Tài liệu Luận án Thẩm tra, xác minh trong công tác kiểm tra của đảng giai đoạn hiện nay, ebook Luận án Thẩm tra, xác minh trong công tác kiểm tra của đảng giai đoạn hiện nay
175 trang |
Chia sẻ: huong20 | Ngày: 14/01/2022 | Lượt xem: 350 | Lượt tải: 1
Tóm tắt tài liệu Luận án Thẩm tra, xác minh trong công tác kiểm tra của đảng giai đoạn hiện nay, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
h dẫn đầy đủ theo
quy định.
Tác giả
Bùi Anh Tuấn
MỤC LỤC
Trang
MỞ ĐẦU 1
TỔNG QUAN TÌNH HÌNH NGHIÊN CỨU LIÊN QUAN ĐẾN ĐỀ TÀI 6
Chương 1: THẨM TRA, XÁC MINH TRONG CÔNG TÁC KIỂM TRA
CỦA ĐẢNG - NHỮNG VẤN ĐỀ CƠ BẢN VỀ LÝ LUẬN
VÀ THỰC TIỄN 31
1.1. Khái quát về công tác kiểm tra của Đảng 31
1.2. Thẩm tra, xác minh trong công tác kiểm tra của Đảng 39
Chương 2: THẨM TRA, XÁC MINH TRONG CÔNG TÁC KIỂM TRA
CỦA ĐẢNG GIAI ĐOẠN HIỆN NAY - THỰC TRẠNG,
NGUYÊN NHÂN VÀ KINH NGHIỆM 73
2.1. Thực trạng hoạt động thẩm tra, xác minh trong công tác kiểm
tra của Đảng hiện nay 73
2.2. Nguyên nhân thực trạng hoạt động thẩm tra, xác minh trong
công tác kiểm tra của Đảng hiện nay 89
2.3. Một số kinh nghiệm và vấn đề đặt ra qua thực trạng hoạt động
thẩm tra, xác minh trong công tác kiểm tra của Đảng 103
Chương 3: PHƯƠNG HƯỚNG VÀ MỘT SỐ GIẢI PHÁP NHẰM
THỰC HIỆN TỐT HOẠT ĐỘNG THẨM TRA, XÁC
MINH TRONG CÔNG TÁC KIỂM TRA CỦA ĐẢNG GIAI
ĐOẠN HIỆN NAY 112
3.1. Dự báo một số tình hình có liên quan và phương hướng hoạt động
thẩm tra, xác minh trong công tác kiểm tra của Đảng trong thời
gian tới 112
3.2. Một số giải pháp nhằm thực hiện tốt hoạt động thẩm tra, xác
minh trong công tác kiểm tra của Đảng 118
KẾT LUẬN 119
DANH MỤC CÔNG TRÌNH KHOA HỌC CỦA TÁC GIẢ LIÊN QUAN
ĐẾN ĐỀ TÀI 152
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO 153
PHỤ LỤC 172
1
MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Trong quá trình lãnh đạo cách mạng, Đảng Cộng sản Việt Nam đặc biệt
quan tâm công tác kiểm tra, giám sát và kỷ luật của Đảng. Đảng ta luôn khẳng
định: lãnh đạo mà không kiểm tra thì coi như không lãnh đạo; kiểm tra là
chức năng lãnh đạo của Đảng, là một nội dung của phương thức lãnh đạo, là
bộ phận quan trọng trong toàn bộ công tác xây dựng Đảng.
Trong quá trình tiến hành công tác kiểm tra của Đảng, thẩm tra, xác
minh là một khâu hoạt động rất quan trọng. Thực tiễn cho thấy, nếu chưa
thẩm tra, xác minh hoặc thẩm tra, xác minh chưa rõ ràng, chu đáo thì chưa thể
kết thúc kiểm tra và như thế cũng có nghĩa là chưa thể kết luận, xử lý đối với
nội dung và đối tượng kiểm tra. Chất lượng và kết quả của hoạt động thẩm
tra, xác minh có ý nghĩa quyết định trực tiếp đến việc kết luận và quyết định
xử lý của tổ chức đảng có thẩm quyền đối với đối tượng kiểm tra. Phương
châm “công minh, chính xác, kịp thời” của việc thi hành kỷ luật trong Đảng
được thực hiện tốt hay không, đạt được đến mức độ nào đều phụ thuộc vào
mức độ, hiệu quả của hoạt động thẩm tra, xác minh.
Nhiều năm qua, nhất là từ khi đất nước bước vào công cuộc đổi mới
toàn diện và sâu sắc trong nhiều lĩnh vực, công tác kiểm tra nói chung và hoạt
động thẩm tra, xác minh nói riêng của các tổ chức đảng và ủy ban kiểm tra
các cấp đã đạt được nhiều kết quả quan trọng, góp phần tích cực trong công
tác xây dựng Đảng. Khi tiến hành thẩm tra xác minh trong công tác kiểm tra
của Đảng, cán bộ kiểm tra các cấp đã bám sát và tuân thủ thực hiện đúng các
nguyên tắc thẩm tra, xác minh, bám sát nội dung kiểm tra; thực hiện dân chủ,
khách quan, công khai; thực hiện đúng các nguyên tắc, quy định của Đảng và
phương pháp công tác kiểm tra của Đảng. Do làm tốt thẩm tra, xác minh nên
nhiều cuộc kiểm tra kết luận chính xác, đối tượng được kiểm tra “tâm phục”,
2
“khẩu phục”, nhiều vụ việc được xử lý công minh, chính xác, kịp thời, có tác
dụng góp phần nâng cao trách nhiệm, chất lượng công tác xây dựng Đảng ở
nơi được kiểm tra.
Tuy nhiên, bên cạnh những ưu điểm, những kết quả đạt được, hoạt
động thẩm tra, xác minh trong công tác kiểm tra cũng đã và đang bộc lộ
những khó khăn, hạn chế cần nhanh chóng được khắc phục. Một số cấp ủy, tổ
chức đảng, ủy ban kiểm tra và cán bộ trực tiếp tiến hành kiểm tra chưa thật sự
quan tâm, coi trọng vị trí, vai trò của hoạt động thẩm tra, xác minh. Một số vụ
việc tiến hành thẩm tra, xác minh không kỹ, không đầy đủ, chưa sâu, chưa tìm
được bằng chứng xác thực, làm ảnh hưởng đến tính chính xác, khách quan khi
kết luận nội dung kiểm tra. Chất lượng chứng cứ sau một số cuộc thẩm tra,
xác minh không đầy đủ và xác đáng để làm cơ sở kết luận nội dung và đối
tượng kiểm tra. Hoạt động thẩm tra, xác minh - theo nguyên tắc và phương
pháp công tác đảng - phải lấy việc tự phê bình và phê bình làm biện pháp
chính; tuy nhiên, trong thực tế, hiệu quả của việc thực hiện biện pháp chính
yếu này không phải là như nhau và lúc nào cũng có vai trò tích cực, nhất là
trong bối cảnh những tổ chức đảng mất đoàn kết nội bộ, ý thức đảng chưa
cao. Đặc biệt, nhiều vụ việc, hành vi của đối tượng kiểm tra không chỉ dừng
trong nội bộ Đảng, mà còn liên quan đến pháp luật, đến nhiều lĩnh vực khác,
kể cả những mối quan hệ xã hội của đối tượng kiểm tra Điều đó đòi hỏi
hoạt động thẩm tra, xác minh muốn có hiệu quả cần phải có sự cộng tác, phối
hợp của nhiều hoạt động, nhiều tổ chức và mang tính nghiệp vụ cao. Biện
pháp tự phê bình và phê bình trong nội bộ tổ chức đảng để tiến hành thẩm tra,
xác minh cũng cần được hoàn thiện, phát triển phù hợp với tình hình thực tiễn
hiện nay trên cơ sở đặc điểm thực trạng của tổ chức cơ sở đảng có đối tượng
kiểm tra.
Những hạn chế trong hoạt động thẩm tra, xác minh dẫn đến quyết định
xử lý không chuẩn xác như oan sai, bỏ lọt các hành vi và đối tượng vi phạm,
3
tiêu cực hoặc không bảo vệ được chân lý và các nhân tố tích cực Những
hạn chế trên xuất phát từ nhiều nguyên nhân như: tính phức tạp của các vụ
việc, sự yếu kém về tính tự giác của đối tượng kiểm tra, thực trạng nội bộ tổ
chức đảng thiếu tính chiến đấu,... song nguyên nhân cơ bản là về quan điểm
và phương pháp, nghiệp vụ của đội ngũ cán bộ kiểm tra cũng như quy trình
tiến hành thẩm tra, xác minh chưa có sự đổi mới, nâng cao chất lượng cho
phù hợp với tình hình mới.
Để tiếp tục phát huy kết quả cũng như góp phần khắc phục những mặt
hạn chế, yếu kém trong công tác kiểm tra nói chung và hoạt động thẩm tra,
xác minh nói riêng thời gian qua nhằm đáp ứng những yêu cầu của công cuộc
đổi mới và công tác xây dựng Đảng trong thời gian tới, việc nghiên cứu đề tài
“Thẩm tra, xác minh trong công tác kiểm tra của Đảng giai đoạn hiện nay”
là rất cấp thiết.
2. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu của luận án
2.1. Mục đích nghiên cứu
Trên cơ sở luận giải làm rõ những vấn đề lý luận và thực tiễn, đề xuất
một số giải pháp nhằm thực hiện tốt hoạt động thẩm tra, xác minh trong công
tác kiểm tra của Đảng giai đoạn hiện nay.
2.2. Nhiệm vụ nghiên cứu
- Làm rõ những vấn đề cơ bản về lý luận và thực tiễn của hoạt động
thẩm tra, xác minh trong công tác kiểm tra của Đảng.
- Đánh giá đúng thực trạng, chỉ rõ nguyên nhân, khái quát một số kinh
nghiệm tiến hành thẩm tra, xác minh trong công tác kiểm tra của Đảng giai
đoạn hiện nay.
- Phân tích những nhân tố tác động, đề xuất phương hướng và một số
giải pháp nhằm thực hiện tốt hoạt động thẩm tra, xác minh trong công tác
kiểm tra của Đảng giai đoạn hiện nay.
4
3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu của luận án
3.1. Đối tượng nghiên cứu
Luận án nghiên cứu hoạt động thẩm tra, xác minh trong công tác kiểm
tra của Đảng.
3.2. Phạm vi nghiên cứu
Về lĩnh vực nghiên cứu, luận án đi sâu nghiên cứu thẩm tra, xác minh
trong công tác kiểm tra của Uỷ ban Kiểm tra Trung ương trên tất cả các đối
tượng, nhiệm vụ kiểm tra.
Phạm vi nghiên cứu của luận án về thời gian từ năm 2001 đến nay;
phương hướng giải pháp của luận án có giá trị định hướng đến năm 2020.
4. Cơ sở lý luận và phương pháp nghiên cứu của luận án
4.1. Cơ sở lý luận
Luận án được thực hiện trên cơ sở lý luận của chủ nghĩa Mác - Lênin, tư
tưởng Hồ Chí Minh và quan điểm của Đảng ta về công tác kiểm tra, về hoạt
động thẩm tra, xác minh trong công tác kiểm tra của Đảng; nghiên cứu một số
Luật, văn bản dưới Luật liên quan đến hoạt động thẩm tra, xác minh trong công
tác kiểm tra của Đảng, như: Luật Tố cáo; Luật Khiếu nại; Luật Phòng, chống
tham nhũng; Pháp lệnh xử lý vi phạm hành chính Luận án còn kế thừa kết quả
nghiên cứu của các công trình khoa học có liên quan đã được công bố.
4.2. Phương pháp nghiên cứu
Luận án được nghiên cứu trên cơ sở phương pháp luận của chủ nghĩa
Mác - Lênin, sử dụng tổng hợp các phương pháp nghiên cứu của khoa học
chuyên ngành và liên ngành, trong đó chú trọng việc tổng kết thực tiễn, điều
tra, khảo sát, phương pháp chuyên gia, hệ thống, kết hợp chặt chẽ lôgíc - lịch
sử, phân tích - tổng hợp, thống kê - so sánh.
5. Đóng góp khoa học của luận án
- Luận giải, làm rõ hơn, sâu sắc hơn những vấn đề lý luận về công tác
kiểm tra của Đảng, trong đó tập trung vào hoạt động thẩm tra, xác minh trong
công tác kiểm tra của Đảng.
5
- Trên cơ sở đánh giá thực trạng hoạt động thẩm tra, xác minh trong
công tác kiểm tra của Đảng, khái quát một số kinh nghiệm tiến hành thẩm tra,
xác minh trong công tác kiểm tra của Đảng.
- Đề xuất một số nội dung, biện pháp có tính khả thi nhằm thực hiện tốt hoạt
động thẩm tra, xác minh trong công tác kiểm tra của Đảng giai đoạn hiện nay.
6. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn của luận án
Kết quả nghiên cứu của luận án là tài liệu tham khảo có giá trị đối với
ủy ban kiểm tra các cấp thực hiện thẩm tra, xác minh trong công tác kiểm tra
của Đảng; trong bồi dưỡng, huấn luyện nghiệp vụ cho cán bộ làm công tác
kiểm tra của Đảng. Đồng thời, kết quả nghiên cứu của luận án có thể sử dụng
làm tài liệu tham khảo trong nghiên cứu, giảng dạy, học tập môn xây dựng
Đảng và chính quyền Nhà nước trong các học viện, nhà trường trong cả nước.
7. Kết cấu của luận án
Ngoài phần mở đầu, kết luận các danh muc công trình của tác giả liên
quan đến đề tài, danh mục tài liệu tham khảo và phụ lục, nội chính của luận
án gồm 3 chương, 7 tiết.
6
Chương 1
TỔNG QUAN TÌNH HÌNH NGHIÊN CỨU
LIÊN QUAN ĐẾN ĐỀ TÀI
1.1. CÁC CÔNG TRÌNH NGHIÊN CỨU LIÊN QUAN ĐẾN ĐỀ TÀI LUẬN ÁN
Ở NƯỚC NGOÀI VÀ CÁC NGHIÊN CỨU VỀ KINH NGHIỆM CỦA NƯỚC NGOÀI
1.1.1. Các công trình nghiên cứu có tác giả là người nước ngoài
Lý Quang Diệu trong "Bí quyết hóa rồng - Lịch sử Singapore 1965-
2000" [59], trong bài viết chủ đề “Xây dựng một Chính phủ trong sạch”, tác
giả - Thủ tướng đầu tiên (từ năm 1959-1990) và là người có vai trò to lớn
trong việc thay đổi và phát triển đất nước Singapore trở thành một trong
những “con rồng Châu Á” - đã khẳng định và nêu bật quyết tâm của Đảng
Hành động Nhân dân (tên viết tắt tiếng Anh là PAP) khi lên nắm chính
quyền vào năm 1959, là đã xác định và bắt tay xây dựng một chính quyền
trong sạch. Một trong những “công cụ được mài nhọn” để có thể ngăn
chặn, phát hiện và cản trở những thủ đoạn tham nhũng là cơ quan trọng yếu
thực hiện nhiệm vụ này: Ban Điều tra hành vi tham nhũng (tên viết tắt
tiếng Anh là CPIB), có quyền hạn được điều tra bất kỳ viên chức hay vị Bộ
trưởng nào. Nhân viên của Ban cũng được ủng hộ để thực thi luật, không e
dè hay thiên vị.
