VIỆN HÀN LÂM
KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM
HỌC VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI
-------- --------
NGUYỄN THỊ NGÀ
TáC ĐộNG CủA ĐạO TIN LàNH ĐếN AN NINH Xã HộI
ở TÂY NGUYÊN THờI Kỳ ĐổI MớI
LUẬN ÁN TIẾN SĨ TRIẾT HỌC
HÀ NỘI - 2016
VIỆN HÀN LÂM
KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM
HỌC VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI
-------- --------
NGUYỄN THỊ NGÀ
TáC ĐộNG CủA ĐạO TIN LàNH ĐếN AN NINH Xã HộI
ở TÂY NGUYÊN THờI Kỳ ĐổI MớI
Chuyờn ngành: CNDVBC&CNDVLS
Mó số: 62 22 03 02
LUẬN ÁN TIẾN S
218 trang |
Chia sẻ: huong20 | Ngày: 14/01/2022 | Lượt xem: 420 | Lượt tải: 1
Tóm tắt tài liệu Luận án Tác động của đạo tin lành đến an ninh xã hội ở Tây Nguyên thời kỳ đổi mới, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
SĨ TRIẾT HỌC
NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC
PGS.TS LÊ VĂN CƯƠNG
HÀ NỘI - 2016
LỜI CAM ĐOAN
Luận án là công trình khoa học độc lập của tác giả, mọi
trích dẫn đều có xuất xứ rõ ràng. Tác giả xin chịu mọi trách
nhiệm về công trình của mình./.
Hà Nội, ngày tháng năm 2016
TÁC GIẢ
Nguyễn Thị Ngà
MỤC LỤC
Trang
Trang phụ bìa
Lời cam đoan
Mục lục 1
Danh mục các chữ viết tắt trong luận án 2
MỞ ĐẦU 3
CHƯƠNG 1 TỔNG QUAN TÌNH HÌNH NGHIÊN CỨU LIÊN QUAN ĐẾN 10
ĐỀ TÀI
1.1. Các công trình nghiên cứu liên quan đến đạo Tin Lành 10
1.2. Các công trình nghiên cứu liên quan đến đạo Tin Lành với vấn 15
đề an ninh xã hội ở Tây Nguyên
1.3. Các công trình nghiên cứu liên quan đến quan điểm, giải pháp 19
phát huy tác dụng tích cực và hạn chế tác động tiêu cực của đạo
Tin Lành tới an ninh xã hội ở Tây Nguyên
CHƯƠNG 2 KHÁI QUÁT VỀ ĐẠO TIN LÀNH VÀ VẤN ĐỀ AN NINH 24
XÃ HỘI Ở TÂY NGUYÊN
2.1. Những đặc điểm liên quan đến sự du nhập đạo Tin Lành ở Tây 24
Nguyên
2.2. Qúa trình phát triển đạo Tin Lành ở Tây Nguyên 42
2.3. Một số vấn đề lý thuyết về an ninh xã hội ở Tây Nguyên 54
CHƯƠNG 3 TÁC ĐỘNG TÍCH CỰC VÀ TIÊU CỰC CỦA ĐẠO TIN 72
LÀNH ĐẾN AN NINH XÃ HỘI Ở TÂY NGUYÊN, NGUYÊN
NHÂN VÀ NHỮNG VẤN ĐỀ ĐẶT RA
3.1. Thực trạng tác động của đạo Tin Lành đến an ninh xã hội ở Tây 72
Nguyên hiện nay
3.2. Nguyên nhân gia tăng ảnh hưởng tiêu cực của đạo Tin Lành đến 85
an ninh xã hội ở Tây Nguyên hiện nay
3.3. Một số vấn đề về nhận thức và thực tiễn đặt ra trong công tác đối 98
với đạo Tin Lành ở Tây Nguyên
CHƯƠNG 4 DỰ BÁO TÌNH HÌNH ĐẠO TIN LÀNH Ở TÂY NGUYÊN VÀ 116
GIẢI PHÁP ĐỐI VỚI ĐẠO TIN LÀNH TỪ PHƯƠNG DIỆN
BẢO ĐẢM AN NINH XÃ HỘI TRÊN ĐỊA BÀN
4.1. Dự báo tình hình đạo Tin Lành trong vùng đồng bào dân tộc 116
thiểu số ở Tây Nguyên
4.2. Một số giải pháp đối với đạo Tin Lành ở Tây Nguyên trong thời gian 124
tới
KẾT LUẬN 144
Danh mục các công trình khoa học đã công bố 147
Tài liệu tham khảo 148
Phụ lục 161
1
DANH MỤC CÁC CHỮ VIẾT TẮT TRONG LUẬN ÁN
ANXH : An ninh xã hội.
ANQG : An ninh quốc gia.
CMA : Hội truyền giáo phúc âm liêp hiệp Mỹ.
CNXH : Chủ nghĩa xã hội.
DTTS : Dân tộc thiểu số
FULRO : Mặt trận đoàn kết giải phóng các dân tộc bị áp bức.
2
MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Tôn giáo với tư cách là một trong số các hình thái ý thức xã hội ra đời
trong những điều kiện phát triển nhất định của xã hội. Trong từng giai đoạn
lịch sử khác nhau, tôn giáo có những tác động nhất định tới sự phát triển
của xã hội. Đồng thời đây cũng là vấn đề hết sức nhạy cảm trong đời sống
chính trị xã hội của mỗi quốc gia, nhất là khi tôn giáo có quan hệ trực tiếp
với vấn đề dân tộc. Lịch sử nhân loại đã từng chứng kiến các cuộc xung đột
sắc tộc mang màu sắc tôn giáo làm đảo lộn nhiều thể chế chính trị của nhiều
quốc gia trên thế giới. Điều đó khẳng định tính nhạy cảm và phức tạp của
vấn đề tôn giáo, đòi hỏi mỗi quốc gia muốn duy trì sự ổn định chính trị, giữ
vững an ninh quốc gia phải quan tâm, hoạch định chính sách tôn giáo của
nước mình. Trong tiến trình phát triển của mỗi quốc gia, vấn đề tôn giáo
luôn nảy sinh những khía cạnh mới cần phải giải quyết trên cả phương diện
lý luận lẫn thực tiễn.
Việt Nam là một nước có nhiều tôn giáo. Suốt quá trình cách mạng
Việt Nam, với chính sách tôn giáo đúng đắn của Đảng và Nhà nước ta, đông
đảo tín đồ các tôn giáo đã đoàn kết cùng đồng bào không theo đạo hợp thành
khối thống nhất trong Mặt trận Tổ quốc Việt Nam, đóng góp vào sự nghiệp
xây dựng và bảo vệ Tổ quốc. Song, trước tình hình phức tạp của thế giới và
khu vực, vấn đề tôn giáo ở nước ta cũng đặt ra nhiều yêu cầu cần giải quyết
để tăng cường khối đại đoàn kết dân tộc, giữ vững ổn định chính trị - xã hội,
thực hiện thắng lợi công cuộc đổi mới do Đảng Cộng sản Việt Nam lãnh đạo.
Trong lịch sử dân tộc, vấn đề tôn giáo đã từng bị chủ nghĩa đế quốc lợi
dụng phục vụ cho âm mưu xâm lược và chống phá cách mạng Việt Nam.
Hiện nay, trong âm mưu “diễn biến hoà bình” để chống phá Nhà nước ta, các
thế lực thù địch vẫn sử dụng “con bài tôn giáo” để thực hiện mục đích đó.
3
Ở nước ta, sau giải phóng miền Nam thống nhất đất nước, tình hình tôn
giáo nói chung và tôn giáo trong các vùng đồng bào dân tộc thiểu số (DTTS)
miền núi nói riêng, đặc biệt ở Tây Nguyên, có nhiều diễn biến đa dạng, phức tạp.
Sự xuất hiện của đạo Tin Lành ở Tây Nguyên đã có những tác động đáng kể
tới tình hình chính trị xã hội ở cả khía cạnh tích cực và tiêu cực. Tin Lành đã
đáp ứng được nhu cầu sinh hoạt tinh thần của đồng bào DTTS, đồng thời tạo
ra nếp sống mới phù hợp với sự phát triển của xã hội, gạt bỏ được một số hủ
tục lạc hậu...Bên cạnh đó, sự xuất hiện của đạo Tin Lành ở Tây Nguyên cũng
có một số tác động tiêu cực tới kinh tế, văn hoá, chính trị xã hội trong đó
nổi lên vấn đề đạo Tin Lành xâm nhập, phát triển có tính chất đột biến, không
bình thường ở Tây Nguyên – Trường Sơn. Điều này đã tác động đến tình hình
chính trị, tư tưởng, văn hoá và tâm lý xã hội, nhất là gây mâu thuẫn phân hoá
ngay trong nội bộ từng dân tộc và ảnh hưởng xấu đến quan hệ giữa các dân tộc,
giữa bộ phận quần chúng theo đạo và người không theo đạo, với Đảng, với chính
quyền. Tình hình đó đã tạo ra yếu tố gây mất ổn định xã hội, ảnh hưởng xấu đến
sản xuất, đời sống và an ninh trật tự ở nhiều vùng dân tộc. Các thế lực thù địch
tìm mọi cách khai thác, lợi dụng vấn đề này để phá hoại tư tưởng, lôi kéo quần
chúng, chia rẽ dân tộc, kích động các phần tử bất mãn, đối lập chống lại Đảng,
chế độ và Nhà nước xã hội chủ nghĩa Việt Nam.
Sự phục hồi và phát triển của các tín ngưỡng, tôn giáo trong các vùng
DTTS ở Việt Nam - sự đan quyện hai yếu tố dân tộc và tôn giáo, nhất là sự phát
triển mạnh, không bình thường của đạo Tin Lành vào vùng DTTS ở Tây Nguyên
là một hiện tượng mới, đòi hỏi phải tập trung đầu tư nghiên cứu theo chiều sâu,
đánh giá đúng thực trạng và đề ra giải pháp phù hợp.
Tây Nguyên là một địa bàn có vị trí chiến lược về an ninh quốc phòng,
cũng như phát triển kinh tế xã hội và môi trường sinh thái. Yêu cầu ổn định chính
trị - xã hội và phát triển bền vững vùng đồng bào DTTS ở Tây Nguyên hiện nay
đang đặt ra nhiều vấn đề bức xúc cần giải quyết. Một trong những vấn đề nổi lên
4
hàng đầu vào những năm gần đây là sự phát triển đột biến của đạo Tin Lành đã
và đang gây ra nhiều hậu quả phức tạp, tác động đến mối quan hệ nội bộ dân tộc,
giữa quần chúng theo Tin Lành với tổ chức Đảng và chính quyền địa phương làm
ảnh hưởng đến an ninh xã hội. Sự thiếu thống nhất trong nhận thức, đánh giá về
Tin Lành và vận dụng chính sách dân tộc, tôn giáo của Đảng của một số cấp uỷ,
chính quyền và ban ngành địa phương nơi có đồng bào theo Tin Lành đã dẫn tới
tình trạng lúng túng, thiếu nhất quán, không đồng bộ và kém hiệu quả trong chỉ
đạo, giải quyết vấn đề truyền đạo Tin Lành trái phép.
Các thế lực thù địch đang ra sức tập trung tấn công xoá bỏ chủ nghĩa xã
hội bằng chiến lược “diễn biến hoà bình”, đồng thời tạo cớ răn đe, can thiệp bằng
bạo lực khi có điều kiện. Đồng thời lợi dụng chính sách mở cửa, đổi mới của ta
để xâm nhập các vùng dân tộc ít người; lợi dụng những khó khăn, thiếu sót trong
việc chăm lo đời sống vật chất và tinh thần đối với đồng bào để lôi kéo quần
chúng bằng kinh tế, văn hoá; lợi dụng những sơ hở, thiếu sót của ta trong việc xử
lý các vấn đề tôn giáo và dân tộc để chia rẽ, kích động quần chúng hòng tạo nhân
tố mất ổn định chính trị kéo dài, phá hoại công cuộc xây dựng đất nước của nhân
dân ta. Trong các vùng đồng bào DTTS, Tây Nguyên là một tâm điểm mà từ lâu
các thế lực thù địch đặc biệt chú ý.
Chính vì vậy, giải quyết vấn đề này là nhiệm vụ hết sức cấp bách và đã
được các cấp ủy Đảng, chính quyền nói chung, lực lượng công an nói riêng, đặc
biệt quan tâm nhằm đảm bảo sự ổn định và phát triển bền vững ở vùng đồng bào
DTTS tại Tây Nguyên. Nhiều giải pháp được đặt ra trong công tác đối với đạo
Tin Lành nhưng kết quả vẫn còn hạn chế. Trên thực tế, đạo Tin Lành đang tồn tại
và phát triển một cách khó kiểm soát. Hơn thế nữa, phản ứng của quần chúng tín
đồ và các đối tượng lợi dụng hoạt động tôn giáo đối với những biện pháp đó làm
cho tình hình thêm phức tạp.
Thực trạng diễn biến của đạo Tin Lành ở Tây Nguyên hiện nay rất cần
thiết phải có những nghiên cứu khoa học để xem xét, đánh giá, từ đó tìm ra
5
những nguyên nhân, bài học kinh nghiệm trong công tác quản lý. Trên cơ sở đó,
đề xuất các giải pháp có tính khả thi trong thực hiện chính sách tôn giáo trong
vùng đồng bào DTTS ở Tây Nguyên.
Từ những lý do trên, việc nghiên cứu đề tài “Tác động của đạo Tin Lành
đến an ninh xã hội ở Tây Nguyên thời kỳ đổi mới” thực sự mang tính cấp bách
và có ý nghĩa quan trọng trên cả phương diện lý luận và thực tiễn.
2. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu
2.1. Mục đích:
Từ lý luận, quan điểm của Đảng và Nhà nước ta về tôn giáo nói chung và
Tin Lành nói riêng và thực tế tình hình tại Tây Nguyên để làm rõ những tác động
của đạo Tin Lành đối với an ninh xã hội ở Tây Nguyên, qua đó đề ra một số giải
pháp nhằm hạn chế những ảnh hưởng tiêu cực, phát huy những tác động tích cực
của đạo Tin Lành tại địa bàn.
2.2. Nhiệm vụ:
+ Trình bày khái quát về đạo Tin Lành, đặc điểm và tình hình phát triển
của đạo Tin Lành ở Tây Nguyên.
+ Làm rõ thực trạng tác động của đạo Tin Lành tới an ninh xã hội ở Tây
Nguyên hiện nay.
+ Trên cơ sở lý luận và thực tiễn, dự báo xu hướng tác động và đề xuất
những giải pháp cơ bản nhằm phát huy tác động tích cực và hạn chế tác động tiêu
cực của đạo Tin Lành tới an ninh xã hội, đảm bảo sự ổn định để phát triển kinh tế,
văn hóa, xã hội tại địa bàn theo đúng chủ trương, đường lối, chính sách của Đảng
và Nhà nước.
3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu của luận án:
3.1. Đối tượng nghiên cứu:
Đề tài tập trung nghiên cứu về tác động của đạo Tin Lành tới vấn đề an
ninh xã hội ở Tây Nguyên.
6
3.2. Phạm vi nghiên cứu:
Đạo Tin Lành hiện diện ở hầu hết các vùng, miền từ thành thị, nông thôn
tới vùng đồng bào DTTS. Nhưng do điều kiện thời gian, nên luận án chỉ tập trung
nghiên cứu tác động của đạo Tin Lành tới vấn đề an ninh xã hội ở Tây Nguyên
(vùng đồng bào DTTS) từ sau đổi mới (1986) đến nay. Đề tài có đề cập đến một
số vấn đề chung và tình hình trong quá khứ để đảm bảo tính hệ thống và làm cơ
sở so sánh, phân tích làm rõ thực trạng.
