Luận án Quan hệ dòng họ của người Nùng Phàn Slình

VIỆN HÀN LÂM KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM HỌC VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI LÊ MINH ANH QUAN HỆ DÒNG HỌ CỦA NGƯỜI NÙNG PHÀN SLÌNH (Nghiên cứu ở huyện Cao Lộc, tỉnh Lạng Sơn) LUẬN ÁN TIẾN SĨ NHÂN HỌC HÀ NỘI, 2014 VIỆN HÀN LÂM KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM HỌC VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI LÊ MINH ANH QUAN HỆ DÒNG HỌ CỦA NGƯỜI NÙNG PHÀN SLÌNH (Nghiên cứu ở huyện Cao Lộc, tỉnh Lạng Sơn) LUẬN ÁN TIẾN SĨ NHÂN HỌC Mã số: 62 31 03 02 TẬP THỂ HƯỚNG DẪN KHOA HỌC: PGS.TS.VƯƠNG XUÂN TÌNH TS. TRẦN VĂN HÀ Hà N

doc195 trang | Chia sẻ: huong20 | Ngày: 14/01/2022 | Lượt xem: 413 | Lượt tải: 0download
Tóm tắt tài liệu Luận án Quan hệ dòng họ của người Nùng Phàn Slình, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
ội, 2014 LỜI CẢM ƠN Để hoàn thành luận án tiến sĩ: “Quan hệ dòng họ của người Nùng Phàn Slình (Nghiên cứu ở huyện Cao Lộc, tỉnh Lạng Sơn), tôi xin chân thành cảm ơn: Ban lãnh đạo Viện Dân tộc học, Viện Hàn lâm Khoa học Xã hội Việt Nam đã tạo điều kiện về thời gian, lịch công tác để tôi hoàn thành luận án. Các thầy cô giáo khoa Lịch sử, trường Đại học khoa học Xã hội và Nhân văn thuộc Đại học Quốc gia Hà Nội đã tận tình giảng dạy và giúp đỡ tôi hoàn thành các chuyên đề của chương trình Thạc sĩ. Khoa Dân tộc học thuộc Học viện Khoa học Xã hội đã giúp đỡ tôi trong quá trình học tập và hoàn thành các thủ tục của khóa đào tạo. Phòng nghiên cứu Lý luận và Chính sách dân tộc, Phòng nghiên cứu các dân tộc thuộc nhóm ngôn ngữ Tày –Thái và Kadai, Viện Dân tộc học đã tạo điều kiện thuận lợi nhất để tôi được học tập các Chương trình nghiên cứu sinh khóa (2007 – 2012) và hoàn thành bản Luận án này. Tôi cũng xin chân thành cảm ơn tới UBND các xã, cán bộ và nhân các thôn thuộc các xã được khảo sát của Luận án, đão tạo điều thuận lợi, giúp đỡ tận tình cho tôi trong suốt thời gian điền dã lấy tư liệu để viết Luận án từ năm 2007 đến 2013. Cảm ơn gia đình, bạn bè và đồng nghiệp đã khích lệ, động viên, tạo điều kiện tốt nhất cho tôi khi thực hiện luận án. Đặc biệt, tôi xin bày tỏ lòng biết ơn sâu sắc đến PGS.TS. Vương Xuân Tình, TS. Trần Văn Hà, đã tận tình chỉ bảo tôi trong việc định hướng nghiên cứu, tiếp cận lý thuyết và phương pháp nghiên cứu, thu thập tư liệu và hiện thực hóa các ý tưởng khoa học, để tôi hoàn thành bản Luận án này./. Hà Nội, tháng năm 2014 Nghiên cứu sinh Lê Minh Anh LỜI CAM ĐOAN Tôi xin cam đoan đây là công trình nghiên cứu khoa học của riêng tôi. Các số liệu điều tra là trung thực và chưa từng được ai công bố. Những quan điểm mà Luận án kế thừa của những tác giả đi trước đều ghi rõ xuất xứ và tên tác giả đã đưa ra luận điểm đó./. Hà Nội, tháng năm 2014 Tác giả viết Luận án NCS. Lê Minh Anh MỤC LỤC Trang Mở đầu 1 Chương 1: Tổng quan tài liệu, cơ sở lý thuyết phương pháp và địa bàn nghiên cứu 6 1.1.Tổng quan nghiên cứu về quan hệ dòng họ 6 1.2. Một số quan niệm về quan hệ dòng họ và lý thuyết nghiên cứu 16 1.3. Phương pháp nghiên cứu và phân tích 24 1.4.Khung phân tích của luận án 27 1.5. Khái quát về tộc người và điểm nghiên cứu 28 Chương 2: Dòng họ của người Nùng Phàn Slình ở Cao Lộc 36 2.1. Quan niệm về dòng họ của người Nùng Phàn Slình 36 2.2. Người Nùng Phàn Slình với ba mối quan hệ dòng họ 39 2.3. Cấu trúc dòng họ của người Nùng Phàn Slình 41 2.4. Đặc điểm dòng họ của người Nùng Phàn Slình ở huyện Cao Lộc 44 2.5. Vai trò cá nhân trong dòng họ của người Nùng Phàn Slình 49 Chương 3: Quan hệ dòng họ trong đời sống tín ngưỡng 55 3.1. Quan niệm về tín ngưỡng của người Nùng Phàn Slình 56 3.2. Quan hệ dòng họ qua tang ma 58 3.3. Quan hệ dòng họ trong cưới xin 64 3.4. Quan hệ dòng họ trong lễ dựng và về nhà mới 70 3.5. Quan hệ dòng họ qua một số lễ nghi trong gia đình 71 3.6. Quan hệ dòng họ qua lễ tết cổ truyền 74 Chương 4: Quan hệ dòng họ trong hoạt động kinh tế 77 4.1. Quan hệ dòng họ trong sản xuất nông nghiệp 77 4.2. Quan hệ dòng họ qua tương trợ kinh tế 81 Chương 5: Quan hệ dòng họ với hệ thống chính trị cơ sở 104 5.1. Về hệ thống chính trị cơ sở 104 5.2. Quan hệ dòng họ trong hệ thống chính trị cấp xã và cấp thôn 106 Chương 6: Kết quả và bàn luận 129 6.1. Về tổ chức dòng họ 129 6.2. Về vai trò, chức năng của quan hệ dòng họ 132 6.3. Quan dòng họ với quyền lực ở hệ thống chính trị cấp cơ sở hiện nay 136 6.4. Nhìn lại việc áp dụng thuyết Chức năng và thuyết Vốn xã hội trong nghiên cứu 141 Kết luận 147 Danh mục các công trình đã công bố liên quan đến luận án 150 Tài liệu tham khảo 151 Phụ lục 165 DANH MỤC BẢNG Trang Bảng 2.1: Số hộ gia đình thuộc các dòng họ ở điểm nghiên cứu 38 Bảng 2.2: Hệ thống từ thân tộc của người Nùng Phàn Slình ở Cao Lộc 41 Bảng số 3.1: Thống kê phụ nữ xã Thanh Lòa lấy chồng qua biên giới trong vòng 20 năm. 68 Bảng 4.1: Trợ giúp trong lễ lập bàn thờ mụ của gia đình ông Lương Văn Báo, thôn Nà Pheo, xã Thanh Lòa. 83 Bảng 4.2: Trợ giúp trong đám cưới của gia đình ông Lăng Văn Khái 88 Bảng 4.3: Trợ giúp trong đám cưới của gia đình ông Lương Văn Tứ 90 Bảng 4.4: Trợ giúp trong tang ma của gia đình ông Hoàng Văn Diện 99 Bảng 5.1: Đội ngũ cán bộ cấp xã của xã Thụy Hùng 106 Bảng 5.2: Đội ngũ cán bộ cấp xã của xã Gia Cát 109 Bảng 5.3: Đội ngũ cán bộ cấp xã của xã Thanh Lòa 111 Lược đồ 5.1: Quan hệ dòng họ với Bí thư Đảng ủy trong hệ thống chính trị xã Gia Cát 114 Lược đồ 5.2: Quan hệ dòng họ của cán bộ xã Thanh Lòa với Chủ tịch UBND xã 115 Lược đồ 5.3: Quan hệ dòng họ giữa các chức danh trong hệ thống chính trị cơ sở xã Thanh Lòa 117 Bảng 5.4: Đội ngũ cán bộ thôn Sơn Hồng (xã Gia Cát) 119 Bảng 5.5: Đội ngũ cán bộ thôn Nà Pheo (xã Thanh Lòa) 120 Bảng 5.6: Đội ngũ cán bộ thôn Pò Nghiều (xã Thụy Hùng) 121 Bảng 6.7: Danh sách hộ nghèo và cận nghèo xã Thanh Lòa năm 2013 126 BẢNG KÊ CHỮ VIẾT TẮT TRONG LUẬN ÁN BCH: Ban chấp hành CB: Cán bộ CNH - HĐH: Công nghiệp hóa, hiện đại hóa ĐHQGHN: Đại học Quốc gia Hà Nội ĐHKHXH &NV: Đại học Khoa học Xã hội và Nhân Văn ĐTH: Đô thị hóa MTTQ: Mặt trận tổ quốc Nxb: Nhà xuất bản VHTT: Văn hóa thông tin UBND: Ủy ban nhân dân VHXH: Văn hóa xã hội KTNN: Kinh tế nông nghiệp NCS: Nghiên cứu sinh MỞ ĐẦU TÍNH CẤP THIẾT CỦA ĐỀ TÀI Dòng họ là một thành tố trong văn hóa của tộc người và cộng đồng xã hội, vì vậy, nó có vai trò quan trọng trong việc bảo tồn các giá trị văn hoá ấy. Trong một xã hội đang phát triển, nếu làng là cơ sở của văn hoá dân tộc thì dòng họ là pháo đài kiên cố của cơ sở đó. Tại Việt Nam, quan niệm người trong dòng họ với nghĩa “một giọt máu đào hơn ao nước lã” hay “một người làm quan cả họ được nhờ” không chỉ ăn sâu trong tiềm thức dân gian làng xã người Kinh (Việt) tự bao đời nay, mà cũng phổ biến ở nhiều dân tộc thiểu số khác. Dẫu quan hệ dòng họ có những mặt trái, có thể làm mềm yếu các quan hệ nhà nước, pháp quyền, nhưng đó lại là hạt nhân của đạo lý “tối lửa tắt đèn có nhau”, “chị ngã em nâng”... Nghiên cứu về dòng họ và quan hệ dòng họ trong xã hội Việt Nam truyền thống và đương đại từ lâu đã thu hút sự quan tâm của giới nghiên cứu thuộc nhiều lĩnh vực sử học, dân tộc học/nhân học, xã hội học, văn hoá học,... Các công trình nghiên cứu khoa học về các vấn đề đó không chỉ giúp chúng ta nhận thức sâu sắc hơn quá trình hình thành và phát triển của dòng họ mà còn góp phần tìm hiểu những vấn đề lịch sử và văn hoá dân tộc. Ở xã hội hiện đại, nhiều giá trị văn hóa, đạo đức truyền thống đã và đang bị biến dạng, thậm chí bị mai một. Sự phục hưng văn hóa dòng họ theo hướng tích cực đã đóng góp rất nhiều vào việc duy trì và bảo lưu những giá trị văn hóa, đạo đức đặc sắc mà thế hệ đi trước đã dày công xây dựng và vun đắp. Bằng chứng là, những vấn đề liên quan đến dòng họ và quan hệ dòng họ được nghiên cứu thời gian qua đã có những đóng góp không nhỏ đối với việc xây dựng quy ước thôn bản văn hóa ở địa bàn nông thôn. Vì vậy, việc nghiên cứu về dòng họ và quan hệ dòng họ góp phần tạo cơ sở khoa học cho việc xây dựng những chính sách thiết thực đối với vấn đề phát triển Nông thôn - Nông nghiệp - Nông dân nước ta trong bối cảnh đẩy mạnh sự nghiệp Công nghiệp hoá, Hiện đại hoá (CNH - HĐH). Tuy nhiên, việc nghiên cứu về quan hệ dòng họ ở nước ta trong thời gian qua cũng còn một số hạn chế. Điểm hạn chế lớn nhất là trong nghiên cứu có xu hướng giản lược hóa mối quan hệ dòng họ, và thường chỉ nghiên cứu quan hệ của một bề dòng họ, tức dòng họ bên bố - nếu nghiên cứu cư dân theo chế độ phụ hệ, hoặc dòng họ bên mẹ - theo chế độ mẫu hệ. Trên thực tế, hầu như bất cứ tộc người hay nhóm xã hội nào, quan hệ dòng họ đều phong phú hơn thế, thường bao gồm 3 họ, đó là: họ bên bố, họ bên mẹ và họ bên vợ/chồng. Tùy theo truyền thống của chế độ phụ hệ hay mẫu hệ mà vai trò của dòng họ bên bố hay bên mẹ lớn hơn, song một điều không thể phủ nhận, mối quan hệ dòng họ của mỗi cá nhân lúc trưởng thành (có vợ/chồng), là đều có mối quan hệ dòng họ ba bên như vậy. Nghiên cứu theo tiếp cận này, đáng chú ý là của tác giả Cầm Trọng khi xem xét quan hệ dòng họ của người Thái, song chủ yếu ông phân tích sâu về cấu trúc, và bước đầu có đề cập đến chức năng chung, mà chưa có nghiên cứu thực nghiệm. Hiện nay, trong bối cảnh đổi mới và hội nhập đang diễn ra mạnh mẽ ở Việt Nam hiện nay, vai trò và chức năng của quan hệ dòng họ ở cả người Kinh (Việt) và các tộc người thiểu số cũng đang có những đổi thay. Sự thay đổi này được biểu hiện ở liên kết dòng họ, cơ chế vận hành trong các tổ chức dòng họ, trong đó, vai trò của quan hệ dòng họ ở đời sống xã hội vẫn rất quan trọng, nhưng chưa được quan tâm nghiên cứu thấu đáo. Người Nùng ở Việt Nam sinh sống chủ yếu tại các tỉnh Cao Bằng và Lạng Sơn, gồm nhiều nhóm địa phương, mỗi nhóm có một số đặc điểm văn hóa riêng, và việc nghiên cứu quan hệ dòng họ của người Nùng nói chung trong luận án là điều khó có thể thực hiện. Bởi vậy, chúng tôi chỉ lựa chọn một nhóm địa phương của người Nùng trong địa bàn một huyện để khảo sát. Dựa trên kinh nghiệm thực tiễn và qua tổng quan tài liệu, chúng tôi đã lựa chọn nhóm Nùng Phàn Slình ở huyện Cao Lộc, tỉnh Lạng Sơn làm đối tượng nghiên cứu cụ thể. Đây là một nhóm Nùng có dân số đông nhất trong số các nhóm Nùng của huyện, cư trú chủ yếu ở các xã vùng biên, lại có cả mối quan hệ dòng họ xuyên biên giới. Bước đầu khảo sát để đi tới quyết định lựa chọn nhóm địa phương và địa bàn nghiên cứu, chúng tôi còn được biết, tính cố kết của người Nùng Phàn Slình mạnh hơn một số nhóm Nùng khác trong vùng. Hơn nữa, để phù hợp với nhiệm vụ công tác ở Phòng Nghiên cứu các dân tộc nhóm ngôn ngữ Tày - Thái và Ka đai thuộc Viện Dân tộc học, và phù hợp với trải nghiệm nghiên cứu của cá nhân, tôi đã quyết định chọn hướng nghiên cứu về quan hệ dòng họ của người Nùng làm luận án tiến sĩ nhân học văn hóa. Nghiên cứu về quan hệ dòng họ của người Nùng Phàn Slình, trên cơ sở kế thừa, cập nhật những kết quả nghiên cứu trước đây về những vấn đề liên quan đến quan hệ dòng họ ở Việt Nam, và ở thế giới - song còn ở mức độ hạn chế, bởi khó khăn về tiếp cận tài liệu. Mặt khác, tôi cố gắng khắc phục thiếu sót về sự giản lược trong xác định quan hệ dòng họ của một số công trình nghiên cứu trước về lĩnh vực này. Trên cơ sở ý nghĩa khoa học và thực tiễn của vấn đề nghiên cứu nêu trên, tôi đã quyết định lựa chọn: “Quan hệ dòng họ của người Nùng Phàn Slình (Nghiên cứu ở huyện Cao Lộc, tỉnh Lạng Sơn)” làm đề tài luận án tiến sĩ nhân học văn hóa của mình. 2. MỤC TIÊU NGHIÊN CỨU Luận án được thực hiện nhằm đạt tới các mục tiêu sau: Tìm hiểu cấu trúc quan hệ dòng họ của người Nùng Phàn Slình ở huyện Cao Lộc, tỉnh Lạng Sơn; Xem xét chức năng của quan hệ dòng họ đối với đời sống cá nhân, gia đình và sự liên kết cộng đồng tộc người hiện nay; Tìm hiểu vai trò của quan hệ dòng họ và đề xuất khuyến nghị nhằm phát huy yếu tố tích cực, giảm thiểu yếu tố tiêu cực của quan hệ dòng họ ở người Nùng Phàn Slình trong xây dựng nông thôn mới. 3. ĐỐI TƯỢNG, PHẠM VI VÀ ĐIỂM NGHIÊN CỨU 3.1. