HỌC VIỆN CHÍNH TRỊ QUỐC GIA HỒ CHÍ MINH
PHẠM VĂN GIANG
SỰ BIẾN ĐỔI CỦA GIAI CẤP
CÔNG NHÂN VIỆT NAM DƯỚI TÁC ĐỘNG
CỦA HỘI NHẬP QUỐC TẾ HIỆN NAY
LUẬN ÁN TIẾN SĨ TRIẾT HỌC
CHUYÊN NGÀNH: CHỦ NGHĨA DUY VẬT BIỆN CHỨNG VÀ
CHỦ NGHĨA DUY VẬT LỊCH SỬ
HÀ NỘI - 2017
HỌC VIỆN CHÍNH TRỊ QUỐC GIA HỒ CHÍ MINH
PHẠM VĂN GIANG
SỰ BIẾN ĐỔI CỦA GIAI CẤP
CÔNG NHÂN VIỆT NAM DƯỚI TÁC ĐỘNG
CỦA HỘI NHẬP QUỐC TẾ HIỆN NAY
LUẬN ÁN TIẾN SĨ TRIẾT HỌC
CHUYÊN NGÀNH: CHỦ NGHĨA DUY VẬT BIỆN CHỨNG VÀ
173 trang |
Chia sẻ: huong20 | Ngày: 17/01/2022 | Lượt xem: 354 | Lượt tải: 1
Tóm tắt tài liệu Luận án Sự biến đổi của giai cấp công nhân Việt Nam dưới tác động của hội nhập quốc tế hiện nay, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
CHỦ NGHĨA DUY VẬT LỊCH SỬ
Mã số: 62 22 03 02
NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC:
1. GS.TS. TRẦN VĂN PHÒNG
2. PGS.TS. NGUYỄN VĂN LÝ
HÀ NỘI - 2017
LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan đây là công trình nghiên cứu của
riêng tôi. Các số liệu, kết quả nêu trong luận án là trung
thực, có nguồn gốc rõ ràng và được trích dẫn đầy đủ theo
quy định.
Tác giả
Phạm Văn Giang
MỤC LỤC
Trang
MỞ ĐẦU 1
Chương 1: TỔNG QUAN TÌNH HÌNH NGHIÊN CỨU LIÊN QUAN ĐẾN
ĐỀ TÀI 6
1.1. Những nghiên cứu liên quan đến lý luận về giai cấp công nhân và sự biến đổi của
giai cấp công nhân Việt Nam dưới tác động của hội nhập quốc tế 6
1.2. Những nghiên cứu đề cập đến thực trạng và giải pháp đối với sự biến đổi của
giai cấp công nhân Việt Nam dưới tác động của hội nhập quốc tế 17
1.3. Khái quát kết quả có giá trị tham khảo từ các công trình đã nghiên cứu và vấn đề
luận án tiếp tục nghiên cứu làm rõ 26
Chương 2: SỰ BIẾN ĐỔI CỦA GIAI CẤP CÔNG NHÂN VIỆT NAM DƯỚI
TÁC ĐỘNG CỦA HỘI NHẬP QUỐC TẾ - MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN 29
2.1. Giai cấp công nhân và giai cấp công nhân Việt Nam 29
2.2. Hội nhập quốc tế và sự biến đổi của giai cấp công nhân Việt Nam 51
Chương 3: SỰ BIẾN ĐỔI CỦA GIAI CẤP CÔNG NHÂN VIỆT NAM DƯỚI
TÁC ĐỘNG CỦA HỘI NHẬP QUỐC TẾ HIỆN NAY - THỰC TRẠNG VÀ
VẤN ĐỀ ĐẶT RA 70
3.1. Thực trạng biến đổi của giai cấp công nhân Việt Nam dưới tác động của hội nhập
quốc tế hiện nay 70
3.2. Một số vấn đề đặt ra từ sự biến đổi của giai cấp công nhân Việt Nam dưới
tác động của hội nhập quốc tế hiện nay 100
Chương 4: QUAN ĐIỂM VÀ GIẢI PHÁP PHÁT HUY BIẾN ĐỔI TÍCH
CỰC, NGĂN NGỪA VÀ HẠN CHẾ BIẾN ĐỔI TIÊU CỰC CỦA GIAI CẤP
CÔNG NHÂN VIỆT NAM DƯỚI TÁC ĐỘNG CỦA HỘI NHẬP QUỐC TẾ
HIỆN NAY 114
4.1. Quan đểm định hướng phát huy biến đổi tích cực, ngăn ngừa và hạn chế biến đổi
tiêu cực của giai cấp công nhân Việt Nam dưới tác động của hội nhập quốc tế
hiện nay 114
4.2. Một số giải pháp chủ yếu phát huy biến đổi tích cực, ngăn ngừa và hạn chế biến
đổi tiêu cực của giai cấp công nhân Việt Nam dưới tác động của hội nhập quốc tế
hiện nay 121
KẾT LUẬN 148
CÁC CÔNG TRÌNH LIÊN QUAN ĐẾN LUẬN ÁN ĐÃ CÔNG BỐ 151
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO 154
PHỤ LỤC 164
DANH MỤC CÁC BẢNG
Trang
Bảng 3.1: Dân số và lực lượng lao động trong các doanh nghiệp (2000 - 2014) 72
Bảng 3.2: Thu nhập bình quân của công nhân trong các doanh nghiệp (2005 - 2014) 83
Bảng 3.3: Lộ trình tăng lương tối thiểu vùng (2013 - 2017) 88
Bảng 3.4: Tình hình đình công, ngừng việc tập thể (2008 - 2015) 90
Bảng 3.5: Thu nhập giữa lao động quản lý, kỹ thuật viên so với công nhân sản xuất 95
1
MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Giai cấp công nhân Việt Nam ra đời từ cuối thế kỷ XIX, đầu thế kỷ XX cùng
với quá trình xâm lược và khai thác thuộc địa của thực dân Pháp. Trong suốt quá
trình cách mạng, thông qua đội tiên phong là Đảng Cộng sản Việt Nam, giai cấp
công nhân Việt Nam là lực lượng lãnh đạo, đồng thời là động lực chủ yếu trong
công cuộc đấu tranh giành độc lập dân tộc trước đây cũng như trong sự nghiệp xây
dựng chủ nghĩa xã hội hiện nay.
Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội (bổ
sung, phát triển năm 2011) tiếp tục khẳng định: “Xây dựng giai cấp công nhân lớn
mạnh cả về số lượng và chất lượng; là giai cấp lãnh đạo cách mạng thông qua đội
tiên phong là Đảng Cộng sản Việt Nam, giai cấp tiên phong trong sự nghiệp xây
dựng chủ nghĩa xã hội” [26, tr.80]. Hiện nay, sau 30 năm thực hiện đường lối đổi
mới do Đảng khởi xướng và lãnh đạo, giai cấp công nhân nước ta không ngừng lớn
mạnh, là lực lượng quan trọng, đi đầu trong sự nghiệp công nghiệp hoá, hiện đại
hoá đất nước. Giai cấp công nhân lao động cần cù, sáng tạo, sản xuất ngày càng
nhiều sản phẩm hàng hoá, dịch vụ cho xã hội và xuất khẩu với chất lượng và hiệu
quả ngày càng cao. Với số lượng chỉ chiếm 13,4% dân số cả nước và 22,6% lực
lượng lao động xã hội, nhưng giai cấp công nhân nước ta đã đóng góp hơn 60%
tổng sản phẩm xã hội và hơn 70% ngân sách nhà nước. Do đó, chăm lo xây dựng và
phát triển giai cấp công nhân đáp ứng yêu cầu nhiệm vụ cách mạng trong tình hình
mới là hết sức quan trọng.
Quá trình đổi mới đất nước đã và đang thúc đẩy nước ta hội nhập quốc tế ngày
càng sâu rộng. Hiện nay, hội nhập quốc tế trong bối cảnh “cuộc cách mạng khoa
học và công nghệ, kinh tế tri thức và quá trình toàn cầu hóa diễn ra mạnh mẽ, tác
động sâu sắc đến sự phát triển của nhiều nước” [26, tr.67]. Điều đó đã và đang tác
động đến sự chuyển biến mọi mặt của đời sống kinh tế, xã hội nước ta, trong đó giai
cấp công nhân có sự biến đổi nhanh trên nhiều phương diện cả tích cực lẫn tiêu cực,
làm bộc lộ những mặt mạnh cũng như những hạn chế trong quá trình hội nhập.
2
Quá trình hội nhập quốc tế đã thúc đẩy giai cấp công nhân nước ta phát triển
nhanh về số lượng, chất lượng được nâng cao, đa dạng về cơ cấu, đời sống vật chất
và tinh thần ngày càng được cải thiện. Mặt khác, hội nhập quốc tế cũng đang làm
cho giai cấp công nhân nước ta có nhiều biến động, không còn thuần nhất. Số lượng
công nhân trong thành phần kinh tế nhà nước ngày càng giảm, số lượng công nhân
trong các thành phần kinh tế ngoài nhà nước tăng nhanh. Sự phân tầng, phân hóa
trong nội bộ giai cấp công nhân ngày càng sâu sắc và có những biểu hiện phức tạp.
Bên cạnh xu hướng phân tầng, phân hóa về số lượng và chất lượng, thì các xu
hướng phân tầng, phân hóa về thu nhập, điều kiện việc làm đã và đang tác động khá
mạnh đến quá trình phát triển của giai cấp công nhân nước ta.
Kết quả phân tầng, phân hóa về việc làm và thu nhập của giai cấp công nhân
nước ta trong điều kiện hội nhập quốc tế cũng cho thấy, bên cạnh đời sống của một
bộ phận công nhân đã được cải thiện đáng kể, thì còn có một bộ phận không nhỏ
công nhân chưa được thụ hưởng tương xứng với những thành tựu của công cuộc đổi
mới và những đóng góp của chính mình. Việc làm, đời sống vật chất và tinh thần
của một bộ phận công nhân đang có nhiều khó khăn. Quan hệ lao động trong các
doanh nghiệp, nhất là doanh nghiệp ngoài nhà nước và doanh nghiệp có vốn đầu tư
nước ngoài có biểu hiện bức xúc và diễn biến phức tạp.
Trước yêu cầu của hội nhập quốc tế ngày càng sâu rộng chúng ta đang thiếu
nghiêm trọng các chuyên gia kỹ thuật, cán bộ quản lý giỏi, công nhân lành nghề.
Tác phong và kỷ luật lao động của công nhân còn nhiều hạn chế, một bộ phận công
nhân chậm thích nghi với quá trình hội nhập. Địa vị chính trị của giai cấp công nhân
chưa được thể hiện đầy đủ. Sự giác ngộ giai cấp và bản lĩnh chính trị của công nhân
không đều, sự hiểu biết về chính sách, pháp luật còn nhiều hạn chế. Trong khi đó,
vai trò của tổ chức cơ sở đảng, tổ chức công đoàn và các tổ chức chính trị - xã hội
khác trong các doanh nghiệp, nhất là doanh nghiệp ngoài nhà nước và doanh nghiệp
có vốn đầu tư nước ngoài đang ngày càng giảm sút nghiêm trọng.
Sự biến đổi đó của giai cấp công nhân nước ta trong điều kiện hội nhập quốc
tế đang đặt ra nhiều vấn đề lý luận và thực tiễn cần được nghiên cứu làm sáng tỏ.
3
Trong đó, việc nghiên cứu làm rõ những biến đổi tích cực và biến đổi tiêu cực của
giai cấp công nhân nước ta dưới tác động của hội nhập quốc tế, từ đó đưa ra định
hướng và giải pháp xây dựng, phát triển giai cấp công nhân nước ta trong giai đoạn
hiện nay là vấn đề vừa mang tính cấp thiết trước mắt vừa có ý nghĩa chiến lược lâu
dài. Xuất phát từ yêu cầu đó, tác giả chọn đề tài: “Sự biến đổi của giai cấp công
nhân Việt Nam dưới tác động của hội nhập quốc tế hiện nay” làm luận án tiến sĩ
khoa học triết học.
2. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu của luận án
2.1. Mục đích nghiên cứu của luận án
Từ góc nhìn triết học duy vật biện chứng và duy vật lịch sử làm rõ sự biến đổi
của giai cấp công nhân Việt Nam dưới tác động của hội nhập quốc tế, từ đó xác
định quan điểm định hướng và đề xuất giải pháp nhằm phát huy biến đổi tích cực,
ngăn ngừa và hạn chế biến đổi tiêu cực của giai cấp công nhân Việt Nam dưới tác
động của hội nhập quốc tế hiện nay.
2.2. Nhiệm vụ nghiên cứu của luận án
Để đạt được mục tiêu trên, luận án tập trung làm rõ một số nội dung sau:
Thứ nhất, tổng quan tình hình nghiên cứu liên quan đến đề tài, xác định
khoảng trống và tính độc lập trong nghiên cứu của đề tài.
Thứ hai, phân tích một số vấn đề lý luận về sự biến đổi của giai cấp công nhân
Việt Nam dưới tác động của hội nhập quốc tế.
Thứ ba, phân tích thực trạng và vấn đề đặt ra từ sự biến đổi của giai cấp công
nhân Việt Nam dưới tác động của hội nhập quốc tế hiện nay.
Thứ tư, xác định quan điểm định hướng và đề xuất những giải pháp chủ yếu
nhằm phát huy sự biến đổi tích cực, ngăn ngừa và hạn chế biến đổi tiêu cực của giai
cấp công nhân Việt Nam dưới tác động của hội nhập quốc tế hiện nay.
3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu của luận án
3.1. Đối tượng nghiên cứu của luận án
Đối tượng nghiên cứu của luận án là sự biến đổi của giai cấp công nhân Việt
Nam dưới tác động của hội nhập quốc tế hiện nay.
4
3.2. Phạm vi nghiên cứu của luận án
- Về nội dụng: Luận án nghiên cứu sự biến đổi của giai cấp công nhân Việt
Nam dưới tác động của hội nhập quốc tế hiện nay từ góc nhìn triết học.
- Về thời gian: Nghiên cứu sự biến đổi của giai cấp công nhân Việt Nam dưới
tác động của hội nhập quốc tế hiện nay là khoảng thời gian thời kỳ đổi mới đất nước
từ năm 1986 đến nay.
4. Cơ sở lý luận và phương pháp nghiên cứu của luận án
4.1. Cơ sở lý luận của luận án
Luận án dựa trên quan điểm của chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí
Minh và quan điểm của Đảng Cộng sản Việt Nam về cơ cấu xã hội - giai cấp, về
giai cấp công nhân và giai cấp công nhân Việt Nam.
4.2. Phương pháp nghiên cứu của luận án
Trên cơ sở sử dụng phương pháp luận của chủ nghĩa duy vật biện chứng và
chủ nghĩa duy vật lịch sử, nghiên cứu sinh chọn phương pháp nghiên cứu phù hợp
với từng nội dung của luận án, trong đó chủ yếu sử dụng: phương pháp kết hợp
lôgic - lịch sử, phân tích và tổng hợp, so sánh và đối chiếu, quy nạp và diễn dịch,
chú giải, khái quát hoá, trên cơ sở đó đưa ra nhận xét và kết luận.
