VIỆN HÀN LÂM
KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM
HỌC VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI
NGUYỄN THỊ HUỲNH TRANG
SÁNG TÁC CỦA YOSHIMOTO BANANA
TỪ GÓC NHÌN THẨM MĨ KAWAII
LUẬN ÁN TIẾN SĨ VĂN HỌC
HÀ NỘI, 2021
VIỆN HÀN LÂM
KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM
HỌC VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI
NGUYỄN THỊ HUỲNH TRANG
SÁNG TÁC CỦA YOSHIMOTO BANANA
TỪ GÓC NHÌN THẨM MĨ KAWAII
Ngành: VĂN HỌC NƯỚC NGOÀI
Mã số: 9 22 02 42
LUẬN ÁN TIẾN SĨ VĂN HỌC
Người hướng dẫn khoa học:
1. PGS. TS. Nguyễn Thị Mai Liên
2. PGS. TS. Ph
168 trang |
Chia sẻ: huong20 | Ngày: 15/01/2022 | Lượt xem: 703 | Lượt tải: 2
Tóm tắt tài liệu Luận án Sáng tác của yoshimoto banana từ góc nhìn thẩm mĩ Kawaii, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
ùng Ngọc Kiên
HÀ NỘI, 2021
LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan đây là công trình nghiên cứu của riêng tôi dưới sự hướng
dẫn của tập thể giáo viên hướng dẫn. Các số liệu, tài liệu được sử dụng trong luận
án là trung thực và có nguồn gốc rõ ràng.
Tác giả luận án
Nguyễn Thị Huỳnh Trang
MỤC LỤC
MỞ ĐẦU .......................................................................................................... 1
Chương 1: TỔNG QUAN VẤN ĐỀ NGHIÊN CỨU ................................. 11
1.1. Những nghiên cứu về kawaii trong và ngoài Nhật Bản ...................... 11
1.1.1. Những nghiên cứu về kawaii ở Nhật Bản ..................................... 11
1.1.2. Những nghiên cứu về kawaii ngoài Nhật Bản .............................. 15
1.2. Những nghiên cứu về kawaii trong sáng tác của Y. Banana trong
và ngoài Nhật Bản ................................................................................... 15
1.3. Đánh giá khái quát tình hình nghiên cứu liên quan đến đề tài
luận án ............................................................................................................ 24
Tiểu kết chương 1 .......................................................................................... 27
Chương 2: THẨM MĨ KAWAII .................................................................. 28
2.1. Khái lược về thẩm mĩ kawaii ................................................................. 28
2.1.1. “Thẩm mĩ” (“aesthetics”) .............................................................. 28
2.1.2. “Kawaii” ........................................................................................ 31
2.2. Kawaii trong dòng riêng Nhật Bản ....................................................... 35
2.2.1. Những biểu đạt của kawaii trong đời sống văn hóa...................... 35
2.2.2. Những dấu vết của kawaii từ mĩ học truyền thống ....................... 39
2.3. Kawaii trong dòng chung hiện đại ........................................................ 42
2.3.1. Tinh thần văn hóa đại chúng ......................................................... 42
2.3.2. Sản phẩm giao thoa toàn cầu ........................................................ 45
Tiểu kết chương 2 .......................................................................................... 49
Chương 3: TIẾNG VỌNG CỦA THẨM MĨ KAWAII TRONG
SÁNG TÁC YOSHIMOTO BANANA ....................................................... 51
3.1. Vẻ hiền hòa, khả ái ................................................................................. 52
3.1.1. Thiên nhiên hiền hòa ..................................................................... 52
3.1.2. Con người khả ái ........................................................................... 59
3.2. Cảm giác mong manh ............................................................................ 65
3.2.1. Số phận mong manh ...................................................................... 66
3.2.2. Tâm hồn mong manh .................................................................... 68
3.2.3. Tình trạng sống mong manh ......................................................... 69
3.3. Ánh nhìn hướng sáng ............................................................................. 74
3.3.1. Nhìn về phía sự sống ..................................................................... 74
3.3.2. Nhìn về phía yêu thương ............................................................... 82
Tiểu kết chương 3 .......................................................................................... 90
Chương 4: TIẾNG NÓI KHÁC BIỆT CỦA Y. BANANA TỪ TRONG
LÒNG THẨM MĨ KAWAII ........................................................................ 91
4.1. Thăng hoa văn học đại chúng ............................................................... 92
4.1.1. Sự gắn bó với không gian mở ....................................................... 94
4.1.2. Sự lên ngôi của những ấn tượng ................................................. 106
4.2. Giải biên văn học tinh hoa ................................................................... 118
4.2.1. Từ nền văn học nữ tính đến những câu chuyện shoujo .............. 119
4.2.2. Từ giá trị vĩnh cửu đến giá trị tức thời ........................................ 131
Tiểu kết chương 4 ........................................................................................ 142
KẾT LUẬN .................................................................................................. 144
DANH MỤC CÁC CÔNG TRÌNH NGHIÊN CỨU CỦA TÁC GIẢ
ĐÃ CÔNG BỐ ............................................................................................. 149
TÀI LIỆU THAM KHẢO .......................................................................... 150
1
MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
1.1. Yoshimoto Banana là nữ tác gia văn học Nhật Bản hiện đại, người được
mệnh danh là “linh hồn và bếp phó của Nhật Bản những năm 2000” [147, 5], “một
trong những tác giả Nhật Bản tiên phong của thập kỉ” [147, 5], và cũng là người đã
tạo ra cơn sốt Banana khi xuất bản cuốn tiểu thuyết đầu tiên – Kitchen. Thành công
của Y. Banana cùng với những cây bút trẻ khác đã đem lại một sức sống mới, một
tinh thần mới cho văn học xứ sở mặt trời mọc. Lớn lên vào nửa sau thế kỉ XX, Y.
Banana (cùng với thế hệ nhà văn trẻ ở Nhật như Haruki Murakami, Ryu Murakami,
Yamada Eimi...) phải “tập quên đi” những cái bóng quá lớn của những cây đại thụ
trước đó như Yasunari Kawabata, Tanizaki Junichiro, Mishima Yukio, Oe
Kenzaburo... để có thể tạo ra một diện mạo mới cho văn học Nhật Bản. Làm thế nào
vừa không giẫm lên bước chân của người đi trước, vừa không đánh mất quốc túy,
đó là một thách thức lớn đối với thế hệ của Y. Banana. Sau hàng loạt những tác
phẩm không chỉ thành công trong nước mà còn gây tiếng vang rộng khắp thế giới
với nhiều giải thưởng danh giá khác nhau, Y. Banana gần như đã chinh phục được
những thách thức ấy. Tài năng không đợi thời gian, Y. Banana đã thành công ngay
từ tác phẩm đầu tay ra đời khi tác giả mới 22 tuổi. Sau đó, với hàng loạt những tác
phẩm đáng chú ý khác, Y. Banana đã nhanh chóng được khẳng định trong lòng
công chúng do những giá trị mà bà muốn gửi gắm được kí thác trong một hình thức
đẹp, thấm đẫm thẩm mĩ kawaii của người Nhật. Có thể nói, sáng tác của Y. Banana
một mặt là nghệ thuật ngôn từ, mặt khác lại được hiểu và thưởng thức như một loại
hình cận văn học (paraliterature) với những vay mượn từ văn hóa đại chúng. Bằng
sự kết hợp nhiều yếu tố, sáng tác của Y. Banana đã tạo ra sự phân cực giữa các ý
kiến đánh giá và làm nên tính thời sự cho nền văn học đương đại, chẳng hạn vấn đề
ranh giới giữa truyền thống và văn hiện đại, nghệ thuật cao hay thấp. Thành công
của Y. Banana giúp chúng ta xác - định - lại khái niệm văn học đương đại, vốn dĩ là
khái niệm mang tính “mở” rất cao, ở cả Nhật Bản cũng như trên thế giới. Trong
tương quan giữa giá trị của một nền văn học với số lượng các công trình nghiên cứu
2
về nó, nhất là ở Việt Nam, chúng tôi thấy chưa có sự tương xứng. Vì vậy, nghiên
cứu Y. Banana vẫn là một khoảng trống cần sự quan tâm nghiên cứu của các nhà
khoa học.
1.2. Sáng tác của Y. Banana thuộc về văn học đại chúng hay văn học tinh hoa?
Y. Banana đã đứng và đi trên lằn ranh giao thoa mong manh của hai kiểu văn học
ấy như thế nào? Giá trị của tác phẩm Y. Banana tỏa ra từ đâu?... Những câu hỏi ấy
khiến chúng ta không ngừng trăn trở để đi tìm câu trả lời, vì sức lan tỏa mà sáng tác
của Y. Banana tạo ra là điều có thật. Chúng tôi nhận thấy, mặc dù Y. Banana tạo ra
sự quan tâm lớn của độc giả thế giới nhưng đa phần những công trình nghiên cứu
chỉ mới đi vào các vấn đề về chủ đề tư tưởng, hoặc nếu không thì từ góc độ thi pháp
hay thể loại, chưa tiếp cận Y. Banana từ phương diện thẩm mĩ. Trong khi đó, thẩm
mĩ của thời đại (luôn) có những ảnh hưởng nhất định đến vùng thẩm mĩ của cá
nhân, nhất là đối với nhà văn. Y. Banana lớn lên trong thời đại nửa sau của thế kỉ
XX, trong không gian của văn hóa đại chúng, đồng thời lại (vẫn) được hấp thu
những tinh hoa của văn học Nhật Bản truyền thống. Một câu hỏi khả dĩ đặt ra và
cần được giải quyết đó là nhìn sáng tác của Y. Banana từ trong bối cảnh văn hóa
của nó để phát hiện có một dòng chảy mĩ học ảnh hưởng, chi phối đến toàn bộ thế
giới nghệ thuật của nhà văn này: thẩm mĩ kawaii. Nhật Bản làm thế giới ngưỡng mộ
về năng lực cảm thụ cái đẹp của mình: độc lập và duy nhất. Nói như Trần Lê Bảo,
“Nghệ thuật Nhật Bản được thể hiện bằng năng lực cảm thụ tinh tế về cái đẹp của tự
nhiên và xã hội con người. Đặc biệt là cách thức cảm thụ mang tính hình tượng
được chi phối bởi các quan niệm thẩm mĩ độc đáo của Nhật Bản, đạt đến trình độ
cao của “đạo”, làm nên những loại hình nghệ thuật thể hiện phong cách riêng, độc
đáo khó có thể hòa trộn với một nền văn nghệ nào khác.” [4, 200] Gắn với đặc điểm
truyền thống lịch sử văn hóa của một đất nước bốn bề là biển, một vị trí biệt lập về
địa lí, người Nhật có truyền thống thẩm mĩ riêng với những phạm trù tiêu biểu như
mono no aware, sabi, wabi, yugen... và có quan niệm riêng về cái đẹp. Thời hiện
đại, trong bối cảnh xã hội thị trường, người dân nơi đây có một xu thế đề cao lí
tưởng thẩm mĩ mới: kawaii. Đó là kết quả của sự giao thoa văn hóa nội sinh của đất
3
nước Nhật Bản với luồng sóng văn hóa toàn cầu thời hiện đại. Với tư cách là một xu
hướng thẩm mĩ, kawaii ngay lập tức tỏa đều vào trong mọi lĩnh vực của đời sống.
Sản xuất, tiêu dùng, âm nhạc, hội họa, xếp giấy, hoa đạo, trà đạo, thời trang, và cả
trong an ninh, chính trị, ngoại giao và văn học... đều chịu sự chi phối của thẩm mĩ
kawaii. Không nằm ngoài quy luật, những tác phẩm của Y. Banana cũng hội tụ
được tất cả những gì thuộc về vùng thẩm mĩ ấy. Y. Banana không chỉ là người tiếp
thu thụ động mà hoàn toàn chủ động, làm cho người đọc vừa cảm nhận kawaii như
là nguồn ảnh hưởng tự nhiên, máu thịt; vừa như là những hồi ứng mà tác giả đã
sáng tạo nên từ sự tiếp thụ của mình. Do đó, nghiên cứu sáng tác của Y. Banana từ
phương diện thẩm mĩ, cụ thể là từ thẩm mĩ kawaii, là một hướng nghiên cứu vừa
phù hợp với quy luật sáng tạo của nhà văn, vừa phù hợp với đặc trưng của nền văn
học Nhật Bản.
Xuất phát từ những lí do trên, chúng tôi đã chọn đề tài Sáng tác của Yoshimoto
Banana từ góc nhìn thẩm mĩ kawaii làm đối tượng nghiên cứu cho luận án của mình.
2. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu của luận án
2.1. Mục đích nghiên cứu
Thực hiện đề tài Sáng tác của Yoshimoto Banana từ góc nhìn thẩm mĩ kawaii,
chúng tôi hướng đến các mục đích như sau:
Thứ nhất, luận án hướng tới mục đích tìm hiểu một khái niệm thẩm mĩ của
người Nhật có sự ảnh hưởng sâu rộng trong đời sống xã hội hiện đại: kawaii và con
đường tác động vào văn học của nó. Từ việc đi sâu tìm hiểu khái niệm “thẩm mĩ” để
cắt nghĩa được những tầng bậc ý nghĩa của khái niệm này, luận án có cơ sở để tìm
hiểu bản chất của thẩm mĩ kawaii trong cách tri nhận cái đẹp và khả năng tri nhận
cái đẹp của người Nhật hiện đại.
Thứ hai, chúng tôi đặt sáng tác của Y. Banana với môi trường mà tác giả đã
sống và hấp thụ, đó là xã hội đương đại, là bầu khí quyển của văn hóa đại chúng, từ
đó thấy được những tương liên, hòa hợp, phản chiếu từ thẩm mĩ kawaii (thứ thuộc
về sự lựa chọn và tri nhận của cộng đồng) lên sáng tác của Y. Banana (thứ thuộc về
sự lựa chọn của cá nhân sống trong cộng đồng đó). Chúng tôi muốn đi tìm những
4
biểu đạt của thẩm mĩ kawaii trong sáng tác Y. Banana như là cách tạo ra đường
“link” kết nối gần như hầu hết các vấn đề nổi bật mà độc giả vẫn thường nhắc tới
mỗi khi bàn về Y. Banana. Từ đó, có thể tìm thấy được lí do vì sao tác phẩm của Y.
Banana được sự yêu mến và hưởng ứng rộng khắp của độc giả Nhật Bản và thế giới
đương đại như vậy.
Thông qua việc tìm hiểu sáng tác của một tác gia từ góc nhìn thẩm mĩ - văn hóa,
chúng tôi hướng đến mục đích tìm kiếm những câu trả lời góp phần vào sự khám
phá giá trị của tác phẩm của Y. Banana với những đóng góp trong việc thể nghiệm
một lối viết mang màu sắc khác biệt so với dòng văn học truyền thống ở Nhật Bản.
Nói cách khác, chúng tôi đi tìm sự tương tác, hồi ứng từ sáng tác của Y. Banana đến
thẩm mĩ kawaii, để thấy Y. Banana không dừng lại là một tác giả đại chúng, sáng tác
của Y. Banana không dừng lại là sản phẩm của văn hóa đại chúng, mà đó còn là một
thế giới nghệ thuật độc đáo với những chủ ý nghệ thuật riêng của người sáng tạo.