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu Luận án tập trung nghiên cứu những hoạt động liên quan đến quan hệ dòng họ và mối quan hệ của cá nhân, gia đình - dòng họ trong các lĩnh vực: tín ngưỡng, tương trợ, hợp tác kinh tế, giáo dục, văn hóa Đề tài tập trung nghiên cứu mối quan hệ dòng họ của người Nùng Phàn Slình ở huyện Cao Lộc, tỉnh Lạng Sơn đang diễn ra hiện nay và trong một số trường hợp, có so sánh với thời kỳ trước khi tiến hành công cuộc Đổi mới (1986). 3.2. Địa điểm và mẫu nghiên cứu Chúng tôi chọn ba điểm nghiên cứu thuộc ba xã khác nhau về địa lý, đặc trưng kinh tế để tiến hành khảo sát thu thập dữ liệu. Điểm thứ nhất là thôn Sơn Hồng thuộc xã Gia Cát Do một số trình bày và phân tích trong luận án liên quan đến những vấn đề nhạy cảm của cá nhân và tập thể tại nơi nghiên cứu nên chúng tôi đã thay đổi tên người hoặc viết tắt. Điều này cũng phù hợp với đạo đức nghề nghiệp trong dân tộc học/ nhân học. , là một thôn thuần về hoạt động kinh tế nông nghiệp điển hình của người Nùng Phàn Slình và không có hoạt động giao thương với biên giới. Điểm thứ hai là thôn Pò Nghiều thuộc xã Thụy Hùng với đặc trưng là một địa bàn hoạt động kinh tế thương mại buôn bán qua biên giới và kinh tế nông nghiệp, có nhiều hộ gia đình sống dọc theo đường cao tốc Hà Nội - Lạng Sơn. Điểm thứ ba là thôn Nà Pheo thuộc xã Thanh Lòa, là một thôn giáp biên, thường xuyên có số lượng lao động làm thuê qua biên giới theo mùa vụ và có những mối quan hệ với người đồng tộc ở bên kia biên giới. 4. CÂU HỎI VÀ GIẢ THUYẾT NGHIÊN CỨU Nhằm giải quyết những mục tiêu mà luận án đã đặt ra, chúng tôi nêu lên một số câu hỏi và giả thuyết nghiên cứu sau đây: 1. Cấu trúc dòng họ và quan hệ dòng họ của người Nùng Phàn Slình tại địa bàn nghiên cứu đang vận hành như thế nào? 2. Chức năng của quan hệ dòng họ của người Nùng Phàn Slình trong bối cảnh kinh tế thị trường và hội nhập hiện nay ra sao? 3. Những tác động tích cực và tiêu cực của quan hệ dòng họ đến sự phát triển kinh tế - xã hội ở địa phương như thế nào? 4. Giả thuyết rằng, trong bối cảnh hiện tại quan hệ dòng họ của người Nùng Phàn Slình tại các điểm nghiên cứu có vai trò đậm nét trong hoạt động tín ngưỡng, nhưng mờ nhạt hơn trong hoạt động kinh tế và vẫn chi phối hệ thống chính trị cơ sở. 5. ĐÓNG GÓP CỦA LUẬN ÁN Luận án được thực hiện sẽ có những đóng góp chủ yếu sau: Trên cơ sở nghiên cứu ba chiều của quan hệ dòng họ, luận án trình bày một cách toàn diện về cấu trúc và mối quan hệ dòng họ người Nùng Phàn Slình ở huyện vùng cao biên giới tỉnh Lạng Sơn trong bối cảnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa và hội nhập của nước ta; Góp phần làm rõ vai trò, ảnh hưởng của quan hệ dòng họ đến phát triển kinh tế - xã hội và quan hệ tộc người của người Nùng Phàn Slình tại địa bàn nghiên cứu; Xây dựng cơ sở khoa học và bước đầu đưa ra khuyến nghị nhằm phát huy yếu tố tích cực, giảm thiểu yếu tố tiêu cực của quan hệ dòng họ ở người Nùng Phàn Slình trong xây dựng nông thôn mới hiện nay. 6. NGUỒN TÀI LIỆU CỦA LUẬN ÁN Để hoàn thành luận án này, bên cạnh việc kế thừa các nguồn tài liệu đã công bố về dòng họ và quan hệ dòng họ, đặc biệt là những công trình công bố về dân tộc Nùng, trong đó có nhóm tộc người Nùng Phàn Slình của các học giả trong và ngoài nước từ trước đến nay, chúng tôi còn sử dụng nguồn dữ liệu từ các ban, ngành ở cấp tỉnh, huyện, xã. Tuy nhiên, nguồn tài liệu điền dã do chính nghiên cứu sinh thu thập tại thực địa, các điểm nghiên cứu trong suốt thời gian từ năm 2007 - 2013 đóng vai trò then chốt cho việc hoàn thành luận án này. Cũng cần nói thêm rằng, trong quá trình thu thập nguồn dữ liệu, chúng tôi đã gặp không ít khó khăn, hầu như không có công trình nghiên cứu nào về quan hệ dòng họ của người Nùng Phàn Slình xuyên biên giới, trong khi nghiên cứu sinh chưa có điều kiện đi sâu tìm hiểu nhóm đồng tộc của họ bên kia biên giới, đặc biệt là trong những năm gần đây. 7. BỐ CỤC CỦA LUẬN ÁN Luận án ngoài phần Mở đầu, Kết luận, Tài liệu tham khảo, Phụ lục, phần nội dung chính được trình bày trong 6 chương: Chương 1: Tổng quan tài liệu, cơ sở lý thuyết, phương pháp và khái quát địa bàn nghiên cứu. Chương 2: Dòng họ của người Nùng Phàn Slình ở huyện Cao Lộc Chương 3: Quan hệ dòng họ trong đời sống tín ngưỡng Chương 4: Quan hệ dòng họ trong hoạt động kinh tế và tương trợ Chương 5: Quan hệ dòng họ với hệ thống chính trị cơ sở Chương 6: Kết quả và bàn luận CHƯƠNG 1 TỔNG QUAN TÀI LIỆU, CƠ SỞ LÝ THUYẾT, PHƯƠNG PHÁP VÀ KHÁI QUÁT ĐỊA BÀN NGHIÊN CỨU 1.1. Tổng quan nghiên cứu về quan hệ dòng họ Ở Việt Nam, dòng họ là một thiết chế xã hội quan trọng, trực tiếp góp phần tạo nên kết cấu làng xã và rộng hơn nữa là đất nước, bởi gia đình - họ hàng - làng, nước được coi như là sự tổng hòa của các mối quan hệ văn hóa - xã hội - chính trị - luật tục trong xã hội truyền thống. Việc nghiên cứu về dòng họ và quan hệ dòng họ có vị trí quan trọng và đã có khá nhiều công trình nghiên cứu từ các góc độ dân tộc học/nhân học, sử học, xã hội học, văn hóa học, Tuy nhiên, trong khuôn khổ một luận án tiến sỹ nhân học văn hóa, chúng tôi chỉ tập trung vào việc tổng quan những công trình nghiên cứu về dòng họ thuộc lĩnh vực dân tộc học/nhân học là chính, sau nữa là những nghiên cứu về lĩnh vực này của các khoa học gần gũi về đối tượng. 1.1.1. Các nghiên cứu về quan hệ dòng họ trên thế giới và quan hệ dòng họ của người Việt Có thể nói rằng, nghiên cứu dòng họ là nền tảng cơ bản để tìm hiểu về quan hệ xã hội của tộc người trong bất cứ xã hội nào, vì vậy, đã có nhiều nhà nghiên cứu nước ngoài như Maine, McLennan và Morgan, Lévi-Strauss và Radcliffe-Brown, Grant Evans... quan tâm đến. Lévi-Strauss đã xây dựng một lý thuyết về cấu trúc thân tộc, trong đó hạt nhân là vấn đề “lớp hôn nhân”. Đóng góp lớn nhất của ông chính là phát hiện và phân tích sâu sắc về quy tắc “cấm đoán loạn luân” và cũng là người đưa ra nhiều luận giải về chế độ mẫu hệ, phụ hệ. Theo ông, hệ thống thân tộc hôn nhân là một hệ thống trao đổi, trong đó, người chủ mưu là đàn ông, đàn bà là những vật được trao đổi cho nên luôn luôn thụ động. Còn Radcliffe-Brown, từ những trải nghiệm, khảo cứu của mình đã cho rằng, bản chất của một hiện tượng thân tộc hiểu rộng là sự thành lập những đơn vị có cấu trúc chặt chẽ và trường tồn trong thời gian, nghĩa là có trước những cá nhân thành viên của những đơn vị ấy và tồn tại sau khi những cá nhân ấy đã chết [57]. Trong khi đó, Grant Evans lại nêu đặc điểm cụ thể hơn về chức năng của dòng họ ở châu Á trong tác phẩm Bức khảm văn hóa châu Á là những thực thể chính trị có thể hoặc không có thể phát triển tùy theo tình thế chính trị và kinh tế của các thành viên có khả năng trong dòng họ [37]. Ở Việt Nam, dòng họ cũng được đề cập từ khá sớm. Vào thời phong kiến, những ghi chép về dòng họ chủ yếu được tìm thấy trong các thư tịch cổ Trung Quốc, các bộ sử như Đại Việt sử ký toàn thư, Khâm định Việt sử thông giám cương mục, Đại Nam thực lục... Các bộ sách này chủ yếu mới chỉ có tính chất hệ thống lại, mô tả về phả hệ của các dòng họ chứ chưa đi sâu tìm hiểu về cấu trúc, nội dung, ảnh hưởng của dòng họ. Trước năm 1945, đã xuất hiện nhiều công trình nghiên cứu có giá trị tham khảo như của Phan Kế Bính, Đào Duy Anh, Pierre Gourou Lần đầu tiên, trong Người nông dân châu thổ Bắc Kỳ, Pierre Gourou đã tiến hành điều tra, thống kê tên các dòng họ ở vùng châu thổ Sông Hồng (202 họ) và bước đầu có những nhận xét sơ bộ về tên họ và sự phân bố tại các làng xã, vùng miền [41]. Từ năm 1945 đến nay, đã có nhiều công trình nghiên cứu về dòng họ được xuất bản, trong số đó phải kể đến nghiên cứu của nhà dân tộc học Trần Từ. Ông cho rằng, dòng họ đóng một vai trò nhất định trong lịch sử xây dựng làng mới: những người đầu tiên bỏ quê đi lập làng mới thường là họ hàng với nhau, thổ cư các gia đình thành viên thường áp sát nhau và chiếm vị trí trung tâm trên khu đất mới. Dòng họ còn đóng vai trò “một chỗ dựa tinh thần, và đôi khi chính trị nữa” (chứ “không phải một viện trợ vật chất”) cho các thành viên trong làng Việt cổ truyền vốn chằng chịt vô vàn mâu thuẫn [115]. Từ góc nhìn xã hội học, Trịnh Thị Quang lại cố gắng tìm hiểu vai trò của dòng họ và quan hệ dòng họ mà tác giả gọi là “tổ chức thân tộc”. Tác giả cho rằng, quan hệ thân tộc vốn thường đảm nhận ba chức năng: là một cộng đồng pháp lý, một cộng đồng kinh tế, cộng đồng sinh sống, đạo đức và tôn giáo; và chú ý xem xét những chức năng đó đã và đang biến đổi như thế nào [88]. Dựa trên sự tiếp cận đồng đại và lịch đại, Ngô Thị Chính đã phân tích hệ thống thân tộc người Việt truyền thống qua các chiều cạnh của ngôn ngữ cũng như qua các tài liệu điền dã dân tộc học để đưa ra một bức tranh khá đầy đủ về hệ thống thân tộc phụ hệ truyền thống của người Việt [23]. Từ góc nhìn văn hóa học, Giáo sư Trần Quốc Vượng đã có nhận định tổng quan về thân tộc, dòng họ của người Việt rằng, một người Việt Nam bình thường có ba họ: họ bố, họ mẹ, họ vợ chồng [121]. Còn Giáo sư Phan Văn Các cho rằng, dòng họ là một hiện tượng lịch sử - xã hội đặc biệt mang tính phổ quát của nhân loại [19]. Giáo sư Đặng Nghiêm Vạn cho rằng “họ” có thể được hiểu theo ba nghĩa: (1) Là những người cùng mang một tên họ, nhưng không thể chứng minh có chung một nguồn gốc; (2) Là những thành viên mang cùng tên họ, có cùng một nguồn gốc; (3) Là những người cùng thuộc về một ông tổ 5 đời (chi họ) [117]. Từ góc nhìn cấu trúc luận, Giáo sư Phan Đại Doãn cho rằng, dòng họ của người Việt, có một thể chế phức tạp và chặt chẽ thường được gọi là thể chế tông pháp. Đó là những quy định về cách ứng xử giữa con người với con người cùng một tổ tiên, trước hết là các công việc quan, tang, hôn, tế, tức là các quan hệ trên cơ sở huyết thống về các mặt. Quan hệ dòng họ với người Việt thực sự có ý nghĩa quan trọng trong đời sống hàng ngày và có ý nghĩa là điểm tựa thường xuyên của cuộc sống con người [32, tr. 4-6]. Dựa trên những nghiên cứu kết hợp giữa xã hội học và sử học, hai nhà nghiên cứu Phan Đại Doãn và Mai Văn Hai đã chỉ rõ vai trò của dòng họ trong cộng đồng làng xã với tư cách là một đơn vị kinh tế, một bộ phận của tổ chức quyền lực và quản lý làng xã, một thiết chế trong đời sống văn hóa tín ngưỡng [45]. Những năm gần đây, trong xu thế phục hưng, chấn hưng dòng họ, một số hội thảo khoa học được tổ chức nhằm thảo luận, trao đổi về vai trò, ảnh hưởng của dòng họ, văn hóa dòng họ trong đời sống xã hội hoặc lịch sử của một số dòng họ, gia đình như Hội thảo “Văn hóa các dòng họ ở Nghệ An trong sự nghiệp thực hiện chiến lược con người ở Việt Nam đầu thế kỷ XXI”, “Văn hóa dòng họ ở Thái Bình” [93]... Theo hướng đó, đã xuất hiện một số luận án, luận văn viết về một hoặc nhiều dòng họ trong một làng, một tỉnh như Dòng họ và đời sống làng xã ở đồng bằng Bắc Bộ qua tư liệu ở một số xã thuộc huyện Thạch Thất (Hà Tây cũ) [98], Văn hóa dòng họ Nguyễn