VIỆN HÀN LÂM
KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM
HỌC VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI
NGUYỄN VĂN QUẾ
QUAN ĐIỂM CỦA PHÂN TÂM HỌC
VỀ CON NGƢỜI VÀ VĂN HÓA – VĂN MINH
Chuyên ngành: Triết học
Mã số: 62.22.03.01
LUẬN ÁN TIẾN SĨ TRIẾT HỌC
NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC: PGS. TS. Nguyễn Tiến Dũng
HÀ NỘI - 2016
LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan đây là công trình nghiên cứu do tôi thực hiện dưới sự hướng
dẫn khoa học của PGS,TS. Nguyễn Tiến Dũng. Những trích dẫn trong luận án là
trung thực, có nguồn
165 trang |
Chia sẻ: huong20 | Ngày: 14/01/2022 | Lượt xem: 778 | Lượt tải: 1
Tóm tắt tài liệu Luận án Quan điểm của phân tâm học về con người và văn hóa – văn minh, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
n gốc rõ ràng. Những kết luận được rút ra từ kết quả nghiên cứu
của luận án là khách quan và chưa từng được công bố bởi tác giả nào trong bất cứ
công trình nào khác. Tác giả chịu trách nhiệm về tính xác thực và nguyên bản của
luận án.
Tác giả
Nguyễn Văn Quế
MỤC LỤC
MỞ ĐẦU .................................................................................................................... 1
CHƢƠNG 1: TỔNG QUAN TÌNH HÌNH NGHIÊN CỨU CÓ LIÊN QUAN
ĐẾN ĐỀ TÀI LUẬN ÁN ........................................................................................... 5
1.1. Các công trình nghiên cứu về bối cảnh lịch sử - xã hội và những tiền đề ra đời
của phân tâm học. ........................................................................................................ 5
1.2. Các công trình tiêu biểu có liên quan đến nội dung quan điểm của phân tâm học
về con người .............................................................................................................. 11
1.3. Các công trình tiêu biểu có liên quan đến nội dung quan điểm của phân tâm học
về văn hoá - văn minh ............................................................................................... 24
CHƢƠNG 2: BỐI CẢNH LỊCH SỬ - XÃ HỘI VÀ NHỮNG TIỀN ĐỀ RA ĐỜI
CỦA PHÂN TÂM HỌC ......................................................................................... 31
2.1. Bối cảnh lịch sử - xã hội .................................................................................... 31
2.2. Tiền đề khoa học ................................................................................................ 33
2.3. Tiền đề tư tưởng ................................................................................................. 39
CHƢƠNG 3: QUAN ĐIỂM CỦA PHÂN TÂM HỌC VỀ CON NGƢỜI ......... 52
3.1. Vị trí, vai trò của vô thức trong sự hình thành và phát triển con người ............. 52
3.2. Lý thuyết về nhân cách ...................................................................................... 68
3.3. Tích hợp học thuyết Marx và phân tâm học về con người trong lý thuyết nhân
bản của Erich Fromm ................................................................................................ 85
CHƢƠNG 4: QUAN ĐIỂM CỦA PHÂN TÂM HỌC VỀ VĂN HÓA – VĂN
MINH...................................................................................................................... 101
4.1. Nguồn gốc và bản chất của văn hóa – văn minh .............................................. 101
4.2. Vai trò của văn hóa – văn minh trong đời sống con người và xã hội .............. 112
4.3. Văn hóa của xã hội hiện đại theo quan niệm của E.Fromm ............................ 131
KẾT LUẬN ............................................................................................................ 147
DANH MỤC CÔNG TRÌNH CỦA TÁC GIẢ CÓ LIÊN QUAN ĐẾN LUẬN
ÁN ........................................................................................................................... 151
TÀI LIỆU THAM KHẢO .................................................................................... 152
1
MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Với tính cách là sản phẩm tinh thần của thời đại, sự ra đời của phân tâm học
(psychoanalysis) xét đến cùng là nhằm tìm kiếm những lời giải cho những vấn đề
của thời đại lúc bấy giờ, nhất là khắc phục sự tha hoá về tinh thần và sự ức chế của
con người trong xã hội phương Tây thế kỷ XX.
Có thể khẳng định rằng, những thành tựu khoa học kỹ thuật ở cuối thế kỷ XIX
- đầu thế kỷ XX đã làm thay đổi đáng kể bộ mặt của xã hội phương Tây. Một mặt,
khoa học kỹ thuật mang đến một đời sống tiện nghi, nhưng mặt khác, nó cũng làm
nảy sinh sự lệ thuộc và tha hoá về tinh thần của con người hiện đại. Sự ra đời của
Phân tâm học là hướng đến giải phóng con người khỏi những ức chế và dồn nén bên
trong của đời sống tâm thần.
Nhờ sự tìm tòi, nghiên cứu một lĩnh vực hết sức nhạy cảm, Sigmund Freud đã
xây dựng nên học thuyết phân tâm học – một trong những học thuyết có ảnh hưởng
sâu rộng trong nhiều lĩnh vực của đời sống hiện đại. Về điều này, trong Lời giới
thiệu cuốn Phân tâm học nhập môn, Jostein Gaarger đã viết: “Thực vậy, tất cả mọi
lĩnh vực tri thức của con người như văn chương, nghệ thuật, tôn giáo, nhân chủng
học, giáo dục, luật pháp, xã hội học, luật học, sử học và những môn về xã hội hay cá
nhân khác đều chịu ảnh hưởng của học thuyết Freud” [41, tr. iv]. Hơn một thế kỷ đã
trôi qua, lý thuyết phân tâm học đã có những sự phát triển phong phú hơn rất nhiều,
chứ không còn đóng khung trong những điều mà người ta từng hình dung về nó như
lúc ban đầu, đó là một phương pháp chữa trị hysteria.
