BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO BỘ VĂN HÓA, THỂ THAO VÀ DU LỊCH
VIỆN VĂN HÓA NGHỆ THUẬT QUỐC GIA VIỆT NAM
Đỗ Xuân Phú
SƠN TRUYỀN THỐNG TRONG NGHỆ THUẬT TRANG TRÍ
QUẦN THỂ DI TÍCH CỐ ĐÔ HUẾ
Chuyên ngành: Lý luận và Lịch sử Mỹ thuật
Mã số: 9210101
LUẬN ÁN TIẾN SĨ NGHỆ THUẬT
NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC:
PGS. TS NGUYỄN QUỐC HÙNG
Hà Nội - 2018
1
LỜI CAM ĐOAN
Công trình nghiên cứu luận án của NCS, được thực hiện dưới sự
hướng dẫn của PGS,TS. Nguyễn Quốc Hùng, Nguyên Phó Cục
201 trang |
Chia sẻ: huong20 | Ngày: 14/01/2022 | Lượt xem: 458 | Lượt tải: 0
Tóm tắt tài liệu Luận án - Sơn truyền thống trong nghệ thuật trang trí quần thể di tích cố đô Huế, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
trưởng Cục Di
sản Văn hóa, Bộ Văn hóa, Thể thao và Du lịch với sự góp ý nhiệt tình của các
nhà khoa học, các nhà quản lý....
Luận án tiến sĩ: Sơn truyền thống trong nghệ thuật trang trí Quần
thể di tích cố đô Huế là do NCS viết và chưa công bố.
Các trích dẫn, số liệu, kết quả nêu trong luận án là trung thực và có xuất
xứ rõ ràng.
NCS xin chịu trách nhiệm về lời cam đoan này.
Hà Nội, ngày tháng năm 2018
Tác giả luận án
Đỗ Xuân Phú
2
MỤC LỤC
Trang
LỜI CAM ĐOAN............................................................................................ 1
DANH MỤC CÁC CHỮ VIẾT TẮT............................................................. 3
DANH MỤC CÁC BẢNG TRONG LUẬN ÁN............................................ 4
MỞ ĐẦU.................................. 5
Chương 1. CƠ SỞ LÝ LUẬN, TỔNG QUAN TÌNH HÌNH NGHIÊN
CỨU VỀ SƠN TRUYỀN THỐNG TRONG NGHỆ THUẬT TRANG
TRÍ QTDTCĐH.............................................................................................15
1.1. Khái niệm sơn truyền thống và một số thuật ngữ ....................................15
1.2. Sơn truyền thống trong nghệ thuật trang trí thời Nguyễn....................19
1.3. Tổng quan các vấn đề nghiên cứu ...........................................................42
Tiểu kết chương 1............................................................................................54
Chương 2. NHỮNG GIÁ TRỊ TIÊU BIỂU NGHỆ THUẬT TRANG TRÍ
CỦA SƠN TRUYỀN THỐNG TRONG QTDTCĐH................................56
2.1. Hiệu quả trang trí trong các đề tài mỹ thuật ............................................56
2.2. Giá trị tạo hình nghệ thuật trang trí trên sơn truyền thống ......................67
2.3. Tính biểu đạt của sơn truyền thống..........................................................91
2.4. Giá trị bền vững của chất liệu kết dính.....................................................97
2.5. Hội tụ và lan tỏa của sơn truyền thống trong đời sống VHXH................99
Tiểu kết chương 2......................................103
Chương 3. BÀN LUẬN VỀ NHỮNG GIÁ TRỊ CỦA SƠN TRUYỀN
THỐNG CÓ TÍNH KHOA HỌC TRONG NGHỆ THUẬT TRANG TRÍ
QTDTCĐH...........................................................................105
3.1. Cơ sở khoa học chứng minh sơn truyền thống.......................................106
3.2. Vị trí của sơn truyền thống trong dòng chảy..........................................115
3.3. Vai trò quan trọng của mỗi loại sơn ......................................................128
3.4. Một vài biện luận về tính mới của luận án.............................................138
Tiểu kết chương 3..................................................141
KẾT LUẬN..........................144
DANH MỤC CÔNG TRÌNH NGHIÊN CỨU..........................................151
TÀI LIỆU THAM KHẢO .............................................152
PHỤ LỤC.............................................164
3
DANH MỤC CÁC CHỮ VIẾT TẮT TRONG LUẬN ÁN
Chữ viết tắt Chữ viết đầy đủ
B.A.V.H. : Bulletin des Amis du Vieux Huế
(Những người bạn cố đô Huế)
C : Chương
DTCĐH : Di tích cố đô Huế
GS : Giáo sư
H : Hình
HS : Họa sĩ
KĐĐNHĐSL : Khâm định Đại Nam hội điển sự lệ
NCS : Nghiên cứu sinh
NKT : Ngoài Kinh thành
Nxb : Nhà xuất bản
PGS : Phó giáo sư
PL : Phụ lục
QTDTCĐH : Quần thể Di tích cố đô Huế
TCT : Tử Cấm Thành
THT : Trong Hoàng thành
TKT : Trong Kinh thành
TLTK : Tài liệu tham khảo
Tp : Thành phố
tr : trang
TS : Tiến sĩ
TTBTDTCĐH : Trung tâm Bảo tồn Di tích cố đô Huế
VHXH : Văn hóa xã hội
Xb
: Xuất bản
4
DANH MỤC CÁC BẢNG TRONG LUẬN ÁN
Trang
Bảng 1. Thống kê các họa tiết trang trí bằng sơn truyền thống.......................31
Bảng 2. Thống kê số lượng của các hiện vật trong nội và ngoại thất kiến trúc
gỗ được trang trí bằng sơn truyền thống.........................................31
Bảng 3. Họa tiết trang trí trên 11 ô hộc tại án thờ Thế Miếu..........................64
Bảng 4. Họa tiết trang trí trên 11 ô hộc tại án thờ Hưng Miếu (mặt tiền)......64
Bảng 5. Họa tiết trang trí trên 13 ô hộc tại án thờ Hưng Miếu (mặt hậu).......65
Bảng 6. Thành phần và tính chất của bột màu................................................82
Bảng 7. Vị trí sơn truyền thống ngoài Kinh thành (NKT) và kiểu thức trang trí
.......................................................................................................119
Bảng 8. Vị trí sơn truyền thống trong Kinh thành (TKT) và kiểu thức trang trí
.......................................................................................................120
Bảng 9. Vị trí sơn truyền thống trong Hoàng thành (THT) và kiểu thức trang
trí ..................................................................................................121
Bảng 10. Vị trí sơn truyền thống trong Tử Cấm Thành (TCT) và Kiểu thức
trang trí......................................................................121
Bảng 11. Tóm tắt quy trình các lớp sơn trên nền gỗ trong DTCĐH.............136
Bảng 12. Tóm tắt các lớp thí son, thếp vàng lá và phủ hoàng kim trên kiểu
thức trang trí tại di tích cố đô Huế................................................137
5
MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài
Sơn truyền thống trong kiến trúc thời Nguyễn phản ánh sâu sắc tính
thẩm mỹ của cung đình. Chúng không chỉ mang trong mình những giá trị to
lớn về lịch sử, nghệ thuật mà còn chứa đựng cả văn hóa tâm linh, tôn giáo, tín
ngưỡng dân gian..., chúng còn ảnh hưởng bởi tư tưởng chính thống của nho
giáo và hòa đồng với Lão giáo, Phật giáo. Đó chính là đặc trưng của văn hóa
nghệ thuật thời Nguyễn, sơn truyền thống đã tạo nên bản sắc riêng về giá trị
thẩm mỹ, có tính khái quát cao bởi màu sắc và tượng trưng của những kiểu
thức trang trí có ý nghĩa sâu sắc, lắng đọng. Điều đó có được là do các chúa
Nguyễn đã quy tụ những danh nhân kiệt xuất trong lĩnh vực mỹ thuật của cả
nước về Thuận Hóa (Huế), tạo nên những công trình kiến trúc cung đình đậm
tính sơn với những tác phẩm tuyệt tác. Đánh dấu bước phát triển của mỹ thuật
cung đình và góp phần hình thành nên phong cách mỹ thuật riêng của thời
Nguyễn. Ngày nay sơn truyền thống và kiểu thức trang trí vẫn còn được lưu
truyền, giữ gìn và trao truyền từ thế hệ này đến thế hệ khác trong tương lai,
chúng đã trở thành điểm nhấn mạnh mẽ và không thể thiếu đối với đời sống
con người xưa và nay.
Có thể khẳng định rằng, triều đại nhà Nguyễn (1802-1945) đã để lại
cho chúng ta một khối di sản đồ sộ về kiến trúc có sử dụng chất liệu sơn cổ
truyền như đồ dùng sinh hoạt, đồ tế tự son thếp và những kiểu thức trang trí.
Ở đây, vai trò quan trọng của sơn truyền thống trong nghệ thuật trang trí
chúng đã góp phần làm phong phú bản sắc văn hóa dân tộc và mang ý nghĩa
nhân văn về Chân - Thiện - Mỹ rõ nét. Sơn truyền thống trong kiến trúc cố đô
Huế có những sắc màu cổ kính, huyền ảo, ấm cúng và điểm xuyết những họa
tiết, hoa văn trang trí làm nổi bật chủ đề được truyền tài từ dân gian của một
thời kỳ vàng son tráng lệ.
6
Chất liệu sơn truyền thống Việt Nam vốn được coi là kho báu giúp cho
công tác bảo tồn các di tích lịch sử văn hóa có giá trị thẩm mỹ. Tạo điều kiện
cho các làng nghề sơn phát triển trong mạch chảy văn hóa sơn khắp mọi miền
tổ quốc. Từ ưu thế đó, thời Nguyễn đã vận dụng có hiệu quả chất liệu sơn
truyền thống trong kiến trúc cung đình mỹ thuật và chúng được bao phủ và tô
điểm lộng lẫy trên các đồ sơn, cấu kiện và những kiểu thức trang trí... bằng
đôi bàn tay khéo léo, đôi mắt thẩm mỹ và có tính sáng tạo của các nghệ nhân,
người thợ sơn đã sáng tác ra những sản phẩm đồ sơn trang trọng phục vụ cung
đình. Chất liệu sơn đã trở thành mạch sống kết nối giữa cái tâm hồn, cái đẹp
của những kiểu thức trang trí làm phong phú, đa dạng chính thể triều đình,
chúng đã góp phần tăng thêm giá trị thẩm mỹ, giá trị dân gian và mang đậm
tôn giáo tín ngưỡng với đầy đủ ngôn ngữ biểu đạt của sơn truyền thống.
Thực tế cho thấy, sơn truyền thống trong nghệ thuật trang trí tại Quần
thể di tích cố đô Huế (QTDTCĐH) được các nghệ nhân sử dụng với mục đích
làm đẹp cung điện và trang nghiêm nơi thờ cúng gia tiên. Sự xuất hiện của
cặp màu vàng - đỏ, đen - đỏ, vàng bạc trên các kiểu thức trang trí và cặp màu
xanh, lục trên đường viền hoặc các ô hộc của sơn truyền thống đã làm tăng
thêm vẻ đẹp lộng lẫy và tính trang nghiêm nơi thờ cúng của chúa Nguyễn.
Các tác phẩm mỹ thuật có sử dụng sơn truyền thống chiếm một tỷ lệ khá
khiêm tốn, nhưng vẫn cho thấy sự lớn mạnh, hùng hậu trong các cung, điện,
lăng tẩm. Bên cạnh đó, so sánh với những tác phẩm khác được thể hiện bằng
chất liệu sành sứ, pháp lam, tranh kính màu, đồ gốm, đồ đồng, đồ đá, mành
tre, xà cừ, gạch lát nền, tường bao và ngói màu các loại....để tăng thêm giá trị
cuar sơn truyền thống. Bản thân giữa chúng có nhiệm vụ mục đích bổ sung
cho nhau, làm phong phú các chất liệu với nhau và tồn tại trong chuỗi di sản
của cung đình mỹ thuật triều Nguyễn một thời vàng son. Đề tài nghiên cứu về
7
lý thuyết và thực tiễn, góp phần thiết thực trong sự phát triển kinh tế xã hội
của đất nước nói chung, nói riêng nghề sơn và du lịch tại QTDTCĐH.
Nghiên cứu sơn truyền thống trong nghệ thuật trang trí trên các cấu
kiện, ô hộc để tìm thấy những tinh hoa, phẩm chất cao quý. Mang ý nghĩa tôn
vinh giá trị thẩm mỹ của sơn và các họa tiết, ngoài ra biết được những tồn tại,
hạn chế để đề xuất các giải pháp bảo tồn. Trong nghiên cứu về sơn cổ truyền
mới thấy hết được giá trị “văn hóa sơn” ở thời Nguyễn có tầm quan trọng
trong xu thế phát triển của thời đại. Bản thân chúng góp phần bảo tồn các giá
trị thẩm mỹ vốn có của cha ông ta để lại, đồng thời nhìn nhận, đề suất các giải
pháp nhằm tôn tạo những di sản đang có nguy cơ bị mai một dần bởi nhiều
yếu tố khách quan.
Đây là tính cấp thiết khi nghiên cứu đề tài này, những khái niệm và
thuật ngữ được đề cập là mục đích khẳng định để có cơ sở lý luận của luận án.
Nghiên cứu vị trí, vai trò, đặc trưng của sơn truyền thống và tinh hoa nghệ
thuật trang trí để làm chúng bật lên so với các chất liệu khác cùng thời. Như
vậy, có thể khẳng định sơn truyền thống có vai trò khá quan trọng trong nghệ
thuật tạo hình ở QTDTCĐH, nhưng chưa có nhiều tác giả quan tâm nghiên
cứu. Xuất phát từ những vấn đề lý luận và thực tiễn đã trình bày trên, do vậy
nghiên cứu sinh chọn đề tài Sơn truyền thống trong nghệ thuật trang trí
Quần thể di tích cố đô Huế để thực hiện luận án tiến sĩ chuyên ngành Lý luận
và Lịch sử Mỹ thuật.
2. Mục đích nghiên cứu
2.1. Mục đích tổng quát
- Luận án chứng minh và khẳng định sơn truyền thống trong nghệ thuật
trang trí ở QTDTCĐH được tồn tại từ thế kỷ thứ XIX cho đến ngày nay.
8
- Luận án hướng đến xác lập những căn cứ khoa học và thực tiễn của
sơn truyền thống để làm sáng tỏ giá trị thẩm mỹ kiến trúc, hiện vật và những
kiểu thức trang trí được thăng hoa trong DTCĐH.
2.2. Nhiệm vụ nghiên cứu
- Hệ thống hóa các tài liệu có liên quan đến đề tài sơn truyền thống
trong DTCĐH của thời Nguyễn để lại.
- Tìm hiểu diện mạo của sơn truyền thống trong tiến trình lịch sử của
dân tộc về nguồn gốc, xuất xứ và kỹ thuật chế tác sơn của QTDTCĐH.
- Nhận diện sự hài hòa giữa các tác phẩm mỹ thuật làm bằng sơn truyền
thống và các tác phẩm của một số chất liệu khác trong nghệ thuật trang trí
DTCĐH.