Quý ở làng Đại Mỗ (xã Đại Mỗ, huyện Từ Liêm, Hà Nội [3], Dòng họ và quan hệ dòng họ của người Việt ở làng Hoành Nha, huyện Giao Thủy, tỉnh Nam Định [4]... Các công trình đã cho thấy thực trạng và xu hướng vận động, biến đổi của dòng họ, quan hệ dòng họ tại các địa phương khác nhau, từ đó bước đầu làm rõ vai trò của quan hệ dòng họ cả về mặt tích cực lẫn hạn chế, trong mọi lĩnh vực khác nhau của đời sống xã hội. Tóm lại, vấn đề dòng họ và quan hệ dòng họ đã được nhiều nhà nghiên cứu quan tâm từ các góc độ tiếp cận khác nhau. Trước hết, dòng họ người Việt là quan hệ huyết thống, có một mối quan hệ tín ngưỡng và kinh tế nhất định nhưng không cùng chung một ngôi nhà, không ăn chung một bếp và các gia đình duy trì quan hệ ngang nhau; Thứ hai, phần lớn các nghiên cứu đều tập trung nghiên cứu cấu trúc và chức năng của dòng họ, nhất là dòng họ thuộc bên nội (phụ hệ); Thứ ba, nghiên cứu những yếu tố liên quan đến dòng họ quan hệ lãnh thổ, quan hệ nghề nghiệp, quan hệ tín ngưỡng, thậm chí còn liên quan đến vấn đề văn hóa, khoa cử, quyền lực; Thứ tư là, xu thế phục hưng dòng họ Tuy nhiên chưa có nhiều công trình đi sâu phân tích sự tác động, ảnh hưởng của các nhân tố khách quan (địa lý tự nhiên, cơ sở kinh tế-xã hội, mặt bằng văn hóa, tín ngưỡng tôn giáo, sự cố kết dòng họ, dòng họ trong mối quan hệ với quyền lực) đến quan hệ dòng họ cũng như sự phát triển, vai trò và vị trí của nó trong đời sống của cộng đồng cư dân, sự so sánh những nội dung đó giữa các dòng họ không chỉ trong cộng đồng người Việt mà giữa các tộc người trên phạm vi lãnh thổ quốc gia Việt Nam. Vì vậy, chúng tôi cho rằng, cần phải tiếp tục nghiên cứu dòng họ ở tất cả các chiều cạnh một cách có hệ thống và phải đặt dòng họ thành một trong những đối tượng chủ yếu để tìm hiểu một cách thấu đáo trong lĩnh vực dân tộc học/nhân học ở nông thôn nước ta trong bối cảnh phát triển và hội nhập là công việc cần thiết. 1.1.2. Nghiên cứu về quan hệ dòng họ của các tộc người thiểu số ở Việt Nam và người Nùng Phàn Slình 1.1.2.1. Các công trình chuyên khảo về quan hệ dòng họ Trong số những công trình nghiên cứu về dòng họ của các dân tộc thiểu số vùng miền núi phía Bắc, phần lớn tập trung vào các dân tộc có số lượng cư dân lớn như Mường, Thái, Hmông, Tày,... Để có thể có sự phân biệt về cấu trúc dòng họ giữa người Nùng, cụ thể là người Nùng Phàn Slình với các dân tộc thiểu số khác, chúng ta hãy điểm lại các công trình đã được các nhà dân tộc học/nhân học trong và ngoài nước đi sâu nghiên cứu kỹ lưỡng về một số vấn đề liên quan. Trước hết phải nói rằng, trong những dân tộc thiểu số ở Việt Nam, vấn đề dòng họ của người Hmông được các nhà nghiên cứu ở nước ngoài đặc biệt quan tâm tìm hiểu. Liên quan đến lĩnh vực này là các công trình của các nhà nghiên cứu như Nicholas Tapp [134]; Prasit Leep Cha [135]... Song, những tác giả này chỉ nhấn mạnh đến chiều cạnh lịch sử quan hệ dòng họ hay cấu trúc xã hội và hệ thống dòng họ người Hmông có nguồn gốc từ Trung Quốc, vào khoảng sau thời nhà Tống (960-1279). Ở Việt Nam, khi tìm hiểu về dòng họ và quan hệ dòng họ của dân tộc Hmông, hầu hết các nhà nghiên cứu đều cho rằng, thiết chế dòng họ được coi là điểm cốt lõi trong xã hội người Hmông. Vương Duy Quang đã nhấn mạnh đến sự cố kết của dòng họ của người Hmông ở ba bình diện cơ bản: cộng đồng cư trú, cộng đồng ý thức và tình cảm, cộng đồng tôn giáo và lễ nghi. Theo tác giả, dòng họ của người Hmông có 3 cấp độ: Thứ nhất, dòng họ bao gồm tất cả những người theo trực hệ và bàng hệ tính từ chắt của ego đến ông tổ của ego; Thứ hai, từ cộng đồng trôngs lại phân thành chêl (cành); Thứ ba, ở cấp độ nhỏ hẹp hơn nữa, người Hmông có thuật ngữ phangl (mái), là đơn vị nhỏ nhất trong các cấp độ cấu trúc của cộng đồng dòng họ người Hmông [86]. Bàn về thiết chế dòng họ người Hmông, Phạm Quang Hoan cho rằng, dòng họ của người Hmông ở Việt Nam chứa đựng hai phạm trù cố kết: cố kết rộng (bao gồm tất cả những người cùng dòng họ không phân biệt người đó cư trú ở đâu) và cố kết hẹp (mỗi dòng họ được xem như là một đơn vị cố kết cộng đồng huyết thống theo dòng cha) [52]. Tác giả Hồ Ly Giang qua tìm hiểu quan hệ dòng họ của người Hmông ở Sơn La, cho thấy những đặc điểm, vai trò, vị trí của dòng họ trong quản lý xã hội hiện nay là rất quan trọng [37]. Đề cập đến dòng họ và quan hệ dòng họ của người Thái có các tác giả như Cầm Trọng, Phan Chí Thành, Đỗ Thúy Bình, Vi An Đặc biệt là, khi nghiên cứu về người Thái ở vùng Tây Bắc, Cầm Trọng đã có một cách tiếp cận đa diện về dòng họ và quan hệ dòng họ. Ông cho rằng, ở ngay trong một bản Thái cũng có khá đầy đủ mối quan hệ: ải nọng, lúng ta, nhính xao; ba họ này có mối quan hệ mật thiết lẫn nhau, thể hiện không chỉ trên góc độ huyết thống mà còn cả những quan hệ khác xoay quanh nó, đó là không phải anh cũng là em; chẳng phải họ bên vợ cũng là họ bên mẹ, bên bà; không phải họ bên nội cũng là họ nhà dâu gia [112]. Vốn xuất thân từ một dòng họ lớn là họ Cầm của người Thái ở Tây Bắc, dựa trên cơ sở lý thuyết về tộc người, Cầm Trọng đã làm rõ được mối quan hệ dòng họ trong cộng đồng cư dân của dân tộc này, nhất là quan hệ giữa 3 nhóm (“ba họ”) trong cộng đồng cư dân cùng với những nhân tố khách quan và chủ quan tác động đến mối quan hệ đó. Đây là đóng góp đáng ghi nhận về sự tìm tòi đối với dòng họ và các quan hệ dòng họ của người Thái ở Tây Bắc Việt Nam trong lĩnh vực dân tộc học. Có thể nói rằng, cho đến hiện nay chưa một công trình nào có phát hiện mới và khác hơn về lĩnh vực này đối với người Thái Tây Bắc nước ta nói riêng của Cầm Trọng. Khi nghiên cứu cộng đồng người Thái ở vùng đường 7 - Nghệ Tĩnh (nay là tỉnh Nghệ An), Vi An cho thấy có sự khác nhau của mối quan hệ giữa 3 nhóm dòng họ “ải nọng - lúng ta - nhính xao” ở chỗ, mặc dù dòng họ vẫn tồn tại nhưng có sự thay đổi sâu sắc bên cạnh sự bảo lưu đậm nhạt khác nhau giữa các nhóm Thái. Sự khác biệt trong quan niệm, luật tục liên quan đến dòng họ và mối quan hệ giữa 3 nhóm dòng họ trên trong các nhóm Thái ở vùng đường 7 với nhóm Thái Quỳ Châu và Thái Tây Bắc có thể giải thích bằng sự du cư đến vùng này của nhóm Thái bằng những con đường và thời gian khác nhau. Do đó, những tục lệ liên quan đến dòng họ không còn bền vững [1]. Còn khi tìm hiểu về sự tồn tại của một tổ chức tông tộc của người Thái cũng ở Nghệ Tĩnh (thuộc huyện Quỳ Châu), Phan Chí Thành cho rằng, trong tổ chức tông tộc họ “quài xê”, đáng lưu ý có trưởng họ và hội nghị họ. Trưởng họ là người đứng đầu tông tộc, được thừa kế theo tập quán pháp chứ không do bầu, phải là con trai trưởng của ngành trưởng. Trưởng họ có quyền triệu tập hội nghị tông tộc để giải quyết những công việc chung có liên quan đến các gia đình trong tông tộc. Hội nghị tông tộc là một sinh hoạt quan trọng thể hiện sự thống nhất về nhiều mặt của tông tộc nhất là về mặt xã hội [96]. Đồng nhất với những ý kiến trên, Đỗ Thúy Bình cho rằng, mỗi bản người Thái thường có một hoặc hai họ lớn được coi là họ gốc, trong đó các thành viên trong họ lớn hợp thành một nhóm thân tộc gọi là ải nọng. Xung quanh họ này có nhiều họ khác có mối quan hệ dâu gia với họ lớn. Ở người Thái Tây Bắc, nhóm những gia đình thân tộc này có tên gọi chung là đẳm, còn ở người Thái vùng Thanh Hóa - Nghệ Tĩnh có tên là quài xê. Biểu hiện tập trung nhất về mối quan hệ tinh thần trong dòng họ là ý thức về ông tổ chung, tiếp đó là các nghi lễ tôn giáo chung của dòng họ [17]. Ngoài ra, còn có một số công trình nghiên cứu về dòng họ và quan hệ dòng họ của các dân tộc thiểu số khác như: người Mường, người Pa cô, người Ê-đê, người Hrê, người Tà-ôi, Cơ-tu và Vân Kiều (Bru-Vân Kiều), người Triêng, người Khơ-me Nguyễn Văn Tiệp cho biết, đối với người Pa cô, vấn đề dòng họ đến nay còn đóng một vai trò quan trọng trong đời sống hôn nhân, gia đình, tôn giáo và tín ngưỡng. Với người Pa cô, bên nội, bên ngoại được tách bạch rõ ràng. Họ có một tên gọi chung để chỉ bố và các anh em trai của bố; trong khi đó là một tên gọi khác để chỉ anh em trai của mẹ; cũng như có một tên gọi chung để chỉ mẹ và các em gái của mẹ; trong khi đó lại có một tên gọi khác để chỉ chị em gái của bố. Điều này do chế độ ngoại hôn quy định [107]. Tại một số địa phương ở Đắk Lắk, theo Vũ Đình Lợi, phả hệ dòng họ của người Ê-đê rất phức tạp v...t là 5 cuộc, thôn Nà Pheo của xã Thanh Lòa 5 cuộc và thôn Pò Nghiều 5 cuộc. Bên cạnh đó, việc thực hiện thu thập số liệu, tư liệu thứ cấp ở cấp xã, huyện cũng được tác giả luận án tiến hành tại địa phương. Những báo cáo và số liệu thống kê tại địa phương đã góp phần nhìn nhận, đánh giá có cơ sở và bức tranh đời sống kinh tế - xã hội và văn hóa qua từng năm, từng giai đoạn lịch sử tại điểm nghiên cứu. 1.3.2. Phương pháp phân tích mạng lưới xã hội Phương pháp phân tích mạng lưới xã hội (Social Network Analysis) được quan niệm là một "sản phẩm đa ngành" chứ không là độc quyền của bất cứ ngành khoa học nào, bởi ngoài những đóng góp của các nhà xã hội học, các nhà nhân học, các nhà tâm lý học, phương pháp phân tích mạng lưới xã hội hiện đại cũng dựa rất nhiều vào toán học (lý thuyết về Đồ thị và nhất là môn Đại số tuyến tính). Do đó, phương pháp này hiện được sử dụng rộng rãi trong nhiều ngành khoa học khác nhau chứ không riêng trong lĩnh vực khoa học xã hội. Trong khuôn khổ luận án này, Phương pháp phân tích mạng lưới xã hội [105] như là một tập hợp các phương pháp chọn mẫu, thu thập và xử lý số liệu, các khái niệm và lý thuyết nhằm mô tả và phân tích mối quan hệ giữa các thành viên, vai trò của các thành viên chủ chốt trong cộng đồng dòng họ (actor trong mạng lưới); các quy luật hình thành và biến chuyển của những mối quan hệ đó, và nhất là làm sáng tỏ những ảnh hưởng của các mối quan hệ xã hội hay cấu trúc mạng lưới đối với hành vi của các actor. Như vậy, một actor nào đó ít có những gắn kết với các thành viên khác trong mạng lưới nhưng lại là cầu nối cần thiết trong mọi cuộc trao đổi. Nếu như một actor được coi nhưng đóng vai trò càng lớn trong cầu nối thì sẽ càng ở vị trí thuận lợi trong việc kiểm soát mọi giao dịch, mọi thông tin trong mạng lưới. Actor đó cũng có tác động đến mạng lưới một cách dễ dàng thông qua việc thanh lọc hoặc lưu chuyển thông tin theo hướng có lợi như điều mình mong muốn và cũng ở một vị trí tốt nhất để thúc đẩy sự phối hợp giữa các thành viên trong mạng lưới [106]. 1.3.3. Phương pháp so sánh Phương pháp so sánh là một phương pháp quan trọng trong nghiên cứu nhưng không phải là phương pháp trọng tâm. Luận án sử dụng phương pháp so sánh nhằm tìm hiểu sự giống và khác nhau trong mối quan hệ dòng họ ở các điểm nghiên cứu. Bên cạnh đó, chúng tôi cũng tiến hành so sánh với những giai đoạn lịch sử trước đó thông qua những câu chuyện về lịch sử cá nhân, tư liệu hồi cố và số liệu thống kê tại địa phương. Trong giới hạn cho phép về tư liệu, kết quả nghiên cứu sẽ được so sánh với các tộc người khác trong vùng, trên cơ sở kế thừa thành tựu nghiên cứu của các đồng nghiệp. 