BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO BỘ NỘI VỤ
HỌC VIỆN HÀNH CHÍNH QUỐC GIA
NGUYỄN HỮU CHÍNH
QUAN HỆ PHỐI HỢP
GIỮA QUYỀN HÀNH PHÁP VÀ QUYỀN TƯ PHÁP
TRONG KIỂM SOÁT QUYỀN LỰC NHÀ NƯỚC
Ở VIỆT NAM
LUẬN ÁN TIẾN SĨ QUẢN LÝ CÔNG
HÀ NỘI, 2020
BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO BỘ NỘI VỤ
HỌC VIỆN HÀNH CHÍNH QUỐC GIA
NGUYỄN HỮU CHÍNH
QUAN HỆ PHỐI HỢP
GIỮA QUYỀN HÀNH PHÁP VÀ QUYỀN TƯ PHÁP
TRONG KIỂM SOÁT QUYỀN LỰC NHÀ NƯỚC
Ở VIỆT NAM
LUẬN ÁN TIẾN SĨ QUẢN LÝ CÔNG
Chuyên ngành: Quản lý Công
Mã
177 trang |
Chia sẻ: huong20 | Ngày: 15/01/2022 | Lượt xem: 310 | Lượt tải: 0
Tóm tắt tài liệu Luận án Quan hệ phối hợp giữa quyền hành pháp và quyền tư pháp trong kiểm soát quyền lực nhà nước ở Việt Nam, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
ã số: 9 34 04 03
Người hướng dẫn khoa học: 1. PGS.TS. LÊ THỊ HƯƠNG
2. PGS.TS. NGUYỄN TẤT VIỄN
HÀ NỘI, 2020
LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan đây là công trình nghiên cứu của riêng tôi. Các tài liệu,
số liệu, kết quả sử dụng trong Luận án là trung thực, có nguồn gốc rõ ràng và
được trích dẫn đầy đủ theo quy định. Những kết luận khoa học của luận án chưa
từng được công bố trong bất kỳ công trình nào khác.
TÁC GIẢ LUẬN ÁN
Nguyễn Hữu Chính
LỜI CẢM ƠN
Sau thời gian dài nghiên cứu, Luận án “Quan hệ phối hợp giữa quyền
hành pháp và quyền tư pháp trong kiểm soát quyền lực nhà nước ở Việt Nam”
đã hoàn thành với sự nỗ lực của bản thân, sự giúp đỡ của người hướng dẫn khoa
học, của các cơ quan, đơn vị có liên quan, của thầy cô, bạn bè và đồng nghiệp.
Xin trân trọng cảm ơn các thầy cô và Ban Giám đốc Học viện Hành chính
Quốc gia, Khoa Sau đại học đã tận tình giúp đỡ tôi trong quá trình thực hiện
Luận án này.
Đặc biệt, tôi xin bày tỏ lòng biết ơn sâu sắc đến PGS.TS. Lê Thị Hương và
PGS.TS. Nguyễn Tất Viễn đã quan tâm, định hướng và hướng dẫn tôi trong quá
trình nghiên cứu hoàn thành Luận án.
Chân thành cảm ơn quý tác giả của các tài liệu được sử dụng tham khảo
trong Luận án; cảm ơn gia đình, bạn bè, đồng nghiệp đã động viên, khuyến
khích, giúp đỡ tôi trong quá trình nghiên cứu, học tập thực hiện Luận án.
Hà Nội, ngày tháng năm 2020
Nguyễn Hữu Chính
DANH MỤC TỪ VIẾT TẮT
Chữ viết tắt Chữ viết đầy đủ
CBBC Cán bộ công chức
CQNN Cơ quan nhà nước
HCNN Hành chính nhà nước
HĐND Hội đồng nhân dân
MTTQ Mặt trận tổ quốc
QLP Quyền lập pháp
QHP Quyền hành pháp
QTP Quyền tư pháp
QLCT Quyền lực chính trị
QLNN Quyền lực nhà nước
TAND Tòa án nhân dân
VKSND Viện kiểm sát nhân dân
VPPL Vi phạm pháp luật
QBQPPL Văn bản quy phạm pháp luật
XHCN Xã hội chủ nghĩa
UBTVQH Ủy ban Thường vụ Quốc hội
MỤC LỤC
MỞ ĐẦU...1
Chương 1: TỔNG QUAN TÌNH HÌNH NGHIÊN CỨU LIÊN QUAN ĐẾN
ĐỀ TÀI LUẬN ÁN...8
1.1. Các công trình nghiên cứu về quyền lực nhà nước và kiểm soát quyền lực
nhà nước.8
1.1.1. Nhóm các công trình nghiên cứu ở nước ngoài...........8
1.1.2. Nhóm các công trình nghiên cứu ở trong nước..........................................10
1.2. Các công trình nghiên cứu về quyền hành pháp, quyền tư pháp và mối quan
hệ giữa quyền hành pháp và quyền tư pháp trong kiểm soát quyền lực nhà
nước..16
1.2.1. Nhóm công trình nghiên cứu liên quan đến quyền hành pháp...........................16
1.2.2 Nhóm công trình nghiên cứu về quyền tư pháp..................................................20
1.2.3. Nhóm công trình nghiên cứu về mối quan hệ giữa quyền hành pháp và quyền
tư pháp..............24
1.3. Đánh giá chung tình hình nghiên cứu có liên quan đến đề tài luận án..........26
1.3.1. Những vấn đề đã được nghiên cứu, giải quyết...........................................26
1.3.2. Những vấn đề luận án cần tiếp tục nghiên cứu giải quyết.....................28
Chương 2: NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ QUAN HỆ PHỐI HỢP
GIỮA QUYỀN HÀNH PHÁP VÀ QUYỀN TƯ PHÁP TRONG KIỂM
SOÁT QUYỀN LỰC NHÀ NƯỚC................................................. .31
2.1. Nhận thức về quyền hành pháp và quyền tư pháp trong kiểm soát quyền lực
nhà nước...........................31
2.1.1. Quyền lực nhà nước và kiểm soát quyền lực nhà nước.........31
2.1.2. Quyền hành pháp trong kiểm soát quyền lực nhà nước.........39
2.1.3. Quyền tư pháp trong kiểm soát quyền lực nhà nước..51
2.2. Nhận thức về quan hệ phối hợp giữa quyền hành pháp và quyền tư pháp
trong kiểm soát quyền lực nhà nước.. .56
2.2.1. Khái niệm và đặc điểm quan hệ phối hợp giữa quyền hành pháp và quyền
tư pháp trong kiểm soát quyền lực nhà nước...56
2.2.2. Cơ sở của quan hệ phối hợp giữa quyền hành pháp và quyền tư pháp trong
kiểm soát quyền lực nhà nước .................60
2.2.3. Nội dung quan hệ phối hợp giữa quyền hành pháp và quyền tư pháp trong
kiểm soát quyền lực nhà nước..62
2.2.4. Nguyên tắc của quan hệ phối hợp giữa quyền hành pháp và quyền tư pháp
trong kiểm soát quyền lực nhà nước ...68
2.2.5. Vai trò của quan hệ phối hợp giữa quyền hành pháp và quyền tư pháp
trong kiểm soát quyền lực nhà nước....................................................................72
2.3. Các yếu tố cấu thành quan hệ phối hợp giữa quyền hành pháp và quyền tư
pháp trong kiểm soát quyền lực nhà nước ..74
2.3.1. Thể chế về quan hệ phối hợp giữa quyền hành pháp và quyền tư pháp
trong kiểm soát quyền lực nhà nước74
2.3.2. Thiết chế của quan hệ phối hợp giữa quyền hành pháp và quyền tư pháp
trong kiểm soát quyền lực nhà nước....77
2.3.3. Các bảo đảm thực hiện quan hệ phối hợp giữa quyền hành pháp và quyền
tư pháp trong kiểm soát quyền lực nhà nước...80
Chương 3: THỰC TRẠNG QUAN HỆ PHỐI HỢP GIỮA QUYỀN HÀNH
PHÁP VÀ QUYỀN TƯ PHÁP TRONG KIỂM SOÁT QUYỀN LỰC NHÀ
NƯỚC Ở VIỆT NAM88
3.1. Quá trình phát triển tư duy, nhận thức về quyền lực nhà nước và quan hệ
phối hợp giữa quyền hành pháp và quyền tư pháp trong kiểm soát quyền lực nhà
nước..88
3.1.1. Quan điểm của Đảng Cộng sản Việt Nam về tổ chức quyền lực nhà nước
và quan hệ phối hợp giữa quyền hành pháp và quyền tư pháp trong kiểm soát
quyền lực nhà nước......88
3.1.2. Thể chế pháp lý về tổ chức quyền lực nhà nước và quan hệ phối hợp giữa
quyền hành pháp và quyền tư pháp trong kiểm soát quyền lực nhà nước trước
Hiến pháp năm 201391
3.1.3. Nhận xét chung..........97
3.2. Quan hệ phối hợp giữa quyền hành pháp và quyền tư pháp trong kiểm soát
quyền lực nhà nước..............99
3.2.1. Thể chế về quan hệ phối hợp giữa quyền hành pháp và quyền tư pháp
trong kiểm soát quyền lực nhà nước....99
3.2.2. Thực trạng triển khai thực hiện quan hệ phối hợp giữa quyền hành pháp và
quyền tư pháp trong kiểm soát quyền lực nhà nước..106
3.3. Nhận xét về quan hệ phối hợp giữa quyền hành pháp và quyền tư pháp trong
kiểm soát quyền lực nhà nước ở Việt Nam112
3.3.1. Ưu điểm....112
3.3.2. Hạn chế.115
3.3.3. Nguyên nhân của hạn chế........................................................................123
Chương 4: TĂNG CƯỜNG QUAN HỆ PHỐI HỢP GIỮA QUYỀN HÀNH
PHÁP VÀ QUYỀN TƯ PHÁP TRONG KIỂM SOÁT QUYỀN LỰC NHÀ
NƯỚC Ở VIỆT NAM HIỆN NAY.126
4.1. Nhu cầu tăng cường quan hệ phối hợp giữa quyền hành pháp và quyền tư
pháp trong kiểm soát quyền lực nhà nước ở Việt Nam..............126
4.1.1. Xuất phát từ nhu cầu về xây dựng một Nhà nước pháp quyền xã hội chủ
nghĩa, của Nhân dân, do Nhân dân, vì Nhân dân...............................................126
4.1.2. Xuất phát từ nhu cầu xây dựng một nhà nước kiến tạo, phát triển............127
4.1.3. Xuất phát từ nhu cầu về việc phát huy dân chủ, xây dựng môi trường công
khai, minh bạch .....................................................................................................129
4.1.4. Xuất phát từ nhu cầu về kiểm soát quyền lực nhà nước......130
4.2. Quan điểm tăng cường quan hệ phối hợp giữa quyền hành pháp và quyền tư
pháp trong kiểm soát quyền lực nhà nước ở Việt Nam..........................131
4.2.1. Tăng cường quan hệ phối hợp giữa quyền hành pháp và quyền tư pháp
trong kiểm soát quyền lực nhà nước phải đặt dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng
sản Việt Nam......131
4.2.2. Tăng cường quan hệ phối hợp giữa quyền hành pháp và quyền tư pháp
trong kiểm soát quyền lực nhà nước là để Nhà nước làm đúng, làm đủ và làm tốt
nhiệm vụ, quyền hạn được Nhân dân giao phó........................................................132
4.2.3. Tăng cường quan hệ phối hợp giữa quyền hành pháp và quyền tư pháp trong
kiểm soát quyền lực nhà nước để bảo đảm tính chính danh của nhà nước...............134
4.2.4. Tăng cường quan hệ phối hợp giữa quyền hành pháp và quyền tư pháp trong
kiểm soát quyền lực nhà nước phải phù hợp với yêu cầu hội nhập quốc tế..............134
4.3. Giải pháp tăng cường quan hệ phối hợp giữa quyền hành pháp và quyền tư
pháp trong kiểm soát quyền lực nhà nước ở Việt Nam......136
4.3.1. Nâng cao nhận thức về tổ chức quyền lực nhà nước và kiểm soát quyền
lực nhà nước.......................................................................................................136
4.3.2. Hoàn thiện thể chế về quan hệ phối hợp giữa quyền hành pháp và quyền tư
pháp trong kiểm soát quyền lực nhà nước................................................................139
4.3.3. Hoàn thiện các thiết chế của mối quan hệ phối hợp giữa quyền hành pháp và
quyền tư pháp trong kiểm soát quyền lực nhà nước.............................................147
4.3.4. Tăng cường các bảo đảm nhằm hiện thực hóa mối quan hệ phối hợp giữa
quyền hành pháp và quyền tư pháp trong kiểm soát quyền lực nhà nước..............152
KẾT LUẬN...157
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO159
- 1 -
MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Quyền lực nhà nước (QLNN) vừa có mặt tích cực vừa có mặt tiêu cực.
Mặt tích cực đó là QLNN có sức mạnh bảo đảm hoạt động hướng đích của xã
hội, giải quyết các mâu thuẫn xã hội, phục vụ lợi ích của cộng đồng và của mỗi
cá nhân. Mặt tiêu cực là QLNN có khuynh hướng lộng quyền và lạm quyền.
Khuynh hướng đó là biểu hiện của sự tha hoá QLNN trong quá trình vận động và
phát triển. Khi QLNN bị tha hóa thì đều dẫn đến những hậu quả tai hại mà người
phải gánh chịu chính là Nhân dân – chủ nhân đích thực của QLNN. Theo sử gia
Lord Acton (1834-1902): “Quyền lực có xu hướng hủ hóa, quyền lực tuyệt đối
có xu hướng hủ hóa tuyệt đối”. Nhà nước là chủ thể nắm giữ quyền lực to lớn
nhất với phạm vi quản lý rộng khắp các lĩnh vực cùng các loại nguồn lực dồi dào
của xã hội. Điều này tạo ra nguy cơ nhà nước có thể vượt quá các phạm vi, giới
hạn mà nhân dân giao cho và sự lạm dụng quyền lực nằm ngay bên trong nhà
nước chứ không phải từ bên ngoài tác động vào. Do tính chất đặc biệt của QLNN
như vậy, nên ngay từ khi ra đời cho tới nay, vấn đề kiểm soát QLNN được đặt ra
với những phương thức và thiết chế khác nhau. Nhân loại, bằng kinh nghiệm lịch
sử đầy máu và nước mắt của mình đã hiểu ra rằng: QLNN phải được kiểm soát,
hơn thế nữa phải được kiểm soát chặt chẽ. Nói cách khác, QLNN phải có giới
hạn và phải bị giới hạn, nhất là trong chế độ dân chủ và pháp quyền, đặc biệt là
trong chế độ dân chủ và pháp quyền XHCN.
Kiểm soát QLNN đang là một vấn đề vừa cơ bản, vừa cấp bách trong xây
dựng nhà nước pháp quyền XHCN của Nhân dân, do Nhân dân, vì Nhân dân ở
Việt Nam. Nó là một yếu tố cấu thành khách quan của hoạt động thực thi QLNN
- có quyền lực thì tất phải có kiểm soát quyền lực để quyền lực không trở thành
tuyệt đối. Tổ chức thực thi QLNN gồm ba giai đoạn: Trao quyền - Sử dụng
- 2 -
quyền - Kiểm soát quyền. Để QLNN luôn luôn là của Nhân dân, thuộc về Nhân
dân thì tất yếu phải kiểm soát.
