng tác
Nguyễn Thị sông; con dế, con thằn lằn, con Vừa nhắm mắt
cho thiếu nhi của Linh Chi gà, con nhện...hiện lên trong vừa mở cửa sổ,
truyện Nguyễn Ngọc Thuần Một thiên nằm
Nguyễn Ngọc Thuần –
viết cho thiếu nhi. Tạo dựng mồng, Giăng
2017 một thế giới trong lành, tươi giăng tơ nhện,
mát, đầy sức sống. Thiên Trên đồi cao
31
nhiên là bạn với trẻ thơ, trẻ chăn bầy thiên
nâng niu, bảo vệ tự nhiên sứ...
51 Chuyến du hành giữa Nguyễn Thị Ý niệm nơi chốn: Miền rừng Tuyển tập tản
Diệu Linh và phố thị văn: Những
miền rừng và phố thị:
- Miền rừng: Pác Thay bản giấc mơ màu
hình ảnh sinh thái trong người dân tộc Tày. Con người hạt dẻ của
sống tự nhiên, hoang dã; tự Hoàng A Sáng
Những giấc mơ màu
nhiên hùng vĩ, lộng lẫy,
hạt dẻ của Hoàng A nguyên sơ trên cánh đồng,
rừng già. Cuộc sống mãn
Sáng - 2017
nguyện, sảng khoái. Nhưng
môi trường sinh thái miền
rừng đang dần bị tàn phá.
- Phố thị:Hà Nội , ánh trăng
yếu ớt, cây cối còi cọ, động vật
bị bắt, nhốt mất khả năng sinh
tồn. Cuộc sống đầy ắp xe cộ,
khí thải, tiếng ồn. Con người
sống uể oải, mộng mị, cuốn
theo đô thị hóa, công nghiệp
hóa.
Khát khao tái tạo hình ảnh sinh
thái về quê hương.
52 Cảm quan sinh thái Phạm Phương Thiên nhiên (giọt sương, giọt Lời những bài
Mai mưa, nụ hoa..)vạn vật có linh hát của Trịnh
trong ca từ Trịnh Công
hồn và đều bình đẳng. Công Sơn
Con người luôn muốn trở về
32
Sơn – 2017 với tự nhiên, nguồn cội, thuần
khiết
Biểu tượng mưa, nắng, sông.
Dự cảm nguy cơ chiến tranh
53 Dấu hiệu sinh thái Lê Thị Dương Thông điệp: Rừng là nơi chốn Phim Những
sinh tồn, nếu tàn phá rừng, con người thợ xẻ
trong phim Việt
người sẽ bị rừng trừng phạt (dựa trên tác
(Trường hợp phim Mặt trái: Phục vụ cho ý đồ bộ phẩm cùng tên-
phim được thành công, các Nguyễn huy
Những người thợ xẻ và
cảnh quay tàn phá rừng được Thiệp) và Rừng
Rừng đen của Vương hiện lên khốc liệt, chân thực đen chuyển thể
dưới máy quay của đạo diễn từ kịch bản
Đức) - 2017
đã khiến nhiều cây gỗ bị đốn (Người vớt củi
hạ, vô tình việc làm phim cảnh - Lê Ngọc
báo hệ lụy tàn phá rừng lại tác Linh)
động tiêu cực đến môi trường Đạo diễn:
sinh thái. Vương Đức
54 Luận văn – ĐHSP Thái Truyện ngắn, tản văn Nguyễn Thị Dưới góc nhìn sinh thái thiên Truyện ngắn,
Thu Hằng nhiên trong truyện ngắn, tản Tản văn
Nguyên Nguyễn Quang Thiều
văn Nguyễn Quang Thiều Nguyễn Quang
từ góc nhìn phê bình hiện lên với những hoài niệm Thiều
về chốn làng quê và phản ánh
sinh thái – 2017
những mặt trái của lối sống đô
thị
55 Luận văn – ĐHSP Thái Tiểu thuyết Vi Hồng từ Trần Thị Sinh thái tự nhiên và sinh thái Tiểu thuyết Vi
Thanh Hà nhân văn. Hồng
Nguyên góc nhìn phê bình sinh
- Sinh thái tự nhiên: Thiên
33
thái - 2017 nhiên mang đặc trưng núi rừng
Việt Bắc, Thiên nhiên vừa hòa
hợp vừa xung đột với con
người.