Thực hiện được các mục đích trên chính là đóng góp và thành công của luận án.
2.2. Nhiệm vụ nghiên cứu
Nhiệm vụ nghiên cứu của luận án là cần trả lời được các câu hỏi nghiên cứu.
Câu hỏi nghiên cứu thứ nhất liên quan đến sự khảo sát tổng quan về thẩm mĩ
kawaii: ngoại sinh hay nội sinh, là giá trị tức thời hay là kết quả của một quá
trình? Để trả lời được câu hỏi này, luận án cần minh định khái niệm “thẩm mĩ” và
“kawaii” để xem xét đầy đủ các phương diện biểu hiện nghĩa của từ ngữ này. Từ đó
đi đến khái quát những đặc điểm thuộc về bản chất (những “mã khóa”) của “thẩm
mĩ kawaii” để làm cơ sở, làm “mắt” để “nhìn” sáng tác của Y. Banana. Bằng việc
nghiên cứu là thẩm mĩ kawaii đặt trong mối liên hệ với văn hóa truyền thống với
dòng chảy mĩ học đã thành hình sắc ở Nhật Bản (aware, sabi, wabi, yugen) và
văn hóa đại chúng của con người đương đại, luận án tìm một con đường cắt nghĩa
sự thâm nhập - con đường đi của kawaii vào đời sống (vật chất lẫn tinh thần) của
con người Nhật Bản như thế nào cũng như đã tác động vào văn chương ra sao.
Với câu hỏi nghiên cứu thứ hai của luận án: Sáng tác của Y. Banana mang
những đặc điểm nghệ thuật nào của thẩm mĩ kawaii?, đối tượng nghiên cứu phục
5
vụ cho việc trả lời câu hỏi này là những tín hiệu của kawaii được biểu đạt trong
sáng tác của Y. Banana. Luận án cần khảo sát văn bản, phân tích, khái quát để tìm
ra những đặc trưng của thẩm mĩ kawaii trong sáng tác của Y. Banana qua nhiều
phương diện. Từ đó, luận án khái quát mối quan hệ giữa những phương diện ấy
trong “trường” thẩm mĩ kawaii, hướng đến việc chỉ rõ sáng tác của Y. Banana là
một phần, một đại diện của thẩm mĩ này, xem xét dưới sự tác động của ánh sáng
thẩm mĩ này, tác phẩm của Y. Banana đã có những phản chiếu ra sao.
Đối với câu hỏi nghiên cứu thứ ba: Những sáng tạo riêng nào của Y. Banana
như một sự kết tinh giá trị thẩm mĩ kawaii?, luận án sẽ tập trung vào đối tượng
nghiên cứu là những tín hiệu của Y. Banana đã tạo ra trong sáng tác của bà. Cả ba
câu hỏi với những đối tượng nghiên cứu như trên nhằm hướng đến đối tượng là mối
tương quan biện chứng giữa thẩm mĩ kawaii và những sáng tạo của Y. Banana trong
thời hiện đại.
3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu của luận án
3.1. Đối tượng nghiên cứu
Đối tượng nghiên cứu của luận án là những biểu đạt nghệ thuật thuộc về thẩm
mĩ kawaii xuất hiện trong tác phẩm của Y. Banana. Khi soi chiếu thẩm mĩ kawaii vào
sáng tác của Y. Banana, chúng tôi nhận thấy có sự tập trung của một vùng ánh sáng của
kawaii - một trường văn hóa và thẩm mĩ quan trọng của thời đại, đã chi phối các sáng tác
của Y. Banana. Là người tiếp thụ và đứng trên lằn ranh của văn học tinh hoa với văn học
đại chúng, Y. Banana đã cho thấy những dấu ấn nghệ thuật mang đậm tinh thần kawaii
trong sáng tác của mình không chỉ là sự chịu ảnh hưởng, đó còn là hoạt động chủ động
sáng tạo trên cái nền của sự ảnh hưởng. Như vậy, việc hướng đến đối tượng nghiên cứu
là những biểu đạt nghệ thuật trong sáng tác của Y. Banana giúp người nghiên cứu phát
hiện Y. Banana trong vai người sáng tạo, từ đó trả lời được những câu hỏi liên quan đến
giá trị văn chương nghệ thuật của Y. Banana.
3.2. Phạm vi nghiên cứu
- Về phạm vi nội dung nghiên cứu: Đề tài Sáng tác của Yoshimoto Banana từ
góc nhìn thẩm mĩ kawaii được triển khai chủ yếu qua hai nội dung lớn là tiếng nói
6
chung (lời đồng vọng từ thẩm mĩ kawaii) và tiếng nói riêng (sự góp lời của một cá
nhân cho cộng đồng) với những nội dung nghiên cứu cụ thể như nhân vật, chủ đề,
thế giới thiên nhiên, tổ chức nghệ thuật (không gian, thời gian), thủ pháp nghệ
thuật Thông qua những phương diện cơ bản này, chúng tôi đi tìm và góp phần
minh định sự ảnh hưởng cũng như sự phát triển, sáng tạo của Y. Banana từ một
vùng thẩm mĩ mà tác giả đã và đang sống trong nó.
- Về phạm vi văn bản khảo sát: Chúng tôi khảo sát trên các văn bản là các tác
phẩm của Y. Banana đã được dịch sang tiếng Việt và tiếng Anh. Sau Kitchen, Y.
Banana tiếp tục thành công với 12 tiểu thuyết và 7 tập truyện ngắn.
■ Trong số đó, đã xuất bản tại Việt Nam:
+ Kitchen, Bóng trăng (Bóng từ ánh trăng), Lương Việt Dũng dịch, Nhà xuất bản
Hội nhà văn, 2006
+ N.P, Lương Việt Dũng dịch, Nhà xuất bản Đà Nẵng, 2006
+ Vĩnh biệt Tugumi (Tugumi), Vũ Hoa dịch, Nhà xuất bản Đà Nẵng, 2007
+ Amrita (Amurita), Trần Quang Huy dịch, Công ty Nhã Nam, Nhà xuất bản Hội
nhà văn, 2008
+ Say ngủ, Trương Thị Mai dịch, Công ty Nhã Nam, Nhà xuất bản Văn hóa Sài Gòn, 2008
+ Thằn Lằn, Nguyễn Phương Chi dịch, Công ty Nhã Nam, Nhà xuất bản Văn học, 2009
+ Hồ, Uyên Thiểm dịch, Công ty Nhã Nam, Nhà xuất bản Hội nhà văn, 2014
+ Nắp biển, Dương Thị Hoa dịch, Công ty Nhã Nam, Nhà xuất bản Hội nhà văn, 2018
■ Đồng thời, chúng tôi có tham khảo bản dịch tiếng Anh của một số tác
phẩm đã được dịch sang tiếng Việt như Kitchen, Moonlight Shadow, N.P, Amrita,
Goodbye Tugumi, Asleep, Lizard, The Lake
+ Kitchen, Moonlight Shadow, Megan Backus dịch, Grove Press, New York 1993
+ N.P, Ann Sherif dịch, Grove Press, New York, 1994
+ Lizard, Ann Sherif dịch, London: Faber and Faber, 1995
+ Amrita, Russell F. Wasden dịch, London: Faber and Faber, 1997
+ Asleep, Michel Emmerich dịch, London: Faber and Faber, 2000
+ Goodbye Tugumi, Michel Emmerich dịch, London: Faber and Faber, 2002
7
■ Các tác phẩm chưa được dịch sang tiếng Việt:
+ Argentine Hag, Sawa Fumiya dịch, Tokyo, 2002
+ Hardboiled Hardluck, Michael Emmerich dịch, Grove Press, New York, 2005
4. Cơ sở lí thuyết và phương pháp nghiên cứu của luận án
Một trong những phương pháp chính mà luận án lựa chọn đó là phương pháp
nghiên cứu liên ngành, trong đó, đặc biệt quan trọng là nghiên cứu văn hóa. Đối
tượng nghiên cứu chính của luận án là sáng tác của một tác gia văn học Nhật Bản
đương đại nhìn từ góc độ ảnh hưởng, tiếp thu và sáng tạo từ một thẩm mĩ cũng của
chính xã hội Nhật Bản đương đại. Thẩm mĩ đó lưu chuyển trong nền văn hóa của
đất nước ấy nên không thể tách rời sáng tác của tác gia văn học này với văn hóa.
Bên cạnh đó, khái niệm thẩm mĩ này tuy mới nhưng lại là kết quả của một dòng
chảy xuyên suốt trong đời sống của người dân Nhật Bản từ xưa đến nay, không tách
biệt với những khái niệm trước đó. Qua văn hóa và những nền tảng lí thuyết của mĩ
học, chúng ta có thể xác định được những hệ giá trị của con người Nhật Bản đương
đại để từ đó có những cách giải thích phù hợp trong việc đánh giá các vấn đề được
phản ánh trong sáng tác của Y. Banana. Đặt văn học trong vùng văn hóa và vùng
thẩm mĩ của chính đất nước đã sản sinh ra nó thiết nghĩ là cách làm phù hợp. Người
viết đặt tác phẩm của Y. Banana trong mối quan hệ với bối cảnh lịch sử - xã hội và
văn hóa – mĩ học Nhật Bản hiện đại và đương đại, nhất là từ nửa sau thế kỉ XX đến
nay, để nghiên cứu và giải thích một số hiện tượng văn học, kiểm định và đánh giá
sự ảnh hưởng, tương tác giữa sáng tác của Y. Banana với những sự kiện, hiện tượng
khác trong đời sống văn hóa xã hội Nhật. Ngoài ra, luận án còn vận dụng những
hiểu biết từ xã hội (tâm lí xã hội và lịch sử xã hội), truyện tranh (đặc biệt là thể loại
shoujo manga, loại truyện tranh dành cho thiếu nữ), phim hoạt hình. Nhờ vào
những hiểu biết về các ngành khác sẽ giúp chúng ta lí giải được cách xây dựng nhân
vật, xu hướng tâm lí, đời sống nội tâm của các nhân vật cũng như hiểu được quan
niệm thẩm mĩ của con người thời hiện đại diễn ra trong tác phẩm của Y. Banana.
Phương pháp so sánh: Luận án sử dụng phương pháp so sánh khi đặt kawaii
trong mối quan hệ với những thẩm mĩ khác của văn học Nhật Bản như mono no
aware, miyabi, yugen, wabi, sabi, iki... để phát hiện những điểm giao thoa và khác
8
biệt, từ đó hướng đến việc tìm hiểu đối tượng nghiên cứu một cách thỏa đáng hơn.
Đồng thời, chúng tôi cũng đặt kawaii trong mối quan hệ so sánh với các khái niệm
mĩ học của một số nền văn hóa khác như cute, lovely của phương Tây. Luận án
cũng đặt ra và giải mã những vấn đề dựa trên cơ sở so sánh Y. Banana với các tác
giả khác (cùng thời đại hoặc khác thời đại) để thấy những nét chung và những gì
khác biệt mà Y. Banana đã tạo ra trong sáng tác của mình.
Phương pháp loại hình: Phương pháp loại hình là phương pháp nghiên cứu dựa
trên sự tập hợp các sự vật, hiện tượng cùng có chung những đặc trưng cơ bản nào
đó, khi chúng cùng có một “quan hệ cộng đồng giá trị” [18, 144]. Phương pháp
này giúp người nghiên cứu đi tìm những điểm tương đồng của các yếu tố, giúp nắm
bắt được các hiện tượng trong mối quan hệ tổng thể, bao quát, từ đó phát hiện quy
luật, những thông số giá trị về điều cần giải mã. Luận án sử dụng phương pháp loại
hình trong việc nhóm hợp những biểu hiện có cùng chung những đặc trưng cơ bản
giữa các nhân vật (ngoại hình, tính cách, số phận), những yếu tố thường xuyên
xuất hiện trong sáng tác của Y. Banana, những đặc trưng cơ bản của các thủ pháp
nghệ thuật
Phương pháp hệ thống: Phương pháp hệ thống là đặt đối tượng vào một hệ
thống nào đó để xem xét những đặc thù, từ đó xác định giá trị, vị trí cũng như đóng
góp của nó cho hệ thống. “Trong nghiên cứu văn học, chúng ta có thể coi một tác
phẩm hay toàn bộ sáng tác của một nhà văn, một thể tài, một thể loại, một nền văn
học, như là những hệ thống”, “trong khi phương pháp loại hình chú ý đến quan hệ
cộng đồng giá trị, thì phương pháp hệ thống lại chú ý đến quan hệ phân cấp và quan
hệ nhân quả” [18, 151 - 152]. Lợi ích cơ bản của phương pháp hệ thống là nó giúp
ta xác định được vị trí (hay tọa độ) của một sự vật trong mối quan hệ phân cấp với
các sự vật khác, qua đó giúp ta đánh giá được đầy đủ giá trị và ý nghĩa của sự vật
đó”. Trong luận án này, người viết đặt kawaii trong dòng chảy mĩ học của Nhật Bản
và thế giới, đặt sáng tác của Y. Banana trong văn học đại chúng và văn học tinh
hoa, từ đó nghiên cứu về giá trị của thẩm mĩ kawaii trong sáng tác của Y. Banana
có ý nghĩa như thế nào đối với văn học đương đại Nhật Bản, thế giới.
9
5. Đóng góp mới về khoa học của luận án
Thứ nhất, luận án đóng góp vào việc nghiên cứu một phạm trù thẩm mĩ chi phối
văn hóa Nhật Bản đương đại là kawaii. Trên tinh thần tiếp thu, đối thoại và phản
biện, luận án góp phần chỉ ra được một yếu tố quan trọng chi phối cách xây dựng
tác phẩm của Y. Banana - một yếu tố vừa có nguồn gốc nội sinh trong cái nhìn lịch
đại, vừa có ý nghĩa ngoại hợp trong cái nhìn đồng đại: thẩm mĩ kawaii.
Từ đó, luận án đóng góp vào việc làm rõ vai trò của kawaii đối với giá trị của
tiểu thuyết Y. Banana. Luận án đặt ra vấn đề: sáng tác của Y. Banana có phải là một
sản phẩm của văn hóa đại chúng không? Rõ ràng, sáng tác của Y. Banana không chỉ
khoác một chiếc áo đại chúng, mà đó là những sản phẩm đại chúng thật sự. Song tất
cả không dừng lại ở đó. Sáng tác của Y. Banana không phải là một sự chệch khỏi
quỹ đạo của văn chương nghệ thuật cũng như những chuẩn mực thẩm mĩ truyền
thống. Cái gọi là phong vị Nhật Bản vẫn luôn len lỏi vào trong thế giới nghệ thuật
của Y. Banana để phát hiện và diễn tả một cách tinh tế nhất những trạng thái cảm
xúc của con người. Nếu là những tác phẩm câu khách dễ dãi với một lối văn tuềnh
toàng, chắc hẳn Y. Banana không thể có được một lượng độc giả đông đảo để đứng
vào hàng best-seller trên thế giới như vậy. Luận án hướng đến việc hiểu được đặc
trưng phong cách của một nhà văn với sở trường là những tác phẩm dễ thương, khả
ái, cung cấp một cách nhìn mới về nghệ thuật tiểu thuyết đương đại Nhật Bản cũng
như văn học đương đại thế giới trong sắc thái đa diện của nó. Phong cách của Y.
