Luận án Quản lý giáo dục pháp luật cho học sinh ở các trường trung học phổ thông trên địa bàn Thành phố Hồ Chí Minh hiện nay

LỜI CAM ĐOAN Tôi xin cam đoan đây là công trình nghiên cứu của riêng tôi. Các số liệu, kết quả được trình bày trong luận án là trung thực, có nguồn gốc và xuất xứ rõ ràng. TÁC GIẢ LUẬN ÁN Tạ Thị Minh Thư MỤC LỤC Trang TRANG PHỤ BÌA LỜI CAM ĐOAN MỤC LỤC DANH MỤC CHỮ VIẾT TẮT DANH MỤC CÁC BẢNG DANH MỤC CÁC BIỂU ĐỒ MỞ ĐẦU 5 Chương 1 TỔNG QUAN NHỮNG CÔNG TRÌNH NGHIÊN CỨU CÓ LIÊN QUAN ĐẾN ĐỀ TÀI LUẬN ÁN 15 1.1. Những công trình nghiên cứu có liên quan đến đề tài luận án 15 1.2. K

doc234 trang | Chia sẻ: huong20 | Ngày: 17/01/2022 | Lượt xem: 329 | Lượt tải: 4download
Tóm tắt tài liệu Luận án Quản lý giáo dục pháp luật cho học sinh ở các trường trung học phổ thông trên địa bàn Thành phố Hồ Chí Minh hiện nay, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
hái quát các công trình nghiên cứu có liên quan đến đề tài luận án và những vấn đề đặt ra cho luận án tiếp tục giải quyết 28 Chương 2 CƠ SỞ LÝ LUẬN CỦA QUẢN LÝ GIÁO DỤC PHÁP LUẬT CHO HỌC SINH Ở CÁC TRƯỜNG TRUNG HỌC PHỔ THÔNG HIỆN NAY 32 2.1. Những vấn đề lý luận về giáo dục pháp luật cho học sinh ở các trường trung học phổ thông hiện nay 32 2.2. Những vấn đề lý luận về quản lý giáo dục pháp luật cho học sinh ở các trường trung học phổ thông hiện nay 47 2.3. Những yếu tố tác động đến quản lý giáo dục pháp luật cho học sinh ở các trường trung học phổ thông trên địa bàn Thành phố Hồ Chí Minh hiện nay 61 Chương 3 CƠ SỞ THỰC TIỄN CỦA QUẢN LÝ GIÁO DỤC PHÁP LUẬT CHO HỌC SINH Ở CÁC TRƯỜNG TRUNG HỌC PHỔ THÔNG TRÊN ĐỊA BÀN THÀNH PHỒ HỒ CHÍ MINH HIỆN NAY 71 3.1. Khái quát chung về giáo dục và hệ thống giáo dục trung học phổ thông trên địa bàn Thành phố Hồ Chí Minh 71 3.2. Tổ chức nghiên cứu, khảo sát, điều tra đánh giá thực trạng 75 3.3. Thực trạng giáo dục pháp luật cho học sinh ở các trường trung học phổ thông trên địa bàn Thành phố Hồ Chí Minh hiện nay 78 3.4. Thực trạng quản lý giáo dục pháp luật cho học sinh ở các trường trung học phổ thông trên địa bàn Thành phố Hồ Chí Minh hiện nay 89 3.5 Thực trạng mức độ ảnh hưởng của các yếu tố tác động đến quản lý giáo dục pháp luật cho học sinh ở các trường trung học phổ thông trên địa bàn Thành phố Hồ Chí Minh hiện nay 104 3.6. Đánh giá chung về thực trạng quản lý giáo dục pháp luật cho học sinh ở các trường trung học phổ thông trên địa bàn Thành phố Hồ Chí Minh 107 Chương 4 BIỆN PHÁP QUẢN LÝ GIÁO DỤC PHÁP LUẬT CHO HỌC SINH Ở CÁC TRƯỜNG TRUNG HỌC PHỔ THÔNG TRÊN ĐỊA BÀN THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH HIỆN NAY VÀ KHẢO NGHIỆM, THỬ NGHIỆM CÁC BIỆN PHÁP 115 4.1. Các biện pháp quản lý giáo dục pháp luật cho học sinh ở các trường trung học phổ thông trên địa bàn Thành phố Hồ Chí Minh hiện nay 115 4.2. Khảo nghiệm các biện pháp đã đề xuất 151 4.3. Thử nghiệm các biện pháp 158 KẾT LUẬN VÀ KIẾN NGHỊ 168 DANH MỤC CÁC CÔNG TRÌNH KHOA HỌC CỦA TÁC GIẢ ĐÃ CÔNG BỐ LIÊN QUAN ĐẾN ĐỀ TÀI LUẬN ÁN 171 DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO 172 PHỤ LỤC 185 DANH MỤC CHỮ VIẾT TẮT CHỮ VIẾT ĐẦY ĐỦ CHỮ VIẾT TẮT Cán bộ, giáo viên CBGV Chương trình đào tạo CTĐT Giáo dục và Đào tạo GD&ĐT Giáo dục pháp luật GDPL Quản lý giáo dục QLGD Trung học phổ thông THPT DANH MỤC CÁC BẢNG Số bảng Tên bảng Trang 2.1 Nội dung GDPL trong Môn Giáo dục công dân ở cấp THPT 42 3.1 Quy mô trường lớp THPT 3 năm gần đây 73 3.2 Thống kê chất lượng học lực, hạnh kiểm học sinh 10 trường THPT trên địa bàn Thành phố Hồ Chí Minh 75 3.3 Phân phối đối tượng điều tra bằng phiếu hỏi 76 3.4 Thực trạng nhận thức của, CBQL, GV và học sinh về vai trò GDPL 79 3.5 Thực trạng chương trình, nội dung GDPL cho học sinh 81 3.6 Thực trạng phương pháp và hình thức tổ chức GDPL cho học sinh THPT 83 3.7 Thực trạng kết quả GDPL cho học học sinh 85 3.8 Thực trạng học sinh vi phạm pháp luật trên địa bàn Thành phố Hồ Chí Minh 88 3.9 Thực trạng xây dựng kế hoạch GDPL cho học sinh ở các trường THPT hiện nay 90 3.10 Thực trạng tổ chức xây dựng và thực hiện nội dung, chương trình GDPL cho học sinh ở các trường THPT 92 3.11 Thực trạng chỉ đạo đổi mới phương pháp, hình thức tổ chức GDPL cho học sinh ở các trường THPT 94 3.12 Thực trạng tổ chức bồi dưỡng nâng cao trình độ cho cán bộ, giáo viên và phối hợp các lực lượng trong GDPL cho học sinh 97 3.13 Thực trạng tổ chức xây dựng, khai thác, sử dụng các điều kiện đảm bảo cho GDPL ở các nhà trường THPT 100 3.14 Thực trạng kiểm tra, đánh giá chất lượng và kết quả GDPL cho học sinh THPT 102 3.15 Thực trạng mức độ ảnh hưởng của các yếu tố tác động đến quản lý GDPL cho học sinh ở các trường THPT trên địa bàn Thành phố Hồ Chí Minh hiện nay 104 3.16 Tổng hợp thực trạng quản lý GDPL cho học sinh THPT trên địa bàn Thành phố Hồ Chí Minh hiện nay 107 4.1 Thống kê kết quả khảo nghiệm về tính cần thiết của các biện pháp 152 4.2 Thống kê kết quả khảo nghiệm về tính khả thi của các biện pháp 154 4.3 Tương quan giữa sự cần thiết và tính khả thi của các biện pháp 156 4.4 Đội ngũ giáo viên các trường tham gia thử nghiệm 159 4.5 Phiếu điều tra thực trạng nhận thức, thái độ, hành vi về GDPL của đối tượng thử nghiệm trước khi thử nghiệm 161 4.6 Tổng hợp kết quả điều tra thực trạng nhận thức, thái độ, hành vi của 200 cán bộ, giáo viên về GDPL trước khi tác động thử nghiệm 162 4.7 Tổng hợp kết quả điều tra thực trạng nhận thức, thái độ, hành vi của 200 giáo viên về GDPL sau khi tác động thử nghiệm 163 4.8 So sánh kết quả điều tra thực trạng nhận thức, thái độ, hành vi của 200 cán bộ, giáo viên về GDPL trước và sau khi thử nghiệm 164 DANH MỤC CÁC BIỂU ĐỒ Số biểu đồ Tên biểu đồ Trang 3.1 So sánh mức độ ảnh hưởng của các yếu tố tác động đến quản lý GDPL cho học sinh ở nhà trường THPT 105 3.2 So sánh thứ bậc của các thực trạng quản lý GDPL cho học sinh ở các trường THPT 107 4.1 So sánh mức độ cần thiết của các biện pháp 153 4.2 So sánh tính khả thi của các biện pháp 155 4.3 So sánh tương quan giữa tính cần thiết với tính khả thi của các biện pháp 157 4.4 So sánh kết quả trước và sau thử nghiệm 165 MỞ ĐẦU 1. Lý do lựa chọn đề tài luận án Giáo dục pháp luật cho học sinh THPT là yêu cầu cấp thiết nhằm thực hiện quan điểm chỉ đạo về xây dựng nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa. Những năm qua, Đảng và Nhà nước đã ban hành nhiều văn bản về GDPL cho mọi người dân. Nghị quyết số 08–NQ/TW ngày 02 tháng 01 năm 2002 của Bộ Chính trị về một số nhiệm vụ trọng tâm công tác tư pháp trong thời gian tới chỉ rõ: “Đẩy mạnh công tác tuyên truyền, phổ biến, giáo dục pháp luật với nhiều hình thức phong phú, sinh động để tuyên truyền, nâng cao ý thức pháp luật cho cán bộ và nhân dân” [5]. Chỉ thị số 32-CT/TW ngày 09/12/2003 của Ban Bí thư Trung ương Đảng về tăng cường sự lãnh đạo của Đảng trong công tác PBGDPL, nâng cao ý thức chấp hành pháp luật của cán bộ, nhân dân đã khẳng định: “Phổ biến, giáo dục pháp luật là một bộ phận của công tác giáo dục chính trị, tư tưởng, là nhiệm vụ của toàn bộ hệ thống chính trị đặt dưới sự lãnh đạo của Đảng”[2]. Tại kỳ họp thứ 3, ngày 20/6/2012, Quốc hội nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam khóa XIII đã thông qua Luật Phổ biến, giáo dục pháp luật. Trong đó đã quy định các điều khoản “Về quyền được thông tin về pháp luật và trách nhiệm tìm hiểu, học tập pháp luật của công dân”. Đặc biệt, Luật đã quy định về nội dung, phương pháp, hình thức tổ chức giáo dục pháp luật cho từng nhóm đối tượng cụ thể [74]. Đây là cơ sở pháp lý quan trọng cho các hoạt động giáo dục nâng cao ý thức pháp luật cho nhân dân nói chung, cho học sinh ở các trường THPT nói riêng trong điều kiện hiện nay. Giáo dục pháp luật cho học sinh THPT là nhu cầu tất yếu của chính bản thân học sinh đang trong độ tuổi trưởng thành. Ngày 20/11/2009 Thủ tướng Chính phủ ban hành Quyết định số 1928/QĐ-TTg phê duyệt đề án “Nâng cao chất lượng công tác phổ biến, GDPL trong nhà trường” [90]. Trong các đối tượng của GDPL, học sinh THPT là một trong những đối tượng quan trọng nhất. Bởi vì, học sinh THPT là độ tuổi đầu đời của người trưởng thành, có quyền lợi và nghĩa vụ đầy đủ trong thực hiện pháp luật công dân. Đặc biệt, với học sinh THPT hiện nay, các em đang phải đương đầu với rất nhiều nguy cơ, cám dỗ không lành mạnh của xã hội hiện đại nhưng lại thiếu kiến thức pháp luật để ứng phó với khó khăn và lựa chọn cách sống lành mạnh, tích cực cho bản thân và xã hội. Thứ nhất: Trong giới học sinh, các em là nhóm được tiếp xúc nhiều với những tiện ích của xã hội hiện đại nhưng cũng tiếp xúc nhiều với những cám dỗ, nguy cơ không lành mạnh. Do đó, các em cần được trang bị kiến thức pháp luật, tiếp cận thông tin pháp luật là cần thiết để xác định đúng nhu cầu bản thân và lựa chọn cách sống tích cực. Thứ hai: Xét về mặt tâm sinh lý, học sinh THPT là một lứa tuổi nhạy cảm, có những thay đổi to lớn về tâm sinh lý và các mối quan hệ xã hội. Do đó, trang bị những kỹ năng tự nhận biết, ý thức tôn trọng pháp luật, tình cảm pháp lý và định hướng bản thân là một yêu cầu đầu tiên, hết sức cần thiết. Khi được phổ biến, GDPL đầy đủ kịp thời thì tự nhận thức cũng như ý thức chấp hành pháp luật, xử sự theo pháp luật trong các em học sinh nói chung, học sinh THPT nói riêng nâng lên, góp phần xây dựng nhà nước pháp quyền, văn minh. Giáo dục pháp luật là một nội dung trong chương trình giáo dục toàn diện cho học sinh THPT. Giáo dục pháp luật cho học sinh ở các nhà trường THPT là một nội dung nằm trong chương trình giáo dục công dân theo quy định của Bộ Giáo dục và Đào tạo. GDPL được thực hiện đồng bộ với giáo dục chính trị, tư tưởng, giáo dục đạo đức, lối sống và các nội dung giáo dục khác nhằm góp phần phát triển toàn diện nhân cách học sinh. Trong xu thế hội nhập với khu vực và thế giới việc giáo dục toàn diện cho học sinh THPT là cần thiết và có ý nghĩa vô cùng quan trọng. GDPL là một nội dung trong chương trình giáo dục của nhà trường THPT, thuộc phạm trù giáo dục nhân cách. Tuy nhiên, trong cấu trúc chương trình giáo dục phổ thông mới, GDPL cho học sinh ở nhà trường THPT được thực hiện cả trong quá trình dạy học môn Giáo dục công dân và cả trong quá trình giáo dục thông qua tổ chức các hoạt động trải nghiệm hướng nghiệp trong thực tiễn. Điều đó đặt ra yêu cầu phải mở rộng lý luận GDPL cho học sinh theo yêu cầu đổi mới giáo dục hiện nay. Quá trình đổi mới GDPL cho học sinh ở các trường THPT theo chương trình giáo dục phổ thông mới đòi hỏi phải đổi mới phương thức quản lý. Theo chương trình giáo dục phổ thông mới 2018, nội dung, phương pháp GDPL cho học sinh được đổi mới theo hướng tăng tính thực tiễn và tăng tỷ lệ nội dung giáo dục của địa phương. Vấn đề đặt ra là xác định những nội dung GDPL trong thực tiễn và những nội dung GDPL của địa phương như thế nào cho phù hợp với đặc điểm địa bàn trong bối cảnh hiện nay. Để giải quyết vấn đề này, trước hết đòi hỏi Ban Giám hiệu các nhà trường THPT phải phối hợp với Sở Giáo dục và Đào tạo, Sở Tư pháp và các cơ quan chức năng trên địa bàn khẩn trương đề xuất các biện pháp quản lý quá trình đổi mới nội dung, phương pháp GDPL phù hợp với đặc điểm của nhà trường mình, địa phương mình. Như vậy, quá trình đổi mới GDPL cho học sinh ở các trường THPT theo chương trình giáo dục phổ thông mới đòi hỏi phải đổi mới phương thức quản lý giáo dục quả nhà trường. Thực tiễn GDPL và quản lý GDPL cho học sinh THPT trên địa bàn Thành phố Hồ Chí Minh đang nảy sinh những vấn đề bất cập cần giải quyết. Thành phố Hồ Chí Minh là trung tâm kinh tế, văn hóa, giáo dục lớn của cả nước. Do tác