5. Những đóng góp về mặt khoa học của luận án
- Phân tích làm rõ thực chất của hội nhập quốc tế và sự biến đổi của giai cấp
công nhân Việt Nam dưới tác động của hội nhập quốc tế.
- Phân tích thực trạng và những vấn đề đặt ra từ sự biến đổi của giai cấp công
nhân Việt Nam dưới tác động của hội nhập quốc tế từ góc nhìn triết học.
- Xác định quan điểm định hướng và đề xuất được một số giải pháp phát huy
sự biến đổi tích cực, ngăn ngừa và hạn chế biến đổi tiêu cực của giai cấp công nhân
Việt Nam dưới tác động của hội nhập quốc tế hiện nay.
6. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn của luận án
- Về lý luận: Luận án làm rõ sự biến đổi của giai cấp công nhân Việt Nam dưới
tác động của hội nhập quốc tế hiện nay từ góc nhìn triết học. Vì vậy, kết quả của luận
án sẽ là tài liệu tham khảo cho nghiên cứu và giảng dạy chuyên ngành triết học, chủ
nghĩa xã hội khoa học, các ngành khoa học xã hội và nhân văn có liên quan.
5
- Về thực tiễn: Kết quả nghiên cứu của luận án là cơ sở để các nhà lãnh đạo,
quản lý xây dựng các luận cứ khoa học, chủ trương, chính sách đúng đắn đối với
giai cấp công nhân Việt Nam hiện nay.
7. Kết cấu của luận án
Ngoài phần mở đầu, kết luận, các công trình liên quan đến luận án đã công bố,
danh mục tài liệu tham khảo và phụ lục, luận án gồm 4 chương, 9 tiết.
6
Chương 1
TỔNG QUAN TÌNH HÌNH NGHIÊN CỨU LIÊN QUAN ĐẾN ĐỀ TÀI
Về giai cấp công nhân nói chung, giai cấp công nhân Việt Nam nói riêng được
nhiều ngành khoa học xã hội nghiên cứu như: Triết học, Chủ nghĩa xã hội khoa học,
Lịch sử, Lịch sử Đảng, Xã hội học... Đây là một vấn đề được bàn đến rất nhiều và
cũng có nhiều ý kiến khác nhau trong cách tiếp cận. Gần đây, vấn đề này được bàn
luận khá sôi nổi, đề cập với những mức độ và góc độ khác nhau trong nhiều công
trình khoa học ở cả trong và ngoài nước. Ở đây, chỉ đề cập đến một số công trình,
bài viết tiêu biểu để có cái nhìn tổng quát về tình hình nghiên cứu liên quan đến đề
tài luận án.
1.1. NHỮNG NGHIÊN CỨU LIÊN QUAN ĐẾN LÝ LUẬN VỀ GIAI CẤP
CÔNG NHÂN VÀ SỰ BIẾN ĐỔI CỦA GIAI CẤP CÔNG NHÂN VIỆT NAM DƯỚI
TÁC ĐỘNG CỦA HỘI NHẬP QUỐC TẾ
- Trước hết, những nghiên cứu liên quan đến quan niệm về giai cấp công nhân
và giai cấp công nhân Việt Nam. Công trình “Phong trào công nhân quốc tế -
những vấn đề lịch sử và lý luận” [111]. Đây là một công trình được nghiên cứu
công phu của các nhà khoa học Liên Xô (gồm 8 tập), đã phân tích sự ra đời và hình
thành giai cấp công nhân, về những bước đi đầu tiên của phong trào công nhân trên
con đường trở thành lực lượng xã hội độc lập. Những điều kiện lịch sử của quá trình
trưởng thành của giai cấp công nhân và phong trào công nhân trong thời kỳ chủ
nghĩa tư bản chuyển sang chủ nghĩa đế quốc. Sự phát triển của phong trào công
nhân quốc tế ở thời kỳ trước và sau cách mạng xã hội chủ nghĩa Tháng Mười Nga
vĩ đại. Sự phát triển của phong trào công nhân quốc tế ở thời kỳ sau chiến tranh thế
giới thứ hai đến những năm đầu thập kỷ 70 của thế kỷ XX. Đây là thời kỳ phong
trào công nhân ở các nước phát triển không ngừng và tăng cường sự ảnh hưởng của
nó đối với tiến trình phát triển của lịch sử, tuy rằng phong trào cũng có lúc lâm vào
tình trạng khó khăn và diễn biến phức tạp. Ngoài ra, các tác giả cũng phân tích sự
phát triển phong trào cộng sản ở khu vực thế giới phi xã hội chủ nghĩa, những quy
luật và những xu hướng phát triển tiêu biểu có tính đến những điều kiện khu vực và
7
dân tộc đặc trưng cho toàn bộ phong trào. Nhìn chung, trong công trình này các tác
giả đã phân tích lịch sử phong trào cộng sản và công nhân quốc tế trên cơ sở những
lập luận, nhận định của chủ nghĩa Mác - Lênin.
Về vị trí, vai trò của giai cấp công nhân ở các nước tư bản hiện đại được phân
tích qua các bài viết “Giai cấp công nhân vẫn là lực lượng chính trị quan trọng
nhất” của Maicen Nhepsi [89];“Triển vọng phát triển của giai cấp công nhân ở thế
kỷ XXI” của Trushkov [131] đã chỉ ra những mâu thuẫn trong chủ nghĩa tư bản,
nhất là mâu thuẫn giữa lao động và tư bản không những không được giải quyết mà
ngày càng trở nên sâu sắc. Từ đó các tác giả cho rằng, trong xã hội tư bản hiện nay
chỉ có một giai cấp duy nhất đủ khả năng lật đổ giai cấp tư sản, đó là giai cấp công
nhân. Giai cấp công nhân là lực lượng chính trị - xã hội to lớn, họ có tổ chức công
đoàn cũng như chính đảng của mình. Trong quá trình phát triển, giai cấp công nhân
không ngừng sáng tạo hình thành nên văn hóa giai cấp mình, đồng thời làm thay đổi
nền văn hóa tư sản. Vì vậy, trong xã hội tư bản giai cấp công nhân vẫn là lực lượng
chính trị quan trọng nhất.
Trên cơ sở phân tích những vấn đề đặt ra đối với giai cấp công nhân trong thế
giới đương đại, các tác giả khẳng định giai cấp công nhân vẫn và luôn là lực lượng
lao động tiên tiến của xã hội, nhất là trong thế kỷ thứ XXI khi khoa học công nghệ
đang phát triển rất nhanh; là giai cấp chủ thể của bước quá độ từ chủ nghĩa tư bản
lên chủ nghĩa xã hội.
Đối với giai cấp công nhân Nga hiện nay, qua bài viết “Hệ tư tưởng của giai
cấp công nhân Nga hiện nay” của V.Kh.Belenski [3] chỉ ra rằng, để xác định hệ tư
tưởng của giai cấp công nhân Nga hiện nay là vô cùng khó khăn và phức tạp. Bởi
vì, giai cấp công nhân Nga đang sống trong trạng thái điều kiện kinh tế, chính trị -
xã hội hết sức phức tạp sau sự kiện lịch sử năm 1991. Tuy nhiên, về cơ bản giai cấp
công nhân Nga vẫn mong muốn xây dựng một mô hình xã hội có sự kết hợp giữa
các yếu tố quan hệ thị trường và quan hệ xã hội chủ nghĩa. Họ muốn đi theo một hệ
tư tưởng chủ nghĩa Mác đổi mới, có sự phát triển sáng tạo trong điều kiện mới của
xã hội đương đại.
Về nguồn lực lao động của giai cấp công nhân ở các nước tư bản phát triển
hiện nay, bài viết “Đào tạo nghề và việc làm cho thanh niên - vấn đề toàn cầu thế
8
kỷ XXI” của Ivanova S.V và cộng sự [104] đã phân tích vấn đề phát triển hệ thống
giáo dục hướng nghiệp và dạy nghề ở Nga và một số nước khác như: Bồ Đào Nha,
Pháp, Cộng hòa Séc, Đức, Mỹ, Anh, Tây Ban Nha. Từ đây các tác giả đã chỉ ra thực
tiễn hình thành các hình thức dạy nghề và quan hệ tương tác giữa xã hội, doanh
nghiệp với các cơ sở giáo dục trong đào tạo lực lượng lao động của xã hội ở các
nước tư bản phát triển. Theo các tác giả, trong quá trình toàn cầu hóa và hội nhập
quốc tế hiện nay lực lượng lao động cũng mang tính toàn cầu, giữa các quốc gia có
sự trao đổi và phân công lao động theo hướng chuyên môn hóa. Trong quá trình đó
người lao động tự do di chuyển đến bất cứ đâu để làm việc và trở thành công dân
toàn cầu. Vì vậy, trong thời gian tới vấn đề giải quyết việc làm cho người lao động,
gắn đào tạo với sử dụng, sự thích ứng và sự chuẩn bị nghề nghiệp cho thanh niên là
nhiệm vụ của mỗi quốc gia, đồng thời là vấn đề mang tính toàn cầu của thế kỷ XXI.
Trong công trình “Vị trí và vai trò của giai cấp công nhân đương đại” của
Liễu Khả Bạch, Vương Mai và Diêm Xuân Chi [2] đã cho rằng, trong điều kiện
phát triển mới giai cấp công nhân cần phát huy vai trò của mình trong quá trình xây
dựng chủ nghĩa xã hội mang đặc sắc Trung Quốc. Qua điều tra thực tế, các tác giả
đã phân tích những biểu hiện mới của giai cấp công nhân. Trong đó có sự tham gia
của công nhân trong quá trình phân chia lợi nhuận với giới chủ. Đặc biệt, điểm đáng
chú ý trong quan niệm về giai cấp công nhân, theo các tác giả khái niệm giai cấp
công nhân hiện nay đã được mở rộng, không chỉ có những người lao động trực tiếp
đứng máy, mà còn các tầng lớp lao động trong nhiều lĩnh vực khác, giai cấp công
nhân đã trở thành một khái niệm đa tầng với nội hàm rộng lớn, là tổng thể thống
nhất bao gồm công nhân phổ thông, thành phần trí thức, nhân viên kỹ thuật và
người quản lý kinh doanh.
Công trình “Giai cấp công nhân ở các nước tư bản phát triển từ sau chiến
tranh lạnh đến nay - thực trạng và triển vọng” của Nguyễn Thị Quế, Nguyễn
Hoàng Giáp [99] đã phân tích quan niệm của chủ nghĩa Mác - Lênin về giai cấp
công nhân, bối cảnh mới của thời đại ảnh hưởng đến giai cấp công nhân ở các nước
tư bản phát triển. Đó là sự phát triển của khoa học - công nghệ hiện đại; xu thế toàn
cầu hoá; sự phát triển nền kinh tế tri thức; những điều chỉnh của giai cấp tư sản và
9
nhà nước tư bản; sự thay đổi cục diện thế giới sau chiến tranh lạnh và sự vận động
phong trào cộng sản và công nhân ở các nước tư bản phát triển; trào lưu dân chủ xã
hội. Trên cơ sở đó, phân tích thực trạng giai cấp công nhân ở các nước tư bản phát
triển từ sau năm 1991 đến nay trên những phương diện: sự thay đổi về số lượng, cơ
cấu, chất lượng; trình độ giác ngộ, tổ chức và sự lựa chọn con đường cách mạng dân
chủ hòa bình. Từ đó chỉ ra những đặc trưng cơ bản và triển vọng của giai cấp công
nhân ở các nước tư bản phát triển trong hai thập niên tới vẫn là “động lực tinh thần,
sức mạnh trí tuệ và đạo đức”, là người thực thi bước quá độ từ chủ nghĩa tư bản lên
chủ nghĩa xã hội. Từ đó rút ra ý nghĩa đối với xây dựng giai cấp công nhân Việt
Nam hiện nay.
Nguyễn Viết Thông với bài viết “Những nhận thức khác nhau về giai cấp và
vai trò lãnh đạo của giai cấp công nhân; phê phán quan điểm phủ nhận sự tồn tại
và vai trò lãnh đạo của giai cấp công nhân trong thời đại ngày nay” [122], đã đưa
ra dẫn chứng những nhận thức khác nhau về giai cấp công nhân, từ đó đặt vấn đề có
giai cấp công nhân hay không. Từ luận cứ đưa ra tác giả khẳng định, trong thời đại
ngày nay khái niệm về giai cấp công nhân của chủ nghĩa Mác - Lênin còn nguyên ý
nghĩa. Vì thế, hiện nay vẫn tồn tại giai cấp, trong đó có giai cấp công nhân. Trên cơ
sở đó tác giả chỉ ra giai cấp công nhân là ai, ai là công nhân. Cùng với đó, tác giả
phân tích những nhận thức khác nhau về vai trò lãnh đạo của giai cấp công nhân.
Trong khi một số học giả ở nhiều nước Bắc Mỹ và châu Âu phủ nhận sự lãnh đạo
của giai cấp công nhân, thì ở các nước đang đi theo con đường xã hội chủ nghĩa như
Việt Nam, Trung Quốc, Lào, Cu Ba khẳng định giai cấp công nhân giữ vai trò lãnh
đạo cách mạng.
Về giai cấp công nhân Việt Nam, trong công trình “Bác Hồ với giai cấp công
nhân và tổ chức công đoàn” [129] đã tập hợp các bài viết của một số tác giả đề cập
đến quan điểm Chủ tịch Hồ Chí Minh về giai cấp công nhân và công đoàn Việt
Nam. Đó là vận dụng sáng tạo quan điểm của Chủ tịch Hồ Chí Minh về sứ mệnh
lịch sử của giai cấp công nhân Việt Nam vào điều kiện hiện nay; các quan điểm của
Chủ tịch Hồ Chí Minh về giai cấp công nhân và tổ chức công đoàn; quan điểm Hồ
Chí Minh về giáo dục lý luận chính trị cho giai cấp công nhân,... Ngoài ra còn trích
10
dẫn những bài nói, bài viết của Chủ tịch Hồ Chí Minh về công nhân Việt Nam trong
những điều kiện, bối cảnh khác nhau.
Các tác giả Trần Đình Huỳnh với bài viết “Giai cấp vô sản trí thức” [56]; Văn
Tạo với bài viết “Quan điểm mới về giai cấp công nhân Việt Nam qua văn kiện Đại
hội X của Đảng” [107]; Quang Cận với bài viết “Tư duy mới về giai cấp công nhân
và Đảng Cộng sản” [7]; Nguyễn Văn Huyên với bài viết “Suy nghĩ về giai cấp công
nhân và xây dựng giai cấp công nhân Việt Nam” [54] đều cho rằng, giai cấp công
nhân Việt Nam hiện nay về cơ bản từng bước được trí thức hoá; công nhân đã trở
thành người làm chủ, chí ít là làm chủ đất nước; từ người vô sản, hiện nay công nhân
có sở hữu; giai cấp công nhân đưa khoa học trên đà trở thành lực lượng sản xuất trực
tiếp; giai cấp công nhân Việt Nam có một vị thế quốc tế mới trong quá trình hội nhập.
Trong điều kiện khoa học - công nghệ hiện đại, khái niệm lực lượng sản xuất cũng
cần được mở rộng nội hàm của nó, vì có lực lượng sản xuất bằng cơ bắp, có lực
lượng sản xuất bằng trí tuệ, chất xám. Từ đó các tác giả đều cho rằng, cần phải có
quan niệm mới về giai cấp công nhân Việt Nam hiện nay theo hướng mở rộng nội
hàm, trong đó trí thức là một bộ phận của giai cấp công nhân Việt Nam.
