Luận án Thơ mới (1932 - 1945) từ góc nhìn phê bình sinh thái

VIỆN HÀN LÂM KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM HỌC VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI BÙI THỊ THU THỦY THƠ MỚI (1932 - 1945) TỪ GÓC NHÌN PHÊ BÌNH SINH THÁI Ngành: Lí luận Văn học Mã số: 9 22 01 20 LUẬN ÁN TIẾN SĨ VĂN HỌC Ngƣời hƣớng dẫn khoa học: 1- PGS. TS Lƣu Khánh Thơ 2- TS. Phạm Phƣơng Chi Hà Nội, 2020 LỜI CAM ĐOAN Tôi xin cam đoan đây là công trình nghiên cứu của riêng tôi. Các số liệu, kết quả nêu trong luận án là trung thực và chưa từng được ai công bố trong bất cứ công

pdf208 trang | Chia sẻ: huong20 | Ngày: 13/01/2022 | Lượt xem: 607 | Lượt tải: 3download
Tóm tắt tài liệu Luận án Thơ mới (1932 - 1945) từ góc nhìn phê bình sinh thái, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
g trình nào khác Hà Nội, ngày tháng năm 2020 Tác giả luận án Bùi Thị Thu Thủy MỤC LỤC MỞ ĐẦU ................................................................................................................ 1 CHƢƠNG 1: TỔNG QUAN VẤN ĐỀ NGHIÊN CỨU ....................................... 6 1.1. Nghiên cứu phê bình sinh thái ở nƣớc ngoài ................................................. 6 1.1.1.Phê bình sinh thái ở phương Tây .................................................................. 6 1.1.1.1. Thời kỳ đầu ................................................................................................. 6 1.1.1.2. Thời kỳ phát triển ........................................................................................ 7 1.1.2.Phê bình sinh thái các quốc gia ngoài phương Tây ...................................... 9 1.2.Nghiên cứu phê bình sinh thái ở Việt Nam ................................................... 13 1.2.1.Cây cối, con vật và những khủng hoảng môi trường trong nghiên cứu văn học ở Việt Nam ..................................................................................................... 13 1.2.2.Văn học và công lí môi trường trong nghiên cứu phê bình sinh thái ở Việt Nam ...................................................................................................................... 21 Chƣơng 2: PHÊ BÌNH SINH THÁI NHƢ LÀ MỘT HƢỚNG TIẾP CẬN ...... 31 VĂN HỌC ............................................................................................................ 31 2.1. Phê bình sinh thái lấy trái đất làm trung tâm trong nghiên cứu văn học ....... 31 2.1.1. Tiền đề triết học của phê bình sinh thái ..................................................... 31 2.1.2. Phê bình sinh thái và “các câu chuyện có cây cối” .................................... 36 2.2. Diễn trình của phê bình sinh thái ................................................................. 42 2.2.1. Khủng hoảng của phê bình sinh thái cổ điển ............................................. 42 2.2.2. Công lí môi trường trong phê bình sinh thái .............................................. 46 2.2.3. Phê bình sinh thái với cái toàn cầu, sự tuyệt chủng, động vật và tính liên ngành .................................................................................................................... 51 2.2.3.1. Sự manh nha của phê bình sinh thái làn sóng thứ ba................................. 51 2.2.3.2. Cái toàn cầu, sự tuyệt chủng, động vật và tính liên ngành ......................... 52 2.3. Xác định cách tiếp cận văn học từ góc độ phê bình sinh thái ..................... 58 Chƣơng 3: NHỮNG BÌNH DIỆN SINH THÁI CỦA MỐI QUAN HỆ TỰ NHIÊN VÀ CON NGƢỜI TRONG THƠ MỚI ................................................ 63 3.1. Tự nhiên nhƣ một khách thể ........................................................................ 63 3.1.1. Tự nhiên như là một sinh thể tồn tại bên ngoài con người ........................ 63 3.1.2. Tự nhiên như là phản chiếu những dự cảm bất an về sinh thái của con người .................................................................................................................... 73 3.2. Tự nhiên nhƣ một chủ thể ............................................................................ 86 3.2.1. Tự nhiên như là lực hút và lực đẩy của chốn đô thị .................................. 86 3.2.2. Tự nhiên như là cõi đi về của con người trong thế giới hiện đại .............. 95 Chƣơng 4: NGÔN NGỮ VÀ BIỂU TƢỢNG SINH THÁI TRONG THƠ MỚI ............................................................................................................................ 105 4.1. Ngôn ngữ sinh thái trong Thơ mới............................................................. 106 4.1.1. Vấn đề ngôn ngữ sinh thái trong thơ ca .................................................. 106 4.1.2. Hệ thống ngôn ngữ sinh thái trong Thơ mới............................................ 107 4.1.2.1. Thơ mới như là những bảng màu sinh thái .............................................. 107 4.1.2.2. Thơ mới như là những khởi đầu của lí thuyết phê bình sinh thái ở Việt Nam ............................................................................................................................ 116 4.1.2.3. Thơ mới như là những tiềm ẩn lí luận bằng thơ về sự chấn thương sinh thái ............................................................................................................................ 122 4.2. Biểu tƣợng sinh thái trong Thơ mới .......................................................... 129 4.2.1. Biểu tượng và biểu tượng “vườn” trong phê bình sinh thái..................... 129 4.2.2. Biểu tượng “vườn” trong Thơ mới ........................................................... 132 4.2.2.1. Vườn - tưởng nhớ cảnh sắc bản địa ........................................................ 132 4.2.2.2. Vườn – nơi cứu rỗi tâm hồn .................................................................... 139 4.2.2.3. Vườn – bám rễ vào trần gian .................................................................. 144 KẾT LUẬN ........................................................................................................ 148 MỞ ĐẦU 1. Tính cấp thiết của đề tài 1.1. Bắt đầu từ cuối thế kỷ XX đến nay, những hiểm họa về suy thoái môi trường đã trở nên trầm trọng. Điều đó đặt ra những vấn đề liên quan đến sự tồn vong của nhân loại. Và đây là lí do vì sao trong lĩnh vực kinh tế xuất hiện khái niệm phát triển bền vững với chủ trương phát triển kinh tế nhưng không làm tổn hại đến môi trường sinh thái vì các thế hệ tương lai. Trong địa hạt khoa học xã hội và nhân văn cũng đã xuất hiện khái niệm phê bình sinh thái. Về bản chất đó là bộ môn nghiên cứu mối quan hệ giữa con người và tự nhiên. Đây được xem là một hướng nghiên cứu mới có tính liên ngành, ngày càng có ảnh hưởng lớn. 1.2. Phê bình sinh thái còn gọi là nghiên cứu xanh xuất hiện ở Tây Âu rồi lan rộng ra toàn cầu. Trải qua nhiều giai đoạn phát triển phê bình sinh thái thể hiện rõ những tiềm năng và đã được giới nghiên cứu văn học Việt Nam tiếp cận, giới thiệu, ứng dụng, nghiên cứu. 1.3. Hiện nay, những nghiên cứu dựa trên nền tảng phê bình sinh thái chủ yếu hướng đến các sáng tác văn học đương đại, nghiên cứu những sáng tác văn học trước đó còn hạn chế, đặc biệt tập trung nghiên cứu nhiều vào thể loại văn xuôi mà chưa có nhiều nghiên cứu về thơ. Với lí do đó, chúng tôi muốn soi rọi lý thuyết phê bình sinh thái vào tìm hiểu một thực thể quan trọng của văn học Việt Nam thế kỷ XX là Thơ mới. 1.4. Gợi ý từ phê bình sinh thái khi nghiên cứu Thơ mới chúng tôi nhận thấy theo quan điểm của nhiều nhà nghiên cứu có thể xem văn học sinh thái xuất hiện từ thời kỳ lãng mạn. Đó là thời kỳ chủ nghĩa tư bản với sự phát triển như vũ bão đã lộ dần mặt trái đen tối của sự tàn phá, hủy hoại môi trường tự nhiên. Các nhà lãng mạn đã sớm dự cảm về những hư tổn mất mát đó và đưa chúng vào văn học đương thời. Thơ mới Việt Nam (1932 – 1945) mặc dù xuất hiện muộn hơn so với văn học lãng mạn phương Tây nhưng cũng ra đời trong bối cảnh thực dân Pháp xâm lược và khai thác thuộc địa. Nền văn minh công nghiệp xuất hiện đã bước đầu tàn phá tự nhiên và môi trường sống. Trong văn học lãng mạn có một khuynh hướng viết về đồng quê. Trong đó, nhiều nghệ sỹ coi sự trở về với thiên nhiên, thôn dã như 1 một nẻo đường tìm kiếm sự bình yên, thể hiện thái độ phản ứng lại sự ngột ngạt của đời sống đô thị. Chúng ta có thể tìm thấy ở Thơ mới một tấm mạng sinh thái mê đắm lòng người, thế giới vạn vật hữu linh giao cảm hài hòaNhững vần thơ viết về thiên nhiên, tự nhiên trong Thơ mới cũng có ý nghĩa đánh thức sự gắn kết giữa con người với môi trường nhân tính của tự nhiên, thanh tẩy, ngăn cho con người không trượt vào con đường tha hóa, để từ đây rung lên hồi chuông cảnh tỉnh về khủng hoảng sinh thái. 2. Mục đích, nhiệm vụ nghiên cứu 2.1. Mục đích nghiên cứu Đề tài xem xét phê bình sinh thái, một hướng tiếp cận văn học xuất phát từ phương Tây sẽ có những thích hợp hay sự khác biệt gì khi được nhìn nhận trong sự tương quan với văn học Việt Nam, đặc biệt là với Thơ mới. Đề tài muốn khám phá Thơ mới từ một góc nhìn mới, đó là sự gắn kết của trường phái thơ này với các vấn đề môi sinh, môi trường và tự nhiên. Từ đó, đề tài khẳng định giá trị trường tồn và sự đa diện của Thơ mới. Thơ mới có giá trị ngay cả khi được khám phá dưới những cách tiếp cận xuất hiện sau sự ra đời và phát triển của nó rất nhiều. Đưa ra các cách hiểu về phê bình sinh thái như vậy, chúng tôi muốn khẳng định rằng phê bình sinh thái cũng chỉ là một hướng tiếp cận mới đối với Thơ mới, giống như các cách tiếp cận khác đã từng được dùng để tiếp cận bộ phận thơ ca đó. Luận án của chúng tôi không nhằm xác định Thơ mới như một chỉnh thể sinh thái. Bởi lẽ trọng tâm của Thơ mới là bộc lộ cái tôi cá nhân và sự cô đơn của con người. Nhưng nghiên cứu trào lưu văn học này với công cụ là phê bình sinh thái chúng tôi muốn khám phá thêm các ý nghĩa, giá trị của Thơ mới. Do vậy, lí thuyết phê bình sinh thái sẽ góp phần soi tỏ những khía cạnh khác nhau của khuynh hướng văn chương sinh thái trong Thơ mới. Theo đó, Thơ mới được hình dung như một trường hợp để chứng minh sự hữu dụng của phê bình sinh thái trong việc nghiên cứu thực tiễn văn học Việt Nam. 2.2. Nhiệm vụ nghiên cứu - Tổng quan tình hình nghiên cứu lí thuyết phê bình sinh thái trên thế giới và ở Việt Nam. 2 - Phân tích sự ra đời và phát triển phê bình sinh thái trên thế giới, từ đó đưa ra nhận định riêng về sự phát triển và nội hàm của phê bình sinh thái. - Tìm hiểu mối quan hệ giữa tự nhiên và con người trong Thơ mới. - Tìm hiểu ngôn ngữ và biểu tượng trong Thơ mới. 3. Đối tƣợng, phạm vi nghiên cứu 3.1. Đối tượng nghiên cứu - Luận án xác định đối tượng nghiên cứu là những tác phẩm trực tiếp, gián tiếp thể hiện mối quan hệ giữa tự nhiên và con người trong Thơ mới. -Vận dụng những tri thức của phê bình sinh thái để cắt nghĩa lý giải mối quan hệ giữa tự nhiên và con người trong Thơ mới. Từ đó khẳng định những đóng góp của Thơ mới một cách đầy đủ, toàn diện hơn. 3.2. Phạm vi nghiên cứu Luận án của chúng tôi được thực hiện dựa trên