1.4. Khung phân tích của luận án Thuyết chức năng Bronislaw Malinowshi và Radcliffe - Brown Quan hệ dòng họ của người Nùng Phàn Slình Thuyết vốn xã hội của Na Lin Vai trò và chức năng Cá nhân: - Vị thế - Nhân cách - Giá trị tinh thần/vật chất. - Trao truyền và giữ gìn giá trị văn hóa của dòng họ. Mạng lưới xã hội Gia đình: - Vị thế - Giá trị tinh thần/vật chất - Giáo dục - Kinh tế - Trao truyền và giữ gìn giá trị văn hóa của dòng họ. Cộng đồng (thôn bản): - Cố kết tộc người - Phân ly hay chia rẽ khối đoàn kết cộng đồng tộc người - Tiếp biến và đa dạng văn hóa - Tính cục bộ và yếu tố quyền lực địa phương. và 1.5. Khái quát về tộc người và điểm nghiên cứu 1.5.1. Khái quát về người Nùng và nhóm Nùng Phàn Slình ở Lạng Sơn Theo số liệu Tổng điều tra Dân số và Nhà ở năm 2009, dân số tỉnh Lạng Sơn là 732.515 người, trong đó dân tộc Nùng có số dân đông nhất với 314.295 người (chiếm 42,9%), dân tộc Tày với 259.532 người (chiếm 35,43%), dân tộc Kinh với 124.433 người (chiếm 16,98%) phân bố chủ yếu ở các thị trấn, thị xã trong tỉnh, còn lại là dân tộc Dao, Sán Chay, Hoa, Hmông. Cao Lộc là một trong số huyện có số lượng người Nùng cao hơn so với tỷ lệ người Nùng hiện cư trú ở tỉnh Lạng Sơn. Cụ thể là người Nùng có 44.016 người, (chiếm 58,86%); người Tày - 23.539 người (chiếm 30,55%); người Kinh - 5.327 người (chiếm 7,6%), còn lại là các dân tộc khác [26]. Người Nùng ở Việt Nam thuộc nhóm ngôn ngữ Tày - Thái và Ka đai. Nhóm ngôn ngữ này gồm 12 dân tộc (tộc người): Tày, Thái, Nùng, Sán Chay (Cao Lan - Sán Chỉ), Giáy, Lào, Lự, Bố Y, La Chí, La Ha, Cơ Lao và Pu Péo cư trú chủ yếu ở miền núi phía Bắc Việt Nam. Ở Trung Quốc, người Nùng có mặt chủ yếu ở các tỉnh Quảng Tây, Quảng Đông, Vân Nam và được xếp vào khối Choang tộc. Các dân tộc ngữ hệ Thái (Thái – Ka đai) với những tộc người kể trên không chỉ có mặt ở Việt Nam và Trung Quốc mà còn có mặt ở khắp vùng Bắc Đông II Á lục địa, từ phía Nam sông Dương Tử đến Bắc Việt Nam, Lào, Thái Lan, bang Assam (thuộc Ấn Độ ngày nay), Myanmar, với dân số tới 100 triệu người. Về nguồn gốc tộc người Nùng ở Việt Nam hiện đang tồn tại nhiều quan điểm khác nhau, thậm chí đối lập nhau. Từ những năm cuối của thiên niên kỷ thứ nhất cho đến thế kỷ thứ XI là thời kỳ tộc người Nùng, người Tày, người Kinh (Việt) có chung nguồn gốc tổ tiên và nằm trong khối Tây Âu - Lạc Việt. Khối cư dân này cư trú chủ yếu từ Nam Trung Hoa đến Bắc Việt Nam. Khi đó họ được mang một tên chung là khối cư dân Bách Việt. Ở Việt Nam, dân tộc Nùng có mặt chủ yếu ở các tỉnh Lạng Sơn, Cao Bằng, Tuyên Quang, Bắc Cạn, Hà Giang, Quảng Ninh... Qua tìm hiểu gia phả một số dòng họ của người Nùng và việc ghi chép của sử gia Lê Quý Đôn trong Kiến Văn tiểu lục, các nhà khoa học đã đi đến kết luận: người Nùng có mặt ở Việt Nam khoảng 200 - 300 năm nay. Về nguồn gốc tộc danh Nùng, hiện nay còn có cách lý giải khác: “Xét về nguồn gốc xa xưa tộc danh Nùng có thể bắt nguồn từ dòng họ Nùng - một trong bốn dòng họ đông người cư trú vùng tả Hữu Giang, tức các miền biên giới Cao Bằng và Quảng Tây ngày nay. Sau khi biên giới Việt - Trung được xác lập rõ ràng, được kiểm soát chặt chẽ, một bộ phận dân cư Nùng bên này biên giới đã kết cấu với các bộ phận cùng tộc người - ngôn ngữ thành tộc người Tày ngày nay; còn bộ phận ở bên kia biên giới có lẽ ở các vùng Tây và Tây Nam tỉnh Quảng Tây như Bình Quả, Đô An, Mục Biên, Đức Bảo và các vùng Đông Vân Nam như Vân Sơn, Mã Quan cùng một số vùng dọc biên giới Trung - Việt vẫn giữ tên gọi bộ tộc Nùng xưa của mình, mặc dù hiện nay họ đã được ghép vào trong một khối cộng đồng Choang thống nhất. Còn ở Việt Nam, tộc người Nùng vẫn tồn tại như một tộc người độc lập” [108, tr.40]. Những tên gọi của các nhóm địa phương đang tồn tại hiện nay có thể là dấu tích tên của địa phương cũ (ở Trung Quốc) trước khi họ di cư sang Việt Nam. Theo số liệu điều tra của Ban dân tộc tỉnh Lạng Sơn, hiện nay toàn tỉnh có ba nhóm Nùng, cư trú xen kẽ đến cấp xã và phân bố chủ yếu tại các địa phương sau đây: - Nhóm Nùng Cháo cư trú tại các xã: An Hùng, Khánh Long, Tân Long, Nam La, Gia Miễn, Chi Phương, Đề Thám (huyện Tràng Định); Thạch Lâm, Hợp Thành, Bảo Lâm (huyện Cao Lộc); Hồng Phong, Hoa Thám, Quy Hoà (huyện Bình Gia); Tư Đoan, Tỉnh Bắc, Tam Gia (huyện Lộc Bình); Đô Lương, Hoà Thắng (huyện Hữu Lũng); Thượng Cường, Vạn Linh (huyện Chi Lăng). - Nhóm Nùng Inh cư trú tại các xã: Tràng Phái, Văn An, Đại An (huyện Văn Quán); Yên Vương, Cai Kinh, Đồng Hiếu, Thanh Sơn (huyện Hữu Lũng); Gia Lộc, Thượng Cường, Vạn Linh, Hoà Bình, Chi Lăng (huyện Chi Lăng). - Nhóm Nùng Phàn Slình cư trú tại các xã: Thiện Thuật, Thuận Hoà, Thiện Long, Hoà Bình, Yên Lễ, Quang Trung, Minh Khai (huyện Bình Gia); Vạn Thuỷ (huyện Bắc Sơn); Bằng Khánh, Đồng Bực, Khuất Xá, Hiếu Khánh, Yên Khoái, Như Khuê, Minh Phát, Quan Bản (huyện Lộc Bình); Nậm Nha, Đồ Sơn, Đồng Tâm (huyện Hữu Lũng); Vân An, Chiến Thắng, Bắc Thuỷ, Liên Sơn, Tân Sơn (huyện Chi Lăng); Thụy Hùng, Gia Cát, Thanh Lòa, Thạch Đạn, Lộc Yên, Cao Lâu, Tân Thành, Hải Yến, thị trấn Cao Lộc, Xuất Lễ, (huyện Cao Lộc); Tưởng Lăng, Vĩnh Lại, Yên Phúc, Hoà Bình (huyện Văn Quan) Cho đến nay, chưa có sự thống kê về mặt dân số các nhóm Nùng khác nhau trên địa bàn tỉnh Lạng Sơn cũng như huyện Cao Lộc. Trong phạm vi của luận án này, chúng tôi chỉ tập trung vào nghiên cứu nhóm Nùng Phàn Slình thuộc nhóm địa phương của dân tộc Nùng. 1.5.2. Đôi nét về các điểm nghiên cứu 1.5.2.1. Thôn Sơn Hồng, xã Gia Cát Điểm nghiên cứu thứ nhất được lựa chọn là thôn Sơn Hồng, xã Gia Cát, huyện Cao Lộc, với hoạt động kinh tế nông nghiệp là chủ yếu, không có hoạt động giao thương với biên giới. 100% cư dân trong thôn là người Nùng Phàn Slình với 67 hộ gia đình, 362 nhân khẩu. Thôn cách trung tâm xã 3,5km, đường đất dốc. Hoạt động kinh tế của người Nùng Phàn Slình ở thôn Sơn Hồng chủ yếu dựa vào sản xuất nông nghiệp (trồng trọt và chăn nuôi) là chính. Ngoài hai vụ lúa trong năm (lúa xuân 30 mẫu, lúa mùa 40 mẫu, năng suất từ 150 - 200 kg/sào), người dân trong thôn còn trồng 60 mẫu ngô lai và sắn. Ngô, sắn chủ yếu làm lương thực phụ và thức ăn chăn nuôi. Rau màu cũng là nguồn thu nhập quan trọng. Cải xanh được các hộ gia đình trồng với số lượng khá lớn được dùng làm thức ăn và đem bán ở Thành phố Lạng Sơn. Ngoài ra, người Nùng Phàn Slình còn trồng nhiều loại cây ăn quả khác nhau. Bình quân lương thực của thôn năm 2011 đạt 40kg/người/tháng. Vì vậy, không có hộ gia đình nào rơi vào cảnh thiếu ăn hay đứt bữa. Nguồn thu nhập tiền mặt của các hộ trong thôn chủ yếu trông vào chăn nuôi trâu bò, gia cầm, đặc biệt là chăn nuôi lợn. Ngoài ra, các hộ gia đình cũng tham gia trồng rừng để tạo thu nhập. Về điều kiện sinh hoạt của thôn hiện nay có tới 1/3 số hộ gia đình có nhà kiên cố, những hộ còn lại vẫn sinh sống dưới ngôi nhà trình tường truyền thống. 1.5.2.2. Thôn Nà Pheo, xã Thanh Lòa Điểm nghiên cứu thứ hai là thôn Nà Pheo, xã Thanh Lòa, huyện Cao Lộc, là một thôn giáp đường biên giới. Thôn có 31 hộ gia đình với 174 nhân khẩu đều là người Nùng Phàn Slình. Thôn có ba dòng họ: Lương (14 hộ), Hứa (9 hộ), Hoàng (8 hộ) cư trú. Thôn cách trung tâm xã 1km và cách huyện lỵ Cao Lộc 17km. Giống như thôn Sơn Hồng, cơ cấu kinh tế của thôn Nà Pheo dựa vào làm nông, lâm nghiệp là chính. Cây lương thực chính là cây lúa ruộng (lúa vụ xuân 5 mẫu, lúa vụ mùa 35 mẫu). Do địa hình của thôn bị chia cắt mạnh nên số diện tích làm hai vụ rất hạn chế và theo đó năng suất lúa chỉ đạt 100kg/sào (năm 2011). Ngoài ra, người dân trong thôn còn trồng ngô với diện tích 5 mẫu và một diện tích không đáng kể trồng sắn. Gia đình nào trong thôn cũng có mảnh vườn nhỏ trồng rau xanh để phục vụ cho các bữa ăn hàng ngày. Do điều kiện địa hình của thôn dốc và tình trạng hạn hán thường kéo dài nhiều tháng trong năm, lại thiếu công trình thủy lợi nên bình quân lương thực theo đầu người chỉ có 200kg/người/năm (năm 2011). Hiện nay, trong thôn có 5 hộ thuộc diện nghèo theo bình xét áp dụng chuẩn nghèo giai đoạn 2010 - 2015 Theo Quyết định số: 09/2011/QĐ-TTg, ký ngày 30 tháng 01 năm 2011 của Thủ tướng Chính phủ thì thu nhập bình quân từ 400.000 đồng/người/tháng trở xuống là hộ nghèo ở khu vực nông thôn. . Người Nùng Phàn Slình ở thôn Nà Pheo chăn nuôi nhiều loại gia súc như trâu, lợn, gia cầm các loại. Tuy nhiên, do đường giao thông đi lại khó khăn và xa thị trấn huyện, nên các thương lái không mấy mặn mà vào thôn mua gia súc, gia cầm cũng như những loại nông sản của các hộ gia đình. Gần đây, người dân trong thôn đang thu hoạch nhựa thông bán cho các thương lái từ thị trấn Cao Lộc để xuất sang Trung Quốc. Rừng của thôn phần lớn đã phân chia cho các hộ gia đình và 100% là rừng tái sinh được trồng theo chương trình vùng nguyên liệu giấy theo kế hoạch của huyện Cao Lộc từ năm 2004 và Chương trình 661 năm 2009. Bên cạnh đó, nguồn thu của hộ gia đình từ hoạt động lao động làm thuê bên kia biên giới cũng chiếm tỷ trọng đáng kể trong cơ cấu thu nhập của hộ. Năm 2009, có trên 30 người trong thôn thường xuyên sang làm thuê ở Trung Quốc. Công việc làm thuê của họ ở bên kia biên giới chủ yếu là trồng, chăm sóc và thu hoạch mía, với giá ngày công trung bình từ 180 đến 200 ngàn đồng/ngày. 1.5.2.3. Thôn Pò Nghiều, xã Thụy Hùng Điểm nghiên cứu thứ ba là thôn Pò Nghiều, xã Thụy Hùng, huyện Cao Lộc. Thôn có 95 hộ 429 nhân khẩu, trong đó có 1 hộ Nùng Cháo, 2 hộ người Kinh làm rể người Nùng Phàn Slình, còn lại là người Nùng Phàn Slình. Thôn có các dòng họ Lăng (11 hộ), Luân (36 hộ), Vi (13 hộ), Đàm (11 hộ), Hoàng (8 hộ), Nông (6 hộ), Chu (5 hộ) Các dòng họ này có nguồn gốc khác nhau từ các huyện Cao Lộc như Thạch Đạn, Tân Thành, Cao Lâu đến định cư từ năm 1952. Về cơ cấu kinh tế của thôn Pò Nghiều: Do gần cửa khẩu Hữu Nghị (trung tâm thôn cách cửa khẩu chừng 5km), cách thị trấn Cao Lộc 5km, thị trấn Đồng Đăng 5km, lại ở cạnh đường cao tốc Hà Nội - Lạng Sơn, nên rất thuận tiện cho việc giao thương buôn bán và lao động làm thuê tại cửa khẩu. Trước khi cửa khẩu Hữu Nghị mở cửa trở lại, người dân trong thôn chủ yếu là trống lúa hai vụ và ngô, sắn, kết hợp với trồng rừng. Kinh tế của thôn Pò Nghiều cũng như nhiều thôn bản khác của xã Thụy Hùng chỉ thực sự khởi sắc từ khi cửa khẩu Hữu Nghị đi vào hoạt động. Khoảng 10 hộ gia đình trong thôn đã chuyển sang hoạt động kinh doanh tạp hóa ngay tại trung tâm của xã, cạnh trường học và men theo đường cao tốc Hà Nội - Lạng Sơn. Một số lượng lớn lao động của các hộ làm nghề chở gà qua biên giới cho các thương lái của Thành phố Lạng Sơn và một số tỉnh lân cận mang về các tỉnh đồng bằng sông Hồng và Hà Nội. Ngoài ra, có một số hộ chuyên kinh doanh đường dài xuyên biên giới, những hộ còn lại không trực tiếp kinh doanh thì tập trung tham gia làm thuê ở cửa khẩu Hữu Nghị và vùng biên giới. Có thể nói đặc điểm chung nhất của người Nùng Phàn Slình ở cả ba điểm nghiên cứu là cư trú riêng biệt, ít có sự đan xen với các tộc người khác trong cùng một bản. Mỗi bản thường có vài dòng họ cùng tụ cư với nhau, trong đó thường có một dòng họ có dân số lớn và là dòng họ đến cư trú đầu tiên trong thôn. Bên cạnh dòng họ lớn với số hộ, số nhân khẩu đông là những dòng họ có số hộ, nhân khẩu ít hơn nhưng thường có mối quan hệ thông gia với họ lớn [94] và các dòng họ khác. Như vậy, trong một cộng đồng thôn bản mặc dù có những dòng họ khác nhau cùng sinh sống nhưng nó hội đủ các mối quan hệ thân tộc, quan hệ thông gia giữa hai gia đình khác tộc họ với nhau. Chính những mối quan hệ chằng chéo trong một cộng đồng sinh sống đã tạo thành một mạng lưới các quan hệ xã hội cùng tương trợ lẫn nhau trong những lễ nghi quan trọng của chu kỳ đời người. Tiểu kết Chương 1 Dòng họ là đối tượng được nhiều lĩnh vực khoa học quan tâm nghiên cứu như sử học, dân tộc học, xã hội học, văn hóa học Ở Việt Nam đã có nhiều nghiên cứu về dòng họ của cả người Việt và các dân tộc thiểu số khác nhưng phần lớn đều chú ý tới cấu