Ở Việt Nam hiện nay, việc kiểm soát QLNN là một vấn đề mới nên còn rất
nhiều hạn chế, cả về lý luận và thực tiễn. Hiện tượng trao quyền mà kiểm soát
lỏng lẻo, không thường xuyên, hình thức, thậm chí không kiểm soát đã dẫn
đến nhiều hậu quả như: Tham nhũng, tiêu cực phát sinh tràn lan trong bộ máy
nhà nước; Trật tự xã hội có nhiều xáo trộn; Công lý, công bằng, dân chủ không
được thực thi nghiêm túc làm xói mòn lòng tin của nhân dân. Một trong những
nguyên nhân dẫn đến thực trạng này là do sự phối hợp giữa các nhánh quyền lực
chưa được chặt chẽ, trong đó có sự phối hợp giữa quyền hành pháp (QHP) và
quyền tư pháp (QTP) trong kiểm soát QLNN. Đây là vấn đề cần tập trung nghiên
cứu cả về mặt lý luận và thực tiễn trên cơ sở phương pháp luận khoa học với
cách nhìn đổi mới.
Tuy nhiên, cho đến nay chưa có công trình nào nghiên cứu một cách toàn
diện, chuyên biệt, đánh giá về quan hệ phối hợp giữa QHP và QTP trong kiểm
soát QLNN ở cấp độ Luận án Tiến sỹ Quản lý công. Vì vậy, có thể nói, đây là
công trình khoa học đầu tiên nghiên cứu một cách toàn diện về quan hệ phối hợp
giữa QHP và QTP trong kiểm soát QLNN trên cơ sở kế thừa kết quả nghiên cứu
của các tác giả nhưng phát triển theo một hướng nghiên cứu mới.
Xuất phát từ các yêu cầu về lý luận và thực tiễn nói trên, đề tài “Quan hệ
phối hợp giữa quyền hành pháp và quyền tư pháp trong kiểm soát quyền lực
nhà nước ở Việt Nam” được tác giả lựa chọn với mong muốn nghiên cứu làm
sáng tỏ các vấn đề đang đặt ra nhằm góp phần tăng cường kiểm soát QLNN ở
Việt Nam, bảo đảm QLNN là của Nhân dân.
2. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu
2.1. Mục đích nghiên cứu
- 3 -
Mục đích của việc nghiên cứu đề tài là xây dựng cơ sở khoa học nhằm đề
xuất các giải pháp tăng cường quan hệ phối hợp giữa QHP và QTP trong kiểm
soát QLNN ở Việt Nam hiện nay.
2.2. Nhiệm vụ nghiên cứu
Để thực hiện được mục đích tổng quát nêu trên, đề tài xác định các nhiệm
vụ sau:
- Khảo cứu các công trình khoa học đã công bố có liên quan đến đề tài
nhằm tìm kiếm những giá trị có thể kế thừa và những khoảng trống cần tiếp tục
nghiên cứu.
- Hình thành hệ thống cơ sở lý luận về quan hệ phối hợp giữa QHP và
QTP trong kiểm soát QLNN như: Khái niệm, đặc điểm, vai trò, nội dung cũng
như các yếu tố cấu thành và các yếu tố bảo đảm...
- Lược sử quá trình hình thành tư duy lý luận cũng như pháp lý và thực
trạng quy định pháp luật về quan hệ phối hợp giữa QHP và QTP trong kiểm soát
QLNN ở Việt Nam hiện nay.
- Đề xuất quan điểm và giải pháp tăng cường quan hệ phối hợp giữa QHP
và QTP trong kiểm soát QLNN phù hợp với đặc thù của hệ thống chính trị Việt
Nam, đáp ứng yêu cầu công cuộc đổi mới đất nước.
3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
3.1. Đối tượng nghiên cứu
Cơ sở lý luận, cơ sở pháp lý và cơ sở thực tiễn của quan hệ phối hợp giữa
QHP và QTP trong kiểm soát QLNN ở Việt Nam.
3.2. Phạm vi nghiên cứu
Quan hệ phối hợp giữa QHP và QTP trong kiểm soát QLNN là lĩnh vực
rộng và phức tạp. Vì vậy, trong phạm vi nghiên cứu của đề tài sẽ giới hạn những
vấn đề sau:
- 4 -
- Về nội dung: Tập trung phân tích mối quan hệ giữa Chính phủ và Tòa án
nhân dân tối cao trong việc kiểm soát QLP, QHP và QTP theo quy định của Hiến
pháp năm 2013 và các văn bản pháp luật hiện hành.
- Về không gian: Phạm vi cả nước.
- Về thời gian: Từ khi Hiến pháp năm 2013 có hiệu lực đến nay.
4. Phương pháp luận và phương pháp nghiên cứu
Đề tài được nghiên cứu trên cơ sở lý luận của chủ nghĩa duy vật biện
chứng và chủ nghĩa duy vật lịch sử, nguyên lý cơ bản của chủ nghĩa Mác-Lênin
và tư tưởng của Chủ tịch Hồ Chí Minh; các quan điểm của Đảng và Nhà nước về
quan hệ phối hợp giữa QHP và QTP trong kiểm soát QLNN được thể hiện trong
Nghị quyết của Đảng và các văn bản pháp luật của Nhà nước.
Đề tài được nghiên cứu bằng phương pháp duy vật biện chứng và duy vật
lịch sử cùng các phương pháp cụ thể khác như phương pháp hệ thống, phân tích,
tổng hợp, so sánh, thống kê, quy nạp, diễn dịch. Bên cạnh phương pháp truyền
thống, đề tài cũng áp dụng các phương pháp tiếp cận đa ngành, liên ngành để
làm sáng tỏ hơn các vấn đề cần nghiên cứu trong đề tài. Cụ thể:
- Phương pháp phân tích và tổng hợp được sử dụng xuyên suốt trong toàn
bộ các chương của luận án để giải quyết những vấn đề mang tính lý luận như các
quan niệm, yếu tố cấu thành, yếu tố ảnh hưởng đến quan hệ phối hợp giữa QHP và
QTP trong kiểm soát QLNN; Đánh giá thực trạng quan hệ phối hợp giữa QHP và
QTP trong kiểm soát QLNN, chỉ ra ưu điểm, hạn chế và nguyên nhân của nó.
- Phương pháp hệ thống được sử dụng để hệ thống các kết quả nghiên cứu
có liên quan đến luận án cũng như quan điểm, quan niệm xung quanh các nội
dung cần giải quyết trong đề tài.
- Phương pháp thống kê được sử dụng để đưa ra các số liệu thực tế, cần
thiết phản ánh thực trạng mối quan hệ phối hợp giữa QHP và QTP trong kiểm
soát QLNN.
- 5 -
- Phương pháp phân tích tài liệu được sử dụng để phân tích các tài liệu sơ cấp
và tài liệu thứ cấp. Tài liệu sơ cấp bao gồm: Các văn bản pháp luật và văn kiện của
Đảng có liên quan, các công trình khoa học, số liệu thống kê chính thức của cơ quan
nhà nước có thẩm quyền. Tài liệu thứ cấp bao gồm: Các bài báo, tạp chí, kết luận
phân tích đã được các tác giả khác thực hiện.
- Phương pháp tổng hợp được sử dụng để tổng hợp các số liệu, tri thức có
được từ hoạt động phân tích tài liệu. Việc tổng hợp nhằm mục đích đưa ra những
luận giải, nhận xét và đề xuất của tác giả luận án ở các chương về thực trạng và
quan điểm, giải pháp.
- Phương pháp so sánh được sử dụng để phân tích các quan điểm, quan
niệm khác nhau liên quan đến nội dung nghiên cứu, so sánh mô hình, kinh nghiệm
của nước ngoài, từ đó rút ra những giá trị tham khảo, vận dụng phù hợp trong điều
kiện, hoàn cảnh của Việt Nam.
- Phương pháp quy nạp và diễn dịch được sử dụng để khái quát hóa hoặc cụ
thể hóa đối tượng, nội dung, vấn đề nghiên cứu, đảm bảo chính xác, khách quan
và thuyết phục trong xây dựng các vấn đề có tính lý luận.
5. Giả thuyết nghiên cứu và câu hỏi nghiên cứu
5.1. Giả thuyết nghiên cứu
- Quyền lực nhà nước ở Việt Nam đã và vẫn đang có nguy cơ bị lạm dụng
do không được kiểm soát chặt chẽ, trong đó chưa xác định và vận hành tốt quan
hệ phối hợp giữa QHP và QTP trong kiểm soát QLNN.
- Để tăng cường kiểm soát QLNN, cần phải hoàn thiện cơ sở pháp lý và cơ
chế vận hành quan hệ phối hợp giữa QHP và QTP trong kiểm soát QLNN theo
đúng tinh thần nhà nước pháp quyền.
5.2. Câu hỏi nghiên cứu
- Quyền hành pháp là gì? Quyền tư pháp là gì? Kiểm soát QLNN là gì?
Quan hệ phối hợp giữa QHP và QTP trong kiểm soát QLNN là gì?
- 6 -
- Quan hệ phối hợp giữa QHP và QTP trong kiểm soát QLNN được cấu
thành bởi những yếu tố nào và chịu sự tác động của những yếu tố nào?
- Thực trạng quan hệ phối hợp giữa QHP và QTP trong kiểm soát QLNN
ở Việt Nam hiện nay như thế nào? Có ưu điểm, hạn chế gì? Nguyên nhân của
những hạn chế đó?
- Để tăng cường quan hệ phối hợp giữa QHP và QTP trong kiểm soát
QLNN cần dựa trên cơ sở quan điểm nào? Có những giải pháp nào để tăng
cường quan hệ này trong kiểm soát QLNN ở Việt Nam hiện nay?
6. Đóng góp mới về khoa học của luận án
Đề tài: “Quan hệ phối hợp giữa quyền hành pháp và quyền tư pháp trong
kiểm soát quyền lực nhà nước ở Việt Nam” là công trình nghiên cứu chuyên sâu
đầu tiên về vấn đề này, vì vậy những nội dung sau đây được coi là điểm mới của
luận án:
Thứ nhất, trên cơ sở nghiên cứu và kế thừa các tài liệu đã có của Việt Nam
và các nước trên thế giới, luận án đưa ra khái niệm, phân tích đặc điểm, vai trò,
nội dung của quan hệ phối hợp giữa QHP và QTP trong kiểm soát QLNN; Phân
tích các yếu tố cấu thành quan hệ phối hợp giữa QHP và QTP trong kiểm soát
QLNN ở Việt Nam, bao gồm: Thể chế, thiết chế và các bảo đảm.
Thứ hai, trên cơ sở đánh giá thực trạng quan hệ phối hợp giữa QHP và
QTP trong kiểm soát QLNN ở Việt Nam thời gian qua, luận án đề xuất quan
điểm và giải pháp tăng cường quan hệ phối hợp giữa QHP và QTP trong kiểm
soát QLNN ở Việt Nam trong thời gian tới.
7. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn của luận án
Về lý luận, kết quả nghiên cứu của luận án góp phần làm phong phú thêm
lý luận về quan hệ phối hợp giữa QHP và QTP trong kiểm soát QLNN. Cụ thể:
Luận án đã góp phần làm sáng tỏ một số vấn đề lý luận về phân công, phối hợp,
- 7 -
kiểm soát QLNN; đánh giá thực trạng và đề xuất những giải pháp nhằm tăng
cường quan hệ phối hợp giữa QHP và QTP trong kiểm soát QLNN ở Việt Nam.
Về thực tiễn, luận án có thể dùng làm tài liệu tham khảo hữu ích trong việc
nghiên cứu, giảng dạy, học tập tại các cơ sở đào tạo khoa học hành chính và
khoa học pháp lý. Đồng thời cũng có thể làm tài liệu tham khảo đối với các cơ
quan chức năng trong quá trình hoạch định chính sách, pháp luật, góp phần hiện
thực hóa các quy định của Hiến pháp năm 2013 về phân công, phối hợp và kiểm
soát QLNN ở Việt Nam hiện nay.
8. Kết cấu của luận án
Ngoài phần mở đầu, kết luận và danh mục tài liệu tham khảo, phần nội
dung của luận án bao gồm 4 chương, 12 tiết.
Chương 1: Tổng quan tình hình nghiên cứu liên quan đến đề tài luận án
Chương 2: Những vấn đề lý luận về quan hệ phối hợp giữa quyền hành
pháp và quyền tư pháp trong kiểm soát quyền lực nhà nước
Chương 3: Thực trạng quan hệ phối hợp giữa quyền hành pháp và quyền
tư pháp trong kiểm soát quyền lực nhà nước ở Việt Nam
Chương 4: Tăng cường quan hệ phối hợp giữa quyền hành pháp và quyền
tư pháp trong kiểm soát quyền lực nhà nước ở Việt Nam hiện nay.
- 8 -
Chương 1
TỔNG QUAN TÌNH HÌNH NGHIÊN CỨU
LIÊN QUAN ĐẾN ĐỀ TÀI LUẬN ÁN
1.1. CÁC CÔNG TRÌNH NGHIÊN CỨU VỀ QUYỀN LỰC NHÀ NƯỚC VÀ
KIỂM SOÁT QUYỀN LỰC NHÀ NƯỚC
1.1.1 Nhóm các công trình nghiên cứu ở nước ngoài
- J.J. Rousseau, Bàn về khế ước xã hội [85]. Trong tác phẩm này, J.J.
Rousseau đã khẳng định rằng: QLNN bắt nguồn từ nhân dân, chủ quyền nhân dân
có tính chất tối cao, không thể từ bỏ, không thể phân chia. Nhân dân trao quyền lực
cho nhà nước để quản lý, điều hành đất nước theo nguyện vọng, ý chí của nhân dân.
Nếu nhà nước không thực hiện đúng chức năng, nhiệm vụ được nhân dân giao phó
thì nhân dân sẽ thu hồi quyền lực. Tác giả cũng cho rằng, việc chia QLNN thành
quyền lập pháp, hành pháp và tư pháp chỉ là bề ngoài, là biện pháp để ngăn ngừa
sự lạm dụng QLNN. Và quyền lực tối cao - tức quyền lực của nhân dân thì bất khả
phân chia, QLNN cần phải bị kiểm soát cả từ bên trong lẫn bên ngoài.
- Montesquieu, Bàn về tinh thần pháp luật [83] đã đưa ra thuyết phân chia
quyền lực để kiểm soát quyền lực theo nguyên tắc “Dùng quyền lực hạn chế
quyền lực”. Nhằm giải quyết sự xung đột giữa các giai cấp trong xã hội,
Montesquie đã đưa ra thuyết phân quyền để các giai cấp tự kiểm soát và kiềm chế
lẫn nhau. Theo Montesquieu, ba nhánh QLNN (lập pháp, hành pháp và tư pháp)
phải được phân chia rành mạch, hoạt động theo nguyên tắc kiềm chế, đối trọng với
nhau theo nguyên tắc “dùng quyền lực kiểm soát quyền lực" để không dẫn đến
chuyên quyền, độc đoán của bất kỳ nhánh quyền lực nào. Tư tưởng đó có thể được
xem là một trong các chính thuyết quan trọng bậc nhất của nhân loại và là một trong
các nguyên tắc căn bản trong hiến pháp của nhiều quốc gia cho đến ngày nay.