- Sinh thái nhân văn: Con
người với con người; con
người với các giá trị văn hóa
56 ASLE-ASEAN Post-War Nation- Phạm Phương Những ẩn dụ văn học trong tác Truyện Hồ Anh
WORKSHOP Building and Chi phẩm viết về người Ấn Độ của Thái
(Ecologies in Southeast Environment: Reading Hồ Anh Thái hàm ẩn các vấn
Asian Literatures: Stories about India by đề ô nhiễm môi trường do các
Histories, Myths and Hồ Anh Thái nhà máy hợp tác quốc tế gây
Societies) - 2018 ra.
57 Post presentation Trần Thị Ánh Các hình ảnh và tranh vẽ về
Nguyệt vấn đề môi trường ở Việt Nam
hiện đại
58 Female Ghosts in Đỗ Thu Hiền Tác giả tập trung phân tích Truyền kỳ mạn
Truyenky man luc- hình ảnh ma nữ trong tác phẩm lục
from the Perspective of Truyền kì mạn lục từ góc độ
Ecofeminism nữ quyền sinh thái.
Department of
Literature - 2018
59 Short story Mother's Le Thi Tuan Khám phá tiếng nói của thiên Tập truyện Tâm
soul of Nguyen Huy nhiên trong sự quy chiếu đến hồn mẹ của
Thiep and Pham Nhue người mẹ của tác phẩm Tâm Nguyễn Huy
34
Giang's filmwith the hồn mẹ, từ đó chỉ ra cách cư Thiệp và phim
same name from an xử giữa con người và thiên cùng tên đạo
ecofeminism nhiên theo một cách tích cực diễn Phạm
perspective hơn. Nhuệ Giang
Department of
Literature - 2018
60 The adaptations of Bài viết tìm hiểu tính thẩm mỹ
postwar Vietnamese Hoàng Cẩm thị giác của riêng mình, từ đó Sự chuyển thể
literature from 1976 to Giang giải quyết câu hỏi về cách thức văn học hậu
2000: cinema as điện ảnh tái hiện lại các bài chiến từ năm
ecofeminism reading - diễn văn về chủ nghĩa nữ 1976 đến năm
2018 quyền sinh thái được tìm thấy 2000: điện ảnh
trong "hậu chiến" như là cách đọc
tác phẩm văn học. Và điều này nữ quyền sinh
phản ánh phong cách, quan thái
điểm và bài đọc của cá nhân
trong bối cảnh văn hóa đương
đại.
61 Reading Hoya byY Hoàng Tố Mai Tác giả đọc ra tính thẩm mĩ Cẩm cù - Y
Ban and and Mr. của chất thải tự nhiên của con Ban
Mong’s story by người (phân) được thể hiện Chuyện ông
Nguyen HuyThiep trong hai tác phẩm, từ đó tìm Móng –
from an ecological ra sự phê phán của hai tác Nguyễn Huy
perspective - 2018 phẩm đối với nền nông nghiệp Thiệp
bị công nghiệp hóa với các sản
35
phẩm phân bón hóa chất hiện
đại
62 The attachment and Lê Thị Dương Tác giả phân tích thiên nhiên Truyện của Pao
negotiation with nature trong Truyện của Pao như là
in hmong's identity in bối cảnh của bộ phim, sự
the movie Pao's Story - tương đồng giữa các đặc điểm
2018 của tự nhiên và đặc điểm của
con người, và vấn đề Mẹ
Thiên nhiên là tổ của tinh thần
con người.
