Luận án Quan niệm về chân lý trong triết học thực dụng mỹ

VIỆN HÀN LÂM KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM HỌC VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI NGUYỄN VĂN THỎA QUAN NIỆM VỀ CHÂN LÝ TRONG TRIẾT HỌC THỰC DỤNG MỸ LUẬN ÁN TIẾN SỸ TRIẾT HỌC HÀ NỘI - 2016 VIỆN HÀN LÂM KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM HỌC VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI NGUYỄN VĂN THỎA QUAN NIỆM VỀ CHÂN LÝ TRONG TRIẾT HỌC THỰC DỤNG MỸ Chuyên ngành: Triết học Mã số : 62 22 03 01 LUẬN ÁN TIẾN SỸ TRIẾT HỌC NGƢỜI HƢỚNG DẪN KHOA HỌC: PGS.TS ĐẶNG HỮU TOÀN HÀ NỘI - 2016 LỜI CAM ĐOAN

pdf165 trang | Chia sẻ: huong20 | Ngày: 14/01/2022 | Lượt xem: 499 | Lượt tải: 0download
Tóm tắt tài liệu Luận án Quan niệm về chân lý trong triết học thực dụng mỹ, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Tôi cam đoan đây là công trình nghiên cứu của riêng tôi, dƣới sự hƣớng dẫn của PGS.TS Đặng Hữu Toàn. Những trích dẫn, số liệu, tài liệu tham khảo là trung thực, có nguồn gốc rõ ràng. Những kết luận đƣợc rút ra từ kết quả nghiên cứu của luận án là khách quan, khoa học. Tác giả luận án Nguyễn Văn Thỏa LỜI CẢM ƠN Sau một thời gian học tập, nghiên cứu tại Học viện Khoa học Xã hội – Viện Hàn lâm Khoa học Xã hội Việt Nam, đến nay tôi đã hoàn thành chƣơng trình học tập và Luận án. Tôi xin chân thành cảm ơn Đảng ủy, Ban Giám đốc, Phòng Quản lý Đào tạo Sau đại học, Khoa Triết học Học viện Khoa học Xã hội đã giúp đỡ, tạo điều kiện cho tôi đƣợc học tập, nghiên cứu và hoàn thành Luận án Tiến sĩ triết học này. Tôi xin chân thành cảm ơn sự giúp đỡ, tạo điều kiện thuận lợi của Đảng ủy, Ban Giám hiệu Trƣờng ĐHSP Hà Nội, Chi ủy, Ban Chủ nhiệm Khoa Triết học Trƣờng ĐHSP Hà Nội, Đoàn thanh niên Trƣờng ĐHSP Hà Nội trong suốt quá trình nghiên cứu, học tập và thực hiện luận án. Với lòng kính trọng và biết ơn sâu sắc, tôi xin đƣợc bày tỏ lòng cảm ơn chân thành tới PGS.TS Đặng Hữu Toàn, ngƣời Thầy - Nhà khoa học đã dành nhiều thời gian và tâm huyết, luôn động viên, chỉ bảo, giúp đỡ và hƣớng dẫn tận tình để em có thể hoàn thành đƣợc luận án này. Tôi xin bày tỏ lòng cảm ơn sâu sắc đến tập thể cán bộ, nhân viên Viện Thông tin Khoa học Xã hội Nhân Văn - Viện Hàn lâm Khoa học Xã hội Việt Nam, Thƣ viện Quốc gia, Thƣ viện Trƣờng Đại học Sƣ phạm Hà Nội, Thƣ viện Quân đội, Thƣ viện Viện Triết học - Viện Hàn lâm Khoa học Xã hội Việt Nam đã giúp đỡ và tạo điều kiện thuận lợi để tôi có thể thực hiện đề tài luận án. Tôi vô cùng biết ơn sự ủng hộ, động viên, giúp đỡ và tạo điều kiện thuận lợi của gia đình, bạn bè và các bạn đồng nghiệp trong quá trình học tập, nghiên cứu và hoàn thiện bản luận án này. Tôi xin trân trọng cảm ơn! Tác giả luận án Nguyễn Văn Thỏa MỤC LỤC MỞ ĐẦU .................................................................................................................... 1 Chƣơng 1. TỔNG QUAN TÌNH HÌNH NGHIÊN CỨU CÓ LIÊN QUAN ĐẾN ĐỀ TÀI LUẬN ÁN .................................................................................................... 6 1.1. Tổng quan tình hình nghiên cứu có liên quan về triết học thực dụng Mỹ ........... 6 1.2. Tổng quan tình hình nghiên cứu có liên quan về vấn đề chân lý trong triết học thực dụng Mỹ ............................................................................................................ 17 1.3. Tổng quan tình hình nghiên cứu có liên quan về giá trị và hạn chế của quan niệm chân lý trong triết học thực dụng Mỹ ............................................................... 27 1.4. Đánh giá chung về kết quả nghiên cứu của các công trình khoa học đã công bố và những vấn đề cần tập trung giải quyết trong luận án ........................................... 30 TIỂU KẾT CHƢƠNG 1 ............................................................................................ 32 Chƣơng 2. CƠ SỞ HÌNH THÀNH QUAN NIỆM VỀ CHÂN LÝ TRONG TRIẾT HỌC THỰC DỤNG MỸ ........................................................................... 34 2.1. Khái quát về triết học thực dụng Mỹ và vị trí của vấn đề chân lý trong triết học thực dụng Mỹ ............................................................................................................ 34 2.2. Điều kiện khách quan cho sự hình thành quan niệm về chân lý trong triết học thực dụng Mỹ ............................................................................................................ 44 2.3. Nhân tố chủ quan cho sự hình thành quan niệm về chân lý trong triết học thực dụng Mỹ .................................................................................................................... 72 TIỂU KẾT CHƢƠNG 2 ............................................................................................ 81 Chƣơng 3. NỘI DUNG CƠ BẢN CỦA QUAN NIỆM VỀ CHÂN LÝ TRONG TRIẾT HỌC THỰC DỤNG MỸ ........................................................................... 84 3.1. Về khái niệm chân lý .......................................................................................... 84 3.2. Về tiêu chuẩn của chân lý .................................................................................. 99 3.3. Về phƣơng pháp luận khoa học nhằm đạt đến chân lý .................................... 108 TIỂU KẾT CHƢƠNG 3 .......................................................................................... 118 Chƣơng 4. GIÁ TRỊ VÀ HẠN CHẾ CỦA QUAN NIỆM VỀ CHÂN LÝ TRONG TRIẾT HỌC THỰC DỤNG MỸ ......................................................... 121 4.1. Giá trị của quan niệm về chân lý trong triết học thực dụng Mỹ ...................... 121 4.2. Hạn chế của quan niệm về chân lý trong triết học thực dụng Mỹ ................... 136 TIỂU KẾT CHƢƠNG 4 .......................................................................................... 146 KẾT LUẬN ............................................................................................................ 148 DANH MỤC CÁC CÔNG TRÌNH KHOA HỌC CỦA TÁC GIẢ ĐÃ CÔNG BỐ CÓ LIÊN QUAN TỚI ĐỀ TÀI LUẬN ÁN .................................................. 151 TÀI LIỆU THAM KHẢO .................................................................................... 152 1 MỞ ĐẦU 1. Tính cấp thiết của đề tài Lịch sử phát triển của triết học cho thấy nhân loại không ngừng khát khao chinh phục những đỉnh cao trong nhận thức, nhằm mục đích tối hậu là đạt đến chân lý; thậm chí, nhà triết học lỗi lạc thời cổ đại Hy Lạp là Aristote còn cho rằng triết học là “khoa học về chân lý”. Các trƣờng phái triết học, các nhà triết học cuối cùng đều hƣớng mục đích của mình vào việc luận giải vấn đề chân lý. Vì vậy, có thể nói, chân lý là một trong những vấn đề trung tâm, xuyên suốt của các trƣờng phái triết học và các nhà triết học. Mỗi trào lƣu triết học đều đƣa ra quan điểm riêng của mình về vấn đề chân lý. Trong triết học phƣơng Tây hiện đại, chúng ta không thể không kể đến quan niệm về chân lý trong triết học thực dụng Mỹ, bởi đây là quan niệm độc đáo, có ý nghĩa lý luận và thực tiễn, đồng thời cũng gây nhiều ý kiến trái chiều về vấn đề này. Do vậy, làm rõ vấn đề chân lý trong triết học thực dụng Mỹ đƣợc xem là yêu cầu cần thiết đối với các nhà nghiên cứu. Trong các trào lƣu triết học Mỹ, triết học thực dụng là trƣờng phái điển hình nhất. Triết học thực dụng Mỹ xuất hiện vào cuối thế kỷ XIX - đầu thế kỷ XX, với các đại diện tiêu biểu là Charles Sanders Peirce, William James và John Dewey. Triết học thực dụng Mỹ không chỉ ảnh hƣởng ngay trên quê hƣơng của nó, mà còn ảnh hƣởng đến các nƣớc phƣơng Tây và cả Việt Nam. Triết học thực dụng đƣợc coi là nét đặc trƣng của văn hóa Mỹ, là “đặc sản tinh thần” của ngƣời Mỹ. Nó ra đời cùng với sự phát triển của nƣớc Mỹ, có tác động không nhỏ tới sự phát triển hùng mạnh của nƣớc Mỹ. Ngƣời Mỹ xem triết học thực dụng nhƣ là công cụ hữu hiệu bậc nhất để phát huy nguồn lực con ngƣời trong sự phát triển của đất nƣớc. Nƣớc Mỹ nói chung, văn hóa Mỹ nói riêng là một phần của châu Âu, của văn hóa phƣơng Tây, nền văn hóa Mỹ tiếp thu và chịu ảnh hƣởng rất lớn của văn hóa Tây Âu, trong đó có triết học. Nhƣng trong bối cảnh nƣớc Mỹ, điều kiện Mỹ rất đặc thù, với yếu tố tự nhiên, bối cảnh kinh tế, chính trị, văn hóa - xã hội, nhất là mặt nhân chủng học, văn hóa phƣơng Tây đi vào nƣớc Mỹ đã tự chuyển hóa, 2 triết học phƣơng Tây đƣợc thâm nhập vào nƣớc Mỹ với thuyết Hegel mới - một trƣờng phái triết học duy tâm tuyệt đối. Bối cảnh nƣớc Mỹ cuối thế kỷ XIX đang bƣớc vào giai đoạn xã hội công nghiệp hậu kỳ, rất năng động, rất cần phát triển, muốn biến khoa học công nghệ thành động lực để phát triển. Nƣớc Mỹ muốn tạo dựng niềm tin vào hiệu quả của khoa học, dựa vào công nghệ để phát triển xã hội. Nhƣng khoa học nào mới là khoa học đích thực? Đây chính là vấn đề chân lý. Tính chất tƣ biện, trừu tƣợng, giáo điều của triết học phƣơng Tây vào nƣớc Mỹ nhân danh khoa học bị chống phá quyết liệt. Rõ ràng, tính chất tƣ biện, giáo điều của thuyết Hegel mới từ Anh vào Mỹ bị ngƣời Mỹ phê phán, cái mà nƣớc Mỹ và ngƣời Mỹ chống không phải là chống thuyết Hegel mà chống chủ nghĩa duy tâm tuyệt đối của thuyết Hegel mới. Trong bối cảnh đó, văn hóa Mỹ dựa vào Tin lành giáo để tồn tại và phát triển. Tin lành giáo có nhiều điểm chống thuyết tƣ biện, trừu tƣợng, đối lập với chủ nghĩa duy tâm tuyệt đối. Có thể nói, vấn đề chân lý trong triết học thực dụng Mỹ để phân biệt rõ ràng chân khoa học với giả khoa học, biến chân khoa học thành động cơ, động lực cho sự phát triển xã hội, đã đáp ứng và hoàn thành đƣợc vai trò đó. Hiện nay, chúng ta đang tiếp thu bài học của phƣơng Tây, trong đó có văn hóa Mỹ, chính là tiếp thu tinh thần chống tƣ biện, trừu tƣợng, hƣớng tới hiệu quả, thiết thực mà vấn đề chân lý trong triết học thực dụng đã đặt ra và giải quyết. Sở dĩ triết học thực dụng có ảnh hƣởng lớn đến mọi mặt trong đời sống xã hội nƣớc Mỹ nói riêng và các nƣớc phƣơng Tây nói chung là do nó hƣớng tới giải quyết nhiều vấn đề mà thực tiễn đặt ra. Ở đây, quan niệm về chân lý không còn thuần túy mang ý nghĩa lý luận, mà gắn liền với thực tiễn, phục vụ cho hoạt động cải tạo thực tiễn. Nghiên cứu quan niệm về chân lý của triết học thực dụng giúp chúng ta làm rõ những giá trị này. Trong suốt một thời gian dài, từ sau năm 1975, quan hệ giữa Việt Nam và Mỹ luôn trong trạng thái “đóng băng”. Do đó, việc tìm hiểu về văn hóa Mỹ nói chung, triết học Mỹ nói riêng còn hết sức hạn chế. Việc bình thƣờng hóa quan hệ Việt - Mỹ từ giữa thập niên 90 của thế kỷ XX đã tạo điều kiện cho hai nƣớc hợp tác trên nhiều phƣơng diện, trong đó có văn hóa. Tuy nhiên, so với đòi hỏi khách 3 quan, việc tìm hiểu về văn hóa Mỹ nói chung và triết học Mỹ nói riêng, có thể nói là chƣa nhiều. Trong khi đó, hiện nay, quá trình hội nhập quốc tế diễn ra ngày càng sâu rộng trên nhiều lĩnh vực. Để góp phần khắc phục những hạn chế trong quá trình hội nhập của Việt Nam, chúng ta cần phải đẩy mạnh nghiên cứu các trào lƣu triết học phƣơng Tây hiện đại, trong đó có triết học thực dụng Mỹ. Thêm vào đó, với chủ trƣơng phát triển kinh tế tri thức, khi mà tiêu chuẩn của mọi hoạt động phải căn cứ vào hiệu quả thì việc nghiên cứu quan niệm về chân lý trong triết học thực dụng Mỹ, với nội dung cốt yếu là lấy tính