- John Stuart Mill (1806-1873), Bàn về tự do [87]. Tác phẩm đề cập đến vấn
đề tự do cá nhân trong mối quan hệ cộng đồng xã hội “Tự do của mỗi người tìm
- 9 -
thấy giới hạn của mình trong tự do của người khác”. Ông cho rằng, con người
phải được “tự do hình thành ý kiến và tự do bày tỏ ý kiến, không chút giấu giếm"
và quyền tự do không chỉ vì lợi ích của cá nhân con người mà còn vì lợi ích lâu
dài, bền vững cho sự phát triển của xã hội. Vì vậy, nhà nước phải có trách nhiệm
để nhân dân được tự do trong một nhà nước của mình.
- John Dewey (1859-1952), Nền cộng hòa và những vấn đề (The Public and
Its Problems, 1929), Lý thuyết giá trị (Theory of Valuation, 1939) [86] đã nêu ra
vấn đề nhà nước được thiết lập là để phục vụ nhân dân. Tác giả chỉ ra tính tư hữu,
tư lợi của các cá nhân trong giai cấp cầm quyền khiến QLNN bị lạm dụng, biến
dạng, tha hóa nếu không có sự giám sát, kiểm soát hay “trói buộc" cần thiết của
nhân dân (cử tri). Do đó, việc nắm quyền (các chức vụ trong bộ máy nhà nước)
phải có kỳ hạn, có cạnh tranh và mỗi quy trình thực thi quyền lực đều phải có sự
kiểm soát chặt chẽ từ nhân dân.
- Roderick Bell, David V. Edwards và R. Harison Wagner [90] với cuốn
sách Political power-reader in theory and research (Quyền lực chính trị - Dành
cho nghiên cứu lý thuyết), 1969. Đây là cuốn sách cung cấp những kiến thức quan
trọng, cơ bản về quyền lực chính trị, QLNN và được coi là sách giáo khoa về lĩnh
vực này, đặc biệt là phương pháp tiếp cận quyền lực.
- Linda S. Whitton, Xem xét sự bền vững của quyền lực thông qua con
đường nhà nước (Crossing state lines with durable power) [81]. Bài viết bàn về sự
bền vững của QLNN và lý giải nguồn gốc của vấn đề đó chính là tính chính đáng
và minh bạch và là cơ sở vững chắc cho việc hợp thức hóa tiến trình ủy nhiệm
quyền lực của nhân dân cho nhà nước.
Các công trình nêu trên mặc dù có những luận điểm và mục đích nghiên
cứu khác nhau, nhưng có điểm chung là QLNN có cơ sở phát sinh là quyền lực
của nhân dân, QLNN là quyền lực công. Các đảng phái chính trị thực thi quyền
lực chính trị của mình thông qua QLNN không chỉ để phục vụ lợi ích của mình
- 10 -
mà còn phải phục vụ lợi ích xã hội. Mặt khác, sự kiềm chế, giám sát lẫn nhau giữa
các chủ thể trong xã hội (bao gồm cả nhà nước) trên cơ sở pháp luật là điều kiện
để đảm bảo cho nền dân chủ phát triển. Các hình thức như: bầu cử người đứng đầu
đất nước, trưng cầu dân ý, tự do báo chí, xuất bản, lập hội, biểu tình... là những
biểu hiện của nhân dân kiểm soát đối với QLNN Những luận giải về nguồn gốc,
lý do, yêu cầu và mô hình kiểm soát QLNN gắn liền với dân chủ và phát triển xã
hội, khẳng định tính cần thiết và chính đáng của vấn đề kiểm soát QLNN trong
các công trình rất phong phú, đa dạng và đó là nguồn tư liệu cần thiết để tham
khảo, nghiên cứu, chọn lọc, tiếp thu và vận dụng ở Việt Nam.
1.1.2. Nhóm các công trình nghiên cứu ở trong nước
- Sách chuyên khảo “Giám sát và cơ chế giám sát việc thực hiện quyền lực
nhà nước ở nước ta hiện nay” do GS.TSKH. Đào Trí Úc và PGS.TS. Võ Khánh
Vinh đồng chủ biên với sự tham gia của nhiều nhà nghiên cứu khoa học [73] đã
xoay quanh nội dung giám sát việc thực hiện QLNN. Trên cơ sở phân tích lý luận
và thực tiễn, các tác giả khẳng định giám sát QLNN là điều tất yếu, ở đâu có
quyền lực thì ở đó phải có giám sát để quyền lực được bảo đảm vận hành đúng
hướng, tích cực. Các tác giả cũng chỉ rõ sự khác biệt giữa giám sát mang tính
QLNN (do hệ thống cơ quan nhà nước thực hiện) và giám sát không mang tính
QLNN (do các tổ chức chính trị - xã hội và nhân dân thực hiện). Liên quan đến đề
tài, công trình cũng đề cập đến vai trò của Tòa hành chính trong việc kiểm tra,
giám sát việc thực hiện QLNN, cũng như cách thức kiểm soát việc thực hiện thẩm
quyền hành chính nhà nước mà chưa nghiên cứu sâu về cơ chế phối hợp giữa hệ
thống cơ quan hành pháp và hệ thống Tòa án trong kiểm soát QLNN.
- Sách chuyên khảo “Sự hạn chế quyền lực Nhà nước” của PGS.TS Nguyễn
Đăng Dung, Nxb Đại học quốc gia [21]. Những nội dung chính được tác giả phân
tích trong tác phẩm là cơ sở lý luận của sự hạn chế QLNN và nội dung của hạn
chế QLNN thông qua hình thức như bảo đảm nhân quyền, bầu cử, báo chí Công
- 11 -
trình cũng dành một dung lượng nhất định để nghiên cứu hoạt động xét xử của
Tòa án với vị trí là “Một cửa ải cuối cùng của sự hạn chế quyền lực nhà nước”
nhưng tác giả lại chưa đề cập mối quan hệ phối hợp giữa hệ thống cơ quan thực
hiện QHP và hệ thống cơ quan thực hiện QTP trong việc kiểm soát QLNN.
- Sách “Quyền lực nhà nước và quyền công dân” của PGS.TS Đinh Văn
Mậu, Nxb. Tư pháp, Hà Nội [51]. Tác giả tập trung vào luận điểm: QLNN thực
chất là quyền lực của nhân dân, nhưng nhân dân không thể thực hiện được hết
quyền lực của mình một cách đơn lẻ mà phải ủy quyền cho nhà nước, nhà nước
thực hiện quyền đó thông qua các cơ quan nhà nước. Nhà nước do nhân dân thiết
lập và trao quyền lực, nghĩa là quyền lực nhân dân trở thành QLNN. Quyền lực đó
thể hiện ý chí của nhân dân và được bảo đảm thực hiện bằng sức mạnh cưỡng chế
của Nhà nước. Nhà nước khi sử dụng quyền lực sẽ nảy sinh xu hướng lộng quyền
và lạm quyền. Vì vậy, phải kiểm soát đối với QLNN để bảo đảm quyền tự do,
quyền và lợi ích hợp pháp của công dân không bị xâm phạm. Đây có thể nói là
xuất phát điểm của lý luận về kiểm soát QLNN. Tuy nhiên, công trình chưa
nghiên cứu sâu vấn đề mối quan hệ giữa QHP và QTP trong kiểm soát QLNN ở
Việt Nam.
- Sách chuyên khảo “Kiểm soát quyền lực nhà nước - Một số vấn đề lý luận
và thực tiễn ở Việt Nam hiện nay” của TS. Trịnh Thị Xuyến, Nxb Chính trị quốc
gia, Hà Nội, 2009 [74]. Tác giả đã tập trung nghiên cứu, phân tích các vấn đề cơ
bản như: Cơ sở lý luận về kiểm soát QLNN; Thực tiễn kiểm soát QLNN ở một số
nước tiêu biểu như Mỹ, Anh, Singapore, Malaysia, Nhật Bản; Thực tiễn kiểm soát
QLNN ở Việt Nam, những mâu thuẫn, bất cập trong kiểm soát quyền lực nhà
nước mà Việt Nam đang và sẽ phải giải quyết trong tiến trình phát triển Từ đó,
đề xuất phương hướng và những giải pháp chủ yếu cho kiểm soát QLNN ở Việt
Nam. Tuy nhiên, tác giả chỉ đề cập đến “một số vấn đề lý luận và thực tiễn" của
- 12 -
nội dung kiểm soát QLNN chứ chưa đề cập trực tiếp đến mối quan hệ giữa QHP
và QTP trong kiểm soát QLNN.
- Sách chuyên khảo “Tổ chức và kiểm soát quyền lực nhà nước” của
PGS.TS. Thái Vĩnh Thắng [62]. Tác giả đã nghiên cứu, phân tích, lý giải cách
thức tổ chức và kiểm soát QLNN trong các mô hình nhà nước phong kiến Việt
Nam, các nhà nước tư sản, các nhà nước xã hội chủ nghĩa ở Liên Xô, Trung và
Đông Âu (trước 1991); nước Nga và các nước Trung, Đông Âu ngày nay; Tổ chức
và kiểm soát QLNN ở Việt Nam kể từ Hiến pháp năm 1946 đến nay. Đây là công
trình khoa học nghiêm túc, có ý nghĩa trong việc rút ra các nguyên lý, kinh nghiệm
về tổ chức và kiểm soát QLNN nhằm xây dựng và hoàn thiện nhà nước pháp
quyền XHCN, của Nhân dân, do Nhân dân và vì Nhân dân ở Việt Nam. Tuy
nhiên, tác giả chưa đi sâu phân tích mối quan hệ giữa QHP và QTP trong kiểm
soát QLNN ở Việt Nam.
- Đề tài khoa học: “Thanh tra - phương thức kiểm soát quyền lực nhà
nước hiệu quả trong nhà nước pháp quyền” do PGS.TS. Lê Thị Hương làm chủ
nhiệm [44]. Đề tài đã chứng minh sự tất yếu phải kiểm soát đối với QLNN và
một trong các phương thức kiểm soát QLNN hiệu quả đó là thông qua tổ chức
và hoạt động của cơ quan thanh tra nhà nước, gồm thanh tra hành chính và
thanh tra chuyên ngành.
- Luận án tiến sĩ Luật học “Hoàn thiện cơ chế pháp lý giám sát xã hội đối
với việc thực hiện quyền lực nhà nước ở Việt Nam hiện nay”của tác giả Nguyễn
Mạnh Bình [7]. Trong nghiên cứu của mình, tác giả đã nhận xét: “Do chưa xây
dựng và hoàn thiện cơ chế pháp lý giám sát xã hội đối với việc thực hiện quyền
lực nhà nước nên cơ chế giám sát xã hội vẫn ma...g
trình trước đây đã nghiên cứu ở những mức độ với những cách tiếp cận, góc nhìn
và mục đích khác nhau, nhưng chưa có công trình nào nghiên cứu mang tính hệ
thống, chuyên sâu về quan hệ phối hợp giữa QHP và QTP trong kiểm soát
QLNN. Vì vậy, luận án tiếp tục bổ sung và làm rõ hơn những vấn đề lý luận về
mối quan hệ này, nhất là sẽ nghiên cứu với cách tiếp cận tổng thể dựa trên những
thành quả mới nhất của khoa học pháp lý; Khoa học tổ chức và khoa học hành
chính những năm gần đây ở trong nước và trên thế giới.
Thứ hai, làm rõ những đặc điểm mang tính đặc thù của quan hệ phối hợp
giữa QHP và QTP trong kiểm soát QLNN ở Nhà nước XHCN Việt Nam với
nguyên tắc QLNN thống nhất và có sự phân công, phối hợp và kiểm soát giữa
các cơ quan trong thực thi quyền lực của bộ máy nhà nước. Mỗi quốc gia có
những nguyên tắc tổ chức bộ máy nhà nước khác nhau và do đó cách thức tổ
chức, chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn, trách nhiệm, cũng như quan hệ phối hợp
giữa QHP và QTP trong kiểm soát QLNN cũng không giống nhau. Vì vậy, việc
nghiên cứu để chỉ rõ đặc thù quan hệ phối hợp giữa QHP và QTP trong kiểm
soát QLNN còn cần được xem xét trong mối quan hệ tương quan với các cơ
quan nhà nước khác trong cơ cấu tổ chức thực hiện QLNN trên cơ sở quy định
- 29 -
của Hiến pháp 2013. Đây là hướng nghiên cứu mới của luận án nhằm bổ sung lý
luận khoa học Quản lý công về quan hệ phối hợp giữa QHP và QTP trong kiểm
soát QLNN.
Thứ ba, phân tích, đánh giá thực trạng quan hệ phối hợp giữa QHP và
QTP trong kiểm soát QLNN ở Việt Nam trên hai phương diện: Quy định pháp
luật và tổ chức thực hiện và tìm kiếm các giải pháp nhằm tăng cường quan hệ
phối hợp giữa QHP và QTP trong kiểm soát QLNN. Luận án nghiên cứu một
cách đầy đủ, toàn diện mối quan hệ giữa cơ quan thực thi QHP (Chính phủ) với
cơ quan thực thi QTP (TAND tối cao) trên cơ sở chức năng, nhiệm vụ của mỗi
cơ quan theo quy định của pháp luật hiện hành. Mặt khác, khi nghiên cứu những
quan hệ cụ thể sẽ thấy được những quy định về chức năng, nhiệm vụ của Chính
phủ cũng như TAND tối cao để xác định sự phù hợp và những vấn đề cần nghiên
cứu hoàn thiện. Đây là một trong những cơ sở đề xuất các giải pháp nâng cao
trách nhiệm của mỗi cơ quan trong việc thực hiện chức năng, nhiệm vụ của
mình. Vì vậy, quá trình nghiên cứu luôn bám sát và quán triệt các quan điểm,
định hướng cải cách của Đảng và Nhà nước, đó là Nghị quyết số 08-NQ/TW
ngày 02/01/2002 và Nghị quyết số 49-NQ/TW ngày 02/6/2005 của Bộ Chính trị
về Chiến lược cải cách tư pháp đến năm 2020; Đề án Cải cách hành chính giai
đoạn 2011-2020; Hiến pháp năm 2013, Luật Tổ chức Chính phủ năm 2015, Luật
Tổ chức Tòa án nhân dân năm 2014 và các văn bản có liên quan.
- 30 -
Tiểu kết chương 1
Chương 1 của luận án có mục tiêu đánh giá đúng tình hình nghiên cứu đề
tài, xác định đúng phạm vi nghiên cứu của luận án và khẳng định tính trung thực
cũng như những điểm mới trong kết quả nghiên cứu của luận án.
Hoạt động nghiên cứu hướng tới mục tiêu tìm kiếm giải pháp tăng cường
quan hệ phối hợp giữa QHP và QTP trong kiểm soát QLNN đã diễn ra đặc biệt
sôi động ở nước ta trong những năm gần đây. Số lượng các công trình nghiên
cứu liên quan đến chủ đề này khó có thể liệt kê hết. Sản phẩm của hoạt động
nghiên cứu được công bố dưới nhiều hình thức ấn phẩm khác nhau. Kết quả
khảo cứu đã giải mã được nhiều khía cạnh lý luận và thực tiễn liên quan đến chủ
đề luận án. Đây là các tư liệu vật chất cần thiết và là tiền đề rất thuận lợi cho việc
triển khai nghiên cứu đề tài luận án.