Banana luôn có sự kết hợp giữa truyền thống – những rung cảm tinh tế của tâm hồn
con người với tinh thần hiện đại – văn hóa đại chúng, giữa những giá trị cũ và mới,
tất cả hòa quyện trong những sáng tạo nghệ thuật tuyệt vời. Như vậy, luận án đóng
góp vào việc làm rõ vai trò của kawaii đối với giá trị của tiểu thuyết Y. Banana.
6. Ý nghĩa lí luận và thực tiễn của luận án
Về ý nghĩa lí luận, đề tài Sáng tác của Yoshimoto Banana từ góc nhìn thẩm mĩ
kawaii trước hết đóng góp vào việc nghiên cứu hệ thống lí luận một phạm trù mĩ
học của Nhật Bản hiện đại đang có những ảnh hưởng rộng khắp: kawaii. Y. Banana
đã “nâng cấp” kawaii để nó không chỉ là một hot trend (trào lưu, xu hướng cuồng
10
nhiệt) của văn hóa đại chúng mà còn là một thẩm mĩ độc đáo, thể nghiệm thẩm mĩ
ấy vào trong văn chương để tìm kiếm những giá trị sâu sắc. Công chúng yêu văn
học nói chung và yêu văn học Nhật Bản nói riêng trên khắp thế giới không những sẽ
biết đến văn học Nhật Bản với những phạm trù thẩm mĩ truyền thống mà còn là một
phạm trù thẩm mĩ mới: năng động, tươi trẻ, đầy sức sống – kawaii. Bên cạnh đó,
luận án cũng góp vào hướng tiếp cận văn học từ nghiên cứu liên ngành giữa văn học
với văn hóa, mĩ học, xã hội học..., trong xu hướng nghiên cứu chung của thế giới
hiện nay.
Về ý nghĩa thực tiễn, đề tài Sáng tác của Yoshimoto Banana từ góc nhìn thẩm mĩ
kawaii đã tìm hiểu sự thâm nhập của văn hóa, thẩm mĩ (cụ thể là kawaii) vào trong
nhiều lĩnh vực của đời sống xã hội, trong đó có văn học, và người sáng tạo. Mọi
sáng tạo văn học đều không nằm ngoài sự phản ánh đời sống và tác động trở lại đời
sống. Qua những trang viết của Y. Banana, người đọc không chỉ hiểu mà còn thực
hiện hành vi, giúp cho thế giới quan, nhân sinh quan, làm cho mỗi người trở nên
hiền hòa, sống hòa nhã và xích lại gần nhau hơn. Với kawaii, con người bớt đi áp
lực cuộc sống và tình trạng chông chênh trước những bất an, biến cố. Với kawaii,
xã hội Nhật Bản càng khẳng định được “thương hiệu” của một đất nước luôn khác
lạ trong mắt nước ngoài.
7. Cấu trúc của luận án
Ngoài phần Mở đầu và Kết luận, Tài liệu tham khảo, luận án được sắp xếp thành
bốn chương:
Chương 1: Tổng quan vấn đề nghiên cứu
Chương 2: Thẩm mĩ kawaii
Chương 3: Tiếng vọng của thẩm mĩ kawaii trong sáng tác Y. Banana
Chương 4: Tiếng nói khác biệt của Y. Banana từ trong lòng thẩm mĩ kawaii
11
Chương 1
TỔNG QUAN VẤN ĐỀ NGHIÊN CỨU
Chương 1 là chương Tổng quan về vấn đề nghiên cứu nhằm tổng thuật những
công trình nghiên cứu đi trước có liên quan đến đề tài của luận án, cụ thể là những
công trình có đối tượng nghiên cứu là sáng tác Y. Banana, thẩm mĩ kawaii và đặc
biệt là những công trình quan tâm đến các khía cạnh biểu hiện của thẩm mĩ kawaii
trong sáng tác của Y. Banana. Từ đó, người nghiên cứu xác tín những cơ sở khoa học
cho luận án và chỉ ra những khoảng trống khoa học cần được bổ sung, lấp đầy. Khoảng
trống đó là sự xem xét kawaii như một phạm trù thẩm mĩ chi phối toàn bộ các vấn đề
từ nội dung tư tưởng đến hình thức nghệ thuật trong sáng tác của Y. Banana.
Ở chương này, người viết sẽ lần lượt trình bày các công trình nghiên cứu đi
trước (bao gồm cả những tài liệu tiếng Việt và tiếng Anh) đã khai thác vấn đề mà
luận án đang nghiên cứu, xem xét các công trình đã nghiên cứu về vấn đề của luận
án như thế nào và đến đâu, để từ đó tìm ra khoảng trống khoa học cần giải quyết.
Người viết sẽ trình bày theo trình tự:
Những nghiên cứu liên quan đến phạm trù thẩm mĩ kawaii
Những nghiên cứu liên quan đến kawaii trong sáng tác của Y. Banana.
Từng mục sẽ được trình bày kết quả của các công trình nghiên cứu theo trình
tự thời gian.
1.1. Những nghiên cứu về kawaii trong và ngoài Nhật Bản
1.1.1. Những nghiên cứu về kawaii ở Nhật Bản
Theo Kyoko Koma, quyển sách về kawaii với nhan đề Kawaii Ron được viết
bởi tác giả Inuhiko Yomota (Đại học Meiji, nhà xuất bản Chikuma, năm 2006) với
mục đích mang kawaii tiếp cận với lượng độc giả đông đảo. Quyển sách có một
đoạn tóm tắt: “Những nhân vật Nhật Bản như Hello Kitty, Pokemon, Thủy thủ Mặt
Trăng... áp đảo trên toàn thế giới [...]. Vì sao kawaii của Nhật Bản lại phát ra ánh
sáng rực rỡ như vậy? Cuốn sách này là nỗ lực định hướng đầu tiên để phân tích
đồng đại và lịch đại cấu trúc của kawaii bằng cách đặt nó vào mĩ học của thế kỉ
12
XXI” [144, 7]. Tác giả đã xem nó như là một thẩm mĩ và phân tích kawaii theo
chiều dài lịch sử. Theo tác giả, nguồn gốc của kawaii bắt đầu từ quyển Sách gối đầu
(Pillow Book) của Seiso Nagon (966 – 1017, thời Heian). Yomota giải thích rằng
dịch giả Arthur David Waley (người dịch tác phẩm này sang tiếng Anh) đã chọn
cách dịch từ “utsukushi” (うつくし, 美し) sang tiếng Anh là “pretty”, nghĩa là
“đẹp”, nói về một người “ngây thơ” (innocent), “trẻ con” (infant), “trong khiết”
(pure), những người cần sự bảo vệ của người lớn. Tác giả tiếp tục chỉ ra thẩm mĩ
kawaii phát triển trong thời Edo (1603 – 1868) trong những vở kịch Kabuki nổi
tiếng và trong sáng tác của tác giả Osamu Dazai. Nó được hiểu như là những cảm
xúc thẩm mĩ về những gì nhỏ nhắn, mong manh, và cần được bảo vệ. Yomota chỉ
rõ, “một người có tính cách kawaii không phải là một người trưởng thành, không
phải là một người đẹp, mà nữ tính, trẻ con, ngoan và trong sáng” [144, 8].
Kan Satoko, một thành viên khoa Nghiên cứu Nhật Bản Quốc tế, trường Đại
học Ochanomizu, trong bài viết năm 2007: kawaii – từ khóa của Văn hóa thiếu nữ ở
Nhật Bản cho rằng, có những kiểu văn hóa mới xuất hiện và đang dần thay thế cho
văn hóa Nhật Bản truyền thống, một trong số đó là kawaii. Bà đã đi tìm bản chất
của kawaii và đưa ra một khái niệm, cũng là một lí do tác động đến việc hiểu từ
kawaii phù hợp, đó là văn hóa nữ giới. Tác giả đã phân tích những bàn luận về
kawaii, xem nó tương đương với khái n...n rất rõ nét một thẩm mĩ của Nhật Bản đương đại – kawaii. Bằng cách
này hay cách khác, các công trình nghiên cứu đã gợi mở những vấn đề có liên quan
đến đề tài mà luận án đang thực hiện. Tuy nhiên, các công trình nghiên cứu chỉ
dừng lại ở một số phương diện sau:
♦ Chỉ xem xét tác phẩm của Y. Banana ở cách đánh giá khái quát, về các vấn
đề khá tản mạn như chủ đề gia đình, giới tính, vai trò của giới tính nữ trong xã hội
Nhật Bản đương đại hoặc về lối viết nhẹ nhàng, giàu cảm xúc (dừng lại ở những lời
bình giá, nhận xét).
♦ Khi nói đến mối liên hệ giữa kawaii với sáng tác của Y. Banana, các tác
giả chỉ đề cập qua song chưa nói rõ Y. Banana đã ảnh hưởng như thế nào (với
những biểu hiện cụ thể), chỉ giới thiệu để chuyển dẫn đến vấn đề về vai trò của Y.
26
Banana trong nền văn học đương đại Nhật Bản. Do đó, các công trình chưa chỉ ra
được việc Y. Banana đã hấp thụ nền văn hóa đại chúng như thế nào (trong đó có
kawaii) và đóng góp cho nền văn học tinh hoa ra sao.
27
Tiểu kết chương 1
Như vậy, nhìn chung, các công trình nghiên cứu của người đi trước đã mở ra
cho người nghiên cứu những cơ hội để khai thác vấn đề kawaii trong sáng tác của
Y. Banana. Tuy nhiên, cho đến nay, chưa có công trình khoa học nào nghiên cứu
thẩm mĩ kawaii trong tác phẩm của Y. Banana như một đối tượng nghiên cứu chính,
từ đó giải mã những tín hiệu thẩm mĩ độc đáo trong sáng tác của Y. Banana và tìm
đến các thang bậc giá trị mới trong thế giới nghệ thuật của nữ tác gia này. Đây chính là
khoảng trống khoa học mà luận án này muốn hướng đến giải quyết.
Từ những mảnh ghép rời rạc là những ý tưởng được gợi lên từ những công
trình đi trước, luận án hướng đến việc kết nối các ý tưởng lại trong một sợi dây
chung khả dĩ: thẩm mĩ kawaii như một thứ ánh sáng soi lối cho những trang viết của
Y. Banana. Điều này cho thấy, có những hiện tượng văn hóa được xem là không
chính thống nhưng lại liên hệ mật thiết với tình hình kinh tế, chính trị, xã hội của
nước Nhật hiện đại và con người hiện đại chấp nhận nó (một cách chủ động).
Y. Banana, nhà văn xuất hiện vào cuối những năm 1980 đã sống, đã lớn lên
trong vùng văn hóa đó và bà mang hơi thở của cuộc sống đương đại ấy vào trong
sáng tác của mình. Đó là một lối đi rất khác so với văn học tinh hoa, văn học truyền
thống, nhưng lại không phải là văn học thị trường, câu khách dễ dãi. Ngược lại,
bằng cách riêng của mình, Y. Banana đã giúp người đọc xác định lại ranh giới của
các giá trị văn học thuần túy (pure) Nhật Bản, thúc đẩy họ tiến tới một dạng văn học
mới. Với thẩm mĩ kawaii, có thể thấy, dễ thương hóa cuộc sống không phải là mốt
nhất thời của người Nhật, càng không phải là một trò giải trí mang tính quốc gia.
Kawaii đã trở thành đặc điểm văn hóa của nước Nhật và người Nhật hiện đại.
Chúng tôi muốn khám phá: khi Y. Banana tham gia vào môi trường của kawaii, rồi
cũng chính Banana trở thành một nhà viết văn mang với lối viết đậm chất kawaii,
thì bà đã vừa hấp thụ vừa tạo nên cái mới như thế nào. Nói cách khác, trong tư cách
hai vai: vai công chúng và vai người sáng tạo, Y. Banana đã tạo ra một dấu nối
tương đương từ mã đặc thù của kawaii đến những sáng tác của mình để rồi không
dừng lại ở đó với cấp độ mô phỏng hay minh họa, Y. Banana đã sáng tạo chúng
trong văn chương để đem đến những giá trị đẹp cho con người đương đại.
28
Chương 2
THẨM MĨ KAWAII
Ở chương 1, luận án đã tổng thuật những công trình nghiên cứu đi trước có liên
quan đến đề tài của luận án. Khi xem xét kawaii như một phạm trù thẩm mĩ chi phối
toàn bộ các vấn đề từ nội dung tư tưởng đến hình thức nghệ thuật trong sáng tác của
Y. Banana, chương 2 của luận án sẽ làm rõ các khái niệm “thẩm mĩ”, “kawaii”, từ
đó xác định kawaii là một phạm trù thẩm mĩ, một hệ giá trị chi phối mĩ cảm của
người Nhật hiện đại. Bên cạnh đó, chương 2 của luận án sẽ bàn về lịch sử của khái
niệm kawaii, nhìn nó trong dòng chảy văn hóa – xã hội Nhật Bản, trong mối liên hệ
với những thẩm mĩ truyền thống Nhật Bản và cả trong bối cảnh giao thoa của văn
hóa thế giới. Tìm được bản chất của kawaii là gì, tức là đi tìm được những mã khóa
của kawaii, luận án có được những tiền đề khoa học cần thiết để đặt các vấn đề về
sáng tác của Y. Banana dưới sự chi phối của thẩm mĩ kawaii.
2.1. Khái lược về thẩm mĩ kawaii
2.1.1. “Thẩm mĩ” (“aesthetics”)
Theo Từ điển Tiếng Việt của Viện ngôn ngữ học Việt Nam, “thẩm mĩ là cảm
thụ và hiểu biết về cái đẹp” [88, 922]. Từ ngữ này trong tiếng Anh là “aesthetics”,
được sử dụng bao quát cả ý nghĩa “thẩm mĩ” và “mĩ học”. Theo Từ điển Anh – Anh
American Heritage [183], “aesthetics” có hai nét nghĩa chính: a. Một phân nhánh
của triết học, nội dung có liên quan đến bản chất, biểu hiện và nhận thức về cái đẹp,
ví dụ những nghiên cứu về mĩ thuật, nghệ thuật hội họa; b. Nghiên cứu về những
phản ứng tâm lí đối với cái đẹp và những trải nghiệm nghệ thuật; a. Một quan
niệm về cái có giá trị hiện thực thực sự hay là đẹp; b. Một sự hiện diện đẹp hay dễ
chịu về phương diện nghệ thuật. Mặc dù khái niệm này có nhắc đến khá nhiều về
cái Đẹp, nhưng cần hiểu: thứ nhất, cái Đẹp viết hoa theo nội hàm ý nghĩa rất phổ
quát của nó; thứ hai: thẩm mĩ và cái đẹp là hai khái niệm không đồng nhất. Nói tới
thẩm mĩ là nói tới một quan năng, tức khả năng tri nhận cái đẹp, dựa vào cảm xúc
và trí tưởng tượng. Theo Immanuel Kant (1724 – 1804), “cái đẹp chính là cái lí
tưởng được số đông xã hội chấp nhận, yêu mến, hài lòng nhưng cái đẹp lại mang
29
tính chủ quan, phụ thuộc nhiều vào cảm xúc của con người, do đó không có tiêu chí
chung cho cái đẹp” [48, 58]. Trong cả hệ thống triết học mà Kant xây dựng để con
người nhận thức thế giới và bản thân, thì nhận thức thẩm mĩ chiếm một vị trí quan
trọng. Theo Kant, phán đoán thẩm mĩ không phải là một phán đoán nhận thức, do
đó không có tính logic, mà có tính thẩm mĩ, được hiểu là một phán đoán mà cơ sở
của nó không thể là gì khác hơn ngoài chủ quan. Quan điểm này của Kant tiếp nối
quan điểm của A. Baumgarten (1714 – 1762) cho rằng cái đẹp được đánh giá bằng
cảm giác, không phải bằng lí trí. Tuy cái đẹp không có tiêu chuẩn phổ biến nhưng
có thể có cảm quan chung đối với cái đẹp, gọi là cảm quan chung thẩm mĩ (sensus
communis aestheticus). Và cảm quan chung ấy mang tính phổ biến chủ quan. Như
Kant khẳng định, “Có một tính hợp quy luật mà không có quy luật, và một sự hài
hòa chủ quan giữa trí tưởng tượng và giác tính mà không có một sự hài hòa khách
quan. [...] Mọi cái hợp quy tắc cứng nhắc tự chúng có cái gì đi ngược lại với sở
thích (tức cái thẩm mĩ – người viết).” [48, 58]
Như vậy, bản thân cái đẹp không phải là không có phép tắc riêng của nó,
không phải chỉ thuộc về cảm giác riêng của từng người mà chúng còn có quan hệ
với nhân quần xã hội. Thẩm mĩ là nơi tập trung những phép tắc ấy, thể hiện những
mối quan hệ ấy. Nó hình thành cho con người những quan niệm về cái đẹp, từ đó có
thể luyện cho con người có tài thẩm mĩ, có lòng ái mĩ. Đứng trước cái đẹp / xấu,
thẩm mĩ trở thành hệ giá trị, thành thước đo để con người đối chiếu và thẩm định,
đánh giá. Đây là một nội dung có ý nghĩa quan trọng bởi nó liên quan đến những
biểu hiện đa dạng, phong phú, thậm chí có những lúc trái ngược nhau, có những lúc
đi lệch pha với những hệ giá trị khác như đạo đức, sự thực..., vì đơn giản, cái thẩm
mĩ có hệ giá trị và những thang đo lường của riêng nó. Cũng cần phân biệt, đẹp
không giống với thích. Cái gì ta thích không nhất thiết phải đẹp. Đẹp cũng không
giống với ích lợi, vì đẹp không có mục đích và không theo mục đích nào cả. Có
những cái vô ích mà đẹp thì con người vẫn quý chuộng. Đẹp cũng không giống với
thực. Sự thực tuy là một phần trong cái đẹp nhưng không phải sự thực nào cũng
đẹp. Nhà thơ Pháp Boileau nói: “Không cái gì đẹp bằng sự thực”, nhưng sự thực
30
phải gợi lên mĩ cảm mới gọi là đẹp được. Cho nên, nói như Platon thì đúng hơn:
“Cái đẹp ấy là cái vẻ rực rỡ của sự thực”. Đẹp cũng không giống với thiện (lành,
đạo đức).
Ở đây, cần chú ý lập luận của Kant và những người nghiên cứu mĩ học:
“đẹp” như một thuộc tính khách quan vì có những đại lượng chỉ ra được, nhưng
việc đánh giá / phán đoán về đối tượng như thế nào lại thuộc về sự chủ quan của
người tiếp nhận, được gọi là “thẩm mĩ”. Do vậy thẩm mĩ chỉ một quan hệ tương tác
hai chiều, nhưng không đồng nhất với “sở thích” vốn chỉ hoàn toàn có tính chất chủ
quan. Thẩm mĩ còn chứa kích thước “cộng đồng”, để từ đó có thể nhận ra rằng mỗi
cá nhân đưa ra phán đoán hay mỗi sự vật được phán đoán phải nằm trong những
khu vực ảnh hưởng của cộng đồng đó. Từ đó, có thể nhận ra rằng bản thân khái
niệm thẩm mĩ phải được nhận ra ở ba chiều kích:
Bản thân đối tượng (sở thích, gu thẩm mĩ). “Ai không chịu nô lệ cho thời trang
nhất thời mà tự mình có năng lực phán đoán về cái đẹp, người ấy chứng tỏ mình có
sở thích hay có gu thẩm mĩ, vì thế, phán đoán thẩm mĩ về cái đẹp cũng được gọi là
phán đoán sở thích.” [48, 31] Đây là bình diện đầu tiên giúp ta phân biệt phán đoán
thẩm mĩ với phán đoán logic, còn gọi là phán đoán nhận thức, để khẳng định thuộc
tính khách quan của đối tượng. Phán đoán sở thích có liên quan đến cảm trạng của
người đang nhận xét, có sự hài lòng, sự dễ chịu với đối tượng. Rõ ràng, hài lòng, dễ
chịu không phải là một thuộc tính của đối tượng, mà là một trạng thái của chủ thể.
Những phán đoán / thước đo của cộng đồng. Thẩm mĩ còn chứa kích thước
cộng đồng, để từ đó có thể nhận ra mỗi cá nhân đưa ra phán đoán hay mỗi sự vật
được phán đoán phải nằm trong những khu vực ảnh hưởng của cộng đồng đó. Sở
thích cá nhân chỉ giữ vai trò tạm thời và thứ yếu trong việc phán đoán về cái đẹp, và
về nguyên tắc, phải được thay thế bằng một phán đoán của giác tính có giá trị phổ
biến. Kant vừa khẳng định tính chủ quan của phán đoán thẩm mĩ, vừa cho rằng
“trong phán đoán thẩm mĩ, tức một cái phổ biến, những đối tượng vẫn được thẩm
định dựa theo một quy tắc, tức một cái phổ biến, nhưng không phải dựa theo các
khái niệm khoa học hay các nguyên tắc luân lí, gọi là cái phổ biến chủ quan” [48,
31
35]. Nghĩa là, cái đẹp phải được hình dung như là đối tượng của một sự hài lòng
phổ biến (xét về mặt lượng).
Những phản ứng / phán đoán của cá nhân (khả năng nhận thức của bản
thân đối với những sở thích cá nhân và những quy chuẩn cộng đồng) – tức tính
cá biệt. “Trái với sản phẩm của nghệ thuật máy móc (chẳng hạn: mĩ nghệ thủ công)
xuất phát từ sự áp dụng các quy tắc phổ biến, sản phẩm của mĩ thuật tỏ ra thoát li
khỏi mọi cưỡng chế của các quy tắc như thể đó là một sản phẩm của Tự nhiên đơn
thuần.” [48, 36] Với một tác giả văn học, thẩm mĩ phải là thứ được nhận thức, chọn
lọc, từ đó có thể tiếp nhận và sáng tạo, nếu không, nó chỉ dừng lại là sở thích thông
thường. Nghĩa là, ở khâu này, có sự tham gia của lí trí, của ý đồ nghệ thuật ở nhà
văn chứ không đơn thuần là cảm tính nữa. “Ở đây, thẩm mĩ không phải là những
“vườn trồng tiêu ngay hàng thẳng lối” cho giác tính mà là thiên nhiên phong phú vô
hạn không chịu phục tùng quy tắc nhân tạo nhào hết để mang lại dưỡng chất lâu
bền cho sở thích. Như thế, cái cá biệt, đơn lẻ thể hiện cả nơi cái đẹp tự nhiên lẫn cái
đẹp nghệ thuật” [48, 36]. Tuy nhiên, tính cá biệt độc đáo không đồng nghĩa với tính
vô quy tắc và vô chính phủ: một mặt, việc sáng tạo nên các nghệ phẩm riêng lẻ, độc
nhất vô nhị hầu như là sự biệt đãi để thoát khỏi sự ràng buộc của các quy tắc phổ
biến, vì các quy tắc này chỉ làm suy yếu sức bật của tinh thần. Nhưng mặt khác,
theo Kant, “không có ngành mĩ thuật nào lại không có trong mình điều gì đấy có
tính máy móc”, tức có điều gì đấy có tính trường quy (schulgerecht) tạo nên điều
kiện cơ bản cho nghệ thuật, và “chỉ có những đầu óc nông cạn mới tin rằng, họ có
thể chứng tỏ mình là những thiên tài phát tiết khi vứt bỏ hết sự cưỡng chế trường
quy của mọi quy tắc và tin rằng có thể thao diễn tốt hơn trên lưng một con ngựa
chứng hơn là trên lưng một con ngựa đã thuần” [48, 38].
2.1.2. “Kawaii”
2.1.2.1. Nguồn gốc khái niệm “kawaii”
Tác giả Inuhiko Yomota phân tích nguồn gốc của kawaii bắt đầu được nói
đến trong quyển Sách gối đầu (Pillow Book), do Sei Shonagon (966 – 1017) thời
Heian viết, Arthur David Waley dịch. Waley đã chọn cách dịch từ うつくし
32
[Ustukushi], sang tiếng Anh là pretty, có thể hiểu là đẹp, chỉ về một ai đó rất hồn
nhiên, một đứa trẻ, một sự trong trẻo, và cả những ai cần sự bảo vệ từ người lớn.
Sau đó thì khái niệm kawaii tiếp tục được phát triển trong thời Edo (1603 – 1868) trong
những vở kịch Kabuki nổi tiếng, và tác giả Osamu Dazai, được hiểu như là những cảm
xúc thẩm mĩ về những gì nhỏ nhắn, mong manh, và cần được bảo vệ. I. Yomota chỉ rõ,
“một người có tính cách kawaii không phải là một người trưởng thành, không phải là
một người đẹp, mà nữ tính, trẻ con, ngoan và trong sáng” [144, 7].
Không giống như I. Yomota, Reiko Koga, Đại học Bunka Joshi, trong công
trình nghiên cứu của bà về kawaii có tên là Đế chế kawaii: thời trang, truyền thông
đa phương tiện và những cô gái (NXB. Seido), cho rằng nguồn gốc của kawaii là từ
văn hóa thiếu nữ (shoujo), “thứ được hình thành vào cuối thời Minh Trị (Meiji) và
kéo dài đến đầu thời Đại Chính (Taisho)” [142, 7]. Koga đã nhấn mạnh quan điểm
của mình thông qua những phân tích lịch đại về kawaii từ khi nó bắt đầu được sử
dụng đến nay, chạm vào khía cạnh truyền thông đa phương tiện. “Văn hóa thiếu
nữ”, theo Koga, gắn liền với các khái niệm 清く[Kiyoko], 正しく[Tadashiku], 美し
く [Utsukusiku], nghĩa là Trong khiết (Purity), Chân thành (Honesty) và Đẹp
(Beauty) sau Thế chiến thứ II.
2.1.2.2. Những cách hiểu, cách đánh giá về kawaii
Numano Mistuyoshi trong bài nói chuyện ở Việt Nam năm 2009 đã nói lên
cách đánh giá của ông về kawaii: “Thịnh hành nhất hiện nay là ý thức thẩm mĩ được
thể hiện bằng một từ tối tân và đầy chất hiện đại: kawaii, một tính từ được dùng từ
xa xưa để biểu đạt tình cảm quý mến dành cho trẻ nhỏ hoặc những gì xinh xắn, có
vẻ ngoài đáng yêu và có thần thái dễ thương, trong sáng. Tuy nhiên, ngày nay, nó
đã được dùng rộng rãi trong những hoàn cảnh khác nhau, tựu trung lại là vẻ đẹp
đáng yêu, một kiểu mĩ học thường thấy trong manga (truyện tranh), anime (phim
hoạt hình). Ngày nay, nó trở thành câu nói cửa miệng của các teen Nhật để nói về
những thứ mình thích hay khen một cái gì đó hay.” [189]
Về mặt từ ngữ, kawaii (かわいい) viết theo kí tự Kanji là khả ái (可愛い).
Nó bắt nguồn từ cụm từ kao tsukushi, nghĩa là khuôn mặt rạng rỡ. Kawaii có hàm ý
33
nói về cảm giác giống – như – trẻ - con, bao gồm cảm giác ấm áp, được che chở; kết
nối với thời thơ ấu của một con người. Thời thơ ấu gắn liền với vẻ đẹp sơ khai và sự
tự do, trong sáng. Một thứ cảm xúc được coi là kawaii thì thứ đó phải gây một tác
động thị giác mạnh mẽ và tạo cho người nói một cảm xúc tích cực. Kawaii khá gần
với khái niệm cute hay lovely của tiếng Anh, nhưng lại không hoàn toàn trùng khít
với các khái niệm ấy. Dù Hán tự của từ ngữ này là Khả ái nhưng người Nhật lại
thích viết bằng chữ Hiragana hơn (vì chữ Hiragana tạo sự mềm mại và có nguồn
gốc bản địa). Điều đó gợi nên nội hàm kawaii có ý nghĩa nội sinh, là một đặc điểm
gắn liền với mĩ cảm riêng của xứ sở anh đào. Kawaii gắn liền với tính chất nhỏ
nhắn, xinh xắn. Nó có xu hướng nói đến những gì mềm mại, tròn, những màu sắc
thanh nhã (màu hồng hoặc màu nhạt), gắn liền với sự mong manh, nữ tính. Ở Nhật
Bản, những nhân vật hoạt hình ma quỷ xấu xí và nhỏ nhắn, mèo Kitty, ngôi sao
nhạc nhẹ, những bé con ... đều có thể được gắn với từ kawaii. Kawaii còn đang tạo
cho riêng mình một hệ thống ngôn ngữ kèm theo: kimokawaii (từ ghép giữa
kimochiwarui – xấu xa, nổi dậy và kawaii để chỉ những nhân vật hoạt hình ma quỷ
vừa xấu xí lại vừa kháu. Chính vì vậy, kawaii không thể dịch hoàn toàn sang ngôn ngữ
khác được, nhất là ngôn ngữ phương Tây. Người ta chỉ có thể tìm thấy khi tra kawaii
trong tự điển các từ mà bản thân chúng cũng mâu thuẫn lẫn nhau: kháu, quan trọng,
xinh, đẹp... Kawaii được hiểu như một phạm trù thẩm mĩ rất riêng của người Nhật,
không đồng nhất với các khái niệm của phương Tây hoặc của một đất nước nào.
Theo nhà xã hội học Sharon Kinsella, trong quyển Những nét đáng yêu ở
Nhật Bản, “dễ thương, về bản chất, là giống trẻ con, bao gồm ngọt ngào, đáng yêu,
ngây thơ, đơn giản, thành thật, yếu ớt và thiếu từng trải về các hành vi xã hội cũng như
thể chất” [143, 220]. Nói chung, đó là tính cách như trẻ con và mong manh, nhẹ nhàng
trong cảm xúc của người đối diện. Kinsella chỉ ra rằng, những ước mơ mãnh liệt của
giới trẻ Nhật Bản, được bao bọc trong văn hóa dễ thương, là vượt thoát khỏi những
điều khắt khe ảnh hưởng đến cuộc sống của họ như chủ nghĩa khắc kỉ, trách nhiệm,
chịu đựng những điều kiện khắc nghiệt, làm việc cật lực, và những nghĩa vụ...