hữu dụng làm thƣớc đo của chân lý, càng trở nên cần thiết. Hơn nữa, trong công cuộc đổi mới toàn diện ở nƣớc ta hiện nay, mà trƣớc hết là đổi mới tƣ duy đã diễn ra 30 năm qua, song vấn đề đổi mới tƣ duy hiện vẫn đƣợc Đảng ta xác định là vấn đề căn bản của công cuộc đổi mới, là điểm then chốt cho sự thành công của sự nghiệp xây dựng chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam. Theo tinh thần đó, việc tiếp thu không chỉ những thành tựu về kinh tế, khoa học, công nghệ, mà cả những thành tựu về tƣ tƣởng tiến bộ của phƣơng Tây cho sự phát triển của đất nƣớc lại càng trở nên cấp thiết. Trong các văn kiện của Đảng, các nghị quyết của Bộ Chính trị, Ban chấp hành Trung ƣơng Đảng đã đặt ra yêu cầu đối với công tác lý luận nói chung và đội ngũ giảng viên lý luận chính trị nói riêng. Chẳng hạn, trong Nghị quyết 01, Bộ Chính trị - Ban chấp hành Trung ƣơng Đảng Cộng sản Việt Nam, Khóa VII ban hành ngày 28 tháng 03 năm 1992 khẳng định rằng: Trong nhiều năm qua nội dung đào tạo đội ngũ cán bộ lý luận hầu như chỉ bó hẹp trong các bộ môn khoa học Mác - Lênin, chưa coi trọng việc nghiên cứu các trào lưu khác và tiếp thu những thành tựu khoa học của thế giới. Hậu quả là số đông cán bộ lý luận thiếu hiểu biết rộng rãi về kho tàng tri thức của loài người, do đó khả năng phát triển bị hạn chế. Vì vậy, yêu cầu đặt ra đối với ngƣời làm công tác nghiên cứu và giảng dạy trong các trƣờng đại học, học viện, viện nghiên cứu là cần đẩy mạnh công việc nghiên cứu và giảng dạy triết học phƣơng Tây hiện đại cho ngƣời học, giúp ngƣời học tiếp thu tinh hoa tƣ tƣởng của ngƣời phƣơng Tây, hạn chế mặt tiêu cực, nhằm phục vụ có hiệu quả cho quá trình hội nhập quốc tế hiện nay. 4 Thêm vào đó, nghiên cứu quan niệm về chân lý trong triết học thực dụng Mỹ còn góp phần làm phong phú thêm kho tàng lý luận nhận thức của nhân loại và có thể coi là một cơ sở để chúng ta so sánh, đối chiếu vấn đề này với các trào lƣu triết học khác. Đồng thời, nó là sự đối chứng, cho phép chúng ta khẳng định tính đúng đắn, giá trị khoa học của lý luận nhận thức, trong đó có quan niệm về chân lý của triết học Mác - Lênin. Từ những lý do trên, chúng tôi lựa chọn “Quan niệm về chân lý trong triết học thực dụng Mỹ” làm đề tài luận án tiến sĩ chuyên ngành Triết học. 2. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu của luận án 2.1. Mục đích nghiên cứu Làm rõ những điều kiện, tiền đề, nội dung cơ bản của quan niệm về chân lý trong triết học thực dụng Mỹ (qua các nhà triết học thực dụng là C. Peirce, W. James và J. Dewey), luận án chỉ ra những giá trị và hạn chế của nó. 2.2. Nhiệm vụ nghiên cứu Để thực hiện đƣợc mục đích trên, luận án giải quyết những nhiệm vụ sau: Một là, làm rõ khái niệm triết học thực dụng và vị trí của vấn đề chân lý trong triết học thực dụng Mỹ; các đại diện tiêu biểu của triết học thực dụng Mỹ. Hai là, luận giải cơ sở hình thành quan niệm về chân lý trong triết học thực dụng Mỹ. Ba là, phân tích những nội dung cơ bản của quan niệm về chân lý trong triết học thực dụng Mỹ. Bốn là, chỉ ra và luận giải những giá trị và hạn chế của quan niệm về chân lý trong triết học thực dụng Mỹ. 3. Cơ sở lý luận và phƣơng pháp nghiên cứu của luận án 3.1. Cơ sở lý luận Đề tài dựa trên cở sở lý luận của triết học Mác - Lênin, cụ thể là những nguyên lý của chủ nghĩa duy vật biện chứng và chủ nghĩa duy vật lịch sử. 3.2. Phương pháp nghiên cứu Đó là hệ thống các nguyên tắc phƣơng pháp luận của chủ nghĩa duy vật biện chứng và chủ nghĩa duy vật lịch sử nhƣ: nguyên tắc khách quan, nguyên tắc toàn diện, nguyên tắc lịch sử cụ thể. Trên cơ sở đó, luận án sử dụng các phƣơng 5 pháp nghiên cứu cụ thể nhƣ: phân tích - tổng hợp; lôgíc - lịch sử; diễn dịch - quy nạp; so sánh, hệ thống hóa; phƣơng pháp văn bản học, v.v 4. Đối tƣợng và phạm vi nghiên cứu của luận án 4.1. Đối tượng nghiên cứu Luận án nghiên cứu quan niệm về chân lý trong triết học thực dụng Mỹ. 4.2. Phạm vi nghiên cứu Luận án làm rõ quan niệm về chân lý trong triết học thực dụng Mỹ với các nhà triết học tiêu biểu là C. Peirce, W. James và J. Dewey. 5. Đóng góp mới của luận án - Luận án góp phần làm rõ khái niệm triết học thực dụng, cơ sở hình thành quan niệm về chân lý trong triết học thực dụng Mỹ. - Luận án góp phần làm rõ những nội dung cơ bản của quan niệm về chân lý trong triết học thực dụng Mỹ thông qua các đại diện tiêu biểu là C. Peirce, W. James và J. Dewey. - Luận án bƣớc đầu đánh giá những giá trị cũng nhƣ hạn chế của quan niệm về chân lý trong triết học thực dụng Mỹ, trên cơ sở so sánh, đối chiếu với quan niệm về chân lý trong triết học Mác - Lênin; từ đó có những đánh giá khách quan để góp phần hiểu đúng về triết học thực dụng Mỹ - một trƣờng phái triết học có tính chất đặc thù, điển hình cho văn hóa Mỹ và có tác động sâu rộng đến mọi lĩnh vực của đời sống xã hội nƣớc Mỹ. 6. Ý nghĩa của luận án - Luận án góp phần nghiên cứu chuyên sâu quan niệm về chân lý của một trƣờng phái triết học điển hình - triết học thực dụng Mỹ. - Luận án có thể sử dụng làm tài liệu tham khảo cho việc nghiên cứu, giảng dạy triết học thực dụng nói riêng, triết học Mỹ nói chung; lý luận nhận thức; về văn hóa Mỹ, v.v Đồng thời là tài liệu tham khảo cho sinh viên, học viên cao học chuyên ngành triết học. 7. Kết cấu của luận án Để đảm bảo mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu, ngoài phần mở đầu, kết luận, danh mục các công trình khoa học của tác giả đã công bố có liên quan đến 6 đề tài luận án và danh mục tài liệu tham khảo, luận án gồm 4 chƣơng, 12 tiết. NỘI DUNG Chƣơng 1 TỔNG QUAN TÌNH HÌNH NGHIÊN CỨU CÓ LIÊN QUAN ĐẾN ĐỀ TÀI LUẬN ÁN 1.1. Tổng quan tình hình nghiên cứu có liên quan về triết học thực dụng Mỹ Hợp chủng quốc Hoa Kỳ đƣợc thành lập vào cuối thế kỷ XVIII, tạo điều kiện cho sự phát triển của một nền văn hóa đặc thù - nền văn hóa Mỹ. Thế nhƣng, phải mất hơn một thế kỷ sau, khi triết học thực dụng ra đời vào cuối thế kỷ XIX, triết học Mỹ mới khẳng định đƣợc vị trí và ảnh hƣởng của mình. Kể từ đó, triết học thực dụng đã trở thành nét đặc trƣng trong văn hóa Mỹ. Triết học thực dụng Mỹ ra đời và phát triển gắn liền với tên tuổi của các “triết gia thực dụng” tiêu biểu là C. Peirce, W. James và J. Dewey. Từ khi xuất hiện đến nay, đã có nhiều học giả nghiên cứu về triết học thực dụng ở nhiều nội dung, khía cạnh của trào lƣu triết học này, cũng nhƣ nghiên cứu nội dung tƣ tƣởng của các triết gia thực dụng. 1.1.1. Tình hình nghiên cứu trong nước Chủ nghĩa thực dụng thâm nhập vào Việt Nam trong thời kỳ Mỹ - Ngụy. Giai đoạn này, ở nƣớc ta chịu ảnh hƣởng khá sâu sắc của tƣ tƣởng chính trị, văn hóa và lối sống Mỹ. Ngoài việc nghiên cứu chủ nghĩa thực dụng để đáp ứng nhu cầu học thuật, việc nghiên cứu trƣờng phái triết học này còn nhằm phục vụ cho nhu cầu thực tiễn xã hội, nhất là phục vụ cho mục đích chính trị nhằm tuyên truyền, cổ vũ cho lối sống Mỹ. Ở miền Bắc, tính đến trƣớc năm 1986, việc nghiên cứu về triết học thực dụng dƣới góc độ học thuật còn hết sức hạn chế, các nghiên cứu về triết học thực dụng đƣợc thể hiện hiện trong các công trình nghiên cứu về triết học phƣơng Tây, các nhà nghiên cứu chủ yếu đều tập trung vào việc phê phán triết học phi mácxít nói chung và triết học thực dụng nói riêng. Một số công trình tiêu biểu có thể kể đến nhƣ: Viện Mác - Lênin (1982), “Chủ nghĩa thực dụng Mỹ và một số biểu hiện hiện tại 7 của nó” trong tác phẩm Triết học và cuộc đấu tranh ý thức hệ; Phạm Minh Lăng (1984), Mấy trào lưu triết học phương Tây, Nxb Đại học và THCN, Hà Nội. Từ sau Đại hội VI (1986) của Đảng Cộng sản Việt Nam, với chủ trƣơng đổi mới toàn diện đất nƣớc, trong đó có công tác tƣ tƣởng lý luận, đã tạo điều kiện thuận lợi và động lực mạnh mẽ cho việc nghiên cứu về triết học phƣơng Tây ngoài mác-xít nói chung và triết học thực dụng Mỹ nói riêng. Các công trình nghiên cứu liên quan trực tiếp và gián tiếp đến chủ nghĩa thực dụng đƣợc thể hiện ở các tài liệu là sách, các bài báo khoa học, các luận án, luận văn tiêu biểu nhƣ: Ấn phẩm dưới dạng sách, tài liệu chuyên khảo: Thời kỳ này, ở nƣớc ta phải kể đến các tác giả nhƣ: Đỗ Minh Hợp (1997), Triết học phương Tây hiện đại, Nxb Khoa học xã hội, Hà Nội; Nguyễn Ngọc Long (1998), Triết học phương Tây hiện đại ngoài mácxít và ảnh hưởng của nó đến Việt Nam hiện nay, Kỷ yếu Hội thảo khoa học, Khoa Triết học, Học viện Chính trị Quốc gia Hồ Chí Minh, trong đó có hai bài viết về chủ nghĩa thực dụng là: “Chủ nghĩa thực dụng và ảnh hưởng của nó đến xã hội Việt Nam” của tác giả Đào Hữu Hải và “Quan niệm về chân lý của chủ nghĩa thực dụng” của tác giả Trần Thành; Phạm Minh Lăng (2001), Những chủ đề cơ bản của triết học phương Tây, Nxb Văn hóa thông tin, Hà Nội. Gần đây, có nhiều nhà nghiên cứu về chủ nghĩa thực dụng, với sự xuất hiện của nhiều công trình nghiên cứu về triết học phƣơng Tây hiện đại nhƣ: Bùi Đăng Duy và Nguyễn Tiến Dũng với các tác phẩm: Lược khảo triết học phương Tây hiện đại (2003), Nxb Chính trị Quốc gia; Lịch sử triết học phương Tây hiện đại (2005), Nxb Tổng hợp TP Hồ Chí Minh và Triết học Mỹ (2006), Nxb Tổng hợp TP Hồ Chí Minh; Đỗ Minh Hợp (2006), Diện mạo của triết học phương Tây hiện đại, Nxb Hà Nội; Mai Sơn (2007), 101 triết gia, Nxb Tri thức; Trƣờng Đại học Khoa học Xã hội và Nhân văn - Đại học Quốc gia Hà Nội (2007), Những vấn đề triết học phương Tây thế kỷ XX, Nxb Đại học Quốc gia, Hà Nội, trong đó có một số bài viết về chủ nghĩa thực dụng và đánh giá về ảnh hƣởng của chủ nghĩa thực dụng đến Việt Nam nhƣ “Chủ nghĩa thực dụng” của tác giả Nguyễn Hùng Hậu; “Chủ nghĩa thực dụng Mỹ - Những tìm hiểu bước đầu” của tác giả 8 Trần Văn Phòng; “Sự ảnh hưởng của chủ nghĩa thực dụng ở Việt Nam” của tác giả Đặng Quang Định; “Bàn về lối sống thực dụng và lối sống xã hội chủ nghĩa” của tác giả Trần Sĩ Phán; Phan Quang Định (2008), Toàn cảnh triết học Âu Mỹ thế kỷ XX, Nxb Văn học; Đỗ Minh Hợp, Nguyễn Anh Tuấn (2008), Đại cương triết học phương Tây hiện đại (nửa sau thế kỷ XIX - nửa đầu thế kỷ XX), Nxb Tổng hợp TP Hồ Chí Minh; Đỗ Kiên Trung (2010), Triết học tân thực dụng, Nxb Tri thức; Lƣơng Văn Kế (2011), Văn hóa Bắc Mỹ trong toàn cầu hóa, Nxb Giáo dục Việt Nam; Nguyễn Thái Yên Hƣơng, Tạ Minh Tuấn (2011), Các vấn đề nghiên cứu về Hoa Kỳ, Nxb Giáo dục Việt Nam; Trịnh Sơn Hoan (2012), William James và chủ nghĩa thực dụng Mỹ, Nxb Chính trị Quốc gia,v.v Có thể thấy trong những năm gần đây, đã xuất hiện nhiều hơn các công trình nghiên cứu về triết học phƣơng Tây hiện đại nói chung và triết học thực dụng Mỹ nói riêng. Tuy nhiên, nghiên cứu về triết học thực dụng Mỹ ở nƣớc ta còn chƣa nhiều, chƣa mang tính hệ thống, có rất ít công trình nghiên cứu chuyên biệt về triết học thực dụng. Trong số đó, chúng ta thấy tập trung vào một số nhà nghiên cứu nhƣ Bùi Đăng Duy, Nguyễn Tiến Dũng, Đỗ Minh Hợp. Trong các công trình này, tiêu biểu nhƣ cuốn Triết học Mỹ, có thể nói đây là công trình đầu tiên ở Việt Nam nghiên cứu toàn diện về triết học Mỹ. Các tác giả đã trình bày từ điều kiện ra đời, các trƣờng phái triết học Mỹ, trong đó triết học thực dụng đƣợc dành dung lƣợng trình bày nhiều nhất. Công trình này giúp chúng ta có đƣợc cái nhìn tƣơng đối toàn diện về triết học Mỹ nói chung và triết học thực dụng nói riêng. Ba nhà triết học thực