Đến năm 1960, chính quyền của Đảng PAP thực hiện việc nới rộng
quyền lực của các điều tra viên, kể cả quyền bắt giữ, khám xét, thanh tra tài
khoản, sổ ghi tiền gửi ngân hàng của những kẻ bị tình nghi cũng như của vợ,
con và thuộc hạ của họ. Một sự thay đổi nữa là cho phép những người xét xử
xem những chứng cứ cho thấy người bị tố cáo đang sống ở mức sống vượt
quá khả năng kinh tế của họ hoặc có những tài sản mà thu nhập của họ không
thể giải thích, là bằng chứng xác thực chứng minh rằng người bị tố cáo đã
nhận hối lộ.
7
Tác giả Lý Quang Diệu rút ra nhận định ở cuối bài viết: “Hệ thống
được lập ra điều tra và báo cáo trung thực sẽ chứng minh hệ thống ấy công
minh và hiệu quả, không ai ở ngoài lưới pháp luật cả” [59, tr.175].
Hồng Vĩ trong "Các biện pháp chống tham nhũng ở Trung Quốc"
[197] đã nghiên cứu và trình bày rất sâu sắc về nạn tham nhũng, về cuộc đấu
tranh chống tham nhũng ở Trung Quốc dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản
Trung Quốc và vai trò lĩnh ấn tiên phong của Uỷ ban Kiểm tra Kỷ luật Trung
ương trong cuộc đấu tranh khắc nghiệt này.
Sau khi phân tích những khó khăn trong việc chống tham nhũng, tác
giả cho rằng, các cơ quan chức năng phải không ngừng tăng cường công tác
điều tra xử lý các vụ án lớn, nghiêm trọng để trừng phạt nghiêm khắc và gây
sức ép mạnh mẽ, quyết không cho phép những phần tử tham nhũng ẩn náu
trong Đảng. Theo tác giả, Đảng Cộng sản Trung Quốc, Uỷ ban Kiểm tra Kỷ
luật Trung ương ưu tiên, đặt trọng tâm là phải điều tra tỷ mỉ và xử lý nghiêm
các vụ án cán bộ lãnh đạo lợi dụng chức quyền mưu lợi cá nhân, coi thường
chức trách, cương vị công tác, gây thất thoát nghiêm trọng tài sản nhà nước;
điều tra thận trọng và xử lý các vụ án cán bộ cấp cơ sở nông thôn vi phạm kỷ
cương, luật pháp... Để làm được việc này, bên cạnh việc thực hiện một số
biện pháp, phải tăng cường sự phối hợp giữa các ngành kiểm tra kỷ luật, tòa
án, kiểm sát, giám sát, thẩm duyệt trong quá trình điều tra, xử lý các vụ án.
Tại Đại hội Đại biểu toàn quốc lần thứ XVIII của Đảng Cộng sản
Trung Quốc (tháng 11-2012), Ủy ban Kiểm tra Kỷ luật Trung ương Đảng
Cộng sản Trung Quốc đã trình bày Báo cáo về tình hình công tác 5 năm
(2007-2012) và kiến nghị công tác thời gian tới [188], báo cáo đã được Đại
hội thẩm tra và thông qua. Trong Báo cáo có một số nội dung về công tác điều
tra trong Đảng như:
Kiên quyết điều tra xử lý những vụ án vi phạm pháp luật, bảo vệ tính
nghiêm túc của kỷ luật Đảng, pháp luật của Nhà nước. Đặt việc điều tra xử lý
8
các vụ án lên vị trí quan trọng, điều tra xử lý trọng điểm những vụ án lạm
dụng chức quyền, tham ô hối lộ, tha hóa biến chất, không làm tròn chức trách
của cơ quan lãnh đạo và cán bộ lãnh đạo, những vụ án mà những người liên
quan tuy cấp bậc không cao nhưng số tiền lớn, ảnh hưởng nghiêm trọng, và
những vụ án tham nhũng nảy sinh bên cạnh quần chúng Tăng cường công
tác thẩm tra, xét xử khiếu nại, điều tra lại và quản lý giám sát vụ án, bảo vệ
quyền lợi hợp pháp của cán bộ, đảng viên. Cơ chế tổ chức phối hợp điều tra
vụ án ngày càng kiện toàn hơn. Các chức năng trị tận gốc, trong đó có điều tra
xử lý vụ án ngày càng được phát huy.
Báo cáo cũng nhận định: Hành vi tham nhũng ngày càng phức tạp, kín
đáo, độ khó của việc phát hiện và điều tra ngày càng tăng
Báo cáo đã nêu lên bảy kinh nghiệm cơ bản trong công tác xây dựng
tác phong Đảng liêm chính và chống tham nhũng, trong đó có kinh nghiệm
(thứ năm): Kiên quyết điều tra xử lý những vụ án vi phạm kỷ luật, pháp luật,
đặc biệt là phải làm tốt việc điều tra xử lý các vụ án lớn, quan trọng
Qua Báo cáo, Uỷ ban Kiểm tra Kỷ luật Trung ương đã đề xuất 8 kiến
nghị với với Đại hội XVIII, trong đó: Kiến nghị thứ nhất: Ủy ban kiểm tra kỷ
luật các cấp phải nghiêm khắc điều tra xử lý hành vi vi phạm kỷ luật chính trị,
kiên quyết bảo vệ sự tập trung thống nhất của Đảng; kiến nghị thứ tư tập trung
nhấn mạnh: Đẩy mạnh công tác điều tra, xử lý những vụ án vi phạm kỷ luật,
pháp luật, bảo đảm xu thế trừng trị tham nhũng mạnh mẽ; kiến nghị thứ năm
nêu: Tăng cường kiểm tra, giám sát tình hình thực hiện, nghiêm túc điều tra
hành vi vi phạm và nâng cao năng lực thực hiện chế độ liêm khiết; kiến nghị
thứ sáu: Phát huy hơn nữa vai trò giám sát của chế độ tuần thị, tăng cường
năng lực phát hiện vấn đề. Kiên trì làm tốt việc thẩm tra trách nhiệm kinh tế
của cán bộ lãnh đạo chủ chốt và nhân viên lãnh đạo công ty nhà nước, tăng
cường thẩm tra đối với vốn chuyên đề trọng điểm và công trình đầu tư lớn; kiến
nghị thứ tám nhấn mạnh về công tác xây dựng đội ngũ cán bộ kiểm tra cả về
9
bản lĩnh chính trị, phẩm chất đạo đức, trình độ năng lực, trong đó: Cán bộ kiểm
tra, giám sát cần phải nắm vững mấu chốt là xây dựng, tăng cường năng lực
điều tra, phương pháp và trình độ thực hiện chức trách một cách khoa học
Tác giả Phuthắc Phítthanuson trong “Công tác kiểm tra của Đảng
Nhân dân Cách mạng Lào trong giai đoạn hiện nay” [137], tại chương 2, khi
đánh giá ưu điểm trong công tác kiểm tra của Đảng Nhân dân Cách mạng
Lào, tác giả viết: Khi kiểm tra và xử lý kỷ luật đã làm tốt công tác thẩm tra,
xác minh Tuy nhiên, ở phần đánh giá nhược điểm, tác giả cũng thẳng thắn
thừa nhận: Uỷ ban kiểm tra chưa đủ mạnh, chưa có phương pháp, phương
thức tiếp cận. Cho nên, trong thời gian qua, chỉ khi có vi phạm nghiêm trọng
đến mức phạm pháp thì mới tiến hành kiểm tra, thẩm tra, xác minh và phải tổ
chức thành đoàn kiểm tra theo chỉ thị, chỉ đạo của Ban Chấp hành Trung ương
Đảng mới tiến hành kiểm tra được, nhất là cán bộ là ủy viên ban chấp hành
tỉnh ủy, huyện ủy
Trong chương 3, ở giải pháp thứ hai (Kiện toàn bộ máy ủy ban kiểm tra
và đào tạo, bồi dưỡng đội ngũ cán bộ kiểm tra), tác giả nêu: Người cán bộ
kiểm tra là người có khả năng triển khai thực hiện tốt nhiệm vụ lập kế hoạch,
thẩm tra, xác minh, viết báo cáo, văn bản, theo dõi thực hiện quyết định và lập
hồ sơ lưu trữ; Ở giải pháp thứ tư, tác giả đề xuất: phải phát huy trách nhiệm
xây dựng Đảng của quần chúng nhân dân, tạo bầu không khí dân chủ, cởi mở,
tạo điều kiện để quần chúng tham gia ý kiến, phản ảnh về đối tượng kiểm tra;
tuy nhiên, những ý kiến đó phải được chọn lọc, kiểm tra, xác minh.
Tác giả Chănsyseng Sômphu trong “Chất lượng công tác kiểm tra của
ủy ban kiểm tra Đảng và Nhà nước cấp tỉnh ở các tỉnh phía Bắc nước Cộng
hoà Dân chủ Nhân dân Lào trong giai đoạn hiện nay” [143], tác giả luận án
đã đề xuất giải pháp “Nắm vững và thực hiện tốt phương pháp, nguyên tắc,
hình thức kiểm tra, thực hiện dân chủ hóa, công khai hóa công tác kiểm tra”,
trong đó phải làm tốt công tác thẩm tra, xác minh. Yêu cầu đặt ra khi đánh
10
giá, kết luận những ưu điểm và khuyết điểm của cán bộ, đảng viên hoặc tổ
chức đảng được kiểm tra phải đúng với bản chất của sự việc, sự kiện, do đó
trong quá trình kiểm tra nhất thiết phải có khâu thẩm tra, xác minh. Tác giả
cũng đặt ra yêu cầu là cần xác định đúng về đối tượng thẩm tra, xác minh và
phân biệt giữa đối tượng kiểm tra với đối tượng thẩm tra, xác minh; chọn
đúng nội dung, đồng thời phải có phương pháp thẩm tra, xác minh hết sức
khoa học, tinh vi mới đảm bảo hiệu quả, đáp ứng yêu cầu công tác kiểm tra
Đảng và Nhà nước giai đoạn mới hiện nay.
1.1.2. Các công trình có tác giả là người Việt Nam nghiên cứu về
kinh nghiệm của nước ngoài
Sách "Kinh nghiệm phòng, chống tham nhũng của một số nước trên thế
giới" của Ban Nội chính Trung ương [33], đã nêu và phân tích kinh nghiệm
của một số nước trong cuộc đấu tranh phòng, chống tham nhũng, trong đó có
những kinh nghiệm về biện pháp kiểm tra, điều tra của Đảng cầm quyền, như:
Lào thực hiện nhất thể các chức danh lãnh đạo Đảng và Nhà nước;
kiểm tra Đảng và thanh tra Chính phủ sáp nhập thành Ban Kiểm tra Đảng
Nhân dân Cách mạng Lào. Do đó, việc phối, kết hợp giữa kiểm tra đảng và
thanh tra nhà nước phát huy và khai thác được khả năng cán bộ, hỗ trợ, bổ
sung cho nhau về kết quả thẩm tra, xác minh trong quá trình thực hiện các
cuộc kiểm tra và thanh tra để kịp thời và đồng bộ trong xử lý.
Các đảng cầm quyền ở Australia luôn đề cao cơ chế bảo đảm sự liêm
chính trong tổ chức và hoạt động của các cơ quan công quyền; áp dụng kỹ
thuật điều tra đặc biệt, các phiên điều trần theo quy định của luật pháp. Bên
cạnh đó, coi trọng công luận và dư luận quần chúng trong việc giám sát hành
vi của công chức, khuyến khích và phát huy vai trò báo chí có tính độc lập
tương đối trong điều tra, phòng, chống tham nhũng và công chức có sai phạm.
Đảng Hành động Nhân dân Singapore (là Đảng duy nhất nắm quyền ở
Singapore suốt từ thời lập quốc đến nay) xác định xem xét cả các đơn thư tố
11
giác không ghi tên người gửi, thậm chí xem xét cả các cuộc điện thoại gọi tới.
Khi xem xét, phải quyết định có tiến hành điều tra hay không, nếu có thì phải
điều tra ngay (không được để quá 4 ngày). Vì họ cho rằng, thư nặc danh là
một nguồn thông tin, còn kết luận công chức có sai phạm, có tham nhũng hay
không thuộc nhiệm vụ của các cơ quan có thẩm quyền.
Bên cạnh đó, nhiều nước cho phép cơ quan chức năng được sử dụng
một số biện pháp đặc biệt như nghe điện thoại bí mật, xây dựng cơ sở bí
mật... để phát hiện công chức sai phạm, tham nhũng.
Trong "Báo cáo khảo sát, nghiên cứu về công tác kiểm tra, kỷ luật của
Đảng và công tác đấu tranh phòng, chống tham nhũng tại Trung Quốc" của
các đoàn công tác của Uỷ ban Kiểm tra Trung ương, Ban Đối ngoại Trung
ương, Văn phòng Ban Chỉ đạo Trung ương về phòng, chống tham nhũng -
Ban Nội chính Trung ương, Thanh tra Chính phủ (giai đoạn 2008-2014) [182]
đã tổng hợp rất sâu sắc nhiều nội dung như:
Uỷ ban kiểm tra kỷ luật Đảng Cộng sản Trung Quốc có các quyền hạn:
Quyền giám sát, quyền kiểm tra, quyền điều tra, quyền kiến nghị và quyền xử
lý kỷ luật. Nhiệm vụ của ủy ban kiểm tra, kỷ luật trong công tác kiểm tra vụ việc
có nội dung: điều tra rõ sự việc; thu thập chứng cứ xác đáng, đầy đủ; người vi
phạm bị kỷ luật và trừng trị thích đáng; người không vi phạm không bị truy cứu.
Yêu cầu đặt ra là sự thật rõ ràng; chứng cứ xác đáng, chuẩn xác (rất quan trọng);
xử lý đúng mức; thủ tục hoàn chỉnh và trình tự phải hợp pháp.
Uỷ ban kiểm tra kỷ luật Đảng Cộng sản Trung Quốc rất chú trọng
những kỹ năng cơ bản của công tác kiểm tra, cụ thể là 4 kỹ năng: Kỹ năng kết
hợp giữa tiến hành thẩm tra, xác minh trực tiếp, công khai với gián tiếp, bí
mật; Kỹ năng kết hợp công tác tư tưởng để phát huy tính tự giác của đối
tượng kiểm tra với thẩm tra, xác minh, tìm bằng chứng; Kỹ năng nắm tình
hình tại chỗ (qua việc thành lập các tổ thị sát) và Kỹ năng xem xét nguồn gốc
phát sinh sai phạm ("trị tận gốc, trị lý tổng hợp, coi trọng phòng ngừa").
12
Trình tự và phương pháp khi xử lý một vụ án của uỷ ban kiểm tra kỷ
luật Đảng Cộng sản Trung Quốc được tiến hành theo các bước như sau:
Thứ nhất, thụ lý vụ án
Sau khi xem xét sơ bộ tài liệu và tiến hành xử lý, nếu tài liệu cán bộ bị
xử lý thuộc thẩm quyền của ủy ban kiểm tra kỷ luật thì xác định có thể điều
tra xử lý trực tiếp, làm rõ vấn đề có lập án không; những tài liệu ủy ban kiểm
tra kỷ luật đang làm rõ bước đầu, lập án phải chuyển các đội điều tra chuyên
môn. Tài liệu phát hiện chưa rõ dấu hiệu vi phạm chuyển ủy ban kiểm tra kỷ
luật cấp dưới làm rõ hơn; tài liệu không cụ thể, không có khả năng điều tra thì
lưu trữ lại.