Trong xã hội hiện đại, từ kawaii được dùng như một thuật ngữ mang xu
hướng đặc trưng nhất cho văn hóa Nhật, được phản ánh trong các khía cạnh của xã
34
hội như trang phục, ẩm thực, vật phẩm, lễ nghi, hành vi ứng xử Theo Kan
Satoko, kawaii không chỉ tạo ra một kiểu văn hóa của những người trẻ sinh sau thập
niên 70 (thường là nữ) mà còn ảnh hưởng đến nội tâm, hành vi, lối sống của họ.
Nghĩa từ điển của Kawaii là “cảm giác được bảo vệ cho ai đó yếu hơn mình, nhỏ bé
hơn mình và mong muốn sẽ mang đến cho họ những điều kiện tốt hơn” [142, 200].
Tuy nhiên, người Nhật ngày nay, nhất là phụ nữ, sử dụng từ ngữ này với ý nghĩa
rộng hơn. Ví dụ, sinh viên trong trường Đại học Ochanomizu nơi bà đang dạy sẽ nói
câu “Teacher so and so kawaii” [Cô giáo thật là dễ thương] ít nhất một lần. Hơn
thế, họ còn nói câu này với cả những thầy giáo có tuổi, trong khi trước đó (về nguồn
gốc), từ này không dành cho người lớn tuổi và nam giới mà chỉ dành cho những
người nhỏ hơn và yếu ớt hơn. Vậy, điều gì làm thay đổi nghĩa của từ kawaii? Theo
Kan là do văn hóa nữ giới (onna no ko bunka / girl‟s culture). Sau năm 70, trào lưu
shoujo manga ra đời, chia làm hai dòng: những tác giả manga như Moto Hagio,
Keiko Takemiya, và Ryoko Yamagishi, những người được gọi là “24nengumi” vì
họ sinh ra vào thời Showa năm thứ 24 (1949). Đây là dòng hàn lâm. Tuy nhiên còn
có một dòng khác rất liên quan đến thuật ngữ kawaii, được khai phá bởi các tác giả
manga như Ako Mutsu, Yumiko Tabuchi, và Hideko Tachikake. Theo Hideshi
Otsuka, những tác phẩm của họ có thể gọi là otomechikko manga hay maiden‟s
manga, vì nó được viết bởi những tác giả nữ trẻ, và vì khái niệm kawaii được dành
để nói những cô gái trẻ ở Nhật Bản. Nhân vật nữ chính trong các tác phẩm manga
này thường nhút nhát, bình thường, không có sự thông minh gì đặc biệt. Họ không
đẹp, nhưng lại trông rất cute (dễ thương), không chỉ bên ngoài mà còn cả đời sống
bên trong và những suy nghĩ cũng rất cute. Otomechikku manga là thể loại manga
giúp cho phái nữ nuôi dưỡng sự tự tin về bản thân mình. Họ có thể sống theo cách
riêng của mình. Nói cách khác, họ không cần phải quá nổi bật, họ chỉ là chính họ và
không cần phải cố gắng để tốt hơn chính mình của hiện tại. “Bởi vì sự không hoàn
hảo mà bạn mới thật dễ thương.” [142, 201]
Tóm lại, kawaii là khái niệm mà ban đầu được dùng với ý nghĩa chỉ những gì
liên quan đến trẻ con hoặc chỉ vẻ đẹp của những sự vật nhỏ nhắn. Giờ đây, khái
35
niệm này ngày càng trở nên phổ biến rộng rãi trong mọi lĩnh vực của đời sống, từ
chữ viết, quần áo, thực phẩm, thời trang đến cả những ý nghĩ, quan điểm sống và
tín ngưỡng. Trong văn hóa Nhật Bản đương đại, kawaii được xem là hệ giá trị có
mối liên quan đặc biệt đến văn hóa đại chúng nói chung và văn hóa shoujo (văn hóa
thiếu nữ) nói riêng vốn rất phổ biến ở xã hội Nhật Bản đương đại. Trong mĩ học,
kawaii được xem là một khái niệm thẩm mĩ, được đặt trên cùng một trục đường
thẳng với mono no aware, yugen, wabi, sabi Thực tế, nó không mâu thuẫn với
các khái niệm mĩ học truyền thống, bởi đó đều là cảm xúc về cái đẹp, nhất là cảm
giác khó diễn tả bằng lời, trải nghiệm niềm vui từ những điều nhỏ nhặt, tinh tế.
2.2. Kawaii trong dòng riêng Nhật Bản
2.2.1. Những biểu đạt của kawaii trong đời sống văn hóa
Văn hóa kawaii ghi dấu trong các lĩnh vực nghệ thuật truyền thống Nhật
Bản. Những con thú nhồi bông đáng yêu được tạo ra bởi sự đan móc trong nghệ
thuật đan len Amigurumi. Những hình thú ngộ nghĩnh nhưng vô cùng tinh tế, kĩ
thuật được tạo ra từ nghệ thuật xếp giấy Origami, Kirigami. Những chiếc bình hoa
được cắm theo phong cách tối giản xinh xắn, dễ thương được tạo ra từ nghệ thuật
cắm hoa... Trong nghệ thuật Trà đạo, trong ẩm thực, người Nhật ghi dấu ấn đậm nét
với phong cách tinh tế, không lạm dụng quá nhiều gia vị mà chú trọng làm nổi bật
hương vị tươi ngon, tinh khiết, tự nhiên. Hương vị các món ăn Nhật thường thanh tao,
nhẹ nhàng và phù hợp thiên nhiên từng mùa. Đó chính là tinh thần của kawaii. Ngoài ra
kawaii cũng thể hiện trên hình thức trình bày những món ăn. Chúng ta có thể lấy ví dụ
là món bánh Wagashi, loại bánh đặc trưng cho phong cách ẩm thực sang trọng và tinh
tế bậc nhất của người Nhật. Bánh được tạo hình phỏng theo dáng các loài thực vật. Các
cánh hoa thường có hình dạng tròn, tạo hình mềm mại, tông màu pastel – là những
màu tạo cảm giác dịu mát, ấm áp, tạo cảm giác nhẹ nhàng, thanh khiết.
Kawaii trong ẩm thực của người Nhật còn được thể hiện ngay cả trong
những hộp cơm đầy màu sắc, công phu mà người đi học, đi làm hay mang theo để
ăn trưa vô cùng thuận tiện. Một hộp cơm Bento (thuận tiện) thường gồm cơm, cá,
thịt, rau củ, được sắp xếp và trang trí theo các hình ảnh đáng yêu, tinh nghịch như
36
các con vật, các nhân vật hoạt hình, các cô bé, cậu bé... Việc làm cho hộp cơm đáng
yêu, ngộ nghĩnh như thế không chỉ có tính giải trí, vui mắt, mà còn là cả một sự
sáng tạo, cả những tâm hồn lạc quan, thêm vào cho mỗi bữa ăn sự tươi mới, sống
động. Nó thể hiện nhu cầu tinh thần rất quan trọng của người dân Nhật Bản hiện đại
trước những áp lực ngày một lớn của đời sống công nghiệp và sự chênh chao của
các giá trị.
Kawaii cũng trở thành phong cách mới cho những làn sóng giải trí hàng đầu
như âm nhạc, thời trang và phim ảnh. Trong lĩnh vực thời trang, nữ sinh Nhật Bản
được biết đến nhiều với trang phục là chiếc váy ngắn, đôi bốt cao kết hợp với chiếc
áo khoác sáng màu, nhẹ nhàng và những phụ kiện dễ thương. Cách trang điểm cũng
được xem như là đặc trưng của phong cách thời trang này: lông mi dài, dày, cong;
kẻ mắt làm cho đôi mắt to, tròn; tóc uốn nhẹ nhàng hoặc để tự nhiên. Một trong
những phong cách thời trang mà thế giới biết nhiều về Nhật Bản đó là Lolita. Thời
trang Lolita được kết hợp cùng những cá tính riêng của mỗi người, làm nên hình
tượng như những con búp bê dễ thương, ngây thơ, xinh xắn với những chiếc váy
xòe bồng bềnh nhiều lớp vải, được trang trí thêm bằng ren ruy băng, nơ, tạp dề hay
những chiếc ô nhỏ xinh.
Trong lĩnh vực âm nhạc, rất nhiều những ngôi sao ca nhạc theo đuổi phong
cách đáng yêu, trong sáng, ngây thơ, thể hiện qua trang phục, qua phong cách biểu
diễn cũng như các ca khúc của họ như nhóm nhạc Morning Musume, AKB48,
Momoiro Clover Z... Họ trở thành thần tượng của giới trẻ và có sự ảnh hưởng
không nhỏ đến đời sống tinh thần của những người trẻ này. J-pop (tên gọi tắt của
nhạc pop Nhật Bản) đã nổi tiếng từ nhiều năm qua nhưng chỉ trong giới hạn châu Á.
Những thông tin trên cũng làm người ta nghĩ đến nghệ thuật làm búp bê của
Nhật Bản. Đa phần búp bê của Nhật đều nhỏ nhắn, đáng yêu, phong cách thân thiện
(chứ không theo phong cách sang trọng, quý phái như búp bê phương Tây). Trong
đó, búp bê Daruma có hình dáng phỏng theo dung mạo của thiền sư Bồ Đề Đạt Ma,
người sáng lập ra Thiền tông, có ý nghĩa tâm linh đặc biệt. Loại búp bê này thường
làm bằng gỗ, hình tròn, sơn đỏ, không có chân tay, khuôn mặt có mắt trống rỗng và
37
có ria mép lớn màu đen. Trong tư thế ngồi thiền, hai chân bắt chéo lên nhau, hai tay
xếp sát vào thân, trước bụng viết chữ “Phước”, “Cự Phước”... được nhũ vàng.
Daruma tượng trưng cho sự may mắn, thường dùng để làm quà tặng với mong
muốn cầu chúc an lành, bình phục sức khỏe. Sự xuất hiện của búp bê Daruma vào
khoảng năm 1700 được xem như biểu trưng của văn hóa kawaii thời kì trước.
Văn hóa kawaii còn xuất hiện qua những vật dụng phục sức thường ngày, đánh
dấu sự phát triển ngành thủ công mĩ nghệ của người Nhật. Một trong số đó là Netsuke
(根付), là những đồ vật chạm khắc nhỏ, được phát minh ở Nhật Bản khoảng thế kỉ
XVII, thời Edo (khoảng năm 1615 – 1868), đến ngày nay vẫn được lưu giữ như một
nét đẹp văn hóa đặc trưng của Nhật Bản. Netsuke ra đời để phục vụ một nhu cầu
thiết thực, đó như là một cái túi rời gắn vào trang phục kosode và kimono (vốn
không có túi), để mang theo những vật dụng cá nhân như tẩu thuốc, thuốc lá, con
dấu, tiền bạc, thuốc men... Đó có thể là một cái túi, một cái giỏ nhỏ, nhưng phổ biến
nhất là một cái hộp thủ công mĩ nghệ (inro), được treo vào dải thắt lưng của áo
thụng bằng một sợi dây nhỏ. Các hộp này được điêu khắc, chạm trổ rất tinh xảo,
hình dáng đa dạng (hình người, ngành nghề, loài vật, cây cỏ...), nhưng điểm chung
của chúng là nhỏ gọn, sinh động, hài hòa, tạo cảm giác thoải mái và ưa thích cho
người sử dụng.
Kawaii ảnh hưởng hầu hết trong các lĩnh vực của đời sống kinh tế, văn hóa
xã hội của Nhật Bản, một đất nước tự tin vững bước với sự độc tôn đặc biệt của
riêng mình. Hình ảnh những con vật đáng yêu được trang trí trên các hàng rào, biển
báo đến các phương tiện giao thông như ô tô, máy bay... trở thành biểu tượng của
các thành phố, các tổ chức văn hóa hay kênh truyền hình. Phụ nữ cũng lựa chọn cho
mình những trang phục làm nổi bật sự dễ thương, mang kiểu dáng của trẻ nhỏ,
những màu sắc tươi sáng, ấm áp, có thể kết hợp các phụ kiện như đồ chơi, túi...
Không chỉ phụ nữ mà ngay cả nam giới cũng tham gia xu hướng này. Họ có thể hóa
trang thành các nhân vật trong truyện tranh hay hoạt hình để phục vụ cho các
chương trình giải trí. Sở Cảnh sát Tokyo có hình đại diện là Pi-Po Chan, một chú
chuột hoạt hình, được thể hiện trên chính bộ Cảnh phục. Người nước ngoài nhìn vào
38
có thể cho rằng cảnh sát Tokyo không nghiêm túc, nhưng người Nhật lại nghĩ Pi-Po
Chan giúp họ gần với các anh cảnh sát nghiêm nghị hơn, vì cảnh sát không phải để
đe dân, mà là người giữ an bình, hòa đồng xã hội và củng cố trật tự, gần gũi và đáng
yêu trong mắt người dân. Khi mở tài khoản trong một ngân hàng Nhật Bản, khách
sẽ được mời lựa chọn những mẫu thẻ tín dụng và sổ ngân hàng in hoạt hình rất độc
đáo, từ Hello Kitty, Doraemon đến Pokemon. Cùng với thiết kế thẻ mới chọn,
khách sẽ được tặng một chiếc khăn lông to bự hay một giỏ đi chơi rất dễ thương
mang cùng hình nhân vật trên thẻ để sưu tập. Hãng Hàng không quốc gia Nhật Bản
thì cho sơn hình Pikachu cười toe toét, màu vàng chói lọi trên thân những chiếc máy
bay Boeing 747. Đây là cách họ tách biệt mình ra khỏi những biểu tượng cao sang
nhưng dễ nhầm lẫn của các hãng hàng không khác.
Kawaii cũng được thể hiện trong các lễ hội văn hóa truyền thống của người
Nhật. Lễ hội Tango no Sekku (端午の節句) được biết đến như ngày của các bé trai
và Hinamatsuri là ngày của các bé gái, sau đó đã được gộp lại và lấy ngày mùng 5
tháng 5 gọi chung là Ngày của trẻ em (こどもの日), nhằm thể hiện sự tôn trọng
nhân cách của trẻ em và chào mừng hạnh phúc của chúng. Vào ngày này, các gia
đình sẽ treo các lá cờ dạng cá chép koinobori. Các gia đình cũng bày một búp
bê Kintarō thường cưỡi trên một con cá chép lớn, và chiếc mũ giáp quân đội truyền
thống của Nhật Bản, kabuto, do truyền thống của họ như là biểu tượng sức mạnh và
sức sống. Theo truyền thống Nhật Bản, người ta (đặc biệt là trẻ em) sẽ ăn bánh
giầy mochi (bánh nhân mứt đậu đỏ), được gói trong lá kashiwa (sồi), gọi là
kashiwa-mochi và chimaki (một kiểu “mứt gạo nếp”, gói trong lá diên vĩ hoặc lá
tre). Từ những chú cá koi đến búp bê Kintarō, chiếc mũ kabuto hay món bánh
mochi đều toát lên tinh thần của kawaii.