động của xu thế hội nhập, hợp tác quốc tế và chính sách mở cửa, đa phương hóa, đa dạng hóa trong quan hệ quốc tế đã làm cho quá trình phát triển của Thành phố Hồ Chí Minh có những đặc điểm rất riêng tác động không nhỏ đến quá trình GDPL cho mọi người dân nói chung và cho học sinh THPT nói riêng. Quá trình tuyên truyền, phổ biến pháp luật cho các lực lượng xã hội phải gắn với quá trình giáo dục cải tạo về tư tưởng, chính trị, đạo đức và hành vi pháp lý của một bộ phận người dân bị ảnh hưởng bởi thói quen sống, làm việc dưới chế độ xã hội cũ. Mặt khác, quá trình GDPL cho học sinh ở các trường THPT trên địa bàn Thành phố Hồ Chí Minh phải gắn với cuộc đấu tranh văn hóa nhằm phát hiện, ngăn chặn âm mưu, thủ đoạn chống phá của các thế lực thù địch. Bối cảnh đó đặt ra yêu cầu riêng đối với quản lý GDPL cho học sinh ở các trường THPT trên địa bàn Thành phố Hồ Chí Minh. Thực tiễn quản lý GDPL cho học sinh THPT trên địa bàn Thành phố Hồ Chí Minh đang đặt ra nhiều yêu cầu mới cần giải quyết. Trong những năm qua hoạt động GDPL ở các nhà trường trên địa bàn Thành phố Hồ Chí Minh đã đạt được những kết quả đáng kể, góp phần nâng cao trình độ hiểu biết về pháp luật, nâng cao văn hóa pháp lý trong đội ngũ cán bộ, giáo viên, nhân viên và học sinh, sinh viên, bước đầu tạo dựng sự ổn định trong lối sống, làm việc theo Hiến pháp và pháp luật ở các đối tượng cụ thể. Tuy nhiên, cho đến nay, so với nhu cầu thực tiễn, hoạt động phổ biến, GDPL vẫn còn nhiều bất cập và hạn chế, nhất là phổ biến, GDPL cho đối tượng là học sinh THPT. Ý thức pháp luật và tình hình thực hiện pháp luật của một bộ phận không nhỏ học sinh THPT còn hạn chế, tình trạng vi phạm pháp luật còn khá phổ biến, làm ảnh hưởng đến sự phát triển kinh tế- văn hóa, xã hội, ảnh hưởng đến đạo đức và niềm tin xã hội vào một bộ phận nhỏ trẻ em vị thành niên. Một trong những nguyên nhân của tình trạng trên là do phương thức quản lý GDPL cho học sinh THPT chậm đổi mới, không theo kịp sự phát triển của thực tiễn, chưa phù hợp đặc điểm học sinh THPT. Vai trò của cán bộ QLGD chưa được phát huy. Để khắc phục tính trạng bất cập đó, trước hết phải đổi mới quản lý GDPL cho học sinh ở các trường THPT. Với những lý do như trên, nghiên cứu sinh chọn đề tài luận án “Quản lý giáo dục pháp luật cho học sinh ở các trường trung học phổ thông trên địa bàn Thành phố Hồ Chí Minh hiện nay” . 2. Mục đích, nhiệm vụ nghiên cứu Mục đích nghiên cứu Nghiên cứu xây dựng cơ sở lý luận và cơ sở thực tiễn của quản lý GDPL cho học sinh ở các trường THPT theo chương trình giáo dục phổ thông mới; trên cơ sở đó, đề xuất các biện pháp quản lý GDPL cho học sinh ở các trường THPT trên địa bàn Thành phố Hồ Chí Minh phù hợp với đặc điểm phát triển kinh tế, văn hóa, xã hội của địa phương, nhằm nâng cao nhận thức và ý thức chấp hành pháp luật, hình thành những thói quen hành vi ứng xử theo pháp luật, góp phần phát triển toàn diện nhân cách cho học sinh đáp ứng yêu cầu đổi mới giáo dục. Nhiệm vụ nghiên cứu Nghiên cứu luận về GDPL và lý luận về quản lý GDPL cho học sinh ở các trường THPT theo chương trình giáo dục phổ thông mới, xây dựng cơ sở lý luận của vấn đề nghiên cứu. Nghiên cứu thực trạng GDPL và thực trạng quản lý GDPL cho học sinh ở các trường THPT trên địa bàn Thành phố Hồ Chí Minh hiện nay, đánh giá mức độ ảnh hưởng của các yếu tố tác động, rút ra nguyên nhân của những ưu điểm, hạn chế, xây dựng cơ sở thực tiễn của đề tài luận án. Đề xuất các biện pháp quản lý GDPL cho học sinh ở các trường THPT trên địa bàn Thành phố Hồ Chí Minh đáp ứng yêu cầu của chương trình giáo dục phổ thông mới, phù hợp với đặc điểm riêng của địa phương. Khảo nghiệm, thử nghiệm các biện pháp, khẳng định tính cấp thiết, tính khả thi của các biện pháp đã đề xuất. 3. Khách thể, đối tượng, phạm vi nghiên cứu Khách thể nghiên cứu: Quản lý quá trình giáo dục toàn diện cho học sinh ở các trường THPT. Đối tượng nghiên cứu: Quản lý GDPL cho học sinh ở các trường THPT trên địa bàn Thành phố Hồ Chí Minh hiện nay. Phạm vi nghiên cứu Về nội dung: Luận án nghiên cứu vấn đề quản lý GDPL cho học sinh ở các trường THPT trên địa bàn Thành phố Hồ Chí Minh theo chương trình giáo dục phổ thông mới, năm 2018, dưới góc độ của quản lý nhà trường về giáo dục. Luận án không đi sâu nghiên cứu lý luận về pháp luật và phổ biến pháp luật dưới góc độ của Luật học, không đi sâu vào quản lý của các cơ quan quản lý nhà nước về GDPL mà chỉ đề cập đến như điều kiện dẫn dắt để nghiên cứu sâu về GDPL và quản lý GDPL trong phạm vi nhà trường THPT. Các nội dung về pháp luật và GDPL cho học sinh với tư các là một nội dung giáo dục theo nghĩa hẹp nhưng được thực hiện thông qua quá trình dạy học và quá trình giáo dục theo định hướng chương trình giáo dục phổ thông mới. Về không gian: Khảo sát quản lý GDPL cho học sinh ở các trường THPT công lập trên địa bàn Thành phố Hồ Chí Minh. Về thời gian: các số liệu trình bày trong luận án được thu thập từ năm học 2016-2017 đến năm học 2019-2020 4. Giả thuyết khoa học Trong những năm gần đây, mặc dù tình hình GDPL cho học sinh ở các trường THPT trên địa bàn Thành phố Hồ Chí Minh đã đạt được nhiều thành tích to lớn, nhưng tình trạng vi phạm pháp luật của một bộ phận học sinh đang có nhiều biểu hiện phức tạp gây ra những bức xúc trong dư luận xã hội. Không ít học sinh có hiểu biết lý thuyết về pháp luật nhưng lại thiếu ý thức và hành vi chấp hành pháp luật. Nếu các nhà trường THPT thực hiện các biện pháp quản lý GDPL cho học sinh theo hướng kết hợp các hoạt động GDPL trong nhà trường với tổ chức cho học sinh tham gia các hoạt động thực tiễn tuyên truyền, GDPL của xã hội; kết hợp xây dựng với cải tạo nhận thức, thái độ, hành vi chấp hành pháp luật của học sinh; phối hợp các lực lượng giữa nhà trường với gia đình và xã hội tiến hành đồng bộ các biện pháp GDPL phù hợp với đặc điểm lứa tuổi học sinh, phù hợp đặc điểm phát triển kinh tế, văn hóa, xã hội của địa phương, thì sẽ chuyển đổi được quá trình GDPL cho học sinh theo yêu cầu của Chương trình GDPT mới, góp phần nâng cao chất lượng GDPL ở các trường THPT trên địa bàn Thành phố Hồ Chí Minh, thực hiện mục tiêu phát triển toàn diện cho học sinh đáp ứng yêu cầu đổi mới giáo dục hiện nay. 5. Phương pháp luận và phương pháp nghiên cứu Phương pháp luận nghiên cứu Đề tài luận án được nghiên cứu dựa trên cơ sở phương pháp luận khoa học duy vật biện chứng của Chủ nghĩa Mác - Lênin, quán triệt và cụ thể hoá tư tưởng Hồ Chí Minh, quan điểm của Đảng Cộng sản Việt Nam về giáo dục và quản lý giáo dục. Luận án được thực hiện dựa trên các phương pháp tiếp cận như sau: Tiếp cận hệ thống – cấu trúc. Xem xét các vấn đề về GDPL và quản lý GDPL cho học sinh ở các trường THPT trong mối quan hệ với quá trình giáo dục toàn diện và quá trình dạy học của nhà trường, trong môi trường xã hội của địa phương và đất nước, trong bối cảnh thời đại. Chỉ ra các thành tố cấu trúc trong hệ thống của quá trình GDPL và mối quan hệ, liên hệ bên trong, bên ngoài của các thành tố đó. Mối quan hệ giữa giáo dục với quản lý GDPL cho học sinh. Tiếp cận lịch sử - logic. Xem xét mọi vấn đề liên quan đến GDPL và quản lý GDPL cho học sinh ở các trường THPT theo quan điểm lịch sử và logic. Tức là các quan điểm và thực tiễn về GDPL và quản lý GDPL cho học sinh ở các trường THPT đã được hình thành, phát triển trong bối cảnh lịch sử cụ thể nào, đã trải qua các giai đoạn phát triển như thế nào và hiện nay đang ở tình trạng như thế nào. Chỉ ra mối quan hệ, sự chi phối lẫn nhau giữa các giai đoạn phát triển đó. Tiếp cận thực tiễn - hoạt động. Mọi vấn đề về GDPL và quản lý GDPL cho học sinh ở các trường THPT được luận giải theo quan điểm tiếp cận thực tiễn và hoạt động trải nghiệm. Nghĩa là phải đặt vấn đề GDPL và quản lý GDPL cho học sinh ở các trường THPT trong bối cảnh thực tiễn của nhà trường, thực tiễn của địa phương và đất nước; tổ chức cho học sinh tham gia các hoạt động trải nghiệm thực tiễn pháp luật. Phải tổng kết, đánh giá đúng thực trạng vi phạm pháp luật trên địa bàn Thành phố Hồ Chí Minh và ảnh hưởng, tác động của địa bàn đối với GDPL và quản lý GDPL cho học sinh ở các trường THPT. Các giải pháp quản lý GDPL cho học sinh ở các trường THPT phải hướng vào giải quyết các bất cập trong thực tiễn, cải tạo thực tiễn GDPL hiện nay. Tiếp cận năng lực. Mục tiêu tổng quát của Chương trình giáo dục phổ thông mới là hướng vào phát triển năng lực cá nhân của học sinh. GDPL cho học sinh ở các trường THPT theo tiếp cận năng lực là dựa trên lý thuyết về năng lực trong khoa học giáo dục để phân hóa mục tiêu và nội dung GDPL cho học sinh theo năng lực cá nhân, thiết kế phương pháp GDPL và xây dựng chuẩn đầu ra của quá trình GDPL theo năng lực. Phương pháp nghiên cứu Nhóm phương pháp nghiên cứu lý luận: Sử dụng thường xuyên các phương pháp phân tích, tổng hợp, hệ thống, khái quát hoá các nguồn tài liệu phục vụ nghiên cứu gồm: Phân tích, tổng hợp các chủ trương, đường lối, chỉ thị và Nghị quyết của Đảng, các chính sách, pháp luật của Nhà nước, của ngành, của địa phương và các tài liệu khoa học liên quan đến vấn đề nghiên cứu. Tổng quan, phân tích, đánh giá khái quát các kết quả nghiên cứu của những công trình sách, tạp chí, luận án, luận văn trong và ngoài nước liên quan đến đề tài. Rút ra những kết luận khoa học. Phát hiện những vấn đề đặt ra cho luận án tiếp tục nghiên cứu. Xây dựng các khái niệm khoa học của luận án, luận giải làm rõ đặc điểm, vai trò của GDPL và quản lý GDPL cho học sinh ở các trường THPT. Xác định mục đích, nội dung, phương pháp, hình thức tổ chức GDPL và quản lý GDPL cho học sinh ở các trường THPT. Nhóm các phương pháp nghiên cứu thực tiễn: Phương pháp quan sát: Tập trung quan sát quá trình GDPL và cách thức tổ chức quản lý của lãnh đạo và cán bộ quản lý các cấp về quá trình GDPL ở trường THPT. Phương pháp điều tra: Sử dụng bộ câu hỏi để điều tra thực trạng GDPL và quản lý GDPL cho học sinh ở các trường THPT trên địa bàn Thành phố Hồ Chí Minh. Bộ câu hỏi gồm mẫu phiếu 1 với các câu hỏi dành cho 60 cán bộ quản lý giáo dục, 300 giáo viên, mẫu phiếu 2 dành cho 200 học sinh các trường THPT. Địa bàn điều tra là các cơ quan quản lý giáo dục và các trường THPT trên địa bàn Thành phố Hồ Chí Minh. Phương pháp xin ý kiến chuyên gia. Gặp gỡ xin ý kiến của cán bộ QLGD, hiệu trưởng, phó hiệu trưởng các trường THPT, giáo viên có nhiều kinh nghiệm về thực trạng GDPL và thực trạng quản lý GDPL ở các trường THPT. Tổ chức xê mi na ở khoa chuyên ngành nhằm xin ý kiến của các nhà khoa học về nội dung của luận án. Trò chuyện với giáo viên chủ nhiệm lớp, giáo viên giảng dạy môn Giáo dục công dân và học sinh để nắm bắt những khó khăn, bất cập trong GDPL cho học sinh THPT hiện nay. Phương pháp phỏng vấn sâu: Phỏng vấn sâu đối với Hiệu trưởng trường THPT, cán bộ quản lý Phòng Thanh tra, Sở GD&ĐT và một số cán bộ công an trên địa bàn Thành phố Hồ Chí Minh. Nội dung phỏng vấn được xây dựng theo phiếu phỏng vấn có chuẩn bị trước. Phương pháp nghiên cứu hồ sơ và sản phẩm giáo dục: Phân tích, tổng hợp các tài liệu tổng kết, các báo cáo tổng hợp của ngành giáo dục và của cơ quan công an về các vụ việc liên quan đến GDPL và quản lý GDPL cho học sinh THPT trên địa bàn Thành phố Hò Chí Minh, từ đó rút ra những kết luận cần thiết về vấn đề nghiên cứu. Phương pháp khảo nghiệm và thử nghiệm: Tiến hành khảo nghiệm, thử nghiệm để khẳng định tính cần thiết, tính khả thi và mức độ phù hợp của các biện pháp đã đề xuất trong thực tiễn. Nhóm phương pháp hỗ trợ Thu thập và xử lý số liệu thực trạng và thực nghiệm bằng phương pháp thống