Thứ hai, xác minh, làm rõ bước đầu
Về trình tự trong xác minh: Ủy ban kiểm tra kỷ luật, cơ quan thanh
tra quyết định lập tổ làm rõ bước đầu, làm rõ bước đầu tài liệu tố cáo, đơn
khiếu nại trước khi lập án (vấn đề trong đơn thư có thật hay không, có cần
xử lý kỷ luật đối với đối tượng được phản ánh trong đơn thư không; cung
cấp được chứng cứ cho việc lập án hay không). Giai đoạn này phải điều tra
lấy chứng cứ cho chặt chẽ, phải giữ gìn bí mật với bên ngoài và trong nội
bộ. Nếu đủ chứng cứ thì lập án, nếu chưa đủ thì chưa lập án. Trong tài liệu
phản ánh cán bộ có nhiều vấn đề, tiến hành làm rõ vấn đề chính, nếu thu
thập một chứng cứ khi trao đổi trực tiếp với đối tượng, họ không khai thì
tìm giải pháp khác; những vấn đề chính tìm ra càng nhiều chứng cứ càng
tốt. Quá trình làm rõ bước đầu, chú ý nhân vật đặc biệt, việc đặc biệt, thời
điểm đặc biệt. Kiên trì nguyên tắc thực sự cầu thị, khẳng định rõ có hoặc
không. Vì đối tượng điều tra là cán bộ đảm nhiệm chức vụ nhất định, để
tránh hiệu ứng tiêu cực không cần thiết, chú trọng xử lý khéo léo. Có giải
pháp điều tra hợp lý, điều tra cấp trên tiến hành từ cấp dưới, bên trong từ
bên ngoài, điều tra đối tượng A từ đối tượng B, qua đó nắm bắt được nhiều
chứng cứ.
13
Về xử lý kết quả xác minh: Khi kết thúc làm rõ bước đầu, đánh giá kết
quả làm rõ, đưa ra kiến nghị xử lý. Nếu phát hiện có hành vi vi phạm, phải
truy cứu thì lập án để điều tra sâu hơn.
Thứ ba, lập án để điều tra
Chỉ ủy ban kiểm tra, kỷ luật theo thẩm quyền quy định của Điều lệ
Đảng phát hiện tổ chức đảng, đảng viên có vi phạm phải truy cứu thì quyết
định lập án để điều tra.
Thứ tư, điều tra sau khi lập án
Thông qua điều tra làm rõ vấn đề trái kỷ luật đối với những vấn đề đã
được lập án. Hiệu quả của vụ án phụ thuộc vào giai đoạn điều tra. Thời hạn
điều tra là 3 tháng, nếu vụ án phức tạp có thể kéo dài thêm 1 tháng, gia hạn
thêm không quá 3 tháng (không vượt thời hạn điều tra trong 6 tháng).
Trình tự điều tra theo 3 bước sau:
Một là, bước chuẩn bị:
Thành lập tổ điều tra vụ án: trong khi lập tổ điều tra vụ án phải bổ sung
thêm cán bộ tham gia để điều tra các mặt vi phạm của cán bộ. Trong tổ điều
tra án chuyên môn có 3 tiểu tổ: tiểu tổ trao đổi trực tiếp với đối tượng chính;
tiểu tổ điều tra những vấn đề phản ánh và tiểu tổ tổng hợp. Tiến hành nghiên
cứu về những tình tiết, thiết kế, xây dựng, xem xét phương án điều tra, trong
đó chú ý quyết định bước đi, công tác trọng điểm. Khi phương án điều tra
được phê duyệt thì chuyển sang bước thực thi.
Hai là, bước thực thi:
Công bố quyết định lập án: Sau khi có quyết định lập án phải công bố
quyết định này trước đối tượng bị kiểm tra. Tổ điều tra phải tỏ rõ thái độ lập
án, nêu yêu cầu đối với đối tượng kiểm tra về: tích cực phối hợp làm rõ vấn
đề của mình; đối xử đúng đắn, không có hành vi câu kết với người khác,
không có thái độ phản ứng, thiếu hợp tác hoặc tiêu hủy chứng cứ; không trả
thù người tố cáo (tổ điều tra phải coi trọng việc bảo vệ người tố cáo trong quá
trình điều tra, không để lộ cho người bị điều tra biết).
14
Thu thập, điều tra chứng cứ một cách toàn diện: thu thập nhân chứng,
vật chứng, tài liệu tố cáo; xem xét, phân tích hiện trường thông qua kỹ thuật
hiện đại. Yêu cầu đối với việc điều tra phải toàn diện, khách quan, phải thực
sự cầu thị, không được chủ quan; không chỉ thu thập tài liệu, chứng cứ làm rõ
hành vi trái kỷ luật, pháp luật của đối tượng bị điều tra, mà phải thu thập, tổng
hợp cả tài liệu chứng minh hành vi không trái kỷ luật, pháp luật của đối tượng
bị điều tra. Việc điều tra lấy chứng cứ, lực lượng chủ chốt là cán bộ trong tổ
điều tra chuyên môn, đồng thời chú trọng huy động nhân dân tham gia vào
việc điều tra. Khi xảy ra vụ việc sẽ để lại chứng cứ, sẽ có người biết việc, nên
yêu cầu công tác điều tra phải đi sâu hơn, kỹ lưỡng hơn. Vì vậy, trong quá
trình điều tra thu thập chứng cứ, cần yêu cầu cơ quan hữu quan giúp đỡ, phối
hợp (cơ quan thuế vụ điều tra nộp thuế của đối tượng; trung tâm chống rửa
tiền điều tra tiền vốn của đối tượng). Thông qua sự cố gắng chung, phối
hợp cơ quan hữu quan làm rõ sự thật, chứng cứ của vụ án.
Ba là, bước cuối cùng (bước kết thúc):
Phân tích vụ án, tìm ra sự thật hành vi sai trái, cho người bị điều tra
xem xét lại nội dung hành vi vi phạm; đưa ra ý kiến thẩm định và đề xuất việc
xem xét, xử lý. Hoàn chỉnh báo cáo xử lý, đồng thời hoàn chỉnh giai đoạn
điều tra, chuyển cơ quan hữu quan. Giai đoạn điều tra xử lý vụ án có nhiều cơ
quan hữu quan, như: cơ quan tiếp dân tiếp nhận khiếu nại, tố cáo của quần
chúng; cơ quan phụ trách vụ án; đơn vị làm rõ sơ bộ, lập án điều tra. Khi kết
thúc điều tra lập án, chuyển hồ sơ, tài liệu điều tra sang văn phòng xét xử vụ
án; văn phòng xét xử vụ án căn cứ tình tiết vi phạm, đưa ra kiến nghị xử lý.
Các biện pháp điều tra được sử dụng, bao gồm:
Một là, các biện pháp điều tra chung: Song quy (yêu cầu đảng viên
trong vụ án trình bày rõ vấn đề trong thời gian quy định, địa điểm quy định;
đồng thời, yêu cầu cơ quan, tổ chức hữu quan, cá nhân cung cấp chứng cứ
đúng sự thật, tài liệu liên quan đến vụ án, không được từ chối, quấy nhiễu vụ
15
án); ghi âm, chụp ảnh, quay phim về những nhân viên, vụ việc liên quan đến
vụ án khi cần thiết (hình thức này làm chặt chẽ chứng cứ thu thập được và
giám sát chặt chẽ cán bộ xử lý vụ án); thẩm tra tài liệu và sao tài liệu liên
quan (khi cần thiết có thể tiến hành niêm phong tài liệu); điều tra tài khoản
đơn vị và nhân viên liên quan (có thể mời tòa án phong tỏa tài khoản của cán
bộ bị điều tra tại ngân hàng); mời cơ quan hữu quan thực hiện việc giám định
kỹ thuật những vấn đề về chuyên môn nghiệp vụ.
Hai là, biện pháp điều tra đột phá vụ án quan trọng, vụ án lớn:
Công tác chính trong xử lý vụ án phải tập trung đối thoại với đối tượng
bị điều tra, tranh thủ đột phá vào trung tâm. Thực tiễn phải dựa vào "4 dùng":
dùng sức đe dọa của kỷ luật đảng; dùng thuyết minh chính sách; dùng quan
điểm tính nhân văn; dùng chính trị của mình. Phải nắm bắt trạng thái tâm lý,
hiểu mong muốn, nỗi sợ, suy nghĩ của đối tượng điều tra. Trường hợp đối
tượng bị điều tra cố tình không khai báo, tổ điều tra phải tự tiến hành việc thu
thập chứng cứ và đề phòng họ có nhiều hình thức biện bạch về vi phạm của
mình. Đối tượng - kể cả là cán bộ lãnh đạo - càng cố giấu hành vi vi phạm của
mình, mặc dù họ chưa khai báo, qua chứng cứ chặt chẽ thu được vẫn làm rõ
được sự thật. Yêu cầu quá trình xử lý vụ án phải trọng chứng cứ, không chỉ
dựa vào lời khai, đây là hai mặt của vụ án. Xử lý quá trình trung tâm rút ngắn
thời gian xử lý vụ án và giảm chi phí là rất quan trọng.
Đột phá không lời khai cung phải đầu tư nhiều sức người, tiền của, tốn
kém thời gian. Nếu để thời gian kéo dài gây hiệu ứng tiêu cực cho quá trình
xử lý vụ án. Vì vậy, khi cần thiết phải dựa vào trinh sát điều tra thu thập
chứng cứ để đột phá nhanh vào trung tâm.
Khi kết thúc điều tra, cho đối tượng bị điều tra xem tài liệu thu thập
được và cho các đối tượng này gặp nhau để họ thực sự tâm phục, khẩu phục.
Nếu các đối tượng điều tra có ý kiến bất đồng đúng đắn thì chấp nhận, không
đúng đắn thì giải thích lại, đồng thời tiếp tục nghiên cứu, xác định tính chất
16
trái kỷ luật của họ, đưa ra kiến nghị kết quả xử lý thích hợp. Sau đó, hoàn
thành báo cáo, chuyển cơ quan có chức năng xử lý.
Như vậy, có thể thấy trong trình tự và phương pháp kiểm tra xử lý vụ
án (vụ việc), ủy ban kiểm tra kỷ luật Đảng Cộng sản Trung Quốc rất quan tâm
và tôn trọng các bước thẩm tra, xác minh từ khâu ban đầu đến khi kết thúc vụ
việc. Trong thông tin ban đ...
Chương 2
THẨM TRA, XÁC MINH TRONG CÔNG TÁC KIỂM TRA
CỦA ĐẢNG - NHỮNG VẤN ĐỀ CƠ BẢN
VỀ LÝ LUẬN VÀ THỰC TIỄN
2.1. KHÁI QUÁT VỀ CÔNG TÁC KIỂM TRA CỦA ĐẢNG
2.1.1. Khái niệm, vị trí, vai trò công tác kiểm tra của Đảng
2.1.1.1. Khái niệm về công tác kiểm tra của Đảng
* Khái niệm kiểm tra
Theo Từ điển Tiếng Việt, kiểm tra là "xem xét tình hình thực tế để
đánh giá, nhận xét" [196, tr.523]. Từ điển Luật học nêu: kiểm tra là "xem xét
tình hình thực tế thi hành pháp luật, thực hiện nhiệm vụ, quyền hạn nói chung
hay một công tác cụ thể được giao để đánh giá, nhận xét" [135, tr.265].
Còn theo Sách tra cứu các mục từ về tổ chức thì kiểm tra là: "Xem xét
tình hình thực tế thi hành pháp luật, thực hiện nhiệm vụ, quyền hạn nói chung
hay một công tác cụ thể được giao của một cơ quan, đơn vị hoặc một người
để đánh giá, nhận xét chất lượng hoạt động của cơ quan, đơn vị hoặc người
đó" [126, tr.468]. Như vậy, kiểm tra cũng là công tác thuộc nhiệm vụ của cơ
quan nhà nước, của tổ chức đảng, đoàn thể cấp trên đối với cấp dưới, của thủ
trưởng hoặc người lãnh đạo đối với nhân viên dưới quyền.
* Khái niệm kiểm tra của Đảng
Theo Hướng dẫn thực hiện các quy định về công tác kiểm tra, giám sát
và kỷ luật của Đảng trong Chương VII và Chương VIII Điều lệ Đảng khóa XI
(ban hành kèm theo Quyết định số 46-QĐ/TW, ngày 01-11-2011 của Ban
Chấp hành Trung ương):
Kiểm tra của Đảng là một trong những chức năng lãnh đạo của
Đảng, là việc các tổ chức đảng xem xét, đánh giá, kết luận về ưu
điểm, khuyết điểm hoặc vi phạm của cấp ủy, tổ chức đảng cấp dưới
32
và đảng viên trong việc chấp hành Cương lĩnh chính trị, Điều lệ
Đảng, chủ trương, nghị quyết, chỉ thị của Đảng và pháp luật của
Nhà nước [20, tr.02].
* Khái niệm công tác kiểm tra của Đảng
Theo Từ điển Tiếng Việt, “công tác” được hiểu là “công việc của nhà
nước hoặc của đoàn thể” [196, tr.48]. Đảng Cộng sản Việt Nam là một tổ
chức chính trị, một bộ phận trong hệ thống chính trị Việt Nam, đồng thời có
vai trò lãnh đạo hệ thống chính trị, lãnh đạo toàn xã hội. Công tác kiểm tra
của Đảng có thể được hiểu là: việc chủ thể kiểm tra thông qua thực hiện các
phương pháp, hình thức, biện pháp để xem xét tình hình thực tế, nhận xét,
đánh giá, kết luận về ưu điểm, khuyết điểm hoặc vi phạm (nếu có) của đối
tượng kiểm tra trong việc chấp hành Cương lĩnh chính trị, Điều lệ Đảng, chủ
trương, nghị quyết, chỉ thị của Đảng, pháp luật của Nhà nước và đưa ra
những yêu cầu, kiến nghị với đối tượng kiểm tra, các tổ chức, cá nhân có liên
quan theo mục tiêu, yêu cầu đã đề ra.
Từ khái niệm nêu trên, có thể nhận thức về công tác kiểm tra của Đảng
ở một số điểm cụ thể như sau:
Một là, công tác kiểm tra là nhiệm vụ của toàn Đảng. Điều lệ Đảng quy
định tổ chức đảng phải tiến hành công tác kiểm tra, giám sát; tổ chức đảng và
đảng viên phải chịu sự kiểm tra, giám sát của Đảng.
Chủ thể kiểm tra là tổ chức đảng có thẩm quyền kiểm tra đối với tổ
chức đảng và đảng viên theo chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn được giao
thuộc phạm vi lãnh đạo, quản lý. Đối tượng kiểm tra là tổ chức đảng và đảng
viên chịu sự kiểm tra của tổ chức đảng có thẩm quyền. Các tổ chức đảng vừa
là chủ thể kiểm tra (có trách nhiệm tiến hành công tác kiểm tra), vừa là đối
tượng kiểm tra (chịu sự kiểm tra của tổ chức đảng có thẩm quyền cấp trên).
Do các tổ chức đảng có chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn khác nhau, nên
phạm vi trách nhiệm, nội dung, đối tượng, cách tiến hành kiểm tra của các tổ
chức đảng được quy định cũng khác nhau.
33
Hai là, công tác kiểm tra là một chức năng lãnh đạo của Đảng, là công
tác xây dựng Đảng, sinh hoạt nội bộ Đảng, do các tổ chức đảng tiến hành căn
cứ theo chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn và thẩm quyền được Điều lệ Đảng
quy định. Do đó, tiến hành công tác kiểm tra phải theo đúng nguyên tắc tổ
chức và sinh hoạt đảng, đúng tính chất công tác đảng, đúng tư tưởng chỉ đạo,
phương pháp cơ bản tiến hành công tác kiểm tra, đúng phạm vi trách nhiệm
của từng tổ chức đảng và đều phải xuất phát từ nhiệm vụ chính trị và công tác
xây dựng Đảng, nhằm thực hiện thắng lợi những nhiệm vụ và công tác ấy.