Bàn về bản chất giai cấp công nhân Việt Nam, trong công trình“Tăng cường
bản chất giai cấp công nhân của Đảng Cộng sản Việt Nam trong giai đoạn hiện
nay” của Đỗ Ngọc Ninh, Nguyễn Văn Giang [90]; trong bài viết “Để hệ giá trị của
giai cấp công nhân Việt Nam trở thành một hệ giá trị xã hội” của Nguyễn An Ninh
[91] đều cho rằng, bản chất giai cấp công nhân được biểu hiện ở giá trị phổ quát của
lý luận chủ nghĩa Mác - Lênin, cụ thể trên một số khía cạnh cơ bản: lao động, công
bằng, bình đẳng, sự phát triển tự do và toàn diện của công nhân, là tiền đề trở thành
hệ giá trị xã hội. Vì vậy, bản chất giai cấp công nhân gắn với vai trò của Đảng Cộng
sản, xây dựng Đảng là tăng cường bản chất giai cấp công nhân.
Phê phán sự xuyên tạc bản chất giai cấp công nhân của Đảng, bài viết “Bàn về
cái gọi là phê phán bản chất giai cấp công nhân của Đảng Cộng sản Việt Nam”
của Nguyễn Văn Nam [82], đã đưa ra luận cứ phê phán quan điểm sai trái, phản
khoa học của các ý kiến phản bác bản chất giai cấp công nhân của Đảng. Theo tác
giả, để giữ vững và nâng cao bản chất giai cấp của Đảng cần phải kiên định mục
11
tiêu, lý tưởng chủ nghĩa xã hội, chủ nghĩa cộng sản; nền tảng tư tưởng của Đảng là
chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh; mối quan hệ gắn bó giữa Đảng với
nhân dân phải được củng cố vững chắc.
Về sự cần thiết phải có nghiên cứu mới về giai cấp công nhân hiện nay, các tác
giả: Nguyễn Trọng Chuẩn trong bài viết “Cần có nghiên cứu cơ bản về giai cấp công
nhân trong tiến trình phát triển của lịch sử đương đại” [9] và Mạch Quang Thắng
trong bài viết “Nghiên cứu, phát triển lý luận về giai cấp công nhân Việt Nam” [115]
đều đặt ra nhiều vấn đề mới về cách tiếp cận giai cấp công nhân hiện nay. Trên cơ sở
phân tích quan điểm của chủ nghĩa Mác - Lênin, các tác giả đưa ra những dẫn chứng,
lập luận khoa học về tính tất yếu cần phải có nhận thức mới về giai cấp công nhân
hiện nay, khi nền kinh tế tri thức đang hiển hiện và phát triển rất nhanh trong thời đại
toàn cầu hóa. Qua đó các tác giả cho rằng, cần phải tổ chức nghiên cứu về giai cấp
công nhân Việt Nam hiện nay một cách có hệ thống và toàn diện.
- Thứ hai, những nghiên cứu liên quan đến hội nhập quốc tế và sự biến đổi của
giai cấp công nhân Việt Nam dưới tác động của hội nhập quốc tế.
Đến nay chưa có công trình nào nghiên cứu trực tiếp về sự biến đổi của giai
cấp công nhân Việt Nam dưới tác động của hội nhập quốc tế. Những nghiên cứu
mới dừng lại sự tác động của hội nhập kinh tế đến sự biến đổi kinh tế - xã hội nói
chung, trong đó có sự biến đổi của giai cấp công nhân Việt Nam. Liên quan đến nội
dung này có một số công trình nghiên cứu tiêu biểu sau:
Công trình “Việt Nam hội nhập kinh tế trong xu thế toàn cầu hoá: vấn đề và
giải pháp” [4] đã phân tích một số vấn đề về toàn cầu hoá kinh tế và hội nhập kinh
tế quốc tế theo cách tiếp cận của các luận thuyết: thuyết trọng thương, thuyết tự do
thương mại, thuyết bảo hộ mậu dịch, thuyết chức năng, thuyết hiện thực, lý luận
Mác - Lênin, lý luận của trường phái phụ thuộc. Từ đó các tác giả cho rằng, hội
nhập kinh tế quốc tế là quá trình chủ động gắn kết nền kinh tế và thị trường của
từng nước với kinh tế khu vực và thế giới thông qua nỗ lực tự do hoá và mở cửa
trên các cấp độ đơn phương, song phương và đa phương. Quá trình toàn cầu hoá và
hội nhập kinh tế quốc tế sẽ tác động đến mọi quốc gia trong phát triển kinh tế, ảnh
hưởng đến đời sống chính trị - xã hội, và một số vấn đề quốc tế nói chung. Đối với
12
Việt Nam, quá trình hội nhập kinh tế quốc tế được các tác giả chia làm hai giai
đoạn: giai đoạn trước năm 1985 và giai đoạn từ 1986 đến năm 2000. Trên cơ sở
những thành tựu và hạn chế đạt được, các tác giả đưa ra những quan điểm, mục tiêu
định hướng về hội nhập cho Việt Nam trong giai đoạn mới.
Các tác giả trong cuốn sách, “Phong trào chống mặt trái của toàn cầu hoá và
vấn đề đặt ra đối với Việt Nam” [98] đã phân tích khái quát về xu thế toàn cầu hoá,
tác động của toàn cầu hoá đối với các quốc gia - dân tộc. Theo các tác giả, sự ra đời
của phong trào chống mặt trái của toàn cầu hoá là hệ quả tất yếu. Vì vậy cần làm rõ
mục tiêu, tính chất, đặc điểm, nội dung và hình thức của phong trào chống mặt trái
của toàn cầu hoá. Quan điểm của Việt Nam về toàn cầu hoá và phong trào chống
mặt trái của toàn cầu hoá. Những tác động tích cực và tiêu cực của toàn cầu hoá đối
với Việt Nam được biểu hiện trên các lĩnh vực: kinh tế, chính trị, xã hội, văn hoá,
phân công lao động quốc tế, an ninh quốc gia,... Trên cơ sở đó các tác giả làm rõ
những vấn đề đặt ra đối với Việt Nam trước xu thế toàn cầu hoá, đưa ra những
khuyến nghị nhằm hạn chế tác động tiêu cực của toàn cầu hoá và việc tham gia
phong trào chống mặt trái của toàn cầu hoá của Việt Nam.
Nguyễn Văn Giàu với bài viết “Hội nhập kinh tế quốc tế: tất yếu khách quan
của đổi mới” [41] đã phân tích kết quả triển khai chủ trương của Đảng về hội nhập
kinh tế quốc tế. Theo đó, hội nhập quốc tế vừa là cơ hội, vừa là thách thức. Mở ra
cơ hội phát triển quan hệ thương mại, thúc đẩy tái cơ cấu kinh tế theo hướng bền
vững, tạo thay đổi về mặt tư duy phát triển kinh tế cả hai khu vực kinh tế nhà nước
và kinh tế ngoài nhà nước. Tuy nhiên, theo tác giả hiện nay còn một số vấn đề đang
đặt ra đối với Việt Nam như: tính chủ động của nền kinh tế còn hạn chế, mức độ sẵn
sàng của các doanh nghiệp là chưa cao, còn bị động trong quá trình hội nhập. Từ đó
tác giả đưa ra những kiến nghị đối với quá trình hội nhập kinh tế quốc tế của Việt
Nam để hội nhập ngày càng chủ động và bền vững.
Trong bài viết “Hội nhập quốc tế của Việt Nam: từ lý thuyết đến thực tiễn”
của Đỗ Sơn Hải [46] đã phân tích hội nhập quốc tế từ góc nhìn lý thuyết tiếp cận
lịch sử của hội nhập quốc tế. Phân tích quan điểm của Đảng ta về hội nhập quốc tế.
Từ góc nhìn thực tiễn, theo tác giả lộ trình hội nhập của Việt Nam đến nay đã đạt
13
được nhiều thành tựu quan trọng, vị trí và vai trò của Việt Nam trên trường quốc tế
ngày càng được khẳng định. Tuy nhiên, bên cạnh đó vẫn còn nhiều hạn chế như:
tính hiệu quả chưa cao; còn bị động, tính chủ động và tính linh hoạt còn hạn chế.
Qua đó, tác giả đưa ra những gợi ý về quá trình hội nhập trong thời gian tới.
Về đầu tư của nước ngoài tại Việt Nam, các tác giả: Nguyễn Mại trong bài viết
“Đầu tư trực tiếp nước ngoài tại Việt Nam: thành tựu và những vấn đề đặt ra” [73]
và Ngô Văn Cương trong bài viết “Đầu tư trực tiếp nước ngoài tại Việt Nam hiện
nay” [12] đều phân tích những tác động trực tiếp của vốn đầu tư trực tiếp nước
ngoài tại Việt Nam. Theo các tác giả thì có một số tác động chủ yếu: tác động đến
đóng góp vào GDP; tác động đến đóng góp cho xuất khẩu; tác động đến chuyển
dịch cơ cấu kinh tế theo hướng công nghiệp hoá, hiện đại hoá; tạo việc làm cho
người lao động; thúc đẩy hoạt động nghiên cứu và phát triển của doanh nghiệp có
vốn đầu tư nước ngoài. Bên cạnh đó vẫn còn một số vấn đề đặt ra như: chậm
chuyển hướng chính sách thu hút FDI; các khu kinh tế, khu công nghiệp, khu công
nghệ cao ở các địa phương tương tự nhau nên không tạo ra được lợi thế khác biệt;
việc chuyển dịch cơ cấu vùng lãnh thổ còn chậm; thị trường và đối tác chủ yếu là
doanh nghiệp vừa và nhỏ; hiện tượng các nhà đầu tư nhập khẩu máy móc và công
nghệ lạc hậu vào Việt Nam; tình trạng ô nhiễm môi trường; tranh chấp lao động
trong các doanh nghiệp,... Trên cơ sở đó các tác giả đưa ra định hướng sử dụng có
hiệu quả vốn FDI trong thời gian tới.
Trong công trình “Sự phát triển của cộng đồng doanh nghiệp Việt Nam sau
khi gia nhập WTO” [58] đã phân tích tác động của hội nhập WTO đến phát triển
kinh tế của Việt Nam, như đối với xuất - nhập khẩu, đầu tư nước ngoài, ổn định
kinh tế vĩ mô và thị trường tài chính, hoàn thiện thể chế. Tác động đối với cộng
đồng doanh nghiệp Việt Nam, các tác giả đã làm rõ tình hình phát triển của doanh
nghiệp ở Việt Nam giai đoạn 2000 - 2010; tác động của ...g kinh
tế - xã hội nói chung, đến sự biến đổi của nguồn lực lao động Việt Nam nói riêng.
Đây là những tài liệu tham khảo để tác giả làm rõ thực chất của hội nhập quốc
tế hiện nay, tác động của hội nhập quốc tế đến Việt Nam. Từ đó làm rõ những biến
đổi của giai cấp công nhân Việt Nam dưới tác động của hội nhập quốc tế.
Ba là, nhiều công trình phân tích thực trạng và xu hướng biến đổi của giai cấp
công nhân Việt Nam trong quá trình công nghiệp hoá, hiện đại hoá và hội nhập quốc tế.
Các kết quả nghiên cứu này là tài liệu tham khảo quý giá, để tác giả làm cơ sở
phân tích sự biến đổi tích cực và biến đổi tiêu cực của giai cấp công nhân Việt Nam
dưới tác động của hội nhập quốc tế hiện nay.
Bốn là, từ thực trạng của giai cấp công nhân Việt Nam hiện nay, một số công
trình và bài viết phân tích cơ sở lý luận và thực tiễn để đưa ra quan điểm và giải
pháp xây dựng giai cấp công nhân Việt Nam hiện nay.
27
Đây là cơ sở tham khảo, để từ thực trạng và những vấn đề đặt ra từ sự biến đổi
giai cấp công nhân Việt Nam dưới tác động của hội nhập quốc tế, tác giả xác định
quan điểm định hướng và giải pháp phát huy sự biến đổi tích cực, ngăn ngừa và hạn
chế biến đổi tiêu cực của giai cấp công nhân Việt Nam dưới tác động của hội nhập
quốc tế hiện nay.
Như vậy, đến nay đã có nhiều công trình khoa học nghiên cứu về giai cấp
công nhân Việt Nam và sự biến đổi của nó trong quá trình đổi mới và hội nhập quốc
tế với những giá trị tham khảo được ghi nhận. Tuy nhiên, chưa có một công trình
nào nghiên cứu cụ thể và toàn diện về sự biến đổi của giai cấp công nhân Việt Nam
dưới tác động của hội nhập quốc tế từ góc nhìn triết học. Vì vậy, việc làm rõ những
biến đổi tích cực và biến đổi tiêu cực của giai cấp công nhân Việt Nam dưới tác
động của hội nhập quốc tế hiện nay, từ đó đưa ra quan điểm định hướng và giải
pháp phát huy sự biến đổi tích cực, ngăn ngừa và hạn chế biến đổi tiêu cực của giai
cấp công nhân dưới tác động của hội nhập quốc tế trong quá trình xây dựng giai cấp
công nhân Việt Nam hiện nay là vấn đề đang được đặt ra một cách cấp thiết cả về lý
luận lẫn thực tiễn. Đề tài luận án“Sự biến đổi của giai cấp công nhân Việt Nam
dưới tác động của hội nhập quốc tế hiện nay” có sự tiếp thu, chọn lọc kết quả
nghiên cứu của các công trình trước đó, đồng thời có những kiến giải riêng về
những vấn đề đang đặt ra từ góc nhìn triết học. Vì vậy, luận án sẽ tập trung làm rõ
một số nội dung sau:
Thứ nhất, phân tích làm rõ khái niệm giai cấp công nhân và quan niệm về giai
cấp công nhân Việt Nam hiện nay. Thực chất của hội nhập quốc tế và sự biến đổi
của giai cấp công nhân Việt Nam dưới tác động của hội nhập quốc tế.
Thứ hai, phân tích làm rõ thực trạng và những vấn đề đặt ra từ sự biến đổi giai
cấp công nhân Việt Nam dưới tác động của hội nhập quốc tế hiện nay.
Thứ ba, xác định quan điểm định hướng và đề xuất các giải pháp nhằm phát
huy biến đổi tích cực, ngăn ngừa và hạn chế biến đổi tiêu cực của giai cấp công
nhân Việt Nam dưới tác động của hội nhập quốc tế hiện nay.
28
Kết luận chương 1
Trong nhiều năm trở lại đây, đã có nhiều công trình tiếp cận nghiên cứu về
giai cấp công nhân giai cấp công nhân nói chung và giai cấp công nhân Việt Nam
nói riêng trên nhiều phương diện, với những mức độ và góc độ tiếp cận khác nhau.
Những nghiên cứu về hội nhập quốc tế và tác động của nó đến sự biến đổi của giai
cấp công nhân Việt Nam, mặc dù chưa đề cập trực tiếp, nhưng qua kết quả nghiên
cứu của một số công trình đã chỉ ra, trong điều kiện hội nhập quốc tế hiện nay đã và
đang tác động đến quá trình biến đổi của giai cấp công nhân Việt Nam theo những
chiều hướng khác nhau, có những biến đổi tích cực, đồng thời cũng có những biến
đổi tiêu cực.