Tuy nhiên, qua khảo cứu tình hình nghiên cứu cũng cho thấy còn nhiều
vấn đề thuộc chủ đề luận án chưa được giải quyết thấu đáo hoặc chưa được đặt ra
trong các công trình nghiên cứu đã công bố.
Trên cơ sở cách nhìn tổng quan, tác giả đã xác định nội dung cơ bản cần
tiếp tục nghiên cứu trong luận án nhằm thực hiện được mục đích, nhiệm vụ
nghiên cứu của luận án, đảm bảo được giá trị khoa học và thực tiễn của luận án.
- 31 -
Chương 2
NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ QUAN HỆ PHỐI HỢP
GIỮA QUYỀN HÀNH PHÁP VÀ QUYỀN TƯ PHÁP
TRONG KIỂM SOÁT QUYỀN LỰC NHÀ NƯỚC
2.1. NHẬN THỨC VỀ QUYỀN HÀNH PHÁP VÀ QUYỀN TƯ PHÁP TRONG
KIỂM SOÁT QUYỀN LỰC NHÀ NƯỚC
2.1.1. Quyền lực nhà nước và kiểm soát quyền lực nhà nước
2.1.1.1. Quyền lực nhà nước
Từ khi xuất hiện giai cấp và nhà nước đến nay, vấn đề tổ chức và thực thi
quyền lực nhà nước (QLNN) luôn là những câu hỏi cơ bản, đầy hấp dẫn trong
đời sống chính trị và đời sống xã hội của loài người. Xã hội càng phát triển, việc
nghiên cứu để tìm câu trả lời thỏa đáng cho câu hỏi trên càng đặc biệt trở nên
quan trọng, nhất là trong điều kiện hiện nay khi nhân loại ngày càng quan tâm
hơn về vai trò, chức năng và trách nhiệm của nhà nước đối với xã hội.
QLNN cũng như cách thức tổ chức thực hiện QLNN là một vấn đề không
đơn giản, bản thân sự không đơn giản đó bắt nguồn từ chính sự phức tạp đầy hấp
dẫn của quyền lực nói chung, QLNN nói riêng.
Bàn về QLNN, có tác giả quan niệm rằng, QLNN “là quyền lực dựa trên
sức mạnh của bộ máy nhà nước, là khả năng sử dụng nhà nước để thực hiện ý
chí của giai cấp thống trị (hoặc của nhân dân) buộc xã hội phải phục tùng ý chí
đó” [ 45, tr.295]. Quan niệm này cho thấy QLNN bao hàm cả yếu tố sức mạnh
(lực) và khả năng cho phép chủ thể (đặc biệt là bộ máy nhà nước) được sử dụng
sức mạnh đó một cách chính đáng (quyền) áp đặt lên các đối tượng chịu sự quản
lý của nhà nước trong xã hội.
Tác giả khác lại quan niệm rằng, “QLNN chính là quyền lực chính trị
(QLCT)” [58]. Quan điểm này đã đồng nhất QLNN với QLCT, tức là chính trị
hóa QLNN.
- 32 -
Đồng quan điểm cho rằng QLNN là QLCT, nhưng tác giả khác lại cho
rằng QLNN chỉ là một bộ phận của QLCT bởi “So với QLNN, QLCT có sự rộng
hơn về dung lượng, có sự đa dạng hơn về phương pháp và hình thức thể hiện, có
nhiều cấp độ hơn về chủ thể” [55, tr.74].
Tác giả luận án cho rằng, QLNN là một bộ phận của QLCT, là quyền lực
của nhân dân, được nhân dân trao cho Nhà nước bằng cách ghi nhận trong
Hiến pháp và được sử dụng để thực hiện các chức năng, nhiệm vụ của Nhà
nước, đảm bảo quyền và lợi ích của mỗi công dân và toàn xã hội.
Như vậy, QLNN chỉ là một bộ phận của QLCT, bởi hai loại quyền lực này
ngoài sự khác nhau về chủ thể, dung lượng cũng như hình thức và phương pháp
còn khác nhau về cơ chế tổ chức và thực hiện. Thực tế cho thấy rằng, tính thống
nhất của QLNN thường cao hơn so với tính thống nhất của QLCT, còn tính giai
cấp của QLNN lại thể hiện sâu sắc, rõ rệt hơn so với QLCT.
Cùng với câu hỏi QLNN là gì thì vấn đề tổ chức thực hiện QLNN cũng là
chủ đề được nhân loại luôn giành sự quan tâm sâu sắc. Lịch sử phát triển của xã
hội loài người từ khi có giai cấp cho thấy, tính giai cấp luôn được thể hiện rõ
trong việc tổ chức QLNN trong các kiểu nhà nước khác nhau. Điều đó có nghĩa
rằng, cách thức tổ chức thực hiện QLNN sẽ phụ thuộc vào bản chất giai cấp của
nhà nước.
Nhà nước Chủ nô - kiểu nhà nước đầu tiên của xã hội loài người, QLNN
chỉ thuộc về giai cấp Chủ nô (chiếm số ít trong xã hội), được tổ chức và hoạt
động đơn giản với bộ máy chuyên chế thô sơ, mang nặng tính đàn áp, sử dụng
sức mạnh vật chất để thống trị với nhiều dấu ấn của xã hội Thị tộc - Bộ lạc.
Nhà nước Phong kiến là kiểu nhà nước thứ hai trong lịch sử, so với Nhà
nước Chủ nô thì đã có bước tiến mới trong cách thức tổ chức thực hiện QLNN,
tuy nhiên không tránh khỏi những hạn chế. Trong nhà nước Phong kiến, toàn bộ
QLNN tập trung trong tay nhà Vua - Vua có quyền lực vô hạn, Vua là “Thiên
- 33 -
tử”, muốn gì được nấy. Đây chính là nguy cơ dẫn đến sự lạm quyền, lộng quyền
trong tổ chức và thực thi QLNN.
Nhà nước Tư sản là kiểu nhà nước thứ ba của xã hội loài người, là sản
phẩm của các cuộc cách mạng Tư sản. So với nhà nước Chủ nô và nhà nước
Phong Kiến thì nhà nước Tư sản có sự tiến bộ vượt bậc về cách thức tổ chức và
thực thi QLNN. Ngay từ khi mới ra đời, giai cấp tư sản đã áp dụng một loạt các
học thuyết mới trong việc tổ chức thực hiện QLNN với các học thuyết tiêu biểu
như: Thuyết “Phân chia quyền lực” của Montesquieu, thuyết “Chủ quyền nhân
dân” của Rousseau Tinh thần của các học thuyết này vẫn được các nhà nước
Tư sản đương thời áp dụng trong việc tổ chức và thực hiện QLNN với những
sáng tạo phù hợp với thể chế chính trị của quốc gia mình theo các mô thức: Phân
quyền mềm dẻo (Anh, Đức, Áo, Italia); Phân quyền cứng rắn (Mỹ) và phân
quyền hỗn hợp (Pháp).
Nhà nước XHCN là kiểu nhà nước cuối cùng của lịch sử xã hội loài
người hiện đang được một số ít quốc gia theo đuổi, trong đó có Việt Nam. Trong
nhà nước XHCN, QLNN được phân công hợp lý, đồng thời có sự phối hợp và
kiểm soát giữa các cơ quan nhà nước trong việc thực hiện các quyền lập pháp,
hành pháp, tư pháp.
Nghiên cứu về QLNN, có lẽ phải trả lời câu hỏi là nó bao gồm những nội
dung gì? Câu trả lời đương nhiên là QLNN tồn tại trên tất cả các phương diện
hoạt động của nhà nước, do đó khó có thể liệt kê hết tất cả nội dung của loại
quyền lực này. Montesquieu - nhà tư tưởng vĩ đại người Pháp, người đã có công
phát triển một cách toàn diện thuyết phân quyền (hay còn gọi là tam quyền phân
lập) trong tác phẩm “Tinh thần pháp luật” đã nhận xét rằng trong mỗi quốc gia
đều có ba thứ quyền lực là QLP, QHP và QTP [83, tr.100]. Cho đến nay, nhân
loại không thể phủ nhận hạt nhân hợp lý trong “Thuyết phân chia quyền lực” của
Montesquieu khi ông cho rằng, QLNN cần được chia thành 3 bộ phận là QLP,
- 34 -
QHP và QTP. Sự phân chia này nhằm mục đích để kiểm soát quyền lực, tránh
lộng quyền và lạm quyền.
Có thể nói, học thuyết của Montesquieu (trước đó là Aristotle) đã để lại
cho nhân loại một giá trị lớn và vẫn nguyên giá trị cho đến ngày nay. Trong các
nhà nước đương đại, về cơ bản, QLNN được tổ chức và thực hiện thông qua 03
quyền năng cụ thể, gồm: QLP, QHP, QTP. Trong đó:
Quyền lập pháp mang bản chất đại diện, bởi thông qua việc thực hiện
QLP, ý chí của nhân dân được thể hiện trên thực tế. Theo nghĩa rộng, QLP là
chức năng chính trị - xã hội đặc thù của nhà nước nhằm thể chế hoá nhu cầu xã
hội thành các quy tắc xử sự có tính quy phạm, khuôn mẫu, phù hợp với ý chí của
chủ thể cầm quyền, có tính bắt buộc chung đối với toàn xã hội. Theo nghĩa hẹp,
đó là quyền ban hành, sửa đổi Hiến pháp, luật của cơ quan lập pháp (Quốc
hội/Nghị viện). Tính đại diện của QLP còn thể hiện ở chỗ cơ quan thực hiện
QLP thực hiện hoạt động giám sát đối với các cơ quan thực hiện QHP và cơ
quan thực hiện QTP. Mục đích của hoạt động giám sát nhằm hạn chế sự tha hóa
của QLNN, để QLNN thực sự là của Nhân dân, do Nhân dân và vì Nhân dân.
Quyền hành pháp là quyền tổ chức thực thi pháp luật, quản lý hành chính
về mọi lĩnh vực chính trị, kinh tế, văn hóa, xã hội, giáo dục, trật tự, an ninh, quốc
phòng, đối ngoại của đất nước. QHP hiện nay thường được hiểu bao gồm các
hoạt động làm chính sách và các hoạt động tổ chức thực hiện pháp luật, do Chính
phủ và cả hệ thống hành chính nhà nước thực hiện. Nếu bản chất của QLP là
mang tính đại diện thì QHP lại mang bản chất cai trị, bởi thông qua việc thực
hiện QHP, các hoạt động của xã hội được diễn ra trong khuôn khổ, trật tự của
pháp luật. Bản chất cai trị của QHP thể hiện trên hai phương diện: i) Cơ quan
thực hiện QHP tiến hành các hoạt động quản lý hành chính công; ii) Cơ quan
thực hiện QHP đề xuất ban hành hoặc tự mình ban hành chính sách theo quy
định của pháp luật.
- 35 -
Quyền tư pháp là quyền xét xử các vụ án (hình sự, dân sự, hành chính,
kinh tế, lao động) nhằm bảo đảm sự an toàn pháp luật. Bản chất của QTP là
bảo vệ ý chí chung của quốc gia, bảo vệ công lý thông qua hoạt động xét xử.
Chính vì vậy, bất cứ sự vi phạm pháp luật nào cũng đều phải bị xử lý, mà không
quan tâm đến chủ thể vi phạm là ai. Bản chất này đòi hỏi QTP phải có tính độc
lập cao so với QLP và QHP. Ở các quốc gia trên thế giới, QTP đều do hệ thống
Toà án thực hiện theo những nguyên tắc và quy định riêng mang tính đặc thù của
hệ thống tư pháp.
2.1.1.2. Kiểm soát quyền lực nhà nước
Xã hội loài người từ khi có nhà nước đến nay đều nhận thức và đặc biệt
coi trọng việc kiểm soát QLNN với những thiết chế và phương thức không giống
nhau. Nhân loại, bằng kinh nghiệm thực tế đã chứng minh rằng, QLNN phải
được kiểm soát, hơn thế nữa, phải được kiểm soát chặt chẽ. Nói cách khác,
QLNN không phải là vô hạn, phải có giới hạn và được giới hạn, nhất là trong
một chế độ dân chủ, đặc biệt là trong chế độ dân chủ XHCN. Kiểm soát QLNN
là một nhu cầu khách quan của tồn tại và phát triển xã hội. Xã hội càng phát
triển, vai trò của nhà nước càng lớn thì yêu cầu về kiểm soát QLNN càng cao.
Điều này được lý giải bởi sự gia tăng của phạm vi tác động của quyền lực, bởi
tính phức tạp trong tổ chức và thực hiện quyền lực, bởi sự đan xen, giao thoa và
mâu thuẫn trong việc sử dụng QLNN
Quyền lực là hiện tượng khách quan trong quan hệ xã hội và nó có xu
hướng dễ bị lạm dụng. Vì vậy, cùng với sự thừa nhận QLNN thì phải thiết lập sự
kiểm soát đối với QLNN. Nghĩa là, một quyền lực cần có sự giám sát của quyền
lực để ngăn chặn sự lạm quyền hoặc lẩn tránh trách nhiệm.
Trên thế giới, lý thuyết về kiểm soát QLNN được khởi xướng bởi các học
giả tư sản phương Tây. Bàn về kiểm soát QLNN, Montesquieu đã đưa ra những
khái niệm như “Chức năng ngăn cản” hay “Chức năng xem xét”. Theo
- 36 -
Montesquieu “Chức năng ngăn cản là quyền làm cho quyết định của người khác
trở thành vô hiệu”. Theo Ông: “Nếu cơ quan hành pháp không có quyền ngăn
cản cơ quan lập pháp, thì cơ quan lập pháp sẽ trở thành chuyên chế; nếu cơ quan
lập pháp không có quyền ngăn cản cơ quan hành pháp thì nó phải có chức năng
xem xét các đạo luật đã ban hành được thực hiện như thế nào” [83, tr.113,115].
Ngày nay, ở các nước tư bản phát triển, kiểm soát QLNN là vấn đề trung tâm
trong các học thuyết về Nhà nước pháp quyền hay Chủ nghĩa hiến pháp... gắn
với những nguyên tắc như: Để bảo vệ quyền con người, quyền công dân thì cần
đặt ra giới hạn QLNN; Thực hiện phân quyền để kiềm chế, đối trọng lẫn nhau
giữa các nhánh QLP, QHP, QTP; Thiết lập sự chế ước, cân bằng trong mối quan
hệ giữa các thành tố: Nhà nước - Thị trường - Xã hội
Lịch sử nhà nước và pháp luật thế giới hiện đại đã chứng minh rằng, hoạt
động kiểm soát việc tuân thủ Hiến pháp và pháp luật được tổ chức theo nhiều
cách khác nhau. Đối với các nhà nước được tổ chức và hoạt động theo nguyên
tắc phân quyền thì nghị viện không được xem là cơ quan QLNN cao nhất mà chỉ
được xem là cơ quan nắm một trong ba nhánh quyền lực (QLP). Bởi vậy, hoạt
động của nghị viện cũng như các đạo luật do nghị viện ban hành bắt buộc phải
được kiểm tra và phán quyết xem có hợp hiến hay không, giống như hoạt động
của các cơ quan thực hiện QHP và cơ quan thực hiện QTP. Đối với các nhà nước
này, quyền giám sát việc tuân thủ hiến pháp và phán quyết về tính hợp hiến của
các văn bản quy phạm pháp luật (VBQPPL) không phải thuộc về nghị viện mà
thuộc về Tòa án (Toà án tối cao hoặc Toà án Hiến pháp) hoặc một cơ quan
chuyên trách.