4. Cơ sở lý luận và phương pháp nghiên cứu
4.1. Cơ sở lý luận và thực tiễn:
- Luận án được thực hiện trên cơ sở lý luận của chủ nghĩa Mác – Lênin, tư
tưởng Hồ Chí Minh về tôn giáo; quan điểm của Đảng Cộng sản Việt Nam về
chính sách dân tộc và tôn giáo, chính sách phát triển bền vững vùng Tây Nguyên;
Văn kiện Đại hội đại biểu Đảng Cộng sản Việt Nam, Nghị quyết của Trung ương,
tài liệu của các cấp ủy Đảng, chính quyền các tỉnh Tây Nguyên hiện nay có liên
quan đến đề tài.
- Cơ sở thực tiễn là tình hình phát triển kinh tế, văn hóa, xã hội đặc biệt là
tình hình đạo Tin Lành ở Tây Nguyên hiện nay.
4.2. Phương pháp nghiên cứu
Luận án được thực hiện trên cơ sở phương pháp luận khoa học của Chủ
nghĩa Mác – Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh, các phương pháp nghiên cứu triết
học tôn giáo, xã hội học tôn giáo, chính trị học, các phương pháp lịch sử và lôgic,
tổng kết thực tiễn, chuyên gia, phân tích tổng hợp, so sánh, điền dã
7
Khung lý thuyết của luận án
- Quan điểm của Chủ nghĩa Mác – Lênin về tôn giáo
- Quan điểm Đảng và Nhà nước về tôn giáo nói chung và đạo Tin Lành
nói riêng
- Đặc điểm - Dự báo tình hình
tín ngưỡng, đạo Tin Lành ở
tôn giáo ở
Tây Nguyên trong
Tây Nguyên thời gian tới.
- Đặc điểm Tác động tích cực và
tiêu cực của - Giải pháp phát
của đạo Tin huy tác động tích
Lành ở Tây đạo Tin Lành đến
ANXH cực, hạn chế tác
Nguyên động tiêu cực của
ở Tây Nguyên
hiện nay đạo Tin Lành đến
ANXH ở Tây
Nguyên hiện nay
- Tình hình kinh tế - xã hội ở Tây Nguyên
- Một số vấn đề lý thuyết về ANXH và ANXH ở Tây Nguyên.
5. Đóng góp mới của luận án
- Làm rõ thực trạng tác động của đạo Tin Lành tới an ninh xã hội ở Tây
Nguyên hiện nay.
- Dự báo về xu hướng phát triển và đề xuất một số giải pháp cơ bản nhằm
phát huy tác động tích cực và hạn chế tác động tiêu cực của đạo Tin Lành tới an
ninh xã hội ở Tây Nguyên trong bối cảnh hiện nay.
6. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn của luận án
- Kết quả nghiên cứu của luận án góp phần làm rõ những tác động của đạo
Tin Lành tới an ninh xã hội ở Tây Nguyên, cung cấp luận cứ khoa học cho công
tác quản lý đối với đạo Tin Lành trong vùng đồng bào DTTS ở Tây Nguyên, góp
phần thực hiện có hiệu quả chính sách dân tộc và chính sách tôn giáo ở địa bàn
Tây Nguyên.
8
- Luận án được vận dụng có thể giúp các cơ quan và cán bộ làm công tác
quản lý đạo Tin Lành ở Tây Nguyên hiện nay được tốt hơn, góp phần phát huy
những giá trị tích cực của đạo Tin Lành và hạn chế những yếu tố tiêu cực tác
động đến an ninh xã hội trong cộng đồng DTTS ở Tây Nguyên.
- Luận án có thể dùng làm tài liệu tham khảo cho nghiên cứu, giảng dạy và
học tập môn Tôn giáo học, Dân tộc học, Đường lối cách mạng của Đảng Cộng
sản Việt Namtrong hệ thống các trường Đảng, trường đại học và cao đẳng.
Luận án cũng là tài liệu bổ ích cho những ai quan tâm nghiên cứu đạo Tin Lành
nói chung và đạo Tin Lành trong cộng đồng DTTS ở Tây Nguyên nói riêng.
7. Kết cấu của luận án
Ngoài phần Mở đầu, Kết luận, Danh mục tài liệu tham khảo, Phụ lục, Luận
án gồm có 4 chương, 11 tiết
9
CHƯƠNG 1
TỔNG QUAN TÌNH HÌNH NGHIÊN CỨU
LIÊN QUAN ĐẾN ĐỀ TÀI
1.1. Các công trình nghiên cứu liên quan đến đạo Tin Lành
Đạo Tin Lành là một tôn giáo có nhiều hệ phái, phát triển ở nhiều nước trên
thế giới, trong đó có Việt Nam. Đạo Tin Lành được nhiều học giả trong và ngoài
nước nghiên cứu, có thể kể tới một số công trình nghiên cứu tiêu biểu sau:
- Nền đạo đức Tin Lành và tinh thần của chủ nghĩa tư bản của Max
Weber, (2010), Bùi Văn Nam Sơn, Nguyễn Nghị, Nguyễn Tùng, Trần Hữu
Quang dịch, Nhà xuất bản Tri thức, Hà Nội.
- Lịch sử đạo Tin Lành của tác giả Jean Bau Be’rot do Trần Sa dịch,
(2006), Nhà xuất bản Thế giới, Hà Nội.
- Bài viết “Một số ý kiến về việc xem xét, công nhận tư cách pháp nhân các
hệ phái, tổ chức Tin Lành ở Việt Nam hiện nay” của tác giả Trần Minh Thư đăng
trên Tạp chí Công an nhân dân số 12 – 2005.
- Một số vấn đề cơ bản về tôn giáo ở Việt Nam hiện nay, GS.TS Đỗ Quang
Hưng chủ biên, (2006), Viện Khoa học xã hội Việt Nam, Viện Nghiên cứu tôn
giáo, Hà Nội.
- Bước đầu tìm hiểu đạo Tin Lành trên thế giới và ở Việt Nam của tác giả
Nguyễn Thanh Xuân, (2002), Nhà xuất bản Tôn giáo, Hà Nội.
- Bài viết “Vài nhận biết về Tin Lành Mỹ” của tác giả Đỗ Quang Hưng
đăng trên Tạp chí Nghiên cứu Tôn giáo số 01 – 2003.
- Bài viết “Mối quan hệ giữa Nhà nước Việt Nam với các tổ chức Tin Lành
hiện nay” của tác giả Nguyễn Hồng Dương đăng trên Tạp chí Nghiên cứu Tôn
giáo số 10 – 2011.
- Bài viết “Vài nét tương đồng trong đạo đức Tin Lành và đạo đức truyền
thống” của tác giả Mã Phúc Thanh Tươi đăng trên Tạp chí Nghiên cứu Tôn giáo
số 2 – 2011.
10
- Vấn đề đạo Tin Lành trong đồng bào dân tộc Hmong và Dao ở các tỉnh
miền núi phía Bắc Việt Nam, Nguyễn Khắc Đức, (2011), Luận án tiến sĩ Tôn giáo
học, Hà Nội.
Ở nhiều góc độ tiếp cận khác nhau, các công trình nghiên cứu đã khái quát
những nét chung nhất về sự ra đời, quá trình hình thành và phát triển của đạo Tin
Lành, giáo lý, giáo luật, lễ nghi và hệ thống tổ chức của đạo Tin Lành; quá trình
du nhập và phát triển đạo Tin Lành ở Việt Nam. Trong đó nổi bật là công trình
“Bước đầu tìm hiểu đạo Tin Lành trên thế giới và ở Việt Nam” của tác giả
Nguyễn Thanh Xuân. Công trình là tư liệu có giá trị, giúp nghiên cứu sinh có cái
nhìn tổng thể về đạo Tin Lành ở Việt Nam nói chung, từ đó có cơ sở để nghiên
cứu về đạo Tin Lành ở Tây Nguyên nói riêng.
Một đề tài được thực hiện gần đây đã thu hút được sự chú ý, quan tâm của
giới nghiên cứu đó là đề tài khoa học cấp nhà nước “Một số vấn đề cơ bản về tôn
giáo ở Việt Nam hiện nay” do Viện Khoa học xã hội Việt Nam (nay là Viện Hàn
lâm Khoa học xã hội Việt Nam) – Viện Nghiên cứu Tôn giáo thực hiện năm 2006,
Chủ nhiệm đề tài GS.TS Đỗ Quang Hưng. Mặc dù không trực tiếp nghiên cứu về
đạo Tin Lành nhưng công trình là nguồn tài liệu quý giúp nghiên cứu sinh có cái
nhìn tổng quan về tôn giáo ở Việt Nam nói chung và Tin Lành nói riêng.
Mục tiêu của đề tài là khảo sát, nghiên cứu một số vấn đề cơ bản của các
tôn giáo chính ở Việt Nam hiện nay nhằm: làm rõ thực trạng, đặc điểm của các
tôn giáo chính ở Việt Nam đặc biệt từ năm 1990 trở lại đây khi Đảng Cộng sản
Việt Nam và Nhà nước Việt Nam bắt đầu thực hiện chính sách đổi mới về tôn
giáo, tín ngưỡng; tạo cái nhìn có chiều sâu về những vấn đề cập nhật nhất của mỗi
tôn giáo, làm cơ sở khoa học cho việc từng bước hoàn thiện đường lối, chính sách
tôn giáo của Đảng, Nhà nước ta hiện nay. Với mục tiêu nêu trên, trong nội dung
nghiên cứu đề tài đã tâp trung vào những vấn đề sau:
- Vận dụng các luận điểm cơ bản, phương pháp giải quyết vấn đề tôn giáo
của chủ nghĩa Mác – Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, đường lối đổi mới của Đảng
11
Cộng sản Việt Nam vào thực tiễn đời sống tôn giáo ở Việt Nam hiện nay (chủ
yếu từ 1990 đến nay, khi có NQ 24 của Bộ Chính trị Đảng Cộng sản Việt Nam về
tôn giáo, vốn được coi là một bước ngoặt của Đảng Cộng sản Việt Nam trong
việc giải quyết vấn đề tôn giáo).
- Tình hình, đặc điểm cơ bản của hệ thống tôn giáo ở Việt Nam hiện nay
trong điều kiện kinh tế thị trường và mở cửa.
- Các tôn giáo chính thức ở nước ta hiện nay và những vấn đề của chúng.
- Các tôn giáo trong sự nghiệp đổi mới đất nước hiện nay.
- Hệ thống pháp lý về tôn giáo của Việt Nam hiện nay và ảnh hưởng (tích
cực và hạn chế) đến đời sống các tôn giáo. Những vấn đề đặt ra với luật pháp về
tôn giáo ở nước ta hiện nay.
- Những giải pháp và kiến nghị nhìn từ góc độ nghiên cứu những vấn đề
cơ bản của các tôn giáo chủ yếu ở nước ta hiện nay.
Từ những nội dung nghiên cứu trên, công trình đã đưa ra một số kết
luận sau:
- Thứ nhất, nói chung các tôn giáo ở nước ta đang có sự phát triển khá
mạnh cả về số lượng tín đồ và đời sống thực hành tôn giáo, trong đó có những tôn
giáo có sự phát triển đột biến (như Phật giáo, Công giáo và Tin Lành).
- Thứ hai, các tôn giáo nói chung đều có xu hướng đồng hành với dân tộc,
với chủ nghĩa xã hội, với đất nước đang đổi mới vì sự nghiệp dân giàu, nước
mạnh, xã hội dân chủ, công bằng, văn minh.
- Thứ ba, các tôn giáo đều hoạt động trong khuôn khổ của Hiến pháp và
Pháp luật của Nhà nước.
- Thứ tư, các tôn giáo đều đang biến đổi để “thích nghi” hơn nữa với đời
sống dân tộc và xã hội trong bối cảnh mới.
- Thứ năm, ngoài những xu hướng, những đường nét thể hiện sự tích cực,
những điểm sáng nói trên trong các hoạt động tôn giáo, cũng không thể bỏ qua
một thực tiễn khác. Đó là xu thế lợi dụng vấn đề tôn giáo của các thế lực thù địch
12
chống phá nhà nước ta, phá hoại khối đại đoàn kết dân tộc, thực hiện mưu đồ
“diễn biến hòa bình”, thực hành chủ nghĩa ly khai với những động thái, phương
thức hành động mới, thách đố an ninh quốc gia, an toàn xã hội, cô lập nước ta
trên trường quốc tế.
Đồng thời đề tài cũng đưa ra một số giải pháp đáng chú ý như:
Cần tiếp tục đổi mới tư duy, nhận thức về tôn giáo và vấn đề tôn giáo.
Cụ thể là: trước hết chúng ta đã thừa nhận tôn giáo là một thực thể xã hội
khách quan, còn tồn tại lâu dài, cần tiến thêm một bước mới cũng có tính đột
phá là cần tạo điều kiện để thực thể xã hội ấy có thể thực sự thích ứng với
CNXH, cần tạo điều kiện cho nó được tham gia vào một số lĩnh vực văn hóa
xã hội, kinh tế và văn hóa giáo dục thích hợp, từng bước. Tiếp đến là việc
giải quyết tốt hơn quan hệ Nhà nước và các giáo hội. Tiếp tục hoàn thiện luật
pháp tôn giáo, triển khai có hiệu quả hơn những quyết sách gần đây của Đảng
và Nhà nước về tôn giáo. Giải quyết tốt hơn mối quan hệ quốc tế của các tôn
giáo. Cần chú trọng tới công tác đào tạo, bồi dưỡng cán bộ làm công tác
nghiên cứu, giảng dạy và quản lý về tôn giáo .
Tóm lại, công trình nghiên cứu này đã đề cập tới những vấn đề cấp bách
trong đời sống tôn giáo ở nước ta hiện nay, một công việc được xem như bước
đầu phác họa bộ mặt tôn giáo ở nước ta trên con đường đồng hành cùng dân tộc
trong sự nghiệp đổi mới đất nước hiện nay.
Ở góc độ nghiên cứu của riêng mình, nghiên cứu sinh rất quan tâm tới
quan điểm thứ năm (đã được đề cập ở trên) của đề tài vì có mối liên hệ với đề tài
luận án sẽ triển khai. Công trình nghiên cứu đã có một nhận định rất rõ ràng về xu
thế lợi dụng vấn đề tôn giáo của các thế lực thù địch để chống phá Nhà nước ta.
Đó có thể là việc các thế lực thù địch từ bên ngoài, nắm lấy các phần tử chống đối
trong các tôn giáo, nuôi dưỡng để tạo thành “ngọn cờ”, phục hồi các tổ chức tôn
giáo đối lập chống đối; có thể là quyết liệt hơn, kích động tư tưởng ly khai, tự trị,
thông qua vấn đề tôn giáo, dân tộc để gây mất ổn định chính trị - xã hội hoặc bạo
13
loạn chính trị ở như Tây Nguyên (tháng 2/2001 và tháng 4/2004). Cũng có thể là
một phương thức thường xuyên lâu dài, lợi dụng vấn đề “tự do tôn giáo - nhân
quyền”, kích động tâm lý đòi dân chủ ở nước ta để tấn công về ngoại giao, cô lập
nước ta về mặt “Công ước Quốc tế”, tiến đến bao vây, kiểm soát sự phát triển
kinh tế - xã hội ở nước ta.