63 The relation between Lu Thi Thanh Tìm hiểu mối quan hệ nước, Hát văn
water, forest and Le and Doan rừng và con người trong thể
human in Hát văn of Ngoc Chung hát văn
Vietnamese people -
2018
64 Nostalgic Sensein Đặng Thị Bích Tìm hiểu triết lí về sinh thái Thơ Nguyễn
Ecological Poems by Hồng được tuyên ngôn và hàm ẩn Quang Thiều
Nguyen QuangThieu - trong thơ Nguyễn Quang
2018 Thiều
65 Legend of the Bach Ma Nguyễn Thị Tác đọc truyền thuyết về núi Các tài liệu về
Mountain in Literature Tịnh Thy Bạch Mã trong văn học về các các võ sĩ nghĩa
of Nghia Dung Karate võ sĩ Nghĩa Dũng Karate, phân dũng
Dojo - 2018 tích núi Bạch Ma như là một
Bạch Mã – ngọn núi ngọn núi tinh thần đối với các
võ sĩ
36
linh hồn trong tâm thức
của các võ sĩ Nghĩa
Dũng Karate - Do
66 The Construction and Tran Thi An Bài viết tìm hiểu sự kiến tạo Thần thoại
Destruction of “Our và sự phá hủy của trái đất như
Common Home – the là ngôi nhà trong các câu
Earth” – the Warning chuyện thần thoại
Message from Myths -
2018
67 The myth of hundred Tác giả tìm hiểu sự liên đới về Truyện Âu Cơ,
eggs (Trăm trứng) from Dinh Hong sinh thái vùng với truyền Lạc Long Quân
perspective of Hai thuyết về việc phân tách địa
ethnoecology bàn sinh tồn trong truyện Âu
Department of Cơ, Lạc Long Quân
Anthropology - 2018
68 The animism in the The Nguyen Tác giả tìm hiểu sự tương Thàn thoại
Southeast Asia myths - Thi Mai Lien đồng của sự thờ cây cối và con Đông Nam Á
2018 vật của văn hóa Đông Nam Á
với lí thuyết sinh thái
69 The Story of Hoan Nguyen Thi Tác giả tìm hiểu câu chuyện Biểu tượng con
Kiem Lake's Turtle as a Dieu Linh con rùa ở Hồ Hoàn Kiếm trong rùa
Narrative of lí thuyết về diễn ngôn về các
Endangered Species: sinh vật bị nguy cơ từ góc độ
37
History, Myth, and lịch sử, huyền thoại và bản sắc
Cultural Identity - 2018 văn hóa
70 The loss and Nguyen Nam Tác giả tìm hiểu sự mất mát và Truyện ngắn
regeneration of natural Hoang sự sinh sôi của các biểu tượng Việt Nam
symbols in thiên nhiên trong các truyện đương đại
contemporary ngắn Việt Nam đương đại về
Vietnamese short story đời sống đô thị
about urban life - 2018
71 The environmental Nguyen Thuy Tác giả phân tích những sự phi Tiểu thuyết
inadequacy in the Trang lí, bất cập về môi trường trong Việt Nam
working-class during tầng lớp lao động trong tiểu đương đại
the contemporary thuyết Việt Nam đương đại
Vietnamese novels -
2018
72 An Ecocritical Study of Bui Linh Hue Tác giả phân tích nghiên cứu Tác phẩm văn
the Discourses on mang tính sinh thái trong các học đầu thế kỉ
Progress and Western diễn ngôn về tiến bộ và văn XX
Civilization by Some minh phương Tây đầu thế kỉ
Vietnamese XX, từ đó đi đến tìm hiểu ý
Intellectuals in the thức về nỗi sợ sinh thái trong
Early 20th Century - văn học Việt Nam
38
2018
73 Wild animals and the Tran Ngoc
sense of ecophobia in Hieu
Vietnamese Literature - Dang Thi Thai
2018 Ha
74 Ecological Narrative in Tran Thi Tác giả phân tích các tự sự Bài hát Trịnh
the Lyrics of Trinh Quynh Thuan mang tính sinh thái trong lời Công Sơn
Cong Son's Songs bài hát Trịnh Công Sơn
Social Sciences and
Humanities - 2018
75 Imagining Vietnam Nguyen Thi Tác giả phân tích các mẫu sinh Nhiệt đới gió
from war to postwar Nhu Trang thái từ đó đọc ra bi kịch, hận mùa của Lê
period: narrative thù và những nỗ lực để xóa Minh Khuê
templates of Eco and sạch bi kịch và hận thù vì hòa
beyond (case study bình và hòa hợp trong cuộc
Nhiệt đới gió sống và linh hồn của cá nhân
mùa/Tropical monsoon và cả nước như là một chủ đề
by Le Minh Khue) - của văn học hậu chiến ở Việt
2018 Nam
76 Kháng cự đô thị, trở về Nguyễn Thị Kính ngưỡng tự nhiên: tự Mê hồn ca” của
tự nhiên: “Mê hồn ca” Minh Thương nhiên huyền bí, haong sơ, man Đinh Hùng
/Nghiencuu/VanhocVietN
của Đinh Hùng từ góc dại, nguyên thủy... (Thơ mới 1932
nhìn Phê bình sinh thái Trở về với tự nhiên: Con -1945)
39
amhiendai/tabid/103/new - 2018 người sống hào hợp với thiên
nhiên, cầm thú.
stab/3249/Default.aspx
Kháng cự đô thị: chán ghét đô
thị
77 Luận án – Đại học khoa Tiểu thuyết Việt Nam Nguyễn Thùy - Giải cấu trúc về phê bình Tiểu thuyết
giai đoạn 1986 – 2014 Trang sinh thái Việt Nam giai
học Huế
từ góc nhìn phê bình - Chuẩn tắc đạo đức sinh thái đoạn 1986 –
sinh thái - 2018 từ hệ thống nhân vật 2014
- Tinh thần sinh thái từ quyền
lực văn hóa
40