Trong xu thế hội nhập quốc tế đang diễn ra hết sức mạnh mẽ trong giai đoạn
hiện nay, khoảng cách văn hóa Đông – Tây ngày càng có sự giao thoa và hướng lại
gần nhau. Bên cạnh những đóng góp tích cực trong việc phát triển con người và xã
hội thì sự hội nhập và phát triển này cũng dẫn tới những nguy cơ mới như: nạn ô
nhiễm môi trường, sự mất cân bằng sinh thái, khủng hoảng tài nguyên, đối diện với
tình trạng bùng nổ dân số, đại dịch, và hơn nữa đó là tình trạng mất cân bằng tâm
lý do đổ vỡ trong tình yêu, hôn nhân, gia đình, sức ép công việc, sự bất ổn bạo động
2
về chính trị, chiến tranh và những di chứng của nó để lại,đó là những điều làm
cho con người ngày càng trở nên tha hóa và ngày càng đánh mất mình trong xã hội.
Trong một thế giới đầy biến động như thế, con người cần hiểu rõ hơn về chính mình
và những gì con người làm ra trong xã hội.
Đặt trong bối cảnh ấy, chúng tôi cho rằng, nghiên cứu vấn đề con người và
văn hóa – văn minh tiếp cận từ góc độ phân tâm học giúp chúng ta có cái nhìn
khách quan và biện chứng trong đời sống con người và xã hội, góp phần làm phong
phú hơn vào kho tàng lý luận cũng như ý nghĩa thực tiễn. Vì thế, khi trả lời phóng
viên báo Nhân Đạo năm 1969, Hồ Chí Minh từng nói rằng, “có lẽ xuất phát từ hoàn
cảnh của chúng tôi, chúng tôi phải xây dựng đất nước trước hết bằng văn hóa”, nó
chính là nền tảng cốt lõi của lối sống, hành vi ứng xử, đạo đức, phương thức hoạt
động sống với sự định hướng giá trị mang lại ý nghĩa cho tồn tại con người và xã
hội.
Việc tiếp cận để làm sáng tỏ quan điểm phân tâm học về con người và văn hóa
– văn minh nhằm chắt lọc để tiếp thu và phát huy những yếu tố tích cực, nhận diện
nhằm phê phán, khắc phục những yếu tố chưa hợp lý, qua đó làm phong phú hơn
hiểu biết của chúng ta về con người và văn hóa – văn minh.
Phân tâm học ra đời được xem như đã “uốn cong” tư duy nhân loại sang một
hướng khác, bởi lẽ nó đã phá bỏ những tín điều mang tính truyền thống, đồng thời
cung cấp những phương án giải quyết mới cho vấn đề này để khắc phục sự khủng
hoảng tinh thần của con người trong xã hội. Quả thực, sức ảnh hưởng của phân tâm
học đối với xã hội hiện đại lớn đến mức khó có thể đo lường một cách chính xác,
nhưng sự hoài nghi về học thuyết này cũng không ít, nhất là ở các nước phương
Đông và Hồi giáo. Phần đông họ chỉ xem phân tâm học như là học thuyết về tình
dục. Chính những hiểu biết quy giản (một cách đơn giản) này phần nào làm cho
phân tâm học mất đi tính khoa học của nó. Do đó, việc tiếp tục tìm hiểu và nghiên
cứu vấn đề về con người và văn hoá - văn minh trong phân tâm học, theo chúng tôi,
là cần thiết nhằm đạt đến một nhận thức đầy đủ và toàn diện hơn của phân tâm học
về vấn đề này.
3
Từ những nhận thức trên, chúng tôi chọn vấn đề “Quan điểm của Phân tâm
học về con người và văn hoá – văn minh” làm đề tài luận án tiến sĩ chuyên ngành
Triết học.
2. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu của luận án
2.1. Mục đích nghiên cứu
Mục đích nghiên cứu của luận án là làm rõ quan điểm của phân tâm học về
con người và văn hóa – văn minh.
2.2. Nhiệm vụ nghiên cứu
- Tổng quan tình hình nghiên cứu có liên quan đến luận án.
- Phân tích bối cảnh lịch sử - xã hội và những tiền đề ra đời của phân tâm học.
- Làm rõ nội dung cơ bản quan điểm của phân tâm học về con người.
- Làm rõ nội dung cơ bản quan điểm của phân tâm học về văn hóa – văn minh.
3. Đối tƣợng và phạm vi nghiên cứu
3.1. Đối tượng nghiên cứu
Đối tượng nghiên cứu của luận án là nội dung cơ bản quan điểm của phân
tâm học về con người và văn hóa – văn minh.