Đây là một điểm nhấn rất có ý nghĩa của đề tài khi nghiên cứu về những
vấn đề cơ bản của tôn giáo ở Việt Nam hiện nay. Tuy nhiên đề tài có hạn chế ở
chỗ mới đưa ra nhận định đối với các tôn giáo nói chung mà chưa có được một sự
triển khai cụ thể đối với từng tôn giáo trong lĩnh vực này. Chẳng hạn, đối với đạo
Tin Lành, một tôn giáo du nhập vào Việt Nam có sự phát triển nhanh chóng như
hiện nay đặc biệt ở vùng đồng bào DTTS có ảnh hưởng gì tới tình hình phát triển
kinh tế - xã hội, vấn đề an ninh xã hội không? Đây là một gợi ý để nghiên cứu
sinh hướng luận án tập trung nghiên cứu vấn đề này.
- Đề án nghiên cứu “Đặc điểm tâm lý xã hội của cộng đồng Tin Lành các
dân tộc thiểu số ở Tây Nguyên hiện nay” với sự tham gia của Ban tôn giáo Chính
phủ, Viện Tâm lý học, Viện Nghiên cứu Tôn giáo, Viện Nghiên cứu bền vững
vùng Tây Nguyên, Viện Dân tộc học, Viện Triết học đang thực hiện. Mục tiêu
của Đề án là Nghiên cứu thực trạng các đặc điểm tâm lý xã hội cơ bản của cộng
đồng Tin Lành các DTTS ở Tây Nguyên hiện nay, các nguyên nhân hình thành,
các yếu tố ảnh hưởng tích cực và tiêu cực đến đời sống của cộng đồng, đến quan
hệ dân tộc và ổn định xã hội ở Tây Nguyên trong những năm qua và hiện nay. Từ
đó đề xuất các giải pháp giúp các cơ quan quản lý nhà nước và địa phương về tôn
giáo nâng cao hiệu quản quản lý đạo Tin Lành ở Tây Nguyên hiện nay và đề xuất
các cơ sở khoa học cho việc xây dựng chính sách tôn giáo của Đảng và Nhà nước
ta. Điểm mới của đề tài là nghiên cứu sâu và hệ thống về tâm lý xã hội của cộng
đồng Tin Lành các DTTS ở Tây Nguyên từ đó đề xuất các kiến nghị và giải pháp
nhằm phát huy các đặc điểm tâm lý xã hội tích cực và hạn chế các đặc điểm tâm
lý tiêu cực, giúp các DTTS ở Tây Nguyên phát triển về kinh tế - xã hội.
14
- Tọa đàm bàn tròn Tin Lành lần thứ ba với chủ đề “Đạo Tin Lành và
văn hóa Việt Nam” do Viện nghiên cứu Tôn giáo, Hội Việt – Mỹ và Viện
Liên kết Toàn cầu tổ chức tháng 11 năm 2012 với 3 vấn đề chính: Đạo Tin
Lành và văn hóa – Một số vấn đề chung; Đạo Tin Lành và văn hóa Việt Nam
và Đạo Tin Lành và vấn đề hội nhập. Các tham luận đã tập trung làm nổi bật
mối quan hệ, tương tác lẫn nhau giữa đạo Tin Lành – với tư cách là tôn giáo
du nhập vào Việt Nam với văn hóa truyền thống của dân tộc. Tuy nhiên vấn
đề về mối quan hệ giữa đạo Tin Lành và an ninh xã hội chưa được đề cập tới
trong buổi tọa đàm này.
- Năm 2012 Đại học Quốc gia Hà Nội, Trường Đại học Khoa học xã
hội và Nhân văn cũng thực hiện một đề tài trọng điểm mã số QGTĐ.10.13
với chủ đề “Chính sách tôn giáo ở nước ta hiện nay – Lý luận và thực tiễn”.
Đề tài nghiên cứu những vấn đề liên quan đến sự hình thành và phát triển
đường lối và chính sách tôn giáo của Đảng và Nhà nước ta trong thời kỳ đổi
mới. Tuy không trực tiếp nghiên cứu về đạo Tin Lành, nhưng những luận cứ
mà công trình nêu ra về chính sách tôn giáo của Đảng và Nhà nước là những
gợi ý để nghiên cứu sinh đề xuất giải pháp trong quản lý nhà nước đối với
đạo Tin Lành ở Tây Nguyên hiện nay.
1.2. Các công trình nghiên cứu liên quan đến đạo Tin Lành với vấn đề
an ninh xã hội ở Tây Nguyên.
Trong những năm gần đây, sự phát triển của tôn giáo nói chung và Tin
Lành ở Tây Nguyên nói riêng đang thu hút được sự chú ý của giới nghiên cứu.
Đạo Tin Lành đang phát triển với tốc độ khá nhanh đặc biệt trong vùng đồng bào
DTTS ở Tây Nguyên và có những tác động nhất định tới an ninh xã hội.
Nghiên cứu về những vấn đề có liên quan đến nội dung này có thể được
chia ra 3 nhóm chính: nhóm những công trình nghiên cứu về vùng đất Tây
Nguyên, nhóm nghiên cứu về tôn giáo (trong đó có đạo Tin Lành ) ở Tây Nguyên
đặt trong mối quan hệ với an ninh xã hội.
15
Đã có nhiều công trình nghiên cứu về lịch sử vùng đất, con người Tây
Nguyên, một số công trình tiêu biểu như: Kon Tum tỉnh chỉ của Võ Chuẩn (xuất
bản năm 1933), Người Bana ở Kon Tum của Nguyễn Kinh Chi – Nguyễn Đổng
Chi (xuất bản năm 2011), Văn hóa các dân tộc ở Tây Nguyên - thực trạng và
những vấn đề đặt ra, Vai trò của các tầng lớp người già trong các xã hội truyền
thống ở Trường Sơn – Tây NguyênTrong đó cuốn Người Bana ở Kon Tum mô
tả khá chi tiết về văn hóa, tôn giáo, tộc người, lịch sử, chính trị, xã hộicủa
người Bana, đặc biệt có phân tích rất sâu sắc đời sống tôn giáo của người Bana
nói riêng và người Tây Nguyên nói chung những năm 30 của thế kỷ XX. Có
nhiều công trình bàn về chủ trương, chính sách của Đảng và Nhà nước nhằm phát
triển kinh tế - xã hội đối với vùng DTTS ở Tây Nguyên. Tiêu biểu như “Một số
vấn đề phát triển kinh tế - xã hội buôn làng các dân tộc Tây Nguyên”, “Một số
giải pháp góp phần ổn định và phát triển ở Tây Nguyên hiện nay”, “Nâng cao
dân trí, động lực phát triển đời sống các dân tộc thiểu số ở Tây Nguyên”Các
công trình đã khẳng định Tây Nguyên là một trong những địa bàn chiến lược mà
Đảng và Nhà nước đặc biệt quan tâm; đồng thời khẳng định tính đúng đắn, sát
thực, hiệu quả của những chủ trương, chính sách của Đảng và Nhà nước nhằm
phát triển kinh tế - xã hội đối với cùng DTTS.
Nhóm những công trình nghiên cứu về tôn giáo ở Tây Nguyên cần đề cập
tới một số học giả người nước ngoài cũng nghiên cứu khá tỉ mỉ về tôn giáo ở Tây
Nguyên. Có thể kể tới một số công trình sau: P.Dourisboure với công trình Dân
làng Hồ xuất bản năm 1929 tại Pháp; cuốn Rừng người Thượng – vùng núi cao
nguyên miền Trung Việt Nam của Henry Maitre xuất bản năm 1912, cuốn Miền
đất huyền ảo của Jacques DournesCác công trình này là những nguồn tư liệu
tốt để nghiên cứu về tôn giáo ở Tây Nguyên. Các công trình này dù không trực
tiếp đề cập vấn đề tôn giáo trong mối quan hệ với an ninh xã hội nhưng có thể
thấy vai trò hết sức quan trọng của tôn giáo trong đời sống tinh thần của cá nhân
và cộng đồng các tộc người ở Tây Nguyên.
16
Những năm gần đây có một số công trình nghiên cứu sâu về đạo Tin Lành
ở Tây Nguyên, tiêu biểu như: Đạo Tin Lành –Những vấn đề liên quan đến an
ninh trật tự ở Việt Nam, Ths Lại Đức Hạnh, (2000); Nguyên nhân, điều kiện phục
hồi và phát triển đạo Tin Lành trong vùng đồng bào dân tộc Jrai, Bahnar những
năm từ 1989 – 1994, Trần Xuân Thu, (1994), Đề tài khoa học cấp Bộ, Công an
tỉnh Gia Lai thực hiện; Đạo Tin Lành với các dân tộc ít người vùng Nam Trường
Sơn – Tây Nguyên, Đỗ Hữu Nghiêm, (1995), Nhà xuất bản Thành phố Hồ Chí
Minh; Fulro và cuộc đấu tranh giải quyết vấn đề Fulro. Tài liệu Tối mật do Cục
Bảo vệ chính trị IV, Tổng cục an ninh, Bộ Công an thực hiện năm 1999; Về tình
hình phát triển của đạo Tin Lành ở miền núi phía Bắc, Trường Sơn – Tây
Nguyên, Nhiệm vụ cấp Bộ, (2000), Viện Nghiên cứu Tôn giáo, Hà Nội; Đạo Tin
Lành ở Đăk Lăk – Những vấn đề đặt ra đối với công tác an ninh trật tự. Tài liệu
lưu hành nội bộ của Viện nghiên cứu chiến lược và Khoa học, Bộ Công an, 2001;
Nguyên nhân tâm lý xã hội của sự phục hồi, phát triển đạo Tin Lành trong đồng
bào các dân tộc thiểu số ở Tây Nguyên và những vấn đề đặt ra với công tác an
ninh, Vương Thị Kim Oanh, (2006), Đề tài khoa học cấp Bộ, Hà Nội; Đạo Tin
Lành và ảnh hưởng của nó đến quá trình phát triển kinh tế - xã hội trong cộng
đồng dân tộc thiểu số ở Tây Nguyên, Nguyễn Văn Lai, (2012), Luận án tiến sĩ
Triết học, Thành phố Hồ Chí Minh; Đạo đức Tin Lành và lối sống đạo đức của
tín đồ tại Việt Nam hiện nay, Mã Phúc Thanh Tươi, (2013), Luận án tiến sĩ Triết
học, Hà Nội; Ảnh hưởng của đạo Tin Lành đối với đời sống tinh thần của đồng
bào dân tộc thiểu số ở Tây Nguyên hiện nay, Lê Hồng Phong, (2014), Luận án
tiến sĩ Triết học, Hà Nội; Bùi Minh Đạo, (2012), Một số vấn đề cơ bản của xã hội
Tây Nguyên trong phát triển bền vững, Nxb Khoa học xã hội, Hà Nội.
Và một số bài viết đăng trên các tạp chí, tiêu biểu như: Lê Bỉnh, (2004),
“Những âm mưu lợi dụng tôn giáo và vấn đề dân tộc chống lại sự nghiệp cách
mạng nước ta hiện nay”, Tạp chí Cộng sản (số 10); Nguyễn Thành Huy, (2014),
“Tìm hiểu về giá trị của luật tục Ê Đê phục vụ một số mặt công tác công an ở các
17
tỉnh Tây Nguyên”, Tạp chí Công an nhân dân (Kỳ 2 – 4/2014); Vũ Thanh Hoa,
(2002), “Vụ bạo loạn chính trị ở Tây Nguyên và những yêu cầu cơ bản đặt ra
trong công tác đấu tranh chống địch lợi dụng vấn đề dân tộc và tôn giáo”, Tạp chí
Công an nhân dân (số 5); Đăng Khoa, (2013), Một số vấn đề cơ bản của xã h... rất đơn giản, để dễ dàng hòa nhập
với văn hóa, tâm lý, lối sống của nhân dân, từ đó lôi kéo người theo đạo.
Tóm lại, những đặc điểm của đạo Tin Lành về giáo thuyết, luật lệ, các
cách thức hành đạo cũng như tổ chức giáo hộichịu ảnh hưởng khá đậm nét
tư tưởng dân chủ tư sản và khuynh hướng tự do cá nhân. Có thể nói, phong
trào Cải cách tôn giáo thế kỷ XVI nảy sinh ra các giáo phái Tin Lành thực
chất là công cuộc tư sản hóa một tôn giáo cũ để cho phù hợp với quan điểm,
lối sống và lợi ích của giai cấp tư sản mới ra đời. Với những nội dung cải
cách đó, đạo Tin Lành trở thành một tôn giáo có sắc thái mới, thu hút nhiều
tầng lớp người trong xã hội hiện đại.
2.1.2. Đặc điểm kinh tế - xã hội của Tây Nguyên liên quan đến sự du
nhập của đạo Tin Lành.
2.1.2.1. Đặc điểm địa lý tự nhiên, dân cư, kinh tế và văn hóa xã hội
Đặc điểm địa lý tự nhiên
Với diện tích trên 56.682 km2 Tây Nguyên gồm nhiều cao nguyên liền
kề sát nhau: cao nguyên Kon Tum – Pleiku, Đăk Lăk, Langbiang, cao nguyên
Bảo Lộc – Di Linh và cao nguyên “ba biên giới”. Ngoài ra còn một số dãy núi
như Ngọc Linh, Ngọc Pan, Biđúp, Langbiang cao trên 2000m, bề mặt tương
đối bằng phẳng; sườn đông dốc dựng đứng hiểm trở, sườn phía tây nghiêng
thoải về sông Mêkông, giới hạn hành chính gồm 05 tỉnh: Kon Tum, Gia Lai,
Đăk Lăk, Đăk Nông và Lâm Đồng. Ở đây có nhiều đường giao thông nối liền
với vùng Trung và Nam Trung Bộ, với thành phố Hồ Chí Minh, vùng đồng
bằng Nam Bộ cũng như các nước láng giềng. Đặc biệt Tây Nguyên có biên
giới giáp Lào và Campuchia dài trên 500km. Vì thế Tây Nguyên có vị thế hết
sức quan trọng về an ninh quốc phòng. Nhiều nhà phân tích, hoạch định chiến
lược đã nhận định: nắm được Tây Nguyên sẽ khống chế được toàn bộ vùng
33
duyên hải miền Trung, cửa ngõ vào Sài Gòn, vùng Đông Nam Bộ, khu vực
ngã ba biên giới Lào – Việt Nam – Campuchia, kiểm soát được Đông Dương.
Tây Nguyên còn có tiềm năng lớn về kinh tế và đất đỏ bazan màu mỡ, điều
kiện thiên nhiên ưu đãi, rừng nhiệt đới nhiều tầng, nhiều sông, suối, thác nước, khí
hậu tương đối ôn hòa, nhiều danh lam thắng cảnh cùng với sự phong phú độc đáo
về văn hóa của các DTTS.
Gắn liền với Tây Nguyên là khu vực phụ cận gồm miền núi các tỉnh Quảng
Nam, Quảng Ngãi, Bình Định, Phú Yên, Khánh Hòa và vùng dân tộc Chăm gồm
Ninh Thuận, Bình Thuận, tiếp đến là Đồng Nai, Bình Phước. Nơi đây cũng có
người DTTS cùng gốc gác với đồng bào DTTS Tây Nguyên sinh sống, có địa
hình đồi núi hiểm trở, vùng đồng bằng nhỏ duyên hải, dải cồn cát với hàng trăm
km bờ biển, có trục quốc lộ chính nối dài Bắc tới Nam, giữ vị trí nối kết quan
trọng về kinh tế, tạo đường cho kinh tế Tây Nguyên giao thương vươn ra biển
Đông gần nhất và cung cấp cho Tây Nguyên nguồn hàng hóa thiết yếu từ biển.