sự khảo sát chính ở tuyển tập: Thơ mới 1932 – 1945 tác giả và tác phẩm, Lại Nguyên Ân (biên soạn), 1999, NXB Hội nhà văn, Hà Nội - (tập 1, tập 2 - 1401 trang). Ngoài khảo sát các diễn ngôn phê bình sinh thái trong Thơ mới chúng tôi cũng khảo sát mối quan hệ giữa tự nhiên và con người trong văn học các giai đoạn trước và sau nó, nhằm làm nổi bật cũng như rõ hơn sự khác biệt của mối quan hệ trên trong Thơ mới. 4. Cơ sở lý thuyết và phƣơng pháp nghiên cứu Dựa trên nền tảng của các tri thức nghiên cứu hiện đại trong khoa học xã hội và nhân văn, dựa trên tri thức của phê bình sinh thái và những đặc trưng cơ bản của bối cảnh lịch sử đã sản sinh ra Thơ mới, chúng tôi lựa chọn các phương pháp nghiên cứu: - Phương pháp hệ thống: Nghiên cứu xem xét mối quan hệ giữa các yếu tố cấu thành nên hệ thống, trên cơ sở hệ thống hóa các yếu tố, tính chỉnh thể sẽ được bộc lộ rõ. Áp dụng phương pháp này, chúng tôi tiếp cận một cách hệ thống các yếu tố cấu thành tạo nên chỉnh thể Thơ mới từ phương diện nội dung và nghệ thuật từ đó cho thấy cái nhìn khái quát, tổng thể về Thơ mới dưới sự soi chiếu của lý thuyết phê bình sinh thái. 3 - Phương pháp thống kê: Bằng quá trình thống kê chi tiết, cụ thể những dấu hiệu sinh thái trong các sáng tác Thơ mới, phương pháp này giúp chúng tôi phân loại, mô tả được tổng thể mối quan hệ giữa tự nhiên và con người cũng như bao quát rõ hơn những yếu tố ngôn ngữ và biểu tượng sinh thái trong các tác phẩm Thơ mới. - Phương pháp liên ngành: Luận án vận dụng kết quả của nhiều chuyên ngành như: triết học, văn hóa học, tâm lý học, sinh học, sử học, địa lý, chính trị, đạo đức... Bởi lẽ, phê bình sinh thái vốn dĩ là một phương pháp nghiên cứu mang tính liên ngành. Kết hợp tri thức các ngành khoa học trên đề tài mong muốn hướng đến khái quát một bức tranh đa diện về mối quan hệ tự nhiên và con người những năm 1932 – 1945 của giai đoạn Thơ mới ra đời và cũng để tránh cái nhìn đơn giản, một chiều cho những kết luận rút ra trong quá trình nghiên cứu. - Phương pháp tiếp cận văn hóa học: Vận dụng phương pháp tiếp cận văn hóa học trong nghiên cứu, luận án muốn đề cập đến vấn đề con người trong Thơ mới nhìn từ góc độ văn hóa ứng xử với tự nhiên. Trong cách ứng xử giữa con người với tự nhiên qua các giai đoạn văn học từ văn học dân gian sang văn học trung đại và hiện đại đã có sự thay đổi do văn hóa cũng biến chuyển theo thời gian. - Phương pháp tiếp cận thi pháp học: Thi pháp học hiện đại cũng giúp nhìn nhận rõ hơn tác giả, lịch sử văn học, giọng điệu...là những căn cứ chân thực để soi rọi Thơ mới từ góc nhìn phê bình sinh thái. - Phương pháp so sánh: Khi nghiên cứu mối quan hệ giữa con người và tự nhiên trong Thơ mới, luận án cũng tiến hành so sánh với văn học dân gian, văn học trung đại và văn học hiện đại, đương đại nhằm tìm ra những nét tương đồng cũng như khác biệt trong mối quan hệ trên. 5. Đóng góp mới về khoa học của luận án Đây là công trình đầu tiên nghiên cứu một cách toàn diện và hệ thống về Thơ mới từ lý thuyết phê bình sinh thái. Luận án đã tổng thuật, phân tích, đánh giá chi tiết, cụ thể các công trình nghiên cứu phê bình sinh thái trên thế giới và Việt Nam, chỉ ra vị trí và xu hướng phát triển của phê bình sinh thái nước nhà trong thời gian hiện nay. 4 Luận án không nhằm trả lời Thơ mới có phải là văn học sinh thái hay không mà chủ yếu chỉ ra những giá trị đa diện, ý nghĩa của Thơ mới dưới sự soi chiếu của lý thuyết phê bình sinh thái. Dưới lý thuyết phê bình sinh thái, luận án đã khám phá trên những bình diện cơ bản về mối quan hệ con người và tự nhiên trong Thơ mới: Tự nhiên với tư cách như một khách thể và như là chủ thể; Đồng thời, luận án đã khám phá hệ thống ngôn ngữ sinh thái cùng biểu tượng cơ bản trong Thơ mới tiêu biểu là biểu tượng vườn. 6. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn của luận án Ý nghĩa lý luận: Luận án tập trung trả lời câu hỏi Thơ mới có thể đóng góp gì cho phê bình sinh thái, tức là khi được xét trong trường hợp cụ thể là thơ ca về thiên nhiên của Thơ mới thì phê bình sinh thái có thể cần phải bổ sung điều gì; từ trường hợp của Thơ mới, có thể bình luận, bàn luận thêm gì về phê bình sinh thái. Một lí thuyết của thế giới, được sinh ra trong một bối cảnh lịch sử xã hội khác Việt Nam, khi đem quy chiếu đến thơ ca Việt Nam - vốn cũng được ra đời trong một bối cảnh lịch sử xã hội đặc trưng - chắc chắn sẽ có nhiều điểm phát hiện mới, khám phá mới. Nghiên cứu Thơ mới từ góc nhìn phê bình sinh thái để phần nào cho thấy sự mới mẻ này sẽ là một đóng góp về lí luận của đề tài và Thơ mới vì thế cũng có thêm giá trị lí luận. Ý nghĩa thực tiễn: Đề tài là tài liệu tham khảo cho những người quan tâm và nghiên cứu về phê bình sinh thái cũng như muốn khám phá thêm những giá trị của Thơ mới (1932 -1945). 7. Cấu trúc của luận án Ngoài phần mở đầu, kết luận, tài liệu tham khảo, phụ lục, phần nội dung chính của luận án gồm 4 chương như sau: Chương 1: Tổng quan vấn đề nghiên cứu Chương 2: Phê bình sinh thái như là một hướng tiếp cận văn học Chương 3: Những bình diện sinh thái của mối quan hệ tự nhiên và con người trong Thơ mới Chương 4: Ngôn ngữ và biểu tượng sinh thái trong Thơ mới 5 CHƢƠNG 1 TỔNG QUAN VẤN ĐỀ NGHIÊN CỨU 1.1.Nghiên cứu phê bình sinh thái ở nƣớc ngoài 1.1.1.Phê bình sinh thái ở phương Tây Cho đến nay phê bình sinh thái đã trở thành một xu hướng nghiên cứu liên ngành và không ngừng mở rộng.Trên đại thể, phê bình sinh thái đã trải qua hai giai đoạn: Giai đoạn thứ nhất gắn với thời kỳ lãng mạn; Giai đoạn thứ hai là sự gặp gỡ các diễn ngôn sinh thái và diễn ngôn hậu thực dân sinh thái. Đây là hướng nghiên cứu văn học khởi nguồn từ Mỹ vào những năm 1960 - 1970 và mở rộng ra các nước phương Tây. Phê bình sinh thái nghiên cứu mối quan hệ giữa văn học và môi trường tự nhiên. Nếu như phê bình nữ quyền xem xét ngôn ngữ với văn học dưới góc độ của ý thức về giới, phê bình Marxist đưa ý thức về các hình thái sản xuất và các tầng lớp kinh tế vào việc đọc văn bản thì phê bình sinh thái lại lấy cách tiếp cận lấy trái đất - tự nhiên làm trung tâm khi phân tích tác phẩm văn học. Mặc dù phê bình sinh thái đã manh nha từ trước, nhưng phải đến những năm 70 của thế kỷ XX, khi Joseph W. Meeker cho xuất bản Sinh thái học của văn học chính thức đề xuất tên gọi sinh thái học văn học (literary ecology) thì các nhà nghiên cứu bắt đầu quan tâm sâu sắc đến mối quan hệ giữa văn hóa và văn học với môi trường. Cũng từ đây phê bình sinh thái trở thành một lĩnh vực nghiên cứu văn học được quan tâm trên thế giới. 1.1.1.1. Thời kỳ đầu Năm 1973, Raymond Williams – học giả người Anh công bố cuốn Nông thôn và thành thị (The country and the city). Đây là công trình được xem là khởi đầu của nghiên cứu phê bình sinh thái ở nước Anh.Tác giả đã làm rõ mối quan hệ giữa thành thị và nông thôn trong văn học Anh từ lập trường của chủ nghĩa chỉnh thể sinh thái. Ông đã chỉ rõ đó là mối quan hệ vừa chứa đựng sự mâu thuẫn lại vừa thống nhất. Năm 1985, Frederick O. Waage cho ra đời cuốn sách Dạy văn học môi trường: tài liệu, phương pháp và tiềm năng phát triển (Teaching environmental literature materials methods resources). Với “mục đích thúc đẩy mọi người 6 tăng cường quan hệ và hiểu biết sâu hơn về vấn đề môi trường trong văn học” [143] cuốn sách đã như một gợi ý cho các giáo sư Mĩ mở các môn học liên quan đến văn học sinh thái và tiến hành nghiên cứu lĩnh vực này. Năm 1989, tại Mỹ đã dành một bản tin có tên Bản tin sáng tác về đề tài tự nhiên trong văn học Mỹ (The American nature writing newsletter) để đăng tải những bài viết về phê bình sinh thái. Và cũng năm này, trong Đại hội “Hội văn học miền Tây”, học giả Cheryll Glotfelty công bố báo cáo Vì một nền phê bình văn học sinh thái (Toward an ecological literary criticism) và Lough với bài Định giá lại tự nhiên: Vì một nền phê bình sinh thái học (Revaluing nature: Toward and ecological criticism), với hai báo cáo nói trên các học giả đã góp phần đề xướng và làm sống lại thuật ngữ phê bình sinh thái. Năm 1990 đánh dấu sự ra đời bộ sách đồ sộ có tên Cuốn sách viết về tự nhiên (The norton: book of nature writing) do Robert Finch và John Elder chủ biên. Cuốn sách dày gần 1000 trang đã giới thiệu những tác phẩm quan trọng viết về tự nhiên của các nhà văn Âu Mĩ từ thế kỉ XVIII. Đây có thể xem như là một tài liệu quý bổ sung hữu ích cho người nghiên cứu tìm hiểu về văn học sinh thái. Có thể nhận thấy, thời kỳ đầu những nghiên cứu về văn học và môi trường đã bắt đầu được chú ý và ngày càng gia tăng trên thế giới. Song hầu như chỉ tập trung vào các nghiên cứu ở Anh và Mỹ đặc biệt là miền Tây nước này. Nhiều công trình tập trung viết về cái hoang dại, sự hiển linh của cá nhân, chỉ ra sự hài hòa, cân bằng giữa con người với thiên nhiên – những thứ thực ra là do văn hóa con người và ngôn ngữ con người tạo ra chứ không phải là thực tế thiên nhiên có như vậy. Chính vì thế, các nhà phê bình sinh thái gọi đây là giai đoạn tụng ca phê bình sinh thái. 1.1.1.2. Thời kỳ phát triển Phê bình sinh thái ra đời ở Hoa Kì và bắt đầu phát triển mạnh vào những năm 90. Đặc biệt là sự ra đời của Hội nghiên cứu văn học và môi trường (The Association for the study of study of literature and environment), gọi tắt là ASLE được thành lập ở trường đại học Nevada Mĩ vào năm 1992. Đây là một tổ chức học thuật phê bình sinh thái mang tính quốc tế, thường xuyên tổ chức 7 các cuộc thảo luận, xuất bản các tập san của hội, giới thiệu những thành quả phê bình sinh thái mới nhất. Năm 1993, tạp chí Nghiên cứu liên ngành văn học và môi trường (Interdisciplinary studies in literature and environment) gọi tắt là ISLE ra đời. Tạp chí sau đó trở thành cuốn sách học thuật có tính hạt nhân trong lĩnh vực phê bình sinh thái, mỗi số đều có dung lượng hàng trăm trang. Cùng với sự ra đời của ASLE, ISLE đã làm tăng tính học thuật cho các thành quả nghiên cứu phê bình sinh thái. Năm 1998, tại Luân Đôn, R. Kerridge và N. Sammells chủ biên tuyển tập Viết về môi trường: Phê bình sinh thái và văn học (Writing the environment:Ecocriticism and literature). Tác giả là những nhà phê bình sinh thái Âu Mỹ đã giới thiệu phê bình sinh thái từ góc độ nhân văn, thể hiện nhiều lập trường nghiên cứu của các nhà phê bình sinh thái. Phê bình sinh thái phát triển thực sự mạnh mẽ và sâu rộng. Hàng loạt các công trình nghiên cứu ra đời khiến văn học môi trường trở thành hiện tượng văn học mang tính toàn cầu. Đặc biệt phê bình sinh thái còn trở thành môn học trong nhiều trường đại học ở Anh và Mỹ. Đại học Naveda là trung tâm giảng dạy và nghiên cứu văn học sinh thái của toàn nước Mỹ. Ở đây tập hợp nhiều giáo sư, nghiên cứu sinh chuyên nghiên cứu văn học sinh thái. Bên cạnh đó là các trường đại học như Virginia, Arizona, Georgia, Oregen.