Ba là, qua việc thực hiện hệ thống các cách thức, biện pháp mà chủ thể
và đối tượng kiểm tra phải tuân thủ trong quá trình thực hiện nhiệm vụ công
tác kiểm tra, phải xem xét đúng tình hình thực tế khách quan; phát hiện ưu
điểm để phát huy, thiếu sót, khuyết điểm, lệch lạc để uốn nắn, khắc phục, sửa
chữa; làm rõ đúng sai, nhận xét, đánh giá chính xác có vi phạm hay không vi
phạm để kết luận rõ ràng, một mặt để tiếp tục kiện toàn, củng cố, phát huy tổ
chức và cá nhân, mặt khác để chấn chỉnh, xử lý kịp thời, nghiêm minh vi
phạm; cảnh tỉnh, răn đe, phòng ngừa tổ chức đảng và đảng viên vi phạm. Bên
cạnh đó, qua công tác kiểm tra, phát hiện những sơ hở, thiếu sót, bất cập trong
các quy định của Đảng, pháp luật của Nhà nước, trong lãnh đạo, chỉ đạo và tổ
chức thực hiện để kịp thời sửa đổi, bổ sung, điều chỉnh cho phù hợp với tình
hình thực tế, góp phần không ngừng nâng cao chất lượng và hiệu quả hoạt
động lãnh đạo, quản lý.
2.1.1.2. Vị trí, vai trò công tác kiểm tra của Đảng
Một là, kiểm tra là một trong những chức năng lãnh đạo của Đảng.
Thực tiễn đã khẳng định, lãnh đạo không chỉ là đề ra chủ trương,
đường lối, tổ chức thực hiện, bố trí cán bộ, động viên tư tưởng, mà còn phải
kiểm tra, giám sát. Không những kiểm tra, giám sát việc thực hiện đường lối,
Cương lĩnh chính trị, chủ trương, chính sách, mà kiểm tra ngay từ chính
Cương lĩnh chính trị, đường lối, chính sách đó và kiểm tra cả các tổ chức tiến
34
hành kiểm tra nhằm bảo đảm đường lối, chính sách được xác định đúng, được
quán triệt và thực hiện thắng lợi trong thực tiễn. Đó là vấn đề có tính nguyên
tắc; vừa là chức năng lãnh đạo, vừa là trách nhiệm, nội dung, phương pháp,
quy trình lãnh đạo của Đảng.
V.I.Lênin đã khẳng định: khi đường lối, chính sách đã được xác định,
phương hướng đã được thông qua thì nhiệm vụ tổ chức thực hiện phải đặt lên
hàng đầu và sự lãnh đạo phải "chuyển trọng tâm từ việc soạn thảo các sắc
lệnh và mệnh lệnh sang việc lựa chọn người và kiểm tra sự thực hiện" [105,
tr.450]. Hồ Chí Minh đã khẳng định: "Khi đã có chính sách đúng, thì sự thành
công hoặc thất bại của chính sách đó là do nơi cách tổ chức công việc, nơi lựa
chọn cán bộ và do nơi kiểm tra. Nếu ba điều ấy sơ sài thì chính sách đúng
mấy cũng vô ích" [118, tr.520].
Đảng ta luôn xác định kiểm tra là một trong những chức năng lãnh đạo
của Đảng. Trong suốt quá trình hoạt động, Đảng không những luôn coi trọng,
mà xác định kiểm tra là chức năng, nội dung lãnh đạo của Đảng. Công tác
kiểm tra là khâu rất quan trọng vì nó là nhiệm vụ thường xuyên của các cơ
quan lãnh đạo và chỉ đạo. Trong điều kiện Đảng lãnh đạo chính quyền càng
phải tăng cường công tác kiểm tra của Đảng.
Hai là, kiểm tra là một bộ phận quan trọng trong toàn bộ công tác xây
dựng Đảng.
Xây dựng Đảng ta vững mạnh cả về chính trị, tư tưởng, tổ chức luôn là
đòi hỏi cấp thiết và có tính khách quan. Chủ tịch Hồ Chí Minh đã khẳng định:
“Kiểm tra có tác dụng thúc đẩy và giáo dục đảng viên, cán bộ làm trọn nhiệm
vụ đối với Đảng, đối với Nhà nước, làm gương mẫu tốt cho nhân dân. Do đó,
mà góp phần vào việc củng cố Đảng về tư tưởng, về tổ chức” [118, tr.133].
Qua thực tiễn, Đảng ta đã kết luận: công tác kiểm tra là “một bộ phận quan
trọng trong toàn bộ công tác xây dựng Đảng” [81, tr.122], là "một khâu quan
trọng của tổ chức thực hiện” [81, tr.123].
35
Ba là, công tác kiểm tra là nhiệm vụ của toàn Đảng; là nhiệm vụ trực
tiếp, thường xuyên của mọi tổ chức đảng và đảng viên.
Công tác kiểm tra là công tác đảng, là nhiệm vụ của toàn Đảng, được
tiến hành đối với tổ chức đảng và đảng viên. Trong quá trình lãnh đạo cách
mạng, Đảng ta luôn xác định: "Kiểm tra và giữ gìn kỷ luật của Đảng là nhiệm
vụ của toàn Đảng. Các tổ chức đảng, trước hết là các cấp uỷ đảng, Bộ Chính
trị và các ban thường vụ cấp uỷ, cần tự mình tiến hành kiểm tra và sử dụng
các ban để tổ chức thường xuyên nhiệm vụ kiểm tra" [82, tr.150-151]. Để bảo
đảm vai trò lãnh đạo của Đảng, đòi hỏi các cấp uỷ, tổ chức đảng, uỷ ban kiểm
tra các cấp phải chú trọng và thường xuyên tiến hành công tác kiểm tra các tổ
chức đảng và đảng viên chấp hành Cương lĩnh chính trị, Điều lệ Đảng, nghị
quyết, chỉ thị của Đảng.
2.1.2. Nội dung, phương pháp công tác kiểm tra của Đảng
2.1.2.1. Nội dung công tác kiểm tra
Nội dung công tác kiểm tra của Đảng bao gồm kiểm tra việc thực hiện
Cương lĩnh chính trị, Điều lệ Đảng, nghị quyết, chỉ thị của Đảng, các nguyên
tắc tổ chức và hoạt động của Đảng... - những vấn đề có tính nguyên tắc đã
được Đảng xác định, mọi tổ chức đảng và đảng viên phải tuân thủ, chấp hành
và trở thành nội dung kỷ luật của Đảng. Tuy nhiên, Cương lĩnh chính trị, Điều
lệ Đảng, nghị quyết, chỉ thị, quy định của Đảng cũng như nguyên tắc tổ chức
và hoạt động của Đảng bao gồm nhiều vấn đề lớn, rất rộng. Mặt khác, do
chức năng, nhiệm vụ và phạm vi kiểm tra của mỗi tổ chức đảng khác nhau
nên khi tiến hành kiểm tra các tổ chức đảng phải căn cứ nhiệm vụ, quyền hạn
kiểm tra của cấp mình và tình hình, đặc điểm, yêu cầu của việc thực hiện
nhiệm vụ chính trị và công tác xây dựng Đảng của địa phương, đơn vị trong
từng thời gian và trọng tâm, trọng điểm lãnh đạo của mình để xác định nội
dung kiểm tra phù hợp.
36
Tóm lại, nội dung kiểm tra là kiểm tra việc thực hiện những nhiệm vụ
chính trị, nhiệm vụ công tác xây dựng Đảng có quan hệ đến chức trách, nhiệm
vụ, quyền hạn của tổ chức đảng và đảng viên. Mỗi tổ chức đảng phải căn cứ
chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn của mình và chức năng, nhiệm vụ, quyền
hạn của tổ chức đảng và đảng viên thuộc phạm vi quản lý của mình để xác
định nội dung kiểm tra cụ thể, phù hợp. Trong điều kiện Đảng cầm quyền,
việc chấp hành pháp luật Nhà nước, kỷ luật của các đoàn thể chính trị - xã hội
cũng là một nội dung kỷ luật của Đảng, đương nhiên trở thành một nội dung
kiểm tra đối với mọi tổ chức đảng và đảng viên.
2.1.2.2. Phương pháp công tác kiểm tra
Phương pháp công tác kiểm tra của Đảng là hệ thống các cách thức tiến
hành trong hoạt động kiểm tra của Đảng mà mọi tổ chức đảng và đảng viên
(chủ thể, đối tượng) phải tuân thủ trong quá trình thực hiện nhiệm vụ công tác
kiểm tra. Khi tiến hành công tác kiểm tra, phải sử dụng đồng bộ, linh hoạt
năm phương pháp cơ bản có mối quan hệ mật thiết, không tách rời của công
tác kiểm tra đảng.
Thứ nhất: Dựa vào tổ chức đảng
Đây vừa là phương pháp cơ bản, vừa là vấn đề có tính nguyên tắc trong
công tác xây dựng Đảng nói chung. Tổ chức đảng là cơ quan lãnh đạo, quản
lý, giám sát, giáo dục, rèn luyện đảng viên và tổ chức đảng cấp dưới; nơi nắm
vững tình hình, đặc điểm của tổ chức đảng cấp dưới và đảng viên; nơi tổ chức
thực hiện và lãnh đạo thực hiện các nhiệm vụ chính trị và công tác xây dựng
Đảng, các kết luận kiểm tra, giám sát của tổ chức đảng cấp trên; là nơi chịu
trách nhiệm trước tổ chức đảng cấp trên về hoạt động của tổ chức đảng và
đảng viên thuộc phạm vi quản lý của mình. Do đó, dựa vào tổ chức đảng quản
lý đối tượng kiểm tra vừa có tính nguyên tắc vừa đảm bảo tính hiệu quả, thực
tiễn của công tác kiểm tra. Có dựa vào tổ chức đảng và đảng viên, chủ thể
kiểm tra mới hiểu rõ đặc điểm tình hình, điều kiện, hoàn cảnh, khó khăn,
37
thuận lợi, ưu điểm, khuyết điểm trong thực hiện chức năng, nhiệm vụ, quyền
hạn của đối tượng kiểm tra để có cơ sở nhận xét, đánh giá, xem xét, kết luận
một cách chính xác.
Thứ hai: Phát huy tinh thần tự giác của tổ chức đảng và đảng viên
Đảng Cộng sản Việt Nam là đội tiên phong của giai cấp công nhân,
đồng thời là đội tiên phong của nhân dân lao động và của dân tộc Việt Nam;
đại biểu trung thành lợi ích của giai cấp công nhân, của nhân dân lao động và
của dân tộc. Đội ngũ đảng viên bao gồm những phần tử tiên tiến, giác ngộ lý
tưởng, giác ngộ giai cấp, tự nguyện đứng trong hàng ngũ của Đảng; là những
chiến sĩ cách mạng phấn đấu cho mục đích, lý tưởng của Đảng. Đó là cơ sở tư
tưởng và tổ chức để tổ chức đảng và đảng viên tự giác chấp hành Điều lệ
Đảng, đường lối, chủ trương của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước
và nhiệm vụ được giao; tự giác tự kiểm tra và chịu sự kiểm tra, giám sát của
tổ chức đảng có thẩm quyền.
Phát huy tinh thần tự giác của tổ chức đảng và đảng viên cũng là một
vấn đề có tính nguyên tắc. Vì vậy, tiến hành công tác kiểm tra, thi hành kỷ
luật đảng, chủ thể kiểm tra cần coi trọng và làm tốt công tác tư tưởng đối với
đối tượng kiểm tra, dựa vào tính tự giác của đối tượng kiểm tra để giúp cho
việc xem xét, kết luận được khách quan, chuẩn xác. Đồng thời, không ngừng
xây dựng, phát huy và nâng cao tinh thần tự giác, tự phê bình và phê bình,
tính chiến đấu của đối tượng kiểm tra là mục đích của công tác xây dựng
Đảng. Đối với những trường hợp quanh co, giấu diếm sai lầm, khuyết điểm,
cần kiên trì động viên, thuyết phục, kết hợp với đấu tranh phê bình và công
tác thẩm tra, xác minh để làm rõ đúng sai, giúp việc kết luận và xử lý được
chuẩn xác.
Thứ ba: Phát huy trách nhiệm xây dựng Đảng của nhân dân
Cách mạng là sự nghiệp của nhân dân dưới sự lãnh đạo của Đảng.
Đảng không có mục đích tự thân, mục đích của Đảng là phụng sự Tổ quốc,
38
phụng sự nhân dân. Một trong những phương châm xây dựng Đảng là tổ
chức, động viên quần chúng tham gia xây dựng Đảng, góp phần kiểm tra,
giám sát hoạt động của tổ chức đảng và cán bộ, đảng viên.
Mọi hoạt động của tổ chức đảng và cán bộ, đảng viên luôn được nhân
dân quan tâm, nhận biết và giám sát, kiểm tra. Thực tiễn đã chứng minh có
nhiều vụ việc tiêu cực xảy ra trong nội bộ Đảng là do nhân dân phát hiện và
phản ảnh với tổ chức đảng có thẩm quyền. Vì vậy, tiến hành công tác kiểm
tra, giám sát, thi hành kỷ luật đảng phải coi trọng việc phát huy tinh thần trách
nhiệm xây dựng Đảng của nhân dân. Những ý kiến nhân dân đóng góp đúng
phải trân trọng tiếp thu, khuyến khích, cổ vũ; nếu có ý kiến chưa đúng phải
giải thích để nhân dân hiểu rõ, tạo nên sự đoàn kết, thống nhất giữa tổ chức
đảng, đảng viên với quần chúng.
Thứ tư: Làm tốt công tác thẩm tra, xác minh
Một trong những yêu cầu cơ bản của công tác kiểm tra là phải làm
rõ đúng, sai; đánh giá, kết luận đúng ưu điểm, khuyết điểm, vi phạm (nếu
có) của tổ chức đảng và đảng viên được kiểm tra để có quyết định chính
xác. Ngoài việc phải dựa vào tổ chức đảng, phát huy tinh thần tự giác của
tổ chức đảng và đảng viên được kiểm tra, phát huy trách nhiệm xây dựng
Đảng của nhân dân, phải hết sức coi trọng và làm tốt công tác thẩm tra,
xác minh.
Thực hiện tốt công tác thẩm tra, xác minh chính là thực hiện tốt mối
quan hệ giữa tự giác và bắt buộc trong công tác kiểm tra, thi hành kỷ luật
đảng. Trong điều kiện tính tự giác, tự phê bình và phê bình trong Đảng nói
chung, trong không ít tổ chức đảng và đảng viên nói riêng bị giảm sút, tính
chiến đấu không cao, có nơi bị tê liệt, để làm rõ đúng sai, phải, trái, tìm ra
chứng lý của vụ việc, làm rõ vi phạm của tổ chức đảng và đảng viên, đòi hỏi
phải làm tốt công tác thẩm tra, xác minh.
39
Thứ năm: Khi tiến hành công tác kiểm tra, cần có sự phối hợp giữa ủy
ban kiểm tra với các tổ chức đảng, thanh tra nhà nước, thanh tra nhân dân và
các đoàn thể chính trị - xã hội có liên quan
Một trong những phương pháp cơ bản của công tác kiểm tra, thi hành
kỷ luật đảng là phải phối hợp chặt chẽ với công tác thanh tra của Nhà nước,
thanh tra nhân dân, công tác kiểm tra của các đoàn thể chính trị - xã hội, xã
hội nghề nghiệp và phối hợp với các ban, ngành có liên quan của Đảng và
Nhà nước.