- Tìm ra những minh chứng khẳng định giá trị mỹ thuật của các tác
phẩm có sử dụng sơn truyền thống
- Xác định những giá trị thẩm mỹ của những kiểu thức trang trí có đặc
điểm tạo hình dân gian, như các bộ đề tài Tứ linh, Tứ thời, bát bửu, án thờ,...
và đặc biệt hình tượng rồng trên các hàng cột ở điện Thái Hòa chúng được
biểu hiện bởi chất liệu sơn truyền thống.
- Đánh giá, phân tích và khẳng định giá trị của sơn truyền thống trong
nghệ thuật trang trí dưới thời Nguyễn và làm sáng tỏ những cái đạt được và
chưa được của công tác sơn.
- Góp thêm tiếng nói có luận cứ khoa học trong việc khẳng định giá trị
của chất liệu sơn truyền thống và nghệ thuật trang trí. Nhằm bảo tồn và phát
huy các tác phẩm mỹ thuật có sử dụng sơn truyền thống trên cơ sở giữ gìn, kế
thừa, phát huy những giá trị truyền thống vốn có làm thăng hoa cung đình mỹ
thuật thời Nguyễn trong dòng chảy mỹ thuật dân tộc nước nhà.
9
3. Đối tượng, phạm vi nghiên cứu
3.1. Đối tượng nghiên cứu
Đối tượng nghiên cứu của luận án là chất liệu sơn truyền thống trong
nghệ thuật trang trí di tích cố đô Huế, như những kỹ thuật chế tác, kỹ thuật
khắc chạm họa tiết trang trí điêu luyện, kỹ thuật dát vàng, bạc lá tinh tế.
Nghiên cứu đặc trưng của chất liệu sơn truyền thống (sơn cổ truyền,
sơn mỹ nghệ, sơn ta, sơn thếp, sơn quang, sơn phủ hoàng kim... ), có nhu cầu
thẩm mỹ (làm đẹp) các công trình kiến trúc gỗ như trên các kiểu thức trang trí
của các hiện vật, đồ sơn, đồ sinh hoạt của các bà hoàng, quan lại và trên các
cấu kiện, hàng cột, án thờ, ô hộc... tại cung điện, đền đài, lăng tẩm, khẳng
định thêm giá trị sơn truyền thống. Nghiên cứu đặc trưng kiểu thức trang trí
của DTCĐH để làm sáng tỏ giá trị nghệ thuật tạo hình, các họa tiết mang đậm
tính dân gian, gần gũi, thân thiện với thiên nhiên cả nước, đã hội tụ bản sắc
dân tộc trên nghệ thuật trang trí. Nghiên cứu sơn truyền thống góp phần nhận
diện dấu ấn riêng cũng như sự phong phú đa dạng của mỹ thuật cung đình
thời Nguyễn trong dòng chảy của Mỹ thuật dân tộc.
Tuy nhiên, để làm rõ diện mạo và sự đóng góp của sơn truyền thống
trong QTDTCĐH, luận án mở rộng tìm hiểu sơn truyền thống trong tỉnh Thừa
Thiên Huế và đặc biệt so sánh giữa sơn truyền thống ở Hưng Miếu - DTCĐH
với Văn Miếu - Quốc Tử giám ở Hà Nội mục đích tìm ra sự khác biệt giữa
màu sơn giũa chúng với nhau, mục đích để phân tích và làm sáng tỏ đề tài
nghiên cứu của luận án và phân tích so sánh giữa các công trình sơn cùng thời
Nguyễn.
3.2. Phạm vi nghiên cứu
- Phạm vi không gian: Nghiên cứu chất liệu sơn truyền thống trên các
công trình kiến trúc có tính dân tộc tiêu biểu như điện Thái Hoà, Thế Miếu,
Hưng Miếu, Hiển Lâm Các và lăng Tự Đức...
10
- Phạm vi thời gian: Nghiên cứu, tìm hiểu sơn truyền thống thời
Nguyễn cuối thế kỷ XIX đến đầu thế kỷ XX, với các dấu mốc thời gian cụ thể
gắn với việc trang trí các họa tiết trên kiến trúc cung đình biến đổi theo thời
gian.
4. Câu hỏi và giả thuyết nghiên cứu
4.1. Câu hỏi nghiên cứu
Để trả lời cho giả thuyết, NCS có thể nêu ra một số câu hỏi nghiên cứu,
nhằm mục đích làm sáng tỏ đề tài có tính khoa học hơn. Vì sao sơn truyền
thống được ưa chuộng trong trang trí kiến trúc ở nước ta? Có bao nhiêu loại
sơn truyền thống trong trang trí mỹ thuật cung đình Huế? Sơn truyền thống
thường được sử dụng cho mục đích trang trí ngoài ra còn mục đích gì? Chất
liệu của nó có bền chặt hay không? Những vật liệu gì phù hợp cho đề tài trang
trí gắn kết sơn truyền thống? Các tác phẩm mỹ thuật sử dụng sơn truyền
thống ở Huế với tư cách là kinh đô có khác gì với các địa phương khác? Tỷ lệ
các kiến trúc, hiện vật được trang trí bằng sơn truyền thống so với các thể loại
và chất liệu khác ở Huế? Đội ngũ nghệ nhân thực hiện các sản phẩm thô, phác
thảo (thợ mộc) và nghệ nhân sơn son thếp vàng? Hiện tượng sơn bị uốn cong
và bong tróc ra từng mảng? Lớp phủ trên có dát bạc bị phai nhạt để lại những
mảng màu vàng và bạc chen kẻ lốm đốm? Tại sao không thếp vàng lá thay
cho bạc lá? và tại sao phải trộn bột đá với đất phù sa trong các lớp hom? v.v...
Từ đây các câu hỏi sẽ được trả lời thông qua các kết quả nghiên cứu
phải đạt được là:
- Cho thấy rõ, sơn truyền thống góp phần tô đẹp kiến trúc và hiện vật
đồ sơn tại DTCĐH, hay nói cách khác sơn truyền thống có vai trò rất quan
trọng trong nghệ thuật trang trí, bởi bề mặt của nền sơn được phủ lên một lớp
sơn son và thếp vàng rực rỡ trong cung đình mỹ thuật thời Nguyễn.
11
- Sơn truyền thống đem lại giá trị thẩm mỹ và thăng hoa cho các họa
tiết trang trí trong QTDTCĐH.
- Bằng lý luận và lịch sử mỹ thuật đề tài được khẳng định và làm sáng
tỏ một số công trình đạt kết quả, bên cạnh một số bị hư hỏng của sơn truyền
thống trong QTDTCĐH.
4.2. Giả thuyết nghiên cứu
Trong thực tiễn, tại các di tích lịch sử và DTCĐH có một nền tảng
chung sử dụng chất liệu sơn truyền thống, nhưng chưa hẳn mỗi di tích đã có
được sự thống nhất cao về kỹ thuật chế tác sơn, các công đoạn bó, hom, thí...
mà mỗi nơi có kỹ thuật riêng tùy thuộc vào kinh nghiệm của người thợ sơn và
nghệ nhân thời xưa cho đến bây giờ. Vì vậy, nguyên nhân do đâu. Làm thế
nào để có thêm những căn cứ để xác lập, đánh giá và thẩm định chất lượng và
quy trình chuẩn về sơn truyền thống? Vấn đề đặt ra là có thể tìm thêm những
cơ sở khoa học nào để đánh giá đúng hơn về giá trị bền vững của chất liệu,
tránh sự ảnh hưởng không tốt từ nhiều phía như sơn sống có pha thêm dầu
hỏa, sơn kém chất lượng trong thời gian thu hoạch v.v...
NCS thấy rằng, trong quá trình hình thành phát triển những di sản văn
hóa dân tộc. Sơn truyền thống trong DTCĐH là một chất liệu mang tính trang
trí rõ nét và đặc biệt, chứng tỏ khả năng dung hợp, khả năng tiếp biến văn hóa
trong sự giao lưu với các nước lân bang thời bấy giờ. Sơn và kiểu thức trang
trí có sức sống mãnh liệt và chứa đựng khả năng tạo hình vô tận thông qua trí
óc và đôi bàn tay khéo léo của các nghệ nhân, họ tạo nên những giá trị đặc sắc
trong mỗi họa tiết, hoa văn trang trí đậm bản sắc dân tộc và có giá trị nhân
văn trong mỗi tâm hồn và trí tuệ của con người Việt Nam.
Giả thuyết khoa học mà NCS đặt ra là: Trong quá trình thực hiện những
tác phẩm mỹ thuật thời Nguyễn nếu như không có chất liệu sơn truyền thống?
Thử hỏi những công trình kiến trúc muốn làm đẹp và có tính bền vững thì sử
12
dụng chất liệu gì để thay thế? Nên yếu tố quyết định để tạo ra sự bền vững và
sản phẩm đẹp đó chính là mủ sơn, trải qua quá trình tinh luyện để trở thành
sơn chín, sơn cánh gián, sơn quang, sơn phủ hoàng kim.... chúng đại diện sơn
truyền thống để nói lên tiếng nói chung trong các di tích lịch sử và DTCĐH.
Hầu hết, sơn truyền thống được sử dụng để trang trí các kiến trúc, các hiện vật
tại QTDTCĐH, những công trình vàng son rực rỡ hòa chung với những tác
phẩm mỹ thuật của các chất liệu khác nhằm bổ sung và làm sang trọng mỹ
thuật cung đình thời Nguyễn thời bấy giờ.
5. Phương pháp nghiên cứu
Phương pháp luận của nghiên cứu là so sánh, đối chiếu, đối sánh, liên
hệ, liên tưởng các hiện tượng sơn và kiểu thức trang trí cung đình mỹ thuật
thời Nguyễn. Ngoài ra NCS còn sử dụng những phương pháp khác ở mức độ
nhất định trong luận án như.
5.1. Phương pháp hệ thống
Phương pháp hệ thống là thống kê hiện tượng sơn truyền thống hiện
hữu trên các đồ sơn, hiện vật trong nghệ thuật trang trí. Trên cơ sở đó, luận án
sẽ đưa ra những nhận xét, đánh giá cụ thể về ý nghĩa của sơn son thếp vàng.
Phương pháp còn hệ thống những hoa văn có họa tiết trang trí mang tính nhân
văn của xã hội. Trên cơ sở đó, đối sánh giữa công trình sơn truyền thống ở
Hưng Miếu tại QTDTCĐH và công trình Văn Miếu, Quốc Tử Giám, Hà Nội
để tìm ra những điểm khác biệt giữa chúng về sơn phủ hoàng kim.
5.2. Phương pháp nghiên cứu liên ngành
Luận án sử dụng phương pháp liên ngành chính là phương pháp tiếp
cận đa chiều các ngành khoa học khác nhau như Văn hóa, Sử học, Mỹ học,
Dân tộc học và Nghệ thuật học, nhằm tìm hiểu và khai thác các đối tượng
cần nghiên cứu, bao gồm các kỹ thuật và thao tác sơn truyền thống cũng như
nghệ thuật trang trí và lịch sử của nghề sơn.
13
5.3. Phương pháp so sánh, đối chiếu
Phương pháp phân tích, tổng hợp, so sánh, đối chiếu cho phép người
nghiên cứu nhìn nhận vấn đề một cách chỉnh thể, từ đó rút ra những kết luận,
những tổng kết, đánh giá về các vấn đề của chất liệu sơn truyền thống trong
DTCĐH.
5.4. Phương pháp thu thập và xử lý thông tin
Phương pháp thu thập, xử lý thông tin, điền dã tại QTDTCĐH đối với
chất liệu sơn truyền thống trong nghệ thuật trang trí bằng quan sát ghi chép,
đọc tư liệu, phiếu phỏng vấn người thợ sơn, các nhà quản lý phục vụ nghiên
cứu và xử lý nguồn thông tin bằng phân tích tổng hợp.
6. Những đóng góp mới của đề tài
Trên cơ sở học hỏi và kế thừa những kết quả nghiên cứu và lý luận của
những đề tài trước đó, đề tài của NCS bước đầu tổng hợp, hệ thống và bổ
sung trên cơ sở lý luận về sơn truyền thống thời Nguyễn. NCS nhận thấy đề
tài Sơn truyền thống trong nghệ thuật trang trí Quần thể Di tích cố đô Huế,
chưa có nhiều tác giả quan tâm nghiên cứu. Đây là cơ sở để đóng góp tính
mới về lý thuyết có tính khoa học của đề tài, một hướng nghiên cứu cần thiết
đối với chuyên ngành Lý luận và Lịch sử Mỹ thuật nói riêng và ngành Mỹ
thuật nói chung.
Ngoài ra, đề tài tập trung phân tích và tìm ra cái thẩm mỹ (cái đẹp) của
mỗi công trình. Sơn truyền thống đem lại giá trị thẩm mỹ của những kiểu thức
trang trí trong DTCĐH.
Nhận diện những tác phẩm mỹ thuật tạo hình có giá trị biểu cảm chất
liệu sơn truyền thống rực rỡ bởi sắc màu đỏ, vàng và được xem đây cũng là
tính mới trong luận án. Đồng thời đề tài còn hướng đến phân tích cụ thể các
tác phẩm nghệ thuật trang trí, đồ sơn bằng sơn truyền thống trên các biểu
bảng.
14
Phân tích sự hài hòa giữa các tác phẩm mỹ thuật có sử dụng sơn truyền
thống và các tác phẩm mỹ thuật thuộc các chất liệu khác tạo nên sự đa dạng
và phong phú mỹ thuật cung đình Huế.
Và sưu tập, dẫn chứng những tư liệu quý hiếm của thời Nguyễn để có
cơ sở lý luận về sơn truyền thống, đó cũng là tính mới trong luận án.
7. Cấu trúc của luận án
Ngoài phần mở đầu (10 trang), Kết luận (7 trang), Tài liệu tham khảo
(12 trang) và Phụ lục (35 trang), nội dung của luận án được kết cấu thành 3
chương:
Chương 1. Cơ sở lý luận, tổng quan tình hình nghiên cứu về sơn
truyền thống trong nghệ thuật trang trí QTDTCĐH (41 trang)
Chương 2. Những giá trị tiêu biểu nghệ thuật trang trí của sơn
truyền thống trong QTDTCĐH (49 trang)
Chương 3. Bàn luận về những giá trị của sơn truyền thống có tính
khoa học trong nghệ thuật trang trí QTDTCĐH (39 trang)
15
Chương 1
CƠ SỞ LÝ LUẬN, TỔNG QUAN TÌNH HÌNH NGHIÊN CỨU VỀ
SƠN TRUYỀN THỐNG TRONG NGHỆ THUẬT TRANG TRÍ
QUẦN THỂ DI TÍCH CỐ ĐÔ HUẾ
1.1. Khái niệm sơn truyền thống và một số thuật ngữ
1.1.1. Khái niệm sơn truyền thống
Khi nói về sơn truyền thống trong các di tích lịch sử nói chung và nói
riêng QTDTCĐH, chúng ta thử hỏi có biết bao nhiêu con người đã thấu hiểu
đầy đủ về kỹ thuật và tên gọi của nó? Thật sự, mỗi khi chúng ta quan tâm, tìm
hiểu, nghiên cứu về chất liệu sơn truyền thống mới thấy được giá trị thẩm mỹ
của nó. Thời Nguyễn, nhận biết sơn truyền thống trong mỗi công trình kiến
trúc có vị trí vai trò rất quan trọng, nên đã sử dụng nó phủ khắp cung đình.