Ở Việt Nam, tư duy đổi mới về kiểm soát QLNN được khẳng định trong
Văn kiện của Đại hội XI của Đảng Cộng sản Việt Nam và được chính thức
khẳng định tại Điều 2 của Hiến pháp năm 2013: “ Kiểm soát giữa các cơ quan
nhà nước trong việc thực hiện các quyền lập pháp, hành pháp, tư pháp”. Kiểm
- 37 -
soát QLNN được thực hiện đồng thời với nguyên tắc phối hợp giữa các CQNN
trong việc thực hiện QLNN. Điều đó, có thể được hiểu là mỗi cơ quan trong việc
thực thi QLNN đều phải chịu sự kiểm soát lẫn nhau bằng các quyền cụ thể do
pháp luật quy định, đồng thời mỗi cơ quan đều có trách nhiệm thực hiện đúng
phạm vi quyền lực của mình, không xâm lấn, không lạm quyền.
Theo Hiến pháp năm 2013, Nhân dân là chủ thể duy nhất của QLNN.
Khác với các nhà nước tư sản, Nhà nước Việt Nam được tổ chức theo nguyên tắc
tập quyền: Quốc hội là cơ quan thực hiện quyền lập Hiến và lập pháp; quyết định
những vấn đề quan trọng của đất nước và thực hiện quyền giám sát tối cao đối
với hoạt động của bộ máy nhà nước (Đ.69). Để thực hiện quyền giám sát, một
mặt Quốc hội tự mình thực hiện, mặt khác giao cho các cơ quan nhà nước khác
thực hiện. Thông qua giám sát nhằm mục đích kiểm soát việc tuân thủ Hiến pháp
và pháp luật trong hoạt động của các cơ quan nhà nước, các tổ chức và mọi công
dân. Chính phủ là cơ quan thực hiện QHP (Đ.94) và Tòa án nhân dân là cơ quan
thực hiện QTP (Đ.102). Trên cơ sở phân công quyền lực, các CQNN có trách
nhiệm phối hợp và kiểm soát lẫn nhau trong quá trình tổ chức và thực thi QLNN
(Đ.2 Hiến pháp năm 2013). Đây là một trong những bước tiến lớn trong lịch sử
Việt Nam, mặc dù vẫn là tập quyền, nhưng đã có sự phân định rõ ràng ba nhánh
quyền lực với ba cơ quan tương ứng thực hiện. Đây là căn cứ cơ bản nhất cho
việc thực hiện quy định “kiểm soát quyền lực nhà nước” mà không có một bản
Hiến pháp nào trong lịch sử thể hiện.
Theo cách hiểu phổ biến hiện nay, “kiểm soát” được cho là xem xét, đánh
giá, theo dõi nhằm ngăn chặn những điều trái với quy định [43, tr.38].
Các nghiên cứu gần đây đã đưa ra một số quan niệm về kiểm soát QLNN.
Tác giả Trương Hải Long cho rằng, “Xét theo nghĩa rộng, kiểm soát QLNN bao
gồm việc thiết kế, tổ chức và thực thi quyền lực nhà nước làm sao cho quyền lực
nhà nước vận hành đúng mục đích, hiệu quả nhất. Xét theo nghĩa hẹp, kiểm soát
- 38 -
QLNN là toàn bộ những cách thức, quy trình, quy định mà dựa vào đó, nhà nước
và xã hội có thể phát hiện, ngăn chặn, loại bỏ những hành động sai trái của các
cơ quan, tổ chức, cá nhân được giao nắm giữ và thực thi quyền lực nhà nước”
[47, tr.35]. Có tác giả lại cho rằng, kiểm soát QLNN là toàn bộ những hoạt động
xem xét, theo dõi, đánh giá, những biện pháp mà thông qua đó có thể ngăn ngừa,
loại bỏ những nguy cơ, những việc làm sai trái của nhà nước, cơ quan, nhân viên
nhà nước trong việc tổ chức và thực hiện QLNN, bảo đảm cho QLNN được tổ
chức và thực hiện đúng mục đích mong muốn và đạt được hiệu quả cao.
Kiểm soát QLNN là loại hoạt động quyền lực nhằm theo dõi, kiểm tra quá
trình thực hiện các nhiệm vụ, chức năng và thẩm quyền, bảo đảm việc tổ chức,
thực thi QLNN phải nằm trong phạm vi của các yêu cầu được xác định trong
Hiến pháp, pháp luật.
Tác giả luận án cho rằng, kiểm soát QLNN là toàn bộ các hoạt động do
các chủ thể có thẩm quyền (Đảng, Nhà nước, các tổ chức chính trị xã hội và cá
nhân công dân) tiến hành trên cơ sở các quy định pháp luật, nhằm bảo đảm
QLNN được tổ chức và vận hành có hiệu lực, hiệu quả.
Kiểm soát QLNN có các đặc điểm sau đây:
- Chủ thể kiểm soát QLNN là toàn bộ hệ thống chính trị từ Trung ương
cho đến địa phương (Đảng, Nhà nước và Nhân dân).
- Phạm vi của kiểm soát QLNN là toàn bộ QLNN nói chung và từng bộ
phận cấu thành nên QLNN nói riêng.
- Đối tượng của kiểm soát QLNN bao gồm tất cả các chủ thể thực hiện
QLNN (các cơ quan nhà nước và đội ngũ cán bộ, công chức, viên chức nhà nước).
- Mục đích của kiểm soát QLNN là để cho QLNN luôn thuộc về chủ thể
đích thực của nó, đó là Nhân dân.
- 39 -
- Nội dung kiểm soát QLNN bao gồm sự kiểm soát trong việc tổ chức,
thực hiện các QLP, QHP và QTP và sự kiểm soát giữa các cơ quan nhà nước ở
trung ương và chính quyền địa phương.
- Phương thức kiểm soát QLNN rất đa dạng, bao gồm: i) Hệ thống kiểm
soát bên ngoài bộ máy nhà nước gồm có: Kiểm tra của Đảng; kiểm tra, giám sát
của xã hội, giám sát của nhân dân; ii) Hệ thống kiểm soát bên trong bộ máy nhà
nước gồm có: Sự giám sát, kiểm tra, thanh tra lẫn nhau giữa các cơ quan, các bộ
phận của toàn thể BMNN và tự kiểm tra của từng bộ phận, từng cơ quan trong
bộ máy đối với việc thực hiện QLNN của chính các cơ quan, bộ phận đó.
Tóm lại, kiểm soát QLNN nói chung là một hệ thống những cơ chế được
thực hiện bởi các thiết chế trong hệ thống chính trị nhằm đảm bảo cho việc tổ
chức và thực thi QLNN đúng mục đích, hiệu quả. Kiểm soát QLNN bao gồm
kiểm soát phạm vi tổ chức và hoạt động của QLNN; Kiểm soát quá trình thông
qua và sửa đổi Hiến pháp; Kiểm soát tổ chức và hoạt động của bộ máy nhà nước;
Kiểm soát những người được giao giữ và thực thi QLNN; Kiểm soát từ cấu trúc
dọc (Trung ương tới địa phương) đến cấu trúc ngang (lĩnh vực lập pháp, hành
pháp, tư pháp và mối quan hệ giữa chúng như một chỉnh thể thống nhất); Kiểm
soát từ bên trong và bên ngoài Nhà nước (Kiểm soát từ bên trong là sự kiểm soát
do các cơ quan nhà nước thực hiện, kiểm soát từ bên ngoài Nhà nước là sự kiểm
soát của Đảng, Nhân dân và xã hội).
2.1.2. Quyền hành pháp trong kiểm soát quyền lực nhà nước
2.1.2.1. Khái niệm quyền hành pháp
Để giải mã khái niệm QHP, có lẽ phải quay trở lại với định nghĩa gốc về ba
thuật ngữ QLP, QHP, QTP trong tác phẩm kinh điển “Tinh thần pháp luật” của
Montesquieu. Trong tác phẩm bất hủ của mình, Montesquieu đã giải mã như sau:
Trong mỗi quốc gia đều có ba thứ quyền lực: Quyền lập pháp, quyền thi
hành những điều hợp với quốc tế công pháp và quyền thi hành những điều trong
- 40 -
luật dân sự. Với quyền lực thứ nhất, nhà vua hay pháp quan làm ra các thứ luật
cho một thời gian hay vĩnh viễn và sửa đổi hay hủy bỏ luật này. Với quyền lực
thứ hai, nhà vua quyết định việc hòa hay chiến, gửi đại sứ đi các nước, thiết lập
an ninh, đề phòng xâm lược. Với quyền lực thứ ba, nhà vua hay pháp quan
trừng trị tội phạm, phân xử tranh chấp giữa các cá nhân. Người ta sẽ gọi đây là
quyền tư pháp và trên kia là quyền hành pháp quốc gia [83, tr.105,106].
Như vậy, trong quan niệm nguyên thủy của Montesquieu, QHP chính là
quyền quyết định việc hòa hay chiến, gửi đại sứ đi các nước, thiết lập an ninh, đề
phòng xâm lược. Nói cách khác đây chính là phần quyền còn lại của nhà nước
sau khi đã trừ đi phần QLP và QTP, mà trọng tâm là “quyền thực hiện các biện
pháp đối nội và đối ngoại trong khuôn khổ các đạo luật quốc gia hay chính là
quyền thi hành luật hoặc như cách nói của GS. Nguyễn Đăng Dung là “quyền cai
trị theo luật” [22]. Mặc dù chỉ là phần quyền lực nhà nước còn lại sau khi đã loại
trừ đi công việc lập pháp và công việc tư pháp, song quyền hành pháp lại là loại
quyền lực không thể thiếu trong quá trình quản lý, cai trị xã hội. Vì thế, một số
nhà khoa học chính trị đã cho rằng: “Khi cai trị có thể thiếu bộ máy lập pháp và
tư pháp nhưng không thể thiếu bộ máy hành pháp” [91, tr.319].
Quan điểm về QHP của Montesquieu được thể hiện rất rõ trong việc thiết
kế cơ cấu QLNN trong Hiến pháp Hoa Kỳ. Cụ thể trong từ điển Luật học
Black’s Law Dictionary thì QHP (Executive power) là “Quyền thấy được các
đạo luật được thực thi một cách đầy đủ. Theo Luật Liên bang, quyền này được
trao cho Tổng thống; còn ở các bang, quyền này được trao cho các Thống đốc.
Các nội dung cụ thể của QHP của Tổng thống được quy định trong mục 2 Điều 2
Hiến pháp Hoa kỳ” [78, tr.657]. Quyền ấy được phân biệt với quyền lập pháp
(Legislative power) được hiểu là: “Quyền làm và sửa đổi các đạo luật: Theo
Luật Liên bang, quyền này được trao cho Quốc hội gồm Hạ viện và Thượng
viện. Cơ quan lập pháp có thể ủy một phần thẩm quyền lập pháp của mình cho
- 41 -
các cơ quan thuộc ngành hành pháp dưới dạng thẩm quyền lập quy và thẩm
quyền ban hành các quy định điều tiết tuy nhiên không được ủy quyền lập pháp
cho ngành tư pháp” [78, tr.983]. Như vậy, theo một nghĩa nhất định có thể hiểu
hành pháp với QHP là một, vì vậy khi nói cơ quan hành pháp cũng có nghĩa là
nói đến cơ quan có QHP.
Khi nghiên cứu thuyết “Phân quyền” ở các nước tư sản, có tác giả cho
rằng QHP là quyền thi hành pháp luật. Cơ quan thực hiện QHP là cơ quan thừa
hành sự ủy quyền từ phía cơ quan khác - cơ quan lập pháp [77, tr.16]. Đó có thể
là nhận thức chung xuất phát từ quan niệm rất xưa mà các nhà tư tưởng tư sản
tiến bộ khi quan niệm QLP là quyền làm ra “các thứ luật” đã viết: “QLP thể hiện
ý chí chung của quốc gia, QHP thì thực hiện ý chí chung ấy” [83, tr.100-103].
Như vậy, QHP là quyền thi hành (thực hiện) pháp luật, là việc đưa pháp
luật vào đời sống xã hội. Việc thi hành hay thực hiện pháp luật được thể hiện chủ
yếu bằng các hình thức thực hiện pháp luật (Tuân thủ, thi hành, sử dụng và áp
dụng pháp luật). Bên cạnh đó là các hoạt động tổ chức thực tiễn như thanh tra,
kiểm tra, giám sát, giải quyết khiếu nại, tố cáo... nhằm làm cho các quy định
pháp luật đi vào cuộc sống. Như vậy, một hệ quả đương nhiên là chỉ khi nào
pháp luật xuất hiện thì QHP mới có đất để tồn tại. Vì thế, có thể khẳng định,
QLNN nói chung, QHP nói riêng gắn liền với sự ra đời của nhà nước và pháp
luật, bởi bất cứ một nhà nước nào cũng cần phải xây dựng một hệ thống pháp
luật và những thiết chế đảm bảo cho hệ thống pháp luật đó được thực hiện. Pháp
luật có được thực hiện và phát huy hiệu quả hay không phụ thuộc rất nhiều vào
một trong những nhánh quyền lực hết sức quan trọng là QHP - một trong ba bộ
phận cấu thành nên QLNN.
Ở Việt Nam, thuật ngữ QHP được sử dụng trong các văn kiện của Đảng và
pháp luật của Nhà nước khá muộn. Trong các Hiến pháp của Việt Nam, khi phản
ánh tư duy truyền thống về Hiến pháp, chủ yếu nhấn mạnh đến QLP (Hiến pháp
- 42 -
năm 1946, 1959), còn thuật ngữ QHP mới chính thức xuất hiện trong Cương
lĩnh năm 1991. Như vậy, đến nay, Việt Nam đã có gần ba thập niên chính thức
sử dụng thuật ngữ “quyền hành pháp” trong các văn kiện của Đảng và Nhà nước,
tuy nhiên nội dung của quyền này chưa được các văn kiện chính thức ở Việt
Nam giải mã một cách đầy đủ, cụ thể.
Mặc dù vậy, khái niệm QHP lại được khá nhiều nhà nghiên cứu quan tâm
dưới nhiều góc độ tiếp cận khác nhau. Từ điển Luật học định nghĩa QHP là
“quyền quản lý hành chính nhà nước về mọi lĩnh vực chính trị, kinh tế, văn hóa,
xã hội, giáo dục, quốc phòng, an ninh, đối ngoại trên phạm vi toàn lãnh thổ
quốc gia” [8, tr.651]. Từ điển này còn giải thích thêm “quyền hành pháp là một
trong những quyền lực quan trọng nhất của nhà nước. Quyền hành pháp được
giao cho Chính phủ thực hiện”.