3.2. Phạm vi nghiên cứu
Phân tâm học là một trào lưu tư tưởng có nội dung lý luận vô cùng phong
phú và đa dạng. Trong công trình này, chúng tôi chỉ tập trung làm rõ quan điểm của
ba nhà phân tâm học đại diện tiêu biểu đó là Sigmund Freud, Carl Gustav Jung và
Erich Fromm. Ở mức độ nhất định, chúng tôi cũng viện dẫn tư tưởng của một số
nhà phân tâm học khác như Adler, Sullivan, Herbert Marcuse... Sở dĩ, chúng tôi chủ
yếu phân tích tư tưởng của Freud, Jung và Fromm bởi vì đây là những nhà tư tưởng
có ảnh hưởng lớn đến sự hình thành, phát triển của phân tâm học. Hơn nữa, so với
những nhà phân tâm học khác, chúng tôi cho rằng, trong tư tưởng của Freud, Jung
và Fromm có sự kết nối (phê phán, bổ sung và phát triển) rất rõ ràng, nhất là trong
quan niệm về con người và văn hóa – văn minh.
4
4. Cơ sở lý luận và phƣơng pháp nghiên cứu
4.1. Cơ sở lý luận
Cơ sở lý luận của luận án là quan điểm của chủ nghĩa Mác-Lênin về nghiên
cứu lịch sử triết học và quan điểm của Đảng Cộng sản Việt Nam về con người và
văn hóa – văn minh.
4.2. Phương pháp nghiên cứu
Phương pháp nghiên cứu của luận án là phương pháp biện chứng duy vật,
phương pháp lịch sử – cụ thể, phương pháp so sánh đối chiếu, phương pháp diễn
dịch - quy nạp, phương pháp phân tích - tổng hợp, phương pháp khái quát hóa –
trừu tượng hóa, phương pháp chú giải học, nhân học văn hóa,...
5. Đóng góp mới của luận án
- Làm rõ quan điểm của phân tâm học về con người và văn hóa – văn minh
qua tư tưởng của ba nhà phân tâm học tiêu biểu là S. Freud, Carl G. Jung và Erich
Fromm.
- Bước đầu đưa ra một số nhận xét về giá trị và hạn chế quan điểm của phân
tâm học về con người và văn hóa – văn minh.
6. Ý nghĩa của luận án
- Về phương diện lý luận, những đóng góp mới về mặt khoa học của luận án
góp phần cung cấp một sự hiểu biết phong phú và mang tính hệ thống của phân tâm
học xoay quanh vấn đề con người và văn hoá – văn minh.
- Về phương diện thực tiễn, kết quả nghiên cứu của luận án có thể được dùng
làm tài liệu tham khảo cho việc nghiên cứu và giảng dạy triết học, tâm lý học, văn
hóa học và các ngành khoa học xã hội & nhân văn khác.
7. Kết cấu của luận án
Ngoài phần mở đầu, kết luận, danh mục tài liệu tham khảo, luận án gồm có 4
chương (12 tiết).
5
CHƢƠNG 1
TỔNG QUAN TÌNH HÌNH NGHIÊN CỨU
CÓ LIÊN QUAN ĐẾN ĐỀ TÀI LUẬN ÁN
Phân tâm học là một trong những học thuyết có ảnh hưởng sâu rộng trong đời
sống con người xã hội phương Tây nói riêng và thế giới nói chung. Từ khi hình
thành vào cuối thế kỷ XIX đến nay, lý thuyết phân tâm học không ngừng được bổ
sung và hoàn thiện mà còn thâm nhập vào nhiều ngành học vấn khác nhau. Chính
quá trình phát triển đó của phân tâm học đã thu hút sự quan tâm nghiên cứu của giới
học thuật.
Hiện nay, nghiên cứu về phân tâm học không còn là việc mới, tuy nhiên tính
chất chưa rõ ràng của một số nội dung lý thuyết phân tâm học đưa ra còn gây nhiều
sự tranh luận, điều này cho thấy, nghiên cứu phân tâm học là cần thiết để tiếp tục
làm rõ những vấn đề còn khúc mắc. Tiếp tục nghiên cứu phân tâm học, trong phần
tổng quan tình hình nghiên cứu của luận án, chúng tôi xem xét, đánh giá những
thành tựu nghiên cứu đã đạt được của các học giả đi trước để tham khảo, đồng thời
xác định những vấn đề lý luận mà luận án tiếp tục đi vào nghiên cứu. Căn cứ vào
đối tượng và phạm vi nghiên cứu của luận án cũng như những kết quả nghiên cứu
của các học giả trong và ngoài nước liên quan đến phân tâm học, chúng tôi chủ yếu
tập trung tổng thuật một số công trình nghiên cứu tiêu biểu có liên quan đến quan
điểm của phân tâm học về con người và văn hoá – văn minh.
1.1. Các công trình nghiên cứu về bối cảnh lịch sử - xã hội và những tiền
đề ra đời của phân tâm học.
Phân tâm học cũng như các trào lưu triết học phương Tây ra đời có sự liên hệ
mật thiết với bối cảnh lịch sử - xã hội và những phát minh khoa học ở thời đại của
nó. Ngay từ khi ra đời phân tâm học cũng chịu sự ảnh hưởng bởi điều kiện lịch sử -
xã hội, văn hóa, những phát minh khoa học của châu Âu nói riêng và thế giới nói
chung cuối thế kỷ XIX đầu thế kỷ XX. Cho đến nay, nghiên cứu về phân tâm học
đã vượt qua lằn ranh của học thuật. Nếu như ban đầu, phân tâm học chủ yếu chỉ
được nghiên cứu ở góc độ y học thần kinh và tâm lý học, thì vào nửa sau thế kỷ XX,
6
các nhà nghiên cứu bắt đầu chú ý nghiên cứu đến khía cạnh văn hóa và nhân văn
của phân tâm học. Nghiên cứu về phân tâm học, các học giả đã ít nhiều đề cập đến
bối cảnh lịch sử - xã hội và những tiền đề ra đời của phân tâm học.