Chính những yếu tố địa lý khí hậu cao, khá biệt lập này làm đồng bào
DTTS Tây Nguyên có cuộc sống khá cách biệt với bên ngoài, ít giao lưu, giao
thương với các nền văn minh khác nhưng họ vẫn tồn tại với những nét đặc thù
riêng do điều kiện thiên nhiên nhiều ưu đãi. Các nước phong kiến cận bang trong
quá trình giao tranh mở mang bờ cõi, thôn tính ảnh hưởng nhau thường mượn
đường qua Tây Nguyên để giao tranh nhưng chưa một ai thôn tính và độc chiếm
cai trị được Tây Nguyên hoàn toàn do đặc thù vị trí địa lý biệt lập và hiểm trở nói
trên. Chính vì vậy, cho đến khi Pháp khai phá và tìm cách cai trị Tây Nguyên vào
năm 1893, xã hội Tây Nguyên vẫn còn giữ nguyên tính nguyên thủy của một xã
hội bộ tộc, bộ lạc tiền nô lệ, chưa hình thành những cộng đồng lớn. Quan hệ xã
hội vẫn còn khép kín trong buôn làng và sự liên kết giữa các buôn làng với nhau.
Đặc điểm dân cư, kinh tế và văn hóa xã hội
Về dân cư, dân tộc: Do tác động của các yếu tố di dân và kinh tế - xã hội
trong mấy thập niên qua, Tây Nguyên là vùng đất diễn ra quá trình biến động, thay
34
đổi thành phần dân tộc và cơ cấu dân tộc vào loại phức tạp nhất so với cả nước và
so với các nước trong khu vực. Giữa thế kỷ XIX, Tây Nguyên còn là vùng đất
rộng, người thưa, địa bàn cư trú chủ yếu là các DTTS tại chỗ. Nửa sau thế kỷ XIX,
bên cạnh các dân tộc tại chỗ còn có thêm người Kinh theo Công giáo. Sau năm
1954, với chính sách di cư cưỡng bức của chính quyền Ngô Đình Diệm, ở Tây
Nguyên cư trú gần 20 dân tộc, trong đó có một số DTTS từ miền núi phía Bắc vào
như Tày, Nùng, Thái, Mường và từ Trường Sơn xuống như Hrê, Bru-Vân
KiềuSau năm 1975, do tác động của chiến tranh biên giới năm 1979 và của cơn
sốt cây công nghiệp từ thập niên 80 của thế kỷ XX, đã dẫn đến làn sóng di cư tự do
theo quy mô lớn của người Kinh và các DTTS từ miền núi phía Bắc vào và từ
Trường Sơn lên đã làm cho thành phần dân tộc Tây Nguyên ngày càng tăng lên, từ
19 dân tộc năm 1954 lên 40 dân tộc năm 1989 và gần 50 dân tộc năm 2009. Từ
một địa bàn đất rộng, người thưa, chỉ có một vài tộc người đến nay Tây Nguyên đã
trở thành nơi cư trú của 54 dân tộc với nguồn gốc và lịch sử khác nhau.
Số lượng dân tộc ở từng tỉnh Tây Nguyên là khác nhau. Cùng với thời gian
và cùng với làn sóng di cư tự do trong hai thập niên qua, số lượng dân tộc ở Tây
Nguyên không ngừng tăng lên và xét về thành phần dân tộc, Tây Nguyên hiện tại
gần giống bức tranh thu nhỏ của cả nước.
Dù số lượng dân tộc nhiều nhưng dân số các dân tộc lại rất khác nhau.
Không có nơi đâu cơ cấu dân tộc lại phức tạp như ở Tây Nguyên. Năm 2009, dân
số Tây Nguyên có khoảng 5.107.437 người, có nguồn gốc, lịch sử di cư và trình
độ phát triển kinh tế - xã hội tự thân không đồng nhất và rất chênh lệch nhau. Có
thể chia các dân tộc Tây Nguyên hiện tại thành ba nhóm. Nhóm dân tộc Kinh với
dân số 3.302.588 người, chiếm 64,7% tổng dân số; nhóm các DTTS tại chỗ gồm
12 dân tộc với dân số 1.359.134 người, chiếm 26,57% tổng dân số và nhóm các
DTTS di cư từ nơi khác đến (miền núi phía Bắc, Trường Sơn) với dân số 445.713
người, chiếm 8,71% tổng dân số. Đa số các dân tộc Tây Nguyên không đồng đều
dẫn đến vai trò khác nhau của từng dân tộc đến vùng đất Tây Nguyên. Dân tộc
35
Kinh có dân số đông nhất và có vai trò chủ thể trong phát triển kinh tế - xã hội Tây
Nguyên. Trong nhóm dân tộc tại chỗ, đông nhất và có vai trò quan trọng hơn cả là
4 dân tộc Gia Rai, Ê Đê, Ba Na và Cơ Ho. Trong nhóm DTTS mới đến, đông
nhất và có vai trò quan trọng hơn cả là các dân tộc Tày, Nùng, Thái, Mường,
Hmông và Dao.
Khác với các vùng miền núi khác, lãnh thổ tộc người của phần lớn các dân
tộc tại chỗ Tây Nguyên tương đối rõ nét. Trong khi đó, các dân tộc mới đến gồm
người Kinh và các DTTS mới đến lại không có lãnh thổ tộc người rõ ràng. Dân
tộc Kinh cư trú tại các trung tâm, ven đường giao thông và các cao nguyên thuộc 5
tỉnh. Cũng như vậy, mỗi dân tộc trong các DTTS mới đến cư trú khắp 5 tỉnh
nhưng tập trung tại 4 tỉnh Gia Lai, Đăk Lăk, Đăk Nông và Lâm Đồng.
Về kinh tế: phương thức sản xuất thô sơ và đơn giản, còn tàn tích của một
nền kinh tế cộng sản nguyên thủy. Đồng bào Tây Nguyên sống bằng nền kinh tế
trồng trọt, kết hợp săn bắt, hái lượm lâm sản, tự cung tự cấp. Tập quán và trình độ
canh tác thô sơ ở mức đâm tỉa, hái lượm. Sản xuất hàng hóa chưa phát triển. Thậm
chí khi người Kinh chưa tới, họ còn chưa biết canh tác lúa nước. Chính vì vậy, đời
sống đồng bào Tây Nguyên còn bấp bênh, đói nghèo và lạc hậu. Cuộc sống lệ
thuộc nhiều vào thiên nhiên, khiến đời sống của đồng bào các dân tộc Tây Nguyên
mang tính cộng đồng cao, cùng làm chung, cùng hưởng chung, sống dựa vào nhau
để cùng tồn tại.
Về văn hóa: các DTTS Tây Nguyên có những yếu tố văn hóa chung đặc
trưng của cư dân trồng trọt trong một xã hội manh nha giai cấp. Các yếu tố “văn
hóa vùng” rất độc đáo, phong phú và sự đa dạng của từng tộc người, từng nhóm
địa phương của mỗi dân tộc khá hấp dẫn. Từ đó quan hệ cộng đồng, đặc biệt ý
thức cộng đồng buôn làng thường rất sâu đậm, sau đó mới đến ý thức chung về
đồng tộc, về khối các dân tộc bản địa cùng sinh sống tại khu vực này. Người
DTTS Tây Nguyên biết làm đàn đá, gỗ, tre trúc, đồng. Một số dân tộc có tiếng nói
riêng, có sử thi truyền miệng. Những kết quả khai quật khảo cổ gần đây tại một số
36
địa danh ở Tây Nguyên cho thấy tính thống nhất trong đa dạng của văn hóa Tây
Nguyên. Nó thể hiện trên nhiều phương diện như trang phục (tiêu biểu như trang
phục choàng quấn, mô típ hoa văn và họa tiết trên vải), trong kiến trúc (các dạng
thức khác nhau của nhà dài, nhà rông, nhà mồ), trong sinh hoạt văn hóa nghệ
thuật (tiêu biểu là kho tàng sử thi, lễ hội gắn với dân ca, dân vũ, cồng chiêng và
nhiều loại nhạc khí dân tộc truyền thống), trong tư duy và đời sống tâm linh
(tiêu biểu là các bộ luật tục, quan niệm về sự thống nhất và bình đẳng hài hòa giữa
con người với tự nhiên, tín ngưỡng đa thần giáo). Tính thống nhất trong đa
dạng của văn hóa Tây Nguyên in đậm dấu ấn tinh thần cộng đồng và năng lực
sáng tạo của từng nhóm ngôn ngữ, tộc người, từng địa phương khác nhau. Điều đó
tạo cho văn hóa Tây Nguyên vừa có nét chung toàn khu vực (Nam Á, Đông Nam
Á, Cao nguyên trung tâm Đông dương) vừa có nét riêng theo từng cấp độ khác
nhau xuống từng vùng, miền, địa phương.
Văn hóa cổ Tây Nguyên mang tính nguyên hợp cao, các thành tố văn hóa
luôn có mối liên hệ chặt chẽ, hiện diện phong phú trong đời sống đồng bào dân
tộc, tập trung cao độ trong nghệ thuật trình diễn, lễ hội, trong luật tục, trong sử thi,
nghệ thuật tạo hình, điêu khắc, trang trí nhà rông, quần thể tượng nhà mồ Nó
như một bảo tàng văn học dân gian sống đồ sộ, phản ánh tư duy nguyên thủy của
cư dân bản địa và quá trình giao lưu văn hóa thời cổ đại trên địa bàn Tây Nguyên.
Không gian văn hóa Tây Nguyên vì vậy vượt ra ngoài ranh giới 5 tỉnh Tây
Nguyên hiện nay.
Song có một thực tế là trong bối cảnh như vậy, văn hóa cổ Tây Nguyên rất
ít chịu tác động của các nền văn minh lớn khác tại Châu Á (văn minh Ấn Độ hoặc
văn minh Trung Hoa) so với hầu khắp khu vực dân cư khác trong địa bàn Đông
Nam Á đương thời.
Như vậy, trong một ý nghĩa tương đối, có thể xem văn hóa Tây Nguyên
là một vùng văn hóa đặc thù của Việt Nam, của bán đảo Đông Đương và của
chung khu vực Đông Nam Á; văn hóa cổ Tây Nguyên là biểu hiện sinh động
37
tính nguyên thủy và tính nguyên bản của văn hóa cổ Việt Nam và của khu vực
Đông Nam Á; văn hóa cổ Tây Nguyên là cầu nối giữa văn hóa Việt Nam và
văn hóa Đông Nam Á.
Về xã hội: cho đến đầu thế kỷ XX, xã hội Tây Nguyên được nhìn nhận còn
ở trình độ tiền phân hóa giai cấp, nhiều nơi còn mang nặng tàng tích của một chế
độ xã hội thị tộc, bộ lạc nhưng không còn nguyên vẹn vì do tác động của chiến
tranh. Đơn vị xã hội là các buôn làng (Plei) sinh hoạt khép kín. Làng được tổ chức
như những công xã nông thôn, được quản lý bằng những thiết chế xã hội khá chặt
chẽ về ranh giới lãnh thổ, quyền sở hữu tập thể về đất đai, bộ máy cai trị với già
làng hay tù trưởng và một hội đồng trưởng tộc. Luật tục, lễ thức gắn liền với buôn
làng, với dòng tộc, với gia đình. Thiết chế xã hội đó được xác lập trên cơ sở thống
nhất bền chặt của những người khác huyết thống cùng một dân tộc, một nhóm địa
phương nhất định, cùng cộng cư trên một vùng lãnh thổ được quy định ranh giới
lãnh thổ rõ ràng, cùng sinh sống và sản xuất tập thể, cùng làm chung, cùng hưởng
chung. Luật tục chặt chẽ, chế độ tù trưởng, già làng, chế độ mẫu hệ, trật tự trên
dưới tôn ti, thưởng phạt giải quyết tranh chấp nghiêm minh theo những quy định
“luật tục” khắc nghiệt nhưng lại được cả cộng đồng chấp thuận.
2.1.2.2. Đặc điểm tín ngưỡng, tôn giáo
Nhu cầu tín ngưỡng, tôn giáo là một yêu cầu khách quan và không thể thiếu
được từ lâu đời trong đời sống tâm linh người dân. Nó gắn chặt với đời sống tinh
thần của mỗi dân tộc trong quá trình tồn tại và phát triển.
Trong xã hội cổ truyền Tây Nguyên, đời sống hiện thực của con người gắn
bó chặt chẽ với tín ngưỡng và các hình thức lễ nghi như hình với bóng. Các phong
tục, tập quán của đồng bào các dân tộc được hình thành và phát triển bén rễ sâu
vào đời sống tinh thần của họ qua sản xuất, đấu tranh với thiên nhiên và xã hội,
bảo vệ cuộc sống, duy trì sự sinh tồn của cư dân các dân tộc. Luật tục mang yếu tố
tự trị biệt lập, khép kín của các công xã thị tộc và có giá trị như luật pháp của từng
buôn làng. Đó là cơ sở nhận thức và hành động đúng với thực tiễn. Tuy nhiên
38
sống trong xã hội phát triển thấp, bất lực trước hiện tượng thiên nhiên và xã hội,
con người từ đó đã nảy sinh những quan niệm tiêu cực là nguồn gốc của những
hình thức tôn giáo và tín ngưỡng sơ khai trong xã hội loài người. Lênin cho rằng
“sự bất lực của con người thời dã man trong cuộc đấu tranh chống thiên nhiên tất
phải đẻ ra lòng tin vào thần thánh, ma quỷ và những phép màu” [67, 169-170].
Tín ngưỡng cổ truyền của đồng bào dân tộc thiểu số ở Tây Nguyên
phản ánh thế giới quan sơ khai – đó là quan niệm vạn vật hữu linh – giai
đoạn đầu trong sự phát triển của tôn giáo. Các dân tộc tại vùng đất Tây
Nguyên trước đây tin theo tín ngưỡng truyền thống là “vạn vật hữu linh”, tin
vào thần linh, tín ngưỡng dân gian mang đậm bản sắc đa thần giáo. Theo quan
niệm cổ xưa của người Tây Nguyên, có hai thế giới tồn tại. Đó là thế giới của
cuộc sống thực và thế giới hư vô. Thế giới thứ nhất là cuộc sống của con
người, muôn vật trên trái đất với thực trạng muôn màu, muôn vẻ của nó,
những cái nó có thể cảm nhận được. Thế giới hư vô là cuộc sống của những
cái người ta gọi là hồn, thần, ma quỷ, những lực lượng siêu nhiênnhững cái
hoang tưởng không thể cảm nhận được, không chứng minh được sự tồn tại
của nó. Nhưng chính những yếu tố hư vô đó quyết định cuộc sống thực tại
trên trái đất. Theo quan niệm của người Tây Nguyên, thần linh ở 3 tầng: trời,
đất và dưới nước. Các Giàng hầu như ở trong mọi vật, như bao bọc lấy thế
giới người sống là những lực lượng siêu nhiên chi phối đời sống hiện thực của
con người, buộc con người phải cầu xin để đời sống được yên ổn và sản xuất,
chiến đấu đạt như ý muốn. Ở con người, hình ảnh của hồn tương tự tầm vóc,
hình dáng, diện mạo của từng người, quyết định tư chất, tính tình của người
đó. Song mỗi người có thể có một hoặc nhiều hồn cư trú trong thân thể. Hồn
mạnh hay yếu còn tùy thuộc vào tuổi tác, địa vị xã hội của con người cụ thể.