Giáo sư Đoàn Trọng Truyến khái quát: “Quyền hành pháp là quyền thực thi
pháp luật và tổ chức đời sống theo pháp luật, gồm quyền lập quy và quyền hành
chính” [71]. Quan điểm này được TS. Đinh Văn Minh cụ thể hóa “Quyền hành
pháp là bộ phận quyền lực nhà nước thực hiện chức năng, nhiệm vụ hoạch định,
thực thi chính sách công, triển khai pháp luật và tổ chức đời sống theo pháp luật.
Quyền này được thể hiện thông qua quyền lập quy (Regulatory power) và quyền
hành chính (Administrative power). Trong đó, quyền lập quy là quyền ban hành
các văn bản dưới luật (văn bản pháp quy); Quyền hành chính là quyền tổ chức và
điều hành bộ máy hành chính nhằm tổ chức và quản lý các hoạt động kinh tế - xã
hội” [50].
Theo GS.TS. Phạm Hồng Thái, “quyền hành pháp” chính là “quyền điều
hành đất nước”. Để khẳng định quan điểm của mình, tác giả nhấn mạnh rằng:
“Hành pháp mạnh biết quản lý, biết dẫn dắt các quá trình xã hội phát triển phù
hợp với các quy luật của tự nhiên và xã hội tất yếu dẫn đất nước tới phát triển,
phồn vinh; Còn khi hành pháp yếu không có khả năng quản lý tất yếu dẫn đất
- 43 -
nước tới những cuộc khủng hoảng về chính trị, kinh tế - xã hội. Chính vì vậy một
yêu cầu được đặt ra là phải bảo đảm tính liên tục của quyền lực hành pháp, sự
ngưng trệ của quyền lực hành pháp sẽ làm ảnh hưởng, thậm chí dẫn đến sự
ngưng trệ của toàn bộ hệ thống quyền lực nhà nước”1 [58, tr.6 - 9].
GS.TS. Nguyễn Đăng Dung cho rằng, “Nguyên nghĩa QHP chỉ đơn thuần
là quyền thực thi các đạo luật một cách thụ động. Tuy nhiên, qua thời gian, quan
niệm như vậy không còn phù hợp nữa. Ngày nay, QHP chính là quyền hoạch
định và điều hành chính sách quốc gia” [19]. Trong đó, hoạch định chính sách
được hiểu là vạch ra những mục tiêu tổng quát cho quốc gia cùng các phương
tiện phải sử dụng để đạt được mục tiêu đó (thể hiện rõ nhất ở việc đề xuất chính
sách và trình dự án luật của Chính phủ). Điều hành chính sách là vận dụng
những phương tiện cần thiết để thực hiện những mục tiêu đã đặt ra thể hiện ở
việc: tổ chức nhân sự, hoạt động lập quy, giám sát chính sách
Trong cuốn sách tham khảo về “Tổ chức và kiểm soát quyền lực nhà
nước”, GS.TS. Thái Vĩnh Thắng lại quan niệm hành pháp và hành chính công là
một. Tuy nhiên, tác giả cũng chỉ ra rất rõ rằng, hành pháp “không chỉ đơn thuần
là chức năng tổ chức thực hiện pháp luật” mà còn bao gồm rất nhiều các hoạt
động cơ bản như: Xác lập đường lối chính sách của Chính phủ về đối nội và đối
ngoại; tổ chức thực thi các quy định của Hiến pháp và các luật bằng việc xây
dựng và ban hành các văn bản pháp qui theo thẩm quyền; Xây dựng và duy trì
hoạt động thường xuyên một bộ máy công quyền từ trung ương xuống địa
phương nhằm điều hòa các mối quan hệ xã hội trên các lĩnh vực khác nhau nhằm
đảm bảo một trật tự an toàn chung cho mọi công dân trong xã hội; Tổ chức và
quản lý các dịch vụ công; quản trị các tài sản thuộc sở hữu nhà nước, quản lý
hành chính việc tổ chức và hoạt động của các doanh nghiệp nhà nước; tổ chức
- 44 -
kiểm tra, thanh tra việc chấp hành pháp luật trong hệ thống các cơ quan hành
chính nhà nước” [62, tr.96 - 97].
PGS.TS. Lê Thị Hương cho rằng: “Quyền hành pháp là quyền tổ chức
thực hiện ý chí chung của quốc gia do Chính phủ đảm trách. Thuộc tính cơ bản,
xuyên suốt mọi hoạt động của quyền này là đề xuất, hoạch định, tổ chức soạn
thảo chính sách quốc gia và sau khi chính sách quốc gia được thông qua là người
tổ chức thực hiện và quản lý nhà nước mà thực chất là tổ chức thực hiện pháp
luật để bảo đảm an ninh, an toàn và phát triển xã hội.” [45].
Tác giả Lê Thị Ngọc Trâm quan niệm rằng: “Quyền hành pháp là một bộ
phận của quyền lực nhà nước mà nội dung cơ bản gồm: các quyền đề xuất và
hoạch định các chính sách của quốc gia; đề xuất và xây dựng các văn bản quy
phạm pháp luật quan trọng và tổ chức thực hiện phá... gia.
Chính phủ - một thiết chế đặc biệt quan trọng trong cơ cấu tổ chức bộ máy
nhà nước được thành lập để thực hiện chức năng hành pháp, Chính phủ là chủ
thể chủ động sáng tạo trong việc hoạch định chính sách quốc gia. Đây là chức
năng cơ bản của Chính phủ, gắn liền với sự tồn tại và tiêu vong của Chính phủ.
Một Chính phủ mạnh là phải vạch ra được những mục tiêu phát triển quốc gia
tốt. Chính phủ với nhiệm vụ thống nhất quản lý mọi mặt của đời sống xã hội, cần
coi trọng việc hoạch định chính sách, coi hoạch định chính sách là chức năng
- 149 -
quan trọng và cơ bản trong thực hiện QHP để không còn tồn tại tình cảnh “chính
sách trên trời ban cho người dân dưới đất”.
Quy trình hoạch định chính sách của Chính phủ hiện nay gồm ba giai đoạn:
Giai đoạn 1: Thiết lập chương trình xây dựng chính sách. Giai đoạn này
sẽ tiến hành việc lập dự kiến chương trình xây dựng chính sách hàng năm của
Chính Phủ do Văn phòng Chính phủ chủ trì, phối hợp với Bộ Tư pháp và các cơ
quan có liên quan trên cơ sở đề nghị của các bộ, cơ quan ngang bộ, cơ quan
thuộc Chính phủ và các cơ quan, tổ chức, cá nhân khác. Thủ tướng Chính phủ
phân công cho các bộ có liên quan chủ trì, soạn thảo.
Giai đoạn 2: Soạn thảo chính sách. Giai đoạn này gồm các hoạt động như:
Thành lập cơ quan soạn thảo; Tiến hành soạn thảo; Lấy ý kiến đối với dự thảo;
Thẩm định dự thảo; Chỉnh lý dự thảo
Giai đoạn 3: Thông qua chính sách. Đây là giai đoạn Chính phủ xem xét,
thông qua dự thảo tại một hoặc hai phiên họp Chính phủ.
Thực tế cho thấy, quy trình hoạch định chính sách hiện nay của Chính phủ
còn bị khép kín. Việc lấy ý kiến tham gia của các đối tượng chịu sự điều chỉnh
của chính sách còn hạn chế và mang tính hình thức. Người dân chỉ biết tới chính
sách khi nó đã được ban hành bằng các quy định pháp luật cụ thể, do vậy còn tồn
tại nhiều chính sách mang tính xa rời thực tiễn như chính sách tăng giá điện, tăng
thuế môi trường, giá nông sản... Các Bộ, ngành còn thụ động trong việc tiếp thu,
lấy ý kiến, đóng góp ý kiến, thậm chí còn tồn tại nhiều kiến nghị, đề xuất trong
việc hoạch định chính sách xuất phát từ yêu cầu nhiệm vụ quản lý của các cơ
quan quản lý. Từ đó còn tồn tại tình trạng cục bộ, ngành, địa phương dẫn đến
tính khả thi trong việc thực hiện chính sách còn thấp hoặc kết quả thực hiện không
như mong muốn.
Để khắc phục tình trạng trên đây, đòi hỏi cần phải có các biện pháp tăng
cường hiệu quả, dân chủ trong chức năng hoạch định chính sách gồm: i) Tăng
- 150 -
cường cơ chế bảo đảm quyền tiếp cận thông tin của nhân dân trong quá trình hình
thành, xây dựng hoạch định chính sách; ii) Tăng cường cơ chế phối hợp liên
ngành, đa ngành và phân định trách nhiệm tránh mâu thuẫn, đùn đẩy trách nhiệm
trong quá trình hoạch định chính sách; iii) Xây dựng cơ chế bảo đảm sự tham gia
của các chủ thể, đặc biệt sự tham gia các các đối tượng bị tác động bởi chính sách
trong quá trình hoạch định chính sách; iv) Đào tạo, bồi dưỡng nguồn nhân lực làm
công tác hoạch định, xây dựng chính sách theo hướng hiện đại, chuyên nghiệp.
Thứ hai, nâng cao năng lực của Chính phủ trong điều hành chính sách
Trong bất cứ nhà nước nào, QHP đều được xem như quyền năng trực tiếp
trong hoạch định, đệ trình chính sách và thực thi chính sách. So với QLP và
QTP, thì QHP có đặc trưng cơ bản là hành động để đưa pháp luật vào cuộc sống.
Nếu hoạch định chính sách là vạch ra các mục tiêu phát triển của quốc gia
thì điều hành chính sách là việc sử dụng các phương tiện cần thiết để biến mục
tiêu thành hiện thực. Thực tế đã chứng minh rằng, làm chính sách đã khó, làm
được chính sách tốt vô cùng khó, tuy nhiên tổ chức thực hiện chính sách còn khó
hơn nhiều. Điều hành chính sách là quá trình Chính phủ huy động và tổ chức sử
dụng những nguồn lực, phương tiện cần thiết để thực hiện những mục tiêu của
chính sách mà Chính phủ đã vạch ra. Trong việc điều hành chính sách, Chính phủ
có nhiều việc phải làm như: Phải thiết lập một cơ cấu tổ chức bộ máy đảm bảo sự
phân công, phân nhiệm rõ ràng, minh bạch về chức năng, nhiệm vụ quyền hạn và
đảm bảo một cơ chế phối hợp hiệu quả giữa các cơ quan, tổ chức, cá nhân có liên
quan; Xây dựng đội ngũ CBCC có năng lực chuyên môn và đạo đức công vụ; Tổ
chức kiểm soát chính sách tốt thông qua các cơ chế thanh tra, kiểm tra, giám sát và
các cơ chế chính sách nhằm đảm bảo chất lượng của quá trình điều hành chính
sách nhằm hướng tới xây dựng một Chính phủ liêm chính, hiện đại, chuyên
nghiệp, dân chủ, pháp quyền; thống nhất quản lý vĩ mô các lĩnh vực chính trị, kinh
tế, văn hoá, xã hội, quốc phòng, an ninh và đối ngoại của đất nước.
- 151 -
4.3.3.3. Hoàn thiện thiết chế thực hiện quyền tư pháp
Một là, tăng cường trách nhiệm giải trình của Thẩm phán và Tòa án.
Độc lập xét xử không có nghĩa là miễn toàn bộ trách nhiệm của Tòa án và
Thẩm phán khi họ có những sai phạm trong thực thi nhiệm vụ dẫn đến xâm hại
quyền và lợi ích hợp pháp của công dân và tổ chức. Cũng giống như nhiều quốc
gia khác, yêu cầu nâng cao trách nhiệm của Tòa án, Thẩm phán và các chức
danh tư pháp khác đang đặt ra đối với Việt Nam. Theo Khoản 6, Điều 76 Luật
Tổ chức TAND năm 2014, thì Thẩm phán “Chịu trách nhiệm trước pháp luật về
việc thực hiện nhiệm vụ, quyền hạn và các quyết định của mình; nếu có hành vi
vi phạm pháp luật thì tuỳ theo tính chất, mức độ vi phạm mà bị xử lý kỷ luật hoặc
truy cứu trách nhiệm hình sự theo quy định của luật. Thẩm phán trong khi thực
hiện nhiệm vụ, quyền hạn của mình mà gây thiệt hại thì Tòa án nơi Thẩm phán
thực hiện nhiệm vụ xét xử có trách nhiệm bồi thường và Thẩm phán đã gây thiệt
hại có trách nhiệm bồi hoàn cho Tòa án theo quy định của luật”. Những biện
pháp xác định trách nhiệm cá nhân nói trên trên đòi hỏi các Thẩm phán phải thận
trọng hơn khi đưa ra quyết định và giúp nâng cao chất lượng hoạt động xét xử.
Trong khi đó, các quy định hiện hành không đủ để buộc Thẩm phán phải
có trách nhiệm giải trình về hoạt động xét xử của mình. Các phán quyết của
Thẩm phán thông thường khá đơn giản trong phần phân tích và nhận định các
tình tiết của vụ án và lập luận về cơ sở pháp lý áp dụng đối với các tình tiết của
vụ án. Để tăng cường tính giải trình về việc ra quyết định của Thẩm phán đòi hỏi
phải ban hành quy định tiêu chuẩn hình thức, nội dung của một bản án, quyết định
của Tòa án.
Hai là, công khai, minh bạch thông tin trong hoạt động của Tòa án.
Đối với Tòa án, sự đánh giá của công chúng không được thể hiện qua
phiếu bầu, mà nó được xem xét thông qua các yêu cầu về công khai, khách quan
và thuyết phục trong lý lẽ khi xét xử của Toà án. Công khai yêu cầu công chúng
- 152 -
phải được quyền tiếp cận với Toà án (đúng ra là các phiên toà), yêu cầu Toà án
phải xét xử công khai. Thủ tục tố tụng hiện hành phần nào đã ấn định tính công
khai của hệ thống tư pháp Việt Nam, chẳng hạn các phiên xử được tổ chức công
khai ngoại trừ trường hợp liên quan đến danh dự cá nhân hoặc thuần phong mỹ
tục, hoặc các bên liên quan được quyền xuất trình chứng cứ và tranh luận công
khai tại phiên xử.
Tính minh bạch trong hoạt động của Tòa án được thể hiện ở thủ tục tố
tụng, tức là các quy định liên quan đến quy trình xét xử và xác lập chứng cứ khi
giải quyết các vụ án và vụ kiện. Để nâng cao hơn nữa tính minh bạch cần phải
thực hiện một số thay đổi mang tính cải cách về thủ tục tố tụng của Tòa án Việt
Nam. Trong những cải cách cần thiết đó, có hai nội dung quan trọng: i) Cần phải
minh bạch hóa việc xác lập chứng cứ; ii) Cần minh bạch hóa thủ tục công bố
phán quyết của Tòa án.