Chất liệu sơn truyền thống còn có tên gọi khác là sơn cổ truyền, sơn mỹ nghệ
hay sơn ta. Trong thực tế, thường nhật con người thường gọi là “sơn ta” nhiều
hơn cụm từ sơn truyền thống, sơn mỹ nghệ vì tính chất của nó mang tính địa
phương nhiều hơn, mặt khác để chỉ rõ sự khác biệt giữa sơn Tây, sơn Tàu,
sơn Nhật và theo cách gọi dân gian ấy nhằm để phân biệt với sơn công nghiệp
hiện đại ngày nay.
Những vết tích đầu tiên về sơn truyền thống ở Việt Nam đã được khai
quật hàng trăm năm trước công nguyên. Thời Đinh (930-950) đã biết sử dụng
sơn truyền thống để sơn lên chiếc ghe thuyền vượt sông trong thời kỳ chiến
tranh, không chỉ vậy nó còn được trang trí đồ sơn, hoành phi, ngai kiệu, án
thờ và những kiến trúc cung điện nguy nga lộng lẫy. Đứng trước những ưu
điểm nổi bật đó nên sơn truyền thống là chất xúc tác cho con người thời bấy
giờ phải trăn trở đón nhận và ứng dụng nó trong di tích thời Nguyễn.
Sơn cổ truyền một lần nữa khẳng định sự khác biệt giữa sơn cổ truyền
Việt Nam với các loại sơn khác như sơn Nam Vang của Campuchia, sơn
16
Nhật, sơn Trung Quốc (Tàu) hoặc sơn hạt điều trong nước. Thuật ngữ sơn
truyền thống (sơn mỹ nghệ, sơn cổ truyền) được viết trên văn bản và sách vở,
còn trong giao tiếp của người dân địa phương thường gọi là sơn ta, chúng vừa
ngắn gọn, dễ hiểu. Hơn nữa cụm từ “sơn ta” đã thấm sâu vào tâm hồn và ký
ức của mỗi người dân miền Bắc nói chung và nói riêng ở tỉnh Phú Thọ, nhất
là đối với sinh viên các trường Mỹ thuật có chương trình đào tạo chất liệu sơn
truyền thống, cũng như đối với các nhà quản lý, nghệ nhân, người thợ trong
công tác bảo tồn các di tích lịch sử Việt Nam và Quần thể di tích cố đô Huế.
Vậy khái niệm sơn truyền thống, là chất liệu chuyên dụng trong các di
tích văn hóa lịch sử Việt Nam. Một chất liệu được chiết suất từ mủ cây sơn để
tinh chế và trở thành các loại sơn quý hiếm làm đẹp di tích và bằng những kỹ
thuật theo lối cổ truyền đã để lại cho di tích những dấu ấn sắc son về sơn thếp
trong lòng của mỗi người thợ, quản lý và dân địa phương. Ngày nay, sơn
truyền thống (sơn cổ truyền...) trong đời sống thường nhật và trong các tác
phẩm mỹ thuật có tên gọi khác đó là sơn mài Việt Nam.
1.1.2. Một số thuật ngữ sơn truyền thống sử dụng trong DTCĐH
Thời Nguyễn, những thuật ngữ sơn truyền thống chỉ định rõ nét những
nghề nghiệp tương ứng như Kim tượng ty (Ty thợ thếp vàng), Ngân tượng ty
(Ty thợ thếp bạc) có nghĩa là chuyên thếp vàng, bạc lá trên các họa tiết trang
trí; Tất tượng cục (Cục thợ làm nghề sơn thếp) chuyên sơn sửa và làm mới
công trình kiến trúc có sơn son thếp vàng trên các kiểu thức; Họa tượng ty
(Ty thợ vẽ) vẽ các họa tiết lên trên nền gỗ và nền sơn truyền thống, Mộc
tượng ty (Ty thợ mộc), Long tú tượng ty (Ty thợ thêu rồng), Nề tượng cục
(Cục thợ nề), Pháp lam tượng cục (cục thợ làm pháp lam)...
Như đã trình bày, khái niệm sơn truyền thống và các tượng cục mở đầu
cho việc nhận diện chất liệu sơn truyền thống trong nghệ thuật trang trí, bởi
những quy trình về kỹ thuật sơn đem lại những thủ thuật, thủ pháp biểu hiện
17
trên các đồ vật, cấu kiện gỗ, ván tường hay cột trụ... tạo thành những đồ sơn
có giá trị thẩm mỹ nhất định. Sơn truyền thống khá phức tạp về mặt kỹ thuật,
nên những thuật ngữ và khái niệm mang tính nghề nghiệp đặc thù. Chúng có
liên quan trực tiếp đến quy trình sơn truyền thống, sơn cổ truyền, son thếp,
sơn quang bóng và nền cốt gỗ (vóc), hom bó, sơn son thếp bạc hay vàng, mài
phẳng, khắc nét, lớp màu, chồng các lớp hom, lớp thí sơn. Sơn ta, sơn chín rất
cần thiết đối với DTCĐH nên NCS hệ thống một số thuật ngữ thường dùng
trong quá trình thao tác của nghề sơn truyền thống ở DTCĐH cụ thể như sau:
- Cốt gỗ là nguyên liệu chính trong việc tạo tác thành nền mộc như các
kiểu thức trang trí, những cấu kiện, hàng cột, ô hộc, ván tường, cơi trầu, án
thờ, khánh thờ và kiệu võng...
- Phất vải (phủ vải) trên nền gỗ của các sản phẩm, mục đích tránh sự co
giản và tạo nền bám vững chắc cho lớp bó sơn, hom sơn...
- Bó sơn là trát lên nền mặt gỗ có phủ vải hoặc không phủ vải một lớp
sơn gồm sơn sống trộn với đất phù sa và mạt cưa.
- Hom là công đoạn sử dụng sơn sống trộn với đất phù sa để hom lên
những đồ sơn như câu đối, án thờ, khánh thờ, kiệu võng, long sàng... để nơi
mát mẻ và tránh ở vị trí khô nóng làm rạn nứt mặt hom.
- Lót sơn là lót lên mặt hom nhiều lớp sơn sống làm nền.
- Mài sơn là mài các lớp sơn (mài bó, hom, lót sơn, thí sơn) cho phẳng
phiu bằng đá mài hoặc giấy ráp (giấy nhám).
- Thí sơn cũng như chồng lớp sơn, lớp màu lên trên nền vóc hoặc trên
các họa tiết trang trí. Hòa trộn màu son (đỏ) với sơn chín tô phủ lên bề mặt
các kiểu thức, đồ sơn, hàng cột...
- Vóc sơn có nghĩa là cốt gỗ được xử lý qua các công đoạn từ bó sơn
đến thí son gọi là vóc.
18
- Sơn cầm, tô quét mỏng một lớp sơn cầm trên nền vóc có họa tiết để
dát (thếp) vàng hay bạc lá.
- Sơn thếp, thếp (dát) vàng bạc chính là sử dụng kim loại quý của nghề
kim hoàn được người thợ dát mỏng. Chúng được thếp lên các họa tiết trang trí
hoặc đường viền, đường diềm của họa tiết trong và ngoài ô hộc.
- Sơn quang (dầu) là nước sơn được phủ nhiều lần lên các cấu kiện gỗ
có hoặc không có kiểu thức trang trí. Chúng tạo sản phẩm có độ bóng như
công trình kiến trúc cung Diên Thọ và điện Long An.
- Sơn phủ hoàng kim, loại sơn phủ trên bề mặt của vàng, bạc lá và trên
nền màu son (đỏ).
- Sơn sống là một loại mủ sơn được chiết xuất từ cây sơn Phú Thọ
- Sơn cánh gián (sơn chín) được khuấy chín bởi sơn sống loại tốt (sơn
giọi nhất) với nhựa thông để trộn với màu son (đỏ) tô phủ mặt nền và họa tiết
trang trí trong QTDTCĐH.
- Sơn then được tinh chế từ sơn sống trộn với bột sắt, tô phủ lên mảng
tường, cột kèo có các họa tiết trang trí...
- Sơn son thếp vàng có nghĩa kết hợp hai công đoạn sơn son nền và dát
vàng hoặc bạc lá phủ hoàng kim.
- Sơn ta (sơn mỹ nghệ, sơn cổ truyền, sơn truyền thống) chính là sơn
sống, những cụm từ đó được sử dụng chung trong nghề sơn.
- Sơn hạt điều, sơn Nhật được tinh luyện theo công nghệ hiện đại, ưu
điểm nhanh khô, không bị lở loét da thịt người của thợ sơn; nhược điểm
nhanh chóng bong tróc thành từng mảng, vì vậy trong DTCĐH không nên sử
dụng hai loại sơn này.
- Sơn mật dầu là lớp mật loãng, có màu nâu sẫm, nổi trên mặt sơn, rất
khó khô và có khi không khô, công dụng pha chế và che chở các lớp sơn bên
dưới như sơn giọi nhất, nhì, thịt.
19
- Dầu đồng là một loại dầu có sắc đỏ, như dầu nhựa thông.
- Ngân châu có nghĩa là chất thuốc màu sắc đỏ, lấy lưu hoàng và thủy
ngân chế thành, được hiểu như màu son (đỏ) ngày nay.
- Thổ phấn châu, trong Hán Việt dịch thuật chữ thổ có nghĩa là đất (đất
thó), còn từ phấn như phàm vật gì tán nhỏ gọi là phấn, châu là sắc đỏ. Được
hiểu là đất mịn có màu nâu đỏ (bột chu) để trộn với sơn sống và hom bó.
- Phấn châu, Phấn có nghĩa là vật nghiền ra rất nhỏ gọi là phấn và châu
là sắc đỏ.
- Khắc nét là dùng các loại đục bạt,... so với những người có tay nghề bình thường, bởi họ đã đem lại
những giá trị văn hoá, thẩm mỹ trong chất liệu sơn truyền thống làm nên
những điều kỳ diệu trong di tích, tưởng rằng hiệu quả của nó không đạt theo
mong muốn thời bấy giờ, nhưng thực tiễn cho thấy nghệ thuật trang trí có sử
dụng sơn truyền thống ngoài sự mong đợi và kết quả đạt mỹ mãn. Dưới thời
Lê, người ta cho rằng trong triều đình nếu thiếu một trong hai yếu tố về sơn
36
truyền thống và thợ sơn thì công trình chất liệu sơn truyền thống được xem
như có xác mà không hồn. Khẳng định điều đó là sự tôn vinh công lao của
những người thợ, nên trên tấm bia đá Thuỷ tạo đình bi (1686) ở làng Thổ Hà,
Vân Hà, Việt Yên (Hà Bắc) có khắc “Việc tiền công tòa Long môn (tiền công
trả cho thợ làm sơn) sơn son, thếp vàng là 200 quan bằng tiền công thợ mộc
làm cả ngôi đình” [10].
Yếu tố nghệ thuật dân gian được thể hiện trong cung đình thời Nguyễn
bắt nguồn từ tình yêu dân tộc, yêu đất nước với vẻ đẹp nên thơ, lối tạo hình
truyền cảm kết hợp với chất liệu truyền thống ấm cúng và trang nghiêm. Nó
mang hơi thở gần gũi đời sống chân chất của người dân và đặt trọn tình cảm
sâu đậm trong kiểu thức trang trí. Nghệ nhân luôn đặt niềm tin vào sự sáng
tạo ra các mẫu thức trang trí theo thông tục, dễ gần gũi và coi trọng công sức
lao động nghệ thuật của những người thợ thủ công. Đánh giá về điều này
GS.TS Trương Quốc Bình nghiên cứu Về công cuộc bảo vệ và phát huy quần
thể di tích lịch sử và văn hoá Cố đô Huế, có nhận xét “...Với tình cảm sáng
tạo và chiều sâu tâm thức đậm nét, các nghệ nhân luôn giữ lại yếu tố tích cực
đã từng phát triển rực rỡ trong dân gian” [16, tr.12] và tác giả Trần Lâm Biền
khi nghiên cứu Huế, Mỹ thuật Nguyễn, Những cái riêng đã đánh giá “Đến
Huế, tôi được áp sát những biểu hiện đúng là cung đình nhưng không hoàn
toàn gián cách với nền mỹ thuật dưới triều Nguyễn” [11, tr.177].
1.2.2. Vai trò của sơn truyền thống trong các công trình kiến trúc
tiêu biểu di tích thời Nguyễn
Sau khi lên ngôi, vua Gia Long đã cho triển khai quy họach tổng thể và
xây dựng hệ thống các công trình kiến trúc cung đình thời Nguyễn tại Phú
Xuân, phần lớn kiến trúc xây dựng theo đường trục Dũng Đạo, hướng Nam
tiến. Phong thủy của kinh đô Phú Xuân có dòng sông Hương với thượng
nguồn nước chảy ra biển cả, phía Nam có núi Ngự Bình, phía Đông có biển,
37
phía Tây có dãy núi Trường Sơn che chắn thuận lợi cho việc quốc thái dân an.
Trong đó vua chú tâm vai trò của sơn truyền thống có chức năng làm đẹp cho
vương quyền, mặt khác mô tả các họa tiết trang trí đặc sắc. Mỹ thuật thời
Nguyễn giữ được nét riêng, tính độc đáo về kiến trúc và chất liệu sơn truyền
thống đã được tác giả Trần Lâm Biền khẳng định trong nghiên cứu Huế, Mỹ
thuật Nguyễn, Những cái riêng đã cho rằng “Cung điện và lăng tẩm của
Huế vẫn có cái riêng của chúng. Cái riêng ấy của Huế phải chăng chính là
chất cung đình trong Mỹ thuật Nguyễn” [11, tr.177].
Dưới thời Nguyễn, vai trò của chất liệu sơn truyền thống không thua
kém với các chất liệu khác, thậm chí nó còn lấn lướt cả không gian triều đình
Nguyễn, biểu hiện như một nét riêng và thế mạnh về sơn, nghệ thuật trang trí
mà chỉ có giai đoạn này mới có được của cung đình mỹ thuật Nguyễn. Sơn
truyền thống đã góp phần làm tăng thêm giá trị thẩm mỹ về nội dung cũng
như hình thức ở một số công trình tiêu biểu, nổi bật dưới đây:
1.2.2.1. Ngọ Môn (1833)
Ngọ Môn (Nam Khuyết Đài) là cửa ngõ phía nam của Hoàng thành
thời Nguyễn, nên việc tô son thếp vàng là điều kiện tất yếu. Kiến trúc Ngọ có
đến 100 hàng cột, trong đó có 48 trụ cột vươn cao nối trực tiếp đến tầng trên
là lầu Ngũ Phượng, tượng trưng vua cha (trời), biểu tượng về sức mạnh của
người cha trời truyền sinh khí cho người mẹ là đất và không gian ở giữa dân
gian. Người thợ sơn, thợ vẽ làm đẹp Ngọ Môn bằng những tư duy, tình cảm
dân tộc được thể hiện trên họa tiết trang trí với chất liệu sơn truyền thống. Họ
gia công tỉ mỉ các lớp sơn để có những hàng cột được tô điểm sắc son, không
vẽ họa tiết trên các hàng cột, người thợ chỉ vẽ họa tiết rồng hóa cúc và phủ
sơn son thếp vàng ở các vì kèo, cấu kiện gỗ. Theo tác giả Trần Lâm Biền
trong nghiên cứu Vài cảm nhận qua một lần tới Huế, Huế di sản và cuộc sống
khẳng định “Ngọ Môn rất khác Thiên An Môn về nhiều mặt, vẫn không
38
hoàn toàn chế ngự được mạch mỹ cảm dân tộc vốn thấm nhuần con mắt và
bàn tay của người thợ thi công” [13, tr.187]. Ngọ Môn được trùng tu lại nhiều
lần và mới gần đây vào năm 2013, TTBTDTCĐH tiếp tục bảo tồn toàn bộ
kiến trúc của Ngọ Môn và đến năm 2016 cơ bản đã hoàn thành phần kiến trúc
gỗ, còn kỹ thuật sơn truyền thống trên ván tường, hàng cột và một số kiểu
thức trang trí ở các đầu hồi đang trong giai đoạn thi công đến năm 2017 vẫn
chưa hoàn thành.