dụng tiêu biểu đƣợc nghiên cứu phân tích. Trong đó, C. Peirce đƣợc khẳng định là ngƣời sáng lập chủ nghĩa thực dụng, W. James là ngƣời mở rộng ảnh hƣởng của chủ nghĩa thực dụng và J. Dewey đã đƣa chủ nghĩa thực dụng vào đời sống thực tiễn. Thành công của tác giả là đã giúp ngƣời đọc có cái nhìn bao quát về triết học Mỹ nói chung và triết học thực dụng nói riêng. Tuy nhiên, đây là một cuốn sách với nội dung viết về triết học Mỹ là rất rộng, nên sẽ là rất khó để phân tích sâu sắc về trƣờng phái triết học thực dụng và các nhà triết học thực dụng Mỹ, điều này cần phải đƣợc tiếp tục nghiên cứu, làm sáng tỏ. Gần đây, ở nƣớc ta, việc nghiên cứu về triết học thực dụng Mỹ tiếp tục 9 thu hút đƣợc sự quan tâm của một số nhà nghiên cứu. Một số công trình tiêu biểu nhƣ: Triết học tân thực dụng của Đỗ Kiên Trung (2010); William James và chủ nghĩa thực dụng Mỹ của Trịnh Sơn Hoan (2012). Ở các công trình này, các tác giả đã khái quát về quá trình hình thành, các đại diện tiêu biểu, đặc điểm cơ bản của chủ nghĩa thực dụng và một số ảnh hƣởng của trào lƣu triết học này đối với nƣớc ta. Trong cuốn “Triết học tân thực dụng”, tác giả đã bàn đến một vấn đề mới trong dòng chảy của triết học thực dụng, đó là các nhà triết học tân thực dụng. Cuốn sách đƣợc kết cấu thành hai phần, một phần bàn về những điều kiện, tiền đề cho sự hình thành chủ nghĩa thực dụng, những đặc điểm cơ bản của nó thông qua ba nhà triết học tiêu biểu là C. Peirce, W. James và J. Dewey. Trên cơ sở đó, tác giả hƣớng đến mục đích là chỉ ra dòng chảy của triết học thực dụng thông qua sự phát triển của các nhà triết học tân thực dụng, từ đó khái quát những đặc điểm, nội dung mới của triết học tân thực dụng. Có thể nói, đóng góp cơ bản của tác giả ở công trình này là bƣớc đầu chỉ ra sự phát triển của triết học thực dụng thông qua các nhà triết học tân thực dụng. Công trình William James và chủ nghĩa thực dụng Mỹ của Trịnh Sơn Hoan đƣợc xem là một trong những công trình nghiên cứu mới nhất về chủ nghĩa thực dụng ở nƣớc ta. Cuốn sách thể hiện sự cố gắng của tác giả trong việc giới thiệu về chủ nghĩa thực dụng và tƣ tƣởng triết học thực dụng của W. James. Tác giả đã mạnh dạn đƣa ra một số nhận định mang tính khách quan về trƣờng phái triết học này. Tuy nhiên, với tiêu đề của công trình, tác giả đã dành phần lớn dung lƣợng trình bày về nội dung tƣ tƣởng triết học thực dụng của W.James mà chƣa thể trình bày một cách hệ thống về các nhà triết học thực dụng Mỹ, cũng nhƣ vấn đề chân lý. Ấn phẩm là các bài viết đăng trên các tạp chí chuyên ngành: Ngoài những công trình, tài liệu trên, ở nƣớc ta đã xuất hiện một số bài viết của các tác giả có tên tuổi đăng trên các tạp chí chuyên ngành đề cập khái quát về chủ nghĩa thực dụng và các đại diện tiêu biểu của nó nhƣ: Phong Hiền (1972), Chủ nghĩa thực dụng Mỹ và một số biểu hiện hiện đại của nó trong “Thông báo Triết học số 23”; Trần Tuấn Phong (1996), Về khái niệm “kinh nghiệm” trong hệ thống triết học của William James, Tạp chí Triết học, số 2; Đỗ 10 Minh Hợp (1996), Vấn đề tính chủ quan trong triết học phương Tây hiện đại, Tạp chí Triết học, số 1; Nguyễn Hào Hải (1997), Chủ nghĩa thực dụng qua một số đại biểu của nó, Tạp chí Triết học số 4 (98); Nguyễn Tiến Dũng (1997), Chủ nghĩa thực dụng Mỹ, Tạp chí Châu Mỹ ngày nay, số 1 và Một số khía cạnh về văn hóa và con người trong triết học phương Tây hiện đại (1999), Tạp chí Triết học, số 1; Nguyễn Văn Dũng (1999), William James với quan niệm về đạo đức, Tạp chí Triết học, số 3; Nguyễn Tiến Dũng (2002), Triết học Mỹ với việc thiết lập nền tảng cho khoa học, Tạp chí Triết học, số 2; Trịnh Sơn Hoan (2008), Vài nét về chủ nghĩa thực dụng Mỹ, Tạp chí khoa học và công nghệ, Đại học Đà Nẵng, số 5 và Những đánh giá bước đầu về chủ nghĩa thực dụng Mỹ (2012), Tạp chí Triết học, số 6 (253); Trần Sĩ Phán (2012), Ảnh hưởng của chủ nghĩa thực dụng đến lối sống của sinh viên Việt Nam hiện nay, Tạp chí Lý luận chính trị, số 3, v.v Trong bài viết Chủ nghĩa thực dụng Mỹ, tác giả Nguyễn Tiến Dũng đã làm rõ điều kiện hình thành của chủ nghĩa thực dụng, một số nội dung chủ yếu và giá trị cơ bản của chủ nghĩa thực dụng, nhƣ lý luận về kinh nghiệm, vấn đề niềm tin, vấn đề ý nghĩa, những kiến giải về đạo đức, tôn giáo và chính trị, xã hội. Từ đó, tác giả bàn tới sự xâm nhập của chủ nghĩa thực dụng vào Việt Nam. Nội dung của bài báo đề cập là rất phong phú, nhƣng để làm rõ những nội dung cũng nhƣ giá trị của chủ nghĩa thực dụng trong khuôn khổ của một bài báo là rất khó. Mặc dù vậy, đó là tƣ liệu tham khảo giúp chúng ta có cái nhìn khái quát về triết học thực dụng, để tiếp tục nghiên cứu sâu hơn những nội dung của trƣờng phái triết học này. Bài viết Những đánh giá bước đầu về chủ nghĩa thực dụng Mỹ, tác giả Trịnh Sơn Hoan đã trình bày một số nội dung cơ bản của chủ nghĩa thực dụng nhƣ vấn đề kinh nghiệm, niềm tin và hiệu quả trong thực tiễn, phân biệt hai khái niệm thực dụng thƣờng ngày và thực dụng trong chủ nghĩa thực dụng, từ đó đi đến những đánh giá về chủ nghĩa thực dụng. Nhƣ vậy, các bài viết trên đã đề cập một cách khái quát về điều kiện, tiền đề, quá trình hình thành, nội dung, đặc điểm cơ bản của chủ nghĩa thực dụng và tƣ tƣởng của các nhà triết học thực dụng Mỹ. Tuy nhiên, trong khuôn khổ những 11 bài viết về chủ nghĩa thực dụng còn dừng ở mức độ giới thiệu và những nhận định cần đƣợc luận chứng thêm, nhất là việc làm rõ những cơ sở hình thành quan niệm về chân lý và nội dung của quan niệm về chân lý trong triết học thực dụng Mỹ. Đây là nội dung tác giả sẽ tiếp tục nghiên cứu trong luận án. Ở cấp độ luận văn, luận án: Ở cấp độ luận án, luận văn có những công trình nghiên cứu về chủ nghĩa thực dụng Mỹ nhƣ: Nguyễn Ngọc Ba (2004), Ảnh hưởng của chủ nghĩa thực dụng đến nhân cách người cán bộ hậu cần quân đội; Trần Hải Yến (2003), Chủ nghĩa thực dụng Mỹ và sự biểu hiện của nó ở Việt Nam; Trần Thị Hoa (2006), Chủ nghĩa thực dụng của John Dewey; Phan Thị Thùy Dƣơng (2009), Quan niệm của William James về chân lý; Phan Văn Thám (2011), Vấn đề kinh nghiệm trong chủ nghĩa thực dụng Mỹ; Nguyễn Hải Hoàng (2015), Vấn đề niềm tin trong triết học thực dụng của Peirce; Trịnh Sơn Hoan (2015), Vấn đề nhân sinh trong triết học Mỹ... Các tác giả đã khai thác trên nhiều phƣơng diện của chủ nghĩa thực dụng. Tiêu biểu là luận án của tác giả Nguyễn Hải Hoàng khai thác vấn đề niềm tin trong triết học thực dụng của C. Peirce. Để đi đến quan niệm về niềm tin của Peirce, tác giả đã phân tích điều kiện, tiền đề hình thành quan niệm về niềm tin thực dụng. Thành công của tác giả là đã luận giải đƣợc nội dung cơ bản của quan niệm về niềm tin trong triết học thực dụng của Peirce, từ đó chỉ ra đƣợc những giá trị, hạn chế và ảnh hƣởng nó. Đây là cơ sở quan trọng để tác giả luận án tiếp tục tìm hiểu mối liên hệ giữa “niềm tin thực dụng” với vấn đề chân lý trong triết học thực dụng của Peirce. Trong khi đó, luận án của tác giả Trịnh Sơn Hoan nghiên cứu về vấn đề nhân sinh thông qua các trƣờng phái triết học Mỹ, trong đó có triết học thực dụng. Thành công của luận án là đã đƣa ra bức tranh khái quát về triết học nhân sinh Mỹ thông qua các trƣờng phái triết học, đây là những tƣ liệu tham khảo để tác giả tiếp tục đi sâu tìm hiểu về triết học thực dụng nói chung và quan niệm về chân lý của trƣờng phái triết học này nói riêng. 1.1.2. Tình hình nghiên cứu ở nước ngoài Mặc dù triết học thực dụng là trào lƣu có ảnh hƣởng lớn trong đời sống xã hội nhƣng chƣa đƣợc giới nghiên cứu quan tâm một cách tƣơng xứng. Chúng ta 12 thấy không có nhiều công trình nghiên cứu về triết học thực dụng, có thể điểm một số công trình nhƣ: Konvitz M.R., Kennedy G. (1960), The Amercan Pragmatists, The Publishing Company perss, New York; Thayer H.S. (1968), Meaning and Action A Critical History of Pragmatism, The Bobbs - Merrill Company press, New York; White M. (1978), The Philosophy of the American Revolution, Oxford Universty press, New York. Trong các công trình nghiên cứu ...tại phần lớn dựa vào niềm tin nên tất cả đều cần có một sự chứng thực nào đó, nếu không có nó, hệ thống chân lý sẽ sụp đổ giống nhƣ một hệ thống tài chính mà không đƣợc bảo chứng tiền mặt. Tiếp tục quan điểm của W.James, J. Dewey phê phán thuyết chân lý của chủ nghĩa duy lý và thuyết phản ánh của chủ nghĩa duy vật siêu hình. Trong cuốn Các con đường của triết học phương Tây hiện đại (Đinh Ngọc Thạch và Phạm Đình Nghiệm dịch, Nxb Giáo dục), J.K. Melvil đã phân tích quan điểm của J. Dewey, nhấn mạnh tác dụng của thí nghiệm và thăm dò, nên phƣơng pháp của ông thƣờng đƣợc gọi là phƣơng pháp thăm dò. Phƣơng pháp thăm dò của ông xuất phát từ việc giải quyết vấn đề thực tại trong quá trình nhận thức. Ông cho rằng, thực tại “đi trƣớc” nhận thức, thực tại cũng chỉ là kết quả của quá trình nhận thức, từ đó ông đƣa ra phƣơng pháp nghiên cứu chung để tìm ra chân lý gồm 5 bƣớc. Toàn bộ quá trình này đều dựa trên phƣơng pháp thử sai, đó là khả năng tự điều chỉnh của nó, một giả thuyết nào đó đƣợc coi là chân lý nếu nó cho phép giải quyết thành công trong những tình huống có vấn đề. Qua 26 việc khảo sát những công trình nghiên cứu liên quan đến phƣơng pháp luận nhằm nhận thức chân lý, chúng ta nhận thấy, các kết quả nghiên cứu đã giải quyết đƣợc một số nội dung sau: Thứ nhất, các tác giả khẳng định rằng, các nhà triết học thực dụng đều nhấn mạnh vai trò của phƣơng pháp khoa học trong nhận thức chân lý. Thứ hai, các tác giả cho rằng, nhận thức chân lý là một quá trình không phải tĩnh tại, bất biến, mà cần phải đƣợc chứng thực thƣờng xuyên. Thứ ba, đƣa ra các phƣơng pháp để nhận thức chân lý của các nhà triết học thực dụng. Thứ tư, các nhà triết học thực dụng đều tuyệt đối hóa vai trò chủ quan của chủ thể trong quá trình nhận thức chân lý, chân lý là cụ thể, tƣơng đối, không có chân lý tuyệt đối. Tuy nhiên, một đặc điểm chung trong việc nghiên cứu về phƣơng pháp khoa học nhằm đạt đến chân lý của các nhà triết học thực dụng Mỹ là chƣa khái quát đƣợc thành quan niệm mang tính hệ thống mà mới chủ yếu dừng lại ở quan niệm riêng của các nhà triết học thực dụng Mỹ. Nội dung này tác giả xác định là một nhiệm vụ cơ bản phải giải quyết trong luận án của mình. Nhìn chung, thông qua các công trình nghiên cứu trên, các nhà nghiên cứu đã bàn đến khái niệm chân lý thông qua quan niệm của các nhà triết học thực dụng Mỹ là C. Peirce, W. James và J. Dewey. Các tác giả đều thống nhất cho rằng, triết học thực dụng khẳng định chân lý là cái đem lại hiệu quả trong hành động của con ngƣời. Peirce cho rằng hiệu quả thực tế là tiêu chuẩn của chân lý, James và Dewey khẳng định tính hiệu quả có ích, sự thành công là tiêu chuẩn của chân lý. Các nhà triết học thực dụng đều nhấn mạnh vai trò của phƣơng pháp khoa học trong nhận thức chân lý, đồng thời tuyệt đối hóa vai trò chủ quan của chủ thể trong quá trình nhận thức chân lý. Có thể nói, các kết quả nghiên cứu về vấn đề chân lý trong triết học thực dụng Mỹ còn chƣa nhiều, chƣa thành hệ thống. Vì vậy, luận án sẽ tập 27 trung làm sáng tỏ tính hệ thống của quan niệm về về chân lý trong triết học thực dụng Mỹ. 1.3. Tổng quan tình hình nghiên cứu có liên quan về giá trị và hạn chế của quan niệm chân lý trong triết học thực dụng Mỹ Nhìn chung, ở