Đảng ta là đảng cầm quyền, có đặc điểm đảng viên vừa là thành viên
của Đảng, vừa là công dân, là thành viên của tổ chức nhà nước và các đoàn
thể chính trị - xã hội do Đảng lãnh đạo. Vì vậy, nếu không có cơ chế phối hợp
chặt chẽ, phù hợp, nhất là trong công tác kiểm tra, thi hành kỷ luật đảng đối
với cán bộ, đảng viên của Đảng dễ dẫn đến tình trạng thiếu tập trung, thống
nhất, chồng chéo, sơ hở, kiểm tra, giải quyết vụ việc không kịp thời, chính
xác. Sự phối hợp trong công tác kiểm tra, thi hành kỷ luật đảng với công tác
thanh tra nhà nước, thanh tra của đoàn thể chính trị - xã hội và các tổ chức
đảng trong khối nội chính đã trở thành tất yếu. Để công tác kiểm tra, thi hành
kỷ luật đảng bảo đảm có chất lượng và hiệu quả, phải có sự phối hợp chặt chẽ
giữa công tác kiểm tra, thi hành kỷ luật của Đảng với thanh tra của Nhà nước,
thanh tra nhân dân, thanh tra của các đoàn thể chính trị - xã hội, phối hợp giữa
uỷ ban kiểm tra với các ban của cấp uỷ, với tổ chức đảng trong các cơ quan
bảo vệ pháp luật.
2.2. THẨM TRA, XÁC MINH TRONG CÔNG TÁC KIỂM TRA CỦA ĐẢNG
2.2.1. Khái niệm thẩm tra, xác minh trong công tác kiểm tra của Đảng
2.2.1.1. Khái niệm thẩm tra trong công tác kiểm tra của Đảng
Thẩm tra là "điều tra, xem xét lại có đúng, có chính xác không một vấn
đề, một sự việc nào đó" [196, tr.922], hay diễn đạt một cách khác, là “điều tra,
tìm hiểu để xem xét lại điều đã kết luận hoặc khai báo trước có đúng, có chính
40
xác không” [198, tr.541]. Theo Từ điển Bách khoa Công an nhân dân Việt
Nam: “Thẩm tra là điều tra, xem xét lại kỹ lưỡng trên cơ sở tài liệu đã có, để
xác định rõ và có kết luận chính xác về một người, một việc, một hiện tượng
theo yêu cầu nhất định” [193, tr.1079]. Trong đó, điều tra là tìm hỏi, xem xét
để biết rõ sự thật. Như vậy, thẩm tra là hoạt động tìm kiếm, dò hỏi, thu thập
thông tin, chứng cứ liên quan đến vụ việc cần thẩm tra để sự việc đó được
chứng minh là đúng hay không.
Thẩm tra là một hoạt động rộng rãi trên nhiều lĩnh vực, trong đó có các
lĩnh vực thuộc công tác công an, hoạt động kinh tế (thẩm tra dự án đầu tư,
thẩm tra dự toán), công tác đảng (thẩm tra lý lịch đảng viên), công tác làm
luật (thẩm tra dự án luật: là một bước (khâu) trong quá trình làm luật)
Trong công tác kiểm tra của Đảng, thẩm tra là hoạt động của tổ chức
đảng tiến hành nắm tình hình, tìm kiếm, thu thập thông tin, tài liệu để xem
xét, nghiên cứu về những thông tin, sự kiện, sự việc có liên quan đến nội
dung, đối tượng kiểm tra. Thực chất của hoạt động thẩm tra là tiếp xúc với
các đối tượng cần thiết để tìm kiếm, thu thập thông tin, tư liệu, tiếp cận hồ
sơ, nắm bắt thông tin, tìm kiếm những cơ sở ban đầu về những chứng cứ,
nhân chứng, vật chứng để phục vụ cho việc xác minh, thẩm định, kết
luận sau này.
2.2.1.2. Khái niệm xác minh trong công tác kiểm tra của Đảng
Xác minh là "làm cho rõ sự thật qua thực tế và chứng cứ cụ thể" [196,
tr.1140], hay “làm rõ thực chất sự việc với những chứng cớ cụ thể” [198, tr.1848].
Cũng như thẩm tra, xác minh là một hoạt động có trong nhiều lĩnh vực,
như: công tác đảng (xác minh lý lịch đảng viên), công tác công an (hoạt động
xác minh đối tượng kiểm tra nghiệp vụ: “là quá trình điều tra nghiên cứu, làm
rõ trong quá trình kiểm tra nghiệp vụ nhằm kết luận những vấn đề về đối
tượng nghi có hoạt động xâm phạm an ninh quốc gia” [193, tr.1318]; hay hoạt
động xác minh hiềm nghi: “là quá trình điều tra nghiên cứu cụ thể và kết luận,
41
làm rõ thực chất vấn đề nghi vấn về đối tượng để kết luận chính xác đối tượng
có phạm tội hay không” [193, tr.1319])
Còn trong công tác kiểm tra của Đảng, xác minh là tiến hành các hoạt
động mang tính xem xét, tra cứu, phân tích, so sánh, thẩm định, đối chiếu các
chứng cứ thu thập được trong quá trình thẩm tra với thực tế, với các quy định
của Đảng, Nhà nước để tìm ra các chứng cứ liên quan đến nội dung, đối
tượng kiểm tra.
Xác minh trong công tác kiểm tra của Đảng là những hoạt động diễn ra
tiếp theo hoạt động thẩm tra. Nhưng, không phải lúc nào cũng cứng nhắc
thẩm tra trước, xác minh sau, mà trong thực tế hoạt động thẩm tra cùng đan
xen với hoạt động xác minh. Hai hoạt động này có quan hệ mật thiết với nhau,
hoạt động này bổ sung cho hoạt động kia và ngược lại, nhằm làm rõ hơn
những thông tin, sự việc, sự kiện thông qua nhân chứng, vật chứng đã thu
thập được ở khâu thẩm tra để đối chiếu, so sánh, sàng lọc nhằm tìm ra chứng
cứ xác thực, đúng đắn; phân biệt rõ đúng sai và kết luận một cách khách quan,
chính xác về con người và sự việc kiểm tra.
2.2.1.3. Khái niệm thẩm tra, xác minh trong công tác kiểm tra của Đảng
Thẩm tra, xác minh là hai khái niệm không đồng nhất nhưng thường đi
kèm và quan hệ mật thiết với nhau. Thực tiễn công tác kiểm tra của Đảng cho
thấy, khái niệm thẩm tra, xác minh được dùng với tư cách là một khái niệm
ghép để chỉ một hoạt động có tính tổng hợp, hệ thống trong công tác kiểm tra
của Đảng.
Theo Đề tài khoa học (mã số KHBĐ-0015, do Nguyễn Anh Liên làm
Chủ nhiệm), thẩm tra, xác minh trong công tác kiểm tra của Đảng là:
quá trình thực hiện các hoạt động tìm kiếm, phát hiện, thu thập,
xem xét, tra cứu, thẩm định, đánh giá và sử dụng các chứng cứ;
phân tích sự liên hệ và sự phù hợp giữa các chứng cứ với nhau và
với vụ việc theo phương pháp công tác đảng, để tìm ra sự thật, chỉ
42
rõ bản chất của sự việc và hành vi của các đối tượng được kiểm tra
để kết luận rõ đúng sai [115, tr.31]
Khái niệm trên đây có điểm chưa đầy đủ, chưa rõ như: chưa xác định
được chủ thể tiến hành hoạt động thẩm tra, xác minh. Bên cạnh đó, việc nêu
cụ thể hoạt động mang tính liệt kê, chỉ việc là chưa bao quát được vấn đề, dễ
thiếu, sót nội dung cần định nghĩa.
Theo Tài liệu hướng dẫn nghiệp vụ ban hành năm 2012 của Uỷ ban
Kiểm tra Trung ương:
Thẩm tra, xác minh trong công tác kiểm tra của Đảng là việc chủ
thể kiểm tra tiến hành các hoạt động phát hiện, tìm kiếm, thu thập,
xem xét, tra cứu, thẩm định, đánh giá và sử dụng những chứng cứ,
phân tích thông tin, tài liệu đã thu thập được liên quan đến vụ việc
kiểm tra; phân tích mối liên hệ và sự phù hợp giữa các chứng cứ với
nhau và với vụ việc kiểm tra theo các nguyên tắc, phương pháp
công tác Đảng để tìm ra sự thật, chỉ đúng bản chất thông tin, chứng
cứ đó nhằm chứng minh đối tượng được kiểm tra có hay không có
khuyết điểm hoặc vi phạm, giúp cho việc kết luận, xử lý bảo đảm
công minh, chính xác, kịp thời [175, tr.79].
Khái niệm này khá dài, mang tính giải thích, chỉ ra cách làm cụ thể,
hoặc có chỗ chưa rõ như: cho rằng chủ thể kiểm tra tiến hành các hoạt động
phát hiện, tìm kiếm là chưa đúng thực tế, bởi chủ thể kiểm tra (là ban
thường vụ cấp uỷ, uỷ ban kiểm tra) chưa bao giờ tiến hành các công việc
việc cụ thể đó, mà do các cán bộ thừa hành thực hiện, trên cơ sở giao nhiệm
vụ và chỉ đạo, điều hành của ban thường vụ, thường trực cấp uỷ, hoặc uỷ ban,
thường trực uỷ ban kiểm tra.
Từ khái niệm chung về thẩm tra, xác minh, kế thừa quan điểm của các
tác giả và thực tiễn vừa qua, tác giả luận án đưa ra khái niệm như sau: Thẩm
tra, xác minh trong công tác kiểm tra của Đảng là hoạt động nghiệp vụ khi
43
tiến hành công tác kiểm tra của Đảng, đặt dưới sự lãnh đạo, chỉ đạo, điều
hành của chủ thể kiểm tra, được thực hiện thông qua một số cán bộ, nhằm tìm
ra các bằng chứng, chứng cứ cụ thể, xác thực, qua đó thẩm định, phân tích để
làm rõ sự thật, làm căn cứ để chủ thể kiểm tra nhận xét, đánh giá, kết luận và
xử lý công minh, chính xác đối tượng kiểm tra.
Khái niệm trên đây làm rõ được bản chất của thẩm tra, xác minh như vị
trí, tính chất, chủ thể chỉ đạo, chủ thể thực hiện, mục tiêu của hoạt động thẩm
tra, xác minh trong công tác kiểm tra của Đảng. Hoạt động thẩm tra, xác minh
là hoạt động nghiệp vụ, mang tính đặc thù của công tác kiểm tra, là cách tiến
hành bước đi cụ thể để tìm kiếm chứng cứ, làm rõ đúng, sai của đối tượng
kiểm tra, đòi hỏi phải có kỹ năng, trình độ, kinh nghiệm. Việc tiến hành thẩm
tra, xác minh trực tiếp do đội ngũ cán bô kiểm tra tiến hành, theo kế hoạch và
sự chỉ đạo, điều hành của đại diện chủ thể kiểm tra. Bản chất, mục tiêu của
thẩm tra, xác minh là để chủ thể kiểm tra xem xét, kết luận, xử lý kết quả
kiểm tra một cách công minh, chính xác.
Như vậy, có thể nói, hoạt động thẩm tra, xác minh trong công tác kiểm
tra của Đảng thực chất là sự tìm kiếm, thu thập, tra cứu, đánh giá các chứng
cứ bằng phương pháp phân tích, đối chiếu, so sánh một cách khoa học sâu
sắc, có hệ thống và có định hướng vào quá trình giải quyết nội dung, đối
tượng kiểm tra nhằm làm rõ bản chất của vụ việc, giúp cho đối tượng kiểm tra
nhận thức rõ những khuyết điểm, vi phạm và tham mưu giúp cấp ủy, ủy ban
kiểm tra các cấp kết luận, xử lý vụ việc một cách công minh, chính xác; đối
tượng kiểm tra “tâm phục khẩu phục”, góp phần xây dựng Đảng ngày càng
trong sạch, vững mạnh.
Có thể xem xét, phân tích khái niệm thẩm tra, xác minh từ một số khía
cạnh chủ yếu sau:
Một là, thẩm tra, xác minh như là một công cụ quan trọng, một nguyên
tắc cơ bản trong khâu tìm kiếm, phát hiện, thu thập thông tin, chứng cứ liên
44
quan đến nội dung, đối tượng cần thẩm tra, xác minh trong công tác kiểm tra
của Đảng. Đây cũng là phương pháp hiệu quả để tìm ra sự thật, bản chất sự
việc giúp các cấp ủy, tổ chức đảng có thẩm quyền xem xét kết luận, xử lý một
cách nghiêm minh, chính xác đối với các nội dung và đối tượng vi phạm.
Hai là, hoạt động thẩm tra, xác minh là khâu rất quan trọng trong công
tác kiểm tra của Đảng, nhưng phải luôn thực hiện công khai, dân chủ, tự phê
bình và phê bình để xem xét, tra cứu, thẩm định, đánh giá, phân tích và sử
dụng các chứng cứ nhằm làm rõ bản chất của sự việc và hành vi, nội dung và
đối tượng kiểm tra để kết luận rõ đúng sai đảm bảo đúng nguyên tắc, phương
pháp công tác đảng.
Ba là, mục đích, yêu cầu cơ bản của thẩm tra, xác minh là tìm ra bản
chất, làm rõ sự thật bằng chứng cứ xác thực trên cơ sở khoa học, khách
quan. Từ chứng cứ qua thẩm tra, xác minh đã được thẩm định giúp cho các
tổ chức đảng có thẩm quyền kết luận và ra quyết định đối với các nội dung,
đối tượng kiểm tra. Độ chính xác và hiệu quả của các kết luận, quyết định xử
lý của tổ chức đảng có thẩm quyền đối với đối tượng kiểm tra chủ yếu tùy
thuộc vào kết quả và độ chính xác của các chứng cứ thu thập được qua thẩm
tra, xác minh.
Ngoài ra, khi bàn đến hoạt động thẩm tra, xác minh trong công tác
kiểm tra của Đảng, có một khái niệm cũng rất cần được đề cập đến, bởi nó có
ý nghĩa rất quan trọng và là yếu tố tất yếu phải tìm kiếm, phải thu thập được
mới đem lại kết quả trong hoạt động thẩm tra, xác minh, đó là chứng cứ.
Từ điển Tiếng Việt do Viện Ngôn ngữ học xuất bản định nghĩa chứng
cứ là “cái được dẫn ra để làm căn cứ xác định điều gì đó là có thật” [196,
tr.192]; Từ điển Tiếng Việt do Nguyễn Như Ý chủ biên định nghĩa chứng cứ
là “cái được dẫn ra để dựa vào đó mà xác định điều gì đó đúng hay sai, thật
hay giả” [198, tr.415]. Qua đó có thể hiểu, chứng cứ chính là những cái có
thật, được dùng làm cơ sở để xem xét, kết luận về một hành vi hay một sự
45
việc. Chứng cứ là cái đã xảy ra, là thực tế khách quan, tồn tại ngoài ý muốn
của con người. Mọi sự suy diễn, phỏng đoán hay tưởng tượng đều không
thể thay cho chứng cứ.
Trong hoạt động tố tụng hình sự, chứng cứ là những tài liệu thực tế mà
các cơ quan điều tra, kiểm sát, tòa án làm căn cứ theo trình tự luật định để xác
định có hay không có hành vi phạm tội, người thực hiện hành vi phạm tội và
những tình tiết khác có ý nghĩa đối với việc giải quyết đúng đắn vụ án. Chứng
cứ được xác định bằng: vật chứng; lời khai của nguời làm chứng, người bị
hại, nguyên đơn dân sự, bị đơn dân sự, người bị tạm giữ, bị can, bị cáo; kết
luận giám định; biên bản về hoạt động điều tra, xét xử và các tài liệu khác.
Chứng cứ là phương tiện để xác minh sự thật về vụ án. Luật có một số yêu
cầu đối với chứng cứ nhằm bảo đảm tính xác thực, cũng như kiểm tra và đánh
giá đúng đắn chứng cứ: chứng cứ phải chứa đựng những tài liệu thực tế có
liên quan đến vụ án cụ thể; phải được rút ra từ những nguồn do luật quy định.