1.2.2.2. Điện Thái Hoà (1805)
Điện Thái Hoà là công trình nghệ thuật trang trí quan trọng bậc nhất
của cung điện, toạ lạc sau Ngọ Môn, Điện là nơi vua thiết triều, bàn luận và
trông coi việc đại sự với các cận thần. Nội thất của Điện được trang trí Ngai
vàng và bửu tán bằng sơn truyền thống và kiểu thức trang trí hình tượng rồng.
Ngai vàng là nơi vua yết triều được đặt trọng tâm chính giữa, tay cầm, thân
ghế của ngai vàng được các nghệ nhân tài hoa chạm khắc rất tinh xảo những
họa tiết vân mây và hình tượng rồng... Đặc trưng của Bửu tán là một hệ thống
rèm được chạm lộng cầu kỳ, tinh tế với hình tượng rồng đan xen vân mây uốn
khúc hoặc rồng chầu Hổ phù (con Qùy), cùng với đường diềm có kết hợp tua
rất khéo léo, đặc biệt các họa tiết ở đây được dát vàng lá thuần tuý không phủ
hoàng kim và không tô son, tôn vẻ đẹp trang nghiêm ở chốn cung đình. PGS.
HS Vĩnh Phối trong nghiên cứu Những kiểu thức trang trí Huế đã trình bày
“... Bản chất hòa sắc vàng son rực rỡ trong không gian trầm tối được bài trí
gợi nên không khí tưởng niệm trang nghiêm ở điện Thái Hoà - Ngai vàng,
trên là bửu tán là trọng tâm nơi tôn nghiêm dành cho các vị Hoàng đế...” [83,
tr.124].
Phần bên dưới bệ đỡ của Ngai vàng, tạo thành một khối hình vuông
vững chắc được sắp đặt ở dạng bậc cấp, càng lên cao nhỏ dần và xung quanh
chạm khắc các hình tượng rồng công phu, tỉ mỉ, cầu kỳ. Chiếc ghế của vua
39
được tạo hình khá hoàn hảo, hai tay cầm và thân ghế được chạm hình tượng
rồng sắc sảo với sơn truyền thống lộng lẫy.
Những hàng cột là điểm nhấn không thể thiếu trong Điện, cùng với
những bức liên ba trên nóc điện, toàn bộ được nghệ nhân thực hiện họa tiết và
thơ văn đan xen nhau trong các dạng ô hộc với sơn truyền thống. Trong nội
thất những hàng cột có ý niệm sâu sắc, biểu tượng của tầng trên truyền sức
mạnh xuống đất mẹ hoa sen ở cuối chân cột. Ý nghĩa của hình tượng rồng là
sức mạnh của vua là Nhân đại diện cho dân chúng, hình tượng rồng uốn khúc
uyển chuyển bao quanh các trụ cột cùng với họa tiết vân mây, tinh tú, lửa,
sóng nước được sơn son thếp vàng làm cho cung điện thêm uy nghi, trang
nghiêm và tráng lệ. Sơn truyền thống trên những hàng cột ở đây được làm
thành hai giai đoạn, giai đoạn thứ nhất người thợ sơn làm nền cốt chắc chắn,
phẳng bóng và giai đoạn thứ hai thợ sơn tô vẽ họa tiết trang trí. Điện Thái
Hòa là ngôi điện có quy mô rộng lớn về sơn truyền thống, mặc dù Điện đã
được tu sửa nhiều lần dưới thời Gia Long, Minh Mạng, Khải Định... nhưng
tổng thể của hệ thống kiến trúc cũng như kiểu thức trang trí với sơn truyền
thống luôn được phát huy và bảo tồn.
1.2.2.3. Thế Miếu, Hưng Miếu
- Thế Miếu (1821 - 1822)
Sau khi vua Gia Long băng hà, vua Minh Mạng cho xây dựng Thế
Miếu (Thế Tổ Miếu) thờ cúng vua Gia Long. Tuy nhiên, vua Minh Mạng
không chỉ đặt ra mục đích như vậy mà ý đồ sẽ sử dụng để thờ các vua Nguyễn
sau khi băng hà cho đến ngày nay. Thế Miếu toạ lạc ở hướng Tây sau Hiển
Lâm Các. Thế Miếu là một công trình kiến trúc khá bề thế, có giá trị thẩm mỹ
sơn rõ nét hơn so với các công trình Thái Miếu, Triệu Miếu. Nội thất trong
các hàng liên ba trên nóc điện được chạm trổ các kiểu thức trang trí bắt mắt
với các đề tài trang trí gần gũi với dân gian. Những hàng cột, bức tường, cấu
40
kiện, đòn tay được sơn thếp công phu tỉ mỉ với những ô hộc và bát bửu đan
xen chữ viết chạm nổi ở tầng liên ba, các họa tiết rồng hoá và cúc hóa lồng
ghép, đường nét kỷ hà tạo thành những đường diềm trang trí thú vị. Hương án
của các vị vua biểu hiện tính nghệ thuật cao, mỗi án thờ có đến 11 hình dạng
ô hộc của hình vuông, chữ nhật được chạm lộng tinh tế, sắc sảo hình tượng
rồng, phượng, hoa sen, long mã có lối bố cục thuận mắt, kết hợp với đường
diềm chạm lộng tinh tế và khởi sắc của vàng lá được phủ lên. Người thợ sơn,
tập trung trí tuệ và công sức vào chất liệu sơn truyền thống trên đồ sơn trang
trí ở Thế Miếu, từ những án thờ cho đến các khánh thờ và sập thờ đã được gọt
giũa trau chuốt họa tiết trang trí là điểm nhấn và bộ mặt của mỹ thuật cung
đình Nguyễn.
- Hưng Miếu (1804)
Hưng Miếu là nơi thờ tự Hưng tổ Khương Hoàng Đế hay Nguyễn Phúc
Luân (thân phụ của vua Gia Long). Hưng Miếu được phục hồi năm 1951,
trùng tu năm 1995 và tu bổ lớn vào năm 2004. Kinh phí bảo tồn của Chính
phủ Việt Nam và có sự tài trợ của nước Thái Lan. Vai trò sơn truyền thống
được khôi phục khá hoàn hảo trên công trình Hưng Miếu; kỹ thuật của sơn
truyền thống ở nội thất hoàn toàn giống với kỹ thuật ở Thế Miếu, Hiển Lâm
Các; nhưng đến công đoạn dát bạc lá phủ một lớp hoàng kim có màu vàng
ngã đỏ hoàn toàn không giống với vàng lá ở Bửu tán và các án thờ trong Thế
Miếu... Tuy nhiên, trong quá trình khảo sát về chất liệu sơn truyền thống tại
Hưng Miếu, NCS chứng kiến trong công đoạn dát bạc lá và phủ hoàng kim
gần giống với công trình son thếp ở Văn Miếu Quốc Tử Giám tại Hà Nội,
phần lớn đội ngũ (nghệ nhân, thợ sơn) trùng tu được mời từ miền Bắc. So
sánh giữa công trình Hưng Miếu và Tử Cấm Thành, chất liệu sơn truyền
thống có phủ hoàng kim trên bạc lá cũng hoàn toàn khác nhau. Vào năm
2013, TTBTDTCĐH xúc tiến và triển khai việc tu sửa kiến trúc lẫn nghệ
41
thuật trang trí và sơn truyền thống ở Tử Cấm Thành. Người thợ Huế sau khi
dát bạc lá hoàn thành mới cho phủ hoàng kim bằng sơn chín trộn với phẩm
vàng, kết quả trên bạc lá được phủ đọng lại một lớp màu vàng tươi khác biệt
với màu vàng trên bửu tán và càng khác hơn với sơn thếp vàng ngã đỏ ở
Hưng Miếu.
Hưng Miếu đã được các nghệ nhân miền Bắc thi công son thếp và nghệ
thuật trang trí rất công phu, tinh xảo, có giá trị thẩm mỹ. Biểu hiện rõ nét nhất
trong 3 án thờ ở mặt tiền và 1 án ở mặt hậu của gian thờ chính giữa, cùng với
sập thờ, khánh thờ đã được người thợ dày công tạo hình các kiểu thức trang
trí như hình tượng rồng, phượng, sen hoá, hổ phù và song thọ Chúng được
chạm lộng tinh vi và chiếm ngự trên các ô hộc, đường diềm, hình tượng dơi
giải quyết các góc rất hài hòa và có những bát bửu chen kẽ với ô hộc thơ văn
chữ viết chạm nổi được đặt trên mái ngói [C2, PL3.H.13, tr.182], các mẫu
thức ấy có ý nghĩa dân gian, tâm linh của cung đình mỹ thuật Nguyễn.
1.2.2.4. Hiển Lâm Các (1821 - 1822)
Hiển Lâm Các là công trình có lối kiến trúc thanh tao, có tính nghệ
thuật cao với kiến trúc 3 tầng theo hình tháp, chiều dài 21m, rộng 12,8m và
chiều cao 16m, trong đó tầng 1 có 24 hàng cột gỗ, tầng 2 gồm có 8 trụ chính
cao 12m, có 4 cột xuyên đến tầng thứ 3, chính nơi đây vua Minh Mạng cho
xây để ghi lại công lao của các vua Nguyễn và các công thần có công xây
dựng, bảo vệ vùng đất Phú Xuân một thời.
Bằng cách bài trí các dạng họa tiết rồng, hoa lá đơn giản được cách
điệu, chạm trổ trực tiếp trên các mảng gỗ, khoác lên mình lớp sơn then huyền
bí nhưng đầy khí phách. Chất liệu sơn truyền thống ở Hiển Lâm Các khác hẳn
với các công trình nghệ thuật khác, người thợ nhấn mạnh màu then (đen), son
(đỏ) có tính trang trí rất ấn tượng, ngoại thất tô son lộng lẫy, còn nội thất phủ
lên các lớp sơn then bao phủ toàn bộ các họa tiết trang trí. Ở đây vai trò của
42
sơn then thuần túy khác với sắc son bên ngoài, đây chính là điểm nhấn mạnh
mẽ cần có để tôn vinh chất liệu sơn truyền thống trong tổng thể các công trình
sơn tại Hoàng thành (Đại Nội) trong Quần thể di tích cố đô Huế.
1.3. Tổng quan các vấn đề nghiên cứu sơn truyền thống trong nghệ
thuật trang trí
Như đã trình bày ở phần lý do chọn đề tài, NCS nhận thấy trong các
Hội thảo, một số tác giả trong và ngoài nước đã đề cập đến sơn truyền thống,
nhưng hạn chế không đi sâu bản chất của sơn trên họa tiết trang trí mà chỉ
khái lược. Vì vậy, NCS cho rằng đó là một khoảng trống cần bổ sung vào đề
tài luận án.
NCS chọn DTCĐH là nơi tập trung nhiều quần thể di tích thuận lợi cho
việc nghiên cứu với đề tài luận án. Hầu hết các công trình kiến trúc nghệ thuật
trang trí có sơn phủ sơn truyền thống trong thời Nguyễn, đều đã trải qua nhiều
giai đoạn, nhiều lần tu sửa và bảo tồn, tuy nhiên dấu ấn xa xưa của sơn cổ
truyền vẫn còn lưu giữ trên các đồ sơn như án thờ, khánh thờ, ngai vàng và
bửu tán... , nhưng trong các tạp chí, tập sách vẫn còn thiếu tính lý luận về sơn
truyền thống trong di tích triều Nguyễn. Nên trong phần tổng quan NCS dẫn
chứng các tài liệu có liên quan đến sơn cổ truyền nhằm mở ra hướng nghiên
cứu về bản chất nó, đem lại giá trị thẩm mỹ cho các họa tiết trang trí. Lệ thếp
vàng bạc trong di tích Nguyễn có ý nghĩa sâu sắc nên trong Nội các triều
Nguyễn, tập sách Khâm định Đại Nam hội điển sự lệ (KĐĐNHĐSL) tập XV,
có đoạn viết về Lệ Thếp Phủ Vàng Bạc như sau “Thiệu Trị năm thứ 4 (1844)
chuẩn y lời tâu rằng: Từ nay chế tạo vật hạng gì cần thếp hoặc phủ
vàng.Chi hết bao nhiêu lá vàng, bạc, thiếc đều phải đăng ký, khi xong việc
thì theo lệ làm sổ làm đơn” [79, tr.95]. Trong tư liệu này, chỉ đề cập đến việc
chi trả về lệ thếp vàng, bạc lá trong di tích, nhưng chưa thấy thời Nguyễn
trình bày phần kỹ thuật dát vàng bạc như thế nào? Cho nên luận án mong mỏi
43
góp thêm tiếng nói về lý luận lịch sử mỹ thuật để trình bày và làm sáng tỏ đề
tài.
Tập sách “Những người bạn cố đô Huế” (Bulletin des Amis du Vieux
Huế) (B.A.V.H) đã cung ứng một số tư liệu trong chuyên
mục: Les Français au service de Gia Long (Những người Pháp phụng sự Gia
Long). Đây là tư liệu khá phong phú, đã đóng góp cho lịch sử thời Nguyễn có
tiếng nói khách quan từ góc nhìn của người Pháp để bổ sung cho chính sử của
đất nước, nhất là những vị trí còn bỏ ngỏ hoặc "tồn nghi". Trong các tác
phẩm L'Annam và Hướng dẫn nghiên cứu An Nam và Chămpa, có đề cập khái
lược lịch sử giai đoạn sôi động đầy xáo trộn và cũng đầy đau thương của lịch
sử An Nam dưới thời cận đại. Nhưng bên cạnh đó, trong B.A.V.H. còn có
nhiều bài viết chi tiết, tỉ mỉ, giúp cho việc sưu tập tham khảo trong quá trình
nghiên cứu sơn truyền thống và nghệ thuật trang trí trên các cấu kiện gỗ, ô
hộc đạt hiệu quả trong nghiên cứu.