nƣớc ta, nghiên cứu về triết học thực dụng Mỹ chƣa nhiều, nghiên cứu quan niệm về chân lý trong triết học thực dụng Mỹ chƣa đầy đủ. Đặc biệt, việc nghiên cứu về những giá trị và hạn chế của quan niệm về chân lý trong triết học thực dụng Mỹ hầu nhƣ rất ít đƣợc bàn đến. 1.3.1. Giá trị của quan niệm về chân lý trong triết học thực dụng Mỹ Trong cuốn Triết học phương Tây hiện đại, tập 2 (Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội, năm 1994), Lƣu Phóng Đồng đã đƣa ra một số đánh giá về giá trị của quan niệm về chân lý trong triết học thực dụng Mỹ. Ông cho rằng, triết học thực dụng đề cao tác dụng của con ngƣời sáng tạo thế giới, sáng tạo chân lý. Chân lý tồn tại trong quá trình kiểm chứng của thực tiễn, thực tiễn là tiêu chuẩn kiểm nghiệm của chân lý. Công trình Các con đường của triết học phương Tây hiện đại của J.K.Melvil (Nxb Giáo dục, năm 1997), khi bàn về vấn đề chân lý trong triết học thực dụng Mỹ, đã đƣa ra một số nhận định về giá trị của nó nhƣ nhấn mạnh vai trò của các nhà khoa học, các chuyên gia trong việc đánh giá một lý thuyết khoa học, đó là sự phù hợp với thời đại chuyên môn hóa ngày càng cao hiện nay. Trong cuốn Uyliam Giêmxơ của Vƣơng Ngọc Bình đã có những nhận định về quan niệm chân lý của nhà triết học thực dụng W. James, tác giả chỉ ra sự phê phán và bác bỏ của James đối với quan niệm máy móc siêu hình về chân lý. Từ đó, tác giả khẳng định chân lý là một quá trình luôn ở trạng thái động. Trong cuốn Ảnh hưởng của các hệ tư tưởng và tôn giáo đối với con người Việt Nam hiện nay (Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội năm 1997), nhóm tác giả do GS Nguyễn Tài Thƣ chủ biên cho rằng, “Thực dụng cũng là một lý thuyết có công trong việc nâng những điều còn là kinh nghiệm, là những cảm nhận đó lên trình độ triết lý” [114, tr. 114 - 115]. Các tác giả còn nhấn mạnh, trong mọi hoạt động của xã hội, việc quan tâm đến hiệu quả cụ thể là điều cần thiết, phù hợp với 28 cuộc sống hàng ngày của con ngƣời. Tác giả Bùi Đăng Duy và Nguyễn Tiến Dũng với công trình Triết học Mỹ (Nxb Tổng hợp thành phố Hồ Chí Minh, 2006), đã trình bày quan niệm của triết học thực dụng Mỹ về chân lý. Theo các tác giả, W. James coi: “Chân lý tồn tại cùng với con ngƣời chân lý là do con ngƣời dựa vào nhu cầu của mình mà sáng tạo nên ngƣời ta bảo đây là chủ nghĩa nhân bản của chủ nghĩa thực dụng” [31, tr.119]. Một quan điểm khác, các tác giả cho rằng: “James thƣờng phê phán chủ nghĩa duy lý vì nó không phù hợp với chân lý, lợi ích. Chủ nghĩa duy lý đƣa ra một chân lý có sẵn, chân lý trừu tƣợng. Còn chân lý của chủ nghĩa thực dụng là cụ thể” [31, tr. 119 - 120]. Ở chỗ khác, khi phân tích quan điểm của J.Dewey về chân lý, tác giả khẳng định: “Dewey chống lại chủ nghĩa duy lý cho rằng chân lý là khái niệm, là lý tính có sẵn” [31, tr. 136]. Có thể nói, các công trình nghiên cứu trên mới chỉ bƣớc đầu đƣa ra một số nhận định về giá trị của quan niệm về chân lý trong triết học thực dụng Mỹ, cho nên tác giả xem đây là một nội dung quan trọng cần phải tiếp tục nghiên cứu làm rõ. 1.3.2. Hạn chế của quan niệm về chân lý trong triết học thực dụng Mỹ Cuốn Phê phán chủ nghĩa thực dụng của J.K. Melvil là công trình phê phán gay gắt, toàn diện về chủ nghĩa thực dụng. Ngay trong bài viết đầu tiên, tác giả đã phê phán chủ nghĩa thực dụng bằng tiêu đề “Chủ nghĩa thực dụng là triết học của chủ nghĩa duy tâm chủ quan”. Trong bài viết này, tác giả đã lập luận thông qua những luận điểm của triết học thực dụng và chứng minh bằng quan điểm của các nhà triết học thực dụng nhƣ C. Peirce, W. James và J. Dewey. Tác giả đƣa ra khẳng định về chủ nghĩa thực dụng: “coi chân lý có tính chủ quan” [91, tr. 100], họ phủ nhận chân lý khách quan. Tác giả thừa nhận quan điểm của chủ nghĩa thực dụng về chân lý là có căn cứ, căn cứ đó là sự “khuếch đại và tuyệt đối hóa sự có ích của chân lý” [91, tr. 103]. Tuy nhiên, những nhận định của tác giả đƣa ra về chủ nghĩa thực dụng nói chung, quan niệm về chân lý nói riêng còn chịu ảnh hƣởng của lập trƣờng giai cấp và mang tính phiến diện, chủ quan. Trong cuốn Các con đường của triết học phương Tây hiện đai (Nxb Giáo dục, năm 1997), J.K. Melvil khi bàn về quan niệm chân lý trong triết học thực 29 dụng Mỹ, đã đƣa ra một số nhận định về hạn chế của nó nhƣ tính tùy tiện chủ quan, chân lý “chỉ đáng xem là đối tƣợng của ý kiến tập thể” [92, tr. 28]. Theo tác giả, với quan niệm chân lý nhƣ niềm tin, C. Peirce đã tạo ra “một loại thế phẩm cho quan niệm về chân lý khách quan khoa học” [92, tr. 29]. Còn đối với W. James, tác giả cho rằng, quan niệm về chân lý của nhà triết học này là “để bảo vệ tín ngưỡng tôn giáo” [92, tr. 31]. Vì vậy, theo tác giả “khuyết tật cơ bản của chủ nghĩa thực dụng là đem quy tính hữu dụng là cái tạo nên nội dung của tri thức chân lý” [92, tr. 37]. Có thể thấy, đánh giá của tác giả về quan niệm chân lý trong triết học thực dụng có một số điểm đã phản ánh đƣợc hạn chế của triết học thực dụng Mỹ, biểu hiện rõ nhất là lập trƣờng duy tâm chủ quan của trƣờng phái này. Tuy nhiên, những đánh giá của tác giả về hạn chế trong quan niệm về chân lý của triết học thực dụng Mỹ còn mang tính chủ quan, chịu ảnh hƣởng của lập trƣờng giai cấp. Trong cuốn Mấy trào lưu triết học phương Tây (Nxb Đại học và Trung học chuyên nghiệp, năm 1984), tác giả Phạm Minh Lăng đã thể hiện sự phê phán sâu sắc triết học thực dụng nói chung và quan niệm về chân lý trong triết học thực dụng nói riêng. Tác giả nhận định: “Chủ nghĩa thực dụng là hệ tư tưởng của tập đoàn tư bản độc quyền Mỹ”. Tác giả đã phân tích trên các nội dung của trƣờng phái triết học thực dụng, trong đó đặc biệt chú ý chỉ ra hạn chế của trƣờng phái triết học này khi bàn về chân lý. Ông khái quát “Châm ngôn hành động của chủ nghĩa thực dụng là “có lợi”, “có lợi” và “có lợi” [78, tr. 278] và khẳng định: “James đã trắng trợn coi “cái đúng lý” tức cái mà ông gọi là “hậu quả thực tiễn” bằng ngôn ngữ của nhà kinh doanh coi đó là “giá trị tiền mặt”” [78, tr. 285]. Có thể thấy, những đánh giá của tác giả còn thể hiện quan điểm cũ, chịu ảnh hƣởng của lập trƣờng giai cấp, chủ yếu nhằm phê phán triết học thực dụng. Trong tác phẩm Triết học phương Tây hiện đại, tập 2 (Nxb Chính trị Quốc gia, năm 1994), Lƣu Phóng Đồng đã đƣa ra một số đánh giá về hạn chế của quan niệm về chân lý trong triết học thực dụng Mỹ. Ông cho rằng, quan niệm về chân lý của triết học thực dụng Mỹ đã phủ nhận tính khách quan của chân lý: “Mọi quan niệm với tính cách là chân lý chỉ lấy bản thân quan niệm làm căn cứ” [39, 30 tr. 144]. Hạn chế tiếp theo của triết học thực dụng là tuyệt đối hóa một chiều về tác dụng của con ngƣời, quy toàn bộ chân lý là kết quả sáng tạo chủ quan của con ngƣời. Tiếp nữa, trong quan niệm về chân lý của triết học thực dụng Mỹ là sự đồng nhất chân lý với hiệu quả và sự thành công, sai lầm đó là “phủ nhận tính khách quan của chân lý, coi có ích, có hiệu quả là tiêu chuẩn duy nhất của chân lý” [39, tr. 146]. Đồng thời, quan niệm về chân lý của triết học thực dụng phủ nhận tính tuyệt đối của chân lý, cho rằng chân lý chỉ mang tính tƣơng đối. Trong cuốn Ảnh hưởng của các hệ tư tưởng và tôn giáo đối với con người Việt Nam hiện nay (Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội) của nhóm tác giả do GS Nguyễn Tài Thƣ chủ biên, đã đƣa ra nhiều đánh giá cụ thể về hạn chế của triết học thực dụng. Tuy nhiên, chúng ta thấy nhận định này của nhóm tác giả còn thể hiện quan điểm cũ, mang tính chủ quan, phiến diện, một chiều, không thấy đƣợc mặt tích cực của triết học thực dụng Mỹ. Trên cơ sở những kết quả nghiên cứu đã đạt đƣợc, tác giả nhận thấy cần phải có quan điểm khách quan, toàn diện hơn để tiếp tục làm rõ hạn chế trong quan niệm về chân lý của triết học thực dụng. Đó là một nhiệm vụ quan trọng mà luận án phải giải quyết. Nhƣ vậy, qua các nhận định về giá trị và hạn chế của triết học thực dụng nói chung, quan niệm về chân lý trong triết học thực dụng Mỹ nói riêng còn chịu sự chi phối của lập trƣờng giai cấp, nên nhiều nhận định thiếu tính khách quan. Do đó, để đƣa ra một cái nhìn đúng đắn, khách quan về những giá trị cũng nhƣ hạn chế của quan niệm về chân lý trong triết học thực dụng Mỹ, chúng ta phải căn cứ vào nội dung tƣ tƣởng của các nhà triết học thực dụng, đồng thời có sự so sánh, đối chiếu với quan niệm này của một số trƣờng phái triết học, nhất là quan điểm khoa học của triết học Mác - Lênin. Trên cơ sở phân tích nội dung quan niệm về chân lý trong triết học thực dụng Mỹ, thông qua ba đại diện tiêu biểu là C. Peirce, W. James và J. Dewey, tác giả sẽ giải quyết vấn đề này. Có thể nói, đây là điểm mới và đóng góp của luận án khi giải quyết đƣợc những vấn đề đặt ra. 1.4. Đánh giá chung về kết quả nghiên cứu của các công trình khoa học đã 31 công bố và những vấn đề cần tập trung giải quyết trong luận án Thông qua các công trình của các nhà nghiên cứu có liên quan về triết học thực dụng Mỹ, về vấn đề chân lý trong triết học thực dụng Mỹ, dƣới những góc độ tiếp cận khác nhau, có thể thấy, những nghiên cứu trên đã đạt đƣợc một số kết quả sau: Thứ nhất, khái quát điều kiện, tiền đề, quá trình ra đời, phát triển của triết học thực dụng Mỹ. Thứ hai, phân tích những nội dung tƣ tƣởng cơ bản của các nhà triết học thực dụng Mỹ. Từ đó, đa số các nhà nghiên cứu đều thống nhất cho rằng triết học thực dụng là một trào lƣu triết học duy tâm chủ quan, gắn với lập trƣờng của giai cấp tƣ sản. Thứ ba, các tác giả đều cho rằng, điểm đặc sắc của triết học thực dụng là nhấn mạnh kinh nghiệm, hiệu quả trong nhận thức và hành động, coi đây là tiêu chuẩn của chân lý. Triết học thực dụng khẳng định chân lý là cái đem lại hiệu quả trong hành động của con ngƣời. Đồng nhất chân lý với hiệu quả là đặc trƣng của quan niệm về chân lý trong triết học thực dụng Mỹ. Thứ tư, về phƣơng pháp tiếp cận, các nhà nghiên cứu đã bƣớc đầu bàn đến khái niệm chân lý thông qua quan niệm của các nhà triết học thực dụng Mỹ là C.Peirce, W. James và J. Dewey. Quan niệm của triết học thực dụng về tiêu chuẩn của chân lý có sự thống nhất với khái niệm chân lý, đồng nhất chân lý với hiệu quả, cái có ích, sự thành công đã quy định quan niệm về tiêu chuẩn chân lý của triết học thực dụng Mỹ. Từ đó, các tác giả khẳng định rằng, các nhà triết học thực dụng đều nhấn mạnh vai trò của phƣơng pháp khoa học trong nhận thức chân lý và đƣa ra các phƣơng pháp để nhận thức chân lý. Tuy nhiên, chƣa có một công trình nào nghiên cứu quan niệm về chân lý trong triết học thực dụng Mỹ một cách hệ thống. Thứ năm, các công trình nghiên cứu trên mới chỉ bƣớc đầu đƣa ra một số nhận định về giá trị và hạn chế của triết học thực dụng Mỹ nói chung. Tuy nhiên, những đánh giá của các tác giả còn thể hiện quan điểm cũ, chịu ảnh hƣởng của lập trƣờng giai cấp, chủ yếu nhằm phê phán triết học thực dụng. Có thể nói, việc 32 nghiên cứu về những giá trị và hạn chế của quan niệm về chân lý trong triết học thực dụng Mỹ hầu nhƣ rất ít đƣợc bàn đến. Trên cơ sở kế thừa, tiếp thu những kết quả nghiên cứu đã đạt đƣợc về triết học thực dụng Mỹ nói chung, về vấn đề chân lý trong triết học thực dụng Mỹ nói riêng, tác giả nhận thấy cần phải tiếp tục nghiên cứu, tập trung giải quyết một số nội dung sau: Thứ nhất, chƣa có