Trong công tác kiểm tra của Đảng, khi tiến hành kiểm tra tổ chức đảng
hoặc đảng viên khi có dấu hiệu vi phạm; giải quyết đơn thư tố cáo, khiếu nại
hay kết thúc một cuộc kiểm tra chấp hành thì phải kết luận được việc làm
đúng, sai của đối tượng kiểm tra để quyết định xử lý hoặc đề nghị cấp có thẩm
quyền xử lý kỷ luật một cách thỏa đáng. Vì vậy, trong hoạt động thẩm tra, xác
minh không chỉ tìm chứng cứ để kết luận hành vi của đối tượng kiểm tra có vi
phạm hay không, mà còn phải tìm cả những chứng cứ để kết luận việc làm
đúng, tốt của đối tượng kiểm tra. Đó chính là những điểm cơ bản của chứng
cứ trong hoạt động kiểm tra của Đảng.
Vậy, chứng cứ trong hoạt động thẩm tra xác minh trong công tác kiểm
tra của Đảng là những sự vật, hiện tượng có thật, liên quan đến nội dung, đối
tượng kiểm tra; giải quyết tố cáo, khiếu nại kỷ luật đảng, được các tổ chức
đảng, ủy ban kiểm tra các cấp thu thập trong quá trình thẩm tra, xác minh,
dùng làm căn cứ để kết luận việc làm đúng, sai của đối tượng kiểm tra.
46
2.2.2. Vị trí, vai trò, đặc điểm của thẩm tra, xác minh trong công
tác kiểm tra của Đảng
2.2.2.1. Vị trí, vai trò của thẩm tra, xác minh trong công tác kiểm tra
của Đảng
Trong công tác kiểm tra, giám sát, kiểm kê, kiểm soát, V.I.Lênin rất coi
trọng công tác thẩm tra, xác minh; coi trọng phương pháp đối chiếu, so sánh,
cụ thể, tỉ mỉ với công việc, xem xét, cụ thể trên hồ sơ, tài liệu, sổ sách, chứng
từ, làm rõ đúng, sai, phải trái, làm rõ chứng lý để kết luận được chuẩn xác.
Người phê phán thái độ kiểm tra, giám sát quan liêu, thiếu dân chủ, không sâu
sát, trực tiếp tại chỗ, không xem xét cụ thể hồ sơ, tài liệu, sổ sách, không coi
trọng thực hiện công tác thẩm tra, xác minh, mà chỉ nghe báo cáo trên giấy.
Lênin chỉ rõ: "các ủy ban nhà máy đang muốn có một sự kiểm soát thật sự của
công nhân, chứ không phải là một sự kiểm soát trên giấy tờ" [105, tr.303]. Và
Người yêu cầu: phải "thực sự cầu thị, bằng cách hỏi han tỉ mỉ, kiểm tra các
con số, chứ không chỉ tin v... tra Trung ương
với Ban cán sự đảng Chính phủ trong thực hiện nhiệm vụ kiểm tra,
giám sát và thi hành kỷ luật đảng (ban hành kèm theo Quyết định số
152-QĐ/TW, ngày 09-11-2012), Hà Nội.
17. Ban Bí thư (2012), Quy định số 55-QĐ/TW, ngày 10-01-2012 về công
tác kiểm tra của tố chức đảng đối với việc tu dưỡng, rèn luyện đạo
đức cách mạng của cán bộ, đảng viên, Hà Nội.
18. Ban Bí thư (2012), Thông báo Kết luận số 71-TB/TW, ngày 12-01-2012 về
thực hiện Quy chế phối hợp giữa Uỷ ban Kiểm tra Trung ương với tổ
chức có liên quan trong thực hiện nhiệm vụ kiểm tra, giám sát và thi
hành kỷ luật đảng, Hà Nội.
19. Ban Bí thư (2012), Thông báo Kết luận số 115-TB/TW, ngày 17-12-2012
về Đề án "Phát hiện, xác định, quyết định kiểm tra tổ chức đảng cấp
dưới, đảng viên khi có dấu hiệu vi phạm", Hà Nội.
20. Ban Chấp hành Trung ương (2011), Hướng dẫn thực hiện các quy định
về công tác kiểm tra, giám sát và kỷ luật của Đảng trong Chương
VII và Chương VIII Điều lệ Đảng khoá XI (ban hành kèm theo
Quyết định số 46-QĐ/TW, ngày 01-11-2011), Hà Nội.
21. Ban Chấp hành Trung ương (2011), Quy định số 45-QĐ/TW, ngày 01-
11-2011 về thi hành Điều lệ Đảng, Hà Nội.
22. Ban Chấp hành Trung ương (2011), Quy định số 47-QĐ/TW, ngày 01-
11-2011 về những điều đảng viên không được làm, Hà Nội.
23. Ban Chấp hành Trung ương (2012), Kết luận số 21-KL/TW, ngày 21-5-
2012 tại Hội nghị lần thứ năm Ban Chấp hành Trung ương khoá XI
156
về việc tiếp tục thực hiện Nghị quyết Hội nghị lần thứ ba Ban Chấp
hành Trung ương khoá X về tăng cường sự lãnh đạo của Đảng đối
với công tác phòng, chống tham nhũng, lãng phí, Hà Nội.
24. Ban Chấp hành Trung ương Đảng Cộng sản Trung Quốc (2007), Giương
cao ngọn cờ vĩ đại chủ nghĩa xã hội đặc sắc Trung Quốc, phấn đấu
giành thắng lợi mới trong xây dựng toàn diện xã hội khá giả (Báo
cáo trình Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XVII Đảng Cộng sản
Trung Quốc, ngày 15-10-2007), Bản dịch của Vụ Trung Quốc -
Đông Bắc Á, Ban Đối ngoại Trung ương, Trung Quốc.
25. Ban Chỉ đạo liên ngành Trung ương tổng kết thực hiện Chỉ thị 09-CT/TW
và pháp luật về khiếu nại, tố cáo (2012), Tài liệu Hội nghị tổng kết
thực hiện Chỉ thị 09-CT/TW của Ban Bí thư và pháp luật về khiếu nại,
tố cáo, tập I, Hà Nội.
26. Ban Chỉ đạo Tổng kết lý luận (2005), Báo cáo tổng kết một số vấn đề lý
luận - thực tiễn qua 20 năm đổi mới (1986-2006), Nhà xuất bản
Chính trị quốc gia, Hà Nội.
27. Ban Chỉ đạo Trung ương 6 (2) (2003), Tiếp tục thực hiện Nghị quyết
Trung ương 6 (lần 2) khóa VIII đẩy mạnh cuộc vận động xây dựng,
chỉnh đốn Đảng, chống tham nhũng, lãng phí, Nhà xuất bản Chính
trị quốc gia, Hà Nội.
28. Ban Chỉ đạo Trung ương 6 (2) (2004), Kinh nghiệm và giải pháp xây
dựng, chỉnh đốn Đảng, chống tham nhũng, tiêu cực, lãng phí rút ra
từ các vụ án kinh tế - xã hội và kết quả thanh tra, kiểm tra, Kỷ yếu
hội thảo, Hà Nội.
29. Ban Chỉ đạo Trung ương 6 (2) (2005), Đảng, Bác Hồ về tự phê bình và
phê bình, Nhà xuất bản Chính trị quốc gia, Hà Nội.
30. Ban Chỉ đạo Trung ương 6 (2) (2005), Tệ quan liêu, lãng phí và một số
giải pháp phòng chống, Nhà xuất bản Chính trị quốc gia, Hà Nội.
157
31. Ban Chỉ đạo Trung ương về phòng, chống tham nhũng (2010), Báo cáo
số 70-BC/BCĐ, ngày 09-12-2010 tổng kết công tác phòng, chống
tham nhũng trong nhiệm kỳ Đại hội X, Hà Nội.
32. Ban Chỉ đạo Trung ương về phòng, chống tham nhũng (2011), Báo cáo số
01-BC/BCĐ, ngày 28-01-2011 về kết quả công tác phòng, chống tham
nhũng năm 2010 và phương hướng nhiệm vụ năm 2011, Hà Nội.
33. Ban Nội chính Trung ương (2005), Kinh nghiệm phòng, chống tham
nhũng của một số nước trên thế giới, (Sách tham khảo), Nhà xuất
bản Chính trị quốc gia, Hà Nội.
34. Bộ Chính trị (2007), Quy chế về chế độ kiểm tra, giám sát công tác cán
bộ (ban hành kèm theo Quyết định số 58-QĐ/TW, ngày 07-5-2007),
Hà Nội.
35. Bộ Chính trị (2008), Quy trình kiểm tra của Bộ Chính trị, Ban Bí thư
(ban hành kèm theo Quyết định số 173-QĐ/TW, ngày 08-7-2008),
Hà Nội.
36. Bộ Chính trị (2008), Quy trình xem xét, thi hành kỷ luật và giải quyết
khiếu nại kỷ luật đảng của Ban Chấp hành Trung ương, Bộ Chính
trị, Ban Bí thư (ban hành kèm theo Quyết định số 174-QĐ/TW,
ngày 08-7-2008), Hà Nội.
37. Bộ Chính trị (2008), Quy trình Ban Chấp hành Trung ương xem xét, thi
hành kỷ luật đối với đảng viên là Uỷ viên Ban Chấp hành Trung
ương thay thế Quy trình Ban Chấp hành Trung ương xem xét, thi
hành kỷ luật đối với đảng viên là Uỷ viên Ban Chấp hành Trung
ương đã ban hành tại Quyết định số 174-QĐ/TW, ngày 08-7-2008
của Bộ Chính trị (ban hành kèm theo Quyết định số 195-QĐ/TW,
ngày 19-11-2008), Hà Nội.
38. Bộ Chính trị (2008), Thông báo Kết luận số 130-TB/TW, ngày 10-1-2008
về tình hình, kết quả giải quyết khiếu nại, tố cáo từ năm 2006 đến
nay và giải pháp trong thời gian tới, Hà Nội.
158
39. Bộ Chính trị (2010), Kết luận số 72-KL/TW, ngày 17-5-2010 về Chiến
lược công tác kiểm tra, giám sát của Đảng đến năm 2020, Hà Nội.
40. Bộ Chính trị (2010), Quy chế đánh giá cán bộ, công chức (ban hành kèm
theo Quyết định số 286-QĐ/TW, ngày 08-02-2010), Hà Nội.
41. Bộ Chính trị (2010), Quy trình giải quyết khiếu nại kỷ luật đảng của Ban
Chấp hành Trung ương, Bộ Chính trị, Ban Bí thư (ban hành kèm
theo Quyết định số 321-QĐ/TW, ngày 06-8-2010), Hà Nội.
42. Bộ Chính trị (2011), Thông báo Kết luận số 68-TB/TW, ngày 30-12-2011
sơ kết trên 4 năm thực hiện Nghị quyết Trung ương 5 (khoá X) về
tăng cường công tác kiểm tra, giám sát của Đảng, Hà Nội.
43. Bộ Chính trị (2012), Chỉ thị số 15-CT/TW, ngày 24-02-2012 về việc thực
hiện Nghị quyết Hội nghị lần thứ tư Ban Chấp hành Trung ương
Đảng (khoá XI) "Một số vấn đề cấp bách về xây dựng Đảng hiện
nay", Hà Nội.
44. Bộ Chính trị (2013), Quy định số 181-QĐ/TW, ngày 30-3-2013 về xử lý
kỷ luật đảng viên vi phạm, Hà Nội.
45. Bộ Chính trị (2013), Quy định giải quyết tố cáo đối với đảng viên là cán
bộ thuộc diện Bộ Chính trị, Ban Bí thư quản lý (ban hành kèm theo
Quyết định số 210-QĐ/TW, ngày 08-11-2013), Hà Nội.
46. Bộ phận Thường trực Ban Chỉ đạo Trung ương 6 (2) (2005), Dự thảo Báo
cáo giải pháp phát huy vai trò của nhân dân tham gia xây dựng, chỉnh
đốn Đảng, đấu tranh chống tham nhũng, tiêu cực, Hà Nội.
47. Nguyễn Văn Chi (2008), Công tác kiểm tra, giám sát góp phần đổi mới
phương thức lãnh đạo của Đảng, Nhà xuất bản Chính trị quốc gia,
Hà Nội.
48. Trường Chinh (1962), Công tác tư tưởng của Đảng, Nxb Sự thật, Hà Nội.
49. Chính phủ (2008), Báo cáo số 135/BC/CP, ngày 19-9-2008 về công tác
phòng, chống tham nhũng năm 2008, (Báo cáo Quốc hội), Hà Nội.
159
50. Chính phủ (2009), Báo cáo số 157/BC/CP, ngày 02-10-2009 về công tác
phòng, chống tham nhũng năm 2009, (Báo cáo Quốc hội), Hà Nội.
51. Chính phủ (2010), Báo cáo số 103/BC/CP, ngày 01-9-2010 về công tác
phòng, chống tham nhũng năm 2010, (Báo cáo Quốc hội), Hà Nội.
52. Chính phủ (2013), Nghị định số 78/2013/NĐ-CP, ngày 17-7-2013 về
minh bạch tài sản, thu nhập, Hà Nội.
53. Chính phủ (2013), Nghị định số 91/2013/NĐ-CP, ngày 12-8-2013 quy
định về tố cáo và giải quyết tố cáo trong Công an nhân dân, Hà Nội.
54. Phạm Thị Hải Chuyền (Chủ biên) (2010), Vận dụng tư tưởng Hồ Chí
Minh về công tác kiểm tra, giám sát và kỷ luật đảng, Nhà xuất bản
Chính trị quốc gia, Hà Nội.
55. Phạm Hồng Chương (2004), Tư tưởng Hồ Chí Minh về dân chủ, Nhà
xuất bản Lý luận chính trị, Hà Nội.
56. Đỗ Hùng Cường (2012), “Một số vấn đề về thẩm tra, xác minh trong
công tác kiểm tra”, Tạp chí Kiểm tra, (10), tr.46.
57. Bùi Mạnh Cường (2003), Tư tưởng Hồ Chí Minh với vấn đề chống tham
nhũng, Nhà xuất bản Lao động, Hà Nội.
58. Giang Trạch Dân (2003), Bàn về chủ nghĩa xã hội đặc sắc Trung Quốc,
Tập I-II, Nhà xuất bản Chính trị quốc gia, Hà Nội.
59. Lý Quang Diệu (2001), Bí quyết hóa rồng - Lịch sử Singapore: 1965-
2000, Nhà xuất bản Trẻ, Thành phố Hồ Chí Minh.
60. Nguyễn Thị Doan (Chủ biên) (2006), Đổi mới công tác kiểm tra, kỷ luật
nhằm nâng cao sức chiến đấu của Đảng trong giai đoạn cách mạng
mới, Nhà xuất bản Chính trị quốc gia, Hà Nội.
61. Nguyễn Trung Dong (2014), “Kinh nghiệm về thẩm tra, xác minh trong
giải quyết tố cáo đối với đảng viên là cán bộ diện Bộ Chính trị, Ban
Bí thư quản lý”, Tạp chí Kiểm tra, (4), tr.36.
62. Nguyễn Ngọc Đán - Cao Văn Thống (Đồng chủ biên) (2012), Cẩm nang
về kỹ năng giải quyết khiếu nại kỷ luật của Đảng, Nhà xuất bản
Chính trị quốc gia - Sự thật, Hà Nội.
160
63. Nguyễn Ngọc Đán - Cao Văn Thống (Đồng chủ biên) (2012), Cẩm nang
về kỹ năng giải quyết tố cáo trong Đảng, Nhà xuất bản Chính trị
quốc gia - Sự thật, Hà Nội.
64. Đảng Cộng sản Trung Quốc (1997), Điều lệ công tác điều tra, Bản dịch
của Vụ Trung Quốc - Đông Bắc Á, Ban Đối ngoại Trung ương.