Khi một người chết, hồn sẽ biến thành ma, sau thời gian chờ đợi ngoài
nghĩa địa (thời kỳ chưa làm lễ bỏ mả), ma sẽ về tổ tiên. Trong số lực lượng
siêu nhiên, ngoài ma, đồng bào còn tin có yêu quái và các vị thần. Vị thần lớn
39
nhất của nhóm cư dân Tây Nguyên là ông trời, được nhắc đến trong các bài
khấn khi cúng bái, cầu xin, nhưng không tác động trực tiếp đến con người.
Ngoài ra còn có các thần đất, thần sông, thần núi. Trong các vị thần tác
động đến con người, thần sấm sét đóng vai trò quan trọng nhất, thần vừa đáng
kính vừa đáng sợ. Thần duy trì phong tục, phù hộ cho cộng đồng trong những
cuộc xung đột. Cùng với thần mưa, thần gió, thần bảo mệnh thần duy trì trật tự
dưới trần gian, trừng phạt những ai vi phạm luật tục của tổ tiên.
Tín ngưỡng cổ truyền của đồng bào các DTTS ở Tây Nguyên phản ánh
quan niệm của cư dân nông nghiệp nương rẫy. Là cư dân của một nền nông
nghiệp nương rẫy, thần lúa được quý trọng nhất. Thủ tục thờ thần lúa được đề cao
hơn cả, trở thành biểu tượng chính cho các ngày lễ hội trong năm, hồn lúa được
thờ cúng cẩn thận. Họ rất sợ hồn lúa bỏ đi làm cho mùa màng thất bát. Tín
ngưỡng cổ truyền Tây Nguyên gắn bó chặt chẽ với những lễ nghi nông nghiệp.
Nghi lễ quan trọng nhất, phức tạp nhất là những nghi lễ liên quan đến trồng trọt,
gắn với các giai đoạn nhất định của chu kỳ sản xuất trong năm. Ngoài những kinh
nghiệm đã được tích lũy qua nhiều năm, đồng bào còn tin vào các lực lượng siêu
nhiên ảnh hưởng đến cây trồng trên mảnh đất sau này. Do đó việc lựa chọn mảnh
đất canh tác hàng năm thường trao cho người già trong gia đình. Tìm được mảnh
đất vừa ý họ vui vẻ về nhà và gửi niềm hy vọng của mình vào trong giấc mơ. Nếu
thấy những điều tốt đẹp trong mơ là thần linh đã đồng ý công việc mình làm và
ngược lại.
Tất cả các hiện tượng tự nhiên được họ suy tôn và thần thánh hóa, và đều
được thờ cúng nghiêm túc. Họ tin vào sức mạnh tuyệt đối của siêu nhiên. Họ giải
thích mọi hiện tượng sự vật đều có thần linh. Từ đó là cả một hệ thống tín ngưỡng
đa thần giáo tồn tại từ thời cổ xưa mà thế hệ con cháu hôm nay vẫn tiếp tục gìn
giữ (dẫu có sự giao lưu văn hóa với người Việt và các dân tộc khác). Họ tin rằng
phải thờ cúng các thần, ma khác nhau vào dịp mùa màng, tang gia, ốm
đauNhững hiện tượng ma lành, ma dữ đều liên quan đến từng con người trong
40
dòng tộc, buôn làng. Họ có những ý tưởng rất phong phú khi ứng xử với những
người mới sinh (lễ khai tâm cho một đứa trẻ), người đến vị thành niên, với người
chết (lễ bỏ mả)
Trong đời sống tinh thần của đồng bào các DTTS Tây Nguyên, đức tin luôn
chiếm vị trí số một, sau đó mới đến các quan hệ xã hội khác. Khác với người
Kinh, mỗi một con người đồng bào DTTS luôn gắn liền với một đức tin, càng
nghèo nàn lạc hậu, thiếu học vấn họ càng cần đến đức tin. Niềm tin vào thần linh
đối với họ là tối thượng và khó thay đổi. Trời đất thần linh là đấng thiêng liêng đối
với mỗi người. Họ tuyệt đối hóa sức mạnh của thần linh, của siêu nhiên. Có thể
giải thích như một thứ an ủi, một thứ cứu cánh tinh thần không thể thiếu được khi
đồng bào cảm thấy nhỏ bé trước thiên nhiên, trước thiên tai, địch họa, đói nghèo,
bệnh tật. Khi cuộc sống của họ còn lệ thuộc nhiều vào thiên nhiên và chưa đủ hiểu
biết để giải thích các hiện tượng thiên nhiên một cách khoa học. Từ đó, dẫn đến
tồn tại khá nặng nề yếu tố mê tín, dị đoan, kiêng cữ có khi thành hủ tục.
Phong tục tập quán của đồng bào Tây Nguyên thường tập trung ở hệ thống
các lễ hội dân gian dày đặc trong năm và rộ lên ở mùa ăn năm, uống năm (ning
nơng – nghỉ ngơi) diễn ra ở mùa khô (từ tháng 11 âm lịch đến tháng 3 năm sau).
Những lễ hội dân gian này quy tụ theo 3 trục chính là (1) theo quy trình phát triển
của cây lúa rẫy; (2) xung quanh số phận một đời người (từ khi sinh ra đến khi qua
đời) và (3) xung quanh vận mệnh của cộng đồng buôn làng. Cần phải đánh giá và
hiểu đúng vị trí đức tin của họ, hiểu được nguyên nhân từ đâu mà họ coi trọng tín
ngưỡng. Từ đó cần phải tôn trọng đức tin, tín ngưỡng và những tập quán dân gian
của đồng bào.
Do trình độ lực lượng sản xuất thấp, trước thiên nhiên hùng vĩ, hào phóng
nhưng cũng rất khắc nghiệt, dữ dằn, người dân Tây Nguyên chưa hoàn toàn tin
vào sức mạnh của bản thân mình, phần nào tin vào các thần linh. Mọi hành vi
trong xã hội của cộng đồng hay của bản thân đều được hiểu là bị chi phối bởi các
lực lượng siêu nhiên. Quá trình sản xuất hàng năm đồng thời cũng là quá trình
41
cúng bái, cầu xin thần linh một vụ mùa bội thu. Đời một con người may có, rủi có
là do vô số các thần linh ma quỷ tác động. Đây là một nguyên nhân dẫn tới sự du
nhập và phát triển khá mạnh mẽ của các đức tin tôn giáo.
2.2. Quá trình phát triển đạo Tin Lành ở Tây Nguyên
2.2.1. Đạo Tin Lành ở Tây Nguyên trước năm 1975
Năm 1929, các giáo sĩ nước ngoài thuộc Hội truyền giáo phúc âm liên hiệp
Mỹ (CMA) đã tuyên truyền phát triển đạo Tin Lành ở Tây Nguyên, nhất là vùng
dân tộc Cơ Ho, Gia Rai, Ê ĐêTôn giáo này phát triển nhanh chóng thu hút
nhiều tín đồ trong đồng bào DTTS, xây dựng nhà thờ, các cơ sở kinh tế xã hội và
lập ra các tổ chức giáo hội riêng cho người Thượng: “Hạt Thượng du” thành lập
năm 1959, sau đó tách ra thành 2 trung tâm truyền đạo là “Trung Thượng hạt” tại
Buôn Mê Thuột và “Nam Thượng hạt” tại Đà Lạt.
Đối với một tôn giáo có nét đặc trưng riêng biệt là phát triển rất thuận lợi và
có nhiều kinh nghiệm hoạt động ở vùng DTTS thì khi đến Việt Nam, một xứ sở
có nhiều cộng đồng DTTS sinh sống, đạo Tin Lành không thể không nắm lấy và
khai thác.
Sau khi ra đời, cũng giống như Công giáo, đạo Tin Lành luôn có mối quan
hệ giữa việc truyền giáo với việc thực hiện công cuộc thực dân hóa của các thế lực
thù địch, đế quốc. Điều này được thể hiện rất rõ qua quá trình du nhập, phát triển
của đạo này ở Tây Nguyên.
Theo nghiên cứu, công cuộc truyền giáo, phát triển đạo Tin Lành ở Tây
Nguyên có nhiều thời điểm khác nhau. Vào năm 1929, hai vợ chồng giáo sĩ A. H.
Jackson quốc tịch Canada đã lên Tây Nguyên thăm dò địa bàn truyền giáo mới.
Năm 1931, Ha Sol người dân tộc Cơ Ho là người dân tộc đầu tiên ở Tây Nguyên
theo đạo Tin Lành. Về sau, Ha Sol trở thành mục sư và có ảnh hưởng quan trọng
trong số tín đồ ở khu vực này. Năm 1932, đạo Tin Lành xâm nhập vào Đắk Lăk.
Lúc đầu do mục sư Gioan Onnyth (Giáo sĩ của Hội truyền giáo phúc âm liên hiệp
Mỹ - CMA) và hai mục sư người Việt là Bùi Tấn Lộc và Phạm Xuân Tín đến
truyền đạo, chủ yếu vùng đồng bào dân tộc ít người ở Buôn Mê Thuột.
42
Đặc điểm lớn nhất của sự du nhập và phát triển của đạo Tin Lành là ngay
từ đầu đã gắn chặt với sự xâm nhập và ảnh hưởng của Mỹ, đặc biệt trong những
năm tháng kháng chiến chống Mỹ cứu nước. Có thể nói, trước cách mạng tháng
Tám việc truyền bá đạo Tin Lành lên Tây Nguyên đã bị thực dân Pháp hạn chế và
ngăn cản khiến những nỗ lực truyền giáo của Tin Lành chỉ có thể có kết quả ở
những thành phố như Đà Lạt, Buôn Ma Thuột.
Nhưng sang giai đoạn từ 1954-1975 đạo Tin Lành phát triển khá nhộn nhịp
cả về phương diện xây dựng tổ chức và hoạt động truyền giáo trên toàn khu vực
Tây Nguyên. Sự ra đời của Địa hạt Thượng du, trường Kinh thánh Buôn Mê
Thuột; việc xuất bản Kinh thánh bằng tiếng Ê Đê, M’nông, Gia Rai, Cơ
Hotrong khoảng thời gian này cho thấy mục tiêu lâu dài của CMA và các thế
lực chính trị đứng sau CMA ở Đăk Lăk, Tây Nguyên.
Sau khi đế quốc Mỹ can thiệp, xâm lược miền Nam Việt Nam, chúng ta có
thể nhận thấy một nét mới về phương diện “truyền giáo – thực dân hóa” trong tổ
chức và hoạt động của đạo Tin Lành ở Tây Nguyên, đặc biệt là ở Đăk Lăk. Đó là
quá trình “sóng đôi” trực tiếp, nương tựa lợi dụng lẫn nhau để cùng đạt được
những mục tiêu.
- Phía CMA, lợi dụng Mỹ đã trực tiếp vào Việt Nam họ đã tập trung toàn
lực vào công cuộc phát triển đạo Tin Lành ở Tây Nguyên. Họ đã cung cấp tài
chính, xây dựng các cơ sở, tăng giáo sinh của CMA vào Việt Nam và kết hợp đào
tạo giáo sĩ người bản xứđể đẩy nhanh tốc độ truyền giáo. Tại Đăk Lăk, CMA
đã đầu tư khá nhiều tiền cho việc mở rộng các địa bàn hoạt động của đạo Tin
Lành; xây dựng hàng chục nhà thờ trong đó có 3 nhà thờ kiên cố; kiện toàn trên
40 chi hội và hội thánh buôn; đào tạo hàng chục giáo sĩ là người bản xứ
- Ngược lại phía Mỹ, họ cũng dựa vào CMA để cài cắm lực lượng, nắm các
địa bàn chiến lược. Tại Tây Nguyên, ngay từ đầu Mỹ đã thao túng địa hạt Thượng
du để nắm Tin Lành người Thượng nhằm phục vụ âm mưu trước mắt cũng như kế
hoạch hậu chiến. Từ năm 1954 đến năm 1975 riêng ở Đăk Lăk đã có trên 20 mục
43
sư người Mỹ đến hoạt động. Họ đã lập ra “Hội đồng Giáo sĩ Mỹ tại Đăk Lăk”.
Một số giáo sĩ như Leslie, Drentrên danh nghĩa là hoạt động truyền giáo nhưng
thực chất là hoạt động gián điệp, thu thập tin tức tình báo.
Người Mỹ cũng đã liên hệ thường xuyên, chặt chẽ với một số mục sư
người dân tộc như: Ynguê Bdăp, Ydreh, Y Nhiamtrong tổ chức FULRO. Chính
người Mỹ đã tài trợ nhiều khoản tiền mua chuộc, lôi kéo những ngươi lãnh đạo
Tin Lành tại Đăk Lăk phục vụ cho họ.
Chính mục sư Lê Khắc Cung (đại diện cuả Tổng liên hội – Hội thánh
Tin Lành Việt Nam tại địa hạt Thượng du) đã cho rằng: Các giáo sĩ luôn tìm
cách để nắm các mục sư và tín hữu người dân tộc, tìm cách xen vào để lãnh
đạo, chi phối mọi công việc của giáo sĩ Tin lành ở Tây Nguyên, kể cả hoạt
động từ thiện xã hội
Nghiên cứu hoạt động của CMA ở Việt Nam nói chung và ở khu vực Tây
Nguyên nói riêng từ khi thâm nhập đến trước tháng 5 năm 1975, có thể thấy nổi
nên một số vấn đề sau:
Thứ nhất, xét về phương diện tín ngưỡng tôn giáo thì đạo Tin Lành
xâm nhập, phát triển ở Tây Nguyên là kết quả tất yếu phản ánh xu hướng và
mục tiêu tôn giáo mà CMA đã đặt ra: “Đem đức tin đến những nơi chưa từng
được nghe danh Chúa Giêsu”. Hơn 40 năm là một quá trình hoạt động tôn
giáo có tổ chức, có đường hướng và trên thực tế nó đạt được những kết quả
nhất định. Riêng ở Đăk Lăk, đến trước tháng 4 năm 1975, đạo Tin Lành trực
thuộc Thượng hạt đã có gần 11.000 tín đồ, 47 chi hội và hội thánh buôn, 32
nhà thờ, 1 trường kinh thánh, 1 bệnh viện (chữa phong) với một lực lượng
giáo sĩ là 8 mục sư và 36 truyền đạo. Những con số trên không chỉ phản ánh
từ phương diện tổ chức và hoạt động của CMA mà còn cho thấy một thực tế
nữa đó là nhu cầu tín ngưỡng tâm linh (dù là bị lôi kéo bởi lợi ích nhất thời
hay là sự tìm kiếm chỗ “nương náu”, “an ủi’ tinh thần thực sự) của một bộ
phận cư dân trong cộng đồng các dân tộc đang sinh sống ở nơi đây.
44
Thứ hai, mặc dù đạo Tin Lành có gốc rễ từ Châu Âu nhưng khi du nhập
vào Tây Nguyên dưới tác động của các yếu tố lịch sử, dân tộc, tôn giáo, xã hội có
tính đặc thù nên đạo Tin Lành ít nhiều đã được “cách tân”, vì vậy trong chừng
mực nhất định đã có sự “bản địa hóa”. Và điều đó cũng phản ánh tính
”linh hoạt”, “cởi mở”, “tự do”, “thoáng đạt” trong nội dung tư tưởng và phong
cách tổ chức, hoạt động của đạo Tin Lành.
Hội thánh Tin Lành ở Đăk Lăk là một hội thánh do cả CMA và Mỹ dựng
nên nhưng nó mang đặc trưng là tổ chức tôn giáo của vùng dân tộc ít người. Mặc
dù về hình thức nó vẫn thuộc Tổng liên hội thánh Tin Lành Việt Nam, nhưng trên
thực tế Tin Lành người Thượng hoàn toàn do CMA điều khiển và đầu tư phát
triển theo các chiều hướng cơ bản sau:
- Hình thành những tập quán và nội dung cho sinh hoạt tôn giáo phù hợp
với đặc điểm, điều kiện của vùng đồng bào DTTS và hòa nhập ở mức độ nhất
định với vùng này.