4.3.4. Tăng cường các bảo đảm nhằm hiện thực hóa mối quan hệ
phối hợp giữa quyền hành pháp và quyền tư pháp trong kiểm soát quyền
lực nhà nước
- Về chính trị
Bảo đảm QLNN thuộc về Nhân dân là yếu tố hàng đầu quyết định sự đúng
đắn, lành mạnh của mối quan hệ phối hợp giữa QHP và QTP trong kiểm soát
QLNN. Điều đó đòi hỏi nguyên tắc chủ quyền nhân dân phải trở thành sợi chỉ đỏ
xuyên suốt toàn bộ thực tiễn quá trình tổ chức và thực thi QLNN ở nước ta hiện
nay. Mối quan hệ phối hợp giữa QHP và QTP trong kiểm soát QLNN phải bảo
đảm các nguyên lý chủ quyền của nhân dân cũng như các nguyên tắc của nhà
nước pháp quyền, ở đó, mọi hoạt động của các chủ thể trong xã hội phải đặt trong
khuôn khổ pháp luật. Nhân dân ủy quyền do vậy nhân dân cũng có thể thu hồi lại
quyền lực đã ủy quyền. Theo hướng đó, dân chủ hóa nền chính trị và toàn bộ đời
sống xã hội là định hướng quan trọng nhất trong đổi mới nền chính trị ở nước ta
- 153 -
hiện nay.
Quyền lực nhà nước có mối liên hệ chặt chẽ đến vai trò của Đảng, xét đến
cùng chính là quyền lực của Đảng vì "Đảng ta là một đảng cầm quyền", "cầm
quyền" là nắm chính quyền (nhà nước). Với lý lẽ đã là quyền lực thì phải có kiểm
soát quyền lực và QLCT cũng là quyền lực của Nhân dân theo tinh thần gắn bó
mật thiết với Nhân dân, phục vụ Nhân dân, chịu sự giám sát của Nhân dân, chịu
trách nhiệm trước Nhân dân về những quyết định của mình. Tuy nhiên, Nhân dân
giám sát Đảng như thế nào và Đảng chịu sự giám sát của Nhân dân ra sao thì cần
phải có một cơ chế thực hiện cụ thể và vấn đề này cần phải được thể chế hoá bằng
pháp luật để đảm bảo tính khả thi trong thực tế. Có như vậy mối quan hệ phối hợp
giữa QHP và QTP trong kiểm soát QLNN mới vận hành và hoạt động có hiệu quả.
- Về kinh tế
Hiệu quả của mối quan hệ phối hợp giữa QHP và QTP trong kiểm soát
QLNN phụ thuộc vào nhiều yếu tố trong đó có yếu tố kinh tế. Kinh tế ở đây chính
là nền kinh tế của đất nước phải phát triển bền vững, ổn định, đời sống nhân dân
ngày càng được nâng cao, các thiết chế có điều kiện duy trì bộ máy và tổ chức
hoạt động. Không đảm bảo yếu tố kinh tế thì việc vận hành của từng bộ phận và
cả cơ chế sẽ trở nên khó khăn, vướng mắc ảnh hưởng đến chất lượng, hiệu quả
hoạt động mối quan hệ phối hợp giữa QHP và QTP trong kiểm soát QLNN. Bởi
xét từ góc độ cơ sở vật chất, cần có sự đầu tư thích đáng, hỗ trợ cho mọi hoạt động
liên quan đến mối quan hệ phối hợp giữa QHP và QTP trong kiểm soát QLNN.
Đồng thời, mối quan hệ phối hợp giữa QHP và QTP trong kiểm soát QLNN cũng
cần phải được tiến hành trên nền tảng nền kinh tế phát triển với cơ sở vật chất đủ
mạnh để hiện thực hóa các yêu cầu của mối quan hệ này. Theo hướng đó, các chủ
trương đổi mới nền kinh tế, xây dựng kinh tế thị trường định hướng XHCN cần
được triển khai quyết liệt và hiệu quả.
- Về pháp lý
- 154 -
Hoàn thiện mối quan hệ phối hợp giữa QHP và QTP trong kiểm soát QLNN
cần đặt trong mối tương quan với các thể chế chính trị, pháp lý khác. Thể chế của
mối quan hệ phối hợp giữa QHP và QTP trong kiểm soát QLNN chịu sự tác động,
chi phối, ảnh hưởng quan trọng và quyết định của thể chế chính trị. Thể chế chính
trị quyết định, chi phối việc thiết lập cấu trúc tổ chức QLNN đồng thời quyết định
cấu trúc và tính chất của mối quan hệ phối hợp giữa các CQNN trong kiểm soát
QLNN nói chung, mối quan hệ phối hợp giữa QHP và QTP trong kiểm soát QLNN
nói riêng. Do đó, phải đảm bảo tính liên kết, đồng bộ giữa các yếu tố trong hệ
thống, đặc biệt là mối quan hệ phối hợp giữa QHP và QTP trong kiểm soát QLNN
với hệ thống kiểm soát bên ngoài bộ máy nhà nước. Mối quan hệ giữa kiểm soát
của Đảng với kiểm soát của Mặt trận Tổ quốc, các tổ chức thành viên với kiểm soát
giữa các CQNN thực hiện các QLP, QHP và QTP. Coi trọng xây dựng, hoàn thiện
thể chế chính trị dân chủ, pháp quyền gắn liền với hoàn thiện thể chế về mối quan
hệ phối hợp giữa QHP và QTP trong kiểm soát QLNN.
- Về môi trường dân chủ và pháp quyền
Hoàn thiện mối quan hệ phối hợp giữa QHP và QTP trong kiểm soát QLNN
cần đề cao, coi trọng xây dựng môi trường dân chủ và pháp quyền. Môi trường
dân chủ và pháp quyền là những yếu tố bảo đảm để tổ chức, thiết lập và vận hành
mối quan hệ phối hợp giữa QHP và QTP trong kiểm soát QLNN có hiệu quả. Mặc
dù đã có năm bản Hiến pháp qua các thời kỳ, nhưng Hiến pháp năm 2013 mới
thực sự là bước đi dân chủ và pháp quyền của đất nước. Bởi vì, nguyên tắc Nhân
dân kiểm soát QLNN đã được thiết lập và bảo đảm thực hiện bằng Hiến pháp.
Theo đó, hệ thống pháp luật về dân chủ, quyền con người, quyền công dân phải
được xây dựng, ban hành đầy đủ nhằm tạo điều kiện để nhân dân tham gia toàn
diện, thực chất hơn vào hoạt động quản lý nhà nước, quản lý xã hội. Các CQNN,
đội ngũ cán bộ, công chức, viên chức có nghĩa vụ nghiêm chỉnh tuân thủ và thực
hiện pháp luật theo nguyên tắc “chỉ được làm những gì pháp luật cho phép".
- 155 -
Pháp luật phải đủ mạnh để buộc hoạt động của nhà nước phải tự kiểm soát, quản
lý được chính mình và thực hiện công khai, minh bạch trước nhân dân, chịu sự
kiểm soát của nhân dân.
Bên cạnh đó, cần nâng cao nhận thức, trình độ dân chủ cho nhân dân, trước
hết cần có chính sách nâng cao dân trí để nhân dân đủ năng lực và điều kiện tự
mình hoặc thông qua cơ quan, tổ chức đại diện cho mình kiểm soát QLNN, bảo vệ
quyền và lợi ích hợp pháp, chính đáng của chính mình có hiệu quả. Nâng cao dân
trí luôn phải đi liền với việc nâng cao hiểu biết và củng cố niềm tin vào pháp luật
cho nhân dân. Thực tế cho thấy, hệ thống pháp luật của chúng ta đã vô cùng phức
tạp nhưng vẫn chưa đủ để thể chế hóa các quyền con người, quyền công dân theo
Hiến pháp năm 2013. Hơn nữa, phần lớn người dân lại trong tình trạng không hiểu
biết đầy đủ về pháp luật, cộng với tâm lý "phải dựa vào nhà nước" và "được nhà
nước chỉ dẫn" thì người dân không đủ năng lực làm chủ, không đủ bản lĩnh làm chủ
và không đủ phương tiện làm chủ sẽ làm cho cơ chế trở nên hình thức, kém hiệu
quả. Do đó, nâng cao dân trí, dân chủ và nhận thức hiểu biết pháp luật của người
dân là một trong những bảo đảm để mối quan hệ phối hợp giữa QHP và QTP trong
kiểm soát QLNN được vận hành có hiệu quả, đáp ứng được mục đích yêu cầu đề ra
một cách bền vững.
- 156 -
Tiểu kết chương 4
Để tăng cường quan hệ phối hợp giữa QHP và QTP trong kiểm soát QLNN
cần phải nắm vững những quan điểm, nghị quyết của Đảng cộng sản Việt Nam,
tinh thần và nội dung của Hiến pháp năm 2013 và các VBPL có liên quan về phân
công, phối hợp và kiểm soát QLNN. Điều đó phải được thể chế hoá đầy đủ bằng
pháp luật và bảo đảm thực hiện bằng pháp luật. Trên cơ sở phân tích các nhu cầu
tăng cường quan hệ phối hợp giữa QHP và QTP trong kiểm soát QLNN, luận án
đã đề xuất các quan điểm và giải pháp nhằm tăng cường quan hệ phối hợp giữa
QHP và QTP trong kiểm soát QLNN ở Việt Nam hiện nay thông qua các giải
pháp như: Hoàn thiện các thể chế chính trị, pháp lý, các thiết chế và các điều kiện
bảo đảm để mối quan hệ phối hợp giữa QHP và QTP trong kiểm soát QLNN
được hoàn thiện và vận hành có hiệu quả.
- 157 -
KẾT LUẬN
Với nguồn gốc từ nhân dân, QLNN được trao cho các cơ quan khác nhau
nắm giữ để thực hiện các chức năng của nhà nước. Sự trao quyền này dẫn đến hệ
quả là quyền lực có thể bị tha hóa, thay vì phục vụ nhân dân lại trở thành công cụ
để cai trị nhân dân. Nhà nước dân chủ là nhà nước sử dụng những biện pháp
thích hợp để hạn chế sự tha hóa quyền lực ở mức tối đa, để từ đó mở rộng dân
chủ cho xã hội. Một trong những phương thức có hiệu quả để thực hiện mục tiêu
trên là phải phân công QLNN cho các chủ thể khác nhau thực hiện để một mặt
tạo ra cơ chế quyền lực kiểm soát lẫn nhau và mặt khác hạn chế sự lộng quyền
và lạm quyền từ phía các cơ quan nhà nước.
Quyền lực nhà nước được tạo thành từ ba bộ phận: QLP, QHP và QTP.
Trong đó, QLP thể hiện tính đại diện cho nhân dân - ban hành pháp luật trên cơ
sở thể hiện ý chí của nhân dân nên được trao cho Quốc hội hoặc Nghị viện nắm
giữ; QHP được trao cho Chính phủ vì có liên quan mật thiết đến việc ban hành
và thực thi các chính sách quốc gia; QTP bao gồm quyền xét xử và các quyền có
liên quan trực tiếp đến hoạt động xét xử như giải thích pháp luật và giám sát ban
hành pháp luật được trao cho Tòa án nắm giữ để đảm bảo công lý và lợi ích
chung của quốc gia.
Tổ chức bộ máy nhà nước Việt Nam hiện nay vẫn theo mô hình tập quyền
XHCN. Do đó, mặc dù Hiến pháp 2013 đã ghi nhận nguyên tắc phân công, phối
hợp và kiểm soát trong tổ chức và thực hiện QLNN nhưng sự phân công này mới
chỉ dừng lại ở bản chất kỹ thuật, tức mới chỉ là phân công lao động giữa các cơ
quan nhà nước mà chưa đạt đến mức độ phân công về mặt chính trị, nên chưa
hình thành được cơ chế kiểm soát quyền lực một cách hữu hiệu. Với thực tế này,
đòi hỏi phải có sự phối hợp chặt chẽ giữa các cơ quan nhà nước trong việc thực
hiện các quyền lập pháp, hành pháp và tư pháp, trong đó có sự phối hợp giữa
QHP và QTP sẽ góp phần kiểm soát QLNN trở nên có hiệu quả hơn.
- 158 -
Để tăng cường quan hệ phối hợp giữa QHP và QTP trong kiểm soát
QLNN ở Việt Nam hiện nay cần tập trung vào một số giải pháp như: Nâng cao
nhận thức về kiểm soát QLNN và quan hệ phối hợp giữa QHP và QTP trong
kiểm soát QLNN; Tiếp tục hoàn thiện thể chế về quan hệ phối hợp giữa QHP và
QTP trong kiểm soát QLNN; Hoàn thiện các thiết chế về quan hệ phối hợp giữa
QHP và QTP trong kiểm soát QLNN và tăng cường các bảo đảm cho quá trình
hiện thực hóa mối quan hệ phối hợp giữa QHP và QTP trong kiểm soát quyền
lực nhà nước, đáp ứng yêu cầu của công cuộc đổi mới đất nước./.
- 159 -
DANH MỤC CÁC CÔNG TRÌNH ĐÃ CÔNG BỐ CỦA TÁC GIẢ
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO
TÀI LIỆU TIẾNG VIỆT
1. Vũ Hồng Anh (1999), Quyền lực nhà nước hay tất cả quyền lực thuộc về
nhân dân, Tạp chí Luật học số 6/1999.
2. Vũ Hồng Anh (2004), Tổ chức và hoạt động của Chính phủ trong điều kiện
xây dựng nhà nước pháp quyền ở nước ta hiện nay, Tạp chí Luật học số
4/2004.
3. Vũ Hồng Anh (2005), Về vị trí, tính chất của Chính phủ trong bộ máy nhà
nước ở nước ta, Tạp chí Quản lý nhà nước, Số 8/2005, tr. 9 - 13.
4. Vũ Hồng Anh, Tổ chức và hoạt động của chính phủ một số nước trên thế
giới, Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội, 1997
5. Đào Duy Anh, Hán Việt từ điển (Tái bản có sửa chữa), Nxb. Văn hóa Thông
tin, Tr. 164
6. Phạm Quang Anh, Cơ chế pháp lý nhân dân kiểm soát quyền lực nhà nước,
Luận án tiến sỹ Luật học năm 2013, Học viện Chính trị Quốc gia Hồ Chí Minh
7. Nguyễn Mạnh Bình, Hoàn thiện cơ chế pháp lý giám sát xã hội đối với việc
thực hiện quyền lực nhà nước ở Việt Nam hiện nay, Luận án tiến sĩ Luật học
8. Bộ Tư pháp (Viện khoa học pháp lý), Từ điển Luật học, Nxb Từ điển Bách
khoa, 2006),
9. Lê Cảm và Vũ Văn Huân, Cơ chế kiểm soát quyền lực nhà nước và một số
kiến giải lập hiến trong giai đoạn xây dựng nhà nước pháp quyền Việt Nam,
Tạp chí Nhà nước và Pháp luật, số 6/2012.
10. Lê Cảm và Dương Bá Thành, Cơ chế kiểm soát quyền lực tư pháp trong Nhà
nước pháp quyền: một số vấn đề lý luận và thực trạng ở Việt Nam, Tạp chí
Nhà nước và Pháp luật số 12/2010
- 160 -
11. Nguyễn Bá Chiến, Bàn thêm về kiểm soát quyền lực nhà nước với việc sửa
đổi Hiến pháp năm 1992, Tạp chí Quản lý nhà nước, Số tháng 8, năm 2012.