Công trình Học thuyết Freud (Nxb Tân Việt, 1943) của Tô Kiều Phương, là
công trình tiếp nhận phân tâm học dưới góc độ y học, với mục đích nghiên cứu
phân tâm học như là một phương pháp để chữa bệnh tâm thần cho con người, nhưng
trong công trình này, Tô Kiều Phương đã đề cập đến những tiền đề quan trọng cho
sự ra đời của phân tâm học và chỉ ra rằng, đời sống xã hội phương Tây cuối thế kỷ
XIX đầu thế kỷ XX với một lối sống đạo đức giả, đã kìm nén đời sống tâm thần con
người, làm nó bị ức chế, không thỏa mãn, dẫn tới sự xuất hiện bệnh tâm thần trong
xã hội. Tác giả cho rằng, “trong thế kỷ XIX, một khoa giáo huấn đáng ghét, bằng
những phương tiện phản tự nhiên, ngăn cách nó với mọi điều thành thật. Không ai
trước mặt trẻ con nói chuyện mà không dè dặt về vấn đề tình dục. Vì vậy, trẻ con
phải tìm hiểu vấn đề ấy với bọn gái nhà thổ hay với đám bạn bè lớn tuổi hơn nó”
[121, tr. 18]. Chính sự dè dặt và giả dối đó làm cho nhu cầu về đời sống tâm thần
của con người không được đáp ứng, đây chính là sự yếu kém hay “gót chân
achilles” của tâm lý học trước khi phân tâm học ra đời. Như vậy, trong bối cảnh xã
hội mà vấn đề tính dục được ghi nhận nhưng chưa thể giải quyết rạch ròi, chúng lại
bị đẩy ra sau một bức bình phong đạo đức giả tạo, tất cả những điều ấy cùng với
thực tiễn chữa bệnh tâm thần cho con người là những nguyên nhân dẫn đến sự ra
đời, phát triển của phân tâm học khi đi sâu vào nghiên cứu về con người trong điều
kiện hoàn cảnh xã hội lúc bấy giờ.
Tác phẩm Triết học phương Tây hiện đại (Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội,
1994) của Lưu Phóng Đồng, trình bày một cách khái quát những tiền đề về khoa
học tự nhiên và triết học của phân tâm học. Lưu Phóng Đồng cho rằng: “Trong thế
kỷ XVIII-XIX, quan điểm duy vật tầm thường chiếm địa vị thống trị trong nghiên
cứu y học; người ta quen dùng cơ chế sinh lý để giải thích sự bất thường về tinh
thần” [34, tr. 9-10]. Nhưng khi lấy cơ chế sinh lý để giải thích các hiện tượng tâm
thần ở những người bệnh không mang lại kết quả. Do vậy, để giải thích các hiện
7
tượng trên đòi hỏi phải tìm nguyên nhân của căn bệnh ở phương diện khác đó là
phương diện tâm lý, vì thế, nảy sinh việc nghiên cứu tâm lý học dị thường
(Abnormal psychology). Freud chịu ảnh hưởng mạnh mẽ về tâm lý học dị thường
này khi làm việc với J.Breuer và J.M.Charcot. Tác giả chỉ ra: “Freud thừa nhận, ông
xuất phát từ quan điểm sinh vật học để xem xét khuynh hướng của con người, và
quan điểm bản tính hành vi của loài người là được “quyết định luận” quyết định,
chủ yếu chịu ảnh hưởng của tiến hóa luận của Darwin” [34, tr. 10]. Lưu Phóng
Đồng cho rằng, khi Freud nghiên cứu về con người, “ông coi toàn bộ cơ thể của con
người là một hệ thống năng lượng, và cho rằng, trong hệ thống năng lượng này,
ngoài năng lượng cơ giới, năng lượng điện, và năng lượng hóa học biểu hiện bằng
hình thức sinh lý thể xác, còn có năng lượng tâm lý nảy sinh tác dụng trong quá
trình tâm lý” [34, tr. 10]. Và khi xem toàn bộ cơ thể người là một hệ thống các năng
lượng chuyển đổi cho nhau, Freud đã chịu ảnh hưởng của học thuyết năng lượng
của học phái Helmho, học thuyết đơn tử của Leibniz và lý luận giới hạn ý thức của
Herbart.
Về mặt triết học, Lưu Phóng Đồng phân tích sức ảnh hưởng của hai nhà triết
học Schopenhauer và Nietzsche đến phân tâm học Freud. Với phương châm “tìm tòi
bản tính nội tại của con người và thế giới” [34, tr. 11], Schopenhauer và Nietzsche
đã công khai tuyên chiến với chủ nghĩa lý tính truyền thống ở châu Âu lúc bấy giờ.
Hai ông yêu cầu triết học cần phải thoát khỏi thế giới hào nhoáng bên ngoài và hãy
trở về với thế giới nội tâm bên trong, lấy đó làm hướng phát triển của triết học.
“Freud đã hấp thụ quan điểm chủ yếu của trào lưu tư tưởng này, từ đó học thuyết
của ông cũng hòa nhập vào trào lưu tư tưởng này” [34, tr. 12]. Chúng tôi cho rằng,
đây là nguồn khơi lý luận quan trọng dẫn xuất đến quan điểm của Phân tâm học với
tính cách là học thuyết nghiên cứu về con người và văn hoá – văn minh.