- Một đội ngũ giáo sĩ chuyên nghiệp và không chuyên là người bản địa đã
được đào tạo, huấn luyện, chính họ là lực lượng có khả năng chuyên môn, kinh
nghiệm truyền bá có hiệu quả đạo Tin Lành vào vùng đồng bào DTTS.
- Xây dựng một hệ thống cơ sở vật chất lẫn bộ máy, con người do những
người dân tộc bản địa quản lý, điều hành công việc nhằm phục vụ, thỏa mãn phần
nào nhu cầu sinh hoạt tôn giáo – văn hóa – xã hội của đồng bào dân tộc.
Thứ ba, đạo Tin Lành khi xâm nhập, phát triển ở Tây Nguyên là kết quả
của quá trình truyền giáo nhưng cũng là kết quả của những âm mưu, thủ đoạn lâu
dài của chủ nghĩa thực dân đế quốc, chủ yếu là Mỹ nhằm thông qua việc “tôn giáo
hóa các dân tộc” để thực hiện các mưu đồ chính trị. Đặc biệt, với đế quốc Mỹ, thì
việc thúc đẩy, sử dụng CMA để nắm Tin Lành người Thượng và sử dụng các tổ
chức này như là một công cụ, một phương tiện nhằm thực hiện mục tiêu thôn tính
lâu dài Việt Nam được xem như là một trong những phương thức cơ bản. Trên
thực tế, chính Mỹ và CMA đã cấu kết tạo điều kiện cho Tin Lành người Thượng
45
có được “quy chế đặc biệt” và từ đó tác động làm cho tổ chức Tin Lành ở Đăk
Lăk nói riêng và Tây Nguyên nói chung ngày càng dính líu chặt chẽ hơn, sâu sắc
hơn về mặt chính trị; đặc biệt nổi lên là gắn chặt với FULRO (Mặt trận đoàn kết
giải phóng các dân tộc bị áp bức – Front Unifie de Liberation de Races
Oppimees), một tổ chức chính trị vũ trang.
FULRO ra đời tháng 9 năm 1958, có nguồn gốc từ phong trào
BaJaRaKa, chỉ bốn dân tộc Bana, Jarai, Rađê và K’ho nhằm chống lại việc
chính quyền Ngô Đình Diệm đưa bộ phận dân di cư miền Bắc lên định cư
ở Tây Nguyên. Phong trào chọn Pleiku làm trung tâm hoạt động. Dần dần
phong trào BaJaRaKa nâng mục tiêu đấu tranh thành giành chính quyền tự
trị cho người Đềga. Đến đầu năm 1959, phong trào BaJaRaKa bị dập tắt.
Chính quyền Diệm tuy trấn áp, giải tán được phong trào, song những
nguyên nhân, điều kiện để phong trào này tồn tại vẫn còn, đặc biệt là sự
phản ứng, bất bình của lớp người có uy tín ảnh hưởng và quần chúng
DTTS Tây Nguyên với chính sách của ngụy quyền và âm mưu, ý đồ lợi
dụng vấn đề dân tộc của các thế lực thù địch bên ngoài. BaJaRaKa đã để
lại dấu ấn về tư tưởng, tình cảm trong đồng bào DTTS ở vùng này; để lại
bài học về hình thức, mục tiêu, khẩu hiệu đấu tranh đòi quyền lợi dân tộc,
đòi tự trịmà sau này FULRO tiếp tục kế thừa phát triển. Nó cũng góp
phần hình thành một đội ngũ lãnh tụ, cầm đầu có uy tín – những người dẫn
dắt, chỉ đạo cuộc “đấu tranh” tiếp theo. Có thể nói, phong trào BaJaRaKa
là tiền thân của tổ chức FULRO sau này.
2.2.1. Đạo Tin Lành ở Tây Nguyên từ sau 1975 đến nay
Ở trên chúng ta đã thấy rõ, trong cuộc kháng chiến chống Mỹ, rõ ràng
Ban lãnh đạo Tin Lành Thượng hạt và tổ chức FULRO luôn có những liên hệ
chính trị. Tuy nhiên không phải vì thế mà sau ngày giải phóng hoàn toàn
miền Nam, Đảng và Nhà nước ta có sự phân biệt, đối xử bất bình đẳng giữa
Tin Lành với các tôn giáo khác. Với chính sách tôn trọng tự do tín ngưỡng,
46
tôn giáo, thời kỳ đầu đạo Tin Lành vẫn được phép hoạt động bình thường. Hệ
thống cơ sở tổ chức của giáo hội Tin Lành ở Tây Nguyên vẫn tồn tại, nhà thờ
vẫn mở cửa sinh hoạt, các chức sắc tiếp tục hành đạo
Tuy nhiên trong quá trình đấu tranh trấn áp FULRO, chúng ta đã có
những chứng cứ xác định: chính một số nhân vật cầm đầu Hội thánh Tin
Lành địa phương đã cấu kết chặt chẽ và trở thành những phần tử tham gia
hoạt động chống chính quyền mới, chẳng hạn:
+ Mục sư Y Nguê (chủ nhiệm Trung Thượng hạt) làm cố vấn của
“Trung ương” FULRO, 3 mục sư và 16 truyền đạo khác tham gia giữ các
chức vụ khác trong tổ chức này (1 đại tá Bộ trưởng, 2 trung tá, 3 thiếu tá, 10
sỹ quan cấp tiểu đoàn).
+ Một số nhà thờ Tin Lành ở Tây Nguyên là cơ sở tiếp tế cho FULRO.
Từ tình trạng trên, do yêu cầu ổn định tình hình chính trị, ta chủ trương
cấm các hoạt động của đạo Tin Lành ở Tây Nguyên kể cả trong người Kinh
như: đóng cửa nhà thờ, đưa các mục sư, truyền đạo đi học tập, cải tạo, tịch
thu kinh sáchChính quyền các tỉnh Tây Nguyên đóng cửa 117/124 nhà thờ
T...m gia vào các
hoạt động sai trái13. Tư tưởng chủ quan vẫn tồn tại trong một bộ phận cán bộ
đảng viên trong hệ thống chính trị các cấp.
Công tác quy hoạch, tạo nguồn và sử dụng cán bộ người DTTS nhiều
nơi vẫn chưa đáp ứng được yêu cầu trước mắt và lâu dài. Một bộ phận không
nhỏ cán bộ, đảng viên suy thoái về phẩm chất đạo đức, lối sống và vụ lợi cá
nhân. Chính điều này đã gây nhiều bức xúc trong xã hội và tác động không
nhỏ đến tư tưởng, tình cảm, lòng tin của đông đảo quần chúng nói chung và
đồng bào DTTS Tây Nguyên. Vấn đề đáng lưu ý hiện nay, đa số cán bộ người
Kinh trong các cơ quan, ban ngành, hệ thống chính trị các cấp không biết
tiếng và không hiểu phong tục tập quán của đồng bào Tây Nguyên. Mặc dù
13Vụ biểu tình, bạo loạn xảy ra đầu tháng 02-2001 có 14 đảng viên, 22 giáo viên, 80 cán bộ cấp xã thôn
làng, 154 dân quân tự vệ và 107 già làng tham gia. Vụ biểu tình, bạo loạn xảy ra tháng 4-2004 có 04 giáo
viên, 06 cán bộ cấp xã thôn làng, 18 dân quân tự vệ, 89 công nhân và nhiều học sinh tham gia.
Liên quan đến tà đạo “Hà Mòn” có 03 hội viên Hội Cựu chiến binh, 212 hội viên Hội Nông dân, 335 hội
viên Hội phụ nữ, 339 đoàn viên thanh niên và 40 người trong lực lượng DQTV, DBĐV trên địa bàn 03 tỉnh
tham gia.
201
các địa phương đã tổ chức các lớp học tiếng dân tộc, nhưng hiệu quả đem lại
thấp; nhiều trường hợp theo học chỉ là hình thức, chiếu lệ và bắt buộc.
3.6. Khi giải quyết các vấn đề liên quan đến tôn giáo trong nhiều
trường hợp chúng ta còn sơ suất thiếu sót, nhất là việc xử lý các cơ sở thờ tự
nhà nguyện xây cất trái phép của các tôn giáo. Hầu hết khi họ đã tiến hành
xây cất ta mới phát hiện được, dẫn đến việc xử lý hết sức khó khăn và gây đối
trọng với quần chúng giáo dân với chính quyền. Chúng ta chưa chú trọng
nhiều đến các yếu tố nhạy cảm về chính trị, chưa tạo được sự đồng thuận của
đông đảo tín đồ tôn giáo và các chức sắc. Bộ máy quản lý nhà nước về tôn
giáo ở Tây Nguyên chưa đủ mạnh, chưa đáp ứng được yêu cầu thực tiễn; cán
bộ làm công tác quản lý nhà nước về tôn giáo còn hạn chế nhiều mặt, hầu hết
chưa được đạo tạo bồi dưỡng thường xuyên những kiến thức về tôn giáo, thực
sự chưa đủ “tầm và sức thuyết phục” đối với giáo dân và chức sắc tôn giáo,
nhất là ở cấp cơ sở. Chính vì vậy đã hạn chế rất lớn đến công tác tuyên truyền
vận động quần chúng, vận động và tranh thủ các chức sắc tôn giáo cũng như
việc giải quyết những vấn đề liên quan đến tôn giáo tại địa phương.
3.7. Thực trạng vấn đề dân di cư tự do từ các tỉnh đến địa bàn Tây
Nguyên những năm vừa qua khá phức tạp, đặc biệt là người dân tộc Mông.
Hiện nay có khoảng trên 24.480 hộ dân di cư tự do đang sinh sống tạm bợ rải
rác trong các khu rừng không theo quy hoạch; đời sống của đồng bào gặp rất
khó khăn và chưa được sắp xếp vào trong các dự án14. Thực trạng trên đã gây
nhiều khó khăn trong công tác quản lý xã hội, tạo áp lực cho các tỉnh Tây
Nguyên trong việc thực hiện chế độ chính sách và chăm lo đời sống cho đồng
bào (có một thực tế đáng lưu ý: Các địa phương càng chăm lo chu đáo, thì
14 Theo báo cáo số 95-BC/BCĐTN ngày 13-02-2014 của Ban Chỉ đạo Tây Nguyên: Đến nay toàn vùng có
khoảng trên 8.810 hộ/52.850 khẩu người Mông di cư tự do và hiện đang sống tại 103 điểm, cụm dân cư/43
xã/24 huyện/04 tỉnh. Nhưng tập trung chủ yếu ở Đăk Lăk và Đăk Nông; hầu hết đồng bào Mông đều theo
đạo tin lành (83,5%). Toàn vùng còn khoảng trên 20.800 hộ đồng bào di cư tự do đến chưa được sắp xếp ổn
định trong các dự án (Đăk Nông 10.947 hộ, Đăk Lăk 5.476 hộ, Lâm Đồng 3.725 hộ, Gia Lai 689 hộ).
202
đồng bào lại càng truyền nhau vào nhiều hơn). Kéo theo là tình trạng chặt phá
rừng lấy đất sản xuất, tranh chấp đất đai với các Doanh nghiệp và đồng bào
DTTS tại chỗ. Đáng chú ý là hoạt động tôn giáo (Tin lành) trái phép và tình
trạng sử dụng vũ khí trái phép trong đồng bào Mông khá phức tạp. Nhiều đối
tượng có liên quan đến hoạt động thành lập “Vương quốc Mông” ở phía Bắc
vào, tuyên truyền lôi kéo xúi giục người Mông đang sinh sống ở địa phương
tham gia; một số đồng bào Mông bán hết nhà cửa tài sản trở về Mường Nhé
(Điện Biên) và vượt biên sang Thái Lan, Lào để tham gia “Vương quốc
Mông” hết sức phức tạp về an ninh chính trị và trật tự an toàn xã hội.
Từ những vấn đề đã nêu trên, ta có thể khẳng định: Vùng Tây Nguyên
hiện đang tiềm ẩn nhiều vấn đề phức tạp, liên quan trực tiếp đến an ninh chính
trị trước mắt cũng như lâu dài. Trong xu thế đa phương hoá, toàn cầu hoá và
hội nhập quốc tế để phát triển; chúng ta hoàn toàn có thể “hoá giải” được các
vấn đề, nếu có các giải pháp đúng đắn.
III. Các giải pháp toàn diện để giảm thiểu nguy cơ mất ổn định
trên địa bàn Tây Nguyên.
1. Dự báo tình hình.
Hiện nay, tình hình quốc tế và trong khu vực có nhiều diễn biến phức
tạp, khó lường. Mặc dù xu thế hòa bình hợp tác để phát triển là chính, nhưng
các mâu thuẫn xung đột và vấn đề ly khai trị đang diễn ra ở nhiều quốc gia
trên thế giới, trong khu vực. Đối với Việt Nam nói chung và địa bàn Tây
Nguyên nói riêng, các thế lực thù địch vẫn tiếp tục thực hiện âm mưu, chiến
lược “Diễn biến hòa bình”; lợi dụng những vấn đề về “dân chủ, nhân quyền,
tôn giáo và dân tộc” để can thiệp. Được sự trợ giúp ngầm, bọn FULRO tiếp
tục tăng cường các hoạt động chống phá, chưa từ bỏ âm mưu thành lập “nhà
nước Đêga độc lập, tự trị” trên địa bàn Tây Nguyên. Thời gian tới chúng ta
203
phải đối mặt với nhiều khó khăn phức tạp mới. Khu vực các tỉnh Đông Bắc
Campuchia đối diện với các tỉnh Tây Nguyên sẽ là địa bàn đứng chân của các
thế lực thù địch và bọn phản động lưu vong; chúng có nhiều cơ hội để xâm
nhập và tác động vào địa bàn Tây Nguyên. Công tác phân giới cắm mốc giữa
Việt Nam và Campuchia sẽ gặp không ít khó khăn do nhiều yếu tố, trong đó
có vấn đề CNRP công khai công kích đảng CPP lợi dụng việc phân giới cắm
mốc để bán đất cho Việt Nam15. Việc có mặt của Trung Quốc tại Campuchia
và Lào, tạo thế đứng ở ngã ba Đông dương là một vấn đề hết sức bất lợi trong
công tác đối ngoại và đảm bảo an ninh quốc phòng của ta. Chúng ta không
loại trừ khả năng sẽ có sự bài xích Việt kiều ở Campuchia, sẽ tạo ra sự di dân
từ Campuchia về Việt Nam và các tổ chức phản động sẽ lợi dụng tình hình để
cài cắm đưa người vào trong nước để hoạt động chống phá.
Bài học từ các vụ biểu tình bạo loạn ở Tây Nguyên vừa qua, cũng như
bài học các cuộc “cách mạng màu” ở Đông Âu đến những biến động chính
trị-xã hội ở Trung Đông-Bắc Phi, bất ổn ở Thái Lan và Campuchia cho thấy:
Các thế lực thù địch rất giỏi nắm bắt và khai thác những vấn đề “nhạy cảm
đang bức xúc, bất bình” trong xã hội được tích tụ và đang âm ỉ để kích động
quần chúng, những phần tử cơ hội và châm ngòi cho các cuộc biểu tình bạo
loạn chính trị, ly khai tự trị và hỗ trợ cho các lực lượng đối lập lên nắm
quyền.