Sơn truyền thống của người Việt phát triển rực rỡ từ khi nhà Lý mở đầu
kỷ nguyên độc lập và hưng thịnh nhất ở thế kỷ thứ X, XI. Từ các công trình
kiến trúc được tô son thếp vàng nguy nga, tráng lệ cho đến những đồ thờ, án
thờ, khánh thờ... và các họa tiết trang trí được khắc chạm và phủ lên một chất
liệu sơn truyền thống ấm cúng, sâu lắng.
Trong tập Dư địa chí của Nguyễn Trãi có bàn luận đến đồ sơn, có ghi
lại nơi trồng và chế biến nhựa sơn cũng như quá trình cây sơn phát triển.
Nghiên cứu sơn truyền thống là quá trình tìm hiểu sự phát triển của cây sơn,
nhựa sơn và làng nghề sơn của người Việt, đặc biệt biết rõ nguồn gốc xuất xứ
sơn truyền thống mở rộng cho đề tài luận án. Hai tác giả Đinh Văn Kiên và Lê
Xuân Diệm (Viện Khảo cổ) đã khai quật ngôi mộ cổ Đường Dù ở Đông Sơn,
Thủy Nguyên, Hải Phòng và họ đã tìm thấy 14 loại dụng cụ nghề sơn nhưng
chỉ là minh khí có dính sơn ở bát đựng hay chổi quét. Họ nhận định ngôi mộ
44
này chôn vào khoảng thế kỷ thứ nhất sau công nguyên, những dụng cụ làm
sơn của mộ Đường Dù lại càng chứng minh nghề làm sơn cổ truyền Việt Nam
đã có từ rất sớm.
Ngày 19/4/1961 tại Việt Khê, Hải Phòng Việt Nam đã khai quật được
một khúc gỗ lớn với lõi ruột được khoét rỗng, bên trong có chứa đựng hơn
100 hiện vật bằng đồng thau, bằng gỗ. Khúc gỗ đó chính là quan tài của một
ngôi mộ có niên đại khoảng thế kỷ thứ III, IV trước công nguyên, trong đó có
các loại gỗ bằng sơn như cán nạo móc dài 30cm sơn then; cán đục một dài
55cm và cán đục vũm dài 57cm được sơn bóng; cán dáo mác dài nhất 2,39cm
sơn rất chỉnh chu và được trang trí những vòng tròn chia cán ra thành nhiều
đốt; có thêm mái chèo phía bên trong phủ sơn then còn bên ngoài sơn vàng,
cho thấy những chỗ bị tróc sơn biết được người thợ đốt gỗ trước khi sơn lên
để tránh khỏi bị mục. Cùng thời trong niên đại này tại La Đôi - Hải Hưng có
một mảnh gỗ sơn hai màu đỏ đen theo chiều dọc có độ dài 3cm, một cái tráp
gỗ dài 55cm cao 2cm sơn đến hai lớp sơn then và trang trí những đường hoa
văn bằng sơn màu cánh gián và nâu nhạt. Tại xã Vinh Quang, huyện Hoài
Đức tỉnh Hà Đông vào tháng 9/1969 khai quật được ngôi mộ cổ có một đoạn
gỗ dài 20 cm được sơn hai khoanh màu đỏ sẩm và màu then vào khoảng thế
kỷ IV, V trước công nguyên.
Vào thời Lê, dưới triều Lê Huyền Tông có ông Đinh Vịnh là Quan
chuyên coi việc sơn sửa cung điện, làm việc tại Tất họa tượng cục tức là Cục
thợ vẽ sơn. Vào những năm cuối thế kỷ XV đầu thế kỷ XVI dưới thời Lê
Nhân Tông (1443) có cụ Trần Lư được vua Lê cử sang sứ Trung Quốc học
thêm kỹ thuật sơn son thếp vàng được đánh giá là dấu mốc của sơn truyền
thống Việt, nhờ vào yếu tố của nền đỏ thắm bên cạnh vàng lá lấp lánh, lộng
lẫy và rực rỡ trong cung điện. Ông chính là ông tổ nghề sơn của làng Bình
Vọng, nghề sơn ở đây lan tỏa rộng khắp đến các phường và các làng khác như
45
phường Bảng - Từ Sơn Bắc Ninh, phường Cát Đằng - Ý Yên - Nam Định cho
đến huyện Phú Vang - tỉnh Thừa Thiên Huế Xuất phát từ các niên đại,
chứng minh chất liệu sơn truyền thống có kỹ thuật sơn son thếp vàng do cụ
Trần Lư truyền dạy cho các thế hệ con cháu, đánh dấu sự lan toả kỹ thuật sơn
từ miền Bắc đến miền Trung ở làng Tiên Nộn huyện Phú Vang tỉnh Thừa
Thiên Huế và đã được thời Nguyễn tiếp biến tích cực. Đây là cơ sở và nền
tảng quan trọng cho nhận định, đánh giá đúng về giá trị của sơn truyền thống
gắn kết chặt chẽ nghệ thuật trang trí trên kiến trúc đậm nét bản địa. Nghệ
nhân là cầu nối tài ba giữa sơn và họa tiết được cách điệu nâng cao để trở
thành nghệ thuật trang trí gần gũi với con người đi sâu vào tiềm thức của nhân
dân. PGS.TS Trần Lâm Biền trong nghiên cứu Một con đường tiếp cận lịch sử
đã khẳng định “Dù có nhiều ảnh hưởng Trung Hoa (những ảnh hưởng chủ
động vì vua Minh Mạng cho thợ sang học) nhưng với những cái hay, đẹp, tốt
đã được Việt hoá, các kiến trúc cung đình Nguyễn trở nên gần gũi, ấm cúng”
[11, tr.357].
Theo tác giả Vũ Ngọc Khánh có nghiên cứu về Lược truyện thần tổ các
ngành nghề, có ghi chép trong sử sách về ông Trần Ứng Long là một võ
tướng, ông là người đầu tiên trong lịch sử đã sử dụng nhựa cây sơn trong cuộc
chiến đấu dẹp loạn. Khi qua sông các thuyền bè bị giặc đánh chìm cho nên
hạn chế đội quân của ông vượt qua sông đánh trả và“Trần Ứng Long nảy sinh
ra một sáng kiến dùng chất liệu sơn mài đó là cây sơn. Ông biết trong làng có
cây sơn, nên cho binh lính vào sâu trong dân làng mượn tất cả các loại thúng
mủng đem nhựa sơn trộn với đất bột trát vào các khe hở, nước không lọt vào
nhờ vậy chuyển đưa được quân lính sang sông an toàn, từ đó người dân cho
rằng ông là ông tổ của nghề sơn truyền thống, tính niên đại vào khoảng thế kỷ
thứ X” [55, tr.73]. Từ những sáng kiến ấy, tính ưu điểm của sơn đã được cha
ông tiếp nhận cải tiến trong việc tô vẽ trong di tích lịch sử, lan tỏa đến các
46
chúa Nguyễn cho thợ sơn, thợ vẽ thực hiện ý tưởng trên các kiểu thức trang trí
cung điện và miếu thờ cúng tổ tiên.
Thế kỷ thứ XV - XVI, nghề sơn truyền thống ở nước ta đã được phát
triển rực rỡ. Bằng kỹ thuật cổ truyền, nghệ nhân đã chế tác những loại sơn
thích hợp cho từng công việc cụ thể, chứng minh được một số công trình sơn
thếp như Văn Miếu - Quốc Tử Giám, các pho tượng Phật ở các chùa chiền ở
miền Bắc. Chất liệu sơn truyền thống có ưu thế và có chức năng làm đẹp
trong các cung điện, đền chùa, đình làng, tuy nhiên hiện nay các công trình
kiến trúc cung đình của thời Lê Trịnh không còn nữa, một số tài liệu ghi lại ít
ỏi không đầy đủ hoặc theo sự phỏng đoán từ những công trình kiến trúc còn
sót lại của chất liệu sơn truyền thống và nghệ thuật trang trí.
Qua các công trình nghiên cứu của PGS. Chu Quang Trứ và tác giả
Phan Cẩm Thượng cho biết: Từ thời các vua Hùng chất liệu sơn truyền thống
đã được sử dụng (qua các di vật đồ sơn phát hiện ở Việt Khê - Hải Phòng có
niên đại 3.500 năm). Ngôi đền vua Hùng được trang trí bằng sơn truyền thống
của sơn son thếp vàng lộng lẫy, một vùng đất lịch sử, một trong những làng
nghề nổi tiếng, đồng thời là một địa danh chuyên trồng trọt sản xuất ra những
cây sơn có giá trị nhựa sơn tốt, cung cấp cho cả nước và các nước lân cận, vì
vậy người dân địa phương lấy địa danh của mình đặt cho cây sơn và ngày nay
thường gọi là cây sơn Phú Thọ. Đây được coi là cơ sở cho chất liệu sơn
truyền thống hoạt động mạnh mẽ , một bản lề, một nền tảng sơn mà điểm xuất
phát từ cội nguồn dân tộc và đã được vận dụng một cách thành công có thẩm
mỹ trong DTCĐH.
Mạch chủ của chất liệu sơn truyền thống làm cơ sở cho các làng nghề
hoạt động, nên sơn truyền thống được nhiều tác giả biết đến và nghiên cứu cụ
thể của Họa sĩ Nguyễn Văn Chuốt đã trình bày “Những làng nghề sơn nổi
tiếng và có từ lâu đời như ở làng Chuôn Tre, Đồng Vàng, Bối Khê, Hạ Thái
47
của tỉnh Hà Tây thời bấy giờ”. Tác giả Vũ Từ Trang có đề cập đến làng nghề
Đình Bảng, còn gọi là làng Bảng nổi tiếng về kỹ thuật chế tác sơn then được
lan truyền khắp cả nước như Thủ Dầu Một tỉnh Bình Dương ở miền Nam có
nghề sơn then và sơn son thếp vàng phát triển một thời, cùng thời điểm tác giả
Phạm Côn Sơn nghiên cứu về “Làng nghề truyền thống Việt Nam có đề cập
đến làng nghề sơn mài Tương Bình Hiệp” và tác giả Nguyễn Văn Minh đề
cập đến nguồn gốc xuất xứ, đặc điểm riêng biệt của chất liệu sơn truyền thống
của địa phương. Họa sĩ Lê Xuân Chiểu giới thiệu những nét cơ bản của sơn
mài miền Nam, thông qua nghiên cứu của các tác giả cho chúng ta thấy được
cái nhìn tổng quát về các vị tổ làng nghề sơn truyền thống Việt. Ngoài ra còn
một số tác giả khác như PGS.TS Nguyễn Lan Hương nghiên cứu về nghề sơn
quang Cát Đằng trong luận án tiến sĩ; PGS.TS Phan Thanh Bình giới thiệu
một số làng nghề sơn mài ở Huế trong tham luận “Nghề sơn mài và tranh sơn
mài ở Huế”. Nhìn chung, các tác giả đã nghiên cứu và có cái nhìn khái quát
về làng nghề sơn truyền thống, coi đây là chất liệu độc đáo nên các tác giả
dày công nghiên cứu nhằm mục đích giới thiệu và bổ sung chất chiệu sơn cổ
truyền cho di tích thời Nguyễn, cũng như việc gìn giữ, bảo tồn, phát huy và
phát triển làng nghề một cách thuần tuý từ thời xa xưa cho đến ngày nay.
Tác giả Đinh Văn Thành là một nghệ nhân nổi tiếng trong nghề sơn
truyền thống Việt Nam. Năm 1937, ông đã từng dự Hội đấu xảo tại Pháp
(Paris) để trình diễn và minh họa chất liệu sơn truyền thống của đất Việt đến
với công chúng các nước Châu Âu. Ông là người góp công lớn trong việc
sáng tạo ra sơn cánh gián, sơn then và sơn quang dầu, bằng cách pha nhựa
thông (tùng hương) vào sơn chín để có một chất sơn đặc quánh, có độ dày và
chất thịt của sơn, tạo thêm độ bóng và mềm dẻo. Kể từ đó, ngày nay chất liệu
sơn truyền thống trong DTCĐH có một phần ứng dụng kỹ thuật sơn chín đấu
với tùng hương để pha trộn với sơn son. Cũng chính yếu tố này, nên trong di
48
tích đến công đoạn mài phẳng mặt nền với nước đã trở thành kỹ thuật độc đáo
mà không có chất liệu nào có thể so sánh được. Từ đó khái niệm sơn mài đã
được hình thành với tên gọi mới trong các làng nghề và các trường có đào tạo
mỹ thuật và nghiên cứu chuyên sâu chất liệu sơn truyền thống.
Sơn truyền thống Việt Nam nói chung và nói riêng sơn ở DTCĐH được
nhiều tác giả quan tâm, tập trung nhất vào Hội thảo Sơn ta và nghề sơn truyền
thống Việt Nam do Trường Đại học Mỹ thuật - Hà Nội tổ chức vào năm 2002,
và tác giả Lê Cường với bài nghiên cứu Nghề sơn trong tâm thức người Việt
nhận định “Nghề sơn và chất liệu sơn ta đã góp phần không nhỏ trong việc
bảo tồn giữ gìn “báu vật” cực kỳ quý hiếm của dân tộc Việt Nam trong kho
tàng chung của nhân loại” [26, tr.28]. Mặc dù chất liệu sơn cổ truyền quý
hiếm nhưng ở vị trí di tích thời Nguyễn thì không thể thiếu nó, thậm chí bắt
buộc phải có đầy đủ sơn để tu sửa các di tích mang tính quốc gia và quốc tế.
Họa sĩ Phạm Đức Cường trong tập sách Kỹ thuật Sơn mài có ý kiến
“Việc trùng tu tôn tạo và ứng dụng phục chế và bảo tồn sơn mài là hết sức
quan trọng bởi nó chính là ngôn ngữ thị giác sống, hội đủ các yếu tố thẩm mỹ
về văn hoá tồn tại từ nhiều thế kỷ trước và giữ lại cho đến ngày nay” [28]. Kế
thừa chọn lọc chất liệu sơn truyền thống nhằm mục đích bảo tồn và tôn vinh
giá trị chất liệu sơn của mỗi thời kỳ. Ngày nay, giá trị sơn truyền thống trong
di tích triều đình Nguyễn vô cùng quý giá, chất liệu sơn truyền thống đã đem
lại một giá trị thẩm mỹ đầy sức quyến rũ giữa sơn son thếp vàng đan xen với
các họa tiết trang trí đầy tính thuyết phục, tạo nên diện mạo cổ kính của Mỹ
thuật Huế xưa. Trong nghiên cứu, các họa sĩ còn khẳng định chất liệu sơn cổ
truyền ở đất nước ta đã có từ lâu, nghề sơn được hình thành từ các phường thợ
họ làm ra các đồ sơn phục vụ cho việc thờ cúng và đồ sơn gia dụng sinh hoạt
hàng ngày. “Theo sử sách ghi chép, truyền miệng được biết vào thời vua Lê
Nhân Tôn (1443-1460) cụ Trần Lư hiệu là Trần Thượng Công (Trần Tướng
49
Công) được tôn là bậc thầy đầu tiên về ngành nghề này. Các học trò của cụ
lập thành từng phường thợ sơn, tỏa đi làm nghề khắp nơi trong cả nước
Các nhóm thợ này tự tìm đến các đền đài, chùa chiền tô đắp tượng Phật sơn
son thếp vàng các đồ thờ, kiệu võng hoặc tìm đến các gia đình giàu có nhận
làm các bức hoành phi, câu đối, bàn kỷ, ngai thờ” [28, tr.9]. Một số con
cháu người thợ sơn thời bầy giờ cũng được thời Nguyễn trọng vọng vào cung
đình làm đẹp các công trình kiến trúc với chất liệu sơn cổ truyền.