đều là cơ sở quan trọng của phê bình sinh thái. Năm 2000, cũng là năm phát triển mạnh của phê bình sinh thái với sự công bố hàng loạt công trình phê bình sinh thái xuất sắc như Tính đa ngành trong nghiên cứu văn học viết về tự nhiên (Father afield in the study of nature – oriented literature) của Patrick D. Murphy; Cuốn Chủ nghĩa môi trường trong văn học Mỹ (American literary environmentalism) của David Mazel; Bài ca trái đất (The song of the earth) của Jonathan Bate; Tuyển tập nghiên cứu xanh; từ chủ nghĩa lãng mạn đến phê bình sinh thái (The green studies reader: From romanticism to ecocriticism) của Laurence Coupe; Ý thức nơi chốn của Thoreau: Những tiểu luận về văn học môi trường Mỹ (Thoreau’s sense of pace: Essays in American environmental writing) của Richard J. Schneider Với sự 8 ra đời của rất nhiều các tác phẩm phê bình sinh thái nói trên đã cho thấy tiềm năng phát triển của lĩnh vực nghiên cứu này. Năm 2008, Scott Slovic cho xuất bản cuốn sách Đi xa để suy nghĩ: Nhập thế, xuất thế và trách nhiệm của phê bình sinh thái (Going away to think: Engagement, retreat, and ecocritical responsibility). Tại đây, tác giả đã đề xuất trách nhiệm của sinh thái chính là sự dung hợp của hai luồng tư tưởng “nhập thế” và “xuất thế”, nghĩa là nhà phê bình sinh thái cần tham gia vào việc hưởng thụ tự nhiên nhưng cũng nêu cao tinh thần chăm sóc và bảo vệ tự nhiên. Năm 2009, Peter Barry cung cấp thêm một công trình có đề cập đến một vấn đề lý thuyết mới của phê bình sinh thái bao gồm các vấn đề như: chủ nghĩa nhân văn tự do, chủ nghĩa cấu trúc, chủ nghĩa hậu cấu trúc Lý thuyết nhập môn: Giới thiệu về lý thuyết văn học và văn hóa (Beginning theory: An introduction to literary and cultural theory). Cũng trong năm này nhiều chuyên luận đã đề cập đến phê bình sinh thái đô thị như Tự nhiên của đô thị: Phê bình sinh thái và môi trường đô thị (The nature of cities: Ecocriticism and urban environments)của Michael Bennett và David W. Teague; Xem xét lại công viên đô thị: Không gian công cộng và đa dạng văn hóa (Rethinking urban parks: Public space and cultural diversity) của Setha Low, Dana Taplin và Suzanne Scheld. Khởi nguồn ở Anh và Mỹ, phê bình sinh thái đã mở rộng nghiên cứu ra toàn cầu. Nếu như phê bình sinh thái manh nha hình thành khoảng từ những năm 70 của thế kỉ XX, phát triển mạnh khoảng từ năm 1990 đến năm 2007 thì sang khoảng năm 2008 vẫn trên đà phát triển đó phê bình sinh thái đã có nhiều sự chuyển hướng trong nghiên cứu, mở rộng nhiều hơn tới các vấn đề giới, chủng tộc và giai cấp cũng như nhấn mạnh đến các góc nhìn liên văn hóaĐiều đó càng chứng tỏ sự hứa hẹn phê bình sinh thái là một hướng nghiên cứu phát triển và mang tính toàn cầu. Song trên hết, chúng ta phải thừa nhận ý nghĩa đúng đắn của sứ mệnh phê bình sinh thái: “Góp phần thay đổi thái độ nhân loại với tự nhiên”.[76] 1.1.2. Phê bình sinh thái các quốc gia ngoài phương Tây Việc mở rộng kinh điển sinh thái để bao gồm tất cả các nền văn học trên thế giới với sự đóng góp của các nhà phê bình toàn cầu được coi như là một cột 9 mốc gần đây nhất trong thực hành phê bình sinh thái. Mặc dù, thành viên của Hiệp hội Nghiên cứu Văn học và Môi trường (ASLE) cho đến nay phần lớn là các học giả nổi tiếng Anh, làm việc trên các văn bản tiếng Anh nhưng cũng đã có những nỗ lực đáng chú ý nhằm khám phá các vấn đề môi trường và hướng đến phê bình môi trường trong các truyền thống văn học ở Châu Á, đặc biệt là Nhật Bản, Hàn Quốc, hay các nền văn học tiếng Hán. Nói cách khác, phê bình sinh thái có gốc gác trong các tác phẩm lý thuyết cuối thế kỷ XX của Raymond Williams ở Anh, Lawrence Buell ở Hoa Kỳ, Kate Rigby và những học giả khác ở Úc nghiên cứu phê bình sinh thái cổ điển chủ yếu dựa trên văn bản tiếng Anh. Phải đến bộ tuyển tập gần đây Phê bình sinh thái Đông Á: Tuyển tập có phê bình: Các nền văn học, các nền văn hóa, và môi trường (East Asian ecocriticisms: A critical reader (literatures, cultures, and the environment. New York: Palgrave Macmillan, 2013) của S. Estok và W. Kim mới có chú ý tới các tác phẩm văn học và nhà văn của Nhật Bản, Hàn Quốc, Đài Loan và Trung Quốc. Bên cạnh đó, cuốn Mơ hồ sinh thái: Khủng hoảng môi trường và văn học Đông Á (Ecoambiguity: environmental crises and East Asian literatures, University of Michigan Press, 2012) của Karen Thornber phân tích khủng hoảng môi trường trong văn học Đông Á, đặc biệt, cuốn sách tập trung phân tích vào văn học mang tính sinh thái của toàn bộ khu vực này từ thời cổ điển cho đến hiện tại. Bà nhấn mạnh đặc tính “nước đôi” hay là sự “nghịch lí” trong các xã hội Đông Á, nhất là Trung Quốc, Nhật Bản, Hàn Quốc, trong quan niệm của họ về tự nhiên. Bà đưa ra một ví dụ về việc song hành tôn kính thiên nhiên và việc khai thác hay bóc lột thiên nhiên trong văn hóa các nước Đông Á. Cái nghịch lí sinh thái đó tiếp tục thách thức các xã hội trên toàn thế giới [139]. Cuốn Phê bình sinh thái Đông Nam Á: Lí thuyết, thực hành và triển vọng (Southeast Asian Ecocriticism: Theories, practices, prospects, Maryland: Lexington Books, 2018) do John Ryan biên tập bao gồm các bài viết phân tích các tác phẩm văn học các nước Đông Nam Á từ góc nhìn của phê bình sinh thái. Còn nữa, trên thế giới đã có vô số các công trình nghiên cứu tập trung khai thác văn học của các khu vực phi phương Tây và thuộc nhiều thời kì khác nhau từ góc độ phê bình sinh thái. Có thể kể ra đây bài viết nghiên cứu của Scott 10 Slovic, người sáng lập Hội văn học và môi trường thế giới, Phong cảnh trong phê bình sinh thái và văn học môi trường Trung Quốc: Sự xuất hiện của một nền văn minh sinh thái mới (Landmarks in Chinese ecocriticism and environmental literature:the emergence of a new ecological civilization) đăng trên tờ Khoa học xã hội Trung Quốc ngày nay (Chinese social sciences today press) số ra ngày 31/7/2013. Bài viết tập trung phân tích các vấn đề sinh thái, thế giới môi trường trong truyền thống thơ Trung Quốc - từ thơ Đường cho đến thơ hiện đại, thơ đương đại Trung Quốc. Trong bài viết, tác giả đề cập đến một loạt các trung tâm nghiên cứu và hội thảo nghiên cứu văn học, văn hóa qua các thời đại của Trung Hoa từ góc độ phê bình sinh thái. Thú vị hơn là đã có nhiều công trình nghiên cứu các tác phẩm văn học cổ đại của Ấn Độ, như sử thi Ramayana, từ góc độ phê bình sinh thái. Có thể kể ra đây cuốn sách Phê bình sinh thái và sử thi Ramayana của Tulsidasa (LAP Lambert Acad. Publ., 2011) của Pankaj Sharma, bài nghiên cứu Phê bình sinh thái trong các truyền thống phương Tây và phương Đông (IUP Journal of English Studies Vol. 7, No. 1, March 2012) của Mishra, Raj Kumar nghiên cứu tác phẩm của Kalidasa và Valmiki từ lăng kính của phê bình sinh thái. Học giả Aiyer, K. R. có một loạt bài viết nghiên cứu sử thi Mahabharata từ góc nhìn sinh thái, đó là bài nghiên cứu Đạo trong Mahabharata như là cách phản ứng đối với sự khủng hoảng môi trường: một dự đoán (Dharma in the Mahabharata as a response to ecological crises: A speculation. The Trumpeter, số 9 năm 2009) và bài viết Một cái nhìn sinh thái xã hội về vài đoạn trong sử thi Mahabharata (A social ecological perspective on some episodes from the Mahabharata, Indian Journal of Eco-criticism 2 năm 2009). Trong bài viết gây tiếng vang Quá trình xanh về sự phản kháng trong thơ Ả rập: Diễn giải một số bài thơ Ả rập chọn lọc từ góc độ phê bình sinh thái (Greening of resistance in Arabic poetry: An ecocritical interpretation of selected Arabic poems, The Southeast Asian Journalof English Language Studies – Vol 21(1): 13 – 22), Hamoud y’ahya Ahmed phân tích một số bài thơ Ả rập từ lăng kính phê bình sinh thái để khám phá cách thức môi trường tự nhiên là một lực định hình cá thể và góp phần vào sự xanh hóa phong trào phản 11 kháng thông qua các cộng đồng sinh học trong thế giới Ả rập. Tiền đề của bài báo xuất phát từ những khẳng định của phê bình sinh thái gần đây về ranh giới linh hoạt mềm dẻo, có thể tràn qua được, của lĩnh vực này và về khả năng ứng dụng của nó như là một lăng kính mà qua đó chúng ta có thể đọc bất cứ văn bản văn học nào. Bài viết tập trung vào các bài thơ Ả rập để xem xem các nhà thơ Ả rập đã gắn bó với môi trường tự nhiên và được thể hiện ra sao trong các bài thơ của mình. Bài viết dựng lại việc những nhà thơ Ả rập đã nỗ lực như thế nào để biểu hiện theo kiểu sinh thái về sự phản kháng trong thơ Ả rập. Từ đó, bài viết kết luận về sự hiện diện sâu sắc và gắn bó của thế giới tự nhiên trong việc miêu tả những phản kháng của con người đối với việc lấn chiếm đất đ... xuất đã, đang và sẽ là vấn nạn, đại nạn đối với con người và vạn vật. 24 Rừng khô, suối cạn, biển nhiễm độc, cá chết, lũ lụt, hạn hán, vỡ đập, tràn bùnliên tục ập đến như những mối “họa vô đơn chí”. Vì thế, với động thái trách nhiệm và lắng nghe trái đất, nghiên cứu văn học từ góc nhìn sinh thái học chắc chắn không phải là “thấy người ta ăn khoai, mình vác mai đi đào”, cũng không phải thương vay khóc mướn, mà là công việc cần làm, phải làm của người trong cuộc, thể hiện sự hồi đáp của khoa học văn chương đối với tiếng kêu cứu của môi trường sinh thái” [76,17]. Những điều “tâm sự” của nữ học giả Nguyễn Thị Tịnh Thy với bạn đọc như là đồng vọng với lời gan ruột của Karen Warren trong Triết học nữ quyền sinh thái: Cái nhìn phương Tây về định nghĩa và tại sao triết lí đó quan trọng (Ecofeminist philosophy: A Western perspective on what It is and why it matters; Lanham: Rowman&Littlefield Publishers, Inc, 2000). Ngay mở đầu chương 1, trước khi bàn về mối liên hệ giữa các vấn đề môi trường và vấn đề xã hội, trong đó có vấn đề nữ quyền, tác giả viết “Cây, rừng, và sự phá rừng. Nước, hạn hán, và sa mạc hóa. Sản xuất thực phẩm, nghèo đói, và chất thải độc hại. Cuộc khủng hoảng về đa dạng sinh học, sinh vật hoang dã, và sự ngược đãi động vật”[144]. Định nghĩa của Nguyễn Thị Tịnh Thy về văn học sinh thái cũng cho thấy sự nhấn mạnh của tác giả đối với tinh thần dấn thân xã hội của bộ phận văn học này: “Văn học sinh thái còn thể hiện trách nhiệm sinh thái, lý tưởng sinh thái, phê phán mặt trái của văn minh, phản ánh nguy cơ sinh thái, nguy cơ tinh thần, nguy cơ tư tưởng và nguồn gốc xã hội của các nguy cơ đó”[76,93].Với những băn khoăn về vấn đề xã hội, chính trị của phê bình sinh thái, cả hai tác giả đều tham gia vào làn sóng thứ hai của cách tiếp cận đối với văn học, văn hóa trên. Trong các bài tạp chí và các bài tham luận tại các hội thảo như Trăm năm còn lại của Trần Duy Phiên – nhìn từ lí thuyết phê bình sinh thái (Nghiên cứu văn học (898), số 1, 2015) và Khủng hoảng môi trường và trách nhiệm của nhà văn; Đọc hiểu xanh về Thập giá giữa rừng sâu của Nguyễn Khắc Phê (Tạp chí khoa học - 385, Đại học sư phạm Huế, số 8, 2016). Ở đây, Nguyễn Thị Tịnh Thy chỉ ra thực tế con người cưỡng đoạt, tàn phá tự nhiên (rừng sâu nước thẳm, gió núi mưa ngàn, chim muông thú hoang, vàng sa khoáng...), thiên nhiên cuồng nộ trừng phạt lại con người. Cuộc chiến bảo vệ rừng xanh giữa kiểm lâm và bọn lâm tặc. Mặt trái của văn minh đô 25 thị khiến tài nguyên rừng bị tàn phá, khai thác, tận diệt. Thiên nhiên hung dữ trừng phạt con người. Trong bài viết Sáng tác và phê bình sinh thái – tiềm năng cần khai thác của văn học Việt Nam (Tạp chí văn nghệ quân đội, số 10 năm 2014), Nguyễn Thị Tịnh Thy chỉ ra phê bình sinh thái còn là một sự “phản ứng chậm”, các sáng