kê toán học; phương pháp ngoại suy, phương pháp so sánh. Số liệu thu thập bằng phiếu điều tra được nhập vào bảng tính excel, thống kê số lượng trả lời từng phương án theo từng câu, từng đối tượng khảo sát, cuối cùng sử dụng công thức tính điểm trung bình và tỷ lệ phần trăm như sau: Khảo sát về các mức độ quan trọng/ thường xuyên/ ảnh hưởng trong luận án quy định điểm như sau: Điểm 4: Rất quan trọng/ Tốt/ Rất ảnh hưởng. Điểm 3: Quan trọng/ Khá/ ảnh hưởng. Điểm 2: Ít quan trọng / TB/ Ít ảnh hưởng. Điểm 1: Không quan trọng/ Yếu/ không ảnh hưởng 6. Những đóng góp mới của luận án Luận án đã khái quát những vấn đề lý về GDPL và quản lý GDPL cho học sinh ở các trường THPT theo quan điểm đổi mới căn bản, toàn diện giáo dục. Xây dựng các khái niệm về GDPL và quản lý GDPL cho học sinh; xác định các nội dung, phương thức quản lý GDPL cho học sinh theo chương trình giáo dục phổ thông mới; chỉ ra những yếu tố tác động ảnh hưởng đến quản lý GDPL cho học sinh THPT hiện nay. Kết quả nghiên cứu của luận án góp phần bổ sung, phát triển hoàn thiện lý luận về quản lý GDPL cho học sinh ở các trường THPT hiện nay. Kết quả nghiên cứu của luận án cung cấp những luận cứ thực tiễn cho việc đề xuất các biện pháp quản lý GDPL cho học sinh ở các trường THPT trên địa bàn Thành phố Hồ Chí Minh, làm cơ sở để đổi mới GDPL theo chương trình giáo dục phổ thông 2018, góp phần nâng cao chất lượng GDPL, thực hiện mục tiêu phát triển toàn diện phẩm chất, năng lực của học sinh. Kết quả nghiên cứu của luận án có thể sử dụng làm tài liệu tham khảo phục vụ cho các hoạt động nghiên cứu khoa học của các nhà nghiên cứu, hoạt động quản lý của các nhà quản lý giáo dục và hoạt động giảng dạy của đội ngũ giáo viên ở các nhà trường THPT. 7. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn của đề tài Ý nghĩa lý luận: Bổ sung, phát triển lý luận về GDPL và quản lý GDPL cho học sinh ở các trường THPT theo hướng giáo dục toàn diện, đáp ứng yêu cầu đổi mới giáo dục hiện nay. Ý nghĩa thực tiễn: Cung cấp những số liệu trung thực giúp cán bộ QLGD các cấp đánh giá đúng thực trạng GDPL và QLGDPL cho học sinh ở các trường THPT trên địa bàn Thành phố Hồ Chí Minh hiện nay, làm cơ sở đưa ra các quyết định quản lý phù hợp với thực tiễn. Những biện pháp được đề xuất trong luận án là những gợi ý giúp cán bộ quản lý các cấp tham khảo, áp dụng trong thực tiễn quản lý GDPL cho học sinh ở các trường THPT hiện nay. 8. Kết cấu của luận án Luận án được kết cấu gồm: Phần mở đầu; 4 chương; Kết luận; Danh mục các công trình khoa học đã công bố của tác giả, danh mục tài liệu tham khảo và phụ lục. Chương 1 TỔNG QUAN NHỮNG CÔNG TRÌNH NGHIÊN CỨU CÓ LIÊN QUAN ĐẾN ĐỀ TÀI LUẬN ÁN 1.1. Những công trình nghiên cứu có liên quan đến đề tài luận án 1.1.1. Những công trình nghiên cứu về giáo dục pháp luật N.I. Matuzova, A.V. Maluco (2001), Lý luận nhà nước và pháp luật [146]. Cuốn sách gồm 34 chuyên đề luận giải các vấn đề lý luận về nhà nước và pháp luật Trong đó chuyên đề số 28 đi sâu luận giải các vấn đề lý luận về ý thức pháp luật và giáo dục ý thức pháp luật. Theo các tác giả, GDPL là hoạt động có chủ đích của Nhà nước, các tổ chức xã hội và mỗi công dân nhằm truyền thụ và lĩnh hội các kinh nghiệm pháp luật; sự tác động có hệ thống lên ý thức hành vi mỗi con người, nhằm hình thành cho họ quan niệm, định hướng giá trị, cách nhìn tích cực, bảo đảm cho việc thực hiện và sử dụng pháp luật. GDPL nhằm trang bị cho mọi những hiểu biết về nhà nước và pháp luật, về các đạo luật, các quyền tự do dân chủ của mỗi cá nhân, định hướng cho công dân thực hiện những hành vi pháp luật hợp pháp. Các thành tố cấu trúc của quá trình GDPL bao gồm chủ thể giáo dục, đối tượng giáo dục, mục đích, nội dung giáo dục, phương pháp và hình thức tổ chức GDPL. T.M. Potreta (2001), Giáo dục pháp luật trong các nhà trường sư phạm [147]. Đây là Luận án phó tiến sĩ, ngành Luật học, Trường Đại học Tổng hợp Mã cơ va. Tác giả đã luận giải các vấn đề về khái niệm GDPL và ý thức pháp luật, ý nghĩa của chúng trong xã hội hiện đại. Trong đó, đã giới thiệu dẫn dắt các khái niệm khác nhau về GDPL của các nhà nghiên cứu khoa học. Chẳng hạn, khái niệm của T.I. Akimova: “Giáo dục pháp luật là sự tác động có định hướng, có tổ chức mang tính hệ thống lên các cá nhân nhằm làm hình thành tri thức pháp luật, ý thức pháp luật, thói quen hành vi xử sự tích cực theo pháp luật, văn hóa pháp luật”. Hoặc khái niệm của K.V. Naumenkova: “GDPL là một hệ thống các biện pháp định hướng làm hình thành tư tưởng pháp luật, các nguyên tắc, chuẩn mực pháp luật – những nhân tố làm nên giá trị văn hóa pháp luật của dân tộc và nhân loại”. Từ sự phân tích các khái niệm dẫn dắt đó, các tác giả đi đến kết luận như sau: “Giáo dục pháp luật là làm hình thành quan hệ, cách xử sự tôn trọng pháp luật, coi pháp luật như một giá trị xã hội lớn lao có liên quan mật thiết đến mỗi cá nhân; phát triển tình cảm, trách nhiệm, tinh thần không khoan nhượng với thói chuyên quyền, nạn tham nhũng”. Như vậy, khái niệm mà các tác giả đưa ra được gắn liền với kết quả thực tiễn, phản ánh mục tiêu mong muốn của quá trình GDPL. V.V.Strelaieva (2008), Giáo dục pháp luật trong điều kiện xây dựng nhà nước pháp quyền [148]. Đây là Luận án phó tiến sĩ, ngành Luật học, Trường Đại học Tổng hợp Max cơ va. Chương 1 với tiêu đề: Cơ sở lý luận của GDPL, gồm 3 tiết. Tiết 1, Bản chất, phân loại GDPL. Tiết 2, Cấu trúc của GDPL. Tiết 3, Chức năng của GDPL. Tác giả khẳng định rằng, bản chất của GDPL là quá trình định vị một cách vững chắc những nguyên tắc, tư tưởng pháp luật vào trong ý thức pháp luật của đối tượng được giáo dục. Chương 2, với tiêu đề: Tổ chức GDPL trong xã hội Nga đương đại. Tác giả quan niệm rằng, giáo dục lại về pháp luật là một quá trình phức tạp hơn, bởi vì nó hướng vào khắc phục những phán đoán, đánh giá sai lầm của cá nhân, nhắm tới sửa chữa các hành vi xử sự tiêu cực, ảnh hưởng không có lợi đối với con người. Hội Luật gia dân chủ quốc tế (2006), Giáo dục pháp luật trong thời đại toàn cầu hóa, Hội thảo khoa học, Paris, Cộng hòa Pháp [41]. Những năm gần đây, ngày càng nhiều các công trình nghiên cứu về pháp luật và giáo dục pháp luật của các tổ chức quốc tế. Hội nghị toàn thể Ban chấp hành Hội luật gia dân chủ quốc tế đã họp tại Paris, Cộng hòa Pháp vào tháng 6 năm 2006. Trong chương trình nghị sự của Hội nghị đã có một cuộc Hội thảo khoa học với chủ đề: “Giáo dục pháp luật trong thời đại toàn cầu hóa” đã thu hút sự tham gia của hàng trăm tổ chức luật gia đến từ các quốc gia khác nhau trên thế giới. Hội thảo đã tập trung làm rõ tính cấp thiết phải đa dạng hóa các phương thức GDPL cho các tầng lớp xã hội ở mỗi quốc gia, nhằm đáp ứng yêu cầu của toàn cầu hóa. Các ý kiến hội thảo cho rằng, nội dung GDPL không chỉ là pháp luật quốc nội của mỗi nước mà phải tập trung phổ biến, giáo dục các nội dung pháp luật quốc tế. Hội Luật gia ASEAN (2009), Hiến chương ASEAN – Đưa ASEAN lên những tầm cao mới, Hội thảo khoa học, Hà Nội, Việt Nam [43]. Tại hội thảo này, nhiều vấn đề về GDPL đã được đặt ra. Trong phần đầu tiên của hội thảo có chủ đề “Tác động của Hiến chương ASEAN tới hệ thống giáo dục pháp luật của các nước ASAN” đã có một loạt các báo cáo khoa học nghiên cứu về tình hình GDPL ở các nước ASEAN. Các nhà nghiên cứu đều nhất trí cho rằng, quá trình giáo dục phải được bắt đầu bằng việc trang bị cho các sinh viên luật những kiến thức cơ bản nhằm tạo ra hình thức phù hợp để bênh vực quyền lợi của người dân, tuyên truyền pháp luật nhằm bảo đảm cho người dân có khả năng tiếp cận công lý với mức chi phí thấp nhất. Nội dung “Trợ giúp pháp luật cho người nghèo” cần được đưa vào chương trình đào tạo nhằm giúp người học có hiểu biết thấu đáo về ý nghĩa của việc giúp đỡ pháp luật cho những ai đang ở bên lề xã hội. Cùng với xu thế hội nhập, hợp tác quốc tế và sự phát triển của các tổ chức quốc tế, ngày càng có nhiều hội thảo về pháp luật và GDPL mang tầm cỡ quốc tế, châu lục và các khu vực. Nội dung, phương pháp, hình thức tổ chức GDPL cũng được phát triển khá mạnh mẽ. Hội thảo khoa học quốc tế (2012), Giáo dục p...m pháp luật, chỉ là những con chữ trên giấy. Pháp luật chỉ thực sự đi vào cuộc sống thông qua cơ chế điều chỉnh bao gồm các giai đoạn: ban hành, tuyên truyền giáo dục, tổ chức thực hiện, kiểm tra, giám sát. Trong cơ chế đó yếu tố con người là cơ bản. Khi tham gia các quan hệ pháp luật, con người phải suy nghĩ, lựa chọn cách xử sự thể hiện qua hành vi. Đây là một quá trình tâm lý phức tạp, phụ thuộc vào nhiều yếu tố chủ quan và khách quan. Việc phổ biến văn bản pháp luật mới chỉ là điều kiện cần nhưng chưa đủ để cá nhân hành động phù hợp theo yêu cầu của pháp luật. Điều kiện đủ ở đây là cá nhân phải có ý thức pháp luật đúng đắn, ý thức đó phải được hình thành dưới sự tác động liên tục, thường xuyên của các điều kiện khách quan và nhân tố chủ quan dẫn đến hành vi hợp pháp của cá nhân. Vấn đề đặt ra là làm thế nào để hiểu rõ và có quan điểm đúng đắn về GDPL. Từ thực tiễn nghiên cứu khoa học, để hiểu rõ về khái niệm GDPL, nhiều nhà khoa học thường xuất phát từ khái niệm giáo dục trong khoa học sư phạm. Khái niệm GDPL trong khoa học sư phạm vừa được hiểu theo nghĩa rộng, vừa được hiểu theo nghĩa hẹp. Theo nghĩa rộng, GDPL là quá trình ảnh hưởng của nhiều điều kiện khách quan như: môi trường sống, chế độ xã hội, trình độ phát triển kinh tế, văn hóa, phong tục tập quán... và sự tác động của nhân tố chủ quan như: sự tác động có ý thức, có mục đích, có kế hoạch và định hướng của con người lên việc hình thành những phẩm chất, kỹ năng nhất định của đối tượng giáo dục. Tuy thừa nhận ảnh hưởng của các điều kiện khách quan là to lớn đối với việc hình thành ý thức cá nhân con người, các nhà khoa học sư phạm vẫn nhấn mạnh đến yếu tố tác động hàng đầu, cực kỳ quan trọng, thậm chí mang yếu tố quyết định của nhân tố chủ quan trong giáo dục. Vì thế, khái niệm GDPL thường xuất phát từ nghĩa hẹp của giáo dục. Để có một khái niệm đúng đắn về GDPL cần tiếp cận khái niệm theo hai nghĩa sau: Nghĩa thứ nhất: Phổ biến pháp luật là quá trình truyền đạt tinh thần, nội dung pháp luật giúp cho đối tượng được tác động hiểu và hình thành ở họ tri thức pháp luật, tình cảm, niềm tin, hành vi phù hợp với các đòi hỏi của các quy định pháp luật hiện hành. Nghĩa thứ hai: GDPL là công tác, lĩnh vực hoạt động, bao gồm tất cả các công đoạn phục vụ cho việc thực hiện phổ biến, GDPL (xây dựng chương trình, kế hoạch GDPL; triển khai chương trình, kế hoạch GDPL thông qua việc áp dụng các hình thức, biện pháp GDPL; hướng dẫn, kiểm tra, đôn đốc, sơ kết, tổng kết việc thực hiện chương trình, kế hoạch GDPL). Khái niệm GDPL được tiếp cận theo các bình diện khác nhau, với các chủ thể, đối tượng, nội dung, phương pháp và hình thức tổ chức giáo dục khác nhau. GDPL có thể xem là một quá trình giáo dục hoặc một loại hình hoạt động giáo dục xã hội. GDPL diễn ra trong nhà trường thường được tiếp cận dưới góc độ của quá trình giáo dục. GDPL cho mọi người dân trong xã hội thường được xem là một loại hình hoạt động xã hội. GDPL với tư cách là một loại hình hoạt động xã hội chứa đựng các hoạt động phổ biến pháp luật. Giáo dục pháp luật là hoạt động có ý thức, có mục đích, có kế hoạch, có định hướng của chủ thể giáo dục tác động lên đối tượng được giáo dục, nhằm thực hiện các mục tiêu nâng cao nhận thức, hình thành ý thức pháp luật và rèn luyện thói quen hành vi ứng xử theo pháp luật trong các mối quan hệ xã hội. Đối tượng được GDPL là mọi công dân của đất nước. Đối tượng được GDPL gồm nhiều lứa tuổi, nhiều