trúc, chức năng của dòng họ. Có thể nói rằng, ở mỗi một tộc người đều có sự khác nhau về tổ chức dòng họ nhưng không thể phủ nhận vai trò quan trọng của dòng họ trong xã hội truyền thống cũng như hiện nay của các tộc người, đặc biệt là trong cộng đồng các dân tộc thiểu số. Quan hệ dòng họ, dù là của dân tộc nào cũng đều tác động đến mọi mặt trong đời sống của từng gia đình, từng thành viên và cũng là nền tảng xây dựng nên hệ thống tổ chức xã hội ở bản làng và rộng hơn là vùng miền quốc gia. Có thể nói đây là mối quan hệ chủ yếu liên quan đến toàn bộ tổ chức kinh tế - xã hội của các tộc người thiểu số. Đặc biệt trong điều kiện hiện nay, khi vấn đề dòng họ đang trở thành một hiện tượng văn hóa mang tính trội trong đời sống sinh hoạt cộng đồng và quốc gia thì việc nghiên cứu chuyên sâu hơn nữa về dòng họ cũng như vai trò của nó trong đời sống xã hội hiện đại đã thực sự trở thành một nhu cầu cấp thiết. Do vậy, đã có một số công trình nghiên cứu về dòng họ và quan hệ dòng họ của các tộc người thiểu số nhưng đến nay chưa có một công trình chuyên sâu nào về quan hệ dòng họ của người Nùng nói chung và Nùng Phàn Slình ở Cao Lộc, Lạng Sơn nói riêng một cách có hệ thống. Để làm rõ mối quan hệ dòng họ của người Nùng Phàn Slình ở Cao Lộc, Lạng Sơn, trong luận án này, chúng tôi sử dụng lý thuyết Chức năng của Bronislaw Malinowski và A.R.Radcliffe - Brown và Vốn xã hội của Na Lin. Thuyết chức năng phân chia xã hội thành những hệ thống, mỗi hệ thống có chức năng riêng của nó và xác định bộ phận nào là quan trọng trong toàn bộ hệ thống và mỗi bộ phận có vai trò ổn định trong toàn hệ thống. Trong luận án này là những quy tắc khám phá hay các giả thuyết làm việc nhằm hướng tới việc lý giải cộng đồng tộc người với các thành tố văn hóa có cơ chế vận động nhằm tái tạo những cấu trúc văn hóa - xã hội trong sự phát triển ổn định và bền vững trong nội tại cộng đồng được nghiên cứu. Vốn xã hội của Na Lin được chúng tôi sử dụng như là sự tin tưởng thi hành và trao đổi có đi có lại được xem xét trong mối quan hệ họ hàng với cái tôi dựa trên so sánh mối quan hệ dòng họ với một số mối quan hệ xã hội khác như quan hệ bạn bè và hàng xóm. Cụ thể hơn, chúng tôi sẽ xem xét cách thức mà cá nhân tạo dựng, duy trì và sử dụng vốn xã hội trong mạng lưới quan hệ họ hàng như là một loại mạng xã hội. Phương pháp nghiên cứu chủ yếu của luận án là điền dã dân tộc học với các kỹ thuật thu thập dữ liệu như quan sát trực tiếp, quan sát tham dự, phỏng vấn sâu, thảo luận nhóm. Ngoài ra, luận án còn sử dụng các phương pháp nghiên cứu khác như phân tích mạng lưới xã hội và so sánh, để có thể nhìn nhận đa chiều về quan hệ dòng họ. Đây là nền tảng để luận án đưa ra được những phân tích, đánh giá một cách hệ thống, khách quan, khoa học về mối quan hệ dòng họ của người Nùng Phàn Slình tại huyện Cao Lộc, tỉnh Lạng Sơn. CHƯƠNG 2 DÒNG HỌ CỦA NGƯỜI NÙNG PHÀN SLÌNH Ở HUYỆN CAO LỘC 2.1. Quan niệm về dòng họ của người Nùng Phàn Slình Dòng họ đóng vai trò quan trọng trong xã hội người Nùng Phàn Slình. Do vậy, trong cuộc sống hàng ngày, ông bà, cha mẹ trong mỗi gia đình người Nùng Phàn Slình thường hay khuyên nhủ con cháu rằng: "Nguồn nước ở đầu nguồn không bao giờ đứt, người trong họ đi đến chín, mười nơi không rời được nhau". Xuất phát từ quan niệm truyền thống như vậy, cho nên đối với người Nùng Phàn Slình, quan hệ họ hàng luôn được coi là sự quý trọng trong các quan hệ giao tiếp và lễ nghi cần được lưu giữ qua các thế hệ. Trên thực tế, người Nùng Phàn Slình cùng họ đã thân thích đến mười phần mười (Tồng sinh síp phăn slăm). Người cùng trong họ không chỉ là những người cùng quan hệ huyết thống mà còn là những người có cùng họ, cùng ma. Cùng họ tức là cùng chung một tên họ, còn cùng ma là cùng cách thờ cúng khi tiến hành các nghi lễ liên quan đến tang ma, cúng ma khi ốm đau bệnh tật và thờ cúng tổ tiên. Cùng tên họ là điều dễ nhận ra, còn cách thờ cúng ma và tổ tiên thì chỉ những thành viên trong dòng họ mới nhận biết được. Vì vậy, những người cùng họ không nhất thiết chỉ là những người thân thuộc có quan hệ họ hàng mà có thể ở những nơi rất xa, thậm chí chưa hề quen biết nhau nhưng khi tìm hiểu có cùng những nghi lễ cúng, cùng ông tổ thì họ có thể nhận là họ hàng của nhau. Và khi đã được coi là anh em cùng dòng họ, mọi người sẽ thật sự cởi mở và gắn bó chặt chẽ và thân thiết với nhau. Người Nùng Phàn Slình nhận ra họ hàng thông qua hệ thống tên đệm. Mỗi một dòng họ có một hệ thống tên đệm khác nhau. Người Nùng Phàn Slình có tục lệ đặt tên với đặc điểm riêng biệt, qua tên họ và tên đệm của từng người trong dòng họ, sẽ biết được thứ bậc của người đó. Theo tập quán, đứa trẻ sinh ra được cha mẹ đặt tên theo tên chữ Hán và thường mang một ý nghĩa nhất định. Xưa kia, khi đứa trẻ sinh ra được ông, bà hay cha mẹ đến nhờ thầy cúng xem sách đặt tên và thường gắn với giờ, ngày tháng năm sinh của đứa trẻ. Lễ đặt tên cho đứa trẻ được gia đình nội ngoại thực hiện khi đứa trẻ được từ ba đến bảy ngày tuổi dưới sự thực hành nghi lễ của thầy cúng. Một trong những dấu hiệu quan trọng khác để nhận biết mối quan hệ dòng họ đó là nếu cùng chung số lượng chén thờ và cách thức cúng giống nhau có nghĩa là họ cùng chung một ông tổ. Ví dụ, như họ Hoàng thờ 7 chén, họ Vi thờ 5 chén, họ Lương thờ 5 chén. Sự khác biệt về số chén thờ được cho là sự phân biệt việc thờ cúng của từng dòng họ, hoặc một số dòng họ lại có ma gà. Ma gà có nhiều tên gọi khác nhau như phi cáy, phi phạm nhan, phi phắn, phi mằn lằn Sự thống nhất về mặt xã hội của dòng họ người Nùng Phàn Slình thường được diễn ra trên cùng một địa vực cư trú hẹp, thường là đơn vị thôn hay địa vực cư trú lân cận. Thôn của người Nùng Phàn Slình phổ biến được cấu thành từ những gia đình phụ quyền thuộc các dòng họ khác nhau. Một thôn ít nhất có từ 2-3 dòng họ lớn. Tại thôn Sơn Hồng có 67 hộ với 361 nhân khẩu thuộc các dòng họ: họ Mã, Nông, Lý, Hoàng. Theo lời kể của bậc cao niên trong thôn, họ Hoàng vốn ở thôn Nà Pài, xã Long Môn của châu Vạn Thành (Thừa) thuộc tỉnh Quảng Tây di cư sang và định cư được 7 - 8 đời. Còn theo kết quả nghiên cứu của tác giả Vương Toàn, Vạn Thừa Châu nay thuộc huyện Đại Tân, tỉnh Quảng Tây, Trung Quốc [110]. Thôn Nà Pheo có 31 hộ gia đình với 174 nhân khẩu đều là người Nùng Phàn Slình. Trong thôn có ba dòng họ: Lương; Hứa; Hoàng cùng cư trú. Thôn Pò Nghiều có 95 hộ 429 nhân khẩu, trong đó có 1 hộ Nùng Cháo, 2 hộ người Kinh làm rể người Nùng Phàn Slình, còn lại là người Nùng Phàn Slình. Thôn có các dòng họ Lăng, Luân, Vi, Đàm, Hoàng, Nông, Chu Các dòng họ này có nguồn gốc khác nhau từ các xã thuộc huyện Cao Lộc như Thạch Đạn, Tân Thành, Cao Lâu chuyển đến định cư từ năm 1952. Bảng 2.1: Số hộ gia đình thuộc các dòng họ ở điểm nghiên cứu Thôn Sơn Hồng Thôn Pò Nghiều Thôn Nà Pheo Dòng họ Số hộ Dòng họ Số hộ Dòng họ Số hộ 1 Hoàng 60 Lăng 11 Lương 14 2 Mã 03 Luân 36 Hứa 9 3 Nông 01 Vi 13 Hoàng 8 4 Lý 03 Đàm 11 5 Hoàng 8 6 Nông 6 7 Chu 5 8 Lê 2 9 Trần 1 10 Hà 1 11 Lương 1 Tổng 67 95 31 Nguồn: Tài liệu điền dã, tháng 8 năm 2013 Như vậy, việc cư trú không riêng biệt của một dòng họ trong các khu vực đều thấy hiện hữu ở cả ba điểm nghiên cứu Pò Nghiều, Sơn Hồng, Nà Pheo. Qua sự hồi cố của những bậc cao niên cho thấy, có nhiều nguyên nhân dẫn tới hiện tượng này như điều kiện làm ăn sinh sống không thuận lợi, gặp nhiều thiên tai dịch họa, trước đây bị bọn cướp quấy nhiễu... khiến một số dòng họ phải di cư từ nơi này sang nơi khác để tìm nơi sinh cơ lập nghiệp, ổn định lâu dài. Trong dòng họ người Nùng Phàn Slình không có từ đường của dòng họ, không có ruộng hương hỏa hay những sinh hoạt hội họp họ như của người Kinh nhưng không vì thế mà tổ chức dòng họ của người Nùng Phàn Slình lỏng lẻo, không duy trì mối quan hệ dòng tộc như chúng ta thấy từ bên ngoài. Về tập quán xưng hô trong dòng họ, người Nùng Phàn Slình xưng hô theo lứa tuổi, nghĩa là dù con chú, con bác, con cô, con cậu, hễ ai sinh ra trước thì đều là anh, là chị. Tuy vậy, ai ở ngành trưởng, ngành thứ hay thứ bậc nào đều không thể nhầm lẫn được. Qua cách thức xưng hô, hệ thống tên đệm, và cung cách giao tiếp của các thành viên trong dòng họ chính là điều để mọi người nhận biết vai vế trở thành quy tắc đối với các dòng họ Nùng Phàn Slình. Quy tắc trong dòng họ người Nùng Phàn Slình được quy định, các gia đình cùng một dòng họ phân biệt với nhau theo tuổi tác. Một gia đình bắt đầu nguồn gốc của mình từ người con trai trưởng của gia đình. Đây là cơ sở đầu tiên cho dòng họ, còn các gia đình khác bắt nguồn từ các em trai thứ. 2.2. Người Nùng Phàn Slình với ba mối quan hệ dòng họ Theo quan niệm của người Nùng, những người có quan hệ họ hàng bên bố - bên nội là anh trai, em trai, chị gái, em gái và những người cùng dòng họ bên bố. Những thành viên này có quan hệ gần gũi về huyết tộc với họ bố trên cơ sở chung cha, chung mẹ và cùng tổ tiên nhưng trên thực tế, tại ba điểm nghiên cứu cho thấy mối quan hệ nghiêng về phía là anh em trai của bố, còn chị em gái của bố có phần không gần gũi bằng. Những người có quan hệ với họ bên mẹ - bên ngoại là anh trai, em trai, chị gái, em gái và những thành viên gần gũi thân thích khác có quan hệ huyết tộc về phía mẹ. Những người có quan hệ họ hàng bên vợ là những người có quan hệ gần gũi về dòng máu với bố vợ như chú vợ [em trai của bố], bác vợ [anh trai của bố] và mẹ vợ như anh em trai của mẹ vợ, chị em gái của mẹ vợ. Quan niệm của người Nùng Phàn Slình, khi người phụ nữ lớn lên đi lấy chồng, trong ngày cưới được thầy cúng làm lễ nhập họ (nhập ma - hồn) vào nhà chồng và sau này chết thuộc về ma bên nhà chồng. Tư liệu khảo sát tại ba điểm nghiên cứu, chúng tôi thấy rằng, người Nùng Phàn Slình ở tuổi trưởng thành khi đã lấy vợ đều có ba mối quan hệ về họ hàng, ngoài họ của mình - họ bố ra còn có quan hệ với họ hàng bên mẹ và bên vợ. Người Nùng Phàn Slình có ba mối quan hệ về dòng họ nhưng về mặt xưng hô, người Nùng Phàn Slình lại có tập quán xưng hô theo lứa tuổi, nghĩa là dù con bác, con chú, con cô, con cậu... anh em bên họ mẹ cũng như bên họ vợ, ai sinh ra trước thì người đó là anh là chị, không phân biệt trưởng, thứ. Nhưng trong xã hội của người Nùng Phàn Slình nói chung do chế độ phụ quyền chi phối, nên mọi quyền lực, nghĩa vụ về quan hệ dòng họ chủ yếu thuộc về họ nội (tức dòng họ về phía bố) chi phối các mối quan hệ là chính. Trên thực tế ở vùng người Nùng Phàn Slình, ông cậu hay anh của mẹ hầu như không có quyền lực hay nghĩa vụ gì đối với cháu ngoại. Ngược lại, ông chú hay ông bác là anh em của bố lại có đủ mọi quyền lực và nghĩa vụ đỡ đầu và chăm sóc người cháu nội khi chưa thành niên nếu bị mồ côi cha mẹ. Do vậy, có những trường hợp nếu phụ nữ góa chồng muốn đi bước nữa phải để con lại cho gia đình bên nhà chồng nuôi dưỡng. Bên cạnh đó, khi gia đình người anh hay em trai mà không sinh được con trai thì thường lấy con trai của anh hay em trai bên nội làm con của mình chứ không có trường hợp lấy con của anh hay em bên phía mẹ hay vợ làm con nuôi bao giờ. Bà Nông Thị Xoan, 82 tuổi, thôn Sơn Hồng sinh được ba người con trai (Hoàng Văn Du, Hoàng Văn Mức, Hoàng Văn Viễn) và hai cô con gái. Tất cả những người con của bà đều đã đi xây dựng gia đình và sinh cháu. Tuy nhiên, người con trai thứ hai của bà là Hoàng Văn Mức, lấy vợ năm 1981, vợ anh là người họ Lý, thôn Hợp Tân cùng xã. Anh chị sinh được ba cô con gái mà không có con trai, đến năm 1999, anh lâm bệnh và qua đời. Nhưng