tác và phê bình sinh thái nên trở thành một khuynh hướng gắn bó thiết thực với đời sống văn chương và đời sống xã hội, phát huy trách nhiệm của nhà văn trong việc bảo vệ môi trường. Các nhận định của nữ tác giả rõ ràng là nằm trong sự chuyển hướng của phê bình sinh thái thế giới ở làn sóng thứ hai, đó là sự quan tâm đến các vấn đề xã hội, chính trị. Công trình hệ thống tiếp theo thể hiện phê bình sinh thái ở Việt Nam cộng hưởng với làn sóng thứ hai của phê bình sinh thái trên thế giới là cuốn Phê bình sinh thái với văn xuôi Nam Bộ (Bùi Thanh Truyền chủ biên, NXB Văn hóa – Văn nghệ Thành phố Hồ Chí Minh, 2018). Cuốn sách thể hiện một cách rõ nét quan điểm “dấn thân” và “có trách nhiệm với xã hội” trong cách tiếp cận văn chương từ góc độ phê bình sinh thái. Điều này thể hiện ở ngay định nghĩa về phê bình sinh thái bao trùm cuốn sách này, đó là: “Phê bình sinh thái là sự lên tiếng của khoa học văn chương trước sự lâm nguy của môi trường, những kết quả bước đầu của phê bình sinh thái là một minh chứng về sự nhạy cảm, bản lĩnh, cái tâm và trách nhiệm công dân của người nghiên cứu đối với thực trạng xã hội hôm nay” (trang bìa)[82]. Tác giả Trần Thị Ánh Nguyệt trong bài Phê bình sinh thái – khuynh hướng nhiều tiềm năng trong phê bình văn học Việt Nam liệt kê một loạt các sự kiện lịch sử xã hội (chiến tranh, quá trình công nghiệp hóa hiện đại hóa) như là những tác nhân gây nên sự hủy hoại về môi trường, môi sinh ở Việt Nam. Điều đặc biệt là các sự kiện tác giả liệt kê là những gì đang diễn ra, hay diễn ra gần đây và là những việc gây chú ý sâu rộng với cộng đồng như sự kiện tê giác biến mất ở Việt Nam năm 2010, sự kiện voi Tây Nguyên không có rừng để sống về tàn sát những cánh đồng, sự kiện sếu đầu đỏ di cư hoàn toàn sang Campuchia, việc sử dụng thuốc trừ sâu trong nông nghiệp đã tiêu hủy môi trường sống của thực vật, động vật.. tại các khu vực của đất nước. Các tác giả khác như Bùi Thanh Truyền, Phạm Ngọc Lan nêu ra sự thực về Nam Bộ với sự gánh chịu của cuộc biến đổi khí hậu toàn cầu, việc phá 26 rừng đầu nguồn, phá rừng phòng hộ do “lòng tham xé đáy” [82,156] của con người. Như vậy, phê bình sinh thái với các học giả Việt Nam là một hành động mang tính trách nhiệm xã hội của trí thức nước nhà trước các vấn đề môi trường trong sự liên đới với các vấn đề xã hội, chính trị, lịch sử quốc gia. Bài phát biểu đề dẫn cho hội thảo quốc tế “Phê bình sinh thái: Tiếng nói toàn cầu, tiếng nói bản địa” của Nguyễn Đăng Điệp Thời đại khủng hoảng môi trường và vai trò, vị thế của phê bình sinh thái cũng cho thấy một cách hàm ẩn các vấn đề thuộc về chính trị, xã hội là động lực, cũng là mục tiêu của các nghiên cứu và các sự kiện phê bình sinh thái ở Việt Nam. Lớp hiển lộ và được cấu trúc có hệ thống trong bài viết này là những quan sát của nhà nghiên cứu về sự ra đời, phát triển và những thành tựu của phê bình sinh thái. Cụ thể tác giả đi vào phân tích bốn đặc trưng nổi bật của phê bình sinh thái: Thứ nhất, phê bình sinh thái đề xuất tư tưởng lấy sinh thái là trung tâm thay thế tư tưởng coi con người là trung tâm; Thứ hai, phê bình sinh thái kiếm tìm mối quan hệ giữa “văn hóa” và “tự nhiên”; “văn minh” và “hoang dã”; Thứ ba, phê bình sinh thái có hướng tiếp cận liên ngành; Thứ tư, phê bình sinh thái có đối tượng và phạm vi nghiên cứu riêng. Lớp ý nghĩa đã được tác giả cấu trúc một cách tầng bậc trong bài viết còn là những đánh giá chung của nhà nghiên cứu về sự phát triển của văn học sinh thái và phê bình sinh thái ở Việt Nam. Nhưng điều thú vị hơn là những hàm ý về các vấn đề xã hội, chính trị, lịch sử trong cách tiếp cận các phương diện sinh thái, môi trường trong văn học. Đó là khi tác giả khẳng định hội thảo quốc tế Phê bình sinh thái tiếng nói bản địa, tiếng nói toàn cầu trong việc đã tạo ra một diễn đàn khoa học để các nhà nghiên cứu trong và ngoài nước bàn thảo, đối thoại làm sâu sắc hơn những vấn đề lí luận của phê bình sinh thái, “phân tích và truy vấn mối quan hệ giữa con người và tự nhiên”, “góp phần làm thay đổi nhận thức của cộng đồng, điều chỉnh những nhầm lẫn tai hại về môi trường sinh thái, từ đó có những ứng xử phù hợp với tự nhiên, biết lắng nghe tiếng nói của tự nhiên vì mục tiêu phát triển bền vững” [18, 46]. Cách viết hàm ẩn và kết luận của bài đề dẫn về sự hợp nhất tam vị nhất con người - xã hội - tự nhiên như là nền tảng của xu hướng văn học sinh thái và phê bình sinh thái cho thấy quan niệm nổi bật của phương Đông về sự hài hòa giữa thiên nhiên và con 27 người là đặc trưng của phê bình sinh thái ở Việt Nam. Nói cách khác, những khám phá và truy vấn về các phương diện môi trường, tự nhiên trong công trình phê bình sinh thái ở Việt Nam có đặc trưng là khẳng định lại quan điểm văn hóa truyền thống của phương Đông (Nho giáo, Phật giáo) về mối quan hệ giữa con người và thiên nhiên chứ không phải là nêu lên trách nhiệm của lịch sử, xã hội, chính trị như là những tác nhân gây nên các vấn đề về môi trường, sinh thái. Theo đó, các quan điểm Phật giáo đề xuất tư tưởng thiên nhân bất nhị (con người và thế giới sinh tồn là một), hay quan điểm Nho giáo về con người và thiên nhân hợp nhất, coi sự hài hòa giữa con người và thiên nhiên là chuẩn mực sống của nhân sinh thường được các nhà phê bình sinh thái Việt Nam đưa ra (một cách trực tiếp hay gián tiếp) như là điểm tựa cho cách tiếp cận văn học theo hướng phê bình sinh thái. Có thể thấy điều này trong bài viết Nghiên cứu phê bình sinh thái hiện đại và di sản hóa; nhìn từ cách Sinh thái học tìm về Tam giáo (Bài viết in trong: Hội thảo khoa học Phát triển văn học Việt Nam trong bối cảnh đổi mới và hội nhập quốc tế, Viện Văn học, 2014) của Trần Hải Yến; bài viết Thiên nhiên hợp nhất, từ góc nhìn sinh thái (Phê bình sinh thái – tiếng nói bản địa, tiếng nói toàn cầu, Kỷ yếu hội thảo quốc tế, Viện Văn học) của Phương Lựu, v.v... Cuốn sách do Bùi Thanh Truyền chủ biên, dù không nêu lên một cách trực tiếp, nhưng những nhấn mạnh trong lời đề tựa như “trên cơ sở phân tích, đánh giá bước đầu văn xuôi Nam Bộ từ góc nhìn phê bình sinh thái, cuốn sách Phê bình sinh thái với văn xuôi Nam Bộ sẽ góp phần làm sáng tỏ thêm mối quan hệ hài hòa giữa con người với môi trường tự nhiên, xã hội trên tinh thần nhân văn hiện đại vì sự phát triển bền vững của vùng đất phương Nam hiện tại và tương lai” hay “văn học vùng đất này đã góp phần kiến dựng triết lý tân tự nhiên của thế kỷ XXI: con người là một phần của tự nhiên vì thế phải biết sống bình đẳng, tế nhị, hòa điệu với tự nhiên hơn là vô cảm, phá phách hoặc tìm mọi cách để chiến thắng tự nhiên”, và đặc biệt những dòng thổn thức về thiên nhiên “Chính trái tim biết thổn thức vì môi sinh đã giúp người viết cảm nhận những cung bậc trầm lắng của cuộc đời. Đó là những con người đang nhẫn nại góp phần giữ sạch môi trường sống, cả trên phương tiện vật chất lẫn tinh thần. Từ đây, con người có thể tìm lại sợi dây thiêng liêng kết nối với tự nhiên để dệt 28 hy vọng, giấc mơ bay đến tương lai bằng tình yêu thiên nhiên và trách nhiệm đối với chính môi trường sống của mình “âm vọng diễn ngôn của triết học phương Đông về mối quan hệ hợp nhất con người và tự nhiên”[82]. Như vậy, phê bình sinh thái ở Việt Nam mặc dù phản ánh sự phát triển của phê bình sinh thái thế giới qua những giai đoạn khác nhau (từ xu hướng gắn với các văn bản thiên nhiên đến việc xem xét các vấn đề chính trị, xã hội đặc trưng như chiến tranh, công nghiệp hóa và hiện đại hóa) nhưng vẫn có những nét riêng khi hướng đến quan điểm truyền thống về mối quan hệ hợp nhất con người - tự nhiên. Điều này làm nên đặc trưng của phê bình sinh thái ở Việt Nam trong sự tương quan với phê bình sinh thái ở một số nước khác trong khu vực. Ví dụ, ở Thái Lan, như khảo sát của John Ryan (với cách lập bảng khảo sát tương tự) chỉ ra sự phân tích vấn đề môi trường trong các tác phẩm văn học thường được giới hạn trong những thảo luận về chủ nghĩa khu vực, lịch sử và tôn giáo. Trong khi đó, ở Ấn Độ, như thống kê (với bản khảo sát tương tự) của Rayson K. Alex, đã có một số nghiên cứu về nữ quyền sinh thái và có sự nhấn mạnh vào sự cần thiết của cách tiếp cận sinh thái hậu thuộc địa. Nhìn chung, phong trào có tổ chức về phê bình sinh thái bắt đầu vào năm 2004 ở Ấn Độ đã chứng kiến một sự chuyển động theo cấu trúc xã hội - chính trị - văn hóa - tôn giáo tìm ra ảnh hưởng của phê bình sinh thái đến cấu trúc sinh thái của cộng đồng bản địa. Điều này cho thấy phê bình sinh thái có khả năng cao được phát triển hơn nữa trong nghiên cứu văn học Việt Nam. Sự cần thiết về các nghiên cứu phê bình sinh thái ở Việt Nam càng được nhấn mạnh do sự nhận thức của cộng đồng trước những thay đổi môi trường đặc biệt liên quan đến ô nhiễm không khí, vệ sinh thực phẩm, sự phá hủy hệ thống thủy sinh và lâm sinh. Những công trình phê bình sinh thái rất cần thiết với bộ phận văn học hiện đại Việt Nam (giai đoạn 1930-1945), đặc biệt với bộ phận thơ. Điều đó là vì hiện tại bộ phận văn học này chưa trở thành đối tượng của nhiều nghiên cứu phê bình sinh thái ở Việt Nam. Như bảng 2 chỉ ra, hiện chỉ có hai bài viết về Thơ mới từ góc độ phê bình sinh thái (của tác giả Nguyễn Đăng Điệp và Nguyễn Thị Minh Thương). Việc khám phá bộ phận văn học ra đời trong bối cảnh Việt Nam có những tiếp xúc về văn hóa và kinh tế với phương Tây hiện đại chắc chắn sẽ đem lại những lí giải và những tiếng nói mới về 29 lí thuyết cho phê bình sinh thái. Tóm lại, phê bình sinh thái hứa hẹn nhiều tiềm năng phát triển trong nghiên cứu văn học ở Việt Nam. Tiểu kết Chương này của luận án khảo sát và phân tích lí thuyết phê bình sinh thái đã được tiếp nhận và vận dụng trong việc nghiên cứu văn học nói chung và Thơ mới nói riêng ở Việt Nam. Luận án đặt diện mạo và sự phát triển của phê bình sinh thái ở Việt Nam trong dòng chảy của phê bình sinh thái thế giới trên cả hai phương diện lí thuyết và ứng dụng. Nói cách khác, luận án không liệt kê và tóm tắt các công trình phê bình sinh thái ở Việt Nam một cách riêng biệt và tràn lan mà phân tích và khảo sát chúng theo một định hướng và phương pháp nhất định. Cụ thể, chúng tôi đặt các sự kiện, các công trình, các xu hướng tiếp nhận và nghiên cứu phê bình sinh thái ở Việt Nam trong mối tương quan với sự phát triển và diện mạo của phê bình sinh thái trên thế giới, nhằm chỉ ra các dấu mốc, các xu hướng của phê bình sinh thái trong nước đang nằm ở đâu và có mối tương quan gì với phê bình sinh thái trên thế giới. Mục tiêu của chương cũng để chỉ ra sự kế tục và khác biệt của phê bình sinh thái ở Việt Nam trong mối tương quan với Phê bình sinh thái trên thế giới. Luận điểm chính của chương đã xem phê bình sinh thái ở Việt Nam như một biểu hiện các hướng phát triển của lí thuyết phê bình sinh thái trên toàn cầu; đồng thời, phê bình sinh thái trong nước có đặc trưng riêng là gắn với vấn đề xã hội, lịch sử, chính trị của Việt Nam hiện đại. Phần lớn tiêu đề của các phần trong chương nhằm cố gắng thể hiện mối liên quan của phê bình sinh thái ở quốc gia với phê bình sinh thái thế giới (sẽ được trình bày ở Chương 2). Bằng cách