Nhìn tổng thể, những nghiên cứu này đã làm rõ được những vấn đề lý luận và
thực tiễn về giai cấp công nhân và giai cấp công nhân Việt Nam. Đề cập phân tích
thực trạng, vấn đề đặt ra, phương hướng và giải pháp đối với quá trình xây dựng và
phát triển giai cấp công nhân Việt Nam trong điều kiện đổi mới và hội nhập quốc tế
ngày càng sâu rộng. Tuy nhiên, đến nay vẫn chưa có công trình khoa học nào trực
tiếp nghiên cứu, đi sâu phân tích làm rõ sự biến đổi của giai cấp công nhân Việt
Nam dưới tác động của hội nhập quốc tế hiện nay. Do vậy, đề tài tác giả lựa chọn
không trùng với bất kỳ công trình khoa học nào đã được công bố. Những công trình
nghiên cứu liên quan đến đề tài được tổng thuật trên đây sẽ cung cấp nhiều dữ liệu,
số liệu cần thiết để tác giả tiếp thu, kế thừa trong quá trình thực hiện luận án.
29
Chương 2
SỰ BIẾN ĐỔI CỦA GIAI CẤP CÔNG NHÂN VIỆT NAM
DƯỚI TÁC ĐỘNG CỦA HỘI NHẬP QUỐC TẾ -
MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN
2.1. GIAI CẤP CÔNG NHÂN VÀ GIAI CẤP CÔNG NHÂN VIỆT NAM
2.1.1. Khái niệm giai cấp công nhân
Trong những năm gần đây có rất nhiều công trình nghiên cứu của các tác giả
trong và ngoài nước bàn về giai cấp công nhân. Tuy nhiên, đang tồn tại nhiều ý kiến
khác nhau xoay quanh khái niệm và sứ mệnh lịch sử của giai cấp công nhân. Tùy
theo quan điểm giai cấp, thái độ chính trị và lát cắt xem xét mà người ta đưa ra ý
kiến của mình về giai cấp công nhân và sứ mệnh lịch sử của nó. Tựu trung lại có hai
loại ý kiến sau:
Loại ý kiến thứ nhất cho rằng, trong thời đại ngày nay giai cấp công nhân
không còn nữa. Những người đưa ra ý kiến này lập luận: ở những nước tư bản chủ
nghĩa phát triển cao, điều kiện kinh tế - xã hội đã thay đổi, công nhân đã có cổ phần,
có thu nhập từ lợi nhuận, đời sống cao cho nên họ đã được “trung lưu hóa” và “tan
biến” vào các giai tầng khác. Sự phát triển của khoa học - công nghệ, giai cấp công
nhân đã “hòa nhập” vào tầng lớp trí thức, bị người máy và các dây chuyền công
nghệ tự động hóa thay thế nên trở thành một bộ phận không đáng kể trong xã hội.
Vì vậy, sứ mệnh lịch sử trong thời đại ngày nay không còn thuộc về giai cấp công
nhân mà thuộc về trí thức.
Loại ý kiến thứ hai cho rằng, giai cấp công nhân vẫn tồn tại và phát triển cùng
lịch sử, nhưng được bổ sung thêm những biểu hiện, đặc trưng mới.
Vậy giai cấp công nhân là gì? gồm những ai? sứ mệnh lịch của của giai cấp công
nhân trong thời đại ngày nay như thế nào?. Để trả lời cho những câu hỏi đó, cần phải
làm rõ sự biến đổi của giai cấp công nhân trong tiến trình phát triển của lịch sử.
Dưới ánh sáng của thế giới quan khoa học và cách mạng, các nhà kinh điển
chủ nghĩa Mác - Lênin luôn đứng trên lập trường duy vật biện chứng và duy vật lịch
sử để luận giải sự vận động phát triển của xã hội, trong đó có vấn đề giai cấp công
nhân. Theo đó, vào những thập kỷ đầu của thế kỷ XVI, khi giai cấp tư sản bắt đầu
30
bước lên vũ đài chính trị để xác lập địa vị thống trị xã hội, thì chế độ kinh tế của xã
hội tư sản bắt đầu được hình thành trên cơ sở kỹ thuật thủ công của nền kinh tế
phong kiến để lại. Sự xác lập về địa vị chính trị, giai cấp tư sản đồng thời tạo ra
phương thức sản xuất mới - nền sản xuất công nghiệp với một kiểu quan hệ sản xuất
dựa trên chế độ chiếm hữu tư nhân về tư liệu sản xuất. Về mặt xã hội, nó tạo ra
đông đảo người lao động lúc này đã được tự do về thân thể, nhưng lại không có tư
liệu sản xuất, muốn tồn tại không có cách nào khác buộc phải bán lao động cho
người nắm giữ tư liệu sản xuất - giai cấp tư sản để kiếm sống, đó là những người
công nhân buổi đầu - đại biểu cho lực lượng sản xuất mới, từ đây chế độ lao động
làm thuê tư bản chủ nghĩa ra đời và trở thành cơ sở tồn tại của xã hội tư bản.
Nền sản xuất công trường thủ công đã thu hút những nạn nhân bị tước đoạt của
quá trình “tích lũy ban đầu” vào quá trình sản xuất theo cách tổ chức kinh tế buổi đầu
của xã hội tư bản, với hai hình thức tổ chức là phân tán và hỗn hợp, trong đó nét nổi
bật là sử dụng rộng rãi việc sản xuất “tại nhà” theo lối sản xuất tư bản chủ nghĩa. Về
vấn đề này V.I.Lênin cho rằng, “lao động làm ở nhà cho nhà tư bản đều tồn tại trong
tất cả các giai đoạn phát triển của chủ nghĩa tư bản trong công nghiệp, nhưng nó là
đặc trưng nổi bật hơn của công trường thủ công” [60, tr.552 - 553].
Trong điều kiện tổ chức sản xuất đó, địa vị của từng nhóm công nhân riêng
biệt có những điểm khác nhau do thành phần giai cấp không đồng nhất buổi đầu
quy định. Công nhân công trường thủ công lao động trong hình thức tổ chức hỗn
hợp làm việc trong cùng một nơi, bước đầu họ tự cảm thấy rất rõ sự “o ép” của hình
thức tổ chức kinh tế tư bản chủ nghĩa, là công cụ mà C.Mác gọi là “một thủ đoạn
bóc lột văn minh và tinh vi” [71, tr.529] hơn so với các hình thức bóc lột trong các
xã hội có giai cấp trước đó.
Chính mâu thuẫn trong quan hệ sản xuất đã làm xuất hiện những “cuộc đấu
tranh giữa nhà tư bản và người công nhân làm thuê bắt đầu cùng với bản thân các
quan hệ tư bản chủ nghĩa” [71, tr.612]. Mặc dù vậy, những cuộc đấu tranh của công
nhân lúc này vẫn chưa có tính chất giai cấp của giai cấp vô sản theo đúng nghĩa, vì
bản thân giai cấp công nhân lúc này chưa “thành hình” đầy đủ. Giai cấp công nhân
chưa trở thành một khối đồng nhất, khi những công nhân làm việc “tại nhà” ít nhiều
họ độc lập tương đối về mặt kinh tế, khi trong tay còn có những tư liệu sản xuất của
31
riêng mình. Vì vậy, ngay cả những cuộc đấu tranh công khai vẫn không thể coi đó
là phong trào công nhân. Khi đánh giá về phong trào công nhân thời kỳ này, C.Mác
cho rằng, “cuộc đấu tranh giai cấp còn ở trong trạng thái tiềm tàng, hoặc chỉ mới
bộc lộ ra trong những biểu hiện đơn nhất mà thôi” [71, tr.25]. Bởi vì, “Lúc đầu,
những điều kiện kinh tế đã biến quần chúng nhân dân thành những người lao động.
Sự thống trị của tư bản đã tạo ra cho quần chúng ấy một hoàn cảnh chung, những
lợi ích chung. Vậy là quần chúng ấy đã là một giai cấp đối lập với tư bản, nhưng
chưa phải là một giai cấp vì nó” [68, tr.256].
Như vậy, đặc điểm của giai cấp công nhân ở giai đoạn chủ nghĩa tư bản công
trường thủ công là rời rạc, phân tán trong sản xuất, một “khối người” không đồng
nhất về cơ cấu, điều đó đã gây trở ngại cho việc “hoàn thiện” quan hệ sản xuất, cho
việc khoét sâu sự đối lập giữa lao động và tư bản. Những cuộc đấu tranh đó của công
nhân còn mang tính tự phát, chưa thể hiện quan niệm có ý thức về sự đối lập lợi ích
kinh tế - xã hội giữa thợ và chủ. Vì vậy, một “giai cấp vì nó” chưa được hình thành.
Giai đoạn mới của sự phát triển giai cấp công nhân gắn liền với quá trình phát
triển của chủ nghĩa tư bản trong công nghiệp, được đánh dấu bằng cuộc cách mạng
công nghiệp vào cuối thế kỷ XVIII đầu thế kỷ XIX, cụ thể là gắn với sự lan rộng
của sản xuất công xưởng, khi giai cấp công nhân công nghiệp xuất hiện. Thời kỳ
này, giai cấp công nhân công nghiệp khác về căn bản so với công nhân làm thuê
thời kỳ công trường thủ công, họ là những người trực tiếp sản xuất hoàn toàn tách
khỏi tư liệu sản xuất. Những mâu thuẫn về lợi ích kinh tế - xã hội giữa giai cấp công
nhân với giai cấp tư sản ngày càng sâu sắc đã làm cho giai cấp công nhân thực sự
thấy được bản chất bóc lột của chủ nghĩa tư bản, từ đó họ từng bước ý thức được
địa vị, vai trò lịch sử của mình là phải đấu tranh lật đổ giai cấp tư sản, xoá bỏ chế độ
tư bản chủ nghĩa để xây dựng chế độ xã hội mới.
Qua những thất bại trong các phong trào thực tiễn đấu tranh, giai cấp công nhân
ngày càng giác ngộ và đạt đến trình độ sáng tạo ra lý luận, đi đến xây dựng tổ chức
chính trị độc lập để tổ chức và lãnh đạo phong trào đấu tranh tự giải phóng giai cấp
mình, đồng thời giải phóng toàn xã hội, thì lúc đó giai cấp công nhân đã trở thành giai
cấp “vì nó”. C.Mác cho rằng, “Trong cuộc đấu tranh - mà chúng ta chỉ nêu lên vài
giai đoạn - quần chúng ấy tập hợp nhau lại, tự hợp thành giai cấp vì nó. Những lợi ích
32
mà nó bảo vệ, trở thành những lợi ích giai cấp. Mà cuộc đấu tranh giữa giai cấp với
giai cấp là một cuộc đấu tranh chính trị.” [68, tr.256]. Do đó, với sự ra đời của chủ
nghĩa Mác và những tổ chức chính trị đầu tiên, thì lúc này giai cấp công nhân mới
chuyển từ đấu tranh “tự phát” lên đấu tranh “tự giác”, mới “định hình” với tư cách là
giai cấp chính trị - xã hội.
Vậy giai cấp công nhân là gì?. Khi định nghĩa về giai cấp công nhân, trong tác
phẩm Những nguyên lý của chủ nghĩa cộng sản Ph.Ăngghen cho rằng:
Giai cấp vô sản là một giai cấp xã hội hoàn toàn chỉ kiếm sống bằng việc
bán lao động của mình, chứ không phải sống bằng lợi nhuận của bất cứ số
tư bản nào, đó là một giai cấp mà hạnh phúc và đau khổ, sống và chết,
toàn bộ sự sống còn của họ đều phụ thuộc vào số cầu về lao động, tức là
vào tình hình chuyển biến tốt hay xấu của công việc làm ăn, vào những sự
biến động của cuộc cạnh tranh không gì ngăn cản nổi. Nói tóm lại, giai
cấp vô sản hay giai cấp những người vô sản là giai cấp lao động trong thế
kỷ XIX [68, tr.456].
Ở đây, những dấu hiệu để chỉ giai cấp công nhân đầu thế kỷ XIX đó là: người
lao động, không có của riêng, bị bần cùng hoá và đối lập với chế độ tư bản. Cùng
với quá trình phát triển của lịch sử xã hội, về sau giai cấp công nhân ngày càng có
thêm những biểu hiện mới. Khi “công nghiệp hiện đại đã biến xưởng thợ nhỏ của
người thợ cả gia trưởng thành công xưởng lớn của nhà tư bản công nghiệp,... những
nhà tiểu công nghiệp, tiểu thương nghiệp và người thực lợi nhỏ, thợ thủ công và
nông dân là những tầng lớp dưới của tầng lớp trung đẳng xưa kia, đều rơi xuống
hàng ngũ giai cấp vô sản” [68, tr.606]. Bởi vì, với “số vốn ít ỏi của họ không đủ cho
phép họ quản lý những xí nghiệp đại công nghiệp” [68, tr.606]. Thành thử thành
phần của giai cấp vô sản ngày một đa dạng, đó là vô sản công nghiệp hay vô sản
thành thị, vô sản nông nghiệp và cả công nhân công trường thủ công. Lúc này sức
lao động thực sự trở thành hàng hoá trong phương thức sản xuất tư bản chủ nghĩa.
Vì vậy, đến năm 1888, trong chú thích cho lần xuất bản bằng tiếng Anh tác phẩm
Tuyên ngôn của Đảng Cộng sản, Ph.Ăngghen viết: “giai cấp vô sản là giai cấp
những công nhân làm thuê hiện đại, vì mất các tư liệu sản xuất của bản thân, nên
buộc phải bán sức lao động của mình để sống” [68, tr.596].
33
Đến những thập niên nửa sau thế kỷ XIX, khi lực lượng sản xuất có những bước
phát phát triển mới, thì giai cấp công nhân có sự biến đổi, phân tầng về nghề nghiệp
và trình độ. Trong điều kiện đó khi xem xét quá trình lưu thông của tư bản, C.Mác đã
coi những người làm công tác quản lý, nhân viên văn phòng, nhân viên thương
nghiệp là công nhân làm thuê có chuyên môn lao động cao hơn so với lao động của
những công nhân thông thường (lao động phổ thông). Vì vậy, C.Mác khi bàn về giai
cấp công nhân đã dùng đến những khái niệm “công nhân thương nghiệp” [72, tr.444],
“giai cấp đông đảo những người giám đốc công nghiệp và thương nghiệp” [72,
tr.595]. Trong thư gửi Đại hội quốc tế các sinh viên xã hội chủ nghĩa, Ph.Ăngghen đã
đề cập đến thuật ngữ “giai cấp vô sản lao động trí óc” khi viết:
Các bạn hãy cố gắng làm cho thanh niên ý thức được rằng giai cấp vô sản
lao động trí óc phải được hình thành từ hàng ngũ sinh viên, giai cấp đó có
sứ mệnh phải kề vai sát cánh và cùng đứng trong một đội ngũ với những
người anh em của họ, những người công nhân lao động chân tay, đóng vai
trò quan trọng trong cuộc cách mạng sắp tới đây” [70, tr.613].