một công trình nào nghiên cứu cơ sở hình thành quan niệm về chân lý trong triết học thực dụng Mỹ, do đó, luận án cần làm rõ cơ sở hình thành quan niệm về chân lý trong triết học thực dụng Mỹ. Đó là cơ sở để luận án lý giải những nội dung của quan niệm về chân lý trong triết học thực dụng Mỹ, cũng nhƣ những giá trị và hạn chế của nó. Thứ hai, luận án cần tiếp tục làm rõ khái niệm triết học thực dụng và vị trí của vấn đề chân lý trong triết học thực dụng Mỹ. Thứ ba, các công trình nghiên cứu mới chỉ bƣớc đầu chỉ ra quan niệm về chân lý của từng triết gia thực dụng, chủ yếu là quan niệm về chân lý của W. James. Vì vậy, luận án cần tiếp tục nghiên cứu, làm rõ một cách hệ thống, toàn diện, mang tính đặc trƣng của quan niệm về chân lý trong triết học thực dụng Mỹ trên cơ sở quan niệm về chân lý của các nhà triết học thực dụng Mỹ. Thứ tư, luận án cần tập trung làm sáng tỏ khái niệm chân lý, tiêu chuẩn của chân lý, phƣơng pháp luận khoa học để đạt đến chân lý của triết học thực dụng Mỹ trên cơ sở quan niệm về chân lý của C. Peirce, W. James và J. Dewey. Thứ năm, các công trình nghiên cứu về vấn đề chân lý trong triết học thực dụng nói chung là chƣa nhiều, nghiên cứu về giá trị và hạn chế của quan niệm về chân lý trong triết học thực dụng lại càng ít. Do đó, luận án cần chỉ ra những giá trị và hạn chế của quan niệm về chân lý trong triết học thực dụng Mỹ trên cơ sở nội dung quan niệm về chân lý của trƣờng phái triết học này. Tác giả xem đây là điểm mới và đóng góp cơ bản của luận án. TIỂU KẾT CHƢƠNG 1 Thông qua các công trình của các nhà nghiên cứu, của các học giả trong nƣớc và nƣớc ngoài về triết học thực dụng Mỹ nói chung, quan niệm về chân lý 33 của trƣờng phái triết học này nói riêng, dƣới những góc độ tiếp cận khác nhau, ở những khía cạnh khác nhau, có thể thấy các nghiên cứu đã đạt đƣợc một số kết quả trong việc làm rõ điều kiện, tiền đề cho sự ra đời của triết học thực dụng Mỹ, những nội dung cơ bản của triết học thực dụng và tƣ tƣởng của các nhà triết học thực dụng Mỹ. Những kết quả này là hết sức cần thiết cho những ngƣời nghiên cứu kế thừa và tiếp tục nghiên cứu. Ở nƣớc ta, có nhiều công trình nghiên cứu về triết học thực dụng Mỹ ở mức độ khái quát, trên cơ sở đó, các tác giả chủ yếu làm rõ tƣ tƣởng triết học của các đại diện tiêu biểu của trƣờng phái triết học này là C. Peirce, W. James, J. Dewey. Vì vậy, có rất ít công trình nghiên cứu chuyên sâu về đặc trƣng của triết học thực dụng Mỹ. Các công trình nghiên cứu quan niệm về chân lý của triết học thực dụng Mỹ còn chƣa tƣơng xứng với vị trí quan trọng của vấn đề này trong triết học thực dụng Mỹ. Thậm chí, ở nƣớc ta hầu nhƣ chƣa có một công trình nào đƣợc công bố về vấn đề này. Mặt khác, việc đƣa ra những nhận định về giá trị và hạn chế của quan niệm về chân lý trong triết học thực dụng Mỹ còn chịu ảnh hƣởng của lập trƣờng giai cấp, vì vậy, trong nhiều nhận định còn thể hiện cách nhìn phiến diện, chủ quan, chƣa phản ánh đúng bản chất của trƣờng phái triết học này. Căn cứ vào tình hình nghiên cứu có liên quan đến nội dung của đề tài luận án, có thể khẳng định, cho đến thời điểm hiện nay, chƣa có một công trình khoa học nào trực tiếp đề cập đến quan niệm về chân lý trong triết học thực dụng Mỹ để từ đó, chỉ ra giá trị và hạn chế của nó ở cấp độ một luận án. Dựa trên quá trình nghiên cứu và những kết quả nghiên cứu có liên quan về triết học thực dụng Mỹ của các nhà nghiên cứu, chúng tôi nhận thấy cần phải tiếp tục nghiên cứu để làm sáng tỏ quan niệm nền tảng của triết học thực dụng - quan niệm về chân lý trong triết học thực dụng Mỹ. Đây là vấn đề có ý nghĩa lý luận và thực tiễn to lớn, góp phần làm rõ bản chất của triết học thực dụng một cách khách quan - vấn đề mà bấy lâu nay chúng ta vẫn còn nhiều tranh luận trái chiều. Tất nhiên, để làm rõ vấn đề này, việc kế thừa những kết quả của các công trình nghiên cứu trƣớc đó là rất cần thiết. 34 Chƣơng 2 CƠ SỞ HÌNH THÀNH QUAN NIỆM VỀ CHÂN LÝ TRONG TRIẾT HỌC THỰC DỤNG MỸ 2.1. Khái quát về triết học thực dụng Mỹ và vị trí của vấn đề chân lý trong triết học thực dụng Mỹ 2.1.1. Khái niệm triết học thực dụng Triết học thực dụng là một trào lƣu triết học ra đời ở Mỹ vào những năm 70 của thế kỷ XIX, là đóng góp độc đáo nhất của tƣ tƣởng Mỹ cho kho tàng triết học nhân loại. Triết học thực dụng đƣợc hình thành với tƣ tƣởng nền tảng của C.Peirce, đƣợc truyền bá rộng rãi bởi W. James và đƣợc đƣa vào đời sống hàng ngày một cách có phƣơng pháp nhờ J. Dewey, trong đó, “ngƣời độc đáo nhất là Charles Peirce, ngƣời thú vị nhất để đọc là William James và ngƣời gây ảnh hƣởng sâu rộng nhất là John Dewey” [89, tr. 237]. Triết học thực dụng Mỹ bắt nguồn từ “Câu lạc bộ siêu hình học” do C.Peirce đứng đầu, thành lập tại Đại học Harvard. Năm 1872, lần đầu tiên ông đƣa ra khái niệm “chủ nghĩa thực dụng” và trình bày những tƣ tƣởng cơ bản, quan niệm chủ yếu của mình về triết học thực dụng trong báo cáo khoa học đọc tại “Câu lạc bộ siêu hình”. Sau đó, báo cáo khoa học này đã đƣợc ông chỉnh lý, bổ sung thành hai bài viết với tên gọi Củng cố niềm tin (The Fixation of Belief) và Làm thế nào để cho tư tưởng của chúng ta được sáng tỏ (How to Make Our Ideas Clear), lần lƣợt đăng trên Nguyệt san khoa học phổ thông (số 11 - 1877 và số 1 - 1878). Hai bài viết này đƣợc coi là những tác phẩm tiêu biểu thể hiện tƣ tƣởng triết học thực dụng của Peirce. Về nguồn gốc của khái niệm triết học thực dụng (Pragmatism). Khái niệm triết học thực dụng xuất phát từ học thuyết về nghĩa của C. Peirce, đây là học thuyết trung tâm trong triết học của ông, mục đích nhằm làm sáng tỏ nghĩa của khái niệm, tƣ tƣởng. Ở đây, ông đã đƣa ra một cách giải thích mới về cách thức để tạo lập nghĩa của khái niệm, từ đó, tạo lập thuật ngữ “pragmatism”. Thuật ngữ chủ nghĩa thực dụng (pragmatism) có nguồn gốc từ chữ “pragma” trong tiếng Hy 35 Lạp (nghĩa là “hành vi”, “thực tiễn”). Ông rút ra kết luận: nội dung tƣ tƣởng nào cũng là tổng số những hiệu quả thực tế, kết quả của những hành động bắt nguồn từ những tƣ tƣởng ấy. Muốn biết đƣợc nghĩa của một tƣ tƣởng và phân biệt đƣợc tƣ tƣởng này với tƣ tƣởng khác, chỉ cần căn cứ vào hiệu quả thực tế của chúng. C.Peirce đã trình bày châm ngôn về chủ nghĩa thực dụng nhƣ sau: “Ngƣời ta cần suy nghĩ từ chân lý của khái niệm tất nhiên sẽ có đƣợc hiệu quả thực tế mong đợi. Tổng hòa các hiệu quả này sẽ tạo nên toàn bộ nghĩa của khái niệm đó” [135, T.V, đoạn 9]. Châm ngôn này của C. Peirce đã thể hiện nội hàm của khái niệm triết học thực dụng: nghĩa của khái niệm là toàn bộ hiệu quả thực tế do khái niệm, tư tưởng đó tạo ra. Thực ra, khái niệm “chủ nghĩa thực dụng” (pragmatism) là do W. James nêu ra lần đầu tiên trong một bài phát biểu đọc tại California vào năm 1898 với tên gọi Khái niệm triết học và hiệu quả thực tế. Trong bài phát biểu này, James đã đề cập đến “nguyên tắc Peirce” và “nguyên tắc chủ nghĩa thực tế hay chủ nghĩa thực dụng” của C.Peirce. Bản thân Peirce, trong báo cáo khoa học đọc tại “Câu lạc bộ siêu hình” và cả trong hai bài viết đƣợc chỉnh lý từ báo cáo này, ông vẫn chƣa sử dụng danh từ “chủ nghĩa thực dụng”. Sau này, ông đã nhiều lần định sử dụng danh từ này, nhƣng cảm thấy nghĩa của nó chƣa đƣợc rõ ràng nên chƣa dùng. Đến năm 1902, khi viết đề mục Từ điển triết học tâm lý của Boune, ông mới sử dụng danh từ này. Tuy nhiên, cũng vào thời gian này, ông nhận thấy quan điểm của mình về chủ nghĩa thực dụng đã bị James giải thích một cách sai lệch. Do vậy, để phân biệt với quan điểm của James và các nhà thực dụng chủ nghĩa khác, ông đã sửa đổi danh từ “chủ nghĩa thực dụng” thành “chủ nghĩa thực hiệu” (pragmaticism) và cho rằng, việc sử dụng danh từ “xấu xí” này sẽ không bị ngƣời khác giải thích sai lệch [135, T.VI, đoạn 482]. Ở đây, chúng ta thấy, khi C.Peirce dùng khái niệm “chủ nghĩa thực hiệu” ông muốn giải thích khái niệm này bằng hiệu quả thực tế, bởi theo ông khái niệm “chủ nghĩa thực dụng” đang bị ngƣời ta hiểu bằng cách giải thích điển hình của James là cái “có lợi”, “có ích” bằng “giá trị tiền mặt” mà Peirce không đồng ý. Triết học thực dụng giải quyết mối quan hệ giữa tƣ duy và hành động, thể hiện cách tƣ duy đặc thù. Bản thân khái niệm “thực dụng” đã thể hiện cách thức 36 tƣ duy trong hành động, thƣớc đo của tƣ duy là kết quả của hành động. Phƣơng thức tƣ duy đó không xem xét khái niệm trong bản thân khái niệm, mà đi sâu nghiên cứu xem khi sử dụng chúng thì sẽ tạo ra những hiệu quả thực tế nào. Điều quan trọng không phải là vấn đề nhận thức đúng về thế giới, mà nhận thức đó giúp ích gì cho hành động của con ngƣời. Giá trị của tƣ tƣởng, khái niệm thể hiện ở hiệu quả có thể kiểm nghiệm đƣợc của nó khi áp dụng vào hoạt động thực tiễn. Về vị trí và đóng góp của C. Peirce, W. James, J. Dewey đối với sự hình thành và phát triển của triết học thực dụng, có thể khẳng định, “đóng góp của Pierce là đã hệ thống hóa phƣơng pháp và khái quát hóa về lý luận đƣợc nêu lên trong “câu lạc bộ siêu hình học”, đặt nền tảng cho sự sinh ra và phát triển của chủ nghĩa thực dụng” [9, tr. 77], còn W. James là “nhà thực dụng lỗi lạc nhất, thì J. Dewey là nhà thực dụng ảnh hƣởng nhất” [106, tr. 315]. Về cơ bản, những tƣ tƣởng của Dewey có sự kế thừa khá trung thành quan điểm thực dụng của các vị tiền bối, từ chủ nghĩa duy nghiệm tự nhiên, quan điểm thực tiễn, phƣơng pháp thăm dò đến chủ nghĩa công cụ. Ông đã đƣa tƣ tƣởng thực dụng một cách có phƣơng pháp vào sinh hoạt hàng ngày trong đời sống xã hội Mỹ. Nhƣ vậy, đặc điểm chung của triết học thực dụng là nhấn mạnh triết học cần đi sâu và giải quyết những vấn đề của đời sống thực tiễn, coi chân lý là niềm tin vững chắc, là xuất phát điểm của hành động, thực dụng là phương thức tư duy trong hành động, hành động là phương tiện chủ yếu, mục đích của hành động là hiệu quả thực tế. 2.1.2. Triết học thực dụng Mỹ với việc xác định đối tượng, nhiệm vụ nghiên cứu của triết học Từ khi triết học thực dụng xuất hiện trên diễn đàn triết học, với các đại diện tiêu biểu là C. Peirce, W. James và J. Dewey, đã đặt ra vấn đề thực hiện một cuộc cách mạng trong triết học, đó là việc xác định lại đối tượng và nhiệm vụ nghiên cứu của triết học. Các nhà triết học thực dụng cho rằng, nhiệm vụ của triết học chỉ là vấn đề nhận thức luận và phương pháp luận khoa học, chứ không phải là vấn đề thế giới quan. Triết học phƣơng Tây phân ra thành hai khuynh hƣớng là chủ nghĩa duy vật và chủ nghĩa duy tâm, xoay quanh việc giải quyết 37 các nội dung cơ bản là bản thể luận, nhận thức luận, thế giới quan, phƣơng pháp luận. Đó là xuất phát điểm để xây dựng nên hầu hết các trƣờng phái triết học Tây Âu truyền thống. Với việc các trƣờng phái triết học phân ra hai khuynh hƣớng duy tâm và duy vật này đã tạo ra cuộc đấu tranh một cách liên tục giữa chúng trong lịch sử triết học. Các nhà triết học thực dụng Mỹ không đặt ra việc giải quyết vấn đề cơ bản của triết học, né tránh đề cập đến các phạm trù vật chất và ý thức, họ muốn đi theo con đƣờng điều hòa, trung lập các trƣờng phái triết học. Họ phê phán mạnh mẽ toàn bộ nền triết học trƣớc đây vì chỉ nghiên cứu những vấn đề mà theo họ không liên quan gì đến con ngƣời, đến hoạt động và cuộc sống của con ngƣời, vì thế nó không cần thiết. Với triết học thực