65. Đảng Cộng sản Trung Quốc (1997), Những chuẩn tắc liêm chính và điều
khoản liên quan, Bản dịch của Vụ Trung Quốc - Đông Bắc Á, Ban
Đối ngoại Trung ương.
66. Đảng Cộng sản Trung Quốc (1997), Quy định về việc cán bộ lãnh đạo
báo cáo những vấn đề có liên quan đến bản thân, Bản dịch của Vụ
Trung Quốc - Đông Bắc Á, Ban Đối ngoại Trung ương.
67. Đảng Cộng sản Trung Quốc (2000), Một số chuẩn mực về cán bộ lãnh
đạo, đảng viên Đảng Cộng sản Trung Quốc làm việc liêm khiết, Bản
dịch của Vụ Trung Quốc - Đông Bắc Á, Ban Đối ngoại Trung ương.
68. Đảng Cộng sản Trung Quốc (2000), Một số quy định cán bộ lãnh đạo
doanh nghiệp nhà nước làm việc liêm khiết, Bản dịch của Vụ Trung
Quốc - Đông Bắc Á, Ban Đối ngoại Trung ương.
69. Đảng Cộng sản Trung Quốc (2004), Điều lệ giám sát nội bộ (thi hành
thử), Bản dịch của Vụ Trung Quốc - Đông Bắc Á, Ban Đối ngoại
Trung ương.
70. Đảng Cộng sản Trung Quốc (2004), Điều lệ xử lý kỷ luật, Bản dịch của
Vụ Trung Quốc - Đông Bắc Á, Ban Đối ngoại Trung ương.
71. Đảng Cộng sản Trung Quốc (2005), Đề cương thực thi xây dựng, kiện toàn
hệ thống trừng trị và phòng ngừa tham nhũng, Bản dịch của Vụ Trung
Quốc - Đông Bắc Á, Ban Đối ngoại Trung ương.
72. Đảng Cộng sản Trung Quốc (2006), Quy định tạm thời về tăng cường
quản lý đối với nhân viên công tác nhà nước có vợ (chồng), con cái
định cư ở nước ngoài, Bản dịch của Vụ Trung Quốc - Đông Bắc Á,
Ban Đối ngoại Trung ương.
161
73. Đảng Cộng sản Trung Quốc (2008), Điều lệ công tác tuần thị Đảng
Cộng sản Trung Quốc (thi hành thử), Bản dịch của Vụ Trung Quốc
- Đông Bắc Á, Ban Đối ngoại Trung ương.
74. Đảng Cộng sản Trung Quốc (2008), Điều lệ tạm thời về chế độ nhiệm kỳ
đối với Đại hội đại biểu toàn quốc và đại hội đại biểu các cấp, Bản
dịch của Vụ Trung Quốc - Đông Bắc Á, Ban Đối ngoại Trung ương.
75. Đảng Cộng sản Trung Quốc (2008), Thông tư về in phát "Quy hoạch
công tác 2008-2012 xây dựng, kiện toàn hệ thống trừng trị và phòng
ngừa tham nhũng", Bản dịch của Vụ Trung Quốc - Đông Bắc Á,
Ban Đối ngoại Trung ương.
76. Đảng Cộng sản Trung Quốc (2010), Chống tham nhũng và xây dựng liêm
khiết ở Trung Quốc, (Sách trắng), Bản dịch của Vụ Trung Quốc -
Đông Bắc Á, Ban Đối ngoại Trung ương.
77. Đảng Cộng sản Trung Quốc (2010), Quy định về thực hiện chế độ trách
nhiệm xây dựng liêm chính trong Đảng, Bản dịch của Vụ Trung
Quốc - Đông Bắc Á, Ban Đối ngoại Trung ương.
78. Đảng Cộng sản Trung Quốc (2011), Quy định tạm thời về thực hiện chất
vấn trách nhiệm đối với cán bộ lãnh đạo Đảng, chính quyền, Bản
dịch của Vụ Trung Quốc - Đông Bắc Á, Ban Đối ngoại Trung ương.
79. Đảng Cộng sản Việt Nam (1977), Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc
lần thứ IV, Nhà xuất bản Sự thật, Hà Nội.
80. Đảng Cộng sản Việt Nam (1986), Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc
lần thứ VI, Nhà xuất bản Sự thật, Hà Nội.
81. Đảng Cộng sản Việt Nam (1991), Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc
lần thứ VII, Nhà xuất bản Sự thật, Hà Nội.
82. Đảng Cộng sản Việt Nam (1996), Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc
lần thứ VIII, Nhà xuất bản Chính trị quốc gia, Hà Nội.
83. Đảng Cộng sản Việt Nam (1997), Văn kiện Hội nghị lần thứ ba Ban Chấp
hành Trung ương khóa VIII, Nhà xuất bản Chính trị quốc gia, Hà Nội.
162
84. Đảng Cộng sản Việt Nam (2001), Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc
lần thứ IX, Nhà xuất bản Chính trị quốc gia, Hà Nội.
85. Đảng Cộng sản Việt Nam (2002), Văn kiện Hội nghị lần thứ sáu Ban Chấp
hành Trung ương khóa IX, Nhà xuất bản Chính trị quốc gia, Hà Nội.
86. Đảng Cộng sản Việt Nam (2004), Văn kiện Hội nghị lần thứ chín Ban Chấp
hành Trung ương khóa IX, Nhà xuất bản Chính trị quốc gia, Hà Nội.
87. Đảng Cộng sản Việt Nam (2006), Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc
lần thứ X, Nhà xuất bản Chính trị quốc gia, Hà Nội.
88. Đảng Cộng sản Việt Nam (2007), Văn kiện Hội nghị lần thứ năm Ban Chấp
hành Trung ương khóa X, Nhà xuất bản Chính trị quốc gia, Hà Nội.
89. Đảng Cộng sản Việt Nam (2011), Điều lệ (thông qua tại Đại hội biểu toàn
quốc lần thứ XI), Nhà xuất bản Chính trị quốc gia - Sự thật, Hà Nội.
90. Đảng Cộng sản Việt Nam (2011), Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc
lần thứ XI, Nhà xuất bản Chính trị quốc gia - Sự thật, Hà Nội.
91. Đảng Cộng sản Việt Nam (2011), Văn kiện Hội nghị lần thứ tư Ban Chấp
hành Trung ương khóa XI, Nhà xuất bản Chính trị quốc gia, Hà Nội.
92. Đảng Lao động Việt Nam (1960), Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc
lần thứ III, Nhà xuất bản Sự thật, Hà Nội.
93. Phạm Thành Đồng (2012), “Chứng cứ trong kiểm tra dấu hiệu vi phạm khi
phải tiến hành trưng cầu giám định”, Tạp chí Kiểm tra, (11-221), tr.42.
94. Lê Văn Giảng (Chủ biên) (2011), Nâng cao chất lượng dân chủ trong
công tác kiểm tra, giám sát và thi hành kỷ luật trong Đảng, Nhà
xuất bản Chính trị quốc gia, Hà Nội.
95. Lê Tiến Hào (2004), Công tác kiểm tra của Thành uỷ Hà Nội trong giai
đoạn hiện nay, Luận án Tiến sỹ Khoa học chính trị, Học viện Chính
trị quốc gia Hồ Chí Minh, Hà Nội.
96. Đỗ Trung Hiếu (2004), Một số suy nghĩ về xây dựng nền dân chủ ở Việt
Nam hiện nay, Nhà xuất bản Chính trị quốc gia, Hà Nội.
97. Mai Thanh Hiếu - Nguyễn Chí Công (2008), Trình tự, thủ tục giải quyết
các vụ án hình sự, Nhà xuất bản Lao động - Xã hội, Hà Nội.
163
98. Nguyễn Công Học (Chủ biên) (2012), Một số giải pháp bảo đảm việc
chấp hành kỷ luật và thi hành kỷ luật trong Đảng hiện nay, Nhà xuất
bản Chính trị quốc gia - Sự thật, Hà Nội.
99. Hội đồng Khoa học các cơ quan Đảng Trung ương (2010), Công tác
tham mưu tại các cơ quan Đảng Trung ương - Một số vấn đề lý luận
và thực tiễn, Nhà xuất bản Chính trị quốc gia, Hà Nội.
100. Lê Khắc Khoa (2010), “Về ngôn ngữ nói trong thẩm tra, xác minh”, Tạp
chí Kiểm tra, (2), tr.48.
101. V.I.Lênin (1970), Toàn tập, tập 31, Nhà xuất bản Tiến bộ, Mátxcơva.
102. V.I.Lênin (1970), Toàn tập, tập 32, Nhà xuất bản Tiến bộ, Mátxcơva.
103. V.I.Lênin (1974), Toàn tập, tập 37, Nhà xuất bản Tiến bộ, Mátxcơva.
104. V.I.Lênin (1974), Toàn tập, tập 39, Nhà xuất bản Tiến bộ, Mátxcơva.
105. V.I.Lênin (1976), Toàn tập, tập 41, Nhà xuất bản Tiến bộ, Mátxcơva.
106. V.I.Lênin (1977), Toàn tập, tập 42, Nhà xuất bản Tiến bộ, Mátxcơva.
107. V.I.Lênin (1978), Toàn tập, tập 43, Nhà xuất bản Tiến bộ, Mátxcơva.
108. V.I.Lênin (1978), Toàn tập, tập 44, Nhà xuất bản Tiến bộ, Mátxcơva.
109. V.I.Lênin (1978), Toàn tập, tập 45, Nhà xuất bản Tiến bộ, Mátxcơva.
110. V.I.Lênin - I.V.Xtalin (1974), Về dân chủ là kỷ luật trong Đảng, Nhà
xuất bản Sự thật, Hà Nội.
111. V.I.Lênin (1998), Bàn về kiểm kê, kiểm soát, Nhà xuất bản Chính trị
quốc gia, Hà Nội.
112. Lê Hồng Liêm (Chủ biên) (2010), Một số giải pháp tháo gỡ khó khăn, trở
ngại của uỷ ban kiểm tra các cấp trong thực hiện nhiệm vụ kiểm tra
khi có dấu hiệu vi phạm, Nhà xuất bản Chính trị quốc gia, Hà Nội.
113. Lê Hồng Liêm (Chủ biên) (2011), Công tác kiểm tra, giám sát của Đảng
với phòng, chống tham nhũng ở nước ta hiện nay, Nhà xuất bản
Chính trị quốc gia - Sự thật, Hà Nội.
114. Liên hợp quốc (2003), Công ước về chống tham nhũng.
164
115. Nguyễn Anh Liên (Chủ nhiệm) (2001), Cơ sở lý luận, thực tiễn đổi mới
và nâng cao hiệu quả thẩm tra - xác minh trong công tác kiểm tra
của Đảng, Đề tài khoa học cấp Ban Đảng Trung ương, Ủy ban Kiểm
tra Trung ương.
116. Vũ Đình Lợi (2013), “Thẩm tra, xác minh - một khâu quan trọng trong
giải quyết tố cáo”, Tạp chí Kiểm tra, (9), tr.49.
117. C.Mác - Ph.Ăngghen (1995), Toàn tập, tập 4, Nhà xuất bản Chính trị
quốc gia, Hà Nội.
118. Hồ Chí Minh (1995), Toàn tập, tập 5, Nhà xuất bản Chính trị quốc gia,
Hà Nội.
119. Hồ Chí Minh (1996), Toàn tập, tập 12, Nhà xuất bản Chính trị quốc gia,
Hà Nội.
120. Nguyễn Hoàng Minh (2011), Công tác kiểm tra, giám sát của Đảng bộ
tỉnh Bình Thuận trong giai đoạn hiện nay theo tư tưởng Hồ Chí
Minh, Luận văn Thạc sỹ Khoa học chính trị, Học viện Chính trị -
Hành chính quốc gia Hồ Chí Minh, Hà Nội.
121. Phạm Thị Ngạn (Chủ nhiệm) (2007), Hệ thống kỹ năng nghiệp vụ trong
công tác kiểm tra, giám sát và kỷ luật đảng, Đề tài khoa học cấp Bộ,
Ủy ban Kiểm tra Trung ương, Hà Nội.
122. Phạm Thị Ngạn (2013), “Các yếu tố cấu thành trình độ nghiệp vụ thẩm
tra, xác minh của cán bộ kiểm tra”, Tạp chí Kiểm tra, (6), tr.45.
123. Nhà xuất bản Chính trị quốc gia (2001), Tổ chức và hoạt động thanh tra,
kiểm tra, giám sát của một số nước trên thế giới, Hà Nội.
124. Nhà xuất bản Chính trị quốc gia (2004), Các nghị quyết của Trung ương
Đảng 2001 - 2004, (Sách phục vụ thảo luận các dự thảo văn kiện
Đại hội X), Hà Nội.
125. Nhà xuất bản Chính trị quốc gia (2004), Xây dựng đảng cầm quyền: Kinh
nghiệm của Việt Nam - Kinh nghiệm của Trung Quốc, Hội thảo lý luận
giữa Đảng Cộng sản Việt Nam và Đảng Cộng sản Trung Quốc, Hà Nội.
165
126. Nhà xuất bản Chính trị quốc gia (2004), Sách tra cứu các mục từ về tổ
chức, Hà Nội.
127. Nhà xuất bản Chính trị quốc gia (2005), Một số văn bản của Nhà nước về
phòng, chống tham nhũng, Hà Nội.
128. Nhà xuất bản Chính trị quốc gia (2005), Văn kiện Đảng Toàn tập, Tập 1,
Hà Nội.
129. Nhà xuất bản Chính trị quốc gia (2008), Tư tưởng Hồ Chí Minh về Đảng
Cộng sản Việt Nam, Hà Nội.
130. Nhà xuất bản Công an nhân dân (2005), Từ điển Bách khoa Công an
nhân dân Việt Nam, Hà Nội.
131. Nhà xuất bản Sự thật (1970), Bộ Quốc triều hình luật, Hà Nội.
132. Nhà xuất bản Thanh tra (2002), Chủ tịch Hồ Chí Minh với công tác
Thanh tra, Hà Nội.
133. Nhà xuất bản Thông tấn (2006), Học cách chống tham nhũng - Kinh
nghiệm của báo chí nước ngoài, Hà Nội.
134. Nhà xuất bản Tư pháp (2006), Các quy định pháp luật về khiếu nại, tố
cáo và thanh tra, Hà Nội.
135. Nhà xuất bản Từ điển Bách khoa - Nhà xuất bản Tư pháp (2006), Từ điển
Luật học, Hà Nội.
136. Phạm Đình Phi (2010), “Kinh nghiệm thẩm tra, xác minh trong giải
quyết khiếu nại kỷ luật đảng”, Tạp chí Kiểm tra, (8), tr.39.
137. Phuthắc Phítthanuson (2003), Công tác kiểm tra của Đảng Nhân dân
Cách mạng Lào trong giai đoạn hiện nay, Luận án tiến sĩ Khoa học
chính trị, Học viện Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh, Hà Nội.
138. Quốc hội (2005), Luật Phòng, chống tham nhũng năm 2005, Nhà xuất
bản Chính trị quốc gia, Hà Nội.
139. Quốc hội (2005), Luật Thanh tra, Nhà xuất bản Chính trị quốc gia, Hà Nội.
140. Quốc hội (2012), Luật Khiếu nại, Nhà xuất bản Chính trị quốc gia, Hà Nội.
141. Quốc hội (2012), Luật Tố cáo, Nhà xuất bản Chính trị quốc gia, Hà Nội.
166
142. Phạm Đăng Quyền - Đặng Thị Thanh (2011), Sổ tay chiến thuật điều tra
hình sự, Nhà xuất bản Công an nhân dân, Hà Nội.