Bởi vì:
Sự nghiệp giải phóng giai cấp công nhân còn cần phải có những bác sĩ, kỹ
sư, nhà hóa học, nông học và các chuyên gia khác, vì vấn đề là phải nắm
lấy việc quản lý không phải chỉ bộ máy chính trị, mà còn cả toàn bộ nền
sản xuất xã hội nữa, và ở đây cần những kiến thức vững chắc chứ không
phải những câu xuông xáo oang oang” [70, tr.613 - 614].
Khi lực lượng sản xuất có bước phát triển mới, thì quan hệ sản xuất cũng có
những biến đổi trong quan hệ sở hữu. Vì vậy, đến thời kỳ này C.Mác đã đề cập đến
vấn đề công nhân có sở hữu cổ phần trong các doanh nghiệp, khi hình thức tổ chức
sản xuất ở trình độ cao của phương thức sản xuất tư bản chủ nghĩa từng bước được
hình thành. Trong điều kiện đó C.Mác cho rằng, việc công nhân có sở hữu cổ phần
“là điểm quá độ tất nhiên để tư bản lại chuyển thành sở hữu của những người sản
xuất, nhưng không phải với tư cách là sở hữu tư nhân của những người sản xuất
riêng lẽ nữa, mà với tư cách là sở hữu của những người sản xuất liên hiệp, thành sở
hữu xã hội trực tiếp” [72, tr.668]. Nghĩa là sở hữu xã hội hoá, hay xã hội hoá tư liệu
sản xuất để đáp ứng yêu cầu ngày càng phát triển của lực lượng sản xuất.
34
Như vậy, trong quan niệm của C.Mác và Ph.Ăngghen về giai cấp công nhân
luôn được mở rộng nội hàm theo quá trình phát triển, từ người thợ thủ công đến
công nhân công nghiệp cơ khí, công nhân trong điều kiện khoa học kỹ thuật phát
triển, từ những người vô sản không có sở hữu đến công nhân có sở hữu cổ phần.
V.I.Lênin đã bổ sung những thuộc tính mới của giai công nhân trong thời đại
đế quốc chủ nghĩa và cách mạng vô sản, đặc biệt là trong điều kiện chủ nghĩa xã hội
hiện thực. Theo V.I.Lênin, sự phân chia giai cấp trong xã hội phải dựa vào địa vị và
sự khác nhau của các tập đoàn người trong quan hệ đối với chế độ sở hữu tư liệu
sản xuất, trong quan hệ đối với tổ chức, quản lý sản xuất và trong quan hệ phân phối
sản phẩm. Trong tác phẩm Sáng kiến vĩ đại, V.I.Lênin đã đưa ra định nghĩa nổi
tiếng về giai cấp, làm tiêu chuẩn để phân chia cơ cấu giai cấp - xã hội, để trên cơ sở
đó nhận thức đúng về giai cấp công nhân:
Người ta gọi giai cấp, những tập đoàn to lớn gồm những người khác nhau
về địa vị của họ trong một hệ thống sản xuất xã hội nhất định trong lịch
sử, khác nhau về quan hệ của họ (thường thường thì những quan hệ này
được pháp luật quy định và thừa nhận) đối với những tư liệu sản xuất, về
vai trò của họ trong tổ chức lao động xã hội, và như vậy là khác nhau về
cách thức hưởng thụ và về phần của cải xã hội ít hoặc nhiều mà họ được
hưởng. Giai cấp là những tập đoàn người, mà tập đoàn này thì có thể
chiếm đoạt lao động của tập đoàn khác, do chỗ các tập đoàn đó có địa vị
khác nhau trong một chế độ kinh tế xã hội nhất định [63, tr.17 - 18].
Trên cơ sở quan niệm mới về giai cấp như vậy, trong nhiều tác phẩm của mình,
như “Sự phát triển của chủ nghĩa tư bản ở Nga”, “Nhà nước và cách mạng”, “Kinh tế
chính trị trong thời đại chuyên chính vô sản”..., V.I.Lênin khẳng định, sau khi cách
mạng vô sản thành công, giai cấp công nhân đã trở thành giai cấp cầm quyền, địa vị
kinh tế - xã hội của giai cấp công nhân hoàn toàn thay đổi, từ thân phận nô lệ làm
thuê trở thành giai cấp thống trị về chính trị, thông qua đội tiên phong là đảng cộng
sản lãnh đạo toàn xã hội cải tạo xã hội cũ, xây dựng xã hội mới.
Cách mạng xã hội chủ nghĩa Tháng Mười Nga vĩ đại lần đầu tiên trong lịch sử
đã khẳng định nền chuyên chính vô sản, lập nên một kiểu nhà nước mới - nhà nước
xã hội chủ nghĩa do giai cấp công nhân và nhân dân lao động lập nên. Đây là sự
35
kiện mà “từ trước cho tới lúc bấy giờ chưa hề có trong lịch sử cách mạng thế giới”
[62, tr.284]. Trong chế độ xã hội mới - xã hội xã hội chủ nghĩa, giai cấp công nhân
trở thành giai cấp lãnh đạo, là người làm chủ xã hội.
Như vậy, trong quan điểm của chủ nghĩa Mác - Lênin, giai cấp công nhân là
những người lao động trong nền sản xuất công nghiệp ngày càng hiện đại - giai cấp
đại biểu cho lực lượng sản xuất hàng đầu của nhân loại. Trong chủ nghĩa tư bản,
giai cấp công nhân không có hoặc không có sở hữu tư liệu sản xuất chủ yếu của xã
hội, để sống buộc phải bán sức lao động cho nhà tư bản và bị giai cấp tư sản bóc lột
giá trị thặng dư, có sứ mệnh xoá bỏ chế độ tư bản chủ nghĩa, xây dựng chế độ xã
hội mới. Trong chủ nghĩa xã hội giai cấp công nhân là những người làm chủ, lãnh
đạo xã hội thông qua đội tiên phong đảng cộng sản, cùng với nhân dân lao động xây
dựng chế độ xã hội mới - xã hội xã hội chủ nghĩa và cộng sản chủ nghĩa.
Từ những phân tích trên đây, có thể rút ra nhận xét về khái niệm giai cấp công
nhân như sau:
Thứ nhất, về thuật ngữ, khi phản ảnh về giai cấp công nhân trong những điều
kiện lịch sử - cụ thể, các nhà kinh điển chủ nghĩa Mác - Lênin thường sử dụng
những thuật ngữ khác nhau, như: “giai cấp công nhân”; “giai cấp vô sản”; “giai cấp
công nhân công nghiệp”; “giai cấp vô sản công nghiệp”; “giai cấp lao động trong
thế kỷ XIX”; “giai cấp công nhân đại công nghiệp cơ khí”; “giai cấp công nhân hiện
đại”; “giai cấp những người lao động làm thuê”, “giai cấp lao động”, “lao động làm
thuê”, “công nhân nông nghiệp”, “công nhân thương nghiệp”, “công nhân khai
khoáng”, “vô sản trí thức”, Về bản chất, những thuật ngữ này được sử dụng trong
những hoàn cảnh cụ thể khác nhau, nhưng có chung một nội hàm với những đặc
trưng cơ bản, thuộc tính bản chất để biểu thị về giai cấp công nhân hiện đại.
Hiện nay, xét trên phạm vi thế giới, khu vực và từng quốc gia, thì trong tất cả
các thuật ngữ C.Mác, Ph.Ăngghen và V.I.Lênin đã dùng trước đây, thì thuật ngữ
“giai cấp công nhân” và “giai cấp công nhân hiện đại” là phù hợp hơn cả, phản ánh
đầy đủ quy luật phát triển của lực lượng sản xuất hiện đại. Còn những thuật ngữ như
“giai cấp vô sản”, “giai cấp lao động trong thế kỷ XIX”; “giai cấp công nhân đại
công nghiệp cơ khí”,... mà các nhà kinh điển đã sử dụng thì chỉ còn mang ý nghĩa
lịch sử. Khái niệm “vô sản” chỉ tình trạng giai cấp công nhân bị tước hết tư liệu sản
36
xuất, không có sở hữu nào đã không còn tồn tại theo đúng nghĩa của nó. Nếu dùng
thuật ngữ “giai cấp vô sản” dễ bị hiểu theo nghĩa đen của từ đó.
Thứ hai, về nội dụng, các nhà kinh điển chủ nghĩa Mác - Lênin dựa trên hai
tiêu chí để nhận diện giai cấp công nhân. Thứ nhất, về nghề nghiệp hay nói cách
khác là về phương thức lao động. Giai cấp công nhân là sản phẩm của nền sản xuất
công nghiệp ngày càng hiện đại, từ công nhân công trường thủ công đến công
nghiệp cơ khí và công nghiệp trong điều kiện khoa học đã trở thành lực lượng sản
xuất trực tiếp. Do đó, giai cấp công nhân là tập đoàn người lao động trực tiếp hay
gián tiếp, lao động chân tay hay trí óc ở những ngành nghề, lĩnh vực kinh tế khác
nhau trong nền sản xuất công nghiệp ngày càng hiện đại. Vì vậy, giai cấp công nhân
đại diện cho lực lượng sản xuất hiện đại, phương thức sản xuất tiên tiến, có sứ mệnh
lịch sử sản xuất ra của cải vật chất cho xã hội, tổ chức, lãnh đạo phong trào cách
mạng xã hội chủ nghĩa, giải phóng giai cấp mình đồng thời giải phóng toàn xã hội
để đi đến xây dựng chế độ xã hội mới. Thứ hai, về địa vị trong quan hệ sản xuất.
Trong xã hội tư bản chủ nghĩa giai cấp công nhân không có tư liệu sản xuất, nên
phải bán sức lao động, đi làm thuê cho nhà tư bản, và bị giai cấp tư sản bóc lột giá
trị thặng dư. Chính vì vậy, C.Mác và Ph.Ăngghen còn gọi giai cấp công nhân là giai
cấp vô sản. Trong chủ nghĩa xã hội, giai cấp công nhân và nhân dân lao động là
những người làm chủ xã hội, trong đó, giai cấp công nhân là giai cấp lãnh đạo thông
qua đội tiên phong là đảng cộng sản để cải tạo xã hội cũ, xây dựng xã hội mới - xã
hội xã hội chủ nghĩa và cộng sản chủ nghĩa.
Thứ ba, giai cấp công nhân là phạm trù lịch sử, nên trong quá trình phát triển sẽ
có thêm những biểu hiện, đặc trưng mới, chứ không phải giai cấp công nhân chỉ là giai
cấp cách mạng khi nó nghèo khổ, trình độ thấp, không có sở hữu (vô sản) như cách
hiểu hoặc “cố tình hiểu” của một số người. Do đó, khi lực lượng sản xuất ngày càng
phát triển, giai cấp công nhân cũng được nâng cao về trình độ học vấn và chuyên môn,
vì nó là một bộ phận quan trọng cấu thành lực lượng sản xuất. Cho nên, cùng với sự
phát triển của phương thức sản xuất tư bản chủ nghĩa, C.Mác và Ph.Ăngghen cũng bổ
sung thêm những thuộc tính mới của giai cấp công nhân - công nhân trí thức.
Ngày nay, ở các nước tư bản chủ nghĩa phát triển, hiện tượng công nhân “cổ
cồn”, “cổ trắng”, “cổ hồng” là có thật. Công nhân truyền thống ngày càng giảm đi
37
trong cơ cấu của giai cấp công nhân, xu hướng này đang ngày càng trở thành tất yếu
khi khoa học và công nghệ đang ngày càng trở thành lực lượng sản xuất trực tiếp.
Việc rút ngắn khoảng cách giữa nghiên cứu khoa học vào sản xuất đã dẫn đến một
thực tế, các nhà nghiên cứu, sáng chế, các kỹ sư, kỹ thuật viên cao cấp, gia nhập
vào hàng ngũ giai cấp công nhân ngày càng đông. Đó là những công nhân lao động
trí óc, hay còn gọi là công nhân trí thức. Rõ ràng là, giai cấp công nhân đã mở rộng
vượt ra khỏi phạm trù nghề nghiệp của giai cấp vô sản. Sự thu nhỏ của giai cấp công
nhân công nghiệp có nghĩa là sự lớn lên của giai cấp này ở những ngành nghề mới.
Giai cấp công nhân nếu trước đây chủ yếu lao động bằng công cụ truyền thống, thì
hiện nay ở những nước phát triển chủ yếu là vận hành những dây chuyền sản xuất
công nghiệp hiện đại. Đây là xu hướng vận động tất yếu của lịch sử nói chung và của
giai cấp công nhân nói riêng. Hiện nay khái niệm giai cấp công nhân được mở rộng,
bổ sung thêm nội hàm, đó là công nhân trí thức. Vì vậy, không thể nói giai cấp công
nhân đã “hòa nhập” vào tầng lớp trí thức, bị người máy và các dây chuyền công nghệ
tự động hóa thay thế. Giai cấp công nhân hiện nay vẫn là lực lượng sản xuất hàng đầu
của nhân loại, có sứ mệnh đấu tranh xóa bỏ chế độ áp bức bóc lột, xây dựng chế độ
xã hội dân chủ, công bằng, văn minh, vì con người. Cho nên, không có chuyện sứ
mệnh lịch sử hiện nay thuộc về trí thức.
Thứ tư, theo quan điểm của C.Mác, trong nền sản xuất hàng hóa, khi lực lượng
sản xuất phát triển ngày càng mang tính xã hội hóa, thì cổ phần hóa trong tổ chức,
quản lý sản xuất là tất yếu. Chính điều này đã làm cho giai cấp công nhân ngày càng
tiến đến làm chủ tư liệu sản xuất, biến sở hữu của giai cấp tư sản thành sở hữu trực
tiếp cho người lao động, từng bước xã hội hóa sở hữu tư liệu sản xuất do lao động
tạo ra. Tuy nhiên, trong thực tế cổ phần hóa trong nền sản xuất tư bản chủ nghĩa lại
được giai cấp tư sản thực hiện như là một biện pháp điều chỉnh quan hệ sản xuất,
điều chỉnh cách thức bóc lột, bằng việc nhượng lại cho người lao động một ít cổ
phần. Điều này vừa để giải tỏa xung đột quan hệ giữa chủ với thợ, đồng thời đây
cũng là một hình thức huy động vốn của chủ nghĩa tư bản. V.I.Lênin cho rằng, “sự
dân chủ hoá việc sở hữu cổ phiếu... thực ra chỉ là một trong những phương pháp
tăng thêm uy lực cho bọn đầu sỏ tài chính”[61, tr.439]. Xét trên thực tế số cổ phần
mà người công nhân có nhỏ hơn rất nhiều so với tổng tư bản ứng ra, nên công nhân
38
thường không được tham gia đại hội cổ đông, không được tham gia vào quá trình
phân phối kết quả sản xuất. Vô hình chung giai cấp công nhân bị bóc lột dưới một
hình thức tinh vi hơn trong một điều kiện phát triển mới của chủ nghĩa tư bản.