dụng, vấn đề đƣợc đặt ra và giải quyết không phải là vấn đề về bản nguyên của thế giới hay nhận thức thế giới nhƣ thế nào, đúng đắn hay sai lầm mà là hành động hiệu quả hay không hiệu quả. Mệnh đề triết học thực dụng đƣa ra là: Tư tưởng, quan niệm có thể trở thành niềm tin của con người hay không, tùy thuộc vào việc nó có tạo cơ sở cho con người hành động đạt được hiệu quả, mục đích và thành công như dự tính hay không. Theo C. Peirce, “chỉ cần đạt tới niềm tin vững chắc, chúng ta hoàn toàn thoả mãn, bất cứ niềm tin đó là đúng hay sai” [135, T.V, đoạn 375]. Do đó, các quan niệm khác nhau nếu đƣa đến hành động và đạt tới hiệu quả, mục đích mong muốn thì đều đƣợc thừa nhận. Bắt đầu từ C. Peirce, ngƣời sáng lập ra triết học thực dụng, thì sứ mệnh của triết học không phải là nhận thức thế giới, mà là củng cố niềm tin. Theo ông, mọi vấn đề cần phải liên quan đến củng cố niềm tin, tác động đến hành động của con ngƣời thì mới nên tồn tại trong triết học chân chính, đã là niềm tin thì không cần thiết phải là sự phản ánh đúng thực tại khách quan, không cần phải nhận thức đúng đắn, nó có thể chỉ là giả thuyết chủ quan. Ông đƣa ra quan điểm này với mong muốn vƣợt ra ngoài giới hạn đối lập chủ quan và khách quan, tuy nhiên, nó vẫn thể hiện khuynh hƣớng chủ quan. C. Peirce cho rằng, học thuyết của ông không phải là học thuyết siêu hình, không có ý định đạt đến bất kỳ tính chân thực nào, mà chủ yếu nhằm mục đích làm cho tƣ tƣởng, quan điểm của con ngƣời trở nên rõ ràng. Ông muốn biến triết 38 học thực dụng trở thành “một loại lôgíc khoa học hoặc phương pháp luận khoa học” dùng để phân tích nghĩa của khái niệm: “Triết học về phƣơng pháp cần bắt chƣớc khoa học thành công, chỉ lấy việc nghiên cứu tỉ mỉ, rõ ràng làm tiền đề xuất phát, dựa vào các nghiệm chứng đa dạng khác nhau, chứ không nên dựa vào quyết định của cá nhân” [40, tr. 322]. Từ việc coi nhiệm vụ của triết học là củng cố niềm tin, định ra phƣơng pháp luận khoa học, ông đã đi đến xây dựng phương pháp luận trên cơ sở “lý thuyết thăm dò - hoài nghi - niềm tin”. Ông quan tâm chủ yếu đến phƣơng pháp làm cho tƣ tƣởng, khái niệm của con ngƣời trở nên sáng tỏ. Ông muốn làm cho triết học thực dụng trở thành một loại lôgíc khoa học hoặc phƣơng pháp luận khoa học, để làm rõ nghĩa của khái niệm, tƣ tƣởng, để đạt đƣợc niềm tin vững chắc, làm công cụ hành động, đạt tới mục đích đặt ra. Ông đặt ra nhiệm vụ cải tạo triết học nhằm biến triết học với từ “P” viết hoa (Philosophy: một lý thuyết hàn lâm, trừu tƣợng, phổ quát) thành chữ “p” viết thƣờng (philosophy: một lý thuyết thiết thực, hiệu quả). Triết học thực dụng thể hiện cách thức tƣ duy trong hành động. Theo đó, cách thức tƣ duy của triết học thực dụng có thể trở thành chìa khóa để giải quyết các cuộc tranh luận triết học, dựa trên cách thức đó thì các cuộc đấu tranh giữa chủ nghĩa duy vật và chủ nghĩa duy tâm trong triết học truyền thống đƣợc coi là cuộc đấu tranh có tính chất siêu hình, vô nghĩa. Bởi vì, theo cách nhìn của triết học thực dụng thì kinh nghiệm thực tế của con ngƣời về thế giới cơ bản đều giống nhau. Theo C. Peirce, nếu dựa trên hiệu quả thực tế mà xem xét thì thế giới, dù là vật chất hay tinh thần cũng không khác biệt gì, mà khác biệt nằm ở chỗ hiệu quả thực tế do nó tạo ra, đó cũng là quan niệm cơ bản về chân lý của triết học thực dụng. W. James đã tiếp tục công cuộc cải tạo triết học đƣợc C. Peirce đặt ra, trọng tâm vẫn là việc làm rõ đối tƣợng, nhiệm vụ của triết học. Triết học thực dụng của ông với mong muốn vƣợt lên sự đối lập nhị nguyên duy vật và duy tâm, không bàn đến vấn đề thế giới quan mà chỉ là vấn đề nhận thức luận và phƣơng pháp luận thuần túy. Ngay từ đầu, James đã nhấn mạnh triết học thực dụng trƣớc hết là một phƣơng pháp. Thuyết thực dụng là một phƣơng pháp dựa 39 vào đời sống thực tế, nhằm bác bỏ tính chất giáo điều của các thuyết duy lý. Hơn n...n quan chặt chẽ với kinh nghiệm của con ngƣời, tính chân lý phụ thuộc vào yếu tố niềm tin của cá nhân, do đó chân lý luôn biến đổi, không có chân lý tuyệt đối, nó chỉ mang tính tƣơng đối. Ông ủng hộ quan điểm cho rằng mỗi ngƣời tùy thuộc vào kinh nghiệm, vào hiệu quả, sự thỏa mãn nhu cầu, mục đích của mình mà xác định tính chân lý của riêng mình. Quan điểm này là cơ sở lý luận để giai cấp tƣ sản biện hộ cho việc theo đuổi mục đích lợi ích, hiệu quả của mình bất chấp mọi thủ đoạn miễn là đạt đƣợc mục đích lợi nhuận. J. Dewey phủ nhận tính khách quan của chân lý, đồng thời cũng phủ nhận tính tuyệt đối của chân lý. Ông có khuynh hƣớng chủ nghĩa tƣơng đối trong quan niệm về chân lý. Trên cơ sở chỉ ra những sai lầm của chủ nghĩa siêu hình, khi cho rằng, chân lý là khái niệm lý tính tiên nghiệm, mang tính tĩnh tại, bất biến, đồng thời cũng phản đối thuyết phản ánh của chủ nghĩa duy vật. Ông cho rằng mọi tƣ tƣởng, khái niệm không thể là sự mô tả hiện thực khách quan, chỉ có thể là những giả thiết ứng dụng, mà giả thiết là do con ngƣời đề xuất theo ý muốn chủ quan của mình; nó nhƣ những công cụ đƣợc con ngƣời sử dụng khi cảm thấy tiện lợi. Từ đó, ông phủ định tính khách quan, tính tuyệt đối của chân lý, đồng thời cũng nhấn mạnh tính tƣơng đối, chủ quan của chân lý. Theo J. Dewey, thực tại “đi trƣớc” nhận thức; nhận thức là sự can thiệp mang tính tích cực, sáng tạo của chủ thể vào đối tƣợng, làm biến đổi đối tƣợng. Khách thể tồn tại khách quan bị tan biến vào “quá trình nghiên cứu”. Tuyệt đối hóa vai trò chủ quan của chủ thể trong quá trình nhận thức, biến tồn tại tự thân của sự vật thành tồn tại của nhận thức là đặc trƣng trong phƣơng pháp nhận thức khoa học của ông. Thực tại cũng chỉ đƣợc ông xem là kết quả của quá trình nhận thức: “Sự thay đổi các quan niệm của chúng ta về đối tƣợng đã tạo nên đối tƣợng phù hợp với trạng thái ý thức, nói cách khác, quá trình nhận thức là quá trình “xác lập thực tại”. Tồn tại - nghĩa là trở thành đối tƣợng của nghiên cứu khoa học” [92, tr. 41]. 145 J. Dewey lý giải quá trình nghiên cứu theo tinh thần của C. Peirce. Cuộc sống đặt con ngƣời vào những tình huống nan giải, những trạng thái hoài nghi. Bị rơi vào tình huống ấy, con ngƣời cần đến phƣơng pháp để giải quyết vấn đề. Chức năng duy nhất của tƣ duy là cải tạo tình huống chƣa xác định thành tình huống xác định. Khoa học là một loại hộp đựng công cụ, từ đó ngƣời ta lựa chọn những gì tiện lợi, có hiệu quả trong những điều kiện nhất định. Nếu nhƣ triết học Mác - Lênin khẳng định chân lý vừa có tính tƣơng đối, vừa có tính tuyệt đối, thì triết học thực dụng phủ nhận tính tuyệt đối của chân lý và xem chân lý chỉ thuần túy tƣơng đối với hiệu quả, lợi ích cho con ngƣời. Ngay cả việc triết học thực dụng thừa nhận tính tƣơng đối của chân lý, thì quan niệm đó cũng khác cơ bản so với quan niệm của triết học Mác - Lênin. Triết học Mác - Lênin xuất phát từ việc coi chân lý là một quá trình con ngƣời nhận thức về thế giới trên cơ sở thực tiễn, là sự thống nhất giữa chủ thể và khách thể, trong đó chủ thể phản ánh khách thể thông qua thực tiễn; thực tiễn luôn vận động, biến đổi. Vì vậy, quá trình phản ánh của chủ thể về thế giới khách quan trong những trƣờng hợp cụ thể là đúng đắn nhƣng chỉ là tƣơng đối đầy đủ - khi đó xuất hiện chân lý tƣơng đối; đồng thời triết học Mác - Lênin cũng khẳng định con ngƣời có khả năng nhận thức đƣợc đúng đắn bản chất của thế giới. Nhận thức là một quá trình phản ánh thế giới khách quan, là sự thống nhất giữa chủ thể và khách thể. Theo đó chân lý tƣơng đối không ngừng đƣợc bổ sung, khi đó xuất hiện chân lý tuyệt đối. Chân lý tƣơng đối và chân lý tuyệt đối có quan hệ thống nhất với nhau, trong đó, tổng số chân lý tƣơng đối chính là chân lý tuyệt đối: “Chân lý tuyệt đối đƣợc cấu thành từ tổng số những chân lý tƣơng đối đang phát triển; chân lý tƣơng đối là sự phản ánh tƣơng đối đúng của một khách thể tồn tại độc lập với nhân loại; những phản ánh ấy ngày càng trở nên chính xác hơn; mỗi chân lý khoa học, dù là có tính tƣơng đối, vẫn chứa đựng một yếu tố tuyệt đối” [81, tr. 383]. Vì vậy, chân lý vừa có tính tương đối, vừa có tính tuyệt đối. Còn đối với triết học thực dụng, chân lý đƣợc xem là công cụ, phƣơng tiện, phƣơng pháp tƣ duy để đạt hiệu quả, lợi ích, sự thành công trong hành động. Chân lý gắn liền với tính hữu dụng của hành động; mà hành động để đem lại hiệu quả lại gắn với hoàn cảnh hay tình huống cá biệt, của từng cá nhân con 146 ngƣời riêng biệt, cụ thể. Do đó, chân lý chỉ là tƣơng đối. Có bao nhiêu công cụ, giải pháp đem lại hiệu quả trong việc giải quyết những vấn đề đặt ra cho từng con ngƣời, từng hoàn cảnh cụ thể thì sẽ có bấy nhiêu chân lý. Cho nên, tính tƣơng đối của chân lý đƣợc hiểu là tính tƣơng đối trong việc đem lại hiệu quả của hành động khi con ngƣời lựa chọn một giải pháp này, một phƣơng pháp này mà không phải là cái khác. Các nhà triết học thực dụng chỉ thừa nhận và khẳng định sự tồn tại của chân lý tƣơng đối, đồng thời kiên quyết phủ nhận sự tồn tại của chân lý tuyệt đối, không thấy đƣợc mối quan hệ giữa chúng. Tóm lại, quan niệm về chân lý của triết học thực dụng có một số giá trị nhất định. Đó là sự cố gắng đi tìm những kiến giải mới trong nhận thực triết học. Đề cập đến thực tiễn và giải quyết những vấn đề thực tiễn, phục vụ cho con ngƣời là đích hƣớng tới của triết học thực dụng. Ở đây, trƣờng phái triết học thực dụng khẳng định quan điểm thực tiễn, khẳng định triết học không xa rời thực tiễn, mà luôn xuất phát và phục vụ cho thực tiễn; qua đó cũng thể hiện tinh thần nhân văn, vì con ngƣời và phục vụ con ngƣời. Vì thế, không phải ngẫu nhiên, triết học thực dụng trở thành một nét đặc trƣng trong văn hóa Mỹ, có tác động không nhỏ đến mọi mặt đời sống xã hội nƣớc Mỹ. Đây là đóng góp cơ bản của quan niệm về chân lý trong triết học thực dụng Mỹ. Đồng thời, trong quan niệm về chân lý, triết học thực dụng Mỹ cũng bộc lộ một số hạn chế. Xuất phát từ lập trƣờng duy tâm chủ quan, trong quan niệm về chân lý, các nhà triết học thực dụng nhấn mạnh tính chủ quan, tính cá thể, tính cụ thể, tính tƣơng đối của chân lý, phủ nhận tính khách quan, tính tuyệt đối và tiêu chuẩn khách quan của chân lý. Ở một góc độ nào đó, chúng ta thấy quan niệm về chân lý của triết học thực dụng Mỹ thể hiện lập trƣờng giai cấp và bảo vệ cho lợi ích của giai cấp tƣ sản. TIỂU KẾT CHƢƠNG 4 Đồng nhất chân lý với hiệu quả thực tế là đặc trƣng cơ bản của quan niệm về chân lý trong triết học thực dụng Mỹ. Nó cũng là nền tảng của triết học thực dụng và khi nhắc đến triết học thực dụng là nhắc đến hiệu quả của hành động. Vì vậy, có ý kiến còn nhấn mạnh đây là trƣờng phái triết học hành động, thể hiện triết lý hành động. Chính vì vậy, không phải ngẫu nhiên, triết học thực dụng trở thành nét đặc trƣng của văn hóa Mỹ. Sở dĩ nó có ảnh hƣởng lớn nhƣ vậy đối với 147 ngƣời Mỹ, xã hội Mỹ bởi quan niệm về chân lý đã đi sâu vào những vấn đề thực tế đời sống, nhằm cải tạo thực tiễn của con ngƣời. Nó quan tâm trả lời câu hỏi làm thế nào để suy nghĩ và hành động đạt đƣợc hiệu quả, ích lợi và thành công. Điều đáng nói ở đây là triết học thực dụng nói chung và quan niệm về chân lý của triết học thực dụng nói riêng đã có sự phù hợp với văn hóa và lối sống của ngƣời Mỹ; cũng bởi sự phù hợp này, triết học thực dụng đƣợc ngƣời Mỹ, xã hội Mỹ dễ dàng chấp