Trong văn hóa tâm linh, người Nhật đặc biệt dành sự kính ngưỡng cho thần
Jizo (Địa Tạng Bồ Tát), người Nhật gọi là Jizo Bosatsu hay O-Jizo-Sama, Jizo-san,
vị thần bảo hộ trẻ em ở thế giới bên kia. Hình tượng Jizo được kế thừa từ Phật giáo,
nhưng khi đến với Nhật Bản, lại được sáng tạo phù hợp với những đặc trưng riêng
trong cách tri nhận thẩm mĩ của họ. Đa phần tượng Jizo ở Nhật Bản đều có kích
39
thước nhỏ, mang một khuôn mặt trẻ thơ, rất đáng yêu, mặc quần áo và mang yếm
của trẻ nhỏ. Jizo được xem như là vị cứu tinh xoa dịu những đau khổ, che chở
những đứa trẻ ở thế giới bên kia, và đáp lại lời cầu nguyện sức khỏe cũng như thành
công cho những người đang sống.
2.2.2. Những dấu vết của kawaii từ mĩ học truyền thống
Văn học Nhật Bản có một mô hình phát triển khá đặc biệt: thu nhận tất cả và
không loại bỏ gì hết: haiku không xóa bỏ waka, kabuki không thay thế Noh và
Kyogen. Không có sự xung đột một mất một còn giữa cái cũ và cái mới. Do đó,
những khái niệm thẩm mĩ của người Nhật thuở trước vẫn còn cho đến ngày nay:
mono no aware thời Heian, yugen thời Kamakura, wabi và sabi thời Muromachi, iki
thời Tokugawa... Vậy, mối liên hệ giữa kawaii với những thẩm mĩ truyền thống ra
sao? Giữa chúng, là một sự đứt gãy hay là sự tiếp biến?
Người Nhật ở từng thời kì, do sự chi phối của hoàn cảnh lịch sử, sẽ có những
tình cảm thẩm mĩ khác nhau. Cảm thức thẩm mĩ chủ đạo thời Heian là mono no
aware ((物の哀れ - bi cảm nhân sinh) và miyabi (雅 - nhã). Aware (mono no
aware) được hiểu là nỗi buồn sự vật / “vật ai”, là cảm xúc xao xuyến, bâng khuâng,
luyến tiếc trước vẻ đẹp luôn biến đổi của sự vật (thiên nhiên và con người). Miaybi
là sự tinh tế, tao nhã trong mối quan hệ con người - thiên nhiên, biểu hiện chủ yếu là
ở thái độ ngưỡng vọng, nâng niu những tạo vật mong manh, nhỏ bé. Hai thẩm mĩ
này nói về mối quan hệ ứng xử giữa con người với... đâu trên đất nước Nhật cũng thấy dấu ấn của kawaii in rõ nét. Từ
những món ăn trong bữa cơm, những thức bánh trong lễ hội, trang phục hàng ngày, quà
145
tặng, cuốn truyện tranh, âm nhạc, cắm hoa, ... cho đến những biển báo giao thông, hàng
rào, cửa hiệu... Nó không chỉ thúc đẩy sự phát triển của các loại dịch vụ, thương mại
của đất nước mà còn là cơ hội để thể hiện nhiều khía cạnh của xứ sở này ở tầng sâu
như văn học.
2. Y. Banana đã trở thành một cây bút tiên phong chất lượng hàng đầu trong
việc “mã hóa” thành công thẩm mĩ kawaii vào văn học. Vừa kế thừa dòng chảy
thẩm mĩ truyền thống Nhật Bản như mono no aware, miyabi, yugen, sabi, wabi...,
vừa tắm đẫm trong bầu không khí của văn hóa đại chúng, nhất là mối quan tâm và
ảnh hưởng rất lớn từ shoujo manga, tác giả Y. Banana có cơ hội được gieo trên
mảnh đất của mình một thế giới tươi mới mà sự neo đậu của chúng không gì khác
hơn ngoài sự hài hòa và triết lí đề cao tình yêu thương của văn học muôn đời. Trong
không gian mới (xã hội đương đại), văn học cũng như các hình thái ý thức xã hội
khác, đã mở rộng biên độ khi tiếp thu và sáng tạo tất cả những nét độc đáo của văn
hóa, mĩ học và các loại hình nghệ thuật khác nhau để phát triển, xây dựng những
phong cách mới, những diện mạo mới. Văn học Nhật Bản, trong một “tạo hình” mới
mang dáng dấp của phương Tây được cho là quá “lai Mĩ”, đánh mất vẻ đẹp của văn
học Nhật Bản truyền thống, chịu ảnh hưởng của văn hóa đương đại (văn hóa đại
chúng – mass culture, văn hóa phổ biến – pop culture), những cây bút trẻ đầy năng
lượng trong đó có Y. Banana, đã cống hiến với con đường nghệ thuật riêng biệt.
Con đường nghệ thuật ấy của Y. Banana mang đậm dấu ấn của một quan niệm thẩm
mĩ mới – kawaii. Y. Banana đã tạo ra một dấu nối tương đương từ mã đặc thù của
kawaii như một tinh thần chủ đạo của văn hóa đại chúng lẫn kawaii như là kết quả
của nguồn mạch thẩm mĩ truyền thống vẫn chảy trong tâm hồn người dân Nhật Bản.
Nhưng không dừng lại với cấp độ mô phỏng hay minh họa, Y. Banana đã sáng tạo
chúng trong văn chương để đem đến những giá trị đẹp cho con người đương đại.
Kawaii là thẩm mĩ gắn liền với vẻ đẹp nhỏ nhắn, xinh xắn, đáng yêu, tạo cho con
người một cảm xúc tích cực, lạc quan, kiên cường. Cho dù đời sống tinh thần của cả
một thế hệ trẻ Nhật Bản đang dần kiệt quệ, những nỗi đau tinh thần đã làm thay đổi
cuộc đời con người ghê gớm, nhưng hệ giá trị mà kawaii mang lại, sức mạnh của
146
tình cảm giữa con người với con người, tình bạn, tình cảm gia đình hay tình yêu
trong sáng và thuần khiết... sẽ là điểm tựa vững chắc cho mỗi con người. Bằng cách
đó, mỗi sáng tác của Y. Banana mang lại cho người đọc những nhận thức mới mẻ
về những điều tưởng đã cũ: gia đình, tình yêu, hôn nhân, tình bạn... Đó là cái nhìn
đầy bao dung với con người vượt qua cả những giới hạn đạo đức vốn có. Chính
những quan niệm mới mẻ bắt nguồn từ sự nhạy cảm và tình yêu thương con người
của Y. Banana là một trong nhiều lý do khiến tác phẩm của cô thành công đến vậy.
Đó không phải là quá trình đổi mới tư duy nghệ thuật một cách tùy tiện, bẻ gãy
truyền thống hay bê nguyên si những gì đã tiếp thu được mà là cả một con đường
sáng tạo vừa năng động, vừa không tách rời khỏi tâm thức mĩ học truyền thống.
Phong cách của Y. Banana có sự kết hợp giữa truyền thống – những rung cảm tinh
tế của tâm hồn con người với tinh thần hiện đại – văn hóa đại chúng, giữa những
giá trị cũ và mới, tất cả hòa quyện trong những sáng tạo nghệ thuật tuyệt vời. Đọc
tác phẩm của Y. Banana cũng như ta đang bước đi trong cuộc sống để khám phá nó,
giống như ý nghĩa của Amrita: Sống như uống lấy từng giọt nước thánh .
3. Với thẩm mĩ kawaii, Y. Banana đã góp vào một tiếng nói mới mẻ trong
cách lựa chọn cái thẩm mĩ của cộng đồng. Y. Banana là người tiếp thụ và đứng giữa
những dấu ấn của văn học tinh hoa với văn học đại chúng. Sự lên ngôi và thăng hoa
của thẩm mĩ kawaii trong thời kì này có ý nghĩa lớn đối với con người đương đại,
như là điểm tựa cho họ nương vào trước nhiều con sóng dữ của thời đại: nền văn
minh kĩ trị, sự phát triển vũ bão của khoa học kĩ thuật kéo theo sự thơ ơ lạnh nhạt
trong đời sống tâm hồn, tình cảm, dư âm của chiến tranh, những bất an và biến cố
vô thường của đời sống... Con người hơn lúc nào hết muốn vươn tới vẻ đẹp thánh
thiện để rời xa những xấu xí của cuộc sống. Luận án đã từng bước làm rõ những
biểu đạt phong phú và sâu sắc của thẩm mĩ kawaii trong sáng tác của Y. Banana,
qua đời sống của các nhân vật, qua vẻ ngoài, qua tính cách, tâm hồn, qua sở thích và
vùng thẩm mĩ của các nhân vật, qua thế giới mà họ sống với các dạng thức của
không gian, thời gian... Tất cả thường gắn với thiên hướng nữ tính, dễ thương, trong
sáng, nhẹ nhàng, nhỏ nhắn, chẳng với những điều giản dị nhưng mát lành, ấm áp
147
trong cuộc sống.... Qua những nhân vật đáng yêu như thế, không gian, thời gian
cũng trở nên tươi sáng hơn, nên thơ hơn và đáng trân trọng, nâng niu hơn. Kawaii
trở thành linh hồn cho mọi cái nhìn về cảnh, về người. Y. Banana viết về những
người trẻ tuổi, đi sâu vào thế giới nội tâm của nhân vật nhưng chú ý đặc biệt ở
những biểu cảm nhẹ nhàng, tinh tế, ở cái ấm áp của mối quan hệ giữa con người với
nhau, trân trọng những điều mong manh trong cuộc sống, hàn gắn những vết thương
tinh thần và phát triển khái niệm gia đình.
Dưới ánh sáng thẩm mĩ kawaii, Y. Banana đã gửi tới con người thông điệp
để con người trở nên thánh thiện hơn. Cảm quan sống của các nhân vật trong sáng
tác của Banana với toàn bộ thế giới xung quanh thật giản đơn, khiến người đọc có
cảm giác cuộc sống đơn giản chỉ là như thế, không có gì ngoài thế. Cuộc sống vì thế
mà cũng hiện lên giản đơn trong sáng đẹp đẽ, dù con người và sự việc có thực sự
đẹp đẽ, tươi vui hay đầy rẫy nỗi đau chăng nữa. Hơn thế nữa, Y. Banana đã “nâng
cấp” kawaii thành một khái niệm thẩm mĩ chứ không chỉ là một biểu hiện của văn
hóa đại chúng. Trong cuộc thể nghiệm văn chương này, Y. Banana đã tìm kiếm
những màu sắc riêng cho mình. Trong tư cách hai vai: người thụ hưởng không gian
văn hóa kawaii và người tiếp biến, phát triển nó vào trong văn chương để đem đến
một hiệu quả mới cho khái niệm này, Y. Banana đã làm tốt trong việc thể hiện cả
hai điều đó một cách thật nhuần nhuyễn trên từng trang viết. Sáng tác của Y.
Banana là những câu chuyện về cái đẹp. Cái đẹp luôn choán chỗ trong mọi cái nhìn,
trong cảm thức về thực tại của các nhân vật của Y. Banana. Nhưng đó là cái đẹp
trong dáng vẻ hiện đại của nó và trong cảm thức hiện đại về nó, mong manh đầy bất
trắc nhưng đáng yêu và đáng trân trọng. Có nhiều con đường khác nhau để tiếp cận
thế giới nghệ thuật của một nhà văn. Với những sáng tác của Y. Banana, đặt trong
từ trường của vùng thẩm mĩ kawaii, bỗng trở nên xác hợp đến lạ, bởi đó chính là
môi trường đã nuôi lớn một tác giả đương đại như Y. Banana – người đã hấp thụ
thẩm mĩ kawaii trong sự lan tỏa của văn hóa đại chúng mà shoujo manga là một ví
dụ. Y. Banana đã để lại dấu ấn với những tác phẩm mang đặc điểm của văn chương
hiện đại, không chú ý quá nhiều vào những đại tự sự, cũng không chú ý đến những
148
sự kiện, biến cố, mà quan tâm đến phản ứng của con người trước những biến cố.
Sinh ra và lớn lên trong môi trường của kawaii, giờ đây, trong vai người sáng tạo,
Y. Banana đã tiếp thu những điều mình thụ hưởng để tạo ra một phong vị mới cho
mảnh đất văn chương của mình.
149
DANH MỤC CÁC CÔNG TRÌNH NGHIÊN CỨU
CỦA TÁC GIẢ ĐÃ CÔNG BỐ
1. Nguyễn Thị Huỳnh Trang (2017), Sáng tác của Yoshimoto Banana từ góc
nhìn Phê bình sinh thái, Kỷ yếu Hội thảo quốc tế Phê bình sinh thái: tiếng nói
bản địa, tiếng nói toàn cầu, MXB. Khoa học xã hội
2. Nguyễn Thị Huỳnh Trang (2018), Tiểu thuyết của Yoshimoto Banana và Shoujo
manga từ góc nhìn so sánh thể loại, Tạp chí Nghiên cứu Văn học, số 07
3. Nguyễn Thị Huỳnh Trang (2020), Sự độc đáo của Yoshimoto Banana qua
thẩm mĩ Kawaii, Tạp chí Nghiên cứu Văn học, số 04
150
TÀI LIỆU THAM KHẢO
A- TIẾNG VIỆT
1. Andrew Juniper (2003), Wabi Sabi Nghệ thuật Nhật Bản về lẽ vô thường, NXB.
Turtle, Hoa Kì, Mai Liên dịch
2. Aninik Howa Gendrot (2003), Nghệ thuật cắm hoa Nhật Bản, NXB. Đà Nẵng
3. Đào Tuấn Ảnh, Lại Nguyên Ân, Nguyễn Thị Hoài Thanh (2004), Văn học hậu
hiện đại thế giới – Những vấn đề lí thuyết, NXB. Hội Nhà văn, Trung tâm Văn hóa
Ngôn ngữ Đông Tây
4. Trần Lê Bảo (2012), Giáo trình văn hóa phương Đông, NXB. Đại học Sư phạm,
Hà Nội
5. Lê Huy Bắc (2006), Nghệ thuật Franz Kafka, NXB. Giáo dục, Hà Nội
6. Roland Barthes (1997), Độ không của lối viết, Nguyên Ngọc dịch và giới thiệu,
NXB. Hội nhà văn, Hà Nội
7. Roland Barthes (2008), Những huyền thoại, Phùng Văn Tửu dịch, NXB. Tri thức,
Hà Nội
8. Ruth Benedict (2016), Hoa cúc và gươm – Những mẫu hình văn hóa Nhật Bản,
NXB. Hồng Đức, Hà Nội
9. Chieko Hosokawa & Fumin (2001), Trở lại Cairo – Nữ hoàng Ai Cập (tập 9),
NXB. Kim Đồng
10. Carl Gustav Jung (2007), Thăm dò tiềm thức, NXB. Tri thức, Hà Nội
11. Nhật Chiêu (2001), “Genji Monogatari, kiệt tác của văn học Nhật Bản”, Tạp
chí văn học, số 11, Hà Nội
12. Nhật Chiêu (2003), Văn học Nhật Bản từ khởi thủy đến 1868, NXB. Giáo dục,
Quy Nhơn
13. Nhật Chiêu (2003), Nhật Bản trong chiếc gương soi, NXB. Giáo dục, Đà Nẵng
14. Đào Ngọc Chương (2003), Thi pháp tiểu thuyết và thi pháp tiểu thuyết
Hemingway, NXB. Đại học quốc gia TP. HCM
15. Đào Ngọc Chương (2008), Phê bình huyền thoại, NXB. Đại học quốc gia TP.