Thực tế ngày nay hoàn toàn chứng thực những ý kiến của Lênin phê phán
những lý thuyết tư sản - cải lương về “dân chủ hoá tư bản”, mà người ta
nặn ra nhằm tô điểm cho chủ nghĩa đế quốc và làm lu mờ sự thống trị của
các tổ chức độc quyền. Bọn trùm tư bản đang lợi dụng việc lưu hành rộng
rãi những cổ phiếu nhỏ để tăng cường bóc lột và lừa bịp nhân dân, để làm
giàu cho chúng. Trái với những lời tuyên bố của bộ máy tuyên truyền tư
sản nói rằng trong các nước đế quốc chủ nghĩa hiện nay, những cổ phiếu
nhỏ (“nhân dân”), đang lưu hành rộng rãi, trong thực tế chỉ có một số ít
công nhân lành nghề - những đại biểu của cái gọi là tầng lớp công nhân
quý tộc mới có thể mua được cổ phiếu. Chẳng hạn như ở Hợp chủng quốc
Mỹ năm 1958 có khoảng nửa triệu gia đình công nhân có cổ phiếu, nhưng
giá trị của những cổ phiếu đó chỉ chiếm 0,2% tổng giá trị của toàn bộ cổ
phiếu có trong nước. Trong lúc đó chỉ riêng một gia đình Đuy-pông đã có
số cổ phiếu nhiều gấp 10 lần so với số cổ phiếu của toàn thể công nhân
Mỹ cộng lại. Như vậy, thực tế đang đánh đổ những lý thuyết có tính chất
tán dương về việc biến công nhân thành những người sở hữu (người cùng
sở hữu) các xí nghiệp, về việc “làm cho” thu nhập của các nhà tư bản
“đồng đều” với thu nhập của công nhân. Chủ nghĩa tư bản hiện đại có đặc
điểm là cái hố sâu ngăn cách giữa lao động và tư bản, giữa nhân dân và
các tổ chức độc quyền ngày càng sâu sắc thêm [61, tr.665 - 666].
Vì vậy, không phải khi giai cấp công nhân có cổ phần, cổ phiếu thì không còn
bị bóc lột hay “tan biến” vào các giai tầng khác.
Chỉ có điều, hiện nay với khả năng điều chỉnh, chủ nghĩa tư bản đang dung
hòa được phần nào mâu thuẫn giai cấp và đấu tranh giai cấp. Do vậy, phong trào
đấu tranh của giai cấp công nhân ở những nước này tạm thời lắng xuống và mang
“sắc thái mới”. Nhưng sự điều chỉnh đó của chủ nghĩa tư bản chỉ đến một giới hạn
nhất định, với “những mâu thuẫn vốn có của chủ nghĩa tư bản, nhất là mâu thuẫn
giữa tính chất xã hội hóa ngày càng cao của lực lượng sản xuất với chế độ chiếm
39
hữu tư nhân tư bản chủ nghĩa, chẳng những không giải quyết được mà ngày càng
trở nên sâu sắc... Theo quy luật tiến hóa của lịch sử, loài người nhất định sẽ tiến tới
chủ nghĩa xã hội” [26, tr.68 - 69].
Hiện nay, trước sự thay đổi nhanh chóng của thế giới đương đại, đòi hỏi khi
xem xét, đánh giá về giai cấp công nhân phải đặt nó vào hoàn cảnh lịch sử - cụ thể.
Mặc dù có một số biểu hiện, đặc trưng mới (cấu trúc nghề nghiệp đa dạng, mức
sống tăng, trình độ học vấn, chuyên môn cao,), nhưng địa vị kinh tế - xã hội của
giai cấp công nhân ở các nước tư bản chủ nghĩa hiện nay vẫn không thay đổi nếu
xem công nhân là người lao động trong sự phát triển không ngừng; và xét họ trong
quan hệ với giai cấp tư sản, vẫn là tầng lớp xã hội gắn với lực lượng sản xuất hiện
đại trong quan hệ làm thuê cho nhà tư bản. Ở những nước đi theo con đường chủ
nghĩa xã hội, giai cấp công nhân không ngừng phát triển về số lượng và chất lượng,
là những người làm chủ về mọi tiến trình sản xuất của xã hội, thông qua sự lãnh đạo
của đảng cộng sản, tổ chức cải tạo xã hội cũ, xây dựng xã hội mới. Do đó, để nhận
diện giai cấp công nhân hiện nay, cần có nhận thức mới về các tiêu chí của người
công nhân trong thế...ó sự lãnh đạo và quản lý thống nhất để tạo điều kiện phát huy tổng hợp
các nhân tố khách quan và chủ quan, nội lực và ngoại lực nhằm xây dựng giai cấp
công nhân Việt Nam ngày càng lớn mạnh, đáp ứng yêu cầu sự nghiệp đẩy mạnh
công nghiệp hoá, hiện đại hoá và hội nhập quốc tế ngày càng sâu rộng.
151
CÁC CÔNG TRÌNH LIÊN QUAN ĐẾN LUẬN ÁN ĐÃ CÔNG BỐ
1. Phạm Văn Giang (2010), “Giai cấp công nhân Việt Nam hiện nay - sự đa dạng
thành phần, ngành nghề và định hướng phát triển”, Tạp chí Lý luận chính trị,
(11), tr.61 - 65.
2. Phạm Văn Giang (2010), “Về sự phân tầng của giai cấp công nhân Việt Nam hiện
nay - vấn đề đặt ra và giải pháp khắc phục”, Tạp chí Lao động và Công đoàn,
(7), tr.8 - 9, 39.
3. Phạm Văn Giang (2011), “Góp phần nhận diện giai cấp công nhân Việt Nam hiện
nay”, Tạp chí Triết học, (2), tr.61 - 67.
4. Phạm Văn Giang (2011), “Quan điểm của chủ nghĩa Mác - Lênin về sự hình thành
và phát triển của giai cấp công nhân và thời đại ngày nay”, Tạp chí Lao động
và Công đoàn, (3), tr.10 - 11.
5. Phạm Văn Giang (2011), “Sứ mệnh lịch sử của giai cấp công nhân dưới ánh sáng
Nghị quyết Đại hội XI của Đảng”, Tạp chí Lao động và Công đoàn, (6), tr.9 - 10.
6. Phạm Văn Giang (2011), “Hướng nghiệp - giải pháp quan trọng trong quá trình
đào tạo nguồn nhân lực đáp ứng yêu cầu sự nghiệp công nghiệp hoá, hiện đại
hoá đất nước”, Tạp chí Lao động và Công đoàn, (7), tr.9 - 11.
7. Phạm Văn Giang (2011), “Giai cấp công nhân trong điều kiện phát triển kinh tế tri
thức”, Tạp chí Lao động và Công đoàn, (8), tr.6 - 7.
8. Phạm Văn Giang (2012), Xu hướng vận động của giai cấp công nhân Việt Nam
trong quá trình đổi mới, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.
9. Phạm Văn Giang (2012), “Hợp tác quốc tế về đào tạo nhân lực trong bối cảnh toàn
cầu hoá và hội nhập quốc tế”, Kỷ yếu Hội thảo khoa học quốc tế - Hội nhập:
cơ hội và thách thức, Đại học Thương mại Hà Nội, Nxb Thống kê, Hà Nội,
tr.303 - 310.
10. Phạm Văn Giang (2012), “Đội ngũ công nhân Bình Định trong thời kỳ đẩy mạnh công
nghiệp hoá, hiện đại hoá”, Tạp chí Lao động và Công đoàn, (4) tr.14 - 15, 37.
11. Phạm Văn Giang (2012), “Nguồn lực lao động và vấn đề giải quyết việc làm
trong quá trình công nghiệp hoá, hiện đại hoá ở miền Trung”, Tạp chí Lý luận
chính trị, (8), tr.64 - 69.
152
12. Phạm Văn Giang (2012), “Để giai cấp công nhân xứng đáng đi tiên phong trong
sự nghiệp xây dựng chủ nghĩa xã hội”, Tạp chí Lao động và Công đoàn, (11),
tr.6 - 7, 33.
13. Phạm Văn Giang (2012), “Giải pháp đào tạo nguồn nhân lực theo tinh thần Nghị
quyết Đại hội XI của Đảng”, Tạp chí Phát triển nhân lực, (4), tr.51 - 55.
14. Phạm Văn Giang (2013), “Quản lý nhà nước về liên kết đào tạo nhân lực có yếu
tố nước ngoài ở Việt Nam hiện nay, thực trạng và kiến nghị”, Tạp chí Lao
động và Công đoàn, (5), tr.12 - 14.
15. Phạm Văn Giang (2013), “Đào tạo nhân lực cho Vùng kinh tế trọng điểm miền
Trung trong giai đoạn hiện nay - thực trạng và giải pháp”, Tạp chí Sinh hoạt lý
luận, (6), tr.61 - 66.
16. Phạm Văn Giang (2013), “Vai trò của nhà nước đối với liên kết đào tạo giữa nhà
trường với doanh nghiệp ở nước ta hiện nay”, Tạp chí Lao động và Công
đoàn, (12), tr.10 - 11.
17. Phạm Văn Giang (2014), “Bản chất giai cấp công nhân của chế độ chính trị - những
điểm mới trong Hiến pháp 2013”, Tạp chí Sinh hoạt lý luận, (6), tr.18 - 21, 80.
18. Phạm Văn Giang, Trần Văn Phòng (2015), “Một số vấn đề thực tiễn và lý luận về
giai cấp công nhân Việt Nam hiện nay”, Tạp chí Lịch sử Đảng, (3), tr.23 - 28.
19. Phạm Văn Giang (2015), “Quan hệ giữa tính giai cấp và tính dân tộc - những điểm
mới trong Hiến pháp năm 2013”, Tạp chí Tổ chức nhà nước, (4), tr.34 - 37.
20. Phạm Văn Giang (2015), “Sự biến đổi của giai cấp công nhân Việt Nam trong quá
trình hội nhập quốc tế hiện nay”, Tạp chí Lao động và Công đoàn, (5), tr.6 - 7.
21. Phạm Văn Giang (2015), “Thực trạng liên kết đào tạo nhân lực ở các tỉnh duyên
hải miền Trung”, Tạp chí Lý luận chính trị, (9), tr.57 - 61.
22. Phạm Văn Giang (2015), “Để phát huy vai trò của giai cấp công nhân Việt Nam
trong quá trình hội nhập quốc tế”, Tạp chí Sinh hoạt lý luận, (5), tr.13 - 17, 45.
23. Phạm Văn Giang, Trần Văn Phòng (2015), “Liên minh công - nông - trí thức ở nước
ta trong giai đoạn hiện nay”, Tạp chí Lao động và Công đoàn, (10), tr.8 - 9.
153
24. Phạm Văn Giang (2015), “Hội nhập quốc tế - từ lý luận đến thực tiễn ở Việt
Nam”, Tạp chí Lao động và Công đoàn, (12), tr.8 - 9.
25. Phạm Văn Giang (2016), “Xu hướng biến đổi và vai trò của giai cấp công nhân
Việt Nam hiện nay”, Tạp chí Lý luận chính trị, (2), tr.54 - 59.
26. Phạm Văn Giang (2016), “Xây dựng giai cấp công nhân Việt Nam theo tinh thần
Nghị quyết Đại hội XII của Đảng”, Tạp chí Lịch sử Đảng, (6), tr.54 - 58.
27. Phạm Văn Giang (2016), “Hội nhập quốc tế - nội hàm và định hướng của Việt
Nam”, Tạp chí Sinh hoạt lý luận (5), tr.44 - 47.
28. Phạm Văn Giang (2016), “Giai cấp công nhân Việt Nam hiện nay”, Tạp chí Khoa
học xã hội Việt Nam, (11), tr.81 - 87.
29. Phạm Văn Giang (2016), “Để đào tạo nguồn nhân lực đáp ứng yêu cầu của hội
nhập quốc tế hiện nay”, Tạp chí Lao động và Công đoàn, (11), tr.10 - 11.
30. Phạm Văn Giang (2016), “Cơ cấu và phân tầng xã hội của giai cấp công nhân
Việt Nam qua 30 năm đổi mới”, Tạp chí Thông tin khoa học Lý luận chính trị,
(9,10), tr.71 - 79.
154
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Ngọc Anh và các Cộng sự (2014), “Đời sống công nhân khu công nghiệp, khu chế
xuất”, Hồ sơ sự kiện, Chuyên san Tạp chí Cộng sản, (8), tr.3 - 13.
2. Liễu Bạch, Vương Mai và Diêm Xuân Chi (2008), Vị trí và vai trò của giai cấp công
nhân đương đại”, Nxb Công nhân Trung Quốc, Người dịch: Nguyễn Ngọc
Lân, hiệu đính Nguyễn Thanh, Nxb Lao động, Hà Nội.
3. V.Kh.Belenski (2009), “Hệ tư tưởng của giai cấp công nhân Nga hiện nay”, Bản
dịch đăng trên Thông tin chủ nghĩa xã hội - lý luận và thực tiễn, (23).
4. Bộ Ngoại giao Việt Nam (2002), Việt Nam hội nhập kinh tế trong xu thế toàn cầu
hoá: vấn đề và giải pháp, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.
5. Bộ Ngoại giao Việt Nam (2011), Báo cáo tổng quan về tình hình di cư của công dân
Việt Nam ra nước ngoài, Hà Nội.
6. Bùi Đình Bôn (2008), “Nhiệm vụ và giải pháp xây dựng giai cấp công nhân Việt
Nam thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước” Tạp chí Lý
luận chính trị, (2), tr.32 - 37.
7. Quang Cận (2007), “Tư duy mới về giai cấp công nhân và Đảng Cộng sản”, Tạp chí
Cộng sản, (8), tr.40 - 45.
8. Nguyễn Trọng Chuẩn (2009), “Xu hướng phát triển của giai cấp công nhân Việt
Nam trong thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp hoá theo hướng hiện đại và hội
nhập quốc tế”, Tạp chí Triết học, (5), tr.3 - 9.
9. Nguyễn Trọng Chuẩn (2013), “Cần có nghiên cứu cơ bản về giai cấp công nhân
trong tiến trình phát triển của lịch sử đương đại”, Tạp chí Phát triển nhân lực,
(5), tr.9 -13.
10. Trần Văn Chử (2007), “Đời sống vật chất và tinh thần của công nhân trong các khu
công nghiệp, khu chế xuất”, Tạp chí Lý luận chính trị, (9), tr.53 - 55.
11. Lương Minh Cừ, Vũ Văn Thư (2011), Sở hữu tư nhân và kinh tế tư nhân ở Việt
Nam hiện nay - một số nhận thức về lý luận và thực tiễn, Nxb Chính trị quốc
gia, Hà Nội.
12. Ngô Văn Cương (2015), “Đầu tư trực tiếp nước ngoài tại Việt Nam hiện nay”, Tạp
chí Lý luận chính trị, (7), tr.43 - 46.
155
13. Phạm Ngọc Dũng (chủ biên) (2012), Chảy máu chất xám - từ lý luận đến thực tiễn
ở Việt Nam hiện nay, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.
14. Vũ Tiến Dũng (2016), “Một số giải pháp tăng cường liên kết đào tạo giữa trường
đại học và doanh nghiệp”, Tạp chí Lý luận chính trị, (5), tr.56 - 60.
15. Đại học Quốc gia Hà Nội (2003), Toàn cầu hoá và tác động đối với sự hội nhập
của Việt Nam, Nxb Thế giới, Hà Nội.