này, người viết hi vọng phần tổng quan về phê bình sinh thái ở Việt Nam sẽ là một đóng góp cho những tổng kết về mặt lí luận đối với hướng tiếp cận văn học từ sinh thái và môi trường, tức phê bình sinh thái. 30 Chƣơng 2 PHÊ BÌNH SINH THÁI NHƢ LÀ MỘT HƢỚNG TIẾP CẬN VĂN HỌC 2.1. Phê bình sinh thái lấy trái đất làm trung tâm trong nghiên cứu văn học 2.1.1. Tiền đề triết học của phê bình sinh thái Những bàn luận mang tính lí thuyết về phê bình sinh thái phát triển về sau chủ yếu dựa vào nội dung của phê bình sinh thái cổ điển, đó là việc đặt thiên nhiên như là hệ quy chiếu trung tâm trong nghiên cứu tác phẩm văn học. Thể hiện rõ nhất cho điều này là khi các nhà lí thuyết về phê bình sinh thái chỉ ra các tiền đề triết học của hướng tiếp cận văn học và trước hết là các tư tưởng triết học của Phương Tây. Trung tâm của phê bình sinh thái như đã nói đặt ra vấn đề quan hệ giữa con người với tự nhiên, kêu gọi tôn trọng tự nhiên. Nhưng con người dù muốn hay không muốn vẫn phải khai thác thế giới tự nhiên để đảm bảo sự sinh tồn của mình. Khai thác tự nhiên để phục vụ lợi ích của loài người đã diễn ra từ thời tiền sử. Đến thời hiện đại hóa, công nghiệp hóa, và đặc biệt trong thời đại Ánh Sáng với tư tưởng của Descartes “Tôi tư duy tức là tôi tồn tại” cùng chủ nghĩa duy lý ra đời đã khiến con người ảo tưởng và kiêu ngạo về sức mạnh của mình. Vì vậy mà con người cho mình cái quyền được thống trị tự nhiên, tước đoạt tự nhiên và thiết lập tư tưởng con người là trung tâm. Hệ lụy của sự khai thác tự nhiên vô độ phục vụ cho nhu cầu của con người đã dẫn đến những hiểm họa về suy thoái môi trường và ô nhiễm sinh quyển một cách nghiêm trọng. Trong guồng quay hối hả tận diệt tự nhiên, con người rất cần phải dừng lại, nhìn nhận lại sự sai lầm của chính mình, rất cần phải lên tiếng để cảnh báo nguy cơ sinh thái, cảnh tỉnh nhân loại hãy tôn trọng tự nhiên và bảo vệ tự nhiên vì đó cũng là cách để bảo vệ sự sống của loài người. Ở bối cảnh này, nhiều học thuyết của các triết gia Phương Tây đã ra đời làm nền tảng triết học cho sự hình thành của phê bình sinh thái. Tiền đề thứ nhất - Ý thức sinh thái (Ecological consciousness): Ý thức sinh thái, xuất hiện vào nửa cuối thế kỉ XX, đây được xem là một bước phát triển của tư tưởng nhân loại về việc nhìn nhận mối quan hệ giữa con người với 31 tự nhiên. Nếu như sinh thái học cho rằng mọi sinh vật trong tự nhiên đều có mối quan hệ mật thiết với nhau trong đó có con người thì trên cơ sở ấy ý thức sinh thái cũng khẳng định mọi sinh thể trong thế giới đều có mối quan hệ bình đẳng với nhau. Đây là tư tưởng phản tư lại quan điểm cho rằng con người là trung tâm. Bởi lẽ con người cũng là một thực thể trong vũ trụ bao la. Trong thế giới đó, nhiều cá thể liên quan mật thiết với nhau mà con người cũng không thể tách mình ra khỏi mối quan hệ này. Đi ngược lại quy luật là phá vỡ chỉnh thể của sự phát triển tự nhiên, điều đó đồng nghĩa với việc tìm đến con đường hủy diệt, suy vong. Chính vì thế cần tạo ra sự phát triển hài hòa giữa con người và tự nhiên, con người tôn trọng tự nhiên và bảo vệ tự nhiên chính là cội nguồn của ý thức sinh thái. Và đó cũng là tư tưởng tiến bộ mà phê bình sinh thái tìm kiếm trong các tác phẩm văn học sinh thái. Tiền đề thứ hai - Triết học sinh thái (Ecological philosophy): Arne Naess tác giả sinh thái học bề sâu và triết gia hậu Marxit – Félix Guattari được xem là người khởi sướng thuật ngữ này. Theo quan điểm đó thì chỉ có một thế giới duy nhất là thế giới vật chất tồn tại khách quan và độc lập với ý thức con người. Con người là một phần của thế giới vật chất, các hoạt động sinh tồn của con người liên quan chặt chẽ với môi trường xung quanh mình. Từ khi xuất hiện cho đến nay thì con người luôn có khát vọng chinh phục và chế ngự tự nhiên. Nhiều hoạt động của con người đã tác động vào tự nhiên nhưng sự lạm dụng quá mức cũng sẽ dẫn đến nguy cơ mất cân bằng sinh thái thậm chí tự nhiên còn có thể quay trở lại “trả thù” con người. Ph.Ăngghen từng viết “Chúng ta hoàn toàn không thể thống trị giới tự nhiên như một kẻ xâm lược đi thống trị một dân tộc khác,chúng ta nằm trong lòng tự nhiên và tất cả sự thống trị của chúng ta đối với giới tự nhiên là ở chỗ, chúng ta khác với tất cả các sinh vật khác là chúng ta nhận thức được các quy luật của giới tự nhiên và có thể sử dụng được những quy luật đó một cách chính xác”[dẫn theo 81;19]. Trên cơ sở đó triết học sinh thái đã chỉ ra con người là một phần của vũ trụ và không thể tồn tại độc lập được. Con người cần tôn trọng sự phát triển bình đẳng của mọi sinh mệnh trong chỉnh thể tự nhiên. Triết học sinh thái đề cao quan điểm con người và tự nhiên phát triển hài hòa. 32 Tiền đề thứ ba, một tiền đề được nhà lí thuyết phê bình sinh thái Lawrence Buell tập trung phân tích kĩ trong bài nghiên cứu “Phê bình sinh thái, những xu hướng đang xuất hiện” [97; 87-115], là Sinh thái học bề sâu(Deep ecology): Buell cho rằng, đây là một khái niệm được Arne Naess nhà triết học nổi tiếng người Na Uy khởi xướng vào khoảng những năm 80 của thế kỷ XX. Sinh thái học bề sâu ra đời đã “phê phán” lại quan niệm của sinh thái học truyền thống hay còn gọi là sinh thái học bề mặt (Shallow ecology). Trong quan niệm của sinh thái học bề mặt thì thiên nhiên và môi trường, sự sống chỉ có giá trị như công cụ cung cấp và phục vụ những lợi ích cho con người. Từ cái nhìn đó mà con người sẽ có thái độ cư xử với thiên nhiên sao cho thiên nhiên có thể đem lại nhiều lợi ích nhất cho con người. Như vậy, bảo vệ môi trường hay thiên nhiên chính là để cho đời sống con người tốt hơn chứ không phải là vì bản thân môi trường tự nhiên. Có nghĩa là con người là trung tâm của thế giới, con người lấy sức mạnh của mình để khai thác tự nhiên phục vụ cho sự phát triển của quốc gia mình thêm giàu mạnh. Trái ngược với quan niệm trên, Sinh thái học bề sâu mà cha đẻ là nhà triết học Arne Naess đã chỉ ra, con người không phải là trung tâm của vũ trụ, mọi sinh vật trong sinh quyển đều có hình thức sống như con người,vì thế đều có giá trị nội tại và có quyền tự bảo vệ sự sinh tồn của mình: “mọi sinh vật, dù là người, động vật hay thực vật đều có quyền sinh sống bình đẳng và nở hoa”[dẫn theo 24;107]. Sinh thái học bề sâu nhấn mạnh sự bình đẳng của muôn loài trong chỉnh thể sinh thái. Nghĩa là mọi sinh vật kể cả con người đều có giá trị nội tại và có quyền được phát triển như nhau. Ở đây không có sự phân biệt loài nào cao hơn, loài nào thấp hơn cũng như loài nào quan trọng hơn và loài nào không quan trọng bằng. Như thế, thì theo quan điểm này, con người không phải là trung tâm, quyền lợi con người không phải là mục đích tối cao để chi phối các hoạt động khác. Con người cũng chỉ là một sinh vật sống, một bộ phận trong chỉnh thể sinh thái có mối quan hệ chặt chẽ với nhau. Cho nên cần tôn trọng sự phát triển của chỉnh thể mà không thể tự ý phá vỡ nó bởi lẽ sự phát triển của con người và các loài sinh vật khác đều góp phần vào việc tạo dựng những giá trị nội tại, sự đa dạng của các hình thức sống khác nhau trong sinh quyển đóng góp vào quá trình thực hiện những giá trị nội tại 33 đó. Tóm lại, sinh thái học bề sâu lên tiếng bảo vệ tự nhiên, đòi quyền lợi cho tự nhiên vì chính tự nhiên chứ không phải vì mục đích bảo vệ tự nhiên để mang lại lợi ích nhiều hơn cho con người. Sinh thái học bề sâu đề cao tư tưởng bình đẳng sinh thái trung tâm phủ nhận quan điểm con người là trung tâm. “Sinh thái học chiều sâu chỉ việc đào sâu tư tưởng lý luận sinh thái để dò tìm những vấn đề mang tính căn bản của sinh thái. Sinh thái học chiều sâu quan sát nguy cơ nghiêm trọng của môi trường hiện tại, phê phán “độ nông” (Shallow ecology) trong tư tưởng sinh thái học truyền thống, đồng thời trả lời cho câu hỏi nhân loại sẽ đi về đâu”[24;106]. Tiền đề thứ tư - Luân lí học trái đất (The land ethic): Đây là học thuyết do Aldo Leopoid đề xuất trong tác phẩm Niên giám xứ cát (A sand country Almanac). Ở đây ông cho rằng thế giới tự nhiên hay trái đất có tên gọi là “cộng đồng trái đất”. Trong quan niệm của mình Aldo Leopoid nhấn mạnh: “Cộng đồng trái đất” của chúng ta là một thể thống nhất trong đó các yếu tố như động vật, thực vật hay nước, không khí, đất đai và ngay cả con người đều góp phần tạo nên một chỉnh thể hoàn chỉnh, ổn định của hệ thống sinh thái. Khi chỉnh thể sinh thái hoàn chỉnh không bị chia tách, phá vỡ sẽ tạo nên vẻ đẹp sinh thái và đó là tư tưởng tiến bộ của luân lí học trái đất hướng tới. Bởi lẽ, vẻ đẹp sinh thái là nguyên tắc luân lý và tiêu chuẩn của thiện và ác. Theo ông “Khi một sự vật có ích cho việc giữ gìn vẻ đẹp, sự ổn định, hài hòa của thể chung của sinh vật, thì nó là chính xác, và nó là sai lầm khi đi ngược lại” [dẫn theo 27; 40]. Chính vì thế con người cần phải tôn trọng tính chỉnh thể này để bảo vệ trái đất, bảo vệ tự nhiên. Tiền đề thứ năm - Thuyết giải phóng động vật (Animal liberation theory). Một giả thiết đặt ra nếu một ngày kia trên hành tinh của chúng ta xuất hiện một loài sinh vật thông minh hơn hẳn con người và chúng cũng tàn sát, ăn thịt con người thì loài người chúng ta sẽ kêu gào đau đớn ra sao? Lúc ấy ai sẽ lắng nghe tiếng kêu cứu của chúng ta? Như thế, cũng rất có thể những loài động vật con người đang ăn thịt cũng sẽ vang lên những tiếng kêu bi thương như vậy. Và đó cũng là nền móng để Peter Singger giáo sư của trường đại học Princeton khởi xướng ra thuyết giải phóng động vật. Năm 1975 với cuốn sách có tên Animal Liberation (Giải phóng động vật) của Peter Singger đã gây được tiếng vang lớn 34 và trở thành cuốn sách bán chạy nhất lúc bấy giờ. Trong quan niệm của mình ông đề cao sự bình đẳng của động vật với con người. Cùng với nhiều nghiên cứu khác ông chỉ ra động vật cũng có thế giới nội tâm và có cảm xúc, chúng cũng cảm thấy vui sướng, đau đớn, buồn bã, hờn giận, sợ hãi,..và chúng thông minh hơn con người tưởng. Song điều quan trọng là động vật biết đau đớn khi con người sát hại chúng. Như thế, động vật cũng là những sinh linh có linh hồn. Cho nên giết hại động vật chẳng khác nào giết chết con người. Cần đối xử bình đẳng và tôn trọng động vật. Ông khẳng định nếu con người cần có nhiều phương thức khác nhau để tồn tại sự sống thì một trong những cách thức con người cần phải thay đổi, dừng lại ngay là không gây thiệt hại cho động vật. Và hành động thiết thực mà ông kêu gọi là hãy ăn chay. Thuyết giải phóng động vật của Peter Singger đã góp phần thức tỉnh đạo đức của con người trong cách cư xử với động vật. Kêu gọi con người yêu động vật, bảo vệ động vật và chính là yêu môi trường sống xung quanh ta. Tiền đề thứ sáu - Tư tưởng sinh thái học chủ nghĩa Marx và Engels: Marx và Engels đã chỉ ra nguồn gốc phát sinh nguy cơ phá hủy môi trường của chủ nghĩa tư bản. Theo hai ông, thì chủ nghĩa tư bản và tự nhiên có sự mâu thuẫn với nhau. Phương thức sản xuất tư bản đã lợi dụng sự phát triển vượt bậc của khoa học kỹ thuật để khai thác, bóc lột, tận diệt tự nhiên phục vụ cho sự phát triển của mình. Trong cuốn Phép biện chứng tự nhiên, Engels cho rằng giữa con người và tự nhiên có mối quan hệ phụ thuộc lẫn nhau. Song cần hạn chế sự chiếm đoạt và thống trị của con người với tự nhiên. Ông cũng khẳng định một cách biện chứng: con người luôn muốn khẳng định sức mạnh của mình và muốn chinh phục tự nhiên nhưng muôn đời con người không bao giờ có thể chiến thắng được tự nhiên hùng vĩ. Nếu con người càng cố gắng tận diệt tự nhiên, khai thác để phục vụ cho lợi ích của mình thì đến một ngày tự nhiên sẽ quay trở lại trừng phạt con người. Chính vì thế, con người không nên tìm cách chống lại tự nhiên, coi tự nhiên là kẻ thù mà hãy sống hài hòa và tôn trọng quy luật của tự nhiên. Từ các nền tảng triết học trên, có thể nhận ra một luận điểm chung rằng phê bình sinh thái, với việc đặt thiên nhiên hay sinh thái ở điểm quy chiếu trung 35 tâm trong nghiên cứu văn học, dựa trên tư duy mang tính kiểu thân rễ (rhizomic thought) mà Gilles Deleuze và Félix Guattari phát triển trong công trình Chủ nghĩa tư bản và Tâm thần phân liệt (Capitalism and Schizophrenia, 1972– 1980). Một bộ rễ chùm như miêu tả của Deleuze và Guattari không có điểm mở đầu và không có điểm kết thúc, nó luôn luôn ở trung điểm, ở giữa mọi thứ, tồn tại cùng nhau; cấu trúc rễ chùm là liên kết với nhau. Tương tự, tư duy theo kiểu thân rễ chỉ một mạng lưới không có trật tự trên dưới, nó lan tỏa, không có điểm cuối và không có nguồn gốc; thân rễ là kết nối với nhau, liên hợp với nhau, mở rộng ra vô cùng và luôn trong quá trình hình thành. Nói cách khác, thân rễ được hiểu như là một hệ thống phi trung tâm, không có trật tự cao thấp, nó hoạt động bởi sự đa dạng hóa và sự liên kết. Tinh thần thân rễ của phê bình sinh thái thể hiện ở chỗ các nhà sinh thái học cũng xóa bỏ mối quan hệ thứ tự, chia cắt, cố định giữa con người và tự nhiên; thay vào đó, phê bình sinh thái đưa lại mô hình liên kết, tương tác lẫn nhau và mang tính tạo sinh giữa con người và thế giới tự nhiên [102]. 2.1.2. Phê bình sinh thái và “các câu chuyện có cây cối” Các nhà phê bình sinh thái thường kể hai câu chuyện mang tính tưởng tượng nhằm ngầm khẳng định về vai trò của văn học viết về thiên nhiên trong sự định hình hướng tiếp cận văn học từ góc độ phê bình sinh thái. Theo đó, một cuốn sách tuyển chọn các tác phẩm kinh điển viết về thiên nhiên của Mỹ bị một nhà xuất bản từ chối với nhận xét là “những câu chuyện này có cây cối ở trong chúng”. Nhà xuất bản đã định vị mình là đang ở New York, từ chối những câu chuyện đó bởi vì chúng có tính phương Tây và chúng có thiên nhiên ở trong chúng. Một câu chuyện khác có một cốt truyện ngược lại, là tất cả các chuyện kể đã được xuất bản hay ở dưới dạng bản thảo là có cây cối ở trong ấy bởi vì chúng được làm từ thiên nhiên: thiên nhiên luôn luôn với chúng ta ở tại ngôi nhà. Câu chuyện này cho thấy phương pháp tiếp cận cổ điển của phê bình sinh thái là nói về văn học “cứ như là văn học có cây cối ở trong nó” [98,9-36]. Qua đó, chúng ta thấy được điều gì về phương pháp tiếp cận văn học từ góc độ phê bình sinh thái từ câu chuyện trên? 36 Câu chuyện trên cho thấy, phê bình sinh thái là “cách tiếp cận lấy trái đất làm trung tâm trong nghiên cứu văn học”[111]. Đây là định nghĩa mang tính tuyên ngôn của phê bình sinh thái, nó xác định đặc trưng của phê bình sinh thái trong tương quan với các hướng nghiên cứu văn học khác. Tuyên ngôn này được Cheryll Glotfelty nêu trong lời mở đầu của cuốn được gọi là sách giáo khoa về phê bình sinh thái đó là Sách giáo khoa về phê bình sinh thái: Các dấu mốc trong sinh thái văn học (The ecocriticism reader: Landmarks in lterary ecology, Athens and London: University of Georgia, 1996) do Cheryll Glotfelty và Harold Fromm biên tập. Trong thực tế, phê bình sinh thái (ecocriticism), một hướng tiếp cận văn học trong mối quan hệ với các vấn đề môi trường, sinh thái, được manh nha từ những năm 60 ở Anh, Mỹ và phát triển rầm rộ từ những năm 90 của thế kỉ XX, không chỉ ở phương Tây mà còn ở nhiều nước còn lại trên thế giới. Như vậy, trước Glotfelty và nhóm tác giả của cuốn “sách giáo khoa”, các nhà nghiên cứu văn học đã nhấn mạnh những khía cạnh khác nhau của văn học trong mối liên hệ với môi trường sinh thái; sự khác nhau này phản ánh sự vận động, mở rộng về nội dung của phê bình sinh thái. Cụ thể, năm 1972, Joseph W Meeker, trong công trình Hài kịch sống sót: nghiên cứu sinh thái văn học (The comedy of survival: Studies in literary ecology, New York: Scribner's, 1972), đã kết nối nghiên cứu văn học và nghiên cứu môi trường như là một lĩnh vực tìm hiểu khi ông phân tích hài kịch và bi kịch như là những khái niệm sinh thái.Với khái niệm “sinh thái học văn học” (literary ecology) [122,7], nhà học giả thuộc chuyên ngành văn học so sánh và dâ...ễn gà lôi, chó sói).. bị săn bắn. Huy Thiệp thuyết phê bình sinh Thiên nhiên quay trở lại trừng thái - 2014 phạt con người. Nữ quyền luận sinh thái: thiên tính nữ, vẻ đẹp của các sơn nữ. 5 Luận Văn – ĐHSP Hà Cái tự nhiên từ điểm Đặng Thị Thái Vận dụng hệ thống lí luận phê Qua tác phẩm Nội Hà bình sinh thái trong cái nhìn về của Nguyễn nhìn phê bình sinh thái thế giới tự nhiên phi nhân. Đặc Minh Châu, (Qua tác phẩm của biệt, luận văn đi sâu vào Nguyễn nghiên cứu sự mơ hồ của HuyTthiệp, Nguyễn Minh Châu, những diễn ngôn văn học Nguyễn Ngọc Nguyễn HuyTthiệp, trong việc tạo dựng cái tự Tư nhiên phi nhân, qua các sáng Nguyễn Ngọc Tư) - tác của Nguyễn Minh Châu, Nguyễn Huy Thiệp, Nguyễn 15 2014 Ngọc Tư nhằm làm rõ phản ứng chung của văn học đối với khủng hoảng sinh thái đang diễn ra. 6 Luận văn – ĐHSP Thái Cảm quan sinh thái Ngô Thị Thu Khám phá nội dung và nghệ Truyện ngắn Nguyên Giang thuật trong các truyện ngắn Nguyễn Huy trong truyện ngắn của Nguyễn Huy Thiệp để Thiệp Nguyễn Huy Thiệp – nhận thấy cảm quan sinh thái của nhà văn. Chỉ ra vai trò của 2014 . vấn đề sinh thái trong văn học đối với xã hội hiện nay. Góp thêm một cái nhìn mới về giá trị của truyện ngắn Nguyễn Huy Thiệp, làm rõ hơn mối quan hệ giữa con người và thiên nhiên trong các sáng tác này 7 Luận án – ĐHPS Hà Nội Con người và tự nhiên Trần Thị Ánh Tổng thuật chi tiết các nghiên Văn xuôi Việt Nguyệt cứu về phê bình sinh thái trong Nam sau năm trong văn xuôi Việt nước và trên thế giới. Chứng 1975 Nam sau năm 1975 từ minh sau năm 1975, đặc biệt là sau năm 1986 có một khuynh góc nhìn phê bình sinh hướng văn xuôi sinh thái. thái – 2015 Chỉ ra những đặc điểm của văn xuôi sinh thái như là một xu hướng văn học có tầm quan 16 trọng xã hội thẩm mĩ và đứa đựng những nhân tố cách tân nghệ thuật. Khảo sát hai bình diện của khuynh hướng văn xuôi sinh thái xác lập cho văn chương đương đại, đó là cảm hứng phê phán trên tinh thần sinh thái và xác lập đạo đức sinh thái 8 Tạp chí nghiên cứu văn Trăm năm còn lại của Nguyễn Thị Quá trình sinh tồn và hủy diệt Tiểu thuyết Tịnh Thy của một gia đình trước sự “Trăm năm còn học (898), số 1, 2015. Trần Duy Phiên – nhìn trừng phạt của tự nhiên. lại” của Trần từ lí thuyết phê bình Con người cưỡng đoạt, tàn phá Duy Phiên tự nhiên (rừng sâu nước thẳm, sinh thái - 2015 gió núi mưa ngàn, chim muông thú hoang, vàng sa khoáng...), thiên nhiên cuồng nộ trừng phạt lại con người. 9 Tạp chí Sông Hương, Số Tư tưởng sinh thái Nguyễn Thị Cuộc đối đầu giữa con người Truyện ngắn 317, tháng 07 Tịnh Thy và côn trùng (kiến, mối, nhện). “Kiến và trong truyện ngắn của Trong cuộc chiến đó con người”, “Mối Trần Duy Phiên - 2015. người tự mãn sẽ thuần hóa, và người”, trừng trị những con trùng nhỏ “Nhện và bé. Nhưng ngược trở lại con người” của người lại thất bại thảm hại. từ Trần Duy Phiên đó đặt ra vấn đề “giải cấu trúc “nhân loại trung tâm” 17 10 Tạp chí khoa học (385), Khủng hoảng môi Nguyễn Thị Cuộc chiến bảo vệ rừng xanh Tiểu thuyết Đại học sư phạm Huế, số trường và trách nhiệm Tịnh Thy giữa kiểm lâm và bọn lâm tặc. Thập giá giữa 8, 2016 của nhà văn. “Đọc hiểu Mặt trái của văn minh đô thị rừng sâu của xanh” về Thập giá giữa khiến tài nguyên rừng bị tàn Nguyễn Khắc rừng sâu của Nguyễn phá, khai thác, tận diệt. Thiên Phê Khắc Phê - 2016 nhiên hng dữ trừng phạt con người 11 http;//vietvan.vn/vi/bvct/i Bước đầu tìm hiểu Đặng Thị Thái Sự thất bại của con người Truyện ngắn d3683/Buoc-dau-tim- Hà trước tự nhiên, mặc dù con Nguyễn Huy truyện ngắn Nguyễn hieu-truyyen-ngan- người luôn khát khao chinh Thiệp Nguyen-Huy-Thiep-tu- Huy Thiệp từ điểm phục. diem-nhin-phe-binh-sinh- Không gian sinh thái (không nhìn phê bình sinh thái, thai.. gian thôn dã): người nông dân 2016 chán ruộng đồng, chối bỏ chốn đồng quê; Không gian hoang dã (vì lợi ích trước mắt con người phá hủy không gian hoang dã) 12 Hội thảo khoa học Phát Vấn đề - sinh thái đô Đặng Thị Thái Sự phát triển đô thị và hiểm Truyện ngắn Hà họa hủy diệt môi trường sống Nguyễn Minh triển văn học Việt Nam thị trong truyện ngắn - Đô thị hóa là sự phát triển: Châu trong bối cảnh đổi mới và Nguyễn Minh Châu - nhịp sống, ánh sáng, tiện nghi, vật chất.. hội nhập quốc tế, Viện 2016 - Đô thi hóa: sự ngột ngạt, tù túng. 18 Văn học. Đối lập với không gian hoang dã, rừng núi mênh mông, tự do, khoáng đạt. Nảy sinh tâm thức muốn chối bỏ đô thị 13 Thiên nhiên trong Trần Thị Ánh Mất cân bằng sinh thái vùng Truyện ngắn Nguyệt Nam Bộ (đất lở, núi lở, hạn Nguyễn Ngọc n/Home/ArticleDetail/vn/ truyện ngắn Nguyễn hán, xâm ngập mặn, nước nổi Tư 103/1420/thien-nhien- Ngọc Tư (từ góc nhìn kéo dài...); Yêu thương và lắng nghe, bảo vệ loài vật; Tìm về trong-truyen-ngan- Phê bình sinh thái) - nguồn cội tự nhiên để cứu rỗi nguyen-ngoc-tu-tu-goc- 2016 tâm hồn nhin-phe-binh-sinh-thai- tran-thi-anh-nguyet. 14 Hội thảo khoa học Phát Hình tượng loài vật Trần Thị Ánh Lắng nghe tiếng nói từ các Văn xuôi Việt Nguyệt sinh linh, loài vật biết cảm Nam sau năm triển văn học Việt Nam trong văn xuôi Việt nhận đời sống (con chó, con 1975 trong bối cảnh đổi mới và Nam sau năm 1975 từ bò, con bìm bịp, con vịt, con khỉ, con mèo, ...); Loài vật hội nhập quốc tế, Viện góc nhìn phê bình sinh cũng phản chiếu đời sống tâm Văn học. thái - 2016 hồn con người. Với quan niệm trên nhằm bác bỏ quan niệm “con người là trung tâm” đề xuất tư tưởng “sinh thái trung tâm luận”. 19 15 Luận Văn – ĐHSP Hà Con người và thiên Lê Thu Bồn Chỉ ra được những đặc trưng Truyện ngắn cơ bản của mối quan hệ giữa Nguyễn Huy Nội 2 nhiên trong truyện con người và thiên nhiên trong Thiệp ngắn Nguyễn Huy truyện ngắn Nguyễn Huy Thiệp từ góc nhìn phê bình Thiệp dưới góc nhìn sinh thái. phê bình sinh thái – Hệ thống hóa lại kiến thức về phê bình sinh thái, chỉ ra đặc 2016 trưng cảm quan sinh thái truyện ngắn Nguyễn Huy Thiệp 16 Luận văn – ĐHKHXH và Thiên nhiên trong sáng Đinh Thị Khảo sát hệ thực vật, động vật Sáng tác của Nhàn trong thơ Nguyễn Khuyến soi Nguyễn nhân văn tác của Nguyễn sáng dưới góc nhìn phê bình Khuyến Khuyến từ góc nhìn sinh thái nhằm chỉ ra:Thiên nhiên với Nguyễn Khuyến có phê bình sinh thái - ý nghĩa liên quan thế nào đến 2016 hành xử xã hội – đạo đức thẩm mĩ của nhà thơ?; Mối quan hệ đó chịu sự quy định thế nào từ thế giới quan nhân sinh quan tác giả? 17 Luận văn ĐHSP Thái Truyện ngắn Cao Duy Trịnh Thùy Chỉ ra mối quan hệ giữa con Truyện ngắn Dương người và tự nhiên trong sự đối Cao Duy Sơn Nguyên Sơn từ góc nhìn phê sánh và hòa hợp. Tạo dựng bình sinh thái - 2016 không gian hoang dã, nguyên sơ và không gian miền núi. 20 18 Sinh thái môi trường Nguyễn Thị Đặt con người vào tự nhiên Văn xuôi Đoàn Quế Vân, Lâm của không gian rừng U Minh Giỏi: Những Tạp chí khoa học Đại học trong văn xuôi Đoàn Hoàng Phúc hoang sơ, hoang dã; biển cả chuyện lạ về cá, Văn Hiến, tập 5, số 1. Giỏi - 2017 hùng vĩ, mênh mông. Bài viết Rừng đêm xào cho thấy sự thay đổi trong xạc; Đất rừng nhận thức về mối quan hệ giữa phương nam... con người và tự nhiên trong văn xuôi Đoàn Giỏi, từ quan niệm “nhân loại trung tâm luận” sang xác lập quan niệm “tự nhiên trung tâm luận”. 