HCM
151
16. Đào Ngọc Chương (2010), Truyện ngắn dưới ánh sáng so sánh, NXB. Văn hóa
thông tin, 2010
17. Nguyễn Văn Dân (2004), Phương pháp luận nghiên cứu văn học, NXB. Khoa
học xã hội, Hà Nội
18. Nguyễn Văn Dân (2011), Lý luận văn học so sánh, NXB. Khoa học xã hội, Hà Nội
19. Trương Đăng Dung (1998), Từ văn bản đến tác phẩm văn học, NXB. Khoa học
xã hội, HN
20. Daniel Grojnowski (1993), Đọc truyện ngắn, Trần Hinh – Phùng Kiên dịch
(2017), NXB. Hội nhà văn, Hà Nội
21. Đặng Anh Đào (1995), Đổi mới nghệ thuật tiểu thuyết phương Tây hiện đại,
NXB. Giáo dục, Hà Nội
22. Trịnh Bá Đĩnh (2017), Từ kí hiệu đến biểu tượng, NXB. Khoa học Xã hội
23. Hà Minh Đức (1997), Lí luận văn học, NXB. Giáo dục, Hà Nội
24. E. M. Meletinsky (2004), Thi pháp của huyển thoại, NXB. Đại học quốc gia Hà
Nội
25. Sigmund Freud (2002), Phân tâm học nhập môn, NXB. ĐHQG HN, H
26. Erich Fromm (2003), Ngôn ngữ bị lãng quên, NXB. Văn hóa thông tin, Hà Nội
27. Fujiko. F. Fujio (1994), Đôrêmon (Doraemon), NXB. Kim Đồng, Hà Nội
28. G. N. Pospelov (1985), Dẫn luận nghiên cứu văn học, NXB. Giáo dục, Hà Nội
29. Đoàn Lê Giang (1997), “So sánh quan niệm trong văn học cổ điển Việt Nam và
Nhật Bản”, Tạp chí Văn học, số 9, Hà Nội
30. Đoàn Lê Giang (1998), “Sự ra đời của từ văn học và quan niệm mới về văn học
ở các nước Việt Nam, Trung Quốc, Nhật Bản”, Tạp chí Văn học, số 6, HN
31. J. F. Lyotard (2007), Hoàn cảnh hậu hiện đại, NXB. Tri thức, Hà Nội
32. Hans Robert Jauss (1921), Lịch sử văn học như là sự khiêu khích, Trương Đăng
Dung dịch và giới thiệu, Tạp chí Văn học nước ngoài, số 1/ 2002
33. Hasebe Heikichi (1997), Văn hóa và văn học Nhật Bản – đặc điểm chung và sự
tiếp nhận dưới góc độ cá nhân, Luận án Phó Tiến sĩ Khoa học Ngữ văn, Viện Văn
học, Hà Nội
152
34. Haruki Murakami (2005), Rừng Na-Uy, Trịnh Lữ dịch, NXB. Hội Nhà văn, Hà Nội
35. Haruki Murakami (2007), Kafka bên bờ biển, Dương Tường dịch, NXB. Văn học
36. Haruki Murakami (2008), Biên niên kí chim vặn dây cót, Trần Tiễn Cao Đăng
dịch, NXB. Hội Nhà văn
37. Lê Bá Hán, Trần Đình Sử, Nguyễn Khắc Phi (đồng chủ biên) (2006), Từ điển
thuật ngữ văn học, NXB. Giáo dục, Hà Nội
38. Đào Thị Thu Hằng (2006), Nghệ thuật kể chuyện trong tác phẩm Yasunari
Kawabata, Luận án Tiến sĩ, Viện Văn học, Hà Nội
39. Đào Thị Thu Hằng (2007), Văn hóa Nhật Bản và Yasunari Kawabata, NXB.
Giáo dục, Hà Nội
40. Hê-ghen (1999), Mỹ học, Phan Ngọc giới thiệu và dịch, tập 1, NXB. Văn học
41. Đào Duy Hiệp (2008), Phê bình văn học từ lý thuyết hiện đại, NXB. Giáo dục,
Hà Nội
42. Lưu Hiệp (1999), Văn tâm điêu long, Phan Ngọc dịch, NXB. Văn học
43. Đỗ Đức Hiểu (2000), Thi pháp hiện đại, NXB. Hội nhà văn, Hà Nội
44. Hoàng Thị Minh Hoa (2005), “Nhật Bản sau chiến tranh thế giới thứ hai dưới
góc độ đặc thù dân tộc”, Tạp chí Nghiên cứu Nhật Bản và Đông Bắc Á, số 3
45. Nguyễn Thái Hòa (2000), Những vấn đề thi pháp của truyện, NXB. Giáo dục,
Hà Nội
46. Lê Phụng Hoàng (chủ biên) (2006), Lịch sử văn minh thế giới, NXB. Giáo dục,
Hà Nội
47. Nguyễn Thị Từ Huy (2009), Alain Robbe – Grillet: Sự thật và diễn giải, NXB.
Hội nhà văn, Hà Nội
48. Immanuel Kant (2007), Phê phán năng lực phán đoán, Bùi Văn Nam Sơn dịch
và chú giải, NXB. Tri Thức, Hà Nội
49. James George Frazer (2007), Cành vàng, Ngô Bình Lâm dịch, NXB. Văn hóa
thông tin, Hà Nội
50. Jean Chevalier, Alain Gheerbrand (2002), Từ điển biểu tượng thế giới, NXB. Đà
Nẵng
153
51. Jean – Francois Lyotard (2008), Hoàn cảnh hậu hiện đại, NXB. Tri thức, Hà Nội
52. Keiko Yamanaka (1991), Con người và thời đại Nhật thập kỉ 90, NXB. TP.
HCM
53. Kawabata Yasunari (1968), Sinh ra từ vẻ đẹp Nhật Bản, Diễn từ Nobel Văn học,
Đoàn Tử Huyến dịch, NXB. Lao động – Trung tâm văn hóa ngôn ngữ Đông Tây,
Hà Nội
54. Nguyễn Thị Dư Khánh (2006), Thi pháp học và vấn đề giảng dạy văn học trong
nhà trường, NXB. Giáo dục
55. Nguyễn Phương Khánh (2018), Nhật Bản từ mĩ học đến văn chương, NXB. Đại
học Quốc gia Hà Nội
56. Phùng Ngọc Kiên (2017), Những thế giới song song: khả thể và giới hạn trong
(tái) diễn giải văn chương, NXB. Tri thức, Hà Nội
57. Cao Kim Lan, “Lí thuyết về điểm nhìn nghệ thuật của R. Scholes và R.
Kellogg”, Tạp chí Nghiên cứu Văn học số 10/ 2008
58. Nguyễn Thị Mai Liên (2010), Hợp tuyển văn học Nhật Bản, NXB. Lao động -
Trung tâm Văn hóa Ngôn ngữ Đông Tây, Hà Nội.
59. Nguyễn Thị Mai Liên (2015), “Hạ đỏ” của Nguyễn Nhật Ánh và “Tugumi‟ của
Y. Banana từ góc nhìn hội họa shoujo manga, Nguyễn Nhật Ánh hiệp sĩ tuổi thơ,
NXB Đại học Quốc gia.
60. Lotman, Iu.M, Trần Ngọc Vương dịch (2007), Cấu trúc văn bản nghệ thuật,
Nxb. ĐHQG HN
61. Phạm Phương Mai (2010), Yếu tố tình dục trong tiểu thuyết của Murakami,
Luận văn Thạc sĩ, trường Đại học Sư phạm. TP. HCM
62. Matsuo Basho (1998), Con đường thiên lí hẹp – cuộc hành trình Haiku, Hàn
Thủy Giang dịch, NXB. Hà Nội
63. M. Bakhtin (2002), Lí luận và thi pháp tiểu thuyết, NXB. Hội nhà văn, Hà Nội
64. Milan Kundera (1998), Nghệ thuật tiểu thuyết, Nguyên Ngọc dịch, NXB. Đà
Nẵng
65. Mitsuyoshi Numano (2009), Lịch sử văn học Nhật Bản, Trung tâm Giao lưu
154
Văn hóa Nhật Bản
66. Mitsuyoshi Numano (2009), Thế giới thơ và tiểu thuyết – Từ Truyện Genji đến
Haruki Murakami, Trung tâm Giao lưu Văn hóa Nhật Bản
67. Murakami Shigeyoshi (2005), Tôn giáo Nhật Bản, Trần Văn Trình dịch, NXB.
Tôn giáo, Hà Nội
68. Murasaki Shikibu (1991), Truyện Genji, nhiều người dịch, NXB. Hà Nội
69. Nao Takeachi (1995), Thủy Thủ Mặt Trăng, tập 9, Công chúa Kim Cương, NXB
Văn hóa - Thông tin, Hà Nội
70. Nao Takeachi (1995), Thủy Thủ Mặt Trăng, tập 14, Trận đấu với người mây,
NXB Văn hóa - Thông tin, Hà Nội
71. Nao Takeachi (1995), Thủy Thủ Mặt Trăng, tập 15, Tu-xê-đô và Bani Tsukino,
NXB Văn hóa - Thông tin, Hà Nội
72. Nao Takeachi (1995), Thủy Thủ Mặt Trăng, tập 17, Coi chừng ! Trên núi có...,
NXB Văn hóa - Thông tin, Hà Nội
73. Nao Takeachi (1995), Thủy Thủ Mặt Trăng, tập 20, Lời nhắn gửi từ quá khứ,
NXB Văn hóa - Thông tin, Hà Nội
74. Nao Takeachi (1995), Thủy Thủ Mặt Trăng, tập 20, Thức tỉnh, NXB Văn hóa -
Thông tin, Hà Nội
75. Nao Takeachi (1995), Thủy Thủ Mặt Trăng, tập 22, Niềm thương nhớ, NXB
Văn hóa - Thông tin, Hà Nội
76. Nao Takeachi (1995), Thủy Thủ Mặt Trăng, tập 23, Sự biến thân mới, NXB Văn
hóa - Thông tin, Hà Nội
77. Nao Takeachi (1995), Thủy Thủ Mặt Trăng, tập 26, Bí mật thế giới ma quỷ,
NXB Văn hóa - Thông tin, Hà Nội
78. Nao Takeachi (1995), Thủy Thủ Mặt Trăng, tập 27, Thiên sứ, NXB Văn hóa -
Thông tin, Hà Nội
79. Nao Takeachi (1995), Thủy Thủ Mặt Trăng, tập 28, Tuyệt giao, NXB Văn hóa -
Thông tin, Hà Nội
155
80. Nao Takeachi (1995), Thủy Thủ Mặt Trăng, tập 30, Hãy bảo vệ nhóc, NXB Văn
hóa - Thông tin, Hà Nội
81. Đặng Bích Ngân (chủ biên) (2002), Từ điển thuật ngữ mĩ thuật phổ thông,
NXB. Giáo dục, Hà Nội
82. Hữu Ngọc (2006), Dạo chơi vườn văn Nhật Bản, NXB. Văn nghệ, Hà Nội
83. Nhiều tác giả (2010), Kỷ yếu hội thảo Quá trình hiện đại hóa văn học Nhật Bản
và các nước khu vực văn hóa chữ Hán: Việt Nam, Trung Quốc, Hàn Quốc (từ cuối
thế kỉ XIX đến đầu thế kỉ XX), Khoa Văn học và Ngôn ngữ, trường ĐH Khoa học xã
hội & Nhân văn, TP. HCM
84. Nguyễn Diệu Minh Chân Như (2009), Đạm trong tuyệt cú của Vương Duyvà
wabi trong thơ haiku của Basho, Luận văn Thạc sĩ Đại học Sư phạm TP. HCM
85. N. Konrat (1997), Phương Đông và phương Tây, Trịnh Bá Đĩnh dịch, NXB.
Giáo dục, Hà Nội
86. N. Konrat (1999), Văn học Nhật Bản từ cổ điển đến cận đại, Trịnh Bá Đĩnh
dịch, NXB. Đà Nẵng
87. Lê Lưu Oanh (2011), Văn học và các loại hình nghệ thuật, NXB. Đại học Sư
phạm, Hà Nội
88. Hoàng Phê chủ biên (2005), Từ điển tiếng Việt, Viện ngôn ngữ học, NXB. Đà
Nẵng
89. R. Jakobson (1986), “Bàn về các tín hiệu thị giác và thính giác”, Trịnh Bá Đĩnh
dịch, Tạp chí Nghiên cứu văn học (06/2007), Viện Văn học, Học viện Khoa học xã
hội Việt Nam
90. Nguyễn Văn Sĩ (1993), “Văn xuôi Nhật Bản hiện đại”, Tạp chí Văn học, số 2
91. Trần Đình Sử (1993), Một số vấn đề thi pháp học hiện đại, Bộ GDĐT – Vụ giáo
viên, Hà Nội
92. Trần Đình Sử (1996), Lí luận và phê bình văn học, NXB. Hội nhà văn
93. Trần Đình Sử (1998), Giáo trình dẫn luận thi pháp học, NXB. Giáo dục, Hà Nội
94. Trần Đăng Suyền (2014), Phương pháp nghiên cứu và phân tích tác phẩm văn
học, NXB. Giáo dục, Hà Nội
156
95. Stephen Wilson (2003), Sigmund Freud – nhà phân tâm học thiên tài, NXB.
Trẻ, TP. HCM
96. Suzue Miuchi (2006), Mặt nạ thủy tinh (tập 3), NXB. Kim Đồng, Hà Nội
97. Takeo Doi (2008), Giải phẫu sự phụ thuộc, NXB. Tri thức, Hà Nội
98. Takeo Doi (2008), Giải phẫu cái tự ngã: cá nhân chọi với xã hội, NXB. Tri
thức, Hà Nội
99. Lê Ngọc Tân (2002), Chủ nghĩa tự nhiên Zola và tiểu thuyết, NXB. Hội nhà
văn, Hà Nội
100. Phạm Hồng Thái (2005), “Đời sống tôn giáo Nhật Bản hiện nay”, Viện Nghiên
cứu Đông Bắc Á, 9/2005
101. Đỗ Lai Thúy (2007), Phê bình văn học và tính cách dân tộc, NXB. Tri thức,
Hà Nội
102. Đỗ Lai Thúy (2009), Bút pháp của ham muốn: Phê bình phân tâm học, NXB.