16. Đại học Quốc gia Hà Nội (2010), Giai cấp công nhân Việt Nam trong sự nghiệp
công nghiệp hoá, hiện đại hoá và hội nhập quốc tế, Nxb Chính trị quốc gia,
Hà Nội.
17. Đảng Cộng sản Việt Nam (2001), Văn kiện Đảng, toàn tập, tập 12, Nxb Chính trị
quốc gia, Hà Nội.
18. Đảng Cộng sản Việt Nam (2002), Văn kiện Đảng, toàn tập, tập 21, Nxb Chính trị
quốc gia, Hà Nội.
19. Đảng Cộng sản Việt Nam (2004), Văn kiện Đảng, toàn tập, tập 37, Nxb Chính trị
quốc gia, Hà Nội.
20. Đảng Cộng sản Việt Nam (2006), Văn kiện Đảng, toàn tập, tập 43, Nxb Chính trị
quốc gia, Hà Nội.
21. Đảng Cộng sản Việt Nam (2006), Văn kiện Đảng, toàn tập, tập 47, Nxb Chính trị
quốc gia, Hà Nội.
22. Đảng Cộng sản Việt Nam (1991), Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VII,
Nxb Sự thật, Hà Nội.
23. Đảng Cộng sản Việt Nam (1996), Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VIII,
Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.
24. Đảng Cộng sản Việt Nam (2001), Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ IX,
Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.
25. Đảng Cộng sản Việt Nam (2006), Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ X,
Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.
26. Đảng Cộng sản Việt Nam (2011), Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XI,
Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.
27. Đảng Cộng sản Việt Nam (2016), Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XII,
Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.
156
28. Đảng Cộng sản Việt Nam (2007), Văn kiện Hội nghị lần thứ tư Ban Chấp hành
Trung ương khóa X, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.
29. Đảng Cộng sản Việt Nam (2008), Văn kiện Hội nghị lần thứ sáu Ban Chấp hành
Trung ương khóa X, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.
30. Đảng Cộng sản Việt Nam (2012), Văn kiện Hội nghị lần thứ tư Ban Chấp hành
Trung ương khóa XI, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.
31. Đảng Cộng sản Việt Nam (2013), Văn kiện Hội nghị lần thứ tám Ban Chấp hành
Trung ương khoá XI, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.
32. Đảng Cộng sản Việt Nam (2012), Chỉ thị số 16-CT/TW của Ban Bí thư Về tăng
cường sự lãnh đạo của Đảng đối với công tác đưa người lao động và chuyên
gia Việt Nam đi làm việc ở nước ngoài, Hà Nội.
33. Đảng Cộng sản Việt Nam (2002), Nghị quyết số 07-NQ/TW của Bộ Chính trị Về
hội nhập kinh tế quốc tế, Hà Nội.
34. Đảng Cộng sản Việt Nam (2013), Nghị quyết số 22-NQ/TW của Bộ Chính trị Về
hội nhập quốc tế, Hà Nội.
35. Đảng Cộng sản Việt Nam (2016), Nghị quyết số 06-NQ/TW của Ban Chấp hành
Trung ương Về thực hiện có hiệu quả tiến trình hội nhập kinh tế quốc tế, giữ
vững ổn định chính trị - xã hội trong bối cảnh nước ta tham gia các hiệp định
thương mại tự do thế hệ mới, Hà Nội.
36. Đặng Quang Định (2010), Quan hệ lợi ích kinh tế giữa công nhân, nông dân và trí
thức ở Việt Nam hiện nay, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.
37. Nguyễn Tài Đông (2009), “Giai cấp công nhân Trung Quốc - một số vấn đề lý luận
và thực tiễn” Tạp chí Triết học, (10), tr.47 - 53.
38. Phan Huy Đường (chủ biên) (2012), Quản lý nhà nước về lao động nước ngoài
chất lượng cao ở Việt Nam, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.
39. Huỳnh Thị Gấm (chủ biên) (2013), Xây dựng tổ chức đảng trong doanh nghiệp có
vốn đầu tư nước ngoài giai đoạn hiện nay (Qua khảo sát ở miền Đông Nam
Bộ), Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.
40. Nguyễn Văn Giang (chủ biên) (2009), Đảng lãnh đạo xây dựng giai cấp công nhân
trong giai đoạn hiện nay, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.
157
41. Nguyễn Văn Giàu (2014), “Hội nhập kinh tế quốc tế: tất yếu khách quan của đổi
mới”, Tạp chí Cộng sản (chuyên đề cơ sở), (12), tr.9 - 4.
42. Bùi Thị Thanh Hà (2003), Công nhân công nghiệp trong các doanh nghiệp liên
doanh ở nước ta thời kỳ đổi mới, Nxb Khoa học xã hội, Hà Nội.
43. Đặng Thanh Hà (2011), “Thực trạng đời sống công nhân khu công nghiệp”, Báo
Nhân dân, ngày 9 - 8 - 2011.
44. Lê Thanh Hà (2014), “Công nhân trí thức nguồn nhân tài trong sản xuất”, Tạp chí
Tri thức và phát triển, (9).
45. Nguyễn An Hà (chủ biên) (2015), Tác động của toàn cầu hoá đến quá trình phát
triển của một số nền kinh tế chuyển đổi Đông Âu và Việt Nam, Nxb Khoa học
xã hội, Hà Nội.
46. Đỗ Sơn Hải (2014), “Hội nhập quốc tế của Việt Nam: từ lý thuyết đến thực tiễn”,
Tạp chí Cộng sản, (1), tr.55 - 59.
47. Kim Hằng (2014), “Chăm lo đời sống công nhân tại Thành phố Hồ Chí Minh: chưa
tương xứng với đóng góp lớn”, Hồ sơ sự kiện, Chuyên san Tạp chí Cộng sản,
(8), tr.20 - 21.
48. Bùi Thị Kim Hậu (2012), Trí thức hoá công nhân Việt Nam trong hội nhập kinh tế
quốc tế hiện nay, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.
49. Nguyễn Thị Kim Hoa (2013), Tính tích cực chính trị của công dân Việt Nam trong
xu thế hội nhập quốc tế hiện nay, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.
50. Nguyễn Thanh Hòa (2014), “Đưa người lao động đi làm việc ở nước ngoài góp
phần tạo việc làm, xoá đói, giảm nghèo và thực hiện an sinh xã hội”, Tạp chí
Cộng sản (12), tr.83 - 87.
51. Hội đồng Trung ương chỉ đạo biên soạn giáo trình các bộ môn khoa học Mác -
Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh (1996), Một số vấn đề về chủ nghĩa Mác-Lênin
trong thời đại ngày nay, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.
52. Hội đồng Trung ương chỉ đạo biên soạn giáo trình các bộ môn khoa học Mác-
Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh (2003), Giáo trình chủ nghĩa xã hội khoa học,
Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.
53. Vũ Xuân Hùng (2016), “Nhân lực chất lượng cao”, Báo Nhân dân cuối tuần, ngày
12 - 6 - 2016.
158
54. Nguyễn Văn Huyên (2007), “Suy nghĩ về giai cấp công nhân và xây dựng giai cấp
công nhân Việt Nam”, Tạp chí Lý luận chính trị, (11), tr.72 -76.
55. Đinh Thế Huynh (chủ biên) (2015), 30 năm đổi mới và phát triển ở Việt Nam, Nxb
Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2015.
56. Trần Đình Huỳnh (2011), “Giai cấp vô sản trí thức”, Tạp chí Xây dựng Đảng, (11),
tr.7 - 9.
57. Nguyễn Thị Hường (2012), Giai cấp công nhân - giai cấp tiên phong trong quá
trình xây dựng chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam, Luận án tiến sĩ Triết học, Học
viện Chính trị - Hành chính quốc gia Hồ Chí Minh, Hà Nội.
58. Đoàn Duy Khương (chủ biên) (2013), Sự phát triển của cộng đồng doanh nghiệp
Việt Nam sau khi gia nhập WTO, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.
59. Nguyễn Văn Lan (2004), Phong trào công nhân ở các nước tư bản hiện nay - thực
trạng và triển vọng, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.
60. V.I.Lênin (1976), Toàn tập, tập 3, Nxb Tiến bộ, Mát-xcơ-va.
61. V.I.Lênin (1976), Toàn tập, tập 27, Nxb Tiến bộ, Mát-xcơ-va.
62. V.I.Lênin (1976), Toàn tập, tập 35, Nxb Tiến bộ, Mát-xcơ-va.
63. V.I.Lênin (1977), Toàn tập, tập 39, Nxb Tiến bộ, Mát-xcơ-va.
64. Hạ Long (2014), “Phát triển kinh tế tri thức ở Việt Nam - cơ hội và thách thức”,
Tạp chí Cộng sản (chuyên đề cơ sở), (11), tr.56 - 60.
65. Thái Văn Long (2006), “Giai cấp công nhân trong điều kiện cách mạng khoa học -
công nghệ”, Tạp chí Lý luận chính trị, (6), tr.37 - 42.
66. Trương Giang Long (2007), “Giai cấp công nhân Việt Nam - thực trạng và suy
ngẫm”, Tạp chí Cộng sản, (12), tr.34 - 39.
67. Phạm Thị Lý (2015), “Thị trường lao động Việt Nam trong cộng đồng kinh tế
ASEAN: cơ hội và thách thức”, Tạp chí Khoa học chính trị, (1 + 2), tr.34 - 41.
68. C.Mác, Ph.Ăngghen (1995), Toàn tập, tập 4, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.
69. C.Mác, Ph.Ăngghen (1993), Toàn tập, tập 12, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.
70. C.Mác, Ph.Ăngghen (1995), Toàn tập, tập 22, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.
71. C.Mác, Ph.Ăngghen (1993), Toàn tập, tập 23, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.
72. C.Mác, Ph.Ăngghen (1994), Toàn tập, tập 25, phần I, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.
159
73. Nguyễn Mại (2014), “Đầu tư trực tiếp nước ngoài tại Việt Nam: thành tựu và
những vấn đề đặt ra”, Tạp chí Cộng sản (chuyên đề cơ sở), (12), tr.15 - 19.
74. Hồ Chí Minh (2000), Toàn tập, tập 2, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.
75. Hồ Chí Minh (2000), Toàn tập, tập 4, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.
76. Hồ Chí Minh (2000), Toàn tập, tập 6, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.
77. Hồ Chí Minh (2000), Toàn tập, tập 7, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.
78. Hồ Chí Minh (2000), Toàn tập, tập 8, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.
79. Hồ Chí Minh (2000), Toàn tập, tập 9, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.
80. Hồ Chí Minh (2000), Toàn tập, tập 10, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.
81. Hồ Chí Minh (2000), Toàn tập, tập 12, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.
82. Nguyễn Văn Nam (2014) “Bàn về cái gọi là phê phán bản chất giai cấp công nhân
của Đảng Cộng sản Việt Nam”, Tạp chí Sinh hoạt lý luận, (5), tr.32 - 37.
83. Lê Hữu Nghĩa, Lê Văn Chiến (đồng chủ biên) (2014), Tác động của đầu tư trực
tiếp nước ngoài đến năng suất lao động và trình độ công nghệ của Việt Nam,
Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.
84. Dương Xuân Ngọc (2004), Giai cấp công nhân Việt Nam trong sự nghiệp công
nghiệp hoá hiện đại hoá đất nước, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.
85. Dương Xuân Ngọc (2008), “Nâng cao ý thức chính trị cho giai cấp công nhân Việt
Nam trước yêu cầu, nhiệm vụ mới”, Tạp chí Lý luận chính trị, (4), tr.11 - 16.
86. Nguyễn Văn Ngừng (2010), Xu hướng phát triển kinh tế thế giới hiện nay và tác
động đối với an ninh trật tự ở Việt Nam, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.
87. Nguyễn Nhâm (2014), “Để đẩy nhanh tiến độ cổ phần hoá doanh nghiệp nhà
nước”, ngày 4 - 7 - 2014.
88. Nguyễn Văn Nhật (chủ biên) (2010), Xây dựng và phát triển đời sống văn hoá của
giai cấp công nhân Việt Nam - một số vấn đề lý luận và thực tiễn, Nxb Khoa
học xã hội, Hà Nội.
89. Maicen Nhepsi (2005) “Giai cấp công nhân vẫn là lực lượng chính trị quan trọng
nhất”, Bản dịch đăng trong Chuyên đề Thông tin - Ban tuyên giáo Thành ủy
Thành phố Hồ Chí Minh, (12), tr.11 - 16.
160
90. Đỗ Ngọc Ninh, Nguyễn Văn Giang (đồng chủ biên) (2008), Tăng cường bản chất
giai cấp công nhân của Đảng Cộng sản Việt Nam trong giai đoạn hiện nay,
Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.
91. Nguyễn An Ninh (2007), “Để hệ giá trị của giai cấp công nhân Việt Nam trở thành
một hệ giá trị xã hội”, Tạp chí Triết học, (10), tr.34 - 40.
92. Nguyễn An Ninh (2007), Về xu hướng công nhân hoá ở nước ta hiện nay, Nxb
Chính trị quốc gia, Hà Nội.
93. Phùng Hữu Phú và các Cộng sự (2016), Một số vấn đề lý luận - thực tiễn về chủ
nghĩa xã hội và con đường đi lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam qua 30 năm đổi
mới, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.
94. Vũ Văn Phúc, Nguyễn Duy Hùng (chủ biên) (2012), Phát triển nguồn nhân lực đáp
ứng yêu cầu công nghiệp hoá, hiện đại hoá và hội nhập quốc tế, Nxb Chính trị
quốc gia, Hà Nội.
95. Tiểu Phương, Kiều Hương và Thái Sơn (2014), “Nâng cao vai trò các tổ chức đảng
trong doanh nghiệp cổ phần hoá”, Báo Nhân dân, ngày 29 và 30 - 10 - 2014.
96. Trần Đại Quang (2016), “Cuộc cách mạng công nghiệp lần thứ tư - thời cơ phát triển
và các thách thức an ninh phi truyền thống”, Báo Nhân dân, ngày 04 - 10 - 2016.
97. Đào Duy Quát, Cao Đức Thái (2002), Biến đổi cơ cấu giai cấp trong chủ nghĩa tư
bản hiện đại, Nxb Đại học quốc gia Thành phố Hồ Chí Minh.
98. Nguyễn Thị Quế, Nguyễn Hoàng Giáp và Mai Hoài Anh (đồng chủ biên) (2008),
Phong trào chống mặt trái của toàn cầu hoá và vấn đề đặt ra đối với Việt
Nam, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.
99. Nguyễn Thị Quế, Nguyễn Hoàng Giáp (đồng chủ biên) (2010), Giai cấp công nhân
ở các nước tư bản phát triển từ sau chiến tranh lạnh đến nay - thực trạng và
triển vọng, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.
100. Nguyễn Thị Quế, Nguyễn Thị Tú Hoa (2013), “Thực trạng giai cấp công nhân
Việt Nam hiện nay”, Tạp chí Lý luận chính trị, (6), tr.29 - 34.
101. Quốc hội Việt Nam (2013), Hiến pháp Nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt
Nam, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.
102. Quốc hội Việt Nam (2015), Bộ luật Lao động, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.
161
103. Trần Thị Như Quỳnh (2011), Công nhân trí thức ở Thành phố Hồ Chí Minh thời
kỳ đẩy mạnh công nghiệp hoá, hiện đại hoá, Luận án tiến sĩ Triết học, Học
viện Chính trị - Hành chính quốc gia Hồ Chí Minh, Hà Nội.