Nhìn chung, công trình nghiên cứu của Lưu Phóng Đồng đã đề cập đến các
tiền đề hình thành của phân tâm học, song chưa có những luận giải cụ thể nhằm làm
rõ các tiền đề này đã ảnh hưởng như thế nào đến tư tưởng của phân tâm học, nhất là
đến quan điểm của phân tâm học về con người và văn hóa – văn minh.
8
Diệp Minh Lý trong công trình Ximôn Phrớt, (Nxb Thuận Hóa – Trung tâm
ngôn Văn hóa ngôn ngữ Đông Tây, 2005) đã giới thiệu khái quát về sự ra đời của
phân tâm học. Khi nói về vai trò của những điều kiện dẫn đến sự ra đời của phân
tâm học, tác giả cho rằng: “xem xét quá trình hình thành và phát triển tư tưởng
Freud có thể thấy rằng sự biến đổi kinh tế chính trị của xã hội và tiến hóa của văn
minh xã hội, đặc biệt sự phát triển của khoa học, văn hóa có ảnh hưởng lớn tới ông”
[97, tr. 8]. Ngoài ra, theo tác giả, những phát minh khoa học của thế kỷ XIX, đặc
biệt là trong lĩnh vực sinh học và vật lý học là những yếu tố khách quan ảnh hưởng
lớn đến sự hình thành phân tâm học. Theo Diệp Mạnh Lý, hoàn cảnh gia đình mang
dòng máu Do Thái, quá trình học tập từ thời niên thiếu cho đến khi học hết trung
học và sự lựa chọn nghề nghiệp với sự đam mê khoa học của Freud, sống trong một
thời kỳ mà chủ nghĩa bài Do Thái diễn ra mạnh mẽ, với nỗi ẩn ức tâm lý của bản
thân,... cũng là những nguyên nhân mang tính chủ quan thôi thúc cho sự ra đời phân
tâm học.
Công trình Freud cuộc đời và sự nghiệp (Nxb Thế giới, Hà Nội, 2006) của
Roland Jaccard là công trình giới thiệu khái quát về cuộc đời và sự nghiệp của
người sáng lập phân tâm học – Sigmund Freud. Một trong những điểm đáng chú ý
là, trong công trình này, Roland Jaccard đã chỉ ra những nguồn gốc tư tưởng có ảnh
hưởng đến quá trình hình thành phân tâm học của Sigmund Freud như học thuyết
tiến hóa Darwin, lý luận của nhà sinh lý học Ernst Brucke, phương pháp chữa bệnh
hysteria của Jean-Marie Charcot. Jacard dự định, “đặt lại Freud trong bối cảnh văn
hóa của ông, đồng thời chỉ ra làm thế nào Freud lật nhào được các giá trị đã được
thiết lập một cách vững chắc nhất” [88, tr. 10]. Theo Jaccard, ảnh hưởng của
Charcot là yếu tố quyết định để Freud sau này chuyển từ chuyên ngành thần kinh
học sang chuyên ngành tâm bệnh học. Đây cũng chính là chuyên ngành giúp Freud
khám phá ra phương pháp phân tâm học - “phương pháp tìm tòi độc đáo, đổi mới
nhận thức mà chúng ta có trước đây về mặt tối của con người, nhất là chứng minh
được sự tồn tại của một thức “động cơ vô thức”, có liên quan đến sự “dồn nén” và
đặc biệt là sự “dồn nén tính dục” [88, tr. 40]. Chúng tôi cho rằng, công trình của
9
Roland Jaccard đã giới thiệu khá sinh động về những tư tưởng ảnh hưởng đến quá
trình xác lập quan điểm của phân tâm học về con người và văn hóa – văn minh.
Đỗ Minh Hợp, Nguyễn Anh Tuấn, Nguyễn Thanh trong công trình Đại cương
lịch sử triết học phương Tây hiện đại cuối thế kỷ XIX – nửa đầu thế kỷ XX (Nxb
Tổng hợp Thành phố Hồ Chí Minh, 2008) đã trình bày tổng quát về phân tâm học
và giới thiệu một số đại diện tiêu biểu của phân tâm học như S.Freud, Carl Jung, và
học thuyết Freud mới. Về khái niệm phân tâm học, các tác giả cho rằng, phân tâm
học trước hết là lĩnh vực y học thực hành bao gồm hoạt động của hàng trăm nghìn
bác sĩ tâm thần tại nhiều quốc gia. Xét về mặt phát sinh, toàn bộ phân tâm học gắn
liền với tư tưởng của nhà sáng lập Sigmund Freud. Do vậy, thuật ngữ “phân tâm
học” là rộng hơn một cách đáng kể so với thuật ngữ “học thuyết Freud”. Phân tâm
học nói chung không phải là lý luận, học thuyết hay tư tưởng hệ thuần tuý” [74, tr.
60]. Các tác giả cũng lưu ý rằng, chúng ta chủ yếu quan tâm tới các phương diện
triết học của phân tâm học, song một điều cũng khá quan trọng là không tồn tại triết
học phân tâm học với tư cách là một thứ triết học cụ thể. “Chúng ta có thể nói tới
các quan điểm triết học của Freud và của một số nhà phân tâm học khác” [74, tr.
61]. Chúng tôi cho rằng, đây là luận điểm mang tính phương pháp luận cho việc
định hình nghiên cứu những quan điểm triết học ảnh hưởng đến sự ra đời và phát
triển phân tâm học với tính cách là học thuyết nghiên cứu về con người và văn hoá
– văn minh.