Tri thức, Hà Nội
103. Nguyễn Thị Bích Thúy (2010), “Phức cảm Genji trong tiểu thuyết Kafka bên
bờ biển của Haruki Murakami”, Tạp chí Nghiên cứu văn học, số 05
104. Nguyễn Thị Thu Thủy (2003), Ngôn ngữ kể chuyện trong truyện ngắn Việt
Nam sau 1975, Luận án Tiến sĩ Ngữ văn, ĐHSP Hà Nội
105. Lộc Phương Thủy (2007), Lí luận và phê bình văn học phương Tây, NXB.
Giáo dục.
106. Lại Văn Toàn (chủ biên) (1998), Văn học Nhật Bản, Trung tâm khoa học xã
hội và nhân văn Quốc gia viện thông tin Khoa học xã hội, Nxb thông tin khoa học
xã hội - chuyên đề, Hà Nội
107. Tzvetan Todorov (2004), Thi pháp văn xuôi, Đặng Anh Đào, Lê Hồng Sâm
dịch, NXB. ĐHSP HN
108. Tzvetan Todorov (2004), Mikhail Bakhtin: Nguyên lí đối thoại, Đào Ngọc
Chương dịch, NXB. ĐHQG TP. HCM
109. Trần Hương Trà (2014), Tiểu thuyết Vĩnh biệt Tugumi từ góc nhìn hội họa
shoujo manga, Luận văn Thạc sĩ, Đại học Sư phạm Hà Nội
157
110. Nguyễn Thị Huỳnh Trang (2011), Tìm hiểu đặc điểm nghệ thuật trong tác
phẩm của Y. Banana, Luận văn Thạc sĩ Văn học, Đại học Sư phạm TP. HCM
111. Nguyễn Thị Huỳnh Trang (2017), “Sáng tác của Y. Banana từ góc nhìn phê
bình sinh thái”, Kỉ yếu Hội thảo quốc tế Phê bình sinh thái – tiếng nói bản địa, tiếng
nói toàn cầu, Viện Văn học, Viện Hàn lâm KHXH Việt Nam, NXB. Khoa học xã
hội
112. Nguyễn Thị Huỳnh Trang (2018), “Tiểu thuyết của Y. Banana và shoujo
manga từ góc nhìn so sánh thể loại”, Tạp chí Nghiên cứu Văn học, số 07, Viện Văn
học, Viện Hàn lâm KHXH Việt Nam
113. Nguyễn Gia Trí (1993), Một số ghi chép của Nguyễn Gia Trí (Các bậc thầy hội
họa Việt Nam Tô Ngọc Vân - Nguyễn Gia Trí - Nguyễn Sáng - Bùi Xuân Phái),
NXB. Mĩ thuật, Hà Nội
114. Hoàng Trinh (1990), Từ kí hiệu học đến thi pháp học, NXB. Khoa học xã hội
115. Nguyễn Thành Trung (2010), Yếu tố kì ảo trong truyện ngắn Gabriel Garcia
Marquez, Luận văn Thạc sĩ, trường ĐHSP. TP. HCM
116. Hoàng Ngọc Tuấn (2002), Văn học hiện đại và hậu hiện đại qua thực tiễn sáng
tác và góc nhìn lý thuyết, NXB. Văn nghệ, Hà Nội
117. Phùng Văn Tửu (2002), Tiểu thuyết Pháp hiện đại – Những tìm tòi đổi mới,
NXB. Khoa học xã hội, Hà Nội
118. Phùng Văn Tửu (2010), Tiểu thuyết trên đường đổi mới nghệ thuật, NXB. Tri
thức
119. Huỳnh Vân (1990), “Quan hệ văn học – hiện thực và vấn đề tác động, tiếp
nhận và giao tiếp thẩm mĩ”, trong Văn học và hiện thực, NXB. Khoa học xã hội
120. V. Pronikov, I. Ladanov (2004), Người Nhật, Đức Dương dịch, NXB. Tổng
hợp TP. HCM
121. Vladimir Nabokov (2015), Lolita, Dương Tường dịch, NXB. Hội nhà văn, Hà
Nội
122. V. V. Otrinnikov (1996), “Những quan niệm thẩm mĩ độc đáo về nghệ thuật
của người Nhật”, Phong Vũ dịch, Tạp chí Văn học, số 05, Hà Nội
158
123. Nguyễn Thị Thanh Xuân chủ biên (2008), Văn học Nhật Bản ở Việt Nam,
NXB. Đại học quốc gia TP. HCM
124. Yoshimoto Banana, (2006), Kitchen, Lương Việt Dzũng dịch, NXB. Hội nhà
văn, Hà Nội
125. Yoshimoto Banana, (2006), N.P, Lương Việt Dzũng dịch, NXB. Đà Nẵng
126. Yoshimoto Banana, (2007), Vĩnh biệt Tugumi, Vũ Hoa dịch, NXB. Đà Nẵng
127. Yoshimoto Banana, (2008), Amrita, Trần Quang Huy dịch, NXB. Đà Nẵng
128. Yoshimoto Banana, (2008), Say ngủ, Trương Thị Mai dịch, NXB. Văn học Sài
Gòn
129. Yoshimoto Banana, (2009), Thằn lằn, Nguyễn Phương Chi dịch, NXB. Văn học,
Hà Nội
130. Yoshimoto Banana, (2014), Hồ, Uyên Thiểm dịch, NXB. Hội nhà văn, Hà Nội
131. Yoshimoto Banana, (2018), Nắp biển, Dương Thị Hoa dịch, NXB. Hội nhà văn,
Hà Nội
B - TIẾNG ANH
132. Connie Wang Hongyu (2006), Fantastic Elements, Speacial Families and
Feminine Power in Healing – A Study of Y. Banana‟s Novels, A Thesis Submitted
for The Degree of Master of Arts, Department of Japanese Studies, National
University of Singapore
133. Emerald Louise King (2008), Hot young things: re-writing young Japanese
women for the new century, the 17
th
Biennial Conference of the Asian Studies
Association of Australia in Melbourne
134. Frederick Jameson (1992), Postmodernism and Comsumer Society, Longman,
New York
135. Giorgio Amitrano (1996), The New Japanese Novel: Popular Culture and
Literary Tradition in the Work of Murakami Haruki and Y. Banana, Italian School
of East Asian Studies
136. Gordon Lynch (2005), Understand Theology and Popular Culture, Blackwell
Publishing, Malden
159
137. Imamura Anne (1996), Re-Imaging Japanese Women, Berkeley, Los Angeles,
London: University of California Press
138. Inuhiko Yomota (2006), Kawaii Ron, Chikuma
139. Ioana Fotache (2016), A Subculture of Their Own - Ecriture Shoujo and
Banana Yoshimoto‟s The Lake, Nagoya University
140. Jimmy Heung Kak Lam (2006), A Comparative Study of the Themes of
Yoshimoto Banana‟s “First Phase Bananna”: Tugumi, N.P and Amrita, The
Degree of Master of Philosophy at the Department of Japanese Studies of the
University of Hong Kong
141. Joseph T. Shipley (1964), Dictionary of the world literature, Littlefield, Adams
and Company, New Jersey
142. Kan Sotoko (2007), “Kawaii” – The keyword of Japanese Girls‟ Culture,
Ochanomizu University
143. Sharon Kinsella (1995), Cuties in Japan, In: Skov, L. and Moeran, B.
(eds) Women, Media and Consumption in Japan. London: Curzon Press, 220-254.
144. Kyoko Koma (2013), Kawaii as represented in Scientific Research: The
Possibilities of Kawaii Cutural Studies, International Research Centre for Japanese
Studies
145. Mayako Murai (2015), From Dog Bridegroom to Wolf Girl: Contemporary
Japanese Fairy-Tale Adaptations in Conversation with the West, Wane State
University Press, Detroit, Michigan
146. Martin Ramsay (2009), Single frame heroics: New ways of Being in the fiction
of Y. Banana, Thesis of Ph.D, Swinburn University of Technology, Australia
147. Mihm Gesa Doris (1998), Shoujo and beyond: Depiction of the world of
women in fictional works of Banana Yoshimoto, The Faculity of East Asia Study,
The University of Arizona.
148. Nobuko Awaya and David P. Philips (1996), Popular Reading – The Literary
World of the Japanese Working Women, from Re-Imaging Japanese Women, edited
and with an introduction by Anne E. Ianamura, University of California Press
160
149. Noriko Mizuta Lippit (1980), Reality and Fiction in modern Japanese, M. E.
Sharpe, Inc, New York
150. Nozumi Uematsu (2017), Could Women Ever “Shine”? Happiness and its
Shadow in Right-Wing Discourse since 2011 and Banana Yoshimoto‟s Kitchen,
Hitotsushiba University Repository
151. Oxford Student‟s dictionary (2007), Oxford University Press
152. Paul Varley (2000), (the 4
th
edition), Japanese Culture, University of
Hawai‟Press
153. Richard Gid Powers and Hidetoshi Kato, 1989, Handbook of Japanese Poplar
Culture, Greenwood Press, London
154. Treat John Whittier (1993), Y. Banana Writes Home: Shoujo Culture and the
Nostalgic Subject, in Contemporary Japan and Popular Culture
155. Yukata Tazawa, Saburo Matsubara, Shunsuke Okuda, Yasunori Nagahata,
(1973), Japan‟s cultural history – A perspective, Ministry of Foreign Affairs, Japan
C - INTERNET
156. Banana Yoshimoto
Nguồn: http:///www.worldlingo.com/ma/dewiki/en/Banana_Yoshimoto
157. Banana Yoshimoto official site,
Nguồn:
158. Nhật Chiêu, Thực tại trong ma ảo (Đọc Kafka bên bờ biển của Haruki
Murakami)
Nguồn:
159. Nguyễn Đăng Điệp (2017), Văn học đại chúng ở Việt Nam hiện nay, Tạp chí
Khoa học xã hội Việt Nam, số 07
Nguồn:
n50173.html
160. Fukuzawa Yukichi, Thoát Á luận
Nguồn:
161. Nguyễn Chí Hoan (2017), Ca ngợi khoảnh khắc, Bài tham luận tại Toạ đàm
161
“Thế giới của Haruki Murakami và Banana Yoshimoto”
Nguồn:
162. Ngô Hương Lan (2010), Chuyên đề nghiên cứu “Văn hóa – xã hội Nhật Bản:
Những vấn đề nổi bật, xu hướng chủ yếu trong 10 năm đầu thế kỉ XXI và triển vọng
2020”
Nguồn:
163. Nguyễn Thị Mai Liên, Một số phương diện thi pháp thơ Haiku và lục bát, ngũ
ngôn tứ tuyệt, ghazal từ góc nhìn so sánh, ngày 21/12/2018
Nguồn:
3209/Default.aspx
164. Hà Linh, Tác giả Kitchen chinh phục độc giả ở Italia
Nguồn: vnexpress.net ngày 22. 09. 2007
165. Trần Thị Tố Loan, Thực tại và con người trong sáng tác của Murakami Haruki
Nguồn:
166. Hoàng Long (2019), Văn học thuần túy và văn học đại chúng
Nguồn: https://kilala.vn/van-hoa-nhat/van-hoc-thuan-tuy-va-van-hoc-dai-chung-
nhat-ban.html
167. Michele Marra, Modern Japanese aesthetics: a reader
Nguồn:
168. Modern Japanese Literature
Nguồn:
a306393#ixzz198ssvbYA
169. Oe Kenzaburo (1990), Về nền văn học Nhật Bản cận đại và hiện đại, Ngô
Quang Vinh dịch từ tiếng Pháp, Hội nghị Wheatland, San Francisco
Nguồn:
170. Numano Mistuyoshi (2008), From Mono no Aware to Kawaii
Nguồn: https://english.spbu.ru/news/2508-from-mono-no-aware-to-kawaii-
professor-mitsuyoshi-numano-on-the-singularities-of-japanese-literature
171. Rebecca D. Larson, Yoshimoto Banana and Yasunari Kawabata, nguồn: http://
162
rds.yahoo.com
172. Ruth Fulton Benedict (1946), Chrysanthemum and the Sword: patterns of
Japanese Culture
Nguồn:
173. Takahashi Genichiro, Văn học Nhật Bản sẽ thay hình đổi dạng để sống tiếp,
nguồn: ngày 05.12.2008
174. Phạm Vũ Thịnh, Tản mạn về vấn đề nữ quyền ở Nhật Bản
Nguồn:
175. Nguyễn Nam Trân, Tổng quan lịch sử văn học Nhật Bản
Nguồn:
176. Hoàng Phong Tuấn, Nghịch dị trong nghệ thuật khắc học chân dung nhân vật
của Oe Kenzaburo (Qua tiểu thuyết Một nỗi đau riêng),
Nguồn:
177. Hồ Khánh Vân, Từ quan niệm về lối viết nữ đến việc xác lập một phương pháp
nghiên cứu trong phê bình nữ quyền
Nguồn:
178. The appeal of shoujo culture: Banana Yoshimoto and her audience
Nguồn:
179. Võ Minh Vũ, Nền văn hóa đại chúng ở Nhật Bản thập niên 1920
Nguồn:
180.
181.
182.
183. ahdictionary.com
184. https://en.wikipedia.org/wiki/Kawaii
185.https://yumenavi.info/lecture.aspx?GNKCD=g005459&OraSeq=44&ProId=W
NA002&SerKbn=Z&SearchMod=2&Page=1&KeyWord=%E3%82%A2%E3%83
%8B%E3%83%A1%EF%BC%88%E3%82%A2%E3%83%8B%E3%83%A1%E3%
83%BC%E3%82%B7%E3%83%A7%E3%83%B3%EF%BC%89
163
186.
187. Zainab Akram, Naheed Qasim, Hajira Masroor and Shahnaz Mehboob
(2015), I Prefer a World without Men: A Study of Language, Gender and Power
in Women Writers of South Asia, Journal of Educational and Social Study,
MCSER, Rome, Italy,
188. Suzuki Setsuko (chủ biên) (1996), Những khái niệm then chốt của mỹ học
Nhật Bản, NXB. Kodansha, Hoàng Long dịch (từ Chương 1 “Mỹ học” 美学,
trong quyển sách song ngữ Nhật-Anh “Linh hồn Nhật Bản” 英語で話す日本の
心 / Keys to the Japanese Heart and Soul, 14-45)
Nguồn: https://www.mcser.org/journal/index.php/jesr/article/view/6579/6304
189. Numano Mitsuyoshi (2018), “From Mono No Aware to Kawaii”
Nguồn:https://english.spbu.ru/news/2508-from-mono-no-aware-to-kawaii-
professor-mitsuyoshi-numano-on-the-singularities-of-japanese-literature
190. Nobuyoshi Kurita (2006), Cute is cool in Japan,
Nguồn: https://www.aljazeera.com/news/2006/6/15/cute-is-cool-in-japan
191. Marco Pellitteri (2018), Kawaii Aesthetics from Japan to Europe: Theory of
the Japanese “Cute” and Transcultural Adoption of Its Styles in Italian and French
Comics Production and Commodified Culture Goods School of Journalism and
Communication, Shanghai International Studies University
Nguồn: https://www.mdpi.com/2076-0752/7/3/24
192.
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- luan_an_sang_tac_cua_yoshimoto_banana_tu_goc_nhin_tham_mi_ka.pdf