Kiến trúc sư Lisa Surprenant từ Washington - Mỹ, khi sang Việt Nam
đã choáng ngợp với chất liệu sơn truyền thống ông đã học vẽ với chất liệu
sơn, trong triển lãm đã phát biểu “Việt Nam có một di sản nghệ thuật vô cùng
độc đáo, đó là sơn mài”. Thông qua buổi triển lãm người nước ngoài mới biết
được Việt Nam chúng ta có một chất liệu sơn độc đáo không những nó có mặt
hầu hết các di tích mà còn ở các tác phẩm tạo hình. Một số tài liệu còn lưu
trữ cho biết nghề sơn đã có từ lâu đời như ở Trung Quốc, Nhật Bản, Lào,
Campuchia, Triều Tiên, Thái Lan và đặc biệt ở miền Bắc Việt Nam. Theo
nghiên cứu của H. Lecomte (1908 - 1923) [129], và Pierre Domart (1929)
[131], cây sơn Phú Thọ có tên khoa học là Rhus succedanea L.var.dumoutieri.
Còn cây sơn miền Nam và Campuchia có tên gọi là Melanorhoea laccifera
Pierre. Hai loài sơn bản địa này khác hoàn toàn loài sơn Rhus vernicifera D.C.
của Nhật Bản. Các nước Myanmar, Việt Nam, Trung Quốc, Ấn Độ
(Cachemire, Sikkim) và Népal đều có cây sơn, trong đó Việt Nam và Trung
Quốc là hai nước sản xuất sơn nhiều nhất trên thế giới (Crévost Charles,
1905) [126]. Qua phân tích các loài giống cây sơn nêu trên, nhằm mục đích
biết được giống cây sơn tốt chắc chắn mủ sơn sẽ tốt, nhờ vậy nhựa sơn tốt đó
được trưng dụng vào di tích thời Nguyễn và ứng dụng rộng rãi các công trình
kiến trúc cung đình bằng sơn son thếp vàng lộng lẫy.
50
Vị trí độc tôn của chất liệu sơn truyền thống đã được các tác giả nghiên
cứu khẳng định. Mủ sơn là một chất liệu kết dính bền vững, phục vụ trong
cung điện, đền đài của vua chúa và có sự lan truyền từ cung đình đến dân
gian. Tác giả Nguyễn Đăng Quang trong công trình Sơn mài Việt Nam cho
biết “Sau thời Lê Trịnh đến thời Nguyễn ngành nghề sơn đã phát triển rộng từ
Bắc chí Nam, từ những cung điện lăng miếu nơi kinh đô đến tận làng xã xóm
thôn” [87, tr.17]. Chính sự phát triển đó mà chất liệu sơn truyền thống lan tỏa
khắp mọi nơi, cụ thể ở miền Trung - Thừa Thiên Huế trong QTDTCĐH có sử
dụng sơn truyền thống trên kiến trúc cung đình, biết được giá trị độc đáo của
sơn truyền thống nhằm mục đích phục vụ di tích của các chúa Nguyễn. Tác
giả còn khẳng định “Nghề sơn nước ta đã xuất hiện hơn hai nghìn năm
trước đây, cây sơn loại tốt nhất từ lâu đời đã thành đặc sản ở vùng Phú Thọ -
đất tổ Hùng Vương, các thế hệ nghệ nhân đã kế tiếp nhau bảo tồn và phát
triển nghề này” và “Kỹ thuật đã đạt tới mức sơn phủ, sơn bóng, sơn
quang dầu, sơn then, sơn trang trí hai màu” [87, tr.10]. Từ những nghiên cứu
và nhận định của tác giả đã nêu, di tích cố đô Huế có cơ sở trong việc sơn sửa,
tô vẽ các cấu kiện và họa tiết trang trí, tạo nên một chuỗi sơn thếp mang tính
Á Đông rõ nét.
Thời Nguyễn, vận dụng khá thành thạo chất liệu sơn truyền thống vào
kiến trúc gỗ cung đình, nơi đây có các lớp sơn trên kiến trúc khá công phu và
phức tạp trải qua nhiều công đoạn, kỹ thuật pha trộn, khuấy mủ sơn (sơn
sống) để trở thành sơn chín (sơn cánh gián), sơn phủ hoàng kim ... nhằm mục
đích phục vụ trang trí trong cung đình mỹ thuật thời Nguyễn là chủ yếu. Đặc
biệt, thời Nguyễn đã tạo ra những giá trị thẩm mỹ cao về trang trí son thếp
trong các công trình nghệ thuật. Việc bảo tồn giá trị nghệ thuật trang trí này
đã tạo nên diện mạo cổ kính của di tích cố đô Huế một thời vang bóng . Chính
vì vậy, PGS.TS Lê Huyên cho rằng “Thời Lê - Nguyễn là thời kỳ phát triển
51
mạnh mẽ các loại hình văn hóa nghệ thuật thủ công cổ truyền đặc biệt là sơn
son thếp vàng” [51, tr.204].
Nhà Nguyễn kế thừa nghệ thuật của cha ông, mục đích củng cố lại
giang sơn, tạo dựng kiến trúc mang đậ...am và các vị tổ nghề, Nxb Văn hoá Dân tộc,
Hà Nội.
124. Bùi Văn Vượng (2000), Di sản thủ công mỹ nghệ Việt Nam, Nxb
Thanh niên, Hà Nội.
Tài liệu nước ngoài
125. Albrecht (P) (1915), Les motifs de IL’ art ornrement Annamite la Hue,
Le dragon B.A.V.H. No IV.
126. Crévost Charles (1905), Les laquiers de l’Indochine. Editeur
H.S.Scheneider, Paris, (Những cây sơn Đông Dương)
H.S.Scheneider.
127. Crévost Lemarié (1927), Catalogue des produits de l’Indochine Tome
ideo, (Danh mục sản phẩm Đông Dương) Hanoi.
128. Georges Brooks (1934), Laque d’Indochine. Rhus succedanea. La
laccase et le lacool, Paris Herman et Cie esditeurs, Herman
Paris, (Sơn Đông Dương, men sơn và lắc côn).
129. H. Lecomte (1933), Flore générale de l’Indochine Tome II
130. Louis Frédéric (1964), Sud-Est Asiaticque (Ses temple, ses sculpturé)
Art et Metiers Graphiques Paris, Printed in France.
131. Pierre Domart (1929), Les espèces utiles du genre Rhus. Etude
botanique et pharmacognosique, Saint Cloud. Imprimerie Girault,
Girault
163
132. R. Du Pasquier (1934), Renseignements sur l’arbre à laque du Tonkin
BEI, (Thông tin về cây sơn Bắc kỳ).
133. Tardieu Blot (1962), Flore du Cambodge, du Laos et du Vietnam,
Fascicule 2 - Anacardiaceae, Museum National d’Histoire
Naturelle Paris, (Thực vật cho Campuchia, Lào và Việt Nam ).
BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO BỘ VĂN HÓA, THỂ THAO VÀ DU LỊCH
VIỆN VĂN HÓA NGHỆ THUẬT QUỐC GIA VIỆT NAM
SƠN TRUYỀN THỐNG TRONG NGHỆ THUẬT TRANG TRÍ
QUẦN THỂ DI TÍCH CỐ ĐÔ HUẾ
PHỤ LỤC LUẬN ÁN TIẾN SĨ NGHỆ THUẬT
Hà Nội – 2018
164
MỤC LỤC
Phụ lục 1. Một số thông tin nguồn trích dẫn các kiểu thức trang trí
gắn kết sơn truyền thống sử dụng trong luận án
Hình 1: Ngai vàng và bửu tán (thếp vàng), Điện Thái Hòa, Hoàng thành,
QTDTCĐH......................................................................................56
Hình 2: Các hàng cột (sơn son thếp vàng), Điện Thái Hòa, Hoàng thành,
QTDTCĐH.....................................................................................57
Hình 3: Chữ triện và hoa lá (sơn son thếp vàng), Hưng Miếu, Hoàng thành,
QTDTCĐH......................................................................................61
Hình 4: Rồng và mây (thếp vàng), Án thờ Thế Miếu, Hoàng thành,
QTDTCĐH......................................................................................62
Hình 5: Rồng hoá cúc (sơn son thếp vàng, sơn quang), Án thờ ở Hưng Miếu và
Hiển Lâm Các, Hoàng thành, QTDTCĐH......................................62
Hình 6: Phượng (Phụng) bay trong mây (thếp vàng), Án thờ Thế Miếu, Hoàng
thành, QTDTCĐH...........................................................................62
Hình 7: Hổ phù và mây (sơn son thếp vàng), Sập thờ ở Hưng Miếu và án thờ
Thế Miếu, Hoàng thành, QTDTCĐH........................................62, 88
Hình 8: Long mã (sơn son thếp vàng), Án thờ Thế Miếu và Khánh thờ Hưng
Miếu, Hoàng thành, QTDTCĐH.....................................................62
Hình 9: Lá sen hóa rùa đội Quả lôi (thếp vàng), Án thờ Thế Miếu, Hoàng
thành, QTDTCĐH...........................................................................63
Hình 10: Án thờ có 11 ô hộc (sơn son thếp vàng), Án thờ Thế Miếu, Hoàng
thành, QTDTCĐH...........................................................................64
Hình 11: Án thờ có 13 ô hộc (sơn son thếp vàng), Án thờ Hưng Miếu, Hoàng
thành, QTDTCĐH...........................................................................65
Hình 12: Ván tường không có họa tiết trang trí (sơn son thếp vàng), Điện Thái
Hòa, Hoàng thành, QTDTCĐH.......................................................60
165
Hình 13: Ô hộc chữ viết và bát bửu (sơn son thếp vàng), Nội thất Hưng Miếu,
Hoàng thành, QTDTCĐH.........................................................68, 89
Hình 14: Khoảng trống (sơn son thếp vàng), Tử Cấm Thành, QTDTCĐH....68
Hình 15: Phù điêu, lớp trước lớp sau (sơn son thếp vàng), Án thờ Thế Miếu,
Hoàng thành, QTDTCĐH...............................................................69
Hình 16: Cân xứng hay đối xứng (sơn then), Hiển Lâm Các, Hoàng thành,
QTDTCĐH......................................................................................69
Hình 17: Đăng đối thật (sơn son thếp vàng), Đường diềm trên sập thờ ở Hưng
Miếu, Hoàng thành, QTDTCĐH.....................................................70
Hình 18: Đăng đối giả (sơn son thếp vàng), Bố cục tĩnh vật trên chiếc kiệu ở
cung Diên Thọ, Hoàng thành, QTDTCĐH...........................70, 90
Hình 19: Họa tiết lặp đi lặp lại (sơn son thếp vàng), Đường diềm trên án,
khánh và sập thờ ở Hưng Miếu, Hoàng thành, QTDTCĐH.....71, 89
Hình 20: Bố cục tự do (sơn son thếp vàng), Bố cục cây trên chiếc kiệu ở cung
Diên Thọ, Hoàng thành, QTDTCĐH..............................................71
Hình 21: Tương phản (thếp vàng), Án thờ ở Hưng Miếu, Hoàng thành,
QTDTCĐH......................................................................................72
Hình 22: Hướng phát triển họa tiết trang trí (sơn son thếp vàng), Tử Cấm
Thành, QTDTCĐH..........................................................................72
Hình 23: Nhấn mạnh, chủ đạo (hình vẽ, sơn son thếp vàng), Song hỷ trên hai
quả lựu tập sách L’ Huế và hai quả lựu ở khánh thờ tại Hưng Miếu,
Hoàng thành, QTDTCĐH...............................................................72
Hình 24: Đồng nhất (sơn son thếp vàng), Hoa cúc và lá ở khánh thờ tại Hưng
Miếu, Hoàng thành, QTDTCĐH.....................................................73
Hình 25: Nhịp điệu (thếp vàng), Đường diềm hình tượng rồng, Bửu tán Điện
Thái Hòa, Hoàng thành, QTDTCĐH........................................73, 88
166
Hình 26: Tỷ lệ (sơn son thếp vàng), Hình tượng dơi ở khánh thờ tại Hưng
Miếu, Hoàng thành, QTDTCĐH.....................................................74
Hình 27: Đơn giản (sơn son thếp vàng), Hoa ở Hưng Miếu, Hoàng thành,
QTDTCĐH......................................................................................74
Hình 28: Sơn son (đỏ) (sơn truyền thống), Ngoại thất Hiển Lâm Các, Hoàng
thành, QTDTCĐH...........................................................................94
Hình 29: Sơn then (đen) (sơn truyền thống), Nội thất Hiển Lâm Các, Hoàng
thành, QDTCĐH.............................................................................94
Hình 30: Sơn then (đen) (sơn truyền thống), Nội thất lăng Tự Đức, ngoài Kinh
thành, QTDTCĐH...........................................................................95
Hình 31: Họa tiết trang trí phai nhạt và bong tróc do tác động của khách du
lịch (sơn son thếp vàng), Điện Thái Hòa, Hoàng thành,
QDTCĐH........................................................................................99
Hình 32, 1: Sơn phủ hoàng kim còn nguyên vẹn, Tử Cấm Thành.................109
Hình 32, 2: Sơn phủ hoàng kim bị phai nhạt, Tử Cấm Thành......................110
Hình 32, 3: Sơn truyền thống bong tróc lộ ra lớp phủ vải, bạc lá phai nhạt,
chân cột trụ bị hủy hoại, QTDTCĐH...........................................109
Hình 33: Hàng cột bằng chất liệu xi măng (sơn truyền thống), Phu Văn Lâu,
Ngoài Kinh thành, QTDTCĐH.....................................................111
Hình 34: Đắp chất liệu xi măng trên kiến trúc (xi măng, sơn truyền thống),
Hoàng thành, QTDTCĐH.............................................................111
Hình 35: Họa tiết trang trí trên kiến trúc gỗ bị hư hỏng (sơn truyền thống),
Hoàng thành, QTDTCĐH.............................................................135
Hình 36: Mủ sơn ngưng đọng tạo thành các lớp sơn....................................133
Hình 37: Hiện hữu bạc lá trên họa tiết trang trí (sơn truyền thống), Tử Cấm
Thành, QTDTCĐH........................................................................135
Hình 38: Keo hóa học hai thành phần và sơn bóng......................................115
167
Hình 39: Chất làm nền (Lacquer base) các khe hở, nức nẻ..........................115
Hình 40: Sơn thếp tại Hưng Miếu giống miền Bắc.......................................137
Hình 41: Sơn thếp Văn Miếu, Quốc Tử Giám Hà Nội, giống Hưng Miếu,
Hoàng thành, QTDTCĐH.............................................................137
Hình 42: Các lớp sơn trên gỗ bằng sơn truyền thống, Thế Miếu, Hoàng thành,
QTDTCĐH....................................................................................135
Hình 43, 1: Người thợ sơn truyền thống trên các kiểu thức trang trí ở Thế
Miếu, QTDTCĐH..........................................................................122
Hình 43, 2: Sơn quang trên kiến trúc gỗ ở cung Diên Thọ...........................132
Hình 44: Sơn truyền thống không khô, người thợ cạo ra và cắt bỏ ở Hoàng
thành, QTDTCĐH...........................................................................98
Hình 45: Thếp vàng lá trên họa tiết trang trí, Thế Miếu, Hoàng thành,
QTDTCĐH....................................................................................134
Hình 46: Sơn son thếp vàng lá trên ngai vàng, long sàng và bàn ghế, Điện
Long An, trong Kinh thành, QTDTCĐH......................................125
Hình 47: Sơn son thếp vàng lá trên tủ, Điện Long An, trong Kinh thành,
QTDTCĐH....................................................................................125
Hình 48: Sơn son thếp vàng lá trên cơi trầu, Điện Long An, lăng Khải Định
trong và ngoài Kinh thành, QTDTCĐH........................................125
Hình 49: Một số kiểu thức trang trí bằng sơn truyền thống ở nội, ngoại thất
và thờ tự, Hoàng thành, QTDTCĐH.............................................127
Hình 49, 3: Chữ - năm hình tròn kết hợp, Hiển Lâm Các...............................89
Hình 50: Một số kiểu thức trang trí trên các chất liệu đồng, sắt, gốm, men sứ,
khảm sành sứ, Hoàng thành, QTDTCĐH.....................................124
168
Phụ lục 2 Nội dung và dữ liệu bảng hỏi đề tài
1. Mẫu bảng hỏi
SƠN TRUYỀN THỐNG TRONG NGHỆ THUẬT TRANG TRÍ
QUẦN THỂ DI TÍCH CỐ ĐÔ HUẾ
Xin Qúy vị cung cấp thông tin cá nhân (nếu có)
Họ & tên: ....