143. Chănsyseng Sômphu (2011), Chất lượng công tác kiểm tra của ủy ban
kiểm tra Đảng và Nhà nước cấp tỉnh ở các tỉnh phía Bắc nước Cộng
hoà Dân chủ Nhân dân Lào trong giai đoạn hiện nay, Luận án Tiến
sỹ Khoa học chính trị, Học viện Chính trị - Hành chính quốc gia Hồ
Chí Minh, Hà Nội.
144. Bùi Ngọc Thanh (2008), Một số vấn đề về xây dựng Đảng và công tác
cán bộ, Nhà xuất bản Chính trị quốc gia, Hà Nội.
145. Thanh tra Chính phủ (2008), Cải cách cơ chế kiểm tra tính hợp pháp của
các văn bản hành chính ở Trung Quốc, Nhà xuất bản Chính trị quốc
gia, Hà Nội.
146. Thanh tra Nhà nước (1999), Những điều cần biết về pháp luật khiếu nại,
tố cáo, Công ty In Công đoàn Việt Nam, Hà Nội.
147. Bùi Văn Thể (Chủ biên) (2009), Giải pháp nâng cao chất lượng tự phê
bình và phê bình trong công tác kiểm tra, giám sát và kỷ luật đảng,
Nhà xuất bản Chính trị quốc gia, Hà Nội.
148. Trương Thị Thông (1996), Nâng cao chất lượng đội ngũ cán bộ kiểm tra
chuyên trách của Đảng trong tình hình hiện nay, Luận án Phó Tiến sỹ
Khoa học Chính trị, Học viện Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh, Hà Nội.
149. Thông tấn xã Nam Ninh (2003), Những vấn đề nóng bỏng của các cấp
lãnh đạo Trung Quốc sau Đại hội XVI (phần I), (Tài liệu tham
khảo), Nhà xuất bản Chính trị quốc gia, Hà Nội.
150. Cao Văn Thống (2009), Tăng cường kiểm tra, giám sát phục vụ nhiệm
chính trị và công tác xây dựng Đảng, Nhà xuất bản Chính trị quốc
gia, Hà Nội.
151. Cao Văn Thống (Chủ biên) (2012), Cẩm nang về kỹ năng kiểm tra khi có
dấu hiệu vi phạm, Nhà xuất bản Chính trị quốc gia - Sự thật, Hà Nội.
152. Cao Văn Thống (Chủ biên) (2012), Đổi mới phương thức kiểm tra, giám
sát của Đảng giai đoạn hiện nay, Nhà xuất bản Chính trị quốc gia -
Sự thật, Hà Nội.
167
153. Cao Văn Thống (2013), Kinh nghiệm và giải pháp giải quyết tố cáo
trong Đảng, Nhà xuất bản Chính trị quốc gia - Sự thật, Hà Nội.
154. Cao Văn Thống (Chủ biên) (2011), Những vấn đề cơ bản về công tác
kiểm tra, giám sát và kỷ luật của Đảng, Nhà xuất bản Chính trị -
Hành chính, Hà Nội.
155. Cao Văn Thống (chủ biên) (2011), Tư tưởng Hồ Chí Minh về kiểm tra,
giám sát, kỷ luật của Đảng, Nhà xuất bản Chính trị quốc gia - Sự
thật, Hà Nội.
156. Cao Văn Thống - Đỗ Xuân Tuất (Đồng chủ biên) (2012), Nâng cao chất
lượng kiểm tra tổ chức đảng cấp dưới và đảng viên khi có dấu hiệu
vi phạm, Nhà xuất bản Chính trị - Hành chính, Hà Nội.
157. Tô Quang Thu (Chủ nhiệm) (2008), Thực trạng và giải pháp nâng cao kỹ
năng nghiệp vụ cho cán bộ kiểm tra, Đề tài khoa học cấp Bộ, Ủy
ban Kiểm tra Trung ương, Hà Nội.
158. Nguyễn Huy Thuật (2009), Sổ tay điều tra các tội phạm về trật tự xã hội,
(Sách chuyên khảo - Lưu hành nội bộ), (Tái bản, có chỉnh lý, bổ
sung), Nhà xuất bản Công an nhân dân, Hà Nội.
159. Nguyễn Huy Thuật (2010), Chiến thuật điều tra hình sự (Sách chuyên
khảo - Lưu hành nội bộ), Nhà xuất bản Công an nhân dân, Hà Nội.
160. Nguyễn Thành Tiến (Biên dịch) (2001), Trung Quốc được mùa chống
tham nhũng, Nhà xuất bản Thành phố Hồ Chí Minh, Hồ Chí Minh.
161. Trường Đại học Luật Hà Nội (2008), Giáo trình thanh tra và giải quyết
khiếu nại, tố cáo, Nhà xuất bản Công an nhân dân, Hà Nội.
162. Nguyễn Thế Tư (2004), Nâng cao chất lượng kiểm tra đảng viên khi có
dấu hiệu vi phạm của uỷ ban kiểm tra huyện uỷ ở các tỉnh duyên hải
miền Trung hiện nay, Luận án Tiến sĩ Khoa học Chính trị, Học viện
Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh, Hà Nội.
168
163. Ủy ban Kiểm tra Tỉnh ủy Yên Bái (2004), Kết hợp giải quyết tố cáo với
kiểm tra đảng viên và tổ chức đảng khi có dấu hiệu vi phạm ở Đảng
bộ tỉnh Yên Bái, Nhà xuất bản Chính trị quốc gia, Hà Nội.
164. Ủy ban Kiểm tra Trung ương (2003), Báo cáo số 133-BC/KTTW, ngày 02-
10-2003 về kiểm điểm công tác kiểm tra và kỷ luật của Đảng giữa
nhiệm kỳ, Hà Nội.
165. Uỷ ban Kiểm tra Trung ương (2005), Báo cáo số 358-BC/KTTW, ngày
13-6-2005 về tổng kết thực hiện công tác kiểm tra của Đảng trong
gần 20 năm đổi mới, Hà Nội.
166. Uỷ ban Kiểm tra Trung ương (2006), Báo cáo số 425-BC/KTTW, ngày
02-3-2006 về tổng kết công tác kiểm tra của ủy ban kiểm tra các cấp
nhiệm kỳ 2001 - 2005, Hà Nội.
167. Uỷ ban Kiểm tra Trung ương (2007), Hướng dẫn số 07-HD/UBKTTW,
ngày 11-9-2007 thực hiện Quy chế về chế độ kiểm tra, giám sát
công tác cán bộ (ban hành kèm theo Quyết định số 58-QĐ/TW,
ngày 07-5-2007 của Bộ Chính trị), Hà Nội.
168. Uỷ ban Kiểm tra Trung ương (2007), Hướng dẫn số 08-HD/UBKTTW,
ngày 28-9-2007 thực hiện Nghị quyết Hội nghị lần thứ năm Ban Chấp
hành Trung ương Đảng (khoá X) về tăng cường công tác kiểm tra,
giám sát của Đảng, Hà Nội.
169. Ủy ban Kiểm tra Trung ương (2008), Báo cáo số 220-BC/UBKTTW,
ngày 15-12-2008 về kết quả thực hiện công tác kiểm tra, giám sát và
kỷ luật đảng; việc thực hiện Quy chế làm việc của Ủy ban Kiểm tra
Trung ương trong nửa đầu nhiệm kỳ Đại hội X của Đảng, Hà Nội.
170. Ủy ban Kiểm tra Trung ương (2008), Nâng cao chất lượng chấp hành kỷ
luật và việc thi hành kỷ luật trong Đảng khu vực miền Trung - Tây
Nguyên từ năm 2001-2008, Báo cáo chuyên đề, Hà Nội.
171. Uỷ ban Kiểm tra Trung ương (2008), 60 năm truyền thống Ngành kiểm
tra Đảng, Nhà xuất bản Chính trị quốc gia, Hà Nội.
169
172. Uỷ ban Kiểm tra Trung ương (2008), Đảng và Chủ tịch Hồ Chí Minh với
công tác kiểm tra, giám sát và kỷ luật Đảng, Nhà xuất bản Chính trị
quốc gia, Hà Nội.
173. Ủy ban Kiểm tra Trung ương (2009), Công tác phục vụ đại hội đảng của
uỷ ban kiểm tra các cấp, Nhà xuất bản Thời đại, Hà Nội.
174. Ủy ban Kiểm tra Trung ương (2010), Báo cáo số 390-BC/UBKTTW,
ngày 05-10-2010 tổng kết công tác kiểm tra của ủy ban kiểm tra các
cấp nhiệm kỳ 2006-2010, Hà Nội.
175. Ủy ban Kiểm tra Trung ương (2012), Công tác kiểm tra, giám sát và thi
hành kỷ luật trong Đảng (Tài liệu hướng dẫn nghiệp vụ), Nhà xuất
bản Tài chính, Hà Nội.
176. Uỷ ban Kiểm tra Trung ương (2012), Hướng dẫn số 03-HD/UBKTTW,
ngày 15-3-2012 thực hiện Quy định số 47-QĐ/TW, ngày 01-11-2011
của Ban Chấp hành Trung ương về những điều đảng viên không
được làm, Hà Nội.
177. Uỷ ban Kiểm tra Trung ương (2012), Hướng dẫn số 04-HD/UBKTTW,
ngày 15-3-2012 về công tác kiểm tra, giám sát thực hiện Nghị quyết
Hội nghị lần thứ tư Ban Chấp hành Trung ương Đảng (khoá XI)
"Một số vấn đề cấp bách về xây dựng Đảng hiện nay", Hà Nội.
178. Uỷ ban Kiểm tra Trung ương (2012), Hướng dẫn số 05-HD/UBKTTW,
ngày 17-4-2012 thực hiện Quy định về công tác kiểm tra của tổ chức
đảng đối với việc tu dưỡng, rèn luyện đạo đức của cán bộ, đảng
viên, Hà Nội.
179. Uỷ ban Kiểm tra Trung ương (2012), Kế hoạch số 52-HD/UBKTTW,
ngày 23-3-2012 thực hiện Thông báo kết luận của Bộ Chính trị sơ
kết trên 4 năm thực hiện nghị quyết Trung ương 6 (khoá X) về tăng
cường công tác kiểm tra, giám sát của Đảng, Hà Nội.
180. Uỷ ban Kiểm tra Trung ương (2012), Quy trình tiến hành công tác kiểm
tra, giám sát và thi hành kỷ luật đảng của Uỷ ban Kiểm tra Trung
170
ương (ban hành kèm theo Quyết định số 1084-QĐ/UBKTTW, ngày
05-12-2012), Hà Nội.
181. Uỷ ban Kiểm tra Trung ương (2013), 65 năm truyền thống Ngành kiểm
tra Đảng, Nhà xuất bản Chính trị quốc gia, Hà Nội.
182. Uỷ ban Kiểm tra Trung ương, Các Báo cáo của các đoàn công tác Uỷ ban
Kiểm tra Trung ương về kết quả nghiên cứu, học tập, trao đổi kinh
nghiệm về công tác kiểm tra, kỷ luật của Đảng tại Trung Quốc, Lào;
về phòng, chống tham nhũng tại Trung Quốc, Australia, Singapore,
Đức, Italia, Pháp, Hàn Quốc, kết quả tham dự các Hội thảo quốc tế
về công tác phòng, chống tham nhũng tại Mỹ, Anh, Malaysia...
183. Uỷ ban Kiểm tra Trung ương (2013), Hệ thống mẫu văn bản nghiệp vụ về
công tác kiểm tra, giám sát và thi hành kỷ luật đảng (ban hành kèm
theo Quyết định số 1403-QĐ/UBKTTW, ngày 29-7-2013), Hà Nội.
184. Uỷ ban Kiểm tra Trung ương (2013), Hướng dẫn số 09-HD/UBKTTW, ngày
06-6-2013 thực hiện một số điều của Quy định số 181-QĐ/TW, ngày
30-3-2013 của Bộ Chính trị về xử lý kỷ luật đảng viên vi phạm Hà Nội.
185. Uỷ ban Kiểm tra Trung ương (2013), Quy định về phát hiện, xác định
dấu hiệu vi phạm, quyết định kiểm tra tổ chức đảng cấp dưới, đảng
viên khi có dấu hiệu vi phạm (ban hành kèm theo Quyết định số
1319-QĐ/UBKTTW, ngày 10-6-2013), Hà Nội.
186. Uỷ ban Kiểm tra Trung ương (2013), Quy định số 08-QĐ/UBKTTW,
ngày 18-6-2013 về tổ chức, hoạt động của đoàn kiểm tra, giám sát
của Uỷ ban Kiểm tra Trung ương, Hà Nội.
187. Uỷ ban Kiểm tra Trung ương (2013), Thông báo Kết luận số 433-
TB/UBKTTW, ngày 09-5-2013 làm rõ một số vấn đề về công tác
kiểm tra, giám sát, kỷ luật đảng, Hà Nội.
188. Uỷ ban Kiểm tra Kỷ luật Trung ương Đảng Cộng sản Trung Quốc
(2012), Báo cáo công tác trình Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ
XVIII (thông qua tại Đại hội Đại biểu toàn quốc lần thứ XVIII Đảng
171
Cộng sản Trung Quốc, ngày 14-11-2012), Bản dịch của Vụ Trung
Quốc - Đông Bắc Á, Ban Đối ngoại Trung ương.
189. Ủy ban Thường vụ Quốc hội (2005), Pháp lệnh Chống tham nhũng và văn
bản hướng dẫn thi hành, Nhà xuất bản Chính trị quốc gia Hà Nội.
190. Uỷ ban Thường vụ Quốc hội (2008), Báo cáo kết quả giám sát việc thi
hành pháp luật về khiếu nại, tố cáo, Hà Nội.
191. Văn phòng Ban Chỉ đạo Trung ương về phòng, chống tham nhũng
(2009), Một số văn bản của Đảng và Nhà nước về phòng, chống
tham nhũng, Nhà xuất bản Công an nhân dân, Hà Nội.
192. Văn phòng Ban Chỉ đạo Trung ương về phòng, chống tham nhũng, Bản
tin phòng, chống tham nhũng, số 31 (tháng 2/2010), số 32 (tháng
8/2010) số 34 (10/2010), số 37 (01/2011), số 38 (02/2011).
193. Viện Chiến lược và Khoa học Công an (2005), Từ điển Bách khoa Công
an nhân dân Việt Nam, Nhà xuất bản Công an nhân dân, Hà Nội.
194. Viện Khoa học Pháp lý (2006), Từ điển Luật học, Nhà xuất bản Từ điển
bách khoa - Nhà xuất bản Tư pháp, Hà Nội.
195. Viện Nghiên cứu Khoa học Công an (1977), Từ điển Nghiệp vụ phổ
thông, Hà Nội.
196. Viện Ngôn ngữ học (2000), Từ điển Tiếng Việt, Nhà xuất bản Đà Nẵng.
197. Hồng Vĩ (2004), Các biện pháp chống tham nhũng ở Trung Quốc (Sách
tham khảo), Nhà xuất bản Chính trị quốc gia, Hà Nội.
198. Nguyễn Như Ý (Chủ biên) (1999), Từ điển Tiếng Việt, Nhà xuất bản Văn
hóa Thông tin, Hà Nội.
172
PHỤ LỤC
1. Nguồn: Các Báo cáo của Uỷ ban Kiểm tra Trung ương về tổng kết
công tác kiểm tra của ủy ban kiểm tra các cấp nhiệm kỳ Đại hội IX (2001-
2006), nhiệm kỳ Đại hội X (2006-2011), năm 2011, năm 2012, năm 2013.
2. Chú thích các chữ viết tắt trong phần Phụ lục:
BTV : ban thường vụ
THKL : thi hành kỷ luật
UBKT : uỷ ban kiểm tra
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- luan_an_tham_tra_xac_minh_trong_cong_tac_kiem_tra_cua_dang_g.pdf