12. Chính phủ, Báo cáo số344/BC-Chính phủ ngày 12/9/2014 về tình hình triển
khai thi hành luật, pháp lệnh và văn bản chi tiết, hướng dẫn thi hành luật,
pháp lệnh của Quốc hội, Ủy ban thường vụ Quốc hội được ban hành từ đầu
nhiệm kỳ Quốc hội khóa XIII đến hết tháng 7/2003
13. Lê Đình Chân “Luật Hiến pháp và những định chế chính trị”, Sài gòn 1974
14. Nguyễn Văn Cương, Bàn về quyền hành pháp trong Hiến pháp năm 2013,
Tạp chí Nghiên cứu lập pháp số 12(268) T6/2014.
15. Lương Thanh Cường, Luận bàn về kiểm soát quyền lực nhà nước, Tạp chí
Quản lý nhà nước số 6 (209)/2013
16. Nguyễn Đăng Dung, Sự hạn chế quyền lực Nhà nước, Nxb Đại học quốc gia,
2005
17. Nguyễn Đăng Dung, Chính phủ trong nhà nước pháp quyền, Sách chuyên
khảo Nxb Đại học quốc gia Hà Nội, 2008.
18. Nguyễn Đăng Dung, Tính nhân bản của Hiến pháp và bản tính của các cơ
quan nhà nước, Nxb Tư pháp, Hà Nội, 2004
19. Nguyễn Đăng Dung, Giáo trình Luật hiến pháp Việt Nam, Nxb Công an nhân dân,
Hà Nội, 2015
20. Nguyễn Đăng Dung, Quốc hội Việt Nam trong nhà nước pháp quyền, Khoa
Luật, Đại học Quốc gia Hà Nội, Nxb. Đại học Quốc gia Hà Nội, 2007
21. Nguyễn Đăng Dung – Hoàng Thị Kim Quế, Lịch sử tư tưởng chính trị pháp
lý, Đại học quốc gia Hà Nội, 2017
22. Nguyễn Đăng Dung phap-va-quyen-
hanh-chinh-nha-nuoc-cao-nhat-39185
- 161 -
23. Nguyễn Chí Dũng, Về cơ chế pháp lý giám sát hoạt động tư pháp ở Việt Nam,
Luận án tiến sĩ Luật học, Học viện Chính trị - Hành chính quốc gia Hồ Chí Minh,
2009. 1
24. Lê Sĩ Dược, Cải cách bộ máy hành pháp cấp trung ương trong công cuộc
đổi mới hiện nay ở nước ta, Luận án Tiến sỹ Luật học, Học viện Chính trị
Quốc gia Hồ Chí Minh, Hà Nội, 1996.
25. Đảng Cộng sản Việt Nam, (1991), Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời
kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội, Nxb Sự thật, Hà Nội
26. Đảng Cộng sản Việt Nam, Văn kiện Đại hội VI của Đảng
27. Đảng Cộng sản Việt Nam, Nghị quyết Hội nghị lần thứ 8 Ban Chấp hành
Trung ương Đảng (khoá VII) ngày 23/01/1995
28. Đảng Cộng sản Việt Nam (2006), Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần
thứ X, NXB Chính trị Quốc gia, Hà Nội
29. Đảng Cộng sản Việt Nam (2011), Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần
thứ XI, NXB Chính trị Quốc gia, Hà Nộị
30. Đảng Cộng sản Việt Nam (2016), Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần
thứ XII, NXB Chính trị Quốc gia, Hà Nội
31. Nguyễn Minh Đoan (Chủ nhiệm 2015), Báo cáo Tổng hợp Đề tài khoa học
cấp Bộ, Cơ chế pháp lý kiểm soát quyền lực trong Nhà nước pháp quyền xã
hội chủ nghĩa Việt Nam, Hà Nội
32. Cao Anh Đô, Phân công, phối hợp giữa các cơ quan trong việc thực hiện các
quyền lập pháp, hành pháp và tư pháp ở Việt Nam, Luận án Tiến sỹ Luật học,
năm 2013
33. Cao Anh Đô (2013), Phân công, phối hợp giữa các cơ quan trong thực hiện
các quyền lập pháp, hành pháp và tư pháp ở Việt Nam, Nxb. Chính trị quốc
gia, Hà Nội,
- 162 -
34. Trần Văn Độ, Một số vấn đề về hoạt động tư pháp và kiểm soát các hoạt
động tư pháp ở nước ta hiện nay, Kỷ yếu Đề tài cấp Bộ “Những giải pháp
nâng cao chất lượng thực hành quyền công tố và kiểm sát các hoạt động tư
pháp” (2003), Hà Nội.
35. Trần Ngọc Đường (2012), Phân công, phối hợp và kiểm soát quyền lực với việc
sửa đổi hiến pháp năm 1992, Nxb Chính trị quốc gia - Sự thật, Hà Nội
36. Trần Ngọc Đường, Phân công, phối hợp quyền lực và kiểm soát quyền lực trong
xây dựng nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam, Đề tài khoa học (Mã
số KX. 04-28/6-10).
37. Hà Thị Mai Hiên (2003), Cơ chế kiểm tra, giám sát trong Nhà nước pháp
quyền, Nxb Công an nhân dân, Hà Nội, tr.89
38. Học viện Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh (2004), "Xây dựng thể chế kinh tế
thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam", Kỷ yếu Hội thảo khoa
học, Hà Nội
39. Học viện Hành chính Quốc gia (2010), Giáo trình Lý luận hành chính nhà
nước, Hà Nội
40. Học viện Hành chính (Viện Nghiên cứu Khoa học Hành chính), Thuật ngữ
Hành chính năm 2009
41. Hoàng Minh Hội, Hoàn thiện pháp luật về giám sát của nhân dân đối với cơ
quan hành chính nhà nước ở Việt Nam, Luận án tiến sĩ Luật học, Học viện
chính trị Quốc gia Hồ Chí Minh
42. Lê Quốc Hùng, Thống nhất phân công và phối hợp quyền lực nhà nước ở
Việt Nam, (2004), Nxb Tư pháp, Hà Nội
43. Nguyễn Quốc Hùng, Kiểm soát quyền lực tư pháp trong nhà nước pháp
quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam, Luận án Tiến sĩ Luật học, Hà nội 2016
44. Lê Thị Hương, Thanh tra - phương thức kiểm soát quyền lực nhà nước hiệu
quả trong nhà nước pháp quyền, Đề tài khoa học
- 163 -
45. Lê Thị Hương, Mối quan hệ giữa quyền lập pháp, hành pháp, tư pháp theo
quy định của Hiến pháp 2013 của PGS.TS. Lê Thị Hương, Kỷ yếu Hội thảo
“Kiểm soát của Hành pháp trong Nhà nước pháp quyền XHCN Việt Nam”,
46. Nguyễn Thị Hồi, tập bài giảng, Lịch sử tư tưởng chính trị - pháp lý, Đại học
Luật Hà Nội
47. Trương Hải Long, Thể chế pháp lý về kiểm soát quyền lực nhà nước ở Việt
Nam, Luận án tiến sỹ Luật học, Học viện Khoa học xã hội, 2014
48. Phạm Thế Lực, Vấn đề kiểm soát quyền lực nhà nước
49. Cao Vũ Minh, Quyền hành pháp của Chính phủ trong Hiến pháp và kiến
nghị sửa đổi Luật Tổ chức Chính phủ 2001, Tạp chí Nghiên cứu lập pháp số
09 (265), T5/2014.
50. Đinh Văn Minh, Kiểm soát việc thực hiện quyền lực hành pháp, Hội thảo
“Kiểm soát của Hành pháp trong Nhà nước pháp quyền XHCN Việt Nam”,
Nxb. Chính trị Quốc gia - Sự thật
51. Đinh Văn Mậu, Quyền lực nhà nước và quyền công dân, Nxb. Tư pháp, Hà
Nội, 2003
52. Ngân hàng thế giới (2003), Báo cáo của về phát triển bền vững trong thế giới
năng động
53. Phạm Hữu Nghị, Tổ chức và kiểm soát quyền lực nhà nước ở Việt Nam:
Thực trạng và giải pháp, Tạp chí Nhà nước và Pháp luật
54. Nguyễn Huy Phượng, Giám sát xã hội đối với hoạt động của các cơ quan tư
pháp theo yêu cầu xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt
Nam, Luận án tiến sĩ Luật học, Học viện Chính trị - Hành chính quốc gia Hồ
Chí Minh, 2012
55. Phạm Ngọc Quang, “Quyền lực chính trị trong chính trị học”, Học viện
chính trị Quốc gia Hồ Chí Minh, Hà Nội 1993
- 164 -
56. Quốc hội, Báo cáo trả lời chất vấn của đại biểu Quốc hội tại kỳ họp thứ tám,
Quốc hội khóa XIII (tháng 11/2014)
57. Lê Minh Tâm, Quyền hành pháp và chức năng của quyền hành pháp, Tạp
chí Luật học số 6/2000
58. Phạm Hồng Thái (2007), Sự liên tục của quyền hành pháp và quyền lực hành
chính, tạp chí Quản lý nhà nước, Học viện Hành chính, Số 4/2007
59. Hồ Bá Thâm (2009), Dân chủ hoá, phân quyền hoá cơ cấu hệ thống quyền
lực nhà nước theo tư duy pháp quyền biện chứng, tạp chí Nghiên cứu Lập
pháp, số 11/2009
60. Nguyễn Phước Thọ, Cơ chế thực hiện quyền hành pháp của Chính phủ theo
quy định của pháp luật, Tạp chí nghiên cứu lập pháp số 13(269), T7/2014
61. Nguyễn Phước Thọ, Cao Anh Đô, Về quyền hành pháp của Chính phủ trong
cơ chế phân công, phối hợp và kiểm soát quyền lực nhà nước, Tạp chí
Nghiên cứu lập pháp, số 22/2011
62. Thái Vĩnh Thắng, Tổ chức và kiểm soát quyền lực nhà nước, Sách chuyên
khảo, Nxb. Tư pháp, Hà Nội, 2011
63. Vũ Thư, Về kiểm soát quyền lực hành pháp trong hệ thống quyền lực nhà
nước Việt Nam hiện nay, Tạp chí Nhà nước và pháp luật số 12/2006
64. Vũ Thư, Một số vấn đề lý luận và thực tiễn cơ bản về quyền hành pháp của
Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam giai đoạn 2011 – 2020, Đề
tài khoa học
65. Nguyễn Ngọc Toán, Quyền hành pháp của Chính phủ theo Hiến pháp năm
2013, Tạp chí Nghiên cứu lập pháp, số 17(273)T9/2014 tr 3-10,
66. Nguyễn Xuân Tùng, Học thuyết tập quyền xã hội chủ nghĩa và một số nhận
thức về kiểm soát quyền lực tại Việt Nam
67. Trần Anh Tuấn, Quyền hành pháp và vai trò của Chính phủ trong thực hiện
quyền lực nhà nước, Tạp chí Cộng sản số ra ngày 25/9/2012
- 165 -
68. Đặng Minh Tuấn (2000), Một số vấn đề sửa đổi, bổ sung Hiến pháp 1992 về
tổ chức bộ máy nhà nước, Tạp chí Thông tin lý luận, (12)
69. Từ điển Tiếng Việt, 2000, Nxb Đà nẵng
70. Lê Thị Ngọc Trâm, Quyền hành pháp ở Việt Nam hiện nay (2017), Luận án
tiến sỹ Luật học, Học viện Khoa học xã hội
71. Đoàn Trọng Truyến (chủ biên) (1997), Hành chính học đại cương, NXB
Chính trị quốc gia, Hà Nội
72. Đào Trí Úc, Sửa đổi Hiến pháp 1992 và cơ chế kiểm soát quyền lực ở Việt
Nam, Tạp chí Cộng sản, số 844/2013.
73. Đào Trí Úc và Võ Khánh Vinh (đồng chủ biên), Giám sát và cơ chế giám sát
việc thực hiện quyền lực nhà nước ở nước ta hiện nay, Sách chuyên khảo
(2003)
74. Trịnh Thị Xuyến, Kiểm soát quyền lực nhà nước - Một số vấn đề lý luận và
thực tiễn ở Việt Nam hiện nay, Sách chuyên khảo, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà
Nội, 2009
75. Trần Quốc Việt, Tư tưởng, quan điểm kiểm soát quyền lực nhà nước ở Việt
Nam hiện nay, Tạp chí Quản lý Nhà nước số 198/2012
76. Trần Quốc Việt, Kiểm soát hoạt động bảo đảm quyền công dân của cơ quan
hành chính nhà nước ở Việt Nam hiện nay, Luận án tiến sỹ Quản lý công,
Học viện Hành chính quốc gia
77. Đinh Ngọc Vượng, Tam quyền phân lập và bộ máy nhà nước tư sản hiện đại,
Viện Thông tin Khoa học xã hội, Hà Nội, 1992
TÀI LIỆU NƯỚC NGOÀI
78. Bryan A. Garner (ed), Black’s Law Dictionary 9th ed (St. Paul, MN: Thomson
Reuteurs, 2009
79. Gareth Griffith (1998), Judicial Accountability
80. Keith Dowding, Encyclopedia of Power
- 166 -
81. Linda S. Whitton, Crossing state lines with durable power
82. Michal Bobek, The fortress of judicial independence and the mental
transitions of the Central European Judiciaries
83. Montesquieu, Tinh thần pháp luật, Nhà xuất bản giáo dục, Hà nội, 1996
84. J.Mark Ramseyer, The puzzling in dependence of courts: A comparative
approach
85. J.J.Rousseau, Bàn về khế ước xã hội
86. John Dewey (1859-1952), Nền cộng hòa và những vấn đề (The Public and Its
Problems, 1929), Lý thuyết giá trị (Theory of Valuation, 1939)
87. John Stuart Mill (1806-1873), Bàn về tự do, NXB Chính trị Quốc gia Hồ Chí Minh.
88. Paul Gewirtz (2004), Le gislative supervision of courtcases (giám sát của cơ
quan lập pháp đối với vụ án do tòa xét xử)
89. Ralph H.Gabriel, The Federalist Papers (Luận về Hiến pháp Hoa Kỳ)
90. Roderick Bell, David V. Edwards và R. Harison Wagner
91. Rod Hague and Martin Harrop (1993): A Comparative Introduction, 6thed
(New york: Palgrave Macmillan, 2010) at 319
92. Rod Hague and Martin Harrop, Political Science: A Comparative
Introduction, 6th ed (New york: Palgrave Macmillan,2010
93. Stephen B. Burbank và Harry Friedman (2002), Judicial Indpependence at
the Crossroads – An Interdisciplinary Approach
VĂN BẢN PHÁP LUẬT
94. Chính phủ, Nghị quyết liên tịch số 15/NQLT/CP-TANDTC-VKSNDTC
ngày 31/03/2010 ban hành Quy chế phối hợp công tác giữa Chính phủ với
TAND tối cao, VKSND tối cao
95. Quốc hội, Hiến pháp năm 1946, 1959, 1980, 1992 và 2013
96. Quốc hội, Luật Tổ chức Quốc hội
97. Quốc hội, Luật Tổ chức Chính phủ
- 167 -
98. Quốc hội, Luật Tổ chức Tòa án nhân dân
99. Quốc hội, Luật Tổ chức Viện kiểm sát nhân dân
100. Quốc hội, Luật Tổ chức Chính quyền địa phương