Công trình Nhân học triết học Freud và ảnh hưởng của nó đến nhân học triết
học phương Tây hiện đại do tác giả Đỗ Minh Hợp chủ biên (Nxb Tôn giáo, Hà Nội,
2014). Đây là một trong số những công trình hiếm hoi ở Việt Nam tiếp cận học
thuyết phân tâm học của Sigmund Freud từ góc độ triết học, cụ thể là nhân học triết
học. Về các tiền đề triết học của phân tâm học Freud, các tác giả nhấn mạnh, việc
làm rõ các tiền đề triết học ảnh hưởng đến sự ra đời của phân tâm học có một ý
nghĩa quan trọng trong nghiên cứu di sản lý luận của Freud và phân tâm học. Khi
nói về tư tưởng triết học của Schopenhauer và Nietzsche đối với quá trình hình
thành phân tâm học, tác giả cho rằng: “Freud công khai tuyên bố quan điểm của các
10
nhà triết học này không có ảnh hưởng đến quá trình hình thành phân tâm học và ông
không biết đến các tác phẩm của họ ở giai đoạn xây dựng các luận điểm cơ bản của
phân tâm học” [77, tr. 78]. Và như vậy, “với toàn bộ sự tương đồng bên ngoài với
phân tâm học, triết học Schopenhauer “không có ảnh hưởng trực tiếp đến phát triển
các tư tưởng của Freud”” [dẫn theo 77, tr. 78 – 79], nhưng một số các nhà nghiên
cứu lại cho rằng: “một số tư tưởng triết học hoàn toàn có thể ảnh hưởng đến việc
hình thành các luận điểm khác nhau của phân tâm học” [77, tr. 79].
Cho đến nay, việc làm rõ cội nguồn ra đời của phân tâm học với tính cách là
một học thuyết nghiên cứu về con người và văn hóa – văn minh, đặc biệt là mối liên
hệ giữa các tư tưởng triết học trong lịch sử với phân tâm học vẫn chưa có những kết
luận thỏa đáng về mặt khoa học, đây là vấn đề đang đặt ra cho các nhà nghiên cứu:
Về điều này, H. Ellenberger viết: “Các cội nguồn triết học của Freud rất đa dạng,
song trái ngược với nhiều công trình nghiên cứu, chúng cho tới nay vẫn chưa được
làm sáng tỏ đầy đủ” [dẫn theo 77, tr. 80 – 81]. Để đánh giá một cách khách quan về
sự ảnh hưởng của các tư tưởng triết học đối với sự hình thành và phát triển của phân
tâm học, Đỗ Minh Hợp và các cộng sự đưa ra và phân biệt ba kiểu đánh giá sau:
Thứ nhất, “phân tâm học thực sự không phải là triết học về con người, Freud hoàn
toàn bác bỏ triết học, thậm chí là người chống lại triết học” [dẫn theo 77, tr. 82],
điều này chứng minh cho quan điểm của Freud khi ông công khai tuyên bố quan
điểm của các nhà triết học không ảnh hưởng đến việc hình thành phân tâm học. Thứ
hai, “vốn không phải là triết học, phân tâm học đòi hỏi được xem xét về mặt triết
học, Freud cần được xem xét là nhà khoa học đặt ra các vấn đề triết học và cố luận
giải chúng theo cách của mình” [77, tr. 83], với đặc trưng thứ hai này, các tác giả đã
đi đến kết luận rằng, “một số tư tưởng triết học hoàn toàn có thể ảnh hưởng đến việc
hình thành các quan điểm phân tâm học” [77, tr. 83]. Thứ ba, “triết học xuyên suốt
các tư tưởng và quan điểm của Freud, phân tâm học bao hàm “lược đồ triết học”,
“hạt nhân triết học”, “cơ sở triết học” riêng của mình, một quan điểm triết học hoàn
toàn xác định về con người, lịch sử và văn hóa” [dẫn theo 77, tr. 84]. Với cách đánh
giá kiểu thứ ba này, phân tâm học có thể được xem là một cấu trúc khoa học có mối
11
liên hệ với triết học về con người trong sự tương tác với văn hóa – văn minh. Các
tác giả cũng lưu ý rằng, khi đưa ra những khẳng định trên “còn đòi hỏi xem xét lập
trường của bản thân Freud” [77, tr. 85].
Có thể khẳng định rằng, trong số các công trình nghiên cứu về phân tâm học
Freud ở Việt Nam, Nhân học triết học Freud và ảnh hưởng của nó đến nhân học
triết học phương Tây hiện đại là một công trình nghiên cứu công phu, có nhiều giá
trị gợi mở, là tài liệu tham khảo để chúng tôi tiếp tục đi sâu nghiên cứu về những tư
tưởng triết học đã ảnh hưởng đến sự hình thành và phát triển phân tâm học về con
người, văn hoá – văn minh.
Nhìn chung, tổng quan một số công trình nghiên cứu về các điều kiện, tiền đề
đưa đến sự ra đời, phát triển của phân tâm học, có thể nhận ra điểm chung là các tác
giả đã trình bày khá phong phú bối cảnh ra đời và những tiền đề hình thành của học
thuyết Freud. Đây là điều quan trọng bởi lẽ chính Freud là người sáng lập phân tâm
học. Tuy nhiên, phân tâm học không chỉ dừng lại ở học thuyết Freud, do đó, chúng
tôi nhận thấy cần làm rõ thêm bối cảnh và tiền đề hình thành quan điểm phân tâm
học về con người và văn hoá – văn minh. Chúng tôi ghi nhận những đóng góp của
các công trình trên, xem đó là những gợi mở quan trọng cần tiếp tục triển khai rộng
hơn trong luận án.