15Đến nay, trên tuyến biên giới các tỉnh Tây Nguyên tiếp giáp với Campuchia, chúng ta đã xác định được
42/60 vị trí cột mốc (đạt 70%), tương xứng với 63/84 mốc (đạt 75%). Xây dựng được 62/63 mốc (riêng mốc
30 tại cửa khẩu Lệ Thanh đã thống nhất xác định vị trí trên thực địa, nhưng đến nay chưa xây dựng vì Bạn đề
nghị ta lùi lại sau bầu cử Quốc hội khóa V). Phân giới được 292,98/378 km (đạt 77,5%). Hiện tại còn 03 khu
vực đang còn tồn tại, vướng mắc (chưa thống nhất chuyển vẽ) gồm:
- Khu vực kẻ thẳng tỉnh Gia Lai, từ mốc 30 đến mốc 40 thuộc đồn cửa khẩu Lệ Thanh, Ia Nan, Ia Pnôn, Ia
Puch, Ia Mơ và Ia Lốp dài khoảng 45 km; diện tích khu vực do Việt Nam đang quản lý khoảng 2.594 ha.
- Khu vực đoạn thẳng tỉnh Đăk Lăk, từ mốc 40 đến mốc 44 thuộc đồn Ia H’Leo, Ia Rvê, Đá Bằng, Yok
Mbre và Sê rê Pôk dài khoảng 34 km; diện tích khu vực do Việt Nam đang quản lý khoảng 555 ha.
- Khu vực Bu Prăng tỉnh Đăk Nông, từ mốc 56 đến mốc 60 thuộc đồn cửa khẩu Bu Prăng, Đăk Dang và
Bu Cháp dài khoảng 20 km; diện tích khoảng 49,5 km2 do Việt Nam quản lý.
204
2. Các giải pháp để giảm thiểu nguy cơ mất ổn định trên địa bàn Tây
Nguyên hiện nay.
2.1. Giải pháp tổng thể: Chúng ta phải quán triệt, triển khai thực hiện
hết sức nghiêm túc Kết luận số 12-KL/TW ngày 24-11-2011 của Bộ Chính trị,
về tiếp tục thực hiện Nghị quyết số 10-NQ/TW của Bộ Chính trị (khóa IX)
phát triển vùng Tây nguyên thời kỳ 2011-2020.
2.2. Trên cơ sở Kết luận số 12-KL/TW ngày 24-11-2011 của Bộ Chính
trị; căn cứ vào tình hình thực tế cần triển khai thực hiện một số giải pháp cụ thể:
Thứ nhất: Trước tiên phải ổn định lòng dân, củng cố và nâng cao chất
lượng “thế trận lòng dân” trong đồng bào DTTS Tây Nguyên; từ đó sẽ tạo cơ sở
vững chắc cho thế trận An ninh, Quốc phòng trước mắt cũng như lâu dài. Thực
chất của vấn đề này là giải quyết những vấn đề thuộc về đời sống, văn hóa, xã
hội, về tâm tư tình cảm, nhận thức và niềm tin của đồng bào DTTS; từ đó nâng
cao ý thức trách nhiệm của đồng bào DTTS Tây Nguyên đối với sự nghiệp xây
dựng và bảo vệ Tổ quốc. Để giải quyết các vấn đề trên, chúng ta cần:
a. Tiếp tục nghiên cứu, đổi mới và nâng cao chất lượng công tác tuyên
truyền, giáo dục thuyết phục và vận động quần chúng. Làm cho đồng bào hiểu
hiểu rõ những chủ trương chính sách ưu đãi của Đảng, Nhà nước đối với đồng
bào DTTS và những kiến thức cơ bản về Pháp luật, pháp lệnh tín ngưỡng tôn
giáo. Đồng thời công khai cho đồng bào và tín đồ các tôn giáo hiểu rõ về âm
mưu ý đồ của các thế lực thù địch, bọn phản động lợi dụng tôn giáo và
FULRO. Từ đó nâng cao sức tự đề kháng của đồng bào và tín đồ các tôn giáo
trước mọi âm mưu thủ đoạn tuyên truyền xuyên tạc, lôi kéo của các thế lực
thù địch và bọn phản động. Tiếp tục củng cố khối đại đoàn kết dân tộc trên cơ
sở hỗ trợ giúp đỡ lẫn nhau về mọi mặt giữa đồng bào DTTS với cộng đồng
dân cư tại chỗ và người Kinh, giữa người theo đạo và không theo đạo. Từng
bước xoá bỏ tư tưởng ly khai, tự trị và vấn đề “nhà nước Đêga”.
205
Các địa phương cần nghiên cứu, nâng cao chất lượng và hiệu quả
phong trào “kết nghĩa” giữa các cơ quan, đơn vị và Doanh nghiệp với các
buôn, làng đồng bào DTTS. Trên cơ sở đó, có thể phát động phong trào “vì
con em đồng bào các DTTS vùng sâu, vùng xa” một cách sâu rộng, thiết thực
và hữu ích trong mọi tầng lớp nhân dân và học sinh, sinh viên. Nếu chúng ta
làm có hiệu quả phong trào này, chắc chắn sẽ gắn kết được những rạn nứt do
nhiều nguyên nhân gây ra trong mối quan hệ đoàn kết dân tộc; góp phần xoá
bỏ tư tưởng ly khai, tự trị và củng cố khối đại đoàn kết ngay từ tầng lớp trẻ.
b. Tiến hành rà soát đánh giá lại hiệu quả việc triển khai thực hiện các
Chủ trương chính sách ưu đãi của Đảng, Nhà nước có liên quan đến đồng bào
DTTS tại chỗ trên các lĩnh vực kinh tế, văn hóa, xã hội; hiệu quả của các đoàn
Kinh tế quốc phòng trên địa bàn Tây Nguyên; chủ động có các biện pháp tự
tháo gỡ, giải quyết những vấn đề còn tồn tại thuộc thẩm quyền giải quyết của
từng địa phương. Trên cơ sở đó, tham mưu cho Đảng, Nhà nước để điều
chỉnh những vấn đề còn bất cập, chưa phù hợp với thực tế và tiếp tục ban
hành những chủ trương chính sách mới đối với đồng bào DTTS để nâng cao
hơn nữa đời sống kinh tế, chính trị, văn hóa, xã hội và tăng cường tiềm lực về
quốc phòng, an ninh trên địa bàn Tây Nguyên.
Riêng đối với vấn đề đất đai và việc đền bù khi thu hồi đất: Cần kiểm
tra rà soát đánh giá lại thực trạng tình hình thiếu đất ở, đất sản xuất trong đồng bào
DTTS. Trên cơ sở quỹ đất dự phòng hiện có để giải quyết cho những hộ đồng bào
thực sự đang khó khăn do thiếu đất ở, đất sản xuất. Song cũng cần xem xét điều
chỉnh lại mức cấp đất (diện tích đất) sao cho hợp lý để đồng bào sản xuất, tự đảm bảo
được cuộc sống. Đối với các địa phương không còn quỹ đất dự phòng có thể xem
xét, thu hồi (hoặc một phần) diện tích đất của các dự án trồng cao su đã nhận đất
nhưng không đủ năng lực thực hiện, vẫn bỏ hoang hoá (hoặc sang nhượng trái phép);
đồng thời xem xét có thể thu hồi một phần diện tích đất của các Nông, Lâm trường
206
(gần buôn, làng) để cấp đất cho các hộ thiếu đất. Không nên để tình trạng đồng bào vì
thiếu đất, lợi dụng thời điểm các doanh nghiệp thu dọn đất tái canh trồng mới kéo
đông người ra tranh chấp, bất chấp kỷ cương pháp luật tự ý chia nhau tạo nên tiền lệ
xấu và kẻ địch lợi dụng kích động. Dừng việc triển khai các dự án có thu hồi đất sản
xuất của đồng bào DTTS khi chưa bố trí được đất tái định canh, định cư. Việc đền
bù, tái định canh định cư phải quán triệt và thực hiện đúng nguyên tắc “bằng
hoặc hơn nơi ở cũ” theo tinh thần chỉ đạo của Thủ Tướng Chính phủ. Các địa
phương và chủ dự án cần nghiên cứu, xác lập các mối quan hệ hợp tác lâu dài
trong sản xuất và phân chia lợi nhuận giữa các chủ dự án với đồng bào một
cách rõ ràng công khai minh bạch trên cơ sở đồng bào góp “vốn bằng đất”
vào dự án. Từ đó đồng bào DTTS có thu nhập ổn định, nâng cao đời sống và
tạo điều kiện rút ngắn khoảng cách giàu - nghèo.
Đồng thời cần nghiên cứu việc ứng dụng khoa học, công nghệ vào sản xuất
để nâng cao năng suất cây trồng và giảm áp lực về việc sử dụng đất; định hướng các
mô hình sản xuất, cây trồng nhằm đem lại hiệu quả kinh tế cao, không nên để tình
trạng “tự phát” như hiện nay.
Về rừng và chính sách bảo vệ rừng: Cần chú trọng quan tâm, phát huy
vai trò của cộng đồng người DTTS trong công tác chăm sóc, bảo vệ rừng.
Tăng cường lực lượng bảo vệ rừng cho phù hợp, kiên quyết xử lý nghiêm đối
với tình trạng xâm hại rừng; thực hiện nghiêm túc việc đóng cửa rừng tự
nhiên trong năm 2014 theo tinh thần chỉ đạo của Thủ Tướng Chính phủ. Bộ
Nông nghiệp phát triển nông thôn cần xem xét, đề nghị điều chỉnh lại định
mức giao khoán chăm sóc và bảo vệ rừng đối với đồng bào DTTS cư trú hợp
pháp tại chỗ, trên nguyên tắc “người nhận khoán chăm sóc và bảo vệ rừng
phải được đảm bảo cuộc sống, từ đó mới giữ được rừng”. Cần hết sức chú
trọng đến vai trò của cộng đồng người DTTS tại chỗ trong công tác chăm sóc
và bảo vệ rừng.
207
c. Thanh tra Chính phủ, Bộ ngành liên quan và các địa phương cần rà soát,
chỉ đạo giải quyết ổn định những vụ việc tranh chấp, khiếu kiện về đất đai và việc đền
bù tái định canh định cư đang tồn đọng và mới phát sinh có liên quan đến đồng bào
DTTS. Đề nghị Tập đoàn Điện lực Việt Nam (EVN) cần phối hợp với các địa
phương xem xét giải quyết dứt điểm việc đền bù liên quan các dự án thủy điện còn
tồn đọng (Thượng Kon Tum, Đăk Đrinh, An Khê-Ka Năk, Đồng Nai 3, Sêrêpook
4A...). Chú ý phát hiện sớm những mâu thuẫn, xung đột, tranh chấp trong nội bộ
nhân dân, nhất là ở những địa bàn trọng điểm, phức tạp; tập trung giải quyết kịp thời
ngay từ ban đầu và tại cơ sở, không để bị động bất ngờ và hình thành “điểm nóng” về
an ninh nông thôn mà kẻ địch, các thế lực thù địch lợi dụng kích động đồng bào
chống đối dẫn đến phức tạp về an ninh chính trị.
Thứ hai: Tiếp tục triển khai đồng bộ và có hiệu quả các kế hoạch, biện
pháp công tác đảm bảo an ninh chính trị trên địa bàn Tây Nguyên; kiên quyết
đấu tranh làm thất bại âm mưu của các thế lực thù địch và bọn FULRO.
a. Chủ động có kế hoạch tiếp tục đấu tranh bóc gỡ, xóa bỏ cơ sở ngầm
FULRO, “tin lành Đêga”, tà đạo “Hà Mòn” và các loại “tà đạo” khác; không để
chúng tiếp tục tuyên truyền lôi kéo khống chế và kích động đồng bào và hình thành
tổ chức mới. Chủ động triển khai các kế hoạch đấu tranh trinh sát, đấu tranh từ
xa làm phân hóa nội bộ và vô hiệu hóa các hoạt động cũng như sự chỉ đạo vào
bên trong của chúng; ngăn chặn và hạn chế đến mức thấp nhất hoạt động của
các thế lực thù địch, bọn phản động lưu vong lợi dụng địa bàn Campuchia để
tạo lập căn cứ, tập hợp và phát triển lực lượng, móc nối lôi kéo, xâm nhập và
tác động vào bên trong. Thu thập, chuyển hóa chứng cứ vạch mặt sự tiếp tay
ủng hộ của Mỹ, UNHCR và đảng CNRP đối với bọn FULRO.
Kịp thời phát hiện, đấu tranh kiên quyết đối với các hoạt động phục hồi
tổ chức, phát triển lực lượng và “tin lành Đêga” bên trong theo phương châm
“phát hiện đến đâu, tổ chức đấu tranh bóc gỡ đến đó”. Không để chúng có cơ
208
hội kéo dài các hoạt động, tập hợp lực lượng và hình thành tổ chức ngầm bên
trong, kích động biểu tình bạo loạn. Khi xử lý giải quyết các vấn đề có liên
quan đến dân tộc, tôn giáo phải quán triệt phương châm “kiên nhẫn, thận
trọng, chắc chắn, nhanh, gọn không để lây lan kéo dài” và “dùng tôn giáo giải
quyết các vụ việc liên quan đến tôn giáo” nhưng phải bảo đảm các yêu cầu về
chính trị, nghiệp vụ và pháp luật; kết hợp tốt giữa kiên quyết trong đấu tranh
trấn áp với khoan hồng và giáo dục cảm hóa đối tượng; hết sức chú ý việc
tranh thủ, tạo được sự đồng thuận của số đông đồng bào và tín đồ tôn giáo.
b. Tăng cường các biện pháp công tác quản lý, giáo dục, cảm hoá số đối
tượng liên quan đến hoạt động FULRO đã bị xử lý hiện đang sống tại cộng đồng và
trong các trại cải tạo tập trung, hạn chế đến mức thấp nhất tình trạng chống đối và tái
hoạt động trở lại. Chú ý phải phát huy sức mạnh tổng hợp của cả cộng đồng, gia đình
dòng họ và hệ thống chính trị cơ sở, các đoàn thể quần chúng vào cuộc với các lực
lượng chức năng (trong đó Công an, Quân đội giữ vai trò tham mưu); chống quan
niệm tư tưởng cho rằng đây là nhiệm vụ của các ngành chức năng và lực lượng Công
an. Thực hiện tốt Nghị định số 80/2011/NĐ-CP ngày 16-9-2011 của Chính phủ, về
“Quy định các biện pháp bảo đảm tái hòa nhập cộng đồng cho các đối tượng chấp
hành xong án phạt tù”, đảm bảo các quyền lợi chính đáng, không bị phân biệt đối xử
đối với số đối tượng được tha về.
c. Trước mắt các Bộ, ngành liên quan và các địa phương Kon Tum, Gia Lai,
Đăk Lăk cần tập trung đấu tranh kiên quyết với hoạt động của tà đạo “Hà Mòn”
không để lây lan, kéo dài và bọn FULRO tiếp tục lợi dụng. Công tác đấu tranh, giải
quyết vấn đề tà đạo “Hà Mòn” phải được triển khai đồng loạt, trên diện rộng và phải
thống nhất về nhận thức và tư tưởng, không nên hữu khuynh nơi triển khai quyết liệt
nơi thả lỏng dẫn đến chúng còn cơ hội tồn tại hoạt động và bọn FULRO tiếp tục móc
nối lôi kéo.
209
d. Tổng Cục An ninh II (Bộ Công an) và các địa phương khẩn trương tổ
chức tổng kết, đánh giá “10 năm triển khai thực hiện Chỉ thị số 16/CT-TTg ngày
01/5/2004 của Thủ Tướng Chính phủ, về đấu tranh xoá bỏ tổ chức phản động
FULRO đang nhen nhóm phục hồi trên một số địa bàn các tỉnh Tây Nguyên”.