trước khi anh chết, vợ chồng anh đã lấy người con trai thứ ba - Hoàng Văn Thiên (con ông Hoàng Văn Du) để làm con nuôi và nhờ thầy cúng làm lễ nhập hồn về gia đình nhà anh và trở thành con trai chính thức của vợ chồng anh. Tuy nhiên, vai trò của ông cậu và ông bác bên ngoại vẫn còn tồn tại ở một số nghi lễ cổ truyền trong đời sống sinh hoạt hàng ngày của người Nùng Phàn Slình. Vào dịp bên nội có việc cưới xin, bà con thân thuộc bên họ mẹ và họ vợ được coi là những nhân vật quan trọng của bữa cỗ. Trong đám cưới, họ rất được đề cao như trong đoàn đưa dâu, nhất thiết phải có người thuộc dòng họ bên ngoại và khi dự tiệc cỗ ra về được gia chủ biếu lại một cái chân giò lợn. Dòng họ bên ngoại đóng vai trò quan trọng trong tang ma, họ được đón tiếp rất trịnh trọng và thường được mời những mâm cỗ thịnh soạn nhất sau khi có lễ đến viếng người quá cố. Ngoài ra, trong lễ ăn mừng nhà mới, những người thuộc dòng họ bên vợ bao giờ cũng là thành phần không thể thiếu trong buổi lễ tân gia. Có thể là bố vợ hoặc anh em chú bác của bố vợ và người đại diện bên vợ được vinh dự treo miếng vải đỏ lên chiếc câu đầu chính có ghi ngày tháng năm xây cất ngôi nhà để chúc mừng chủ nhà làm ăn phát đạt, tiến tới và phần quà mừng mang theo phải có một chiếc gương và một con lợn quay. Hơn nữa, trong nghi lễ lên nhà mới cổ truyền của người Nùng Phàn Slình có tục lệ đốt một đống lửa ở giữa nhà, người châm đống lửa là bốn ông già thuộc hai họ bên nội và bên ngoại có gia cảnh làm ăn sung túc, con cái đề huề thực hiện việc châm lửa khi thầy cúng bắt đầu làm lễ nhập nhà mới. Nhìn chung, mỗi người Nùng Phàn Slình khi đã xây dựng gia đình đều có ba mối quan hệ họ hàng là họ bố, mẹ, vợ. Trong đó họ nội - họ bố có quyền lực và nghĩa vụ chủ yếu đối với cháu nội, ngược lại, họ ngoại không có nhiều quyền lực đối với cháu ngoại. Tuy vậy, mối quan hệ giữa họ nội, họ ngoại và họ vợ vẫn là những mối quan hệ bao giờ cũng được người Nùng Phàn Slình coi trọng và gìn giữ. 2.3. Cấu trúc dòng họ của người Nùng Phàn Slình Đa số các dòng họ người Nùng Phàn Slình tại điểm nghiên cứu hiện nay đều không còn giữ được bản gia phả thành văn của dòng họ mình. Tuy nhiên, những người cao tuổi trong dòng họ vẫn còn nhớ được ông tổ của mình từ Trung Quốc di cư sang Việt Nam và đã có thời gian cư trú tạm thời tại một vài nơi trước khi đến Cao Lộc. Dựa trên bảng từ của hệ thống thân tộc được sưu tầm tại ba điểm nghiên cứu cho thấy không có sự khác biệt giữa các cộng đồng Nùng Phàn Slình (bảng 2.2) Bảng 2.2: Hệ thống từ thân tộc của người Nùng Phàn Slình ở Cao Lộc Stt Nùng Phàn Slình Tày Nghĩa gọi theo tiếng Kinh 1 Cóng chố/Lao chố Ú chựa/Mé chựa Cụ ông/cụ bà 2 Cóng/Lao Ú/mé Ông nội/Bà nội 3 Ta/Tai Cống/Tai Ông ngoại/Bà ngoại 4 Cố/Mế Ké/A Bố/Mẹ 5 Pục kề/Mệ kề Pò dé/Pá Bác trai/Bác gái 6 Xục/Mọi Chủ/A lùa Chú/Thím 7 Khù/Nạ lu Khạu/Ná lùa Cậu/Mợ 8 Á A Cô 9 Xục khởi/ Khù khởi Chủ khươi Chú rể (chồng của cô - em gái thuộc về bên bố)/Chú (chồng của dì- em gái thuộc về bên mẹ) 10 Pị bào/Sláo Pì chái/Nhao Anh trai/Chị gái 11 Pị khởi/Pị nang Pì khươi/Pì lùa Anh rể/Chị dâu 12 Noong bào/Noong á Nọong báo/Nọong a Em trai/Em gái 13 Noong khởi/Noong lu Nọong khươi/Nọong lùa Em rể/Em dâu 14 Lục bào/Lục sláo Lục báo/Lục Slao Con trai/con gái 15 Lục lu/Lục khởi Mè lùa/Lục khươi Con dâu/con rể 16 Lan lu/Lan khởi Lan lùa/Lan khươi Cháu dâu/cháu rể 17 Len Mẩn Chắt 18 Lán Pẩn hang kiều Chút/chít Nguồn: Tài liệu điền dã, tháng 11 năm 2010 Nếu lấy bản thân mình [ego] là một đời thì trên mình có: bố, mẹ; ông, bà; các cụ (Cố/Mế; Cóng/Lao; Cóng chố/Lao chố) và các thế hệ dưới ego là: con, cháu, chắt, chút/chít (Lục, Lán, Len, Lán). Các đời trên đời mình được thờ chung ở một bàn thờ, gọi là thờ tổ tiên. Qua bảng 2.2 thấy rằng, danh từ thân tộc của người Nùng Phàn Slình có những đặc điểm như: thể hiện tôn ti, tầng bậc rõ ràng, đồng thời có sự phân biệt giữa họ nội và họ ngoại cũng như sự phân biệt về giới (nam/nữ). Thứ nhất, theo chiều dọc (khác thế hệ) chúng được phân biệt rất chi tiết: Ví dụ, lấy mình [Ego] làm chuẩn thì trên mình có cha mẹ (cố/mế), trên cha mẹ có ông bà (cóng/lao), trên ông bà là cụ (cóng chố/lao chố), dưới mình là co... lịch sử (Bùi Thế Cường chủ biên), Nxb Từ điển Bách khoa, Hà Nội. Khổng Diễn (1996 - Chủ biên), Những đặc điểm kinh tế - xã hội các dân tộc miền núi phía Bắc, Nxb Khoa học Xã hội. Phan Đại Doãn - Nguyễn Quang Ngọc (1990), “Mối quan hệ làng, họ và gia đình truyền thống”, Tạp chí Xã hội học, số 3, tr. 26-34. Phan Đại Doãn (1999), “Cơ sở kinh tế và thể chế tông pháp của dòng họ người Việt”, Tạp chí Dân tộc học, số 3, tr. 3-9. Phan Đại Doãn (2003), Làng xã Việt Nam, một số vấn đề kinh tế, văn hóa, Nxb Văn hóa Thông tin, Hà Nội. Ma Tiến Dũng (1980), Về tôn giáo tín ngưỡng của người Nùng Phàn Slình ở Chi Lăng, Lạng Sơn, luận văn tốt nghiệp đại học, Tư liệu khoa Lịch Sử, Đại học KHXH & NV, Hà Nội Bùi Xuân Đính (2010), “Về sự hình thành các gia đình khoa bảng và dòng họ khoa bảng của Thăng Long - Hà Nội”, Tạp chí Dân tộc học, số 4, tr. 8-14. Mạc Đường (1974), “Quan hệ dòng họ và thành phần tộc người trong gia đình hỗn hợp ở miền núi Hà Tây”, Tạp chí Dân tộc học, số 4, tr. 20-25. Evans. Grant (2001 - Cao Xuân Phổ dịch), Bức khảm văn hóa châu Á: Tiếp cận Nhân học, Nxb Văn hóa Dân tộc, Hà Nội. Hồ Ly Giang (2011), “Thiết chế dòng họ truyền thống của người Hmông và vai trò của nó trong quản lý xã hội hiện nay (Qua nghiên cứu xã Phỏng Lái, huyện Thuận Châu, tỉnh Sơn La)”, Tạp chí Dân tộc học, số 6, tr. 30-38. Hồ Ly Giang (2012), “Thiết chế dòng họ và gia đình người Hmông Trắng ở xã Phỏng Lái, huyện Thuận Châu, tỉnh Sơn La, Nghiên cứu Gia đình & giới, số 1, tr. 52-64. Hồ Ly Giang (2013), Dòng họ của người Hmông trắng tỉnh Sơn La, luận án tiến sỹ, thư viện Viện Dân tộc học. Pierre Gourou (2004), Người nông dân châu thổ Bắc Kỳ, Nxb Trẻ - Trung tâm ngôn ngữ và văn minh Pháp. Lê Thu Hà (2011), “Vận dụng lý thuyết vốn xã hội của Pierre Bourdieu vào phân tích vai trò của xã hội dân sự”, Tạp chí Xã hội học, tr.100-104. Trần Văn Hà (2003), “Một vài suy nghĩ về mở rộng đối tượng và phương pháp nghiên cứu xã hội học - tộc người trong thời gian tới.” trong Dân tộc học Việt Nam thế kỷ XX và những năm đầu thế kỷ XXI (Khổng Diễn - Bùi Minh Đạo chủ biên), Nxb Khoa học Xã hội. Trần Văn Hà - Đặng Thị Hoa (2009), “Ảnh hưởng của yếu tố xã hội và văn hóa đến cơ chế ứng phó với tình trạng thiếu lương thực của người Khơ - Mú (Nghiên cứu ở bản Bình Sơn I, xã Tà Cạ, huyện Kỳ Sơn, tỉnh Nghệ An)”, Tạp chí Dân tộc học, số 1 &2, tr. 74-89. Mai Văn Hai - Phan Đại Doãn (2000), Quan hệ dòng họ ở châu thổ Sông Hồng, Nxb Khoa học Xã hội, Hà Nội. Mai Văn Hai (2009), “Gia đình, dòng họ và thôn làng với tư cách là các giá trị cơ bản của văn hóa làng Việt, tạp chí Xã hội học, số 1, tr.36-43. Mai Thanh Hải (2006), Từ điển tôn giáo tín ngưỡng thế giới & Việt Nam, Nxb Văn hóa Thông tin, Hà Nội Võ Hồng Hải (2012), Di sản văn hóa dòng họ và vấn đề nghiên cứu danh nhân văn hóa, phát triển nhân tài hiện nay (qua khảo sát một số dòng họ tiểu biểu ở Hà Tĩnh), luận án Tiến sĩ văn hóa học, thư viện Viện văn hóa Nghệ thuật Việt Nam. Erik Harms (2010), “Quyền lực ở Việt Nam nhìn từ trong ra: Những chuyển dịch qua không gian và thời gian và khái niệm của người Việt về “nội” và “ngoại” trong Hiện đại hóa và động thái của truyền thống ở Việt Nam - những tiếp cận Nhân học, quyển 1, Nxb Đại học Quốc gia Thành phố Hồ Chí Minh. Đặng Thị Hoa (2010), “Tác động của yếu tố truyền thống đến quản lý xã hội ở cơ sở vùng dân tộc miền Tây Thanh Hóa - Nghệ An” – Báo cáo tổng hợp đề tài cấp bộ - Viện khoa học Xã hội Việt Nam, thư viện Viện Dân tộc học, ký hiệu TL 1218. Đặng Thị Hoa (2012), “Một số vấn đề cơ bản về hệ thống chính trị và đội ngũ cán bộ cơ sở trong phát triển bền vững các tỉnh biên giới Việt Nam” - Báo cáo tổng hợp đề tài cấp bộ - Viện khoa học Xã hội Việt Nam, thư viện Viện Dân tộc học, ký hiệu: TL1284. Phạm Quang Hoan (1994), “Vai trò của các thiết chế xã hội truyền thống trong việc quản lý nguồn tài nguyên cộng đồng người Hmông”, Tạp chí Dân tộc học, số 2, tr. 43-53. Phạm Quang Hoan (1995), “Một số nghi lễ liên quan đến dòng họ ở người Hmông huyện Kỳ Sơn, Nghệ An”, Tạp chí Dân tộc học, số 3, tr. 14-20. Phạm Quang Hoan (2000), “Một số nghi lễ phản ảnh bản sắc và tính cố kết dòng họ của người Hmông”, Tạp chí Nghiên cứu Đông Nam Á, số 6, tr.62-67. Hội đồng quốc gia chỉ đạo biên soạn từ điển bách khoa Việt Nam. Từ điển bách khoa Việt Nam. Tập 4. Nxb. Từ điển bách khoa, Hà Nội, 2005. Nguyễn Xuân Hồng (1994), “Dòng họ của người Tà Ôi, Cơ Tu và Vân Kiều”, Tạp chí Dân tộc học, số 4, tr. 30-32. Nguyễn Xuân Hồng (1998), “Bước đầu tìm hiểu hệ thống thân tộc của người Tà Ôi, Cơ Tu, Bru - Vân Kiều”, Tạp chí Dân tộc học, số 2, tr.60-67. Hội Văn nghệ Dân gian Nghệ AnViện Nghiên cứu Văn hóa Dân gian (1997), Văn hóa các dòng họ ở Nghệ An (Kỷ yếu hội thảo khoa học), Nxb Nghệ An. Lưu Hùng (1980), “Tìm hiểu quan hệ xã hội của dân tộc Hrê”, Tạp chí Dân tộc học, số 3, tr. 32-40. Lưu Hùng (1983), “Góp phần nghiên cứu tính song hệ ở dân tộc Hrê”, Tạp chí Dân tộc học, số 3, tr. 38-42 Lương Văn Hy (2010), “Quà và vốn xã hội ở hai cộng đồng nông thôn Việt Nam” trong: Hiện đại và động thái của truyền thống ở Việt Nam: những tiếp cận Nhân học, quyển 1, Nxb Đại học Quốc gia Thành phố Hồ Chí Minh. Khoa Nhân học (2008), Nhân học đại cương, Nxb Đại học Quốc gia Thành phố Hồ Chí Minh. Nelly Krowolski (2002), “Hộ, Dòng họ và không gian hôn nhân ở Tả Thanh Oai, một làng ngoại ô Hà Nội” trong Làng ở vùng châu thổ Sông Hồng: vấn đề còn bỏ ngỏ (Philippe Papin - Oliver Tessier), Trung tâm Khoa học Xã hội và Nhân văn Quốc Gia. Robert Layton (2007), Nhập môn lý thuyết Nhân học, Nxb Đại học quốc gia TP. Hồ Chí Minh, TP. Hồ Chí Minh. Bửu Lịch (1971), Nhân chủng học và Lược khảo thân tộc học, Nxb Lửa thiêng, Sài Gòn. Tạ Long - Ngô Thị Chính (1994), “Quan hệ tương trợ ở một vài làng Việt thuộc tỉnh Hà Bắc”, Tạp chí Dân tộc học, số 3, tr. 7-10. Tạ Long (2006), “Vai trò của dòng họ trong phát triển làng nghề La Phù”, tạp chí Dân tộc học, số 5, tr. 3-11. Robert Lowie (2008), Không gian văn hóa nguyên thủy (nhìn theo lý thuyết chức năng), (Vũ Xuân Ba và Ngô Bình Lâm dịch), Nxb Tri thức - Tạp chí Văn hóa Nghệ thuật, Hà Nội. Lã Văn Lô và cộng sự (1961), “Người Tày và người Nùng sẽ hình thành dân tộc như thế nào”, Tập san Dân tộc, số 20, tr. 27-31. Lã Văn Lô (1968), Sơ lược giới thiệu các nhóm dân tộc Tày Nùng Thái ở Việt Nam, Nxb Khoa học Xã hội, Hà Nội. Lã Văn Lô (1979), “Tinh thần chống xâm lược, trong thơ văn cổ của đồng bào Tày - Nùng”, Sưu tập Dân tộc học, tr. 178-181. Lã Văn Lô - Hà Văn Thư (1984), Văn hóa Tày - Nùng, Nxb Văn hóa, Hà Nội. Vũ Lợi (1983), “Sự phát triển dòng họ của người Êđê ở tỉnh Đắc Lắc”, Tạp chí Dân tộc học, số 3, tr. 3-6. Vũ Đình Lợi (1994), Hôn nhân và gia đình truyền thống của các dân tộc Malayo - Polynexia Trường Sơn Tây Nguyên, Nxb Khoa học Xã hội, Hà Nội. Hoàng Lương (1981), “Quan hệ giữa các dòng họ và hôn nhân hỗn hợp ở Mường Tấc - Sơn La”, Sưu tập Dân tộc học, tr. 48-49. R.Jon Mcgee - Richard L. Warms (2010), Lý thuyết Nhân loại học giới thiệu lịch sử, Nxb Từ Điển bách khoa, Hà Nội. Hoàng Nam (1973), “Bước đầu suy nghĩ về mối quan hệ giữa người Tày và người Nùng”, Thông báo Dân tộc học, số 3, tr. 57-59. Hoàng Nam (1992), Dân tộc Nùng ở Việt Nam, Nxb Văn hóa Dân tộc, Hà Nội. Nguyễn