nhận nhƣ một triết lý nội sinh thấm sâu vào huyết mạch và khí quản con ngƣời. Nó không chỉ ảnh hƣởng đến nƣớc Mỹ, mà còn ảnh hƣởng đến nhiều nƣớc trên thế giới. Điều đó là minh chứng sống cho những giá trị của quan niệm về chân lý nói riêng và của triết học thực dụng nói chung. Những giá trị cơ bản của quan niệm về chân lý trong triết học thực dụng Mỹ có thể khái quát ở những nội dung coi trọng thực tiễn, nhấn mạnh hiệu quả trong hành động, phê phán quan niệm tƣ biện về chân lý, khẳng định tính năng động chủ quan trong quá trình nhận thức chân lý. Giá trị đó không dừng lại ở mặt lý luận, nó còn là sự khẳng định về mặt thực tiễn. Thực tiễn nƣớc Mỹ là một mảnh đất chứng minh rằng, một trƣờng phái triết học nếu biết giải quyết những vấn đề của thực tiễn cuộc sống đặt ra sẽ có sức mạnh và tầm ảnh hƣởng to lớn. Trƣờng hợp đó rất đúng với quan niệm về chân lý trong triết học thực dụng Mỹ. Có thể khẳng định, đặc trƣng chủ yếu của quan niệm về chân lý trong triết học thực dụng là sự nhấn mạnh hiệu quả hành động; điều này có những yếu tố hợp lý nhất định, đáp ứng đƣợc nhu cầu, khát vọng, ham muốn tự do, sáng tạo và ƣớc muốn thay đổi; đặc biệt là sự coi trọng thành quả sáng tạo của cá nhân đƣợc thể hiện ở tính hữu dụng, sự thành công. Chính nó đã đem lại những giá trị nhất định cho con ngƣời và xã hội. Tuy nhiên, cũng từ quan niệm quá chú trọng, tuyệt đối hóa hiệu quả, cái có ích của hành động đã làm xuất hiện những hạn chế nhất định. Triết học thực dụng nói chung, quan niệm về chân lý của triết học thực dụng nói riêng, không thể giải quyết đƣợc mối quan hệ giữa cái chung và cái riêng, giữa hiệu quả của cá nhân và hiệu quả cho cộng đồng xã hội. Tất nhiên, trong tƣơng quan so sánh với quan niệm về chân lý của triết học Mác - Lênin nói chung và phạm trù thực tiễn nói riêng, chúng ta càng thấy rõ hơn những giá trị và hạn chế của quan niệm về chân lý trong triết học thực dụng Mỹ. 148 KẾT LUẬN Chân lý là một vấn đề cơ bản trong lý luận nhận thức. Nghiên cứu về vấn đề này có rất nhiều quan niệm khác nhau, trong đó có quan niệm về chân lý của triết học thực dụng. Quan niệm về chân lý của trƣờng phái triết học này là một sự cố gắng đi tìm cách lý giải mới, khác với các quan niệm truyền thống về bản chất của chân lý. Quan niệm độc đáo, mới mẻ của triết học thực dụng về vấn đề chân lý đã gây ra nhiều ý kiến trái chiều, đồng tình có, phản đối có, khen có, chê có. Tuy nhiên, chúng ta không thể phủ nhận ảnh hƣởng của triết học thực dụng tới xã hội Mỹ nói riêng và tới các nƣớc trên thế giới nói chung. Ảnh hƣởng đó theo hai hƣớng, cả theo chiều hƣớng tích cực lẫn theo chiều hƣớng tiêu cực; thậm chí đã có lúc, ngƣời ta còn đồng nhất chủ nghĩa thực dụng với lối sống thực dụng. Sở dĩ có sự ảnh hƣởng to lớn nhƣ vậy chính là do vấn đề chân giá trị mà triết học thực dụng theo đuổi, hay chính là việc lý giải quan niệm về chân lý của trƣờng phái triết học này. Lý giải vấn đề này, luận án đã góp phần làm rõ hơn nguyên nhân của sự ảnh hƣởng đó. Nói tới nƣớc Mỹ, ngƣời Mỹ và sự hùng mạnh của nƣớc Mỹ trong thế giới hiện đại là chúng ta nhắc đến triết học thực dụng - thứ triết học đƣợc xem nhƣ “đặc sản tinh thần của ngƣời Mỹ”, đƣợc coi là công cụ hữu hiệu bậc nhất giúp nƣớc Mỹ khẳng định sự hùng mạnh của mình. Ngƣời Mỹ tôn thờ triết học thực dụng nhƣ tôn thờ chân lý của sự sống còn trong một quốc gia đa sắc tộc, đa văn hóa. Từ châm ngôn thực dụng của C.Peirce, chân lý ở tính hữu dụng tƣơng lai với những mục tiêu của con ngƣời, W.James đã phát triển thành quan niệm chân lý là hiệu quả, cái gì hữu ích cái đó là chân lý. Đến J.Dewey, chân lý là sự khẳng định có cơ sở, sự khẳng định đó dựa trên tính hiệu quả, có tác dụng giúp con ngƣời thỏa mãn, thành công trong việc giải quyết những tình huống có vấn đề. Trong ba nhà triết học thực dụng Mỹ, thì quan điểm của C.Peirce nhấn mạnh lý luận về nghĩa hơn cả học thuyết về chân lý. Ông là ngƣời đặt cơ sở, nền móng cho toàn bộ lý luận của triết học thực dụng về chân lý. Quan điểm của W.James về vấn đề chân lý thể hiện đầy đủ, hoàn chỉnh nhất. 149 J.Dewey là ngƣời phát triển lý luận chân lý trong lý luận về chủ nghĩa công cụ. Đồng nhất chân lý với tính hữu dụng trở thành quan điểm nền tảng của lý luận thực dụng về chân lý. Quan niệm về chân lý của triết học thực dụng có những hạn chế, bên cạnh đó cũng có một số giá trị nhất định. Giá trị của triết học thực dụng khi bàn về vấn đề chân lý ở sự phê phán những hạn chế, sai lầm của triết học tƣ biện, coi chân lý là những giá trị vĩnh hằng, bất biến. Ở khía cạnh này, triết học thực dụng tỏ ra có lý khi cho rằng, chân lý chỉ mang tính tƣơng đối và thƣờng xuyên phải hiệu chỉnh khi những căn cứ cho sự tồn tại của nó đã thay đổi. Tuy nhiên, phủ định tính tuyệt đối của chân lý lại là quan điểm sai lầm. Triết học thực dụng bàn đến vấn đề thực tiễn, sự phù hợp của khái niệm với “thực tại”. Về điểm này, các nhà triết học thực dụng đã trung thành với quan điểm nền tảng của mình khi cho rằng, sự phù hợp với thực tại không phải là sự phù hợp với thế giới khách quan, mà là sự phù hợp của một bộ phận thế giới với lợi ích của con ngƣời. Có thể nói, quan điểm này của triết học thực dụng đã phủ nhận tiêu chuẩn khách quan của chân lý; coi chân lý chỉ thuần túy chủ quan, là sự thỏa mãn lợi ích của con ngƣời. Việc nhấn mạnh nhận thức chân lý là quá trình đƣợc chứng thực và có hiệu quả trong đời sống thực tiễn, đã cho thấy triết học thực dụng coi trọng vấn đề thực tiễn trong nhận thức; xem nhận thức là một quá trình biện chứng có sự chứng thực bằng hiệu quả thực tế. Các nhà triết học thực dụng Mỹ đề cao vai trò năng động, sáng tạo của chủ thể trong quá trình nhận thức chân lý, bởi suy cho cùng, con ngƣời với tƣ cách là chủ thể đƣợc coi là cội nguồn của sự sáng tạo và sức mạnh trong nhận thức, cải tạo thế giới, hay con người là thước đo chính mình và của vạn vật. Đƣơng nhiên, sai lầm của họ là cách hiểu thực tiễn chẳng qua chỉ là hoạt động kinh nghiệm thuần túy mang tính chủ quan của con ngƣời vì mục đích có ích cho con ngƣời. Thậm chí, các nhà triết học thực dụng còn ủng hộ và luận chứng cho sự tồn tại mang tính hợp lý của tôn giáo, vì tôn giáo giúp thỏa mãn nhu cầu, là có ích đối với con ngƣời. Có thể nói, triết học thực dụng ra đời, tồn tại và phát triển đƣợc coi là hệ thống 150 lý luận có sự phù hợp với xã hội Mỹ nói riêng và đặc điểm xã hội phƣơng Tây hiện nay nói chung. Nghiên cứu quan niệm của triết học thực dụng về chân lý giúp chúng ta có cơ sở để so sánh, đối chiếu với quan niệm về chân lý của các trào lƣu triết học phƣơng Tây hiện đại và các trào lƣu triết học khác. Qua nghiên cứu vấn đề chân lý trong triết học thực dụng Mỹ, tác giả luận án đã cố gắng đƣa ra một cách nhìn khách quan, với mong muốn tìm thấy những giá trị tích cực vốn có của nó trong những điều kiện nhất định. Từ quan điểm khách quan đó, tác giả cũng thấy rõ những hạn chế cơ bản của trƣờng phái triết học này khi bàn về vấn đề chân lý. Quan điểm khách quan đó càng khẳng định tính đúng đắn của quan niệm về chân lý trong triết học Mác - Lênin nói riêng và lý luận nhận thức nói chung. Tuy nhiên, trong phạm vi của một đề tài luận án, tác giả đã cố gắng, nỗ lực hoàn thành mục đích và nhiệm vụ đặt ra, nhƣng cũng không tránh khỏi hạn chế chủ quan, chƣa thật toàn diện về vấn đề nghiên cứu, đặc biệt đây là một vấn đề khó. Tác giả mong rằng trong tƣơng lai sẽ có sự phát triển và hoàn thiện thêm ở cấp độ cao hơn, với chất lƣợng tốt hơn, nhằm đáp ứng đƣợc một phần nào đó về lý luận và thực tiễn khi nghiên cứu về vấn đề chân lý nói riêng và lý luận nhận thức nói chung hiện nay. 151 DANH MỤC CÁC CÔNG TRÌNH KHOA HỌC CỦA TÁC GIẢ ĐÃ CÔNG BỐ CÓ LIÊN QUAN TỚI ĐỀ TÀI LUẬN ÁN 1. Nguyễn Văn Thỏa, C.S.Peirce với quan niệm về chân lý (2012), Tạp chí Triết học, số 12 (259). Trang: 74 - 83. 2. Nguyễn Văn Thỏa, Quan niệm của John Dewey về chân lý (2013), Tạp chí Khoa học, Volume 58, Number 6B. Trang: 121 - 128. 3. Nguyễn Văn Thỏa, Quan niệm của William James về chân lý (2014), Tạp chí Khoa học, Volume 59, Number 6BC, tr.72-tr.78. 4. Nguyễn Văn Thỏa, Phạm trù “niềm tin” trong triết học thực dụng của C.S. Peirce (2015), Tạp chí Nhân lực Khoa học Xã hội, số 10 (29). Trang: 53 - 60. 5. Nguyễn Văn Thỏa, Tiêu chuẩn chân lý trong triết học thực dụng Mỹ (2015), Tạp chí Triết học, số 12 (295). Trang: 80 - 86. 152 TÀI LIỆU THAM KHẢO TIẾNG VIỆT: 1. Mortimer J. Adler (2004), Những tư tưởng lớn từ những tác phẩm vĩ đại, Nxb Văn hóa thông tin. 2. C.L.Albanse (2012), Các tôn giáo và tín ngưỡng ở Mỹ, Nxb Thời đại, Hà Nội. 3. Vĩnh An (2006), Hỏi đáp triết học, tập 3, Nxb Trẻ, Tp Hồ Chí Minh. 4. Nguyễn Ngọc Ba (2004), Ảnh hưởng của chủ nghĩa thực dụng đến nhân cách người cán bộ hậu cần quân đội, Luận án tiến sĩ triết học, Học viện Chính trị Quân sự, Hà Nội. 5. Lƣu Bành (2009), Tôn giáo Mỹ đương đại, Nxb Từ điển bách khoa, Hà Nội. 6. Trịnh Đình Bảy (2003), Niềm tin và xây dựng niềm tin khoa học, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội. 7. Baubérot J. (2006), Lịch sử đạo Tin lành, Nxb Thế giới. 8. Bellah R. (1990), Văn hóa và tính cách người Mỹ, Nxb Khoa học xã hội và Viện thông tin khoa học xã hội. 9. Vƣơng Ngọc Bình (2004), Uyliam Giêmxơ, Trung tâm Văn hóa Ngôn ngữ Đông Tây, Hà Nội. 10. Bochenski (1969), Triết học phương Tây hiện đại, Nxb Ca Dao, Sài Gòn. 11. Bodei R. (2011), Triết học thế kỷ XX, Nxb Thời đại 12. Brinton C., Wolff R.L., Chrisropher J.B. (2004), Văn minh phương Tây, Nxb Văn hóa Thông tin, Hà Nội. 13. Brinton C. (2007), Con người và tư tưởng phương Tây, Nxb Từ điển bách khoa, Hà Nội. 14. Caygill H. (2013), Từ điển triết học Kant, Nxb Tri thức, Hà Nội. 15. Vƣơng Kính Chi (2000), Lược sử nước Mỹ, Nxb Tổng hợp thành phố Hồ Chí Minh. 16. Nguyễn Khắc Chƣơng (2004), Vấn đề tiêu chuẩn của chân lý, Luận án Tiến sĩ Triết học, Viện Triết học - Viện Khoa học Xã hội Việt Nam. 153 17. Cooper D.E. (2005), Các trường phái triết học trên thế giới, Nxb Văn hóa thông tin. 18. Cuvillier A. (1962), Các vấn đề triết học, (Nguyễn Hữu Trọng dịch), Viện Đại học Huế. 19. Descartes R. (1973), Phương pháp luận, Nxb Nam chi tùng thƣ, Sài Gòn. 20. Dewey J. (2008), Dân chủ và giáo dục, Nxb Tri thức, Hà Nội. 21. Dewey J. (2012), Kinh nghiệm và giáo dục, (Phạm Anh Tuấn dịch), Nxb Trẻ - DT Books. 22. Dewey J. (2014), Cách ta nghĩ, Nxb Tri thức, Hà Nội. 23. Phạm Tất Dong (1997), Vấn đề con người trong triết học thực dụng, Nxb Khoa học xã hội. 24. Nguyễn Tiến Dũng (1997), Chủ nghĩa thực dụng Mỹ, Tạp chí Châu Mỹ ngày nay, số 1. 25. Nguyễn Tiến Dũng (1999), Một số khía cạnh về văn hóa và con người trong triết học phương Tây hiện đại, Tạp chí Triết học, số 1. 26. Nguyễn Tiến Dũng (2002), Triết học Mỹ với việc thiết lập nền tảng Triết học cho khoa học, Tạp chí Triết học, số 2. 27. Nguyễn Văn Dũng (1999), William James với quan niệm về đạo đức, Tạp chí Triết học, số 3. 28. Durant W. (2014), Câu chuyện triết học, Công ty sách Thời đại & Nxb Hồng đức, Hà Nội. 29. Bùi Đăng Duy và Nguyễn Tiến Dũng (2003), Lược khảo triết học phương Tây hiện đại, Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội. 30. Bùi Đăng Duy và Nguyễn Tiến Dũng (2005), Lịch sử triết học phương Tây hiện đại, Nxb Tổng hợp thành phố Hồ Chí Minh. 31. Bùi Đăng Duy và Nguyễn Tiến Dũng (2006), Triết học Mỹ, Nxb Tổng hợp thành phố Hồ Chí Minh. 32. Phan Thị Thùy Dƣơng (2009), Quan niệm của Wiliam James về chân chân lý, Luận văn Thạc sĩ triết học. 154 33. Đảng Cộng sản Việt Nam (1992), Nghị quyết của Bộ Chính trị số 01 - NQ/TW “Về công tác lý luận trong giai đoạn hiện nay”, ngày 28 tháng 3 năm 1992. 