1.2. Các công trình tiêu biểu có liên quan đến nội dung quan điểm của
phân tâm học về con ngƣời
Có thể thấy, lý thuyết về vô thức trong phân tâm học là nền tảng và đóng góp
quan trọng nhất về phương diện triết học. Do vậy, sự lý giải về vô thức cũng là kết
quả quan trọng để hiểu toàn bộ các quan niệm về con người và văn hóa – văn minh.
Vì thế, khi khảo cứu về phân tâm học đa số các học giả đều dành phần lớn cho việc
nghiên cứu nội dung này.
J.P.Charrier trong Phân tâm học, (Nxb Trẻ, Sài Gòn, 1972) đã bàn đến những
tư tưởng của phân tâm tâm học về con người thông qua phân tích quan niệm về vô
thức, lý luận bản năng, cấu trúc nhân cách,... Tác giả chỉ ra rằng, vô thức đã được đề
cập và biết đến từ trước khi phân tâm học ra đời, nhưng việc đi vào tìm hiểu, khám
12
phá và phân tích để thấy rõ vai trò của vô thức tác động đến đời sống tâm thần của
con người thì chỉ đến khi xuất hiện phân tâm học. “Đời sống tâm linh không phải
chỉ hạn chế trong những gì chúng ta ý thức được mà thôi, rằng dưới những động lực
ý thức và những quyết định hợp lý, có một bộ máy tâm linh ở đó những nguyên
động lực được che dấu diếm, vô thức hay bị dồn nén vẫn tác động” [10, tr. 15].
Theo Charrier, trong khi chữa trị bệnh hysteria, Freud đã sử dụng phương
pháp “liên tưởng tự do” và nó trở thành phương pháp chính của Freud trong việc
khám phá ra nhân cách chiều sâu. Tác giả cho rằng, Freud chia bộ máy tâm thần của
con người thành ba phần, phần thứ nhất là phi Ngã, phần thứ hai là Ngã và phần thứ
ba là siêu Ngã1, mỗi một phần có một nội dung và chức năng khác nhau, từ đó để
xem xét, đánh giá cơ cấu nhân cách con người. Bản năng tính dục libido là quan
trọng nhất, khi giúp con người tránh những căng thẳng và thỏa mãn các nhu cầu của
mình, nó hoạt động theo nguyên tắc thỏa mãn, đây là nguyên tắc giúp “giảm bớt
những căng thẳng đau đớn của cơ thể, hầu tránh sự đau đớn khó chịu, và nếu có thể
đưa tới khoái lạc” [10, tr. 37]. Nó cũng là nguồn gốc của những thúc đẩy hoạt động
của đời sống tâm thần con người được biểu hiện ra hai khuynh hướng là bản năng
sống và bản năng chết. Nhưng trong thực tế, cuộc sống con người chịu sự chi phối
bởi những phong tục, tập quán, văn hóa, quy phạm xã hội, buộc con người phải từ
bỏ một số nhu cầu để được bảo vệ hay sự tán đồng của người khác. Việc từ bỏ này
làm con người dần dần bị ức chế, “lực lượng ức chế này làm cho trẻ tập thay đổi
những thèm muốn của mình thay vì thế giới bên ngoài” [10, tr. 38], được Freud gọi
là nguyên tắc thực tế. Hai nguyên tắc này không chống đối nhau mà nó bổ sung cho
nhau, thay đổi tuần tự mục đích của nhau mà thôi.
Nhìn chung, công trình của J.P.Charrier đã nghiên cứu khá sâu về một số vấn
đề liên quan đến quan điểm phân tâm học Sigmund Freud về con người. Ở mức độ
nhất định, công trình này cũng đề cập một cách khái quát đến phân tâm học sau
1 Từ đây trở đi, chúng tôi thống nhất gọi ba yếu tố trong bộ máy tâm thần con người theo quan niệm của Freud (dù các bản
dịch dùng từ khác nhau) là: phi Ngã (Id, cái Ấy, cái Nó,); Ngã (Ego, cái Tôi, bản Ngã,); siêu Ngã (Superego, cái Siêu
tôi,..).
13
Freud như Jung, Erich Fromm, Karen Horney. Tuy nhiên, những nội dung mà
Charrier trình bày chưa được hệ thống nên làm cho người đọc khó theo dõi.
Cuốn sách Freud đã thực sự nói gì của David Stafford – Clark (Nxb Thế giới,
Hà Nội, 1998). Trong cuốn sách này, Stafford - Clark hệ thống hóa một số nội dung
cốt lõi của phân tâm học được công bố trong các nghiên cứu của Freud như: Giải
thích giấc mơ, tâm bệnh học trong đời sống hàng ngày, khái niệm cấu trúc và chức
năng tâm thần, lý thuyết tổng quát về các triệu chứng hysteria, đặc biệt là những bổ
sung vào lý thuyết phân tâm và những sửa đổi của Freud, trong đó, ông tập trung
chủ yếu vào các vấn đề: Ngã và tâm lý học của những miền sâu; bên kia nguyên tắc
khoái cảm, bản năng sống và bản năng chết, thăng hoa và siêu Ngã, phi Ngã và
lương tâm. Trong những vấn đề trên, chúng tôi cho rằng việc bổ sung và làm rõ
“tâm lý tập thể” là một phần bổ sung quan trọng trong lý thuyết của ông. Tâm lý
tập thể như một phẩm chất sống của cộng đồng được đánh giá cao. Phần bổ sung
này quan tâm đến điều mà chúng ta thường gọi là “chất dương tính của tập thể”,...ản năng bị nghèo nàn đi. Luận điểm này đã thay
thế cho mường tượng theo kiểu Freud về “chức năng sai lệch của tình dục và tâm
thần” [145, tr. 427]. Đây là những chỉ dẫn quan trọng đối với việc nghiên cứu quan
điểm của phân tâm học về văn hoá – văn minh.