Thị Ngân (2010), “Quan niệm về hồn, linh hồn của người Nùng Phàn Slình ở Thái Nguyên”, Tạp chí Nghiên cứu Đông Nam Á, số 6, tr.55-58. Nguyễn Thị Ngân (2011a), Tang ma của người Nùng Phàn Slình ở Thái Nguyên, luận án Tiến sĩ sử học, tư liệu Khoa Lịch sử đại học KHXH&NV, Hà Nội. Hoàng Thị Niên (2011), Bước đầu khảo sát nhóm từ chỉ quan hệ thân tộc trong ngôn ngữ của hai ngành Nùng ở huyện Chi Lăng, tỉnh Lạng Sơn (Nùng Inh và Nùng Phàn Slình có so sánh, đối chiếu với tiếng Việt), khóa luận tốt nghiệp, Khoa Ngôn ngữ học, Đại học KHXH &NV - Đại học Quốc gia Hà Nội. Emmanuel Pannier (2008), “Phân tích mạng lưới xã hội: các lý thuyết, khái niệm và phương pháp nghiên cứu”, Tạp chí Xã hội học, số 4, tr. 100-115. Nguyễn Hồng Phong (1959), Xã thôn Việt Nam, Nxb Văn Sử địa, Hà Nội. Phạm Minh Phúc (2011), “Tìm hiểu vai trò của dòng họ người Việt ở một làng Bắc Bộ (Làng Bối Khê, xã Tam Hưng, huyện Thanh Oai, Tp. Hà Nội”, Tạp chí nghiên cứu Đông Nam Á, số 3, tr. 57-63 Ngọc Quang (1997), “Dòng họ của người Triêng truyền thuyết và mối quan hệ cộng đồng”, số 4, tr. 65-68. Vương Duy Quang (1987), “Quan hệ dòng họ trong xã hội người Hmông”, Tạp chí Dân tộc học, số 2, tr. 72-78. Vương Duy Quang (1994), “Dòng họ - một đặc thù của xã hội người Hmông”, Tạp chí Dân tộc học, số 2, tr. 22. Trịnh Thị Quang (1984), “Mấy vấn đề về quan hệ thân tộc ở nông thôn”, Tạp chí Xã hội học, số 2, tr.47-52. Trịnh Thị Quang (1985), “Ảnh hưởng của mối quan hệ thân tộc và láng giềng tới việc sinh đẻ và số con trong gia đình nông thôn”, Tạp chí Xã hội học, số 4, tr. 34-52. Vũ Hồng Quân (1994), “Thử phân tích yếu tố dòng họ trong cấu trúc sở hữu ruộng đất của một làng thuộc đồng bằng Bắc Bộ đầu thế kỷ XIX”, Tạp chí Dân tộc học, số 3, tr. 3-6. Khoa Nhân học (2009), Nhân học Đại cương, Nxb Đại học Quốc gia TP. Hồ Chí Minh, Tp. Hồ Chí Minh. Phạm Văn Quyết - Nguyễn Quý Thanh (2001), Phương pháp nghiên cứu xã hội học, Nxb Đại học Quốc gia Hà Nội, Hà Nội. Emily A.Schultz và Robert H. Lavenda (2001), Nhân học một quan điểm về tình trạng Nhân sinh, Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội. Sở Văn hóa thông tin tỉnh Thái Bình (1999), Văn hóa dòng họ ở Thái Bình, Kỷ yếu Hội thảo khoa học, Sở văn Hóa thông tin Thái Bình - Viện nghiên cứu Văn hóa Dân gian. Oliver Tessier (2010), “Giúp đỡ” và tương trợ trong cộng đồng làng quê ở miền Bắc Việt Nam: Quan hệ giữa tình đoàn kết và sự phụ thuộc” trong: Hiện đại và động thái của truyền thống ở Việt Nam: những tiếp cận Nhân học, quyển 1, Nxb Đại học Quốc gia Thành phố Hồ Chí Minh. Phan Chí Thành (1979), “Một hình thức “Tông tộc” ở người Thái Quỳ Châu, Nghệ Tĩnh”, Tạp chí Dân tộc học, số 4, tr. 46-52. Phan Chí Thành (2003), “Thực chất của kết cấu dòng họ người Việt trong đời sống làng xã ở đồng bằng Bắc Bộ”, Tạp chí Dân tộc học, số, tr.40-44 Phan Chí Thành (2006), Dòng họ và đời sống làng xã ở đồng bằng Bắc Bộ qua tư liệu ở một số xã thuộc huyện Thạch Thất - Hà Tây, Luận án tiến sỹ, Thư viện Quốc gia Việt Nam - ký hiệu LA06.493.1. Đinh Thị Phương Thảo (2003), “Tìm hiểu quan hệ dòng họ trong hoạt động cúng giỗ ở nông thôn (qua khảo sát việc thực tế lễ giỗ tại làng Đại Kim, xã Đồng Tiến, huyện Phổ Yên, tỉnh Thái Nguyên)”, Tạp chí Xã hội học, số 1, tr. 65-71. Ngô Đức Thịnh (2007), Về tín ngưỡng lễ hội cổ truyền, Nxb, Viện Văn hóa - Nhà xuất Bản Văn hóa - Thông tin, Hà Nội. Hoàng Bá Thịnh (2008), “Về vốn xã hội và mạng lưới xã hội”, Tạp chí Dân tộc học, số 5. tr.45-55. Hoàng Bá Thịnh (2009), “Vốn xã hội, mạng lưới xã hội và những phí tổn”, Tạp chí Xã hội học, số 1, tr. 42-51. Phạm Ngọc Thưởng (1995), “Xưng hô giữa vợ - chồng trong gia đình người Tày, Nùng”, Tạp chí Dân tộc học, số 1, tr.47-49. Phạm Ngọc Thưởng (2000), “Từ thân tộc trong xưng hô của người Nùng (tiếp cận duới góc độ ngôn ngữ văn hóa)”, Tạp chí Ngôn ngữ học, số 3, tr.55-58 Lê Minh Tiến (2006), “Tổng quan phương pháp phân tích mạng lưới xã hội”, Tạp chí Khoa học Xã hội, số 9, tr.67-77. Lê Minh Tiến (2010), “Phân tích mạng lưới xã hội” trong Phương pháp nghiên cứu xã hội và lịch sử (Bùi Thế Cường chủ biên), Nxb Từ điển Bách khoa, Hà Nội. Nguyễn Văn Tiệp (1976), “Về tổ chức xã hội và quan hệ dòng họ của người Pa Cô ở Bình Trị Thiên”, Tạp chí Dân tộc học, số 4, tr. 96-102. Hoàng Hoa Toàn - Đàm Thị Uyên (1998), “Nguồn gốc lịch sử các tộc người Tày, Nùng ở Việt Nam”, Tạp chí Dân tộc học, số 2, tr. 29-42. Nguyễn Văn Toàn (2012), “Tín ngưỡng dòng họ với cố kết tộc người ở các dân tộc Hmông và Khơ - mú (Nghiên cứu ở huyện Kỳ Sơn, tỉnh Nghệ An), Tạp chí Dân tộc học, số 5&6, tr.46-55. Vương Toàn (2010), “Mấy điểm khác biệt về văn hóa truyền thống giữa người Tày và người Nùng ở Lạng Sơn”, Tạp chí Dân tộc học, số 3, tr. 41-49. Vương Toàn (2012), “Sự khác biệt giữa các ngành Nùng ở Việt Nam và những câu hỏi còn bỏ ngỏ” trong Cộng đồng các tộc người ngữ hệ Thái - Kadai ở Việt Nam truyền thống, hội nhập và phát triển (kỷ yếu hội thảo Thái học lần VI), Nxb Thế Giới, Hà Nội. Cầm Trọng (1977), “Quan hệ dòng họ trong các bản của người Thái ở Vùng Tây Bắc”, Tạp chí Dân tộc học, số 1, tr. 73-80. Vũ Văn Trọng (2000), “Quan hệ dòng họ một số yếu tố tạo nên sự cố kết bền vững về tâm lý trong xã hội Mông”, Tạp chí Tâm Lí học, số 6, tr. 62-65. Nguyễn Anh Tuấn (2011), “Tang ma của người Nùng Phàn Slình”, Tạp chí Dân tộc học, số 6, tr. 36-46. Trần Từ (1984), Cơ cấu tổ chức của Làng Việt cổ truyền ở Bắc Bộ, Nxb Khoa học Xã hội, Hà Nội. Đặng Nghiêm Vạn (1991), “Dòng họ, gia đình và các dân tộc ít người trước sự phát triển hiện nay” trong Những nghiên cứu Xã hội học về gia đình Việt Nam (Rita Lijestrom - Tương Lai chủ biên), Nxb Khoa học Xã hội, Hà Nội. Đặng Nghiêm Vạn (1998), “Bàn về dòng họ người Việt”, Tạp chí Dân tộc học, số 3, tr.4-14. Viện Dân tộc học (1992), Các dân tộc Tày Nùng ở Việt Nam, Nxb. Khoa học Xã hội, Hà Nội. Viện Ngôn ngữ học (2006), Từ điển Tiếng Việt, Nxb Đà Nẵng và Trung tâm Từ điển học. Viện Sử học (1977-1978), Nông thôn Việt Nam trong lịch sử, Nxb Khoa học Xã hội, Hà Nội. Trần Quốc Vượng (1997), “Đôi lời về văn hóa dòng họ ở Việt Nam” trong Văn hóa các dòng họ ở Nghệ An với sự nghiệp thực hiện chiến lược con người Việt Nam đầu thế kỷ XXI - kỷ yếu hội thảo, Nxb Nghệ An. Trần Quốc Vượng (2006), “Tổng luận về các dòng họ văn hiến của Hà Nội” trong Dặm dài đất nước - những vùng đất, con người, tâm thức người Việt, tập 1, Nxb Thuận Hóa, Huế. Nguyễn Thị Yên (1998), “Tìm hiểu yếu tố tín ngưỡng trong lễ hội của người Tày, Nùng”, Tạp chí Văn hóa Dân gian, số 1, tr.3-10. Nguyễn Thị Yên (2001), “Thờ Mẫu trong tín ngưỡng của người Tày, Nùng”, Tạp chí Văn hóa Dân gian, số 5, tr.28-36. Nguyễn Thị Yên (2004), “Một số hình thức tín ngưỡng dân gian của người Tày, Nùng Việt Nam và Choang Trung Quốc”, Tạp chí Dân tộc học, số 2, tr.12-23. Nguyễn Thị Yên (2009), Tín ngưỡng dân gian Tày - Nùng, Nxb Khoa học Xã hội, Hà Nội. TÀI LIỆU TIẾNG NƯỚC NGOÀI Bourdieu, P. (1986). The Forms of Capital. In J. G. Richardson (Ed.), Handbook of Theory and Research for the Sociology of Education, page. 241-258. New York: Greenwood. Coleman, J. S. (1988). “Social Capital in the Creation of Human-Capital”, American Journal of Sociology, 94, page. 95-120. Douglas R.White – Paul Jorin (1996), “Kinship networks and discrete structure theory: applications and implication:, Social Networks, Vol.18, page. 267-314. Fukuyama, F. (2001). “Social Capital, Civil Society and Development”, Third World Quarterly, page. 7-20. Fukuyama, F. (2002), “Social Capital and Development: The Coming Agenda”, SAIS review, page. 23-38. Lin, Na. (1999), Building a Network Theory of Social Capital, Connections, page. 28-51. Lin, Na. (2001), Social Capital: A Theory of Social Structure and Action, Cambridge: Cambridge University Press. Nicholas Tapp (1989), “Hmong Religion”, in Asian Foklore studies, Journal of Southeast Asian Studies Prasit Leep Cha (2001), Kinship and Identity among Hmong in Thailand, Unpublished Ph.D Dissertation, University of Washington. Portes, A. (1998), “Social Capital: Its Origins and Applications in Modern Sociology”, Annual Review of Sociology, page. 24, 1-24 Putnam.R.D (2000), Bowling Alone: The Collapse and Revival of American Community. New York, etc: Simon &Schuster. Radcliffe - Brow (1935), “Kinship Terminologies in California”, American Anthropologist (37), page. 530-535 Yunxiang Yan (1996), The Flow of gifl: Reciprocity and socail networks in a chinese village, Sanford University Press. Hoàng Chấn Khìn Hoàng Quốc Báo Hoàng Chấn Khìn Hoàng Sỹ Dũng Hoàng Chấn Khìn Hoàng Sỹ Quốc Ghi Chú: - I,II..Số thế hệ của dòng tộc - 1,2, 3.. Số thứ tự của từng thành viên - * Di cư khỏi địa phương Nguồn: Điều tra thực địa của NCS tháng 11 năm 2008 1.Hoàng Quốc Thán Cây Phả hệ số 01. Dòng họ Hoàng thôn Sơn Hồng xã Gia Cát – Nhánh thứ nhất V.1.Hoàng Trung Và VI.1.Hoàng Sào Tung I.Hoàng Ký Slẳn. II.Hoàng Kim III.Hoàng Sảng. IV.Hoàng Dấu. V.2 .Hoàng Trung Tàng V.4. Hoàng Trung Slỉnh V.3. Hoàng Trung Slẩn VII.1. Hoàng Đình Khon VIII.1.Hoàng Chấn Khìn* VII.6. Hoàng Đình Tú VII.5. Hoàng Đình Phát VII.4. Hoàng Đình Hồng VIII.1.Hoàng Chấn Khang VIII.2. Hoàng Chấn Ngan IX.1.Hoàng Quốc Trung* 1.Hoàng Quốc Thán IX.4. Hoàng Chấn Khìn* 1.Hoàng Quốc Thán IX.3. Hoàng Chấn Téo 1.Hoàng Quốc Thán IX.2.Hoàng Quốc Tròn* 1.Hoàng Quốc Thán VII.2.Hoàng Đình Nguyên VIII.1. Hoàng Chấn Lình X.1.Hoàng Sỹ Kiến 1.Hoàng Quốc Thán IX.1. Hoàng Chấn Lình 1.Hoàng Quốc Thán IX.2. Hoàng Quốc Liệu 1.Hoàng Quốc Thán VIII.1. Hoàng Chấn Ben VIII.2.Hoàng Chấn Nàn IX.1. Hoàng Quốc Đức 1.Hoàng Quốc Thán IX.2. Hoàng Quốc Slinh 1.Hoàng Quốc Thán VIII.1Hoàng Chấn Thào IX.2. Hoàng Quốc Vàng 1.Hoàng Quốc Thán IX.4. Hoàng Quốc Thang 1.Hoàng Quốc Thán IX.3. Hoàng Quốc Sáo 1.Hoàng Quốc Thán IX.1.Hoàng Quốc Chớ 1.Hoàng Quốc Thán VII.3. Hoàng Đình Lý VIII.1.Hoàng Chấn S lỉnh X.1.Hoàng Sỹ Dũng 1.Hoàng Quốc Thán IX.1.Hoàng Quốc Ngân 1.Hoàng Quốc Thán IX.3. Hoàng Quốc Bộ 1.Hoàng Quốc Thán IX.2. Hoàng Quốc Nam 1.Hoàng Quốc Thán IX.1.Hoàng Quốc Thon 1.Hoàng Quốc Thán X.2. Hoàng Sỹ Quân 1.Hoàng Quốc Thán X.1. Hoàng Sỹ Phán 1.Hoàng Quốc Thán IX.1.Hoàng Quốc Phấn 1.Hoàng Quốc Thán IX.2. Hoàng Quốc Lài 1.Hoàng Quốc Thán IX.3.Hoàng Quốc Long 1.Hoàng Quốc Thán IX.4. Hoàng Quốc Hương 1.Hoàng Quốc Thán IX.5. Hoàng Quốc Bản 1.Hoàng Quốc Thán X.1.Hoàng Sỹ Thụ 1.Hoàng Quốc Thán X.2. Hoàng Sỹ Thoại 1.Hoàng Quốc Thán X.3. Hoàng Sỹ Tới 1.Hoàng Quốc Thán X.2. Hoàng Sỹ Thành 1.Hoàng Quốc Thán X.1. Hoàng Sỹ Tùng 1.Hoàng Quốc Thán X.1.Hoàng Sỹ Đàn 1.Hoàng Quốc Thán X.1. Hoàng Sỹ Vinh 1.Hoàng Quốc Thán PHẦN PHỤ LỤC Hoàng Chấn Khìn Hoàng Quốc Báo Hoàng Chấn Khìn Hoàng Sỹ Dũng Hoàng Chấn Khìn Hoàng Sỹ Quốc Nguồn: Điều tra thực địa của NCS tháng 11 năm 2008 1.Hoàng Quốc Thán Cây Phả hệ số 02. Dòng họ Hoàng thôn cây Hồng xã Kháng Chiến – Nhánh thứ hai VII.1. Hoàng Sào Phu VIII.1. Hoàng Đình Tiên VI.2. Hoàng Trung Tàng VII.5. Hoàng Đình Cao VIII.2. Hoàng Đình Vương VII.3. Hoàng Đình Lộc VIII.1. Hoàng Chấn Sang* VIII.2. Hoàng Chấn Hoa* 1.Hoàng Quốc Thán VIII.1. Hoàng Chấn Sơn 1.Hoàng Quốc Thán IX.1. Hoàng Quốc Thon 1.Hoàng Quốc Thán VII.2. Hoàng Sào Slân VII.2. Hoàng Đình Long* VII.1. Hoàng Đình Hiền* VII.4. Hoàng Đình Hưng VIII.1. Hoàng Chấn Khay* 1.Hoàng Quốc Thán VIII.2. Hoàng Chấn Sàng* 1.Hoàng Quốc Thán VIII.3. Hoàng Chấn Cô* IX.1. Hoàng Quốc Sàng IX.2. Hoàng Quốc Xuân 1.Hoàng Quốc Thán IX.3. Hoàng Quốc Đài 