Chức vụ, Đơn vị công tác:......
Công việc đang làm:........
Địa chỉ: ............
Số điện thọai:.....
Thưa Quý vị là những Nhà quản lý, Nghệ nhân và Người thợ sơn, thợ
vẽ, thợ chạm khắc đang công tác và phục vụ tại Trung tâm Bảo tồn Di tích cố
đô Huế (TTBTDTCĐH), chúng tôi xây dựng văn bản này là bảng các câu hỏi
đưa ra nhằm phục vụ cho đề tài nghiên cứu Nghệ thuật sơn truyền thống trên
trang trí Di tích Huế; vì vậy theo Qúy vị nhận định, đánh giá để giúp cho đề
tài của chúng tôi đạt tính khách quan trong nghiên cứu, chúng tôi rất mong
nhận được sự quan tâm và giúp đỡ của quý vị trong những vấn đề dưới đây.
(Xin Qúy vị chọn phương án phù hợp nhất bằng dấu (X) hoặc ý kiến khác)
1. Trong Quần thể Di tích cố đô Huế (QTDTCĐH), chất liệu sơn truyền
thống, sơn ta, sơn mài, ở công đoạn làm nền cốt có bao nhiêu lớp sơn ? (bó,
hom, thí sơn, thí màu, phủ sơn và thếp vàng).
Có 12 lớp sơn:..... 14 lớp sơn:..... 15 lớp sơn:.... Ý kiến khác:.....
2. Theo truyền thống lúc hom cốt gỗ được làm bằng loại đất gì?
Đất sét:..... Đất tam lư:..... Đất phù sa:.....
3. Ngày nay, quá trình bó, hom sơn có sử dụng loại bột gì?
Bột đá:..... Bột thạch cao:..... Cả hai:..... Không sử dụng:.....
Có nhưng tỷ lệ ít:.....
169
4. Công đoạn sửa chữa và bó sơn có sử dụng mùn cưa, mạt cưa trộn với
sơn sống và bột, đất ?
Có:..... Không:..... Không biết:..... Ý kiến khác:..
5. Sơn sống có trộn với chất lỏng gì?
Nước:.... Dầu hỏa:..... Cả hai:.....
6. Trong QTDTCĐH các loại sơn nào được chọn để bảo tồn, tu sửa sơn
truyền thống trên trang trí Di tích Huế?
Sơn truyền thống:..... Sơn hạt điều:..... Sơn Nhật:..... Cả ba loại:.....
Ý kiến khác:..
7. Những công trình nghệ thuật nào có sử dụng thuần túy sơn hạt điều,
sơn Nhật?
Ngọ Môn:..... Điện Thái Hòa:..... Hiển Lâm Các:..... Thế Miếu:.....
Hưng Miếu:..... lăng Minh Mạng:..... lăng Đồng Khánh:..... lăng Thiệu Trị:....
Ý kiến khác:
8. Hiện tượng sơn truyền thống bị bong tróc hay uốn cong là do sử dụng
loại sơn gì?
Sơn hạt điều:.... Sơn Nhật:..... Sơn chín có pha trộn với dầu hỏa:.....
Ý kiến khác:.
9. Trên các họa tiết, hoa văn trang trí được hom và thí sơn mỏng hay dày?
Được hom lớp sơn mỏng:..... Được thí lớp sơn mỏng:.....
Được hom lớp sơn dày:..... Được thí lớp sơn dày:.....
Ý kiến khác:..
10. Trong công đoạn phủ (bọc, phất) vải được người thợ phủ vải lên trên
nền cốt gỗ có họa tiết trang trí không?
Có:..... Không:..... Không biết:..... Ý kiến khác:
11. Sau một thời gian, việc dát bạc lá có phủ phẩm vàng trên các họa tiết
trang trí bị phai nhạt là do nguyên nhân nào?
170
Do ánh sáng mặt trời:..... Do sơn kém chất lượng:...... Cả hai nguyên
nhân:.....
Nguyên nhân khác:
12. Cần thay đổi việc dát bạc lá, quỳ lá trên các họa tiết, hoa văn trang trí
bằng dát vàng lá, vàng quỳ để đem lại giá trị thẩm mỹ cao và đúng với
di tích lịch sử nói chung và di tích Huế nói riêng?
Nhất trí:.... Không nhất trí:..... Ý kiến khác:..
13. Sơn truyền thống trên trang trí di tích Huế có sử dụng sơn công nghiệp
vào các đồ sơn không?
Có:..... Hoàn toàn không:..... Không biết:..... Ý kiến khác:
14. Trong kiến trúc Di tích Huế, sơn truyền thống và kiểu thức trang trí
còn được lưu giữ lại từ thời Nguyễn hay đã được thay thế mới hoàn
toàn?
- Một số đồ sơn còn được lưu giữ lại:.....
- Một số đồ sơn đã thay thế mới:.....
- Một số kiểu thức trang trí được tô vẽ còn giữ lại nguyên bản:.....
- Một số kiểu thức trang trí được chạm khắc, chạm lộng còn giữ lại
nguyên bản:.....
- Đa số chất liệu sơn truyền thống đã được thay thế mới:.....
- Đa số các kiểu thức trang trí được tô vẽ và chạm khắc đã được thay
thế mới:.....
Chúng tôi xin trân trọng cảm ơn sự giúp đỡ của Qúy vị!
(Hết nội dung bảng hỏi)
171
2. Thống kê kết quả bảng hỏi
Sau khi bổ sung bảng hỏi đến người thợ và quản lý, NCS thu về hơn 60
bảng hỏi theo mẫu (Phần bảng hỏi nêu trên), đối với các Nhà quản lý, Nghệ
nhân và Người thợ sơn, thợ vẽ, thợ chạm khắc đang công tác và phục vụ tại
Trung tâm Bảo tồn Di tích cố đô Huế. NCS thu về được 55 phiếu trong đó có
50 phiếu đáng tin cậy và kết quả được thống kê như sau.
1. Trong Quần thể Di tích cố đô Huế (QTDTCĐH), sơn truyền thống, sơn
ta, sơn mài, ở công đoạn làm nền cốt có bao nhiêu lớp sơn ? (bó, hom,
thí sơn, thí màu, phủ sơn và thếp vàng).
Có 12 lớp sơn: 06 14 lớp sơn: 35 15 lớp sơn: 0
Ý kiến khác: Có 09 ý kiến phụ thuộc vào lớp sơn nguyên gốc của một
số cấu kiện và vị trí lớp sơn đó cần chủng loại sơn gì
2. Theo truyền thống lúc hom cốt gỗ được làm bằng loại đất gì?
Đất sét: 24 Đất tam lư: 06 Đất phù sa: 20
3. Ngày nay, quá trình bó, hom sơn có sử dụng loại bột gì?
Bột đá: 35 Bột thạch cao: 0 Cả hai: 0
Không sử dụng: 0 Có nhưng tỷ lệ ít: 15
4. Công đoạn sửa chữa và bó sơn có sử dụng mùn cưa, mạt cưa trộn với
sơn sống và bột, đất ?
Có: 50 Không: 0 Không biết: 0 Ý kiến khác: 0
5. Sơn sống có trộn với chất lỏng gì?
Nước: 0 Dầu hỏa: 50 Cả hai: 0
6. Trong QTDTCĐH các loại sơn nào được chọn để bảo tồn, tu sửa sơn
truyền thống trên trang trí Di tích Huế?
Sơn truyền thống: 32 Sơn hạt điều: 0
Sơn Nhật: 0 Cả ba loại: 0
Ý kiến khác: có 12 ý kiến không biết, 06 không có ý kiến
172
7. Những công trình nghệ thuật nào có sử dụng thuần túy sơn hạt điều,
sơn Nhật?
Ngọ Môn: 0 Điện Thái Hòa: 0 Hiển Lâm Các: 0
Thế Miếu: 0 Hưng Miếu: 0 Lăng Minh Mạng: 0
lăng Đồng Khánh: 0 lăng Thiệu Trị: 0
Ý kiến khác: 46 ý kiến cho rằng không có, 04 ý kiến không biết
8. Hiện tượng sơn truyền thống bị bong tróc hay uốn cong là do sử dụng
loại sơn gì?
Sơn hạt điều: 0 Sơn Nhật: 0 Sơn chín có pha trộn với dầu hỏa: 24
Ý kiến khác: có 26 ý kiến cho rằng do tất cả các loại sơn trên
9. Trên các họa tiết, hoa văn trang trí được hom và thí sơn mỏng hay dày?
Được hom lớp sơn mỏng: 0 Được thí lớp sơn mỏng: 40
Được hom lớp sơn dày: 09 Được thí lớp sơn dày: 01
Ý kiến khác:
10. Trong công đoạn phủ (bọc, phất) vải được người thợ phủ vải lên trên
nền cốt gỗ có họa tiết trang trí không?
Có: 02 Không: 48 Không biết: 0 Ý kiến khác: 0
11. Sau một thời gian, việc dát bạc lá có phủ phẩm vàng trên các họa tiết
trang trí bị phai nhạt là do nguyên nhân nào?
Do ánh sáng mặt trời: 14 Do sơn kém chất lượng: 08 Cả hai
nguyên nhân: 28 Nguyên nhân khác: 0
12. Cần thay đổi việc dát bạc lá, quỳ lá trên các họa tiết, hoa văn trang trí
bằng dát vàng lá, vàng quỳ để đem lại giá trị thẩm mỹ cao và đúng với
di tích lịch sử nói chung và di tích Huế nói riêng?
Nhất trí: 22 Không nhất trí: 21
Ý kiến khác: có 07 ý kiến phụ thuộc vào tính nguyên bản của hoa văn
họa tiết trang trí.
173
13. Sơn truyền thống trên trang trí di tích Huế có sử dụng sơn công nghiệp
vào các đồ sơn không?
Có: 01 Hoàn toàn không: 48 Không biết: 01 Ý kiến khác: 0
14. Trong kiến trúc Di tích Huế, sơn truyền thống và kiểu thức trang trí
còn được lưu giữ từ thời Nguyễn hay đã được thay thế mới hoàn toàn?
- Một số đồ sơn còn được lưu giữ lại: 30
- Một số đồ sơn đã thay thế mới: 20
- Một số kiểu thức trang trí được tô vẽ còn giữ lại nguyên bản: 48
- Một số kiểu thức trang trí được chạm khắc, chạm lộng còn giữ lại
nguyên bản: 47
- Đa số chất liệu sơn truyền thống đã được thay thế mới: 0
- Đa số các kiểu thức trang trí được tô vẽ và chạm khắc đã được thay
thế mới: 0
3. Phân tích kết quả bảng hỏi
1. Trong Quần thể Di tích cố đô Huế (QTDTCĐH) sơn truyền thống,
sơn ta, sơn mài, ở công đoạn làm nền cốt có bao nhiêu lớp sơn ? (bó, hom, thí
sơn, thí màu, phủ sơn và thếp vàng).
Có 12 lớp sơn: 06 14 lớp sơn: 35 15 lớp sơn: 0
Ý kiến khác: Có 09 ý kiến phụ thuộc vào lớp sơn nguyên gốc của một
số cấu kiện và vị trí lớp sơn đó cần chủng loại sơn gì
Sơn truyền thống, sơn cổ truyền đóng vai trò tối ưu trong QTDTCĐH,
bởi vì nó có 2 chức năng rõ nét như tránh sự co giản của gỗ, tạo nền bằng
phẳng cho họa tiết thăng hoa. Nên các công đoạn có đến 14 lớp sơn bảo đảm
theo yêu cầu kỹ thuật.
2. Theo truyền thống lúc hom cốt gỗ được làm bằng loại đất gì?
Đất sét: 24 Đất tam lư: 06 Đất phù sa: 20
174
Loại đất để trộn với sơn sống và hom lên trên các cấu kiện gỗ trong
kiến trúc di tích thời Nguyễn chính là các loại đất nêu trên, tuy nhiên cũng có
thể linh hoạt chọn một trong số loại đất như đất sét, đất tam lư, đất phù sa
nhưng chúng vẫn bảo đảm yêu cầu trong các công đoạn hom.
3. Ngày nay, quá trình bó, hom sơn có sử dụng loại bột gì?
Bột đá: 35 Bột thạch cao: 0 Cả hai: 0
Không sử dụng: 0 Có nhưng tỷ lệ ít: 15
Theo truyền thống mỗi lúc hom, bó sơn ngoài việc sử dụng bột đất phù
sa..., thì không sử dụng bột thạch cao vì nó dòn cứng, dễ bể vở. Ngày nay có
thể có thể trộn thêm một ít bột đá với tỷ lệ ít sẽ có hiệu quả cho công trình,
bởi nó giúp cho nền cốt cứng chắc cùng với các loại đất.
4. Công đoạn sửa chữa và bó sơn có sử dụng mùn cưa, mạt cưa trộn với
sơn sống và bột, đất ?
Có: 50 Không: 0 Không biết: 0 Ý kiến khác: 0
Trộn mạt cưa, mùn cưa trong quá trình sửa chữa và bó sơn trong các
công trình kiến trúc di tích, nhằm mục đích kết nối các phân tử của sơn sống
và bột đất có độ bền vững hơn.