Vấn đề văn hóa theo quan điểm của phân tâm học cũng được bàn đến trong
cuốn Nhân học triết học Freud và ảnh hưởng của nó đến nhân học triết học phương
27
Tây hiện đại. Khi xem xét về văn hóa, các tác giả cho rằng, “việc xem xét hệ vấn đề
văn hóa xã hội trong nhân học phân tâm có liên hệ mật thiết với việc giải quyết
những vấn đề đạo đức” [77, tr. 305]. Do vậy, các tác giả cho rằng khi xem xét cụ
thể vấn đề văn hóa xã hội, “Freud xuất phát từ sự đối lập giữa cá nhân với văn hóa,
giữa cá nhân với xã hội” [77, tr. 306]. Từ đó các tác giả đi đến kết luận: “những
thành tựu văn hóa của loài người căn cứ trên việc đối lập giữa các đam mê vô thức
với các mệnh lệnh đạo đức xuất hiện trên cơ sở “văn hóa hóa” bản tính người” [77,
tr. 307]. Chính từ điểm này mà Freud đã đưa ra luận điểm: “mỗi người trên thực tế
đều là kẻ thù của văn hóa, và điều này là như vậy cả khi có cảm tưởng văn hóa có ý
nghĩa chung nhân loại” [dẫn theo, 77, tr. 307]. Và “đặc trưng cho quan niệm về văn
hóa của Freud là tính hai mặt. Một là, văn hóa được ông coi là phương tiện dồn nén
“bản tính người”. Mặt khác, nó được xem là kích thích cho tự biểu hiện sáng tạo
của con người” [77, tr. 309].
Khi luận giải về nguồn gốc và chức năng của văn hóa, theo các tác giả, “có thể
luận giải chức năng hai mặt như vậy của văn hóa bởi tính đa nghĩa của khái niệm
“vô thức” ở Freud cùng với việc đặt trọng tâm vào đam mê tính dục của con người”
[77, tr. 309]. Nhưng khi đi vào giải thích thì Freud lại rơi vào vòng luẩn quẩn mà
sau này các nhà phân tâm học sau Freud đã chỉ ra. Freud viết: “văn hóa căn cứ trên
những kết quả dồn nén của các thế hệ trước kia và mỗi thế hệ mới đều cần sáng tạo
ra văn hóa nhờ thực hiện dồn nén” [dẫn theo 77, tr. 310]. Không chỉ dừng lại làm rõ
vai trò của văn hóa, các tác giả còn chỉ ra có ba cội cội nguồn sinh ra đau khổ của
con người trong sự tương tác với văn hóa, đó là: “các lực lượng vượt trội của tự
nhiên; đặc thù của thể xác con người và không hoàn hảo của các thể chế xã hội”
[77, tr. 335]. Hai cội nguồn đầu là mang tính tự nhiên, sinh ra đau khổ của con
người có thể loại bỏ hay làm giảm bớt được nó còn cội nguồn thứ ba là cội nguồn
xã hội gây ra lo lắng lớn nhất cho con người nhưng “con người không hiểu tại sao
các thể chế do họ tạo ra lại không những không bảo vệ con người mà, ngược lại,
còn trở thành lực lượng xa lạ thống trị họ” [77, tr. 335].
28
Theo chúng tôi, tác phẩm trình bày những nội dung quan niệm của phân tâm
học về văn hóa – văn minh mang tính khái quát cao, nhưng do mục đích của công
trình là làm rõ Nhân học triết học Freud và ảnh hưởng của nó đến nhân học triết
học phương Tây hiện đại nên công trình chỉ dừng lại ở tư tưởng của Freud, còn tư
tưởng của Jung và của Fromm về văn hóa – văn minh chưa đề cập đến.
Công trình Tư tưởng triết học của Sigmund Freud của Tạ Thị Vân Hà, đã đặt
ra và luận giải “tư tưởng triết học của Freud về văn hoá” [53, tr. 106 – 114]. Tác giả
cho rằng, “cách tiếp cận về văn hóa của Freud dựa trên sự lập lại ký ức ấu thơ của
con người bị ngưng đọng trong vô thức khi con người buộc phải giải quyết mối
quan hệ giữa cá nhân và cộng đồng” [53, tr. 106], và “văn minh chỉ là cái vỏ bề
ngoài che dấu những bản năng bị những cấm đoán xã hội dồn nén mà thôi” [53, tr.
109]. Tác giả cũng đồng quan điểm với Freud khi cho rằng, “muốn đạt tới văn hóa
con người phải chấp nhận từ bỏ bản năng để hướng tới tình yêu và sự tôn trọng lẫn
nhau và đó chính là cơ sở để đảm bảo cho mỗi