19 Biểu tượng lúa trong Nguyễn Huy Bài viết phân tích biểu tượng Thần thoại và Bỉnh lúa dưới góc nhìn sinh thái nghi lễ các dân Phê bình sinh thái – tiếng thần thoại và nghi lễ nhằm đi đến quan niệm “vạn tộc thiểu số nói bản địa, tiếng nói toàn các dân tộc thiểu số vật hữu linh”. Việt Nam cầu, Kỷ yếu hội thảo quốc Việt Nam (Tiếp cận từ tế, Viện văn học. góc độ sinh thái học nhân văn) - 2017 20 Sinh hoạt kinh tế Lê Ngọc Bính Cuộc sống người Xơ Đăng gắn Sử thi Xơ Đăng liền với rừng, canh tác nương truyền thống trong sử rẫy, chăn nuôi, các nghề thủ thi Xơ Đăng với bối công truyền thống, thông thương trao đổi hàng cảnh môi trường sinh hóa...nhắc nhở con người sống chan hòa, tôn trọng tự nhiên. 21 thái ở Tây Nguyên - 2017 21 Khám phá bản chất hôn Dương Nguyệt Bài viết trả lời câu hỏi con Truyện cổ tích Vân người có nguồn gốc từ tự Việt Nam nhân người – con vật nhiên, con người không thể trong truyện cổ tích tách rời mối quan hệ với tự nhiên. Việt Nam dưới góc độ phê bình sinh thái - 2017 22 Sáng tác của Trần Trần Thị Tìm ra ý thức thẩm mĩ sinh Sáng tác của Nhung thái (cỏ cây, hoa lá, đồng quê, Trần Nhân Nhân Tông dưới góc chim muông, ...) trong thơ Tông nhìn phê bình sinh thái Trần Nhân Tông để từ đó mong muốn tôn trọng, sống - 2017 hài hòa, có ý thức đấu tranh bảo vệ tự nhiên 23 Thơ ca Nguyễn Trãi từ Đoàn Thị Thu Khảo sát hệ sinh thái (trăng, Thơ ca Nguyễn Vân gió, nước, mây, núi, rừng, thực Trãi góc nhìn phê bình sinh vật, động vật...)trong thơ thái - 2017 Nguyễn Trãi để thấy được tinh thần nâng niu sự sống, trân trọng môi trường của tác giả 24 Thiên nhiên trong thơ Nguyễn Thanh Từ thiên nhiên( mảnh vườn, Thơ ca Nguyễn Tú núi rừng, sông suối, chim Trãi 22 Nguyễn Trãi từ góc muông..)trong thơ Nguyễn Trãi để hiểu thêm về tấm lòng nhìn phê bình sinh thái trân trọng tự nhiên của thi - 2017 nhân 25 Cảm thức “xanh” trong Nguyễn Thị Tự nhiên cũng là đối tượng Truyện Kiều Thanh Xuân phản ánh trong Truyện Kiều, của Nguyễn Du Truyện Kiều của tự nhiên tham gia vào sự phát Nguyễn Du và một vài triển của tác phẩm. Truyện Kiều tràn đầy tinh thần sinh suy nghĩ về phê bình thái. Đồng thời tác giả đề xuất sinh thái - 2017 những suy nghĩ của mình về phê bình sinh thái phương Tây và phương Đông với mong muốn cùng nhau khám phá lý thuyết sinh thái này. 26 Sinh thái tinh thần Hoàng Trọng Đặt con người trong mối quan Tác phẩm Quyền hệ với xã hội, với chính mình Nguyễn Du trong thế giới nghệ và với tự nhiên trong các sáng thuật Nguyễn Du- 2017 tác của Nguyễn Du nhằm hướng đến câu trả lời con người muốn có đời sống cân bằng sinh thái cần giải quyết vấn đề con người một cách toàn diện trong cả ba mối quan hệ trên. 27 Dự báo qua thực vật, Trần Thị Thực vật (hoa sen, cây gạo, Văn xuôi tự sự 23 động vật trong văn Thanh Nhị cây chuối, cây lúa, cây đa, cây trung đại Việt đề, cây mía, trầu cau...) Động Nam xuôi tự sự trung đại vật (chim, rắn, cá sấu, rồng, Việt Nam – Từ góc rùa, trâu, gà, chó, cóc, chuột, mèo, voi, ...). Người xưa đã sử nhìn phê bình sinh thái dụng động vật, thực vật như - 2017 một phương diện dự báo, như thế từ thời trung đại, con người đã biết quan sát, lắng nghe và tìm cách sống hài hòa với thiên nhiên, vũ trụ, môi trường. 28 Vai trò tiếng nói chủ Nguyễn Hữu Cảnh quan môi trường tự Du ký Miền Sơn nhiên miền Trung, điều kiện Trung Việt thể trong du ký Miền thời tiết, khí hậu, địa hình, cơ Nam nửa đầu Trung Việt Nam nửa sở truyền thống kinh tế, văn thế kỷ XX hóa, phong tục, di tích lịch sử, đầu thế kỷ XX nhìn từ danh lam thắng cảnh, ...vấn đề phê bình sinh thái.- môi trường sinh thái 2017 29 Mối quan hệ giữa con Trần Mạnh Thiên nhiên tươi đẹp, tràn đầy Văn xuôi Việt Tiến sự sống, tràn đầy mĩ cảm : Nam giai đoạn người với môi trường Nhiều màu sắc (bờ cỏ xanh 1930 – 1945 sinh thái trong văn xuôi non, cánh rừng nhấp nhô, hoa (Truyện đường trái rực rỡ, nắng vàng lấp rừng) Việt Nam giai đoạn lánh...); Đủ các âm thanh 24 1930 - 1945 2017 (chim kêu ríu rít: chim gõ kiến, chim gầm nhì; chim họa mi; chim cu, chim bạc má, sáo, yểng, vẹt, tiếng côn trùng rủ rỉ...) Thiên nhiên hoang sơ, huyền ảo (núi rừng, hang động, sông suối, cây cỏ, hoa lá, chim muông, khí hậu, thời tiết...) vận động không ngừng của sự sống. 30 Mối quan hệ giữa con Lê Dục Tú - Không gian sinh tồn là không Văn xuôi Việt gian thôn dã. Nam giai đoạn người và tự nhiên trong - Tự nhiên tác động đến tính 1930 - 1945 văn xuôi Việt Nam giai cách, số phận và nội tâm nhân vật đoạn 1930 – 1945 2017 31 “Vườn” trong Thơ Mới Bùi Thị Thu - Vườn xứ Bắc Bộ, Thanh Thơ Mới (1932 Thủy Hóa, Huế.. là bức tranh thu -1945) (1932 -1945) từ góc nhỏ vẻ đẹp vùng miền. nhìn phê bình sinh thá - Vườn (vườn xưa, vườn ái tình, vườn yêu..) là nơi con i- 2017 người gột rửa tâm hồn được thanh thản, bình yên - Vườn xuân, vườn trần gian 25 tràn đầy ánh sáng và sức sống là nơi con người thêm tin yêu cuộc đời. 32 Sáng tác của Ngọc Lê Tú Anh Cổ vũ lối sống trở về thôn quê Tiểu thuyết và phê phán chiến tranh tàn “Nhà quê”, Giao từ góc nhìn phê phá tự nhiên đời sống con “Đất”. bình sinh thái - 2017 người 33 Tinh thần sinh thái Bùi Thanh Bức tranh Nam Bộ đang bị ảnh Văn xuôi Nam Truyền hưởng bởi biến đổi khí hậu, Bộ trong văn xuôi Nam Bộ rừng đầu nguồn, rừng phòng - 2017 hộ bị tàn phá...Văn xuôi Nam Bộ xây dựng và cổ vũ quan niệm thẩm mỹ sinh thái. 34 Tiếng gọi của tự nhiên: Trần Ngọc Thiên nhiên phản ánh sự tàn Văn học Việt Hiếu phá của chiến tranh Nam đương đại khúc ngoặt sinh thái Đặng Thị Thái Nỗi bất an trong đời sống tinh (tập trung vào trong văn học Việt Hà thần con người đương đại văn xuôi hư trong cái nhìn về tự nhiên cấu) Nam đương đại - 2017 35 Giải nhị phân người/tự Trần Văn Bài viết cho thấy giải nhị Truyện ngắn Toàn phân người/tự nhiên đã khiến Một lần đối nhiên và diễn ngôn mới con – người trở thành đối chứng, Phiên về nhân tính (đọc tượng của sự miêu tả trong văn chợ Giát, Sống học. Như vậy nhân tính đã mãi với cây những truyện ngắn về được kiến tạo từ điểm nhìn của xanh của tự nhiên của Nguyễn tự nhiên. Như thế con người Nguyễn Minh 26 Minh Châu và Nguyễn hoàn toàn có thể lắng nghe, Châu. Muối của thấu cảm sự lên tiếng của tự rừng của Huy Thiệp) – 2017 nhiên Nguyễn Huy Thiệp 36 Vấn đề thiên nhiên Nguyễn Thị Tác phẩm Nguyễn Huy Thiệp Truyện ngắn Thúy Hằng kêu gọi sự lắng nghe tiếng gọi Nguyễn Huy trong truyện ngắn của tự nhiên, cảnh báo những Thiệp Nguyễn Huy Thiệp - hệ lụy tàn phá môi sinh và giải cấu trúc “nhân loại trung tâm” 2017 37 Người nông dân trong Trần Thị Ánh Cuộc sống hiện đại khiến Văn xuôi Việt Nguyệt người nông dân mất chỗ dựa Nam đương đại văn xuôi Việt Nam vào không gian sinh thái nơi đương đại từ góc nhìn đồng ruộng, họ trở nên bất an. Đồng thời cũng cho thấy họ là phê bình sinh thái - những người yêu đồng ruộng, 2017 đất đai...bằng tấm lòng sâu nặng 38 Kiểu nhân vật nạn nhân Nguyễn Thùy Nông dân, người nghèo với Tiểu thuyết Trang vấn nạn sinh thái giai cấp Việt Nam từ sinh thái trong tiểu Thị dân, trí thức với làn sóng sau đổi mới đến thuyết Việt Nam từ sau sinh thái đô thị. nay Nữ giới – sinh thái nữ quyền đổi mới đến nay - 2017 39 Khi nhà văn có trực Hỏa Diệu Thông điệp bảo vệ thiên nhiên, Sáng tác của Thúy bảo vệ môi trường sinh thái; Nguyễn Minh giác sinh thái (Khảo sát phê phán, cảnh báo nguy cơ Châu, Hồ Anh 27 qua sáng tác của mất cân bằng sinh thái tinh Thái và Nguyễn thần trong đời sống xã hội. Bình Phương Nguyễn Minh Châu, Hồ Anh Thái và Nguyễn Bình Phương) - 2017 40 Tiểu thuyết chiến tranh Lê Thị Hường Chiến tranh hủy diệt môi Tiểu thuyết trường (hủy diệt thực vật, động chiến tranh Việt Việt Nam đầu thế kỷ vật), chấn thương tinh thần Nam đầu thế kỷ XXI – từ góc nhìn sinh con người...khát vọng phục hồi XXI sinh thái thái - 2017 41 Cảm quan sinh thái Đinh Trí Dũng Phê phán thực trạng hủy hoại Tản văn trong Lê Thanh Nga tự nhiên, tàn phá môi trường, văn học Việt trong tản văn của một cảnh báo sự xuống cấp không Nam đương đại số nhà văn Việt Nam gian sống của con người. Suy nghĩ đến những giải pháp...Với đương đại - 2017 mong muốn giữ gìn môi trường sinh thái 42 Đọc Cẩm cù của Y Ban Hoàng Tố Mai Mạch ngầm sinh thái về vấn đề Tự truyện dài vệ sinh, phân bón hữu cơ, vô Cẩm cù của Y dưới góc nhìn sinh thái cơ và sự tác động vào môi sinh Ban - 2017 43 “Tự nhiên” và “Nữ Hoàng Lê Anh Mối quan hệ giữa nữ giới với Truyện ngắn Ly tự nhiên. Kêu gọi bảo vệ, che Quế Hương 28 giới” trong truyện ngắn chở tự nhiên. Quế Hương nhìn từ nữ quyền luận sinh thái – 2017 44 Khủng hoảng môi Đỗ Hải Ninh Môi trường và xã hội đô thị Tiểu thuyết (“Được gợi hứng từ trận nóng Paris 11 tháng trường và số phận của năm 2003 mà đỉnh điểm là 8 của Thuận cộng đồng thiểu số ngày 11 tháng 8, đã giết chết gần mười lăm ngàn người trong tiểu thuyết Paris Pháp”). Qua góc nhìn sinh thái 11 tháng 8 của Thuận - bài viết cho thấy môi trường và số phận người thiểu số ở đô 2017 thị khi đối diện với biến đổi khí hậu (thủ đô Paris). 