Trên cơ sở đó, đề xuất các giải pháp tiếp theo trong thời gian tới. Đồng thời tăng
cường công tác quản lý, giám sát và đấu tranh kịp thời đối với các hoạt động
manh động, cực đoan của các loại đối tượng địch ngụy cũ, đối tượng cơ hội
chính trị trên địa bàn; không để chúng hình thành lực lượng đối lập bên trong.
e. Quân khu V (Bộ Quốc phòng) triển khai đề án “Bảo đảm quốc
phòng” trên địa bàn các tỉnh Tây Nguyên theo chỉ đạo của Bộ Quốc phòng.
Thứ ba: Đối với các tổ chức NGOs cần theo dõi, quản lý, phát hiện kịp
thời những hoạt động sai trái và chấm dứt của các NGOs hoạt động không
hiệu quả thiết thực, lợi dụng để tiến hành các hoạt động trái mục đích và
mang màu sắc chính trị, nhất là các NGOs đang hoạt động trong vùng đồng
bào DTTS. Trong điều kiện tình hình hiện nay, các địa phương cần tính toán
cụ thể sự cần thiết phải có mặt của các NGOs hay không.
Thứ tư: Trên lĩnh vực tôn giáo.
a. Nhanh chóng hoàn thiện thể chế, chính sách tôn giáo, đảm bảo hành
lang pháp lý thông suốt cho các hoạt động tôn giáo phù hợp với tình hình; tổ
chức thực hiện đúng và đầy đủ chính sách tôn giáo, đưa chính sách đi vào
cuộc sống; tôn trọng và bảo đảm quyền tự do tín ngưỡng, tôn giáo của công
dân. Làm cho các chức sắc và tín đồ các tôn giáo yên tâm tin tưởng vào chủ
trương đường lối chính sách của Đảng, Nhà nước.
Tăng cường quản lý nhà nước về tôn giáo, đồng thời xem xét giải
quyết thấu tình đạt lý các nhu cầu sinh hoạt tín ngưỡng thuần túy của các tôn
giáo đúng đường hướng hành đạo theo Hiến chương, Điều lệ và tuân thủ pháp
210
luật. Kiên quyết ngăn chặn và xử lý nghiêm túc các sai phạm một cách công
khai đúng pháp luật và tạo được sự đồng thuận cao của các chức sắc, tín đồ
tôn giáo trên quan điểm “dùng tôn giáo giải quyết việc của tôn giáo”. Chủ
động quy hoạch chi hội, điểm nhóm đối với các hệ phái Tin lành đã được Nhà
nước công nhận, cấp phép hoạt động không để phát triển tràn lan. Nên tính
toán cụ thể việc cho phép thành lập các tổ chức tôn giáo và điểm nhóm Tin
lành tại cơ sở; tuy nhiên việc thực hiện phải đảm bảo tuân thủ các trình tự, thủ
tục và quy định của pháp luật. Đồng thời đẩy mạnh công tác tuyên truyền vận
động giáo dân, chức sắc tôn giáo; củng cố khối đại đoàn kết lương-giáo, kịp
thời biểu dương những tấm gương “tốt người, đẹp đạo” trong các chức sắc và
tín đồ tôn giáo. Đấu tranh ngăn chặn các biểu hiện tuyên truyền, xuyên tạc
làm giảm sút niềm tin của tín đồ đối với Đảng và Nhà nước, gây chia rẽ quan
hệ lương-giáo và giữa tôn giáo này với tôn giáo khác.
b. Chú trọng xây dựng cốt cán trong tôn giáo và vấn đề nhân sự của
giáo hội các cấp; giúp các giáo hội xây dựng tổ chức, Hiến chương, Điều lệ và
duy trì đường hướng hành đạo độc lập, không lệ thuộc bên ngoài. Nắm chắc
các hoạt động, diến biến tư tưởng của tín đồ và đội ngũ chức sắc; phân loại để
tranh thủ hoặc đấu tranh với số cực đoan, quá khích cầm đầu; đưa vào diện
cần chú ý, quản lý không để các thế lực thù địch lợi dụng để tạo ra xu hướng
ly khai chống phá. Phân biệt làm rõ đâu là sinh hoạt thuần túy, đâu là lợi dụng
tôn giáo để đấu tranh loại bỏ yếu tố chính trị phản động ra khỏi hoạt động tôn
giáo; thực hiện đồng bộ các giải pháp để xóa bỏ các “tà đạo, đạo lạ” và các
hoạt động tôn giáo trái pháp luật ở các địa phương. Khi xuất hiện mâu thuẫn,
xu hướng ly khai phải chủ động xử lý kịp thời, không để địch tạo dựng ngọn
cờ lôi kéo quần chúng gây bất ổn về chính trị. Kiên quyết đấu tranh không để
phục hồi hoạt động của nhóm “Giáo hội Phật giáo Việt Nam thống nhất”.
Đồng thời tăng cường hoạt động đối ngoại tôn giáo với hai nước Campuchia,
211
Lào (là hai quốc gia có 90-95% dân số theo đạo Phật); thông qua hoạt động
hợp tác trên lĩnh vực tôn giáo để tác động đến quan hệ chính trị giữa hai nước
với Việt Nam.
c. Tiếp tục nghiên cứu thực hiện tốt Nghị quyết số 23/2003/NQ-
UBTVQH ngày 26-11-2003 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội (khóa XI) về
đất do Nhà nước đã quản lý, bố trí sử dụng trong quá trình thực hiện các chính
sách quản lý nhà đất và chính sách cải tạo XHCN trước ngày 01-7-1991; Nghị
định số 84/2007/NĐ-CP của Chính phủ và Chỉ thị số 1940/CT-TTg ngày 31-
12-2008 của Thủ Tướng Chính phủ về nhà, đất liên quan đến tôn giáo. Cần rà
soát, đánh giá lại toàn diện việc thực hiện Pháp lệnh Tín ngưỡng tôn giáo và
Nghị định số 92/2012, Kết luận số 58-KL/TW của Ban Chấp hành TW (về
tiếp tục thực hiện Thông báo số 160-TB/TW ngày 15-11-2014 của Ban Bí thư
khóa IX), về chủ trương công tác đối với đạo Tin lành trong tình hình mới) để
điều chỉnh cho phù hợp. Đồng thời tiếp tục thực hiện tốt các Nghị quyết Hội
nghị Trung ương 7 (khóa IX) về phát huy sức mạnh đại đoàn kết toàn dân tộc,
về công tác dân tộc và công tác tôn giáo. Phát huy vai trò của các đoàn thể,
thu hút và tập hợp người có đạo tham gia sinh hoạt trong tổ chức.
d. Các địa phương cần kiện toàn, củng cố các Ban Tôn giáo các cấp;
bố trí đủ cán bộ chuyên trách làm công tác quản lý nhà nước về tôn giáo,
trong đó cần lựa chọn cán bộ có kinh nghiệm tuyên truyền vận động và tranh
thủ giáo dân, chức sắc, nắm vững những kiến thức về pháp luật và tôn giáo.
Chú ý cần có kế hoạch đào tạo, bồi dưỡng kiến thức cũng như sự hiểu biết về
tôn giáo cho đội ngũ cán bộ chuyên trách làm công tác quản lý nhà nước về
tôn giáo ở địa phương.
Thứ năm: Tiếp tục nghiên cứu xây dựng chiến lược đào tạo, củng cố,
kiện toàn và nâng cao chất lượng hoạt động của cán bộ trong hệ thống chính trị
các cấp, nhất là ở cấp cơ sở. Phát huy vai trò của Mặt trận Tổ quốc và các đoàn
212
thể quần chúng trong việc xây dựng cốt cán, thực lực chính trị trong quần chúng
nhân dân; tích cực thu hút đoàn viên, hội viên và đổi mới phương thức nội dung
hoạt động theo hướng gần dân, sát dân. Chú ý phải tính toán tỷ lệ cán bộ người
DTTS tại chỗ trên địa bàn một cách hợp lý đảm bảo tính khoa học, chiến lược và
lâu dài. Nghiên cứu đưa cán bộ Ban chỉ huy Quân sự huyện, các đồn Biên phòng
về tham gia hoạt động lãnh đạo cấp xã ở vùng Biên giới, những nơi khó khăn và
còn yếu kém. Bộ Nội vụ, các địa phương cần nghiên cứu, tạo mọi điều kiện để
thu hút và sử dụng có hiệu quả số học sinh, sinh viên người DTTS theo học hệ
cử tuyển (theo Nghị Định số 134/2006/NĐ-CP ngày 14-11-2006 của Thủ Tướng
Chính phủ) đã tốt nghiệp, ra trường vào làm việc trong các doanh nghiệp, cơ
quan, ban ngành và trong hệ thống chính trị cơ sở.
Các Bộ, ngành và các địa phương cần triển khai thực hiện tốt Quyết
định số 124/QĐ-TTg ngày 16-01-2014 của Thủ Tướng Chính phủ, về “Phê
duyệt đề án tiếp tục củng cố, kiện toàn chính quyền cơ sở vùng Tây Nguyên
giai đoạn 2014-2020”. Đồng thời nghiên cứu xây dựng các mô hình buôn
làng, dòng họ, liên gia tự quản gắn với chương trình xây dựng nông thôn mới
và các phong trào toàn dân tham gia bảo vệ an ninh Tổ quốc, xây dựng buôn
làng văn hóa. Chú trọng công tác xây dựng lực lượng cốt cán, phát huy vai trò
của già làng và người có uy tín trong đồng bào DTTS theo tinh thần Chỉ thị số
06/CT-TTg của Thủ Tướng Chính phủ (về phát huy vai trò người có uy tín
trong vùng đồng bào DTTS trong sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc);
vận dụng linh hoạt các quy định của luật tục tiến bộ để xây dựng các hương
ước, quy ước về bảo vệ trật tự trị an, bảo vệ tài nguyên môi trường; phát huy
tinh thần cộng đồng, dân chủ, bình đẳng và giúp đỡ nhau phát triển sản xuất,
ổn định cuộc sống.
Thứ sáu: Phải xác định an ninh, phát triển của Lào-Campuchia nói
chung, vùng Đông Bắc Campuchia và vùng Nam Lào nói riêng cũng chính là lợi
213
ích, an ninh và sự phát triển của Việt Nam và Tây Nguyên. Do đó phải hết sức
quan tâm, củng cố, tăng cường tình đoàn kết hữu nghị, hỗ trợ giúp đỡ Lào,
Campuchia (nhất là các tỉnh Nam Lào và Đông Bắc Campuchia giáp với Tây
Nguyên) trên các lĩnh vực để cùng phát triển, hợp tác chặt chẽ trong phòng
chống và đấu tranh với các loại tội phạm, bảo vệ vững chắc chủ quyền an ninh
biên giới và đối phó với âm mưu của các thế lực thù địch. Cần phối hợp với lực
lượng chức năng Campuchia thúc đẩy nhanh công tác phân giới cắm mốc trên
tuyến biên giới đất liền Việt Nam-Campuchia và tăng dày tôn tạo cột mốc biên
giới Việt Nam-Lào và công tác kiểm soát phòng chống vượt biên và xâm nhập.
Đẩy mạnh công tác đấu tranh chính trị trên lĩnh vực ngoại giao và hợp
tác quốc tế; tranh thủ được sự đồng tình ủng hộ của các nước (nhất là
Campuchia) nhằm cô lập khống chế hoạt động của số đối tượng chống đối và
bọn FULRO lợi dụng địa bàn Campuchia chống phá. Thông qua ngoại giao,
tiếp tục đàm phán giải quyết địa vị pháp lý cho số người Việt hiện đang sinh
sống tại Campuchia; thường xuyên trao đổi, phối hợp với cơ quan ngoại giao
và các Bộ, ngành liên quan giải quyết tốt các vụ việc có liên quan đến các
Doanh nghiệp đang hoạt động và người lao động tại Campuchia, Lào.
Các địa phương cần tiếp tục triển khai thực hiện tốt công tác đối ngoại,
đối ngoại nhân dân mà chúng ta đã làm từ trước đến nay; tăng cường củng cố
tình đoàn kết với các địa phương và nhân dân nước bạn. Đồng thời chỉ đạo các
Doanh nghiệp đang làm ăn tại Campuchia, Lào phải chấp hành nghiêm chỉnh
pháp luật và các quy định của nước sở tại, thực hiện đúng các cam kết và lộ trình
triển khai của dự án; hạn chế tối đa việc để xảy ra các tranh chấp, khiếu kiện với
người dân và không để cho các tổ chức chính trị đối lập và các NGOs lợi dụng
kích động chống phá, gây ảnh hưởng đến quan hệ truyền thống giữa hai nước.
Bộ Giáo dục đào tạo cùng các tỉnh cần xác định rõ và có kế hoạch trao
học bổng cho học sinh, sinh viên con em các tỉnh Đông Bắc Campuchia và
214
Nam Lào (trong định mức hàng năm) được đào tạo tại Đại học Tây Nguyên.
Đây là việc làm rất quan trọng trong việc giúp bạn đào tạo nhân tài cũng như
nòng cốt cán bộ có cảm tình với Việt Nam sau này.
Thứ bảy: Cần có các biện pháp quản lý số dân di cư tự do đến, không để họ
sống rải rác trong rừng sâu, tiếp tục phá rừng và kẻ địch lợi dụng tuyên truyền lôi kéo
vào các hoạt động gây phức tạp về an ninh chính trị và trật tự an toàn xã hội. Đồng
thời có các phương án quy hoạch để tạo điều kiện cho dân di cư tự do sớm ổn định
cuộc sống; không nên để dân di cư tự do (nhất là người Mông) cư trú tập trung trên
khu vực biên giới. Các tỉnh Tây Nguyên phối hợp với các địa phương có dân ra đi
thống nhất đề nghị Chính phủ sớm bố trí hỗ trợ về ngân sách, tạo điều kiện cho các
địa phương nhanh chóng ổn định đời sống cho đồng bào. Đồng thời cần xem xét cho
chủ trương chuyển đổi mục đích sử dụng đất Lâm nghiệp sang đất nông nghiệp để
thực hiện dự án ổn định dân di cư tự do.
Thứ tám: Cần chú trọng xây dựng, củng cố và phát huy bản sắc văn hóa dân
tộc của đồng bào các DTTS Tây Nguyên theo tinh thần Nghị quyết TW 5 (khóa IX).
Chiến tranh, tranh chấp xung đột biên giới, mâu thuẫn xung đột sắc tộc, ly
khai tự trị là những vấn đề thời sự hết sức nóng bỏng đã và đang diễn ra ở nhiều quốc
gia trên thế giới và trong khu vực. Tây Nguyên là địa bàn có đặc điểm hội tụ khá đầy
đủ các yếu tố tự nhiên, văn hoá, xã hội và những vấn đề nhạy cảm có liên quan đến
an ninh chính trị. Một khi chúng ta phát hiện kịp thời vấn đề, từ đó chủ động có các
giải pháp đúng đắn để khắc phục, thì chắc chắn Tây Nguyên sẽ ngày càng ổn định và
phát triển một cách bền vững theo tinh thần Nghị quyết số 10-NQ/TW ngày 18-
01- 2002, Kết luận số 12-KL/TW ngày 24-10-2011 của Bộ Chính trị và Nghị
quyết Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ XI đã đề ra./.
(Nguồn: Ban Chấp hành Trung ương, Ban chỉ đạo Tây Nguyên, tháng
6 năm 2014).
215
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- luan_an_tac_dong_cua_dao_tin_lanh_den_an_ninh_xa_hoi_o_tay_n.pdf