5. Sơn sống có trộn với chất lỏng gì?
Nước: 0 Dầu hỏa: 50 Cả hai: 0
Thực tiễn cho biết, việc trộn dầu hỏa với sơn sống trong quá trình bảo
tồn trùng tu di tích là bất khả kháng, trong trường hợp sơn sống quá đậm đặt
(sơn thịt 100%) thì lúc đó mới cho dầu hỏa vào sơn sống. Bản thân sơn sống
đã có lớp mật dầu để hòa trộn với lớp sơn thịt đó. Cho nên người thợ không
nên trộn dầu hỏa vào sơn sống để bảo tồn vì nó làm giảm tuổi thọ của các lớp
sơn. Dầu hỏa chỉ có chức năng rửa sạch các công cụ làm nghề sơn.
6. Trong QTDTCĐH các loại sơn nào được chọn để bảo tồn, tu sửa sơn
truyền thống trên trang trí di tích Huế?
175
Sơn truyền thống: 32 Sơn hạt điều: 0
Sơn Nhật: 0 Cả ba loại: 0
Ý kiến khác: có 12 ý kiến không biết, 06 không có ý kiến
Việc sử dụng sơn truyền thống trong các công trình kiến trúc gỗ di tích
lịch sử nói chung và nói riêng di tích cố đô Huế là tính tất yếu, không thể thay
thế các loại sơn khác. Sơn truyền thống bảo đảm theo quy tắc bảo tồn di tích
đã có từ các thời kỳ trước đó.
7. Những công trình nghệ thuật nào có sử dụng thuần túy sơn hạt điều,
sơn Nhật?
Ngọ Môn: 0 Điện Thái Hòa: 0 Hiển Lâm Các: 0
Thế Miếu: 0 Hưng Miếu: 0 Lăng Minh Mạng: 0
lăng Đồng Khánh: 0 lăng Thiệu Trị: 0
Ý kiến khác: 46 ý kiến cho rằng không có, 04 ý kiến không biết
Những công trình nghệ thuật kiến trúc di tích chắc chắn sẽ không làm
bằng sơn hạt điều hay sơn Nhật, bởi vì loại sơn đó không bền vững, dễ dàng
uốn cong, nứt nẻ và bong tróc dễ dàng.
8. Hiện tượng sơn truyền thống bị bong tróc hay uốn cong là do sử
dụng loại sơn gì?
Sơn hạt điều: 0 Sơn Nhật: 0 Sơn chín có pha trộn với dầu hỏa: 24
Ý kiến khác: có 26 ý kiến cho rằng do tất cả các loại sơn trên
Hiện tượng sơn bị nứt nẻ, uốn cong trên các cấu kiện gỗ có thật trên
thực tế, vì vậy việc sử dụng các loại sơn trên vào công tác bảo tồn di tích
không thể chấp nhận và do người thợ trộn dầu hỏa vào sơn chín... nên một số
công trình nghệ thuật trang trí của sơn truyền thống gặp nhiều hạn chế nhất
định và không bảo đảm dúng quy trình bảo tồn đồng thời làm mất vẻ đẹp hiện
có của thời Nguyễn.
176
9. Trên các họa tiết, hoa văn trang trí được hom và thí sơn mỏng hay
dày?
Được hom lớp sơn mỏng: 0 Được thí lớp sơn mỏng: 40
Được hom lớp sơn dày: 09 Được thí lớp sơn dày: 01
Ý kiến khác:
Tất nhiên việc hom, thí sơn mỏng trên các họa tiết, hoa văn trang trí
trong di tích, để bảo đảm nét của các họa tiết trang trí còn sắc sảo. Còn việc
hom dày sẽ phủ kín các họa tiết trang trí là không đúng với việc bảo tồn chân
xác.
10. Trong công đoạn phủ (bọc, phất) vải được người thợ phủ vải lên
trên nền cốt gỗ có họa tiết trang trí không?
Có: 02 Không: 48 Không biết: 0 Ý kiến khác: 0
Chắc chắn công đoạn phất vải trên nền gỗ có họa tiết là không thể, vì
nhằm bảo đảm họa tiết trang trí có nét sắc sảo.
11. Sau một thời gian, việc dát bạc lá có phủ phẩm vàng trên các họa
tiết trang trí bị phai nhạt là do nguyên nhân nào?
Do ánh sáng mặt trời: 14 Do sơn kém chất lượng: 08 Cả hai
nguyên nhân: 28 Nguyên nhân khác: 0
Việc phủ lớp phẩm vàng có trộn nước nghệ lên trên bạc lá trong di tích
Huế, sẽ hạn chế vì do tác động của ánh sáng mặt trời và do sơn chín trộn với
nước nghệ nên bị phai nhạt tạo lốm đốm rất khó coi.
12. Cần thay đổi việc dát bạc lá, quỳ lá trên các họa tiết, hoa văn trang
trí bằng dát vàng lá, vàng quỳ để đem lại giá trị thẩm mỹ cao và đúng với di
tích lịch sử nói chung và di tích Huế nói riêng?
Nhất trí: 22 Không nhất trí: 21
Ý kiến khác: có 07 ý kiến phụ thuộc vào tính nguyên bản của hoa văn
họa tiết trang trí.
177
Việc dát bạc lá thời Nguyễn là hoàn toàn đúng, nhưng trong thời hiện
đại ngày nay đã có cơ sở sản xuất vàng lá tại làng Kiêu Kỵ miền Bắc, nên
thay đổi dán bạt lá bàng vàng lá sẽ đem lại hiệu quả thẩm mỹ cho công trình
và sánh ngang với các di tích của các nước lân bang.
13. Sơn truyền thống trên trang trí di tích Huế có sử dụng sơn công
nghiệp vào các đồ sơn không?
Có: 01 Hoàn toàn không: 48 Không biết: 01 Ý kiến khác: 0
Trong di tích Huế các đồ sơn và các cấu kiện gỗ được người thợ làm
sơn truyền thống một cách thuần túy.
14. Trong kiến trúc Di tích Huế, sơn truyền thống và kiểu thức trang trí
còn được lưu giữ từ thời Nguyễn hay đã được thay thế mới hoàn toàn?
- Một số đồ sơn còn được lưu giữ lại: 30
- Một số đồ sơn đã thay thế mới: 20
- Một số kiểu thức trang trí được tô vẽ còn giữ lại nguyên bản: 48
- Một số kiểu thức trang trí được chạm khắc, chạm lộng còn giữ lại
nguyên bản: 47
- Đa số chất liệu sơn truyền thống đã được thay thế mới: 0
- Đa số các kiểu thức trang trí được tô vẽ và chạm khắc đã được thay
thế mới: 0
Câu hỏi này, nhằm khẳng định thêm tính nguyên bản của các đồ sơn
trong di tích thời Nguyễn, còn được lưu giữ nguyên gốc; tuy nhiên bên cạnh
nguyên gốc đó vẫn còn có một số đồ sơn được bảo tồn và khôi phục lại mới,
còn các cấu kiện gỗ và các cột trụ được thay thế qua từng thời kỳ lịch sử của
thời Nguyễn cho đến ngày hôm nay.
178
Phụ lục 3. Phiên bản sơn truyền thống trong nghệ thuật trang trí
sử dụng trong luận án
C2, H.1: Ngai vàng và bửu tán, Điện Thái Hòa.
(Ảnh của NCS, 2012)
C2, H.2: Các hàng cột, sơn truyền thống ở Điện Thái Hoà
(Ảnh của NCS, 2012)
C2, H.3: Chữ triện và hoa lá
(Ảnh của NCS, 2013)
179
C2, H.4: Rồng và mây, Thế Miếu
(Ảnh của NCS, 2013)
C2, H.5: Rồng hoá cúc, Hiển Lâm Các
và Hưng Miếu
(Ảnh của NCS, 2013)
C2, H.6: Phượng (Phụng) bay trong mây, Thế Miếu.
(Ảnh của NCS, 2013)
180
C2, H.7: Hổ Phù và mây, Hưng Miếu
và Thế Miếu
(Ảnh của NCS, 2013)
C2, H.8: Long mã ở Thế Miếu,
Hưng Miếu
(Ảnh của NCS, 2013)
181
C2, H.9: Lá sen hóa rùa đội Qủa lôi, Thế Miếu
(Ảnh của NCS, 2013)
C2, H.10: Án thờ có 11 ô hộc, Thế Miếu
(Ảnh của NCS, 2013)
C2, H.11: Án thờ có 13 ô hộc, Hưng Miếu
(Ảnh của NCS, 2013)
182
C2, H.12: Ván tường không có hoạ tiết trang trí, Điện Thái Hòa
(Ảnh của NCS, 2012)
C2, H.13: Ô hộc bát bửu - bắt quả cung Diên
Thọ và thơ văn - bát bửu Hưng Miếu,
(Ảnh của NCS, 2013)
C2, H.14: Khoảng trống họa tiết,
Tử Cấm Thành
(Ảnh của NCS, 2013)
(Ảnh của NCS)
C2, H.15: Phù điêu lớp trước và sau,
Thế Miếu
(Ảnh của NCS, 2013)
183
C2, H.16: Cân xứng (đối xứng), Hiển Lâm Các
(Ảnh của NCS, 2013)
C2, H.17: Đăng đối thật,
Hưng Miếu
(Ảnh của NCS, 2014)
C2, H. 18: Đăng đối giả, bố cục
tĩnh vật, Cung Diên Thọ
(Ảnh của NCS, 2014)
C2, H.19: Họa tiết lập đị lập lại,
Chữ T - hoa lá và Chữ triện - rồng hóa
lá Hưng Miếu
(Ảnh của NCS, 2014)
184
C2, H. 20: Bố cục tự do, Cung Diên Thọ
(Ảnh của NCS, 2014)
C2, H. 21: Tương phản, hoạ tiết mảng chính và phụ, Án thờ Hưng Miếu
(Ảnh của NCS, 2014)
C2, H.22: Hướng phát triển hoạ tiết
trang trí, Tử Cấm Thành
(Ảnh của NCS, 2014)
C2, H.23: Nhấn mạnh (chủ đạo),
Hưng Miếu, Tập sách L’ Hue
(Ảnh của NCS, 2014)
185
C2, H.24: Đồng nhất, Hưng Miếu
(Ảnh của NCS, 2014)
C2, H.25: Nhịp điệu, Điện Thái Hòa
(Ảnh của NCS, 2014)
C2, H.26: Tỷ lệ, Hình tượng Dơi,
Hưng Miếu
(Ảnh của NCS, 2014)
C2, H.27: Đơn giản, Hưng Miếu
(Ảnh của NCS, 2014)
186
C2, H.28: Sơn son (đỏ),
ngoại thất Hiển Lâm Các
(Ảnh của NCS, 2012)
C2, H.29 : Sơn then (đen), nội thất Hiển Lâm Các
(Ảnh của NCS, 2012)
C2, H.30: Sơn then (đen), nội thất lăng Tự Đức
(Ảnh của NCS, 2012)
C2, H.31: Họa tiết trang trí phai nhạt và bong tróc do tác động của khách du lịch
(Ảnh của NCS, 2012)
187
C3, H 32, 1: Sơn phủ hoàng kim còn
nguyên vẹn, Tử Cấm Thành.
(Ảnh của NCS, 2015)
C3, H 32, 2: Sơn phủ hoàng kim bị phai nhạt,
Tử Cấm Thành. (Ảnh của NCS, 2016)
C3, H 32, 3: Sơn truyền thống bong tróc lộ ra lớp phủ vải, bạc lá phai nhạt, chân cột trụ
bị hủy hoại trong Hoàng thành. (Ảnh của NCS, 2012)
C3, H.33 : Hàng cột bằng chất liệu xi măng tại
Phu Văn Lâu, (Ảnh của NCS, 2012)
C3, H.34: Đắp chất liệu xi măng trên kiến
trúc gỗ tại Hoàng Thành
(Ảnh của NCS, 2012)
188
C3, H.35: Hoạ tiết trang trí trên kiến trúc gỗ bị hư hỏng, Hoàng Thành
(Ảnh của NCS, 2013)
Sơn mật dầu, 900
0
Sơn giọi nhất, 70-80
Sơn giọi nhì, 60-650
Sơn thịt, 550
Sơn cặn bả
C3, H.36: Mủ sơn ngưng đọng tạo thành các lớp sơn
(Ảnh của NCS, 2006)
C3, H.37: Hiện hữu bạc lá trên hoạ tiết trang trí, Tử Cấm Thành
(Ảnh của NCS, 2014)
189
C3, H.38 : Keo hoá học hai thành phần và sơn C3, H.39: Lacquer base chất làm nền
bóng (công nghiệp), (Ảnh của NCS, 2006) các khe hở, nức nẻ, (Ảnh của NCS,
2006)
C3, H. 40: Sơn thếp ngã đỏ tại Hưng
Miếu (giống miền Bắc)
(Ảnh của NCS, 2014)
C3, H. 41: Sơn thếp ngã đỏ Văn
Mi ếu, Quốc Tử Giám, Hà Nội
(Ảnh của NCS, 2006)
190
C3, H.42: Các lớp sơn trên kiến trúc gỗ và từ lớp sơn thứ 1 đến lớp 14, 15
bằng sơn truyền thống. (Nguồn trích dẫn của Nguyễn Văn Hà,
CB.TTBTDTCĐ Huế, 2010)
191
C3, H.43, 1: Người thợ sơn truyền thống trên các kiểu thức trang trí, Thế Miếu
(Nguồn trích dẫn của Nguyễn Văn Hà, CB.TTBTDTCĐ Huế, 2010)
C3, H.43, 2: Sơn quang dầu trên kiến trúc
gỗ ở cung Diên Thọ. (Ảnh NCS, 2014)
C3, H.44: Sơn truyền thống không khô, người thợ cạo ra và cắt bỏ
(Ảnh của NCS, 2014)
192
C3, H.45: Thếp vàng lá trên các hoạ tiết trang trí
(Nguồn trích dẫn của Nguyễn Văn Hà, CB.TTBTDTCĐ Huế,
2010)
193
C3, H.46: Sơn son thếp vàng trên ngai
vàng, long sàng, kiệu võng, bàn ghế tại
đi ện Long An trong Kinh Thành
(Ảnh của NCS, 2014)
C3, H.47: Sơn son thếp vàng
trên Tủ, Điện Long An trong
Kinh Thành
(Ảnh của NCS,
2014)
C3, H.48: Sơn son thếp vàng trên cơi trầu tại lăng Khải Định và Điện Long An.
(Ảnh của NCS, 2014)
194
Phụ lục 4. Danh mục sơn truyền thống và các chất liệu khác
C3, H.49: Một số kiểu thức trang trí bằng sơn truyền thống ở nội và
ngoại thất trong Hoàng thành. (Ảnh NCS, 2015)
+ Ngoại thất
1 2
3 4
+ Nội thất
195
196
+ Thờ tự
C3, H.50: Một số kiểu thức trang trí trên các chất liệu khác
+ Chất liệu đồng trong Hoàng thành
197
+ Chất liệu sắt tại sân Thế Miếu
+ Chất liệu gốm, men sứ trong Hoàng thành
198
+ Chất liệu khảm sành sứ, cung Trường Sanh, Hoàng thành
+ Chất liệu Pháp lam trong Hoàng thành
+
+ Chất liệu mành tre và xà cừ trong Hoàng thành
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- luan_an_son_truyen_thong_trong_nghe_thuat_trang_tri_quan_the.pdf