45 Những tiêu điểm thẩm Hồ Thế Hà Thiên nhiên (đại ngàn, biển, Thơ Trịnh than, đá và nước, rừng đảo, ..) Công Lộc mỹ thơ Trịnh Công mang bức thông điệp về tình Lộc nhìn từ quan hệ yêu quê hương, đất nước sinh thái - 2017 46 Thơ của niềm “trinh Văn Giá Làng quê ( vườn chè, vạt mía, Thơ Trần Hùng bờ vườn, rừng trăng, cánh tĩnh” đầu nguồn - 2017 đồng, bó lạt, lưỡi hái,cánh đồng, dòng sông, đống dấm, ...); ( rau dền gai, rau sam 29 tím, sên đen, đom đóm ma, con trâu, con cua càng, con dế mèn..) thiên nhiên như một sinh quyển – thi quyển với số lượng lớn, phổ khắp tràn đầy trong thơ Trần Hùng 47 Cảm quan sinh thái Lê Hương Đời sống đô thị (ô nhiễm môi Sáng tác của Thủy trường, ô nhiễm tiếng ồn, ô Đỗ Phấn: Rụng trong sáng tác của Đỗ nhiễm khói bụi, cây xanh bị xuống ngày hư Phấn – 2017 tàn phá, ô nhiễm nguồn nước, ảo, Chảy qua săn bắt thú rừng, sát sinh,...) bóng tối, Vết con người sống bức bối, ngột gió, Vắng mặt, ngạt trong nỗi bất an sinh thái. dằng dặc triền Dự cảm và khát vọng về sông mưa... không gian sống an lành 48 Mơ hồ sinh thái và sự Đặng Thị Thái Từ lý thuyết mơ hồ sinh thái, Sáng tác Hà bài viết chỉ ra nghịch lý của Nguyễn Ngọc chất vấn những ảo việc say mê thưởng ngoạn vẻ Tư: Sông, Khói tưởng du lịch sinh thái đẹp tự nhiên dẫn đến những trời lộng lẫy, hành động hủy diệt tàn phá hệ Ngắm cảnh, trong văn xuôi đương sinh thái (phá rừng, xẻ núi); du Gáy người thì đại lịch sinh thái tước đi vùng bờ lạnh, Yêu người biển của người dân, trục xuất ngóng núi, Gió (Trường hợp Nguyễn những người có số phận nhỏ lẻ và 9 câu Ngọc Tư) – 2017 bé ra khỏi không gian sống núi chuyện khác, rừng quen thuộc của họ, biến Còn lại chỉ mây người dân bản địa thành những mù.. 30 thứ kì lạ gây hiếu kì cho khách...Như vậy có một mâu thuẫn trong cách con người ứng xử với tự nhiên hiện tại, nảy sinh sự hoài nghi về văn minh, phát triển, du lịch... 49 Sông của Nguyễn Ngọc Trịnh Đặng Sông hạ nguồn:bị xâm mặn Tiểu thuyết Nguyên khiến thực vật bị tàn phá (rừng Sông của Tư và những vấn đề Hương bần xác sơ, thưa thớt), san lấp Nguyễn Ngọc sinh thái môi trường – sông và sông bị sạt lở (nhiều Tư người bị cuốn trôi bất thình 2017 lình, thảm họa kinh hoàng). Sông thượng nguồn: rừng bị tàn phá, tuyệt chủng tộc người Môi sinh bị tàn phá trước biến đổi khí hậu: mặt nước, rừng cây, động thực vật, con người...cằn cỗi, xác xơ, tàn lụi, dạt trôi, tha hóa... 50 Sự thức tỉnh ý thức Nguyễn Thị Thiên nhiên: khu vườn, loài Truyện Nguyễn Hải Phương hoa cánh đồng, khu rừng, dòng Ngọc Thuần: sinh thái trong sáng tác Nguyễn Thị sông; con dế, con thằn lằn, con Vừa nhắm mắt cho thiếu nhi của Linh Chi gà, con nhện...hiện lên trong vừa mở cửa sổ, truyện Nguyễn Ngọc Thuần Một thiên nằm Nguyễn Ngọc Thuần – viết cho thiếu nhi. Tạo dựng mồng, Giăng 2017 một thế giới trong lành, tươi giăng tơ nhện, mát, đầy sức sống. Thiên Trên đồi cao 31 nhiên là bạn với trẻ thơ, trẻ chăn bầy thiên nâng niu, bảo vệ tự nhiên sứ... 51 Chuyến du hành giữa Nguyễn Thị Ý niệm nơi chốn: Miền rừng Tuyển tập tản Diệu Linh và phố thị văn: Những miền rừng và phố thị: - Miền rừng: Pác Thay bản giấc mơ màu hình ảnh sinh thái trong người dân tộc Tày. Con người hạt dẻ của sống tự nhiên, hoang dã; tự Hoàng A Sáng Những giấc mơ màu nhiên hùng vĩ, lộng lẫy, hạt dẻ của Hoàng A nguyên sơ trên cánh đồng, rừng già. Cuộc sống mãn Sáng - 2017 nguyện, sảng khoái. Nhưng môi trường sinh thái miền rừng đang dần bị tàn phá. - Phố thị:Hà Nội , ánh trăng yếu ớt, cây cối còi cọ, động vật bị bắt, nhốt mất khả năng sinh tồn. Cuộc sống đầy ắp xe cộ, khí thải, tiếng ồn. Con người sống uể oải, mộng mị, cuốn theo đô thị hóa, công nghiệp hóa. Khát khao tái tạo hình ảnh sinh thái về quê hương. 52 Cảm quan sinh thái Phạm Phương Thiên nhiên (giọt sương, giọt Lời những bài Mai mưa, nụ hoa..)vạn vật có linh hát của Trịnh trong ca từ Trịnh Công hồn và đều bình đẳng. Công Sơn Con người luôn muốn trở về 32 Sơn – 2017 với tự nhiên, nguồn cội, thuần khiết Biểu tượng mưa, nắng, sông. Dự cảm nguy cơ chiến tranh 53 Dấu hiệu sinh thái Lê Thị Dương Thông điệp: Rừng là nơi chốn Phim Những sinh tồn, nếu tàn phá rừng, con người thợ xẻ trong phim Việt người sẽ bị rừng trừng phạt (dựa trên tác (Trường hợp phim Mặt trái: Phục vụ cho ý đồ bộ phẩm cùng tên- phim được thành công, các Nguyễn huy Những người thợ xẻ và cảnh quay tàn phá rừng được Thiệp) và Rừng Rừng đen của Vương hiện lên khốc liệt, chân thực đen chuyển thể dưới máy quay của đạo diễn từ kịch bản Đức) - 2017 đã khiến nhiều cây gỗ bị đốn (Người vớt củi hạ, vô tình việc làm phim cảnh - Lê Ngọc báo hệ lụy tàn phá rừng lại tác Linh) động tiêu cực đến môi trường Đạo diễn: sinh thái. Vương Đức 54 Luận văn – ĐHSP Thái Truyện ngắn, tản văn Nguyễn Thị Dưới góc nhìn sinh thái thiên Truyện ngắn, Thu Hằng nhiên trong truyện ngắn, tản Tản văn Nguyên Nguyễn Quang Thiều văn Nguyễn Quang Thiều Nguyễn Quang từ góc nhìn phê bình hiện lên với những hoài niệm Thiều về chốn làng quê và phản ánh sinh thái – 2017 những mặt trái của lối sống đô thị 55 Luận văn – ĐHSP Thái Tiểu thuyết Vi Hồng từ Trần Thị Sinh thái tự nhiên và sinh thái Tiểu thuyết Vi Thanh Hà nhân văn. Hồng Nguyên góc nhìn phê bình sinh - Sinh thái tự nhiên: Thiên 33 thái - 2017 nhiên mang đặc trưng núi rừng Việt Bắc, Thiên nhiên vừa hòa hợp vừa xung đột với con người. - Sinh thái nhân văn: Con người với con người; con người với các giá trị văn hóa 56 ASLE-ASEAN Post-War Nation- Phạm Phương Những ẩn dụ văn học trong tác Truyện Hồ Anh WORKSHOP Building and Chi phẩm viết về người Ấn Độ của Thái (Ecologies in Southeast Environment: Reading Hồ Anh Thái hàm ẩn các vấn Asian Literatures: Stories about India by đề ô nhiễm môi trường do các Histories, Myths and Hồ Anh Thái nhà máy hợp tác quốc tế gây Societies) - 2018 ra. 57 Post presentation Trần Thị Ánh Các hình ảnh và tranh vẽ về Nguyệt vấn đề môi trường ở Việt Nam hiện đại 58 Female Ghosts in Đỗ Thu Hiền Tác giả tập trung phân tích Truyền kỳ mạn Truyenky man luc- hình ảnh ma nữ trong tác phẩm lục from the Perspective of Truyền kì mạn lục từ góc độ Ecofeminism nữ quyền sinh thái. Department of Literature - 2018 59 Short story Mother's Le Thi Tuan Khám phá tiếng nói của thiên Tập truyện Tâm soul of Nguyen Huy nhiên trong sự quy chiếu đến hồn mẹ của Thiep and Pham Nhue người mẹ của tác phẩm Tâm Nguyễn Huy 34 Giang's filmwith the hồn mẹ, từ đó chỉ ra cách cư Thiệp và phim same name from an xử giữa con người và thiên cùng tên đạo ecofeminism nhiên theo một cách tích cực diễn Phạm perspective hơn. Nhuệ Giang Department of Literature - 2018 60 The adaptations of Bài viết tìm hiểu tính thẩm mỹ postwar Vietnamese Hoàng Cẩm thị giác của riêng mình, từ đó Sự chuyển thể literature from 1976 to Giang giải quyết câu hỏi về cách thức văn học hậu 2000: cinema as điện ảnh tái hiện lại các bài chiến từ năm ecofeminism reading - diễn văn về chủ nghĩa nữ 1976 đến năm 2018 quyền sinh thái được tìm thấy 2000: điện ảnh trong "hậu chiến" như là cách đọc tác phẩm văn học. Và điều này nữ quyền sinh phản ánh phong cách, quan thái điểm và bài đọc của cá nhân trong bối cảnh văn hóa đương đại. 61 Reading Hoya byY Hoàng Tố Mai Tác giả đọc ra tính thẩm mĩ Cẩm cù - Y Ban and and Mr. của chất thải tự nhiên của con Ban Mong’s story by người (phân) được thể hiện Chuyện ông Nguyen HuyThiep trong hai tác phẩm, từ đó tìm Móng – from an ecological ra sự phê phán của hai tác Nguyễn Huy perspective - 2018 phẩm đối với nền nông nghiệp Thiệp bị công nghiệp hóa với các sản 35 phẩm phân bón hóa chất hiện đại 62 The attachment and Lê Thị Dương Tác giả phân tích thiên nhiên Truyện của Pao negotiation with nature trong Truyện của Pao như là in hmong's identity in bối cảnh của bộ phim, sự the movie Pao's Story - tương đồng giữa các đặc điểm 2018 của tự nhiên và đặc điểm của con người, và vấn đề Mẹ Thiên nhiên là tổ của tinh thần con người. 63 The relation between Lu Thi Thanh Tìm hiểu mối quan hệ nước, Hát văn water, forest and Le and Doan rừng và con người trong thể human in Hát văn of Ngoc Chung hát văn Vietnamese people - 2018 64 Nostalgic Sensein Đặng Thị Bích Tìm hiểu triết lí về sinh thái Thơ Nguyễn Ecological Poems by Hồng được tuyên ngôn và hàm ẩn Quang Thiều Nguyen QuangThieu - trong thơ Nguyễn Quang 2018 Thiều 65 Legend of the Bach Ma Nguyễn Thị Tác đọc truyền thuyết về núi Các tài liệu về Mountain in Literature Tịnh Thy Bạch Mã trong văn học về các các võ sĩ nghĩa of Nghia Dung Karate võ sĩ Nghĩa Dũng Karate, phân dũng Dojo - 2018 tích núi Bạch Ma như là một Bạch Mã – ngọn núi ngọn núi tinh thần đối với các võ sĩ 36 linh hồn trong tâm thức của các võ sĩ Nghĩa Dũng Karate - Do 66 The Construction and Tran Thi An Bài viết tìm hiểu sự kiến tạo Thần thoại Destruction of “Our và sự phá hủy của trái đất như Common Home – the là ngôi nhà trong các câu Earth” – the Warning chuyện thần thoại Message from Myths - 2018 67 The myth of hundred Tác giả tìm hiểu sự liên đới về Truyện Âu Cơ, eggs (Trăm trứng) from Dinh Hong sinh thái vùng với truyền Lạc Long Quân perspective of Hai thuyết về việc phân tách địa ethnoecology bàn sinh tồn trong truyện Âu Department of Cơ, Lạc Long Quân Anthropology - 2018 68 The animism in the The Nguyen Tác giả tìm hiểu sự tương Thàn thoại Southeast Asia myths - Thi Mai Lien đồng của sự thờ cây cối và con Đông Nam Á 2018 vật của văn hóa Đông Nam Á với lí thuyết sinh thái 69 The Story of Hoan Nguyen Thi Tác giả tìm hiểu câu chuyện Biểu tượng con Kiem Lake's Turtle as a Dieu Linh con rùa ở Hồ Hoàn Kiếm trong rùa Narrative of lí thuyết về diễn ngôn về các Endangered Species: sinh vật bị nguy cơ từ góc độ 37 History, Myth, and lịch sử, huyền thoại và bản sắc Cultural Identity - 2018 văn hóa 70 The loss and Nguyen Nam Tác giả tìm hiểu sự mất mát và Truyện ngắn regeneration of natural Hoang sự sinh sôi của các biểu tượng Việt Nam symbols in thiên nhiên trong các truyện đương đại contemporary ngắn Việt Nam đương đại về Vietnamese short story đời sống đô thị about urban life - 2018 71 The environmental Nguyen Thuy Tác giả phân tích những sự phi Tiểu thuyết inadequacy in the Trang lí, bất cập về môi trường trong Việt Nam working-class during tầng lớp lao động trong tiểu đương đại the contemporary thuyết Việt Nam đương đại Vietnamese novels - 2018 72 An Ecocritical Study of Bui Linh Hue Tác giả phân tích nghiên cứu Tác phẩm văn the Discourses on mang tính sinh thái trong các học đầu thế kỉ Progress and Western diễn ngôn về tiến bộ và văn XX Civilization by Some minh phương Tây đầu thế kỉ Vietnamese XX, từ đó đi đến tìm hiểu ý Intellectuals in the thức về nỗi sợ sinh thái trong Early 20th Century - văn học Việt Nam 38 2018 73 Wild animals and the Tran Ngoc sense of ecophobia in Hieu Vietnamese Literature - Dang Thi Thai 2018 Ha 74 Ecological Narrative in Tran Thi Tác giả phân tích các tự sự Bài hát Trịnh the Lyrics of Trinh Quynh Thuan mang tính sinh thái trong lời Công Sơn Cong Son's Songs bài hát Trịnh Công Sơn Social Sciences and Humanities - 2018 75 Imagining Vietnam Nguyen Thi Tác giả phân tích các mẫu sinh Nhiệt đới gió from war to postwar Nhu Trang thái từ đó đọc ra bi kịch, hận mùa của Lê period: narrative thù và những nỗ lực để xóa Minh Khuê templates of Eco and sạch bi kịch và hận thù vì hòa beyond (case study bình và hòa hợp trong cuộc Nhiệt đới gió sống và linh hồn của cá nhân mùa/Tropical monsoon và cả nước như là một chủ đề by Le Minh Khue) - của văn học hậu chiến ở Việt 2018 Nam 76 Kháng cự đô thị, trở về Nguyễn Thị Kính ngưỡng tự nhiên: tự Mê hồn ca” của tự nhiên: “Mê hồn ca” Minh Thương nhiên huyền bí, haong sơ, man Đinh Hùng /Nghiencuu/VanhocVietN của Đinh Hùng từ góc dại, nguyên thủy... (Thơ mới 1932 nhìn Phê bình sinh thái Trở về với tự nhiên: Con -1945) 39 amhiendai/tabid/103/new - 2018 người sống hào hợp với thiên nhiên, cầm thú. stab/3249/Default.aspx Kháng cự đô thị: chán ghét đô thị 77 Luận án – Đại học khoa Tiểu thuyết Việt Nam Nguyễn Thùy - Giải cấu trúc về phê bình Tiểu thuyết giai đoạn 1986 – 2014 Trang sinh thái Việt Nam giai học Huế từ góc nhìn phê bình - Chuẩn tắc đạo đức sinh thái đoạn 1986 – sinh thái - 2018 từ hệ thống nhân vật 2014 - Tinh thần sinh thái từ quyền lực văn hóa 40

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • pdfluan_an_tho_moi_1932_1945_tu_goc_nhin_phe_binh_sinh_thai.pdf
  • jpgScan0006.JPG
  • jpgScan0007.JPG
  • pdfTrichyeu_BuiThiThuThuy.pdf
  • pdfTT BuiThiThuThuy.pdf
  • pdfTT Eng BuiThiThuThuy.pdf
Tài liệu liên quan