104. Ivanova S.V và các cộng sự (2014), “Đào tạo nghề và việc làm cho thanh niên -
vấn đề toàn cầu thế kỷ XXI”, Bản dịch đăng trên Thông tin những vấn đề lý
luận, (11), tr.10 - 20.
105. Dương Văn Sao (2014), “Phát huy vai trò của công đoàn trong nâng cao ý thức
chính trị và kỷ luật cho công nhân”, Tạp chí Lý luận chính trị, (7), tr.13 - 17.
106. Thái Sơn (2016), “Giải quyết việc làm cho lao động xuất khẩu về nước”, Báo
Nhân dân, ngày 18 - 10 - 2016.
107. Văn Tạo (2006) “Quan điểm mới về giai cấp công nhân Việt Nam qua văn kiện
Đại hội X của Đảng”, Tạp chí Cộng sản, (5), tr.43 - 46.
108. Văn Tạo (2008), Đổi mới tư duy về giai cấp công nhân - kinh tế tri thức và công
nhân tri thức, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.
109. Tạ Ngọc Tấn (chủ biên) (2010), Một số vấn đề về biến đổi cơ cấu xã hội Việt Nam
hiện nay, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.
110. Tạ Ngọc Tấn (2016), “Mô hình phát triển của Việt Nam - thời cơ và những thách thức
đặt ra trong bối cảnh thế giới hiện nay”, Tạp chí Lý luận chính trị (4), tr.3 - 12.
111. Tập thể tác giả (2004 - 2011), Phong trào công nhân quốc tế - những vấn đề lịch
sử và lý luận, gồm 8 tập, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.
112. Nguyễn Đăng Thành (2007), “Về một số nghịch lý xuất hiện trong quá trình phát
triển giai cấp công nhân thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp hoá, hiện đại hoá”,
Tạp chí Lý luận chính trị, (2), tr.30 - 35.
113. Nguyễn Đăng Thành (chủ biên) (2008), Góp phần xây dựng giai cấp công nhân
Việt Nam từ thực trạng công nhân Thành phố Hồ Chí Minh, Nxb Chính trị
quốc gia, Hà Nội.
114. Tất Thảo, Việt Lâm (2015), “Tăng lương tối thiểu vùng: người lao động phải sống
được bằng lương!”, Báo Lao động, ngày 26 - 8 - 2015.
115. Mạch Quang Thắng (2014), “Nghiên cứu, phát triển lý luận về giai cấp công nhân
Việt Nam”, Tạp chí Khoa học chính trị, (2), tr.31 - 35.
162
116. Nguyễn Mạnh Thắng (2014), “Giải quyết những vấn đề cấp bách của giai cấp
công nhân Việt Nam hiện nay”, Tạp chí Lý luận chính trị, (4), tr.36 - 40.
117. Nguyễn Mạnh Thắng (2015), “Lối sống của công nhân ở khu công nghiệp, khu
chế xuất hiện nay”, Tạp chí Lý luận chính trị, (7), tr.56 - 59.
118. Phạm Quý Thọ (2006), Chuyển dịch cơ cấu lao động trong xu hướng hội nhập
quốc tế, Nxb Lao động - Xã hội, Hà Nội.
119. Vũ Quang Thọ (2015), “Không thể đem năng suất lao động ra mặc cả”, Báo Lao
động, ngày 19 - 10 - 2015.
120. Vũ Quang Thọ (2015), “Việc làm, đời sống của công nhân công nghiệp hiện nay”,
Tạp chí Lao động và Công đoàn, (7), tr.28 - 30.
121. Vũ Quang Thọ (chủ biên) (2015), Xây dựng lối sống văn hoá của công nhân Việt
Nam - lý luận và thực tiễn, Nxb Lao động, Hà Nội.
122. Nguyễn Viết Thông (2013), “Những nhận thức khác nhau về giai cấp và vai trò
lãnh đạo của giai cấp công nhân; phê phán quan điểm phủ nhận sự tồn tại và
vai trò lãnh đạo của giai cấp công nhân trong thời đại ngày nay”, Tạp chí Lao
động và Công đoàn, (519), tr.6 - 10.
123. Lê Văn Toàn (2012), Phân tầng xã hội ở Việt Nam trong quá trình chuyển đổi sang
nền kinh tế thị trường và hội nhập quốc tế, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.
124. Tổng cục Thống kê (2006), Niên giám thống kê 2005, Nxb Thống kê, Hà Nội.
125. Tổng cục Thống kê (2014), Niên giám thống kê 2013, Nxb Thống kê, Hà Nội.
126. Tổng cục Thống kê (2015), Niên giám thống kê 2014, Nxb Thống kê, Hà Nội.
127. Tổng cục Thống kê (2016), Niên giám thống kê 2015, Nxb Thống kê, Hà Nội.
128. Tổng Liên đoàn Lao động Việt Nam (2001), Xu hướng biến động giai cấp công
nhân Việt Nam trong những năm đầu thế kỷ XXI, Nxb Lao động, Hà Nội.
129. Tổng Liên đoàn Lao động Việt Nam (2010), Bác Hồ với giai cấp công nhân và tổ
chức công đoàn, Nxb Lao động, Hà Nội.
130. Trung tâm Dự báo nhu cầu nhân lực và Thông tin thị trường lao động Thành phố
Hồ Chí Minh (2014), Dự báo nhu cầu nhân lực Thành phố Hồ Chí Minh năm
2015 đến năm 2020 - 2025 và dự báo ngành nghề hội nhập Cộng đồng kinh tế
ASEAN sau 2015, Thành phố Hồ Chí Minh.
163
131. Trushkov (2007), “Triển vọng phát triển của giai cấp công nhân ở thế kỷ XXI”,
Bản dịch đăng trên Thông tin những vấn đề lý luận, (17), tr.1 - 5.
132. Nguyễn Thanh Tuấn (2007), “Vận dụng quan điểm lịch sử của chủ nghĩa Mác -
Lênin để xác định giai cấp công nhân Việt Nam”, Tạp chí Lý luận chính trị
(8), tr.3 - 6.
133. Đặng Ngọc Tùng (2011), “Xây dựng giai cấp công nhân Việt Nam vững mạnh,
xứng đáng là giai cấp tiên phong, đi đầu trong sự nghiệp đẩy mạnh công
nghiệp hóa, hiện đại hóa”, Tạp chí Lao động và Công đoàn, (2), tr.4 - 6.
134. Đặng Ngọc Tùng (chủ biên) (2011), Xây dựng giai cấp công nhân Việt Nam giai
đoạn 2011-2020, Nxb Lao động, Hà Nội.
135. Từ điển Triết học (1975), Nxb Tiến Bộ, Mát-xcơ-va.
136. Đặng Vân (2014), “Đời sống công nhân các khu công nghiệp ở Đà Nẵng: thực
trạng và những vấn đề đặt ra”, Hồ sơ sự kiện, Chuyên san Tạp chí Cộng sản,
(8), tr.32 - 33.
137. Viện Ngôn ngữ học (2006), Từ điển Tiếng Việt, Nxb Đà Nẵng.
138. Lan Vũ (2015), “Nguồn nhân lực Việt Nam trước ngưỡng cửa hội nhập”, Báo
Nhân dân, ngày 10 và 11 - 11 - 2015.
139. Nguyễn Viết Vượng (2010), Giai cấp công nhân và tổ chức công đoàn Việt Nam
trong những năm đầu thế kỷ XXI, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.
164
PHỤ LỤC
Phụ lục 1
Cơ cấu công nhân phân theo vùng lãnh thổ (2010 - 2014)
Đơn vị: nghìn người
Tiêu chí 2010 2011 2012 2013 2014
Đồng bằng sông Hồng 2849,8 3498,7 3547,6 3753,5 3853,9
Trung du và miền núi phía Bắc 525,3 579,1 607,4 626,6 689,1
Bắc Trung Bộ và Duyên hải miền Trung 1192,4 1261,1 1305,2 1334,1 1403,2
Tây Nguyên 236,8 232,5 244,5 244,6 237,8
Đông Nam Bộ 3904,7 4165,5 4198,6 4319,7 4640,0
Đồng bằng sông Cửu Long 700,2 795,4 813,2 869,7 949,1
Nguồn: Tổng cục Thống kê, 2015 [127, tr.277 - 278].
Phụ lục 2
Số lượng công nhân nữ phân theo loại hình doanh nghiệp (2010 -2014)
Đơn vị: nghìn người
Tiêu chí 2010 2011 2012 2013 2014
Tổng số 4182,4 4692,8 4844,7 5148,2 5473,3
Doanh nghiệp nhà nước 542,2 520,3 507,9 519,9 449,2
Doanh nghiệp ngoài nhà nước 2199,6 2457,8 2505,7 2572,9 2687,0
Doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài 1440,6 1714,7 1831,2 2055,4 2337,1
Nguồn: Tổng cục Thống kê, 2015 [127, tr.279].
165
Phụ lục 3
Trình độ học vấn của công nhân phân theo ngành, nghề sản xuất kinh doanh
Đơn vị: %
Tiêu chí
Nông, lâm,
thủy sản
Dệt may,
da giày
Điện,
nước,
mỹ nghệ
Vật liệu
xây dựng,
cơ khí
Thương
mại
dịch vụ
Tốt nghiệp tiểu học 15,1 3,2 0 6,8 2,3
Tốt nghiệp THCS 28,8 36,9 12 22,9 19,2
Tốt nghiệp THPT 47,9 51 80,4 59,4 72,1
Không trả lời 8,2 8,9 7,6 10,9 6,5
Tổng số 100 100 100 100 100
Nguồn: Viện Công nhân và Công đoàn, 2009 [Dẫn theo 48]
Phụ lục 4
Độ tuổi của công nhân phân theo ngành, nghề sản xuất kinh doanh
Đơn vị: %
Tiêu chí
Nông, lâm,
thủy sản
Dệt may,
da giày
Điện,
nước,
mỹ nghệ
Vật liệu
xây dựng,
cơ khí
Thương
mại
dịch vụ
Dưới 18 tuổi 0 0 0 0,4 0,2
Từ 18 đến 25 tuổi 8,2 29,2 5,7 23,3 26,5
Từ 26 đến 35 tuổi 32,9 39,5 46,8 36,2 43,7
Từ 35 đến 50 tuổi 49,3 20,4 32,3 28,2 22,4
Trên 50 tuổi 2,7 9,5 4,6 2,7
Không trả lời 6,8 10,2 5,7 7,4 4,6
Tổng số 100 100 100 100 100
Nguồn: Viện Công nhân và Công đoàn, 2009 [Dẫn theo 48].
166
Phụ lục 5
Tổng thu nhập của công nhân phân theo loại hình doanh nghiệp (2010 - 2014)
Đơn vị: tỷ đồng
Tiêu chí 2010 2011 2012 2013 2014
Tổng số 465782 592419 698484 788571 892348
Doanh nghiệp nhà nước 125071 150597 155584 168335 171470
Doanh nghiệp ngoài nhà nước 237176 297835 352109 383744 448351
Doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài 103535 143987 190791 236492 272528
Nguồn: Tổng cục Thống kê, 2015 [127, tr.358].
Phụ lục 6
Thu nhập bình quân tháng của công nhân phân theo vùng (2010 - 2014)
Đơn vị: nghìn đồng
Tiêu chí 2010 2011 2012 2013 2014
Đồng bằng sông Hồng 4215 4650 5162 5608 6184
Trung du và miền núi phía Bắc 2955 3339 3890 4248 5063
Bắc Trung Bộ và Duyên hải miền Trung 2789 3385 3925 4212 4591
Tây Nguyên 3027 3828 4632 4424 4473
Đông Nam Bộ 4422 5071 5823 6547 6935
Đồng bằng sông Cửu Long 2736 3507 4128 4354 4754
Nguồn: Tổng cục Thống kê, 2015 [127, tr.374 - 375].
167
Phụ lục 7
Ý kiến công nhân bức xúc về tiền lương theo loại hình doanh nghiệp
Đơn vị: %
Tiêu chí
Doanh nghiệp
nhà nước
Doanh nghiệp
ngoài nhà nước
Doanh nghiệp
có vốn đầu tư
nước ngoài
Lương thấp 64,6 46,5 67,3
Làm thêm giờ quá nhiều 15,3 4,3 9,1
Định mức lao động (mức khoán) cao 13,7 4,2 8,7
Trả lương không công bằng 7,1 6,2 8,7
Trả lương không đúng sức lao động bỏ ra 13,5 8,1 9,8
Trả lương không công khai, minh bạch 5,4 6,2 4,5
Không điều chỉnh nâng lương định kỳ 19,7 19,5 11,7
Nguồn: Viện Công nhân và Công đoàn, 2014 [Dẫn theo 121]
Phụ lục 8
Nhận thức của công nhân về hội nhập quốc tế phân theo loại hình doanh nghiệp
Đơn vị: %
Tiêu chí
Doanh nghiệp
nhà nước
Doanh nghiệp
ngoài nhà nước
Doanh nghiệp
có vốn đầu tư
nước ngoài
Xóa nhòa ranh giới quốc gia 50,2 53,5 56,8
Cạnh tranh, mở rộng thị trường 55,0 48,8 46,7
Phụ thuộc thị trường bên ngoài 16,5 16,8 18,0
Cần giữ gìn bản sắc văn hóa dân tộc 50,4 44,7 42,0
Quyền lực nhà nước bị thách thức 8,4 6,6 6,5
Nguồn: Vũ Quang Thọ, 2014 [121, tr.106 - 108].
168
Phụ lục 9
Giá trị sống của công nhân phân theo loại hình doanh nghiệp
Đơn vị: %
Tiêu chí
Doanh nghiệp
nhà nước
Doanh nghiệp
ngoài nhà nước
Doanh nghiệp có vốn
đầu tư nước ngoài
Lòng yêu nước 51,3 46,8 47,3
Lòng vị tha 30,0 26,5 26,9
Đức hy sinh 27,4 22,6 23,4
Cần cù lao động 70,3 66,7 71,5
Tiết kiệm, không hoang phí 59,8 55,2 55,6
Nguồn: Viện Công nhân và Công đoàn, 2014 [Dẫn theo 121]
Phụ lục 10
Đánh giá lối sống tiêu cực của công nhân phân theo thành phần xuất thân
Đơn vị: %
Tiêu chí Địa phương Nhập cư
Có lối sống buông thả, thực dụng 27,2 29,1
Ích kỷ, chủ nghĩa cá nhân 22,4 22,0
Tâm lý hưởng lạc, chạy theo đồng tiền 30,1 30,7
Phai nhạt lý tưởng, giá trị sống 13,4 14,5
Có biểu hiện suy thoái đạo đức, lối sống 19,2 18,5
Có thái độ bi quan, chán đời 12,1 14,0
Vô cảm trước bất công thường ngày xảy ra 18,4 23,7
Ứng xử, giao tiếp kém 25,0 27,0
Lối sống gấp, trụy lạc 8,2 8,2
Đua đòi, lãng phí 28,9 31,1
Nguồn: Viện Công nhân và Công đoàn, 2014 [Dẫn theo 121]