thành phần xã hội, có đặc điểm tâm, sinh lý khác nhau, đặc điểm nghề nghiệp nghiệp khác nhau, trình độ văn hóa, hiểu biết xã hội khác nhau và khả năng nhận thức khác nhau. Chủ thể GDPL cho công dân là các cá nhân và tổ chức thuộc hệ thống tổ chức chính trị của Nhà nước. Chủ thể GDPL có thể là cán bộ chuyên trách, có thể là kiêm nhiệm được phân công phổ biến, GDPL cho các nhóm đối tượng khác nhau. Phương thức GDPL được thực hiện đa dạng, tuỳ theo từng nhóm đối tượng cụ thể và điều kiện cụ thể. 2.1.1.2. Giáo dục pháp luật cho học sinh ở các trường trung học phổ thông Khái niệm GDPL cho học sinh ở các trường THPT thường được hiểu là quá trình giáo dục theo nghĩa hẹp. Tuy nhiên, các phương pháp, hình thức tổ chức GDPL lại được sử dụng theo nghĩa rộng. Quá trình dạy học và quá trình giáo dục nghĩa hẹp là hai quá trình bộ phận cùng nằm trong quá trình giáo dục nghĩa rộng. Việc tách ra thành các quá trình bộ phận chỉ có ý nghĩa trong nghiên cứu, nếu trong thực tiễn giáo dục ở các nhà trường mà tách bạch các quá trình này một cách cứng nhắc sẽ dẫn đến sự chia cắt, pha loãng nội dung và dẫn đến thiếu tính hiệu quả. Ngày nay, sự phát triển của lý thuyết giáo dục hiện đại đang có xu hướng gắn quá trình dạy học với quá trình giáo dục, lồng ghép vào nhau, xen kẽ lẫn nhau, kế tiếp nhau trong sự thống nhất. Theo chương trình giáo dục phổ thông mới, GDPL cho học sinh ở các trường THPT là một nội dung trong môn Giáo dục công dân. GDPL cho học sinh được thực hiện thông qua quá trình dạy học môn Giáo dục công dân và các môn học khác trong nhà trường. Cấu chúc chương trình môn Giáo dục công dân bao gồm phần lên lớp lý thuyết và phần tổ chức cho học sinh hoạt động trải nghiệm hướng nghiệp. Như vậy, GDPL vừa được thực hiện bằng phương pháp lên lớp lý thuyết, thông qua quá trình dạy học trên lớp, vừa được thực hiện thông qua tổ chức các hoạt động giáo dục hướng nghiệp trong thực tiễn. Vì vậy, GDPL cho học sinh ở các nhà trường không còn thuần túy là giáo dục nghĩa hẹp. GDPL cho học sinh THPT là hoạt động có định hướng, có tổ chức, có chủ định nhằm truyền bá pháp luật cho đối tượng học sinh từ 15-18 tuổi, qua đó cung cấp và nâng cao tri thức pháp luật, bồi dưỡng tình cảm niềm tin pháp luật cho đối tượng, giáo dục ý thức tôn trọng pháp luật, nghiêm chỉnh chấp hành pháp luật của học sinh THPT; góp phần ổn định môi trường giáo dục, nâng cao chất lượng giáo dục toàn diện. Dựa theo trục lý luận về GDPL, khái niệm GDPL cho học sinh ở các trường THPT được hiểu như sau: Giáo dục pháp luật cho học sinh ở các trường THPT là quá trình tác động có mục đích, có kế hoạch của nhà giáo dục lên đối tượng được giáo dục, thông qua các hoạt động dạy học và giáo dục trong nhà trường, nhằm nâng cao nhận thức, hình thành ý thức pháp luật và rèn luyện thói quen hành vi ứng xử theo pháp luật cho học sinh, giúp học sinh hình thành, phát triển phẩm chất, năng lực về pháp luật, góp phần thực hiện mục tiêu giáo dục toàn diện của nhà trường. GDPL cho học sinh ở các trường THPT là một loại hình cụ thể của GDPL được thực hiện trong nhà trường, có mục đích, có kế hoạch, có chương trình, nội dung xác định, có đội ngũ giáo viên chuyên nghiệp và điều kiện sư phạm thuận lợi. GDPL cho học sinh ở các trường THPT được thực hiện trong một quá trình giáo dục trọn vẹn, trải qua giai đoạn mở đầu, diễn biến và kết thúc trong một quảng thời gian và không gian xác định. Quá trình đó bao gồm các hoạt động dạy học và giáo dục được thực hiện bởi sự phối hợp giữa các nhà giáo dục và đối tượng giáo dục là học sinh. GDPL cho học sinh ở các trường THPT vừa có chức năng giáo dục, vừa có chức năng dạy học. Xét về chức năng giáo dục, đây là quá trình giáo dục phẩm chất pháp luật cho học sinh. Quá trình GDPL được thực hiện tuân theo quy luật của quá trình giáo dục theo nghĩa hẹp. Xét về chức năng dạy học, đây là quá trình dạy học môn Giáo dục công dân theo chương trình quy định. Quá trình dạy học môn học này phải tuân theo quy luật của quá trình dạy học trong nhà trường. Chủ thể GDPL cho học sinh ở trường THPT là đội ngũ các thầy, cô giáo trong nhà trường. Đây là những người được đào tạo cơ bản trong các nhà trường sư phạm, có trình độ hiểu biết chuyên môn về pháp luật, có năng lực về phương pháp sư phạm. Các thầy, cô giáo với tư cách là chủ thể của quá trình GDPL cho học sinh trong nhà trường. Hoạt động GDPL của các thầy, cô giáo được thực hiện thông qua quá trình dạy học trong nhà trường, thông qua tổ chức cuộc sống và các loại hình hoạt động, giao lưu do nhà trường tổ chức. Đối tượng giáo dục là học sinh THPT. Học sinh là những người ở lứa tuổi đang trưởng thành từ 15 đến 18 tuổi. Đối tượng giáo dục được tổ chức thành các lớp và khối lớp, bao gồm khối lớp 10, khối lớp 11, khối lớp 12. Học sinh trong từng khối lớp có trình độ văn hóa ngang bằng nhau, có đặc điểm tâm, sinh lý của một lứa tuổi tương đương nhau, có các hoạt động học tập và rèn luyện theo yêu cầu chung. Hoạt động chủ yếu của học sinh là hoạt động học tập và rèn luyện. Đó là điều kiện thuận lợi để tổ chức thực hiện GDPL. Sự phối hợp hoạt động của chủ thể giáo dục với đối tượng giáo dục là sự phối hợp giữa các thầy, cô giáo với học sinh trong quá trình giáo dục của nhà trường. Sự tác động qua lại lẫn nhau giữa nhà giáo dục với đối tượng giáo dục là tác động hai chiều. Trong đó vai trò của mỗi nhân tố không ngang bằng nhau. Nhà giáo dục là chủ thể của quá trình giáo dục. Nhà giáo dục tác động lên đối tượng giáo dục bằng nhiều con đường cách thức khác nhau. Đối tượng giáo dục là học sinh. Hoạt động của các học sinh chịu sự tác động, điều khiển của nhà giáo dục. Mặt khác, các học sinh là chủ thể của các hoạt động tự giáo dục. Mỗi học sinh tiếp nhận sự tác động giáo dục của các thầy, cô giáo với mức độ hứng thú khác nhau, thái độ khác nhau. Sự tác động qua lại giữa nhà giáo dục và đối tượng giáo dục được thực hiện trong môi trường giáo dục của nhà trường, trong sự vận động, phát triển đồng bộ của hệ thống cấu trúc các thành tố giáo dục, dưới sự quản lý của Ban Giám hiệu nhà trường. 2.1.2. Vai trò giáo dục pháp luật cho học sinh ở các trường trung học phổ thông hiện nay Giáo dục pháp luật cho học sinh góp phần xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa trong bối cảnh hiện nay. Giáo dục pháp luật cho học sinh góp phần thực hiện chủ trương, chính sách của Đảng, Nhà nước về xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa. Pháp luật là một trong những phương tiện hàng đầu để Nhà nước quản lý xã hội, là công cụ để công dân thực hiện các quyền và lợi ích hợp pháp cũng như nghĩa vụ của mình. GDPL là khâu đầu tiên trong hoạt động thực thi pháp luật, là cầu nối chuyển tải pháp luật vào cuộc sống để tất cả các cơ quan, tổ chức, đoàn thể xã hội và công dân biết để sử dụng một cách có hiệu quả công cụ, phương tiện đó. Đây là một quá trình tác động thường xuyên, liên tục và lâu dài của chủ thể lên đối tượng giáo dục. Chỉ thị số 32-CT/TW ngày 09/12/2003 của Ban Bí thư về tăng cường sự lãnh đạo của Đảng trong công tác phổ biến GDPL, nâng cao ý thức pháp luật của cán bộ, nhân dân khẳng định: Trước yêu cầu đẩy mạnh công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước, xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa của nhân dân, do nhân dân, vì nhân dân, công tác GDPL cần được tăng cường thường xuyên liên tục ở tầm cao hơn, nhằm làm cho cán bộ, công chức viên chức và nhân dân hiểu biết và chấp hành nghiêm chỉnh pháp luật. Vai trò của GDPL bắt nguồn từ chính vai trò và giá trị xã hội của pháp luật. Nếu như pháp luật là phương tiện hàng đầu để Nhà nước quản lý xã hội và là phương tiện để công dân bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp của mình thì GDPL giúp cho các cơ quan, nhân viên Nhà nước và công dân biết sử dụng phương tiện đó vào công việc hàng ngày. Trình độ nhận thức pháp luật và năng lực thực hiện pháp luật của công dân là một tiêu chí phản ánh trình độ phát triển của nhà nước pháp quyền. Một xã hội văn minh là một xã hội mà mọi công dân đều sống, làm việc theo kỷ cương pháp luật. Với ý nghĩa đó, GDPL cho học học sinh ở các trường THPT là một con đường, biện pháp để nâng cao trình độ, năng lực thực hiện pháp luật của công dân, góp phần xây dựng nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa. Giáo dục pháp luật trong nhà trường góp phần hình thành, phát triển toàn diện các phẩm chất nhân cách tốt đẹp cho học sinh. GDPL tác động đến quá trình hình thành, phát triển các phẩm chất chính trị, tư tưởng cho học sinh. Với nhiều hình thức, phương pháp khác nhau, GDPL cho học sinh THPT có vai trò rất to lớn. GDPL là một bộ phận của công tác giáo dục chính trị, tư tưởng cho học sinh. Thông qua GDPL giúp học sinh hiểu biết rõ hơn về bản chất cách mạng của Nhà nước Việt Nam, hiểu rõ hơn về chủ trương, chính sách của Đảng, hình thành những quan điểm, tư tưởng đúng đắn. GDPL có mối quan hệ chặt chẽ với công tác xây dựng pháp luật, tổ chức thực hiện pháp luật cho học sinh ở các trường. GDPL nhằm truyền đạt thông tin, nội dung pháp luật, giúp cho đối tượng tác động có hiểu biết nhất định về pháp luật, góp phần nâng cao ý thức pháp luật của học sinh THPT thông qua các hình thức, phương tiện, biện pháp GDPL thích hợp. GDPL cho học sinh THPT góp phần hình thành và nâng cao ý thức chấp hành đúng pháp luật. GDPL tác động đến hình thành niềm tin cho học sinh THPT đối với pháp luật. GDPL là khâu đầu tiên trong quá trình triển khai thực hiện pháp luật đối với học sinh. GDPL là một nội dung trong chương trình giáo dục ở trường THPT có mối quan hệ tương tác với các nội dung giáo dục khác, góp phần giáo dục phát triển toàn diện nhân cách của học sinh. GDPL tác động đến quá trình hình thành, phát triển các phẩm chất đạo đức, lối sống tốt đẹp cho học sinh. GDPL và giáo dục đạo đức là những nội dung cùng nằm trong môn Giáo dục đạo đức công dân. Quá trình giáo dục đạo đức cho học sinh luôn thống nhất với quá trình GDPL cho học sinh. Đây là hai nội dung giáo dục luôn tác động qua lại lẫn nhau, chuyển hóa cho nhau, cùng hướng vào phát triển các phẩm chất nhân cách toàn diện cho học sinh. Trong bối cảnh hội nhập, hợp tác quốc tế hiện nay, việc xác định các chuẩn mực giá trị đạo đức của học sinh và giáo dục đạo đức cho học sinh phải dựa trên cơ sở pháp lý, thống nhất với các chuẩn mực pháp lý. 2.1.3. Đặc điểm quá trình giáo dục pháp luật cho học sinh ở các trường trung học phổ thông theo chương trình giáo dục phổ thông mới 2.1.3.1. Đặc điểm về mục tiêu giáo dục pháp luật cho học sinh trung học phổ thông Chương trình giáo dục phổ thông Môn Giáo dục công dân (Ban hành kèm theo Thông tư số 32/2018/TT-BGDĐT ngày 26 tháng 12 năm 2018 của Bộ trưởng Bộ Giáo dục và Đào tạo) đã xác định mục tiêu chung của môn học và mục tiêu GDPL cho học sinh THPT (xem phụ lục số 12). Theo chương trình giáo dục phổ thông mới, mục tiêu của GDPL cho học sinh THPT trước hết phải hướng vào thực hiện các mục tiêu chung về giáo dục công dân, giúp học sinh tiếp tục phát triển các phẩm chất, củng cố, nâng cao các năng lực đã được hình thành, phát triển ở cấp trung học cơ sở. Chương trình giáo dục phổ thông mới đã cụ thể hóa mục tiêu GDPL cho học sinh THPT thành các nhóm năng lực như sau: Nhóm năng lực điều chỉnh hành vi pháp luật. Bao gồm các năng lực cụ thể: Năng lực nhận thức chuẩn mực hành vi pháp luật; Năng lực đánh giá hành vi pháp luật của bản thân và người khác; năng lực điều chỉnh hành vi pháp luật của bản thân. Nhóm năng lực phát triển bản thân về pháp luật. Bao gồm các năng lực cụ thể: Năng lực tự