34. Đảng Cộng sản Việt Nam (2011), Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XI, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội. 35. Đảng Cộng sản Việt Nam (2016), Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XII, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội. 36. Trần Thái Đỉnh (2005), Triết học Kant, Nxb Văn hóa thông tin. 37. Trần Thái Đỉnh (2008), Triết học Hiện sinh, Nxb Văn học. 38. Phan Quang Định (2008), Toàn cảnh triết học Âu Mỹ thế kỷ XX, Nxb Văn học. 39. Lƣu Phóng Đồng (1994), Triết học phương Tây hiện đại, tập 2, Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội. 40. Lƣu Phóng Đồng (2004), Giáo trình hướng tới thế kỷ 21: Triết học phương Tây hiện đại, Nxb Lý luận Chính trị, Hà Nội. 41. Lê Minh Đức, Nguyễn Nghị (1994), Lịch sử nước Mỹ, Nxb Văn hóa thông tin. 42. Phạm Văn Đức, Đặng Hữu Toàn, Nguyễn Đình Hòa (2009), Triết học Mác và thời đại, Nxb Khoa học Xã hội, Hà Nội. 43. Fich J.P. (2003), Văn minh Hoa Kỳ, Nxb Trẻ, Hà Nội. 44. Foner E. (chủ biên) (2003), Lịch sử nước Mỹ mới, (Diệu Hƣơng dịch), Nxb Chính trị Quốc gia. 45. Nguyễn Hào Hải (1997), Chủ nghĩa thực dụng Mỹ qua một số đại biểu của nó, Tạp chí triết học, số 4. 46. Nguyễn Hào Hải (2001), Một số học thuyết triết học phương Tây hiện đại, Nxb Văn hóa thông tin, Hà Nội. 47. Cao Hằng (2004), Francois Jullien, bàn về hiệu quả, Tạp chí Triết học, số 10. 48. Hegel G.W.F (2010), Các nguyên lý của triết học pháp quyền, Nxb Tri thức, Hà Nội. 49. Phong Hiền (1972), Chủ nghĩa thực dụng Mỹ và một số biểu hiện của nó, Thông báo triết học, số 23. 155 50. Trần Thị Hoa (2006), Chủ nghĩa thực dụng của John Dewey, Luận văn thạc sĩ triết học. 51. Trịnh Sơn Hoan (2008), Vài nét về chủ nghĩa thực dụng Mỹ (Some features of American pragmatism), Tạp chí Khoa học và Công nghệ, Đại học Đà Nẵng, số 5 (28). 52. Trịnh Sơn Hoan (2011), Nước Mỹ và sự hình thành tính cách Mỹ, Tạp chí Triết học (238/3), tr. 82-88. 53. Trịnh Sơn Hoan (2012), Những đánh giá bước đầu về chủ nghĩa thực dụng Mỹ, Tạp chí Triết học, số 6 (253). 54. Trịnh Sơn Hoan (2012), Triết học William James và chủ nghĩa thực dụng Mỹ, Nxb Chính trị quốc gia. 55. Trịnh Sơn Hoan (2015), Vấn đề nhân sinh trong triết học Mỹ, Luận án tiến sĩ triết học, Học viện Khoa học Xã hội, Viện Hàn Lâm Khoa học Xã hội Việt Nam, Hà Nội. 56. Nguyễn Hải Hoàng (2015), Vấn đề niềm tin trong triết học thực dụng Peirce, Luận án tiến sĩ triết học, Trƣờng Đại học khoa học xã hội và nhân văn, Đại học Quốc gia Hà Nội. 57. Honderich T. (2006), Hành trình cùng triết học, Nxb Văn hóa thông tin. 58. Đỗ Minh Hợp (1996), Vấn đề tính chủ quan trong triết học phương Tây hiện đại, Tạp chí Triết học, số 1. 59. Đỗ Minh Hợp (1997), Triết học phương Tây hiện đại, Nxb Khoa học Xã hội, Hà Nội. 60. Đỗ Minh Hợp (2006), Diện mạo của triết học phương Tây hiện đại, Nxb Hà Nội. 61. Đỗ Minh Hợp - Nguyễn Anh Tuấn - Nguyễn Thanh (2008), Đại cương lịch sử triết học phương Tây hiện đại cuối thế kỷ XIX - nửa đầu thế kỷ XX, Nxb Tổng hợp Thành phố Hồ Chí Minh. 62. Đỗ Minh Hợp (2011), Nhập môn triết học, Nxb Giáo dục, Hà Nội. 63. Đỗ Minh Hợp (2014), Lịch sử triết học phương Tây, tập 1, Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội. 156 64. Đỗ Minh Hợp (2014), Lịch sử triết học phương Tây, tập 2, Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội. 65. Đỗ Minh Hợp (2014), Lịch sử triết học phương Tây, tập 3, Nxb Chính trị Quốc gia. 66. Nguyễn Thái Yên Hƣng (2005), Liên bang Mỹ, đặc điểm xã hội - văn hóa, Viện Văn hóa và Nxb Văn hóa thông tin. 67. Nguyễn Thái Yên Hƣơng - Tạ Minh Tuấn (2011), Các vấn đề nghiên cứu về Hoa Kỳ, Nxb Giáo dục Việt Nam. 68. Inwood M. (2015), Từ điển triết học Hegel, Nxb Tri thức, Hà Nội. 69. Jenning P., Brewster T. (2010), Nghiên cứu về nước Mỹ, (Nguyễn Kim Dân dịch), Nxb Thời đại, Hà Nội. 70. Jullien F. (2002), Bàn về tính hiệu quả, Nxb Đà Nẵng. 71. Kant I. (2015), Phê phán lý tính thực hành, Nxb Tri thức, Hà Nội. 72. Lƣơng Văn Kế (2011), Văn hóa Bắc Mỹ trong toàn cầu hóa, Nxb Giáo dục Việt Nam. 73. Khái quát về lịch sử nước Mỹ (2000), Nxb Chính trị Quốc gia. 74. Gia Khang, Kiến Văn biên dịch (2011), Trí tuệ dân tộc Mỹ, Nxb Thời đại, Hà Nội. 75. Vũ Khiêu (1986), Triết học tư sản phương Tây hôm nay, Nxb Thông tin lý luận, Hà Nội. 76. Krishnamurti (2010), Chân lý và thực tại, (Đào Hữu Nghĩa dịch), Công ty sách Thời đại & Nxb Thời đại, Hà Nội. 77. Lawhead W.F. (2012), Hành trình khám phá thế giới triết học phương Tây, Nxb Từ điển Bách khoa. 78. Phạm Minh Lăng (1984), Mấy trào lưu triết học phương Tây, Nxb Đại học và Trung học chuyên nghiệp, Hà Nội. 79. Phạm Minh Lăng (2001), Những chủ đề cơ bản của triết học phương Tây, Nxb Văn hóa Thông tin, Hà Nội. 157 80. Lennkh A., Toinet M.F. (1995), Thực trạng nước Mỹ, Nxb Khoa học xã hội, Hà Nội. 81. V.I.Lênin (1980), Toàn tập, tập 18, Nxb Tiến bộ, Mát-xcơ-va. 82. V.I.Lênin (1980), Toàn tập, tập 23, Nxb Tiến bộ, Mát-xcơ-va. 83. V.I.Lênin (1981), Toàn tập, tập 29, Nxb Tiến bộ, Mát-xcơ-va. 84. Nguyễn Ngọc Long (1998), Triết học phương Tây ngoài mác xít và ảnh hưởng của nó đến Việt Nam hiện nay, Học viện Chính trị Quốc gia Hồ Chí Minh. 85. C.Mác và Ph.Ăngghen (1995), Toàn tập, tập 1, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội. 86. C.Mác và Ph.Ăngghen (1995), Toàn tập, tập 3, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội. 87. C.Mác và Ph.Ăngghen (1995), Toàn tập, tập 21, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội. 88. C.Mác và Ph.Ăngghen (1995), Toàn tập, tập 23, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội. 89. Bryan Magee (2003), Câu chuyện triết học, Huỳnh Phan Anh - Mai Sơn (dịch), Nxb Thống kê, Hà Nội. 90. Đặng Thai Mai (1956 - dịch), Lịch sử triết học phương Tây, Nxb Xây dựng, Hà Nội. 91. Melvil J.K. (1959), Phê phán chủ nghĩa thực dụng, Nxb Sự thật, Hà Nội. 92. Melvil J.K. (1997), Các con đường của triết học phương Tây hiện đại, (Đinh Ngọc Thạch và Phạm Đình Nghiệm dịch), Nxb Giáo dục. 93. Mill J.S. (2005), Bàn về tự do, Nxb Tri thức, Hà Nội. 94. Đặng Nguyên Minh (2007), Triết học thế giới nên biết, tập 2, Nxb Lao động Xã hội. 95. Lê Tôn Nghiêm (2001), Lịch sử triết học phƣơng Tây, Tập 1, 2, 3, Nxb Thành phố Hồ Chí Minh. 96. Hữu Ngọc (1995), Hồ sơ văn hóa Mỹ, Nxb Thế giới. 97. Trần Thảo Nguyên (2006), Triết học kinh tế trong “Lý thuyết về công lý” của John Rawls, Nxb Thế giới. 98. Văn Sinh Nguyễn (2004), Văn minh phương Đông và phương Tây, Nxb Lao động Xã hội. 158 99. Trần Sĩ Phán (2012), Ảnh hưởng của chủ nghĩa thực dụng đến lối sống sinh viên Việt Nam hiện nay, Tạp chí Lý luận chính trị (3), tr. 64-70. 100. Nguyễn Thu Phong (2002), Minh triết trong tư tưởng phương Tây, Nxb Thành phố Hồ Chí Minh. 101. Trần Tuấn Phong (1996), Về khái niệm “kinh nghiệm” trong hệ thống triết học William James, Tạp chí Triết học (90/2), tr. 49-52. 102. Robert và cộng sự (1999), Văn hóa và tính cách người Mỹ, Nxb khoa học xã hội & Viện Thông tin khoa học xã hội. 103. Rius (2006), Nhập môn Marx, Nxb Trẻ, Thành phố Hồ Chí Minh. 104. Sahakan W.S. - Sahakan M.L. (2001), Tư tưởng của các triết gia vĩ đại, Nxb Thành phố Hồ Chí Minh. 105. Mai Sơn biên soạn (2007), 101 triết gia, Nxb Tri thức, Hà Nội. 106. Stumpf S.E. (2004), Lịch sử triết học và các luận đề, Nxb Lao động, Hà Nội. 107. Stumpf S.E., Abel D.C. (2004), Nhập môn triết học phương Tây, Nxb Tổng hợp Thành phố Hồ Chí Minh. 108. Vũ Minh Tâm (2012), “Triết lý thiết thực của ngƣời Việt xƣa”, Tạp chí Triết học (250/3), tr.33-37. 109. Trần Quang Thái (2011), Chủ nghĩa hậu hiện đại các vấn đề nhận thức luận, Nxb Tổng hợp Thành phố Hồ Chí Minh. 110. Phan Văn Thám (2011), Vấn đề kinh nghiệm trong chủ nghĩa thực dụng Mỹ, Luận văn Thạc sĩ. 111. Võ Minh Thanh (2006), Trích văn triết học, Nxb Văn học. 112. Thomson M. (2004), Triết học tôn giáo (Đỗ Minh Hợp dịch), Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội. 113. Thƣ viện Quân đội (1972), Chủ nghĩa thực dụng, Tập 13, Từ điển Bách khoa Pháp. 114. Nguyễn Tài Thƣ chủ biên (1997), Ảnh hưởng của các hệ tư tưởng và tôn giáo đối với con người Việt Nam hiện nay, Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội. 159 115. Đặng Ngọc Dũng Tiến (2001), Hoa Kỳ phong tục và tập quán, Nxb Trẻ, Thành phố Hồ Chí Minh. 116. Tocqueville A.D. (2008), Nền dân trị Mỹ, (Phạm Toàn dịch), Nxb Tri thức, Hà Nội. 117. Triết học phương Tây hiện đại - Từ điển (1996), (Đỗ Minh Hợp - Đặng Hữu Toàn dịch), Nxb Khoa học Xã hội, Hà Nội. 118. Đỗ Kiên Trung (2010), Triết học tân thực dụng Neopramatism, Nxb Tri thức, Hà Nội. 119. Trƣờng Đại học Khoa học Xã hội và Nhân văn - Đại học Quốc gia Hà Nội (2007), Những vấn đề triết học phương Tây thế kỷ XX, Nxb Đại học Quốc gia, Hà Nội. 120. Từ điển triết học (Bản dịch tiếng Việt năm 1960), Nxb Tiến bộ, Mát-xcơ-va. 121. Nguyễn Văn Út biên soạn (2006), 9 bản tuyên ngôn nổi tiếng thế giới, Nxb Văn hóa thông tin, Hà Nội. 122. Nguyễn Ƣớc (2009), Đại cương triết học tây phương, Nxb Tri thức, Hà Nội. 123. Nguyễn Ƣớc (2009), Các chủ đề triết học, Nxb Tri thức, Hà Nội. 124. Văn hóa và tính cách người Mỹ (1990), Nxb Khoa học xã hội, Hà Nội. 125. Tuệ Văn (1994), Lịch sử triết học phương Tây, Nxb Tổng hợp Thành phố Hồ Chí Minh. 126. Tuệ Văn (2005), Tài liệu tham khảo triết học phương Tây, Nxb Giáo dục, Hà Nội. 127. Triệu Vân (1946), Quan niệm mác xít về chân lý, Nxb Đại Đồng, Đà Nẵng. 128. Viện Mác - Lênin, Viện Chủ nghĩa xã hội khoa học (1982), Triết học và cuộc đấu tranh ý thức hệ, Nxb Thông tin lý luận, Hà Nội. 129. Hoàng Xuân Việt (2004), Lược sử triết học phương Tây, Nxb Tổng hợp Thành phố Hồ Chí Minh. 130. Wall J. (2006), Lược sử triết học phương Tây, Nxb Tổng hợp Thành phố Hồ Chí Minh. 160 131. Weber M. (2010), Nền đạo đức Tin lành và tinh thần chủ nghĩa tư bản, Nxb Tri thức, Hà Nội. 132. Zinn H. (2010), Lịch sử dân tộc Mỹ, Nxb Thế giới, Hà Nội. TIẾNG ANH: 133. James W. (1914), The meaning of truth a sequel to “Paragmatis” H.O.Houghton & co Cambridge, Mass, press, New York. 134. Konvitz M.R., Kennedy G. (1960), The Amercan Pragmatists, The Publishing Company perss, New York. 135. Peirce C.S. (1931 - 1960), Collected Papers of Charles Sanders Peirce, Volume I - VIII, Harvard University Press. 136. Peirce C.S. (1958), Values in a Univers of Chance, New York. 137. Peirce C.S. (1997), Pragmaitsm as a Principle and Method of Right Thinking, Published State University of New York press. 138. Thayer H.S. (1968), Meaning and Action A Critical History of Pragmatism, The Bobbs - Merrill Company press, New York . 139. Thayer H.S. (1982), Pragmatism the classic writing, Hackett Publishing Company press, New York. 140. White M. (1978), The Philosophy of the American Revolution, Oxford University press, New York.

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • pdfluan_an_quan_niem_ve_chan_ly_trong_triet_hoc_thuc_dung_my.pdf
Tài liệu liên quan