1.Hoàng Quốc Thán VIII.4. Hoàng Chấn Them* 1.Hoàng Quốc Thán VIII.3. Hoàng Chấn Khẩu* 1.Hoàng Quốc Thán VIII.2. Hoàng Chấn Giàu 1.Hoàng Quốc Thán VIII.1. Hoàng Chấn Slinh 1.Hoàng Quốc Thán IX.4. Hoàng Quốc Bình 1.Hoàng Quốc Thán IX.3. Hoàng Quốc Hùng 1.Hoàng Quốc Thán IX.2. Hoàng Quốc Hà 1.Hoàng Quốc Thán IX.1. Hoàng Quốc Khí 1.Hoàng Quốc Thán VIII.1. Hoàng Chấn Khài 1.Hoàng Quốc Thán IX.1. Hoàng Quốc Hai 1.Hoàng Quốc Thán IX.2. Hoàng Quốc Động 1.Hoàng Quốc Thán IIX.3. Hoàng Quốc Ké 1.Hoàng Quốc Thán IX.2. Hoàng Quốc Kết 1.Hoàng Quốc Thán VIII.2. Hoàng Chấn Ký 1.Hoàng Quốc Thán IX.2. Hoàng Quốc Huân 1.Hoàng Quốc Thán IX.1. Hoàng Quốc Đạo 1.Hoàng Quốc Thán Ghi Chú: - I,IISố thế hệ của dòng tộc - 1,2, 3...Số thứ tự của từng thành viên - * Di cư khỏi địa phương Hoàng Chấn Khìn Hoàng Quốc Báo Hoàng Chấn Khìn Hoàng Sỹ Dũng Hoàng Chấn Khìn Hoàng Sỹ Quốc Nguồn: Điều tra thực địa của NCS tháng 11 năm 2008 1.Hoàng Quốc Thán Cây Phả hệ số 03. Dòng họ Hoàng thôn cây Hồng xã Kháng Chiến – Nhánh thứ ba VII.1. Hoàng Sào Sông VIII.1. Hoàng Đình Sài VI.3. Hoàng Trung Slẩn VII.2. Hoàng Đình Liên VII.2. Hoàng Sào Sàng VIII.2. Hoàng Chấn Thành 1.Hoàng Quốc Thán VIII.3. Hoàng Chấn Văn VIII.1. Hoàng Chấn Phùng 1.Hoàng Quốc Thán IX.4. Hoàng Quốc Hàng 1.Hoàng Quốc Thán IX.3. Hoàng Quốc Phân 1.Hoàng Quốc Thán IX.2. Hoàng Quốc Phí 1.Hoàng Quốc Thán IX.1. Hoàng Quốc Rí 1.Hoàng Quốc Thán X.1. Hoàng Sỹ Sinh 1.Hoàng Quốc Thán X.2. Hoàng Sớm 1.Hoàng Quốc Thán X.3. Hoàng Sỹ Hùng 1.Hoàng Quốc Thán X.4. Hoàng Sỹ Đội 1.Hoàng Quốc Thán X.1. Hoàng Sỹ Thanh 1.Hoàng Quốc Thán X.1. Hoàng Sỹ Sơn 1.Hoàng Quốc Thán VIII.2. Hoàng Đình Nhiêu VIII.1. Hoàng Chấn Phay 1.Hoàng Quốc Thán VIII.2. Hoàng Chấn Rện 1.Hoàng Quốc Thán IX.1. Hoàng Quốc Tiển 1.Hoàng Quốc Thán IX.1. Hoàng Quốc Minh 1.Hoàng Quốc Thán IX.2. Hoàng Quốc Pình 1.Hoàng Quốc Thán IX.3. Hoàng Quốc Xuân 1.Hoàng Quốc Thán IX.4. Hoàng Quốc Ty 1.Hoàng Quốc Thán VIII.3. Hoàng Chấn Cai* 1.Hoàng Quốc Thán VIII.2. Hoàng Chấn Lằn 1.Hoàng Quốc Thán IX.1. Hoàng Quốc Làng IX.2. Hoàng Quốc Chính 1.Hoàng Quốc Thán X.1. Hoàng Sỹ Đình 1.Hoàng Quốc Thán X.2. Hoàng Sỹ Ký 1.Hoàng Quốc Thán X.1. Hoàng Sỹ Ngôn 1.Hoàng Quốc Thán X.2. Hoàng Sỹ Tùng 1.Hoàng Quốc Thán X.3. Hoàng Sỹ Tiệp 1.Hoàng Quốc Thán X.1. Hoàng Sỹ Vương 1.Hoàng Quốc Thán X.2. Hoàng Sỹ Tò 1.Hoàng Quốc Thán X.1. Hoàng Sỹ Hùng 1.Hoàng Quốc Thán X.1. Hoàng Sỹ Tân 1.Hoàng Quốc Thán X.1. Hoàng Sỹ Toan 1.Hoàng Quốc Thán X.1. Hoàng Sỹ Đợi 1.Hoàng Quốc Thán X.2. Hoàng Sỹ Bình 1.Hoàng Quốc Thán X.1. Hoàng Sỹ Quân 1.Hoàng Quốc Thán IX.2. Hoàng Quốc Thọ 1.Hoàng Quốc Thán IX. 1. Hoàng Quốc Thiên 1.Hoàng Quốc Thán VII.3. Hoàng Đình Cá VIII.1. Hoàng Chấn Thạo 1.Hoàng Quốc Thán VIII.2. Hoàng Chấn Thạo* 1.Hoàng Quốc Thán IX.2. Hoàng Quốc Rén* 1.Hoàng Quốc Thán IX.1. Hoàng Quốc Tiến 1.Hoàng Quốc Thán IX. 1. Hoàng Quốc Sen 1.Hoàng Quốc Thán VII.1. Hoàng Đình Dũng VIII. 1. Hoàng Chấn Pảo 1.Hoàng Quốc Thán VIII.2. Hoàng Chấn Sen 1.Hoàng Quốc Thán VIII.3. Hoàng Chấn Kim* 1.Hoàng Quốc Thán X.1. Hoàng Sỹ Tôn 1.Hoàng Quốc Thán X.2. Hoàng Sỹ Thân 1.Hoàng Quốc Thán X.1. Hoàng Sỹ Phong 1.Hoàng Quốc Thán X.2. Hoàng Sỹ Sáng 1.Hoàng Quốc Thán X.3. Hoàng Sỹ Chiêu 1.Hoàng Quốc Thán VIII.1. Hoàng Chấn Làn 1.Hoàng Quốc Thán X.1. Hoàng Sỹ Bảo 1.Hoàng Quốc Thán X.1. Hoàng Sỹ Hợi 1.Hoàng Quốc Thán IX.1. Hoàng Quốc Tiến 1.Hoàng Quốc Thán X.1. Hoàng Sỹ Lương 1.Hoàng Quốc Thán X.1. Hoàng Sỹ Huấn 1.Hoàng Quốc Thán X.3. Hoàng Sỹ Hiếu 1.Hoàng Quốc Thán X.2. Hoàng Sỹ Viên 1.Hoàng Quốc Thán X.1. Hoàng Sỹ Tiếu 1.Hoàng Quốc Thán IX.1. Hoàng Quốc Chén 1.Hoàng Quốc Thán IX.1. Hoàng Quốc Việt 1.Hoàng Quốc Thán IX.2. Hoàng Quốc Viển 1.Hoàng Quốc Thán IX.1. Hoàng Quốc Nền 1.Hoàng Quốc Thán IX.3. Hoàng Quốc Hiển 1.Hoàng Quốc Thán IX.4. Hoàng Quốc Dũng 1.Hoàng Quốc Thán IX.5. Hoàng Quốc Khôn 1.Hoàng Quốc Thán Ghi Chú: - I,IISố thế hệ của dòng tộc - 1,2, 3...Số thứ tự của từng thành viên - * Di cư khỏi địa phương Hoàng Chấn Khìn Hoàng Quốc Báo Hoàng Chấn Khìn Hoàng Sỹ Dũng Hoàng Chấn Khìn Hoàng Sỹ Quốc Nguồn: Điều tra thực địa của NCS tháng 11 năm 2008 1.Hoàng Quốc Thán Cây Phả hệ số 04. Dòng họ Hoàng thôn cây Hồng xã Kháng Chiến – Nhánh thứ tư VII.1. Hoàng Sào Xuân VIII.1. Hoàng Đình Lưu VI.4. Hoàng Trung Slỉnh VII.2. Hoàng Đình Minh VII.2. Hoàng Sào Sau VIII.2. Hoàng Chấn Lý 1.Hoàng Quốc Thán VIII.1. Hoàng Chấn Pói 1.Hoàng Quốc Thán IX.3. Hoàng Quốc Hải 1.Hoàng Quốc Thán IX.2. Hoàng Quốc Chắn 1.Hoàng Quốc Thán IX.1. Hoàng Quốc Tưng 1.Hoàng Quốc Thán VIII.2. Hoàng Chấn Pao 1.Hoàng Quốc Thán IX.1. Hoàng Quốc Bao IX.2. Hoàng Quốc Chịch 1.Hoàng Quốc Thán IX.1. Hoàng Quốc Khèn 1.Hoàng Quốc Thán VII.1. Hoàng Đình Anh VIII. 1. Hoàng Chấn Phúc 1.Hoàng Quốc Thán X.1. Hoàng Sỹ Khai 1.Hoàng Quốc Thán VIII.1. Hoàng Chấn Lùng 1.Hoàng Quốc Thán IX.2. Hoàng Quốc Ròn 1.Hoàng Quốc Thán IX.2. Hoàng Quốc Thủy 1.Hoàng Quốc Thán IX.1. Hoàng Quốc Ngáo 1.Hoàng Quốc Thán IX.2. Hoàng Quốc Trạch 1.Hoàng Quốc Thán IX.1. Hoàng Quốc Dương 1.Hoàng Quốc Thán Ghi Chú: - I,IISố thế hệ của dòng tộc - 1,2, 3...Số thứ tự của từng thành viên - * Di cư khỏi địa phương IX.1. Hoàng Quốc Thán 1.Hoàng Quốc Thán IX.2. Hoàng Quốc Lưu 1.Hoàng Quốc Thán IX.3. Hoàng Quốc Sửu 1.Hoàng Quốc Thán X.1. Hoàng Sỹ Nước 1.Hoàng Quốc Thán X.1. Hoàng Sỹ Anh 1.Hoàng Quốc Thán X.1. Hoàng Sỹ Ngao 1.Hoàng Quốc Thán X.1. Hoàng Sỹ Ngộ 1.Hoàng Quốc Thán IX.2. Hoàng Quốc Bình 1.Hoàng Quốc Thán IX. 1. Hoàng Quốc Lài 1.Hoàng Quốc Thán VII.2. Hoàng Đình Năng VIII.1. Hoàng Chấn Lợi 1.Hoàng Quốc Thán VIII.2. Hoàng Chấn Tợ 1.Hoàng Quốc Thán IX.4. Hoàng Quốc Thi* 1.Hoàng Quốc Thán IX. 3. Hoàng Quốc Lương* 1.Hoàng Quốc Thán Cây phả hệ số 05. Dòng họ Hứa – Khí (TQ), xã Thanh Lòa, huyện Cao Lộc I. Hứa Sao Thịnh II.1. Hứa Tinh Mìn II.2. Hứa Tình Slinh II.3.Hứa Tình Slần III.1.Hứa Quốc Vũ V.1.Hứa Phúc Sai IV.1Hứa Vân Háo VI.1.Hứa Đức Hồng Trung Quốc IV.1.Hứa Vân Loan (Ego) III.1Hứa Quốc Chương IV.2.Hứa Vân Bình IV.4. Hứa Vân Hóa IV.3. Hứa Vân Đạo V.1. Hứa Phúc Hồng V.2. Hứa Phúc Sơn* V.1.Hứa Phúc Triều V.2.Hứa Phúc Hinh VI.2.Hứa Đức Thìn VI.2. Hứa Đức Viên VI.3. Hứa Đức Đàn VI.1. Hứa Đức Thân VI.2. Hứa Đức Thủy V.1. Hứa Phúc Vân* V.2. Hứa Phúc Sài V.3. Hứa Phúc Thắng V.4. Hứa Phúc Khỉnh* V.6. Hứa Phúc Sét* VI.1.Hứa Đức Phó VI.1. Hứa Đức Vinh V.5. Hứa Phúc Vải* III.2.Hứa Quốc Văn IV.1.Hứa Vân Thái V.1.Hứa Phúc Hưng VI.1.Hứa Đức Mình III.1.Hứa Quốc Thành V.2.Hứa Phúc Đương* VI.2Hứa Đức ? V.3.Hứa Phúc Động VI.1. Hứa Đức ? IV.1.Hứa Vân Hóa V.1.Hứa Phúc Đạo VI.1.Hứa Đức ? III.2.Hứa Quốc Thạo IV.1.Hứa Vân Thinh V.1.Hứa Phúc Mai VI.1.Hứa Đức ? III.3.Hứa Quốc Thố IV.1.Hứa Vân Đáo IV.2.Hứa Vân Động V.1. Hứa Phúc Mân V.2. Hứa Phúc Mão VI.1. Hứa Đức Hào V.1. Hứa Phúc Họa VI.1. Hứa Đức ? VI.1. Hứa Đức ? V.1. Hứa Phúc Hiếu VI.2.Hứa Đức Hải VI.1. Hứa Đức Tùng Trung Quốc Việt Nam Ghi Chú: - I,IISố thế hệ của dòng tộc - 1,2, 3...Số thứ tự của từng thành viên - * Di cư khỏi địa phương VI.1. Hứa Đức Anh VI.1. Hứa Đức Trương Nguồn: Điều tra thực địa của NCS tháng 10 năm 2013 Ảnh số 01: Nhà của người Nùng Phàn Slình Thôn Sơn Hồng, xã Gia Cát, tháng 10 năm 2013, Lê Minh Anh Ảnh số 02: Phụ nữ Nùng Phàn Slình Thôn Sơn Hồng, xã Gia Cát, tháng 8 năm 2008, Lê Minh Anh Ảnh số 03: Phụ nữ Nùng Phàn Slình, thôn Pò Nghiều, xã Thụy Hùng, tháng 10 năm 2013, Lê Minh Anh Ảnh số 04: Bàn thờ của người Nùng Phàn Slình Thôn Nà Pheo, xã Thanh Lòa, Tháng 10 năm 2011, Phạm Thu Hà Ảnh số 05: Thầy cúng đang làm lễ, thôn Sơn Hồng, xã Gia Cát, tháng 8 năm 2007, Lê Minh Anh Ảnh số 06: Thầy cúng làm lễ cầu sức khỏe, thôn Sơn Hồng, xã Gia Cát, tháng 8 năm 2007, Lê Minh Anh Ảnh số 07: Thầy cúng đang xin âm dương, thôn Sơn Hồng, xã Gia Cát, tháng 8 năm 2007, Lê Minh Anh Ảnh số 08: Thầy cúng đang đọc kinh trong lễ cúng chữa bệnh, thôn Sơn Hồng, xã Gia Cát, tháng 8 năm 2007, Lê Minh Anh Ảnh số 09: Chân giò lợn để biếu anh em bên họ nội trong đám cưới, thôn Nà Pheo, xã Thanh Lòa, tháng 12 năm 2011, Lê Minh Anh Ảnh số 10: Thịt lợn để biếu anh, em dòng họ bên ngoại trong lễ cưới, thôn Nà Pheo, xã Thanh Lòa, tháng 11 năm 2011, Lê Minh Anh Ảnh số 11: Chuẩn bị quà cảm tạ anh em bên nội, ngoại, bên vợ về dự lễ cưới con, thôn Nà Pheo, xã Thanh Lòa, tháng 12 năm 2011, Lê Minh Anh Ảnh số 12: Mang lễ vật sang nhà gái trong lễ cưới thôn Nà Pheo, xã Thanh Lòa, tháng 12 năm 2011, Lê Minh Anh Ảnh số 12: Lễ vật xin dâu trong đám cưới cưới, thôn Nà Pheo, xã Thanh Lòa, tháng 12 năm 2011, Lê Minh Anh Ảnh số 13: Mang lễ sang xin dâu trong đám cưới, thôn Nà Pheo, xã Thanh Lòa, tháng 12 năm 2011, Lê Minh Anh Ảnh số 14: Thầy cúng chuẩn bị lễ đi đón dâu, thôn Nà Pheo, xã Thanh Lòa, tháng 12 năm 2011, Lê Minh Anh Ảnh số 15: Đoàn đón dâu, thôn Nà Pheo, xã Thanh Lòa, tháng 12 năm 2011, Lê Minh Anh Ảnh số 16: Cô dâu người Nùng Phàn Slình, thôn Nà Pheo, xã Thanh Lòa, tháng 12 năm 2011, Lê Minh Anh Ảnh số 17: Chú rể đi mời thuốc và nhận họ hàng bên vợ, thôn Nà Pheo, xã Thanh Lòa, tháng 12 năm 2011, Lê Minh Anh Ảnh số 18: Đưa dâu về nhà chồng, thôn Nà Pheo, xã Thanh Lòa, tháng 12 năm 2011, Lê Minh Anh Ảnh số 19: Cô dâu đi mời thuốc và nhận họ bên bố chồng thôn Nà Pheo, xã Thanh Lòa, tháng 12 năm 2011, Lê Minh Anh Ảnh số 20: Cô dâu đi mời nước và nhận họ bên mẹ chồng thôn Nà Pheo, xã Thanh Lòa, tháng 12 năm 2011, Lê Minh Anh Ảnh số 21: Chủ hộ cảm ơn các chi em bên nhà vợ trong lễ cưới con trai, thôn Nà Pheo, xã Thanh Lòa, thang 12 năm 2011, Lê Minh Anh Ảnh Ảnh số 22: Vợ chủ hộ cảm ơn bạn bè đến dự tiệc cưới con mình, thôn Nà Pheo, xã Gia Cát, tháng 12 năm 2011, Lê Minh Anh Ảnh số 23: Anh em họ hàng bên ngoại chuẩn bị lễ dâng viếng người chết, thôn Sa Cao, xã Gia Cát, tháng 10 năm 2013, Lê Minh Anh Ảnh số 24: Lê vật của dòng họ bên ngoại dâng viếng người chết, thôn Sa Cao, xã Gia Cát, tháng 10 năm 2013, Lê Minh Anh Ảnh số 25: Lễ vật dòng họ ngoại đặt trước linh sàng người quá cố, thôn Sa Cao, xã Gia Cát, tháng 10 năm 2013, Lê Minh Anh Ảnh số 26: Thầy cúng đọc bài cúng của dòng họ ngoại viếng hương hôn người quá cố, thôn Sa Cao, xã Gia Cát, tháng 10 năm 2013, Lê Minh Anh Ảnh số 27: Thổ công của thôn Sơn Hồng, xã Gia Cát, tháng 8 năm 2007, Hà Lương Tuấn – Học Viện Dân tộc Quảng Tây, Trung Quốc Ảnh số 28: Bàn thờ mụ, thôn Sơn Hồng, xã Gia Cát, tháng 8 năm 2007, Hà Lương Tuấn – Học Viện Dân tộc Quảng Tây, Trung Quốc Ảnh số 29: Sổ ghi tên những người đến trợ giúp trong đám tang, thôn Sơn Hồng, xã Gia Cát, tháng 8 năm 2007, Hà Lương Tuấn, Học viện Dân tộc Quảng Tây – Trung Quốc Ảnh số 30: Khu vực biên giới xã Thanh Lòa, huyện Cao Lộc, tháng 10 năm 2013, Lê Minh Anh Ảnh số 31: Thảo luận nhóm thôn Nà Pheo, xã Thanh Lòa, tháng 10 năm 2011, Phạm Thu Hà Ảnh 32: Thảo luận nhóm thôn Pò Nghiều, xã Thụy Hùng, tháng 10 năm 2013, Lê Minh Anh Ảnh số 33: Bánh truyền thống của người Nùng Phàn Slình, thôn Nà Pheo, xã Thanh Lòa, tháng 10 năm 2011, Khổng Kim Anh Ảnh số 34: Nghiên cứu tham dự, thôn Sơn Hồng, xã Gia Cát, tháng 10 năm 2008, Hoàng Sỹ Tôn – Sơn Hồng – Gia Cát Lược đồ các điểm nghiên cứu Điểm nghiên cứu Xã Thụy Hùng Điểm nghiên cứu Xã Thanh Loà Điểm nghiên cứu Xã Gia Cát TRUNG QUèC

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • docluan_an_quan_he_dong_ho_cua_nguoi_nung_phan_slinh.doc
  • docBIA TOM TAT LUAN AN_Chuan Format.doc
  • pdfLUAN AN_LMA_FULL_CAP HOC VIEN_1.pdf
  • docTOM TAT LUAN AN_LE MINH ANH_KHOA DA TOC HOC_HVKHXHVN.doc
  • docTOM TAT LUAN AN_LMA_Chuan Format.doc
Tài liệu liên quan