nhận thức của bản thân về pháp luật; Năng lực lập kế hoạch phát triển bản thân về pháp luật; Năng lực thực hiện kế hoạch phát triển bản thân về pháp luật. Nhóm năng lực tìm hiểu và tham gia hoạt động pháp luật. Bao gồm các năng lực cụ thể: Năng lực tìm hiểu các hiện tượng pháp luật trong đời sống xã hội; Năng lực tham gia hoạt động pháp luật trong đời sống xã hội. Như vậy, mục tiêu GDPL cho học sinh THPT theo chương trình giáo dục phổ thông mới được cụ thể thành các nhóm năng lực và các năng lực có thể lượng hóa được. Điều đó hoàn toàn phù hợp với xu thế đổi mới giáo dục theo quan điểm chuyển từ giáo dục lấy việc truyền thụ kiến thức là chủ yếu sang giáo dục kết hợp truyền thụ kiến thức với phát triển năng lực học sinh. 2.1.3.2. Đặc điểm về chương trình, nội dung giáo dục pháp luật cho học sinh trung học phổ thông Chương trình, nội dung GDPL là nguồn nguyên liệu để thực hiện các mục đích, mục tiêu hoạt động GDPL đã xác định. Chương trình, nội dung GDPL là thành tố quan trọng nhất của quá trình GDPL trong nhà trường, có vai trò quyết định mức độ đạt được các mục tiêu hoạt động GDPL. Nội dung GDPL rất rộng nhưng phải lựa chọn những vấn đề phù hợp với học sinh phổ thông, phù hợp với đặc diểm của địa phương. Điều 10, Luật phổ biến, giáo dục pháp luật đã xác định: “cần lựa chọn các lĩnh vực có liên quan trực tiếp đến đời sống và hoạt động nghề nghiệp của người dân hoặc tác động trực tiếp đến những ngành, lĩnh vực nhất định, phù hợp với tình hình thực tiễn trên từng địa bàn cụ thể” [74]. Chương trình giáo dục phổ thông Môn Giáo dục công dân (Ban hành kèm theo Thông tư số 32/2018/TT-BGDĐT ngày 26 tháng 12 năm 2018 của Bộ trưởng Bộ Giáo dục và Đào tạo) đã xác định khá đầy đủ về mục tiêu, nội dung, phương pháp, hình thức tổ chức GDPL cho học sinh ở các trường THPT. Trong đó đã chỉ ra sự phát triển của chương trình giáo dục mới so với chương trình giáo dục hiện hành (xem phụ lục số 12). Về nội dung GDPL là một nội dung thuộc chương trình Môn Giáo dục công dân ở THPT được tổng hợp trong bảng 2.1 như sau: Bảng 2.1. Nội dung GDPL trong Môn Giáo dục công dân ở cấp THPT Nội dung Lớp 10 Lớp 11 Lớp 12 GIÁO DỤC KINH TẾ Hoạt động của nền kinh tế Nền kinh tế và các chủ thể của nền kinh tế Cạnh tranh, cung, cầu trong kinh tế thị trường Tăng trưởng và phát triển kinh tế Thị trường và cơ chế thị trường Lạm phát, thất nghiệp Hội nhập kinh tế quốc tế Hoạt động kinh tế của Nhà nước Ngân sách nhà nước và thuế Thị trường lao động, việc làm Bảo hiểm và an sinh xã hội Hoạt động sản xuất kinh doanh Sản xuất kinh doanh và các mô hình sản xuất kinh doanh Ý tưởng, cơ hội kinh doanh và các năng lực của người kinh doanh Lập kế hoạch kinh doanh Tín dụng và cách sử dụng dịch vụ tín dụng Đạo đức kinh doanh Trách nhiệm xã hội của doanh nghiệp Hoạt động tiêu dùng Lập kế hoạch tài chính cá nhân Văn hoá tiêu dùng Quản lý thu, chi trong gia đình GIÁO DỤC PHÁP LUẬT Quyền và nghĩa vụ của công dân Quyền bình đẳng của công dân Một số quyền và nghĩa vụ của công dân về kinh tế Một số quyền dân chủ cơ bản của công dân Quyền và nghĩa vụ của công dân về văn hoá, xã hội Một số quyền tự do cơ bản của công dân Hệ thống chính trị và pháp luật Hệ thống chính trị nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam Pháp luật nước Cộng hoà XHCN Việt Nam Hiến pháp nước Cộng hoà XHCN Việt Nam Một số vấn đề cơ bản của pháp luật quốc tế CHUYÊN ĐỀ HỌC TẬP CĐ 10.1: Tình yêu, hôn nhân, gia đình (10T) CĐ 11.1: Phát triển kinh tế và sự biến đổi môi trường tự nhiên (15 T) CĐ 12.1: Phát triển kinh tế và sự biến đổi văn hoá, xã hội (10T) CĐ 10.2:Mô hình sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp nhỏ (15 T) CĐ 11.2:Một số vấn đề về pháp luật lao động (10T) CĐ 12.2:Một số vấn đề về Luật Doanh nghiệp (10T) CĐ 10.3:Một số vấn đề về pháp luật hình sự (10T) CĐ 11.3:Một số vấn đề về pháp luật dân sự (10T) CĐ 12.3:Việt Nam trong tiến trình hội nhập kinh tế quốc tế (15 T) Theo bảng phân phối nội dung GDPL cho các khối lớp cho thấy, Chương trình Môn Giáo dục công dân ở THPT không chỉ có 35 tiết về nội dung mà còn có thêm 35 tiết về các chuyên đề học tập. Nội dung các chuyên đề học tập tạo điều kiện cho giáo viên thiết kế các nội dung GDPL sát với thực tiễn của địa phương. 2.1.3.3. Đặc điểm về phương pháp giáo dục pháp luật cho học sinh trung học phổ thông GDPL ở trường THPT là một nội dung của môn Giáo dục công dân, có vai trò chủ yếu trong việc giáo dục, hình thành, phát triển các phẩm chất và hành vi pháp luật cho học sinh. Điều 23 và Điều 24 của Luật phổ biến, giáo dục pháp luật đã chỉ ra rằng, hình thức GDPL trong các cơ sở giáo dục của hệ thống giáo dục quốc dân được thực hiện bằng hai hình thức là giáo dục chính khóa và giáo dục ngoại khóa, kết hợp lồng ghép các môn học và các hoạt động trong nhà trường [74]. Đặc điểm chung nhất về phương pháp GDPL ở trường THPT là phải gắn lý thuyết với thực hành, lấy thực hành làm mục đích cuối cùng. Mọi phương pháp và hình thức tổ chức GDPL cho học sinh phải gắn với thực tiễn tình hình pháp luật trong nhà trường và trên địa bàn. Kết hợp dạy học với tổ chức các hoạt động giáo dục đa dạng trong nhà trường và hoạt động trải nghiệm về pháp luật trong thực tiễn. Trong GDPL phải xây dựng các bài tập, tổ chức cho học sinh xử lý các tình huống trong thực tiễn. Thông qua đó mà giáo dục ý thức pháp luật và phát triển các phẩm chất, năng lực pháp luật cho học sinh. Chương trình giáo dục phổ thông Môn Giáo dục công dân (Ban hành kèm theo Thông tư số 32/2018/TT-BGDĐT ngày 26 tháng 12 năm 2018 của Bộ trưởng Bộ Giáo dục và Đào tạo) đã xác định phương pháp dạy học Môn Giáo dục công dân và phương pháp GDPL cho học sinh THPT (xem phụ lục số 12). Theo đó, phương pháp GDPL cho học sinh ở các trường THPT phải chú trọng tổ chức, hướng dẫn các hoạt động để học sinh khám phá, phân tích, khai thác thông tin, xử lý tình huống thực tiễn, trường hợp điển hình; tăng cường sử dụng các thông tin, tình huống, trường hợp của thực tế cuộc sống xung quanh, gần gũi với đời sống học sinh trong việc phân tích, đối chiếu, minh hoạ để các bài học vừa có sức hấp dẫn, vừa nhẹ nhàng, hiệu quả; coi trọng tổ chức các hoạt động trải nghiệm để học sinh tự phát hiện và chiếm lĩnh kiến thức mới, phát triển kĩ năng và thái độ tích cực, trên cơ sơ đó hình thành, phát triển phẩm chất và năng lực của người công dân tương lai. Kết hợp sử dụng các phương pháp dạy học truyền thống với các phương pháp dạy học hiện đại theo hướng tích cực hoá hoạt động của người học; tăng cường sử dụng các phương pháp dạy học đặc thù của môn học như: giải quyết vấn đề, phân tích trường hợp điển hình kết hợp nêu những tấm gương công dân tiêu biểu; xử lý tình huống có tính thời sự về đạo đức, pháp luật và kinh tế trong cuộc sống hằng ngày; thảo luận nhóm; đóng vai; dự án;... Kết hợp các hình thức dạy học theo hướng linh hoạt, phù hợp, hiệu quả: dạy học theo lớp, theo nhóm và cá nhân; dạy học ở trong lớp và ở ngoài lớp, ngoài khuôn viên nhà trường; tăng cường thực hành, rèn luyện kĩ năng trong các tình huống cụ thể của đời sống; tích cực sử dụng các phương tiện dạy học hiện đại nhằm đa dạng, cập nhật thông tin, tạo hứng thú cho học sinh. Phối hợp giáo dục trong nhà trường với giáo dục ở gia đình và xã hội. Như vậy, phương pháp GDPL cho học sinh ở các trường THPT theo chương trình giáo dục phổ thông mới 2018 đã lồng ghép, gắn kết các phương pháp dạy học với các phương pháp giáo dục. 2.1.4. Những vấn đề đặt ra trong dục pháp luật cho học sinh ở các trường trung học phổ thông hiện nay GDPL cho học sinh ở các trường THPT hiện nay đang chịu sự tác động của những vấn đề mang tính thời đại và điều kiện xã hội lịch sử cụ thể. Xu thế hội nhập, hợp tác quốc tế đã và đang mở cửa cho các nền văn hóa của các quốc gia thâm nhập vào nhau. Quá trình đó vừa tạo ra cơ hội cho các nền văn hóa của từng quốc gia được mở mang, phát triển toàn diện hơn, vừa đặt ra những vấn đề thách thức mới cho các quốc gia đang phát triển. Trong đó, đáng lo ngại nhất là sự sung đột những chuẩn mực văn hóa của các quốc gia có thể chế chính trị khác nhau. Tính đa dạng, phong phú của các nền văn hóa thâm nhập vào nhau sẽ làm pha loãng các giá trị văn hóa truyền thống của dân tộc và làm nảy sinh nhiều vấn đề phức tạp trong các mối quan hệ xã hội. Quá trình hội nhập, hợp tác quốc tế đang đặt ra những yêu cầu mới về chuẩn mực giá trị đạo đức, lối sống và pháp luật của xã hội. Đó là vấn đề thời đại đặt ra trong GDPL cho học sinh ở các nhà trường THPT hiện nay. Quá trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước; quá trình chuyển đổi từ nền kinh tế kế hoạch, tập trung sang kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa cùng với quá trình đổi mới giáo dục và đào tạo đã và đang làm nảy sinh nhiều vấn đề xã hội đặt ra có tác động ảnh hưởng mạnh mẽ đến quá trình GDPL cho học sinh ở các nhà trường THPT hiện nay. Những tác động đó được biểu hiện ra bằng mâu thuẫn trong GDPL ở các nhà trường. Mâu thuẫn giữa tính biến động nhanh của xã hội với sự ổn định tương đối của GDPL ở các nhà trường. Trong bối cảnh hội nhập, hợp tác quốc tế ngày càng mở rộng, nhiều mối quan hệ xã hội ngày càng đa dạng, phức tạp. Cùng với sự đa phương hóa, đa dạng hóa các mối quan hệ xã hội là sự mở rộng về quy mô luật pháp của các quốc gia, tác tổ chức quốc tế. Trong khi đó, nội dung, chương trình GDPL cho học sinh ở các nhà trường THPT đã được xây dựng tương đối ổn định. Mâu thuẫn này đã làm nảy sinh các quan điểm mới trong xây dựng nội dung, chương trình GDPL cho học sinh. Một trong những quan điểm đổi mới nội dung, chương trình GDPL đó là “dĩ biến ứng biến”. Nghĩa là, xây dựng nội dung, chương trình GDPL theo kiểu biến động để ứng với sự biến động của thực tiễn. Mâu thuẫn giữa GDPL trong nhà trường với thực thi pháp luật của xã hội. GDPL trong nhà trường nhằm nâng cao nhận thức về pháp luật cho học sinh, giúp các em hình thành niềm tin vào hệ thống pháp luật và định hướng các em học sinh rèn luyện thói quen hành vi pháp luật, ngăn ngừa vi phạm pháp luật. Tuy nhiên, trong thực tiễn xã hội, các vụ việc vi phạm pháp luật diễn ra thường xuyên, trên nhiều lĩnh vực, nhiều đối tượng khác nhau. Điều đó có tác động không nhỏ đến niềm tin pháp luật của học sinh. Mặt khác, sự vận động, biến đổi nhanh của kinh tế thị trường cùng với sự khắc nghiệt của quy luật kinh thế thị trường hiện nay đang tác động lên sự ổn định tương đối và tính nhân văn của giáo dục nhà trường. Những mâu thuẫn nảy sinh trong nền kinh tế thị trường cùng với sự phát triển của khoa học, công nghệ đã và đang tác động đa chiều đến GDPL cho học sinh ở các trường THPT. Trong đó có cả tác động trực tiếp, tác động gián tiếp; có tác động từ hiện thực xã hội, có cả tác động từ môi trường xã hội ảo; có tác động tích cực, có tác động tiêu cực. Những tác động đó làm cho nhận thức, niềm tin, hành vi pháp luật của học sinh luôn có những diễn biến khó lường. Mâu thuẫn giữa yêu cầu GDPL hiện nay với thực trạng năng lực GDPL của các nhà trường THPT. Lý luận và thực tiễn GDPL cho học sinh ở các nhà trường THPT chậm đổi mới, chưa theo kịp sự phát triển của xã hội. Nhận thức của học sinh và một bộ phận cán bộ, giáo viên chưa đầy đủ về GDPL. Một số người xem đây là nội dung phụ, không cần thiết phải đầu tư nhiều. Đội ngũ giáo viên giảng dạy môn Giáo dục công dân còn thiếu và chưa được quan tâm xây dựng chuẩn hóa. Phương pháp GDPL ít được đổi mới. Hầu hết các nhà trường THPT vẫn thực hiện GDPL theo kiểu dạy học trang bị kiến thức là chính. Mâu thuẫn giữa mục tiêu, nội dung, phương pháp và hình thức tổ chức GDPL cho học sinh. Chương trình, nội dung GDPL chưa chuẩn hóa, đang có sự biến động. Chương trình, nội dung GDPL hiện hành còn mang nặng tính lý thuyết. Tính thực tiễn, thiết thực của nội dung GDPL còn hạn chế. Hầu hết các nhà trường đều giảng dạy các nội dung theo sách giáo khoa, chưa đầu tư nhiều về đổi mới nội dung, chương trình GDPL cho phù hợp với đặc điểm của nhà trường và địa phương. Chưa có cơ chế bắt buộc hoặc tạo điều kiện cho giáo viên đổi mới nội dung, chương trình GDPL. Phương pháp và hình thức tổ chức GDPL cho học sinh ở các trường THPT chủ yếu là lên lớp lý thuyết, ít các phương pháp, hình thức giáo dục trong thực tiễn. Kiểm tra, đánh giá kết quả học tập của học viên chủ yếu là kiểm tra trình độ nhận thức về pháp luật, chưa có phương thức đánh giá ý thức và hành vi pháp luật của học sinh. Mâu thuẫn giữa kết quả GDPL cho học sinh với tình trạng vi phạm pháp luật của học sinh. Mặc dù kết quả GDPL cho học sinh hàng năm được đánh giá bằng hạnh kiểm tốt, học lực khá giỏi chiếm tỷ lệ khá lớn, nhưng tình trạng vi phạm pháp luật của học sinh đang có xu hướng gia tăng và trẻ hóa. Các vụ việc vi phạm pháp luật của học sinh ngày càng đa dạng. Không chỉ vi phạm luật giao thông mà còn cả trộm cướp; nghiện ngập, mua bán ma túy; đánh nhau; quan hệ bất chính Tính chất nguy hiểm của các vụ việc ngày càng cao. Điều này đặt ra vấn đề phải xem xét lại cả về lý luận và thực tiễn GDPL cho học sinh trong bối cảnh hiện nay. 2.2. Những vấn đề lý luận về quản lý giáo dục pháp luật cho học sinh ở các trường trung học phổ thông hiện nay 2.2.1. Khái niệm quản lý giáo dục pháp luật và quản lý giáo dục pháp luật cho học sinh ở các trường trung học phổ thông 2.2.1.1. Khái niệm quản lý giáo dục pháp luật Taylor, F.W. (1911), The Principles of Scientific Management, Harper, New York, NY (Những nguyên tắc quản lý khoa học). Ông được coi là cha đẻ của thuyết quản lý khoa học, đã quan niệm rằng: "Mỗi loại công việc dù nhỏ nhất đều phải chuyên môn hóa và phải quản lý chặt chẽ". "Quản lý là nghệ thuật biết rõ ràng, chính xác cái gì cần làm và làm cái đó thế nào bằng phương pháp tốt nhất và rẻ nhất" [136] Fayol, H. (1918), Notice sur les travaux scientifiques et techniques de M. Henri Fayol, Gauthier-Villars, Paris. Tác giả quan niệm rằng "Quản lý là quá trình đạt đến mục tiêu của tổ chức bằng cách vận dụng các hoạt động (chức năng) kế hoạch hóa, tổ chức, chỉ đạo và kiểm tra" [122]. Có thể khái quát rằng, quản lý là tác động có hướng đích của chủ thể quản lý (Người quản lý) đến khách thể quản lý (Người bị quản lý) trong một tổ chức nhằm làm cho tổ chức vận hành và đạt được mục đích của tổ chức. Trong nhà trường, quản lý là quá trình tác động của bộ máy quản lý nhà trường (Người quản lý) đến tập thể giáo viên, học sinh và các lực lượng khác nhằm thực hiện hệ thống các mục tiêu giáo dục của nhà trường. Quản lý là quá trình tác động có mục đích, có tổ chức, của cán bộ quản lý đến cách thức làm việc của thầy và trò nhằm đạt được mục đích dạy học và giáo dục. Giáo dục trong nhà trường là quá trình vận động của các thành tố giáo dục trong một hệ thống như: Mục tiêu - Nội dung - Phương pháp - Phương tiện - Hình thức - Kết quả - Nhà giáo dục – Đối tượng giáo dục. Quản lý quá trình giáo dục là tổ chức, điều khiển các thành tố đó vận động đồng bộ với nhau trong hệ thống nhằm thực hiện các mục tiêu đã xác định. Quản lý GDPL là một điều kiện cơ bản để hoạt động GDPL đạt được mục đích đã định. Quản lý GDPL là hoạt động thường xuyên, liên tục và lâu dài của chủ thể quản lý lên đối tượng, là cầu nối để chuyển tải pháp luật vào cuộc sống. Trong công tác quản lý nhà nước, phổ biến, quản lý GDPL được hiểu theo nghĩa rộng và được xác định là một công việc trọng tâm và thường xuyên của các cơ quan nhà nước, các cấp, các ngành. Quản lý GDPL là hoạt động có mục đích, có tổ chức của chủ thể quản lý, tác động vào quá... kinh tế Cạnh tranh, cung, cầu trong kinh tế thị trường Tăng trưởng và phát triển kinh tế Thị trường và cơ chế thị trường Lạm phát, thất nghiệp Hội nhập kinh tế quốc tế Hoạt động kinh tế của Nhà nước Ngân sách nhà nước và thuế Thị trường lao động, việc làm Bảo hiểm và an sinh xã hội Hoạt động sản xuất kinh doanh Sản xuất kinh doanh và các mô hình sản xuất kinh doanh Ý tưởng, cơ hội kinh doanh và các năng lực cần thiết của người kinh doanh Lập kế hoạch kinh doanh Tín dụng và cách sử dụng các dịch vụ tín dụng Đạo đức kinh doanh Trách nhiệm xã hội của doanh nghiệp Hoạt động tiêu dùng Lập kế hoạch tài chính cá nhân Văn hoá tiêu dùng Quản lý thu, chi trong gia đình GIÁO DỤC PHÁP LUẬT Quyền và nghĩa vụ của công dân Quyền bình đẳng của công dân Một số quyền và nghĩa vụ của công dân về kinh tế Một số quyền dân chủ cơ bản của công dân Quyền và nghĩa vụ của công dân về văn hoá, xã hội Một số quyền tự do cơ bản của công dân Hệ thống chính trị và pháp luật Hệ thống chính trị nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam Pháp luật nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam Hiến pháp nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam Một số vấn đề cơ bản của pháp luật quốc tế CHUYÊN ĐỀ HỌC TẬP Chuyên đề 10.1: Tình yêu, hôn nhân, gia đình (10T) Chuyên đề 11.1: Phát triển kinh tế và sự biến đổi môi trường tự nhiên (15 T) Chuyên đề 12.1: Phát triển kinh tế và sự biến đổi văn hoá, xã hội (10T) Chuyên đề 10.2:Mô hình sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp nhỏ (15 T) Chuyên đề 11.2:Một số vấn đề về pháp luật lao động (10T) Chuyên đề 12.2:Một số vấn đề về Luật Doanh nghiệp (10T) Chuyên đề 10.3:Một số vấn đề về pháp luật hình sự (10T) Chuyên đề 11.3:Một số vấn đề về pháp luật dân sự (10T) Chuyên đề 12.3:Việt Nam trong tiến trình hội nhập kinh tế quốc tế (15 T) VI. PHƯƠNG PHÁP GIÁO DỤC Môn Giáo dục công dân hình thành, phát triển ở học sinh các phẩm chất và năng lực của người công dân thông qua các bài học về lối sống, đạo đức, pháp luật, kinh tế, nghĩa là chuyển các giá trị văn hoá, đạo đức, các kiến thức pháp luật, kinh tế thành ý thức và hành vi của người công dân. Do vậy, giáo viên phải có phương pháp giáo dục phù hợp, cụ thể là: 1. Chú trọng tổ chức, hướng dẫn các hoạt động để học sinh khám phá, phân tích, khai thác thông tin, xử lý tình huống thực tiễn, trường hợp điển hình; tăng cường sử dụng các thông tin, tình huống, trường hợp của thực tế cuộc sống xung quanh, gần gũi với đời sống học sinh trong việc phân tích, đối chiếu, minh hoạ để các bài học vừa có sức hấp dẫn, vừa nhẹ nhàng, hiệu quả; coi trọng tổ chức các hoạt động trải nghiệm để học sinh tự phát hiện và chiếm lĩnh kiến thức mới, phát triển kĩ năng và thái độ tích cực, trên cơ sơ đó hình thành, phát triển phẩm chất và năng lực của người công dân tương lai. 2. Kết hợp sử dụng các phương pháp dạy học truyền thống với các phương pháp dạy học hiện đại theo hướng tích cực hoá hoạt động của người học; tăng cường sử dụng các phương pháp dạy học đặc thù của môn học như: giải quyết vấn đề, phân tích trường hợp điển hình kết hợp nêu những tấm gương công dân tiêu biểu; xử lý tình huống có tính thời sự về đạo đức, pháp luật và kinh tế trong cuộc sống hằng ngày; thảo luận nhóm; đóng vai; dự án;... 3. Kết hợp các hình thức dạy học theo hướng linh hoạt, phù hợp, hiệu quả: dạy học theo lớp, theo nhóm và cá nhân; dạy học ở trong lớp và ở ngoài lớp, ngoài khuôn viên nhà trường; tăng cường thực hành, rèn luyện kĩ năng trong các tình huống cụ thể của đời sống; tích cực sử dụng các phương tiện dạy học hiện đại nhằm đa dạng, cập nhật thông tin, tạo hứng thú cho học sinh. 4. Phối hợp giáo dục trong nhà trường với giáo dục ở gia đình và xã hội. VII. ĐÁNH GIÁ KẾT QUẢ GIÁO DỤC Đánh giá kết quả giáo dục là đánh giá mức độ đạt được của học sinh về phẩm chất và năng lực so với các yêu cầu cần đạt của mỗi lớp học, cấp học nhằm xác định vị trí và ghi nhận sự tiến bộ của mỗi học sinh tại thời điểm nhất định trong quá trình phát triển của bản thân;đồng thời cung cấp thông tin để giáo viên điều chỉnh việc dạy học và cơ quan quản lý giáo dục thực hiện phát triển chương trình. Đánh giá kết quả giáo dục phải bảo đảm các yêu cầu sau: 1. Kết hợp đánh giá thông qua các nhiệm vụ học tập (bài kiểm tra dưới dạng trắc nghiệm, vấn đáp hoặc tự luận, bài tập thực hành, bài tiểu luận, bài thuyết trình, bài tập nghiên cứu, dự án nghiên cứu,...) với đánh giá thông qua quan sát biểu hiện về thái độ, hành vi của học sinh trong quá trình tham gia các hoạt động học tập được tổ chức trên lớp học, hoạt động nhóm, tập thể hay cộng đồng và trong sinh hoạt, giao tiếp hằng ngày. Chú trọng sử dụng các bài tập xử lý tình huống được xây dựng trên cơ sở gắn kiến thức của bài học với thực tiễn đời sống, đặc biệt là những tình huống, sự việc, vấn đề, hiện tượng của thực tế cuộc sống xung quanh, gần gũi với học sinh. Tăng cường các câu hỏi mở gắn với thực tiễn trong các bài tập kiểm tra, đánh giá để học sinh được thể hiện phẩm chất và năng lực. Việc đánh giá thông qua quan sát biểu hiện về thái độ, hành vi ứng xử của học sinh trong quá trình tham gia vào các hoạt động học tập, sinh hoạt ở trường, ở nhà và ở cộng đồng cần dựa trên phiếu nhận xét của giáo viên, học sinh, gia đình hoặc các tổ chức xã hội. 2. Kết hợp đánh giá của giáo viên với tự đánh giá và đánh giá đồng đẳng của học sinh, đánh giá của phụ huynh học sinh và đánh giá của cộng đồng, trong đó đánh giá của giáo viên là quan trọng nhất; coi trọng đánh giá sự tiến bộ của học sinh. 3. Kết quả đánh giá sau mỗi học kì và cả năm học đối với mỗi học sinh là kết quả tổng hợp đánh giáquá trình và đánh giá tổng kết theo hướng dẫn của Bộ Giáo dục và Đào tạo. 2.Thời lượng thực hiện chương trình a) Thời lượng thực hiện chương trình ở các lớp (theo số tiết học) Lớp 10 = 70 tiết. Lớp 11 = 70 tiết. Lớp 12 = 70 tiết Ở cấp trung học phổ thông, mỗi lớp có thêm 35 tiết/năm học cho các chuyên đề học tập lựa chọn. Phụ lục 13 CÂU HỎI VÀ TRẢ LỜI PHỎNG VẤN 1. Phỏng vấn sâu cô Vũ Thị Ngọc Dung – Hiệu trưởng trường THPT Bùi Thị Xuân, Quận 1, TP Hồ Chí Minh Câu 1: Cô có thể giới thiệu khái quát về bản thân, cô làm công tác quản lý giáo dục ở nhà trường này đã lâu chưa? TL: Tôi nguyên là học sinh cũ của nhà trường. Sau khi tốt nghiệp ĐH Sư phạm Tp. HCM khoa Hóa, tôi được trở lại công tác tại trường Bùi Thị Xuân, được bổ nhiệm làm Phó Hiệu trưởng năm 2005 và được bổ nhiệm làm Hiệu trưởng năm 2013 đến nay. Đến nay, tôi công tác trong nhà trường đã gần 30 năm. Câu 2: Cô có thể giới thiệu khái quát những thành tích của nhà trường THPT Bùi Thị Xuân từ khi cô đảm nhận chức vụ Hiệu trưởng đến nay? TL: Năm học 2012-2013, Trường Bùi Thị Xuân xếp thứ 60 cả nước về điểm trúng tuyển đại học, đến năm 2013-2014 đã vươn lên xếp thứ 46 và năm học 2014 – 2015 xếp thứ 23. Với những kết quả đạt được, thầy trò trường THPT Bùi Thị Xuân đã vinh dự nhiều lần được nhận Cờ thi đua xuất sắc và Bằng khen của UBND thành phố, Cờ thi đua của Liên đoàn Lao động thành phố, Bằng khen của Bộ trưởng Bộ Giáo dục và Đào tạo; và năm 2015, trường vinh dự được nhận Huân chương Lao động hạng Nhì của Chủ tịch nước - ghi nhận những đóng góp và thành tích xuất sắc trong công tác giáo dục và đào tạo của nhà trường. Câu 3: Cô có thể cho biết tình hình chung về GDPL cho học sinh của trường THPT Bùi Thị Xuân hiện nay như thế nào? TL: Nhà trường đứng chân trên địa bàn Quận 1 là trung tâm của Thành phố có nhiều thuận lợi nhưng cũng có nhiều mối quan hệ đa dạng phức tạp, có nhiều nguy cơ tác động tiêu cực đến ý thức và hành vi chấp hành pháp luật của học sinh. Vì vậy, việc GDPL cho học sinh được nhà trường thường xuyên quan tâm, chú ý. Cho đến nay nhà trường chưa có trường hợp nào vi phạm pháp luật phải xử lý hình sự. Mặc dù vậy, nhưng nhận thức về pháp luật của học sinh nói chung chưa thật đầy đủ, có mặt còn hạn chế. Ý thức và hành vi pháp luật của một số học sinh chưa cao, chưa bền vững, dễ bị dao động. Các vụ việc về vi phạm những quy định về Luật Giao thông vẫn còn khá nhiều, nhất là các em học sinh khối lớp 10. Câu 4: Cô có thể cho biết nội dung và phương pháp GDPL cho học sinh của trường THPT Bùi Thị Xuân hiện nay như thế nào? TL: Nội dung GDPL cho học sinh của nhà trường chủ yếu vẫn được thực hiện trên cơ sở của chương trình, nội dung Môn Giáo dục công dân theo quy định. Tổ chức các chuyên đề ngoại khóa, kỹ năng sống. Nhà trường đã kết hợp đa dạng các phương pháp và hình thức tổ chức giáo dục, kết hợp GDPL cho học sinh với các nội dung giáo dục về chính trị, tư tưởng, đạo đức và giáo dục kỷ luật. Tổ chức các câu lạc bộ chia sẻ, tư vấn tâm lý cho học sinh. GDPL cho học sinh được tích hợp, lồng ghép trong các môn học khác. Câu 5: Cô có thể cho biết, hiện nay trong nhà trường THPT Bùi Thị Xuân, những hành vi nào của học sinh có nguy cơ dẫn đến vi phạm pháp luật? TL: Nguy cơ thì rất nhiều. Nhưng nguy cơ lớn nhất là các em tham gia giao thông không tuân thủ theo Luật, có thể gây tai nạn bất kỳ lúc nào. Các trường hợp tham gia giao thông không đội mũ bảo hiểm, đèo 2 đến 3 người, phóng nhanh vượt ẩu, vượt đèn đỏ vẫn còn khá nhiều. Một số học sinh bị sức ép từ gia đình và các mối quan hệ riêng tư có nguy cơ dẫn đến hành vi tiêu cực, không kiểm soát được bản thân. Một số em có các quan hệ quá rộng trên mạng xã hội, kết bạn hẹn hò, dễ bị lôi kéo sa ngã vào các tệ nạn. Chúng tôi luôn phải đề cao cảnh giác, mỗi Thầy cô là một chiến sĩ trên mặt trận mạng xã hội cùng tham gia nắm tâm tư của học sinh để nắm bắt tâm lý tình cảm của các em kip thời, đề ra các giải pháp phòng ngừa, hỗ trợ sớm. Xin cảm ơn cô! 2. Phỏng vấn sâu Ông Phạm Quang Tuyến – Hiệu trưởng trường THPT Lý Thường Kiệt, huyện Hooc Môn, TP Hồ Chí Minh Câu 1: Thầy có thể giới thiệu khái quát về bản thân, cô làm công tác quản lý giáo dục ở nhà trường này đã lâu chưa? TL: Tôi nguyên là học sinh cũ của trường THPT Lý Thường Kiệt. Sau khi tốt nghiệp ĐH Sư phạm Tp. HCM khoa Lý, tôi được trở lại công tác tại trường Gò Vấp, được điều động và bổ nhiệm làm Phó Hiệu trưởng trường THPT Lý Thường Kiệt năm 2013 và được bổ nhiệm làm Hiệu trưởng năm 2018 đến nay. Đến nay, tôi công tác trong nhà trường đã gần 20 năm. Câu 2: Thầy có thể giới thiệu khái quát những thành tích của nhà trường THPT Lý Thường Kiệt từ khi cô đảm nhận chức vụ Hiệu trưởng đến nay? TL: Năm học 2018-2019, 2019- 2020, Trường THPT Lý Thường Kiệt đã vinh dự nhiều lần được công nhận là Tập thể lao động xuất sắc, nhận Cờ thi đua xuất sắc và Bằng khen của UBND thành phố, Cờ thi đua của Liên đoàn Lao động thành phố, Bằng khen của Bộ trưởng Bộ Giáo dục và Đào tạo. Nhiều năm liền học sinh xép hạnh kiểm tốt đạt trên 95%; học lực giỏi trên 16%, khá 61,9%, trung bình 21,8%, yếu dưới 0.5%. Đặc biệt đei63m đầu vào lo71op đầu cấp tăng đều hàng năm, số học sinh lưu ban chiếm 0,2%. Tập thể THPT Lý Thường Kiệt là tập thể đoàn kết, học sinh chăm ngoan. Câu 3: Thầy có thể cho biết tình hình chung về GDPL cho học sinh của trường THPT Lý Thường Kiệt hiện nay như thế nào? TL: Nhà trường đứng chân trên địa bàn huyện ngoại thành của thành phố chưa có nhiều thuận lợi nhưng địa bàn được sự hỗ trợ tích cực của ủy ban nhân dân xã Thới Tam Thôn và công an khu vực, có hình thức giáo dục tác động tích cực đến ý thức và hành vi chấp hành pháp luật của học sinh. Vì vậy, việc GDPL cho học sinh được nhà trường thường xuyên quan tâm, chú ý. Cho đến nay nhà trường chưa có trường hợp nào vi phạm pháp luật phải xử lý hình sự. Ý thức và hành vi pháp luật của một số học sinh tốt, không có trường hợp phải đuổi học hay kỷ luật nghiêm trọng. Các vụ việc về vi phạm những quy định về Luật Giao thông vẫn rất ít, học sinh ngoại thành phần lớn con nhà nghèo, ngoan, lành tính; sống giản dị chân tình, xây dựng tình bạn đẹp đẽ. Câu 4: Thầy có thể cho biết nội dung và phương pháp GDPL cho học sinh của trường THPT Lý Thường Kiệt hiện nay như thế nào? TL: Nội dung GDPL cho học sinh của nhà trường chủ yếu vẫn được thực hiện trên cơ sở của chương trình, nội dung Môn Giáo dục công dân theo quy định. Tuy nhiên, nhà trường đã kết hợp đa dạng các phương pháp và hình thức tổ chức giáo dục, kết hợp GDPL cho học sinh với các nội dung giáo dục về chính trị, tư tưởng, đạo đức và giáo dục kỷ luật. GDPL cho học sinh được tích hợp, lồng ghép trong các môn học khác. Đặc biệt nhà trường thường xuyên kết hợp với công an địa phương, huyện đoàn tổ chức các buổi sinh hoạt chuyên đề cho học sinh trong đó chú trọng tính nêu gương, tuyên dương và nhân rộng gương điển hình trong toàn trường. Câu 5: Thầy có thể cho biết, hiện nay trong nhà trường THPT Lý Thường Kiệt, những hành vi nào của học sinh có nguy cơ dẫn đến vi phạm pháp luật? TL: Nếu như nội thành học sinh vi phạm giao thông nhiêu thì ở ngoại thành ngược lại, các em chủ yếu đến trường bằng xe đạp, xe diện. Nguy cơ ở địa phương này có chăng là tình trạng mê game. Một bộ phận học sinh chơi gam thâu đêm dẫn đến đầu óc căng thẳng. Một số em có các quan hệ phức tạp trên mạng xã hội, dễ bị lôi kéo sa ngã vào các tệ nạn. Đó là những nguy cơ mà nhà trường chúng tôi luôn phải cảnh giác, đề ra các giải pháp phòng ngừa từ sớm. Xin cảm ơn Thầy! 3. Phỏng vấn bà Cao Thị Thiên Phúc- Phó trưởng phòng Chính trị tư tưởng, Nguyên Phó trưởng Phòng Pháp chế, Sở Giáo dục và Đào tạo Thành phố Hồ Chí Minh Câu 1: Xin bà cho biết tình hình chung về GDPL cho học ở các trường THPT trên địa bàn Thành phố Hồ Chí Minh hiện nay đang có những thuận lợi, khó khăn gì? TL: * Thuận lợi: Triển khai kịp thời các văn bản chỉ đạo của thực hiện Chương trình phổ biến, giáo dục pháp luật theo các Kế hoạch, văn bản chỉ đạo của Thủ tướng Chính phủ, Bộ Giáo dục và Đào tạo, Ủy ban nhân dân Thành phố; từ năm 2009 đến nay; Hằng năm, ngành Giáo dục và Đào tạo Thành phố đều ban hành Kế hoạch chỉ đạo thực hiện công tác tuyên truyền, phổ biến giáo dục pháp luật, trong đó đề nghị các đơn vị trực thuộc thực hiện việc tuyên truyền, phổ biến tại đơn vị bằng nhiều hình thức phù hợp tại đơn vị. Qua công tác lãnh đạo, chỉ đạo đối với hoạt động phổ biến, giáo dục pháp luật, Sở Giáo dục và Đào tạo đã góp phần tạo chuyển biến mạnh mẽ trong nhận thức và ý thức tuân thủ, chấp hành, tự giác học tập, tìm hiểu pháp luật, xây dựng lối sống và làm việc theo pháp luật của cán bộ, công chức, viên chức, nhà giáo, người lao động, người học trong nhà trường trên địa bàn thành phố Hồ Chí Minh. * Khó khăn Đội ngũ làm công tác phổ biến, giáo dục pháp luật chưa có biên chế chính thức, một số đơn vị là cán bộ là cán bộ kiêm nhiệm nên kiến thức pháp luật, kỹ năng tuyên truyền nội dung chưa sâu nên công tác tuyên truyền tại triển khai một số nơi đạt hiệu quả chưa cao. Mặt khác, công tác phổ biến, giáo dục pháp luật đòi hỏi người làm nhiệm vụ phổ biến, giáo dục pháp luật phải có kiến thức, chuyên môn, kỹ năng giao tiếp, am hiểu lĩnh vực nên việc kiêm nhiệm sẽ gặp rất nhiều khó khăn. Văn bản quy phạm pháp luật liên quan đến lĩnh vực giáo dục và đào tạo ngày càng nhiều nên đội ngũ làm công tác phổ biến, giáo dục pháp luật ở trường ngoài công lập luôn gặp khó khăn vì là kiêm nhiệm. Kinh phí thực hiện công tác phổ biến, giáo dục pháp luật chưa cao, mức kinh phí bồi dưỡng cho đội ngũ báo cáo viên chưa phù hợp với thực tế so với quy định hiện hành nên các đơn vị gặp nhiều khó khăn khi mời báo cáo viên để tuyên truyền, báo cáo cho đơn vị, hầu hết các cơ sở giáo dục trên địa bàn thực hiện tốt công tác này trong thời gian qua là nhờ kinh phí xã hội hóa. Tài liệu sử dụng cho công tác phổ biến, giáo dục pháp luật còn hạn chế không đủ cung cấp cho tất cả đối tượng. Phần lớn các cơ sở giáo dục thực hiện phổ biến trên phương tiện thông tin đại chúng, trang thông tin của ngành. Một vài trường hợp chủ thể thực hiện công tác phổ biến, giáo dục pháp luật chưa nhận thức đúng đắn tầm quan trọng công tác này nên thực hiện còn sơ sài, qua loa dẫn đến đối tượng được phổ biến, giáo dục pháp luật còn nhàm chán dẫn đến việc phổ biến, giáo dục pháp luật chưa đạt hiệu quả cao. Câu 2: Thực trạng vi phạm pháp luật của học sinh THPT trên đại bàn Thành phố Hồ Chí Minh hiện nay đang diễn ra như thế nào? TL: Tác động của các hiện tượng tiêu cực ngoài xã hội đã ảnh hưởng đến hiệu quả giảng dạy, tuyên truyền giáo dục pháp luật cho học sinh. Một số bộ phận học sinh chưa nhận thức đầy đủ dẫn đến vẫn còn tình trạng đánh nhau, ứng xử thiếu văn hóa, xảy ra tình trạng bạo lực học đường trong thanh thiếu niên, học sinh, sinh viên; các quy định về văn hóa ứng xử, đạo đức trong trường học, chưa biết kiểm soát cư xử đúng mực trên môi trường mạng, học sinh, sinh viên còn vi phạm về an toàn giao thông đường bộ, bảo vệ môi trường, an ninh trật tự xã hội. Vi phạm nhiều nhất là học sinh bậc THPT nổi bậc nhất là học sinh ngoài công lập Câu 3: Đâu là những khó khăn trong quản lý GDPL cho học sinh ở các trường THPT trên địa bàn Thành phố Hồ Chí Minh hiện nay? TL: Kinh phí cho học động GDPL còn rất hạn chế Phân phối chương trình cho học động nhiều còn hạn chế, nhiều trường ch3 chú trọng dạy chữ chưa chú trọng tuyên tuyền Giáo dục pháp luật Đội ngũ làm công tác GDPL còn mỏng về số lượng và kỹ năng cũng như kiến thức Pháp luật Về nhận thức của CBQL Và GV chưa thật sự coi trọng công tác này, hình thức các trường làm chưa được đổi mới như mong muốn của Sở, phần lớn là tuyên truyền miệng nên chưa thu hút HS-SV. Quan trọng nhất là PHHS và HS SV còn có thái độ thờ ơ, nói ra gần như hiểu hết nhưng vẫn còn tình trạng vi phạm. Thậm chí con vi phạm thì PHHS lại tìm cách gửi gấm đối phó với công an ( vi phạm giao thông), con vi phạm pháp luật khác thì PHHS tìm cách đỗ lỗi cho nhà trường và các tổ chức XH.. Nói chung sự phối hợp 3 môi trường GD : Gia đình, nhà trừờng và xã hội, trong đó gia đình còn mờ nhạt. Còn một bộ phận PHHS chưa hợp tác tốt với nhà trường nên công tác quản lý giáo dục ở cơ sở còn khó khăn. Câu 4: Chủ trương, giải pháp nào để nâng cao hiệu quả quản lý GDPL cho học sinh ở ác trường THPT trên địa bàn Thành phố Hồ Chí Minh hiện nay? TL: Tiếp tục quán triệt các văn bản chỉ đạo, các quy định về công tác phổ biến, giáo dục pháp luật, tiếp tục đẩy mạnh công tác tuyên truyền, phổ biến Chỉ thị số 32-CT/TW ngày 09 tháng 12 năm 2003 của Ban Bí thư Trung ương Đảng về tăng cường sự chỉ đạo của Đảng trong công tác phổ biến, giáo dục pháp luật, nâng cao ý thức chấp hành pháp luật của cán bộ, nhân dân; Chỉ thị số 45/2007/CT-BGDĐT ngày 17 tháng 8 năm 2007 của Bộ Giáo dục và Đào tạo về việc tăng cường công tác PBGDPL trong ngành giáo dục; Thông tri số 07/TT/TU ngày 15 tháng 8 năm 2011 của Thành ủy Thành phố Hồ Chí Minh về quán triệt và tổ chức thực hiện Kết luận số 04-KL/TW và Chỉ thị số 17/2012/CT-UBND ngày 30 tháng 5 năm 2012 của Ủy ban nhân dân Thành phố về quán triệt và thực hiện Thông tri số 07-TT/TU. Xây dựng kế hoạch PBGDPL của ngành Giáo dục và Đào tạo Thành phố Hồ Chí Minh theo từng năm học phù hợp với kế hoạch PBGDPL của UBNDTP và Bộ Giáo dục và Đào tạo. Củng cố, bổ sung đội ngũ giáo viên, báo cáo viên, cán bộ làm công tác PBGDPL ở các cơ quan quản lý giáo dục, các cơ sở giáo dục để có kế hoạch đào tạo, bồi dưỡng nâng cao chất lượng đáp ứng yêu cầu ngày càng cao của công tác PBGDPL trong ngành Giáo dục và Đào tạo trên địa bàn Thành phố Hồ Chí Minh. Nâng cao năng lực và tăng quy mô đào tạo cho giáo viên dạy Giáo dục công dân, Đạo đức, Pháp luật ở các cơ sở giáo dục trên địa bàn Thành phố, trong đó ưu tiên đào tạo giáo viên dạy môn Giáo dục công dân cho các trường trung học cơ sở. Thường xuyên tổ chức tập huấn, cập nhật kiến thức pháp luật, phương pháp giảng dạy định kỳ cho giáo viên, giảng viên Pháp luật; bồi dưỡng về kiến thức, phương pháp để nâng cao trình độ chuyên môn nghiệp vụ cho đội ngũ giáo viên môn Giáo dục công dân, cán bộ phụ trách công tác PBGDPL chưa qua đào tạo luật. Đa dạng hóa các hoạt động phổ biến, giáo dục pháp luật, chú trọng việc ứng dụng CNTT, trang bị máy tính và các phương tiện, thiết bị tối thiểu phục vụ công tác PBGDPL trong nhà trường. - Tài liệu: xây dựng danh mục tài liệu cơ bản phục vụ công tác PBGDPL trong nhà trường; tăng cường biên soạn, phát hành tài liệu PBGDPL phổ thông; tài liệu tham khảo phục vụ việc giảng dạy, học tập các kiến thức pháp luật; tài liệu hướng dẫn kỹ năng áp dụng pháp luật cụ thể, thiết thực, hấp dẫn theo hướng đa dạng hóa nội dung và hình thức. Bổ sung các tài liệu tham khảo; tài liệu pháp luật theo chuyên đề, các đề cương tuyên truyền pháp luật, sách hỏi đáp pháp luật, sách pháp luật phổ thông, báo tạp chí chuyên ngành về luật, sách hệ thống hóa về pháp luật và các tài liệu PBGDPL khác. Thực hiện 100% cơ sở giáo dục có máy tính và phần mềm khai thác văn bản quy phạm pháp luật; Tủ sách pháp luật được cập nhật văn bản mới thường xuyên nhằm đảm bảo quy định pháp luật được cập nhật thường xuyên, liên tục trong nhà trường, đáp ứng yêu cầu phổ biến, giáo dục pháp luật. Niêm yết công khai bản tin phổ biến, giáo dục pháp luật, đảm bảo tất cả giáo viên, công nhân viên và học sinh, sinh viên của cơ sở giáo dục được tiếp cận thông tin pháp luật; - Thiết bị: xây dựng danh mục thiết bị cơ bản phục vụ giảng dạy môn học Pháp luật, Giáo dục công dân, phù hợp từng cấp học để sử dụng có hiệu quả, thống nhất trong toàn ngành. Chú trọng việc sử dụng các phương tiện điện tử, tin học, các mô hình trực quan trong công tác phổ biến, giáo dục pháp luật. Xây dựng chương trình thống nhất và nâng cao chất lượng PBGDPL ngoại khóa, các hoạt động giáo dục pháp luật ngoài giờ lên lớp nhằm kịp thời bổ sung kiến thức cho các bài học chính khóa trong đó tập trung vào các hình thức như: báo cáo chuyên đề, thi tìm hiểu pháp luật, lồng ghép nội dung phổ biến pháp luật vào các hoạt động văn hóa, văn nghệ, tổ chức tuyên truyền trên các phương tiện thông tin đại chúng, phát hành các tài liệu, tờ rơi, cập nhập các kiến thức pháp luật mới, tạo niềm tin, tình cảm pháp luật cho người học. Các hoạt động này cần đa dạng, sinh động, phù hợp cho từng đối tượng và được tổ chức thường xuyên, kết hợp trong việc kỷ niệm các ngày lịch sử, dịp lễ tết, các cuộc vận động lớn của ngành và Thành phố,... Chú trọng tổ chức cho học sinh, sinh viên tham gia các hoạt động mang tính thực hành chính trị - pháp luật, xã hội, các hoạt động nghiên cứu khoa học về các vấn đề pháp luật trong thực tiễn. Tiếp tục tổ chức các hội thi tìm hiểu kiến thức pháp luật cho đội ngũ giáo viên, giảng viên và học sinh, sinh viên trên địa bàn Thành phố. Xây dựng biên chế chuyên viên, nhân viên phụ trách công tác PBGDPL trường học. Trước mắt, tiếp tục duy trì đội ngũ cán bộ kiêm nhiệm công tác PBGDPL trong trường học. Thường xuyên kiểm tra, theo dõi công tác PBGDPL trong nhà trường trên địa bàn, kịp thời chấn chỉnh những đơn vị thực hiện chưa hiệu quả; động viên, khen thưởng những đơn vị làm tốt công tác phổ biến, giáo dục pháp luật. Tăng cường phối hợp giữa các ngành Giáo dục và Đào tạo và ngành Tư pháp, Lực lượng Vũ trang nhân dân, ngành Lao động - Thương binh và Xã hội, Đoàn Thanh niên Cộng sản Hồ Chí Minh, các cơ quan, tổ chức từ Thành phố tới phường - xã - thị trấn để nâng cao chất lượng công tác PBGDPL trong nhà trường. Tăng cường xã hội hóa các hoạt động PBGDPL, huy động sự tham gia của các tổ chức kinh tế, tổ chức quốc tế và các tổ chức, cá nhân vào công tác PBGDPL trong nhà trường. 12. Tổ chức dạy và học kiến thức pháp luật phù hợp ở tất cả các cấp học và trình độ đào tạo: - Đối với bậc Mầm non: Đưa một số nội dung pháp luật đơn giản về giao thông, về gia đình, về môi trường, vệ sinh nơi công cộng, vệ sinh an toàn thực phẩm, Công ước quốc tế Quyền trẻ em, bảo vệ, chăm sóc trẻ em Luật trẻ em và phòng, chống bạo lực; phòng, chống bạo lực, xâm hại trẻ em trong các cơ sở giáo dục kết hợp rèn kĩ năng sống cho học sinh, tích hợp GD pháp luật; tạo không khí học tập thoải mái, vui tươi thông qua các hoạt động trò chơi ở lứa tuổi mẫu giáo nhằm hình thành một số yếu tố tâm lý ban đầu mang tính luật, chuẩn bị tâm thế cho trẻ em vào học lớp 1. - Đối với bậc phổ thông, trung cấp chuyên nghiệp: Nâng cao chất lượng dạy và học môn học Đạo đức, môn học Giáo dục công dân, Pháp luật theo hướng cung cấp các kiến thức, rèn luyện các kỹ năng thực hiện các quyền và nghĩa vụ cơ bản của công dân, quyền và nghĩa vụ trong các lĩnh vực pháp luật gắn với cuộc sống và học tập của học sinh. Chú trọng các nội dung về an toàn giao thông, bảo vệ môi trường, vệ sinh an toàn thực phẩm, phòng chống tệ nạn xã hội, phòng chống tham nhũng, Luật Biển Việt nam, Luật Thanh niên, giáo dục sức khỏe sinh sản vị thành niên, luật hôn nhân gia đình, Bình đẳng giới; phòng, chống bạo lực học đường trong các cơ sở giáo dục phổ thông và giáo dục thường xuyên; Đẩy mạnh công tác tuyên truyền, giáo dục thông qua môi trường mạng theo Kế hoạch số 2639/KH-UBND ngày 02/7/2019 của UBNDTP HCM triển khai thực hiện Quyết định số 3296/QĐ-BGDĐT ngày 30/8/2018 của Bộ Giáo dục và Đào tạo về phê duyệt Đề án “Tăng cường quản lý, giáo dục chính trị tư tưởng đối với học sinh, sinh viên trên môi trường mạng đến năm 2025” trên địa bàn Thành phố Hồ Chí Minh, Đặc biệt, chú trọng giáo dục nâng cao ý thức tôn trọng pháp luật, thói quen xử sự theo pháp luật của học sinh, sinh viên. 13. Tổ chức bồi dưỡng các kiến thức pháp luật liên quan đến chương trình giáo dục cho giáo viên trong ngành giáo dục và đào tạo. Xây dựng đội ngũ báo cáo viên pháp luật ngành Giáo dục và Đào tạo Thành phố Hồ Chí Minh; bố trí cán bộ có trình độ pháp lý, có nhiệt tình và trách nhiệm phụ trách công tác PBGDPL ở các cơ quan quản lý giáo dục và các cơ sở giáo dục. 14. Công tác PBGDPL trong nhà trường trên địa bàn đảm bảo được thực hiện thường xuyên, liên tục, có trọng tâm, trọng điểm góp phần nâng cao ý thức pháp luật của đội ngũ cán bộ, giáo viên, nhân viên và học sinh, sinh viên Thành phố. Xin chân thành cảm ơn ông/ bà đã tham gia phỏng vấn ! 4. Phỏng vấn sâu ông Nguyễn Văn Dân - Công an Phường Phước Long B, Quận 9 nay là thành phố Thủ Đức, Thành phố Hồ Chí Minh Câu 1: Ông có thể cho biết tình hình chung về vi phạm pháp luật của học sinh trên địa bàn thành phố Thủ Đức hiện nay? (Về số lượng các vụ vi phạm, về tính chất, về mức độ và về độ tuổi) TL: Các năm gần đây về số lượng các vụ vi phạm có giảm, về tính chất nguy hiểm thì tăng, tinh vi hơn, tội phạm mại dâm, tiếp tục núp bóng dưới hình thức kinh doanh trá hình. Mại dâm nam, mại dâm đồng tính, mại dâm có yếu tố nước ngoài và xuất cảnh ra nước ngoài để bán dâm ngày càng gia tăng. Hoạt động chào hàng, môi giới mại dâm trên mạng, trên điện thoại di động diễn ra phổ biến, ứng dụng nhiều kỹ thuật số công nghệ thông tin Tội phạm tổ chức cờ bạc ngày càng tinh vi, có sự chuyển hướng sang hoạt động trên mạng thông qua các ứng dụng đánh bạc với phương thức chung chi nhiều tầng qua hệ thống ngân hàng với tài khoản ảo, hệ thống máy chủ cá cược đặt tại nước ngoài. Tội phạm hình sự giảm hình thành các băng nhóm tội phạm bảo kê nhỏ lẻ. Độ tuổi ngày càng trẻ. Câu 2: Theo ông, đâu là nguyên nhân chủ yếu dẫn đến tình trạng học sinh THPT trên địa bàn nay là thành phố Thủ Đức vi phạm pháp luật hiện nay? Tâm lý muốn được cảm nhận là người lớn: các em đã trải qua giai đoạn dậy thì, về cơ bản giống như người lớn. Tuy nhiên, cũng có những thuận lợi và khó khăn riêng. Về tâm lý các em muốn cảm nhận mình là người lớn, được suy nghĩ và làm việc như người lớn. Từ những suy nghĩ đó nên có những hành vi mạo hiểm như đua xe máy; có những mâu thuẫn và hành vi chống đối như bỏ nhà ra đi. Hiện nay độ tuổi mới lớn ở học sinh thường thích tò mò, thích khám phá do vậy các em thường bị lừa và “khám phá” trong nhà nghỉ, khách sạn để cảm nhận cuộc sống như người lớn, các em nghĩ rằng người lớn làm được thì mình cũng làm được. Từ đó dẫn đến nhiều hành vi sai trái.  Gia đình thiếu quan tâm : muốn hạn chế được hiện tượng học sinh vi phạm pháp luật cần phải nâng cao trách nhiệm tế bào gia đình, bố mẹ hãy quan tâm tới con cái hơn nữa và đừng quá quan tâm tới đồng tiền.  Nhà trường chỉ tập trung giáo dục văn hóa, chưa coi trọng đúng mức giáo dục đạo dục, giáo dục pháp luật: việc quản lý học sinh trong các nhà trường còn nhiều thiếu sót phần nữa là do tác động của xã hội và cũng do chính bản thân học sinh vi phạm. Câu 3: Theo ông, sự phối hợp giữa địa phương với các nhà trường trong GDPL cho học sinh ở các trường THPT hiện nay đang thực hiện có hiệu quả hay không? Rất hiệu quả. Cụ thể là : Đã nâng cao nhận thức của cán bộ, giáo viên, phụ huynh, người đứng đầu cấp ủy, chính quyền, tổ chức chính trị, xã hội qua đó tạo sự đồng thuận cao và huy động được sự tham gia chủ động, tích cực của toàn xã hội đối với sự nghiệp giáo dục và đào tạo.  Đã thực hiện mục tiêu giáo dục toàn diện; chú trọng công tác quản lý và giáo dục đạo đức, nhân cách, lối sống, kỹ năng sống, văn hóa ứng xử, giáo dục truyền thống lịch sử, văn hóa, cách mạng, giáo dục pháp luật và ý thức, trách nhiệm công dân cho HSSV; kết hợp hài hòa “dạy chữ”, “dạy người” và “dạy nghề” Đã nâng cao nhận thức về văn hóa ứng xử trên môi trường mạng xã hội, yêu cầu các em tham gia các trang mạng xã hội bảo đảm quyền tự do cá nhân trong giới hạn cho phép, song không được vi phạm các quy định của pháp luật và quy tắc ứng xử học đường. vai trò của các tổ chức chính trị, xã hội ở địa phương (cấp ủy Đảng, Chính quyền, Hội Khuyến học, Hội Cựu giáo chức, Chi đoàn thanh niên,...) trong việc tuyên truyền, vận động các gia đình quan tâm đến quản lý, giáo dục học sinh trên địa bàn.  Câu 4: Ông có đề xuất gì về phối hợp giữa nhà trường với địa phương trong hoạt động quản lý GDPL cho học sinh THPT trên địa bàn thành phố Thủ Đức trong giai đoạn hiện nay. Thực hiện có hiệu quả công tác phối hợp với các sở, ban, ngành, đoàn thể, các tổ chức xã hội, các địa phương trong việc quản lý, giáo dục học sinh, xây dựng môi trường giáo dục an toàn, thân thiện, hiện đại và có văn hoá. Bên cạnh giáo dục chính khóa, tăng cường phối hợp tổ chức đa dạng, phong phú, sáng tạo các hoạt động giáo dục ngoại khóa, ngoài giờ lên lớp, trải nghiệm sáng tạo, để tạo sân chơi lành mạnh và trí tuệ để thu hút học sinh có cơ hội và môi trường phát triển những phẩm chất và năng lực bản thân các em. Địa phương hỗ trợ nhà trường kin phí giáo dục pháp luật để đa dạng các hình thức giáo dục pháp luật hay và phong phú, sinh động. Xin cảm ơn ông đã tham gia phỏng vấn !

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • docluan_an_quan_ly_giao_duc_phap_luat_cho_hoc_sinh_o_cac_truong.doc
  • doc1 BIA LA - MINH THU.doc
  • doc2 BIA TT TIENG VIET - MINH THU.doc
  • doc2 TOM TAT TIENG VIET - MINH THU.doc
  • doc3 BIA TT TIENG ANH - MINH THU.doc
  • doc3 TOM TAT TIENG ANH - MINH THU.doc
  • doc4 TTM TIENG ANH - MINH THU.doc
  • doc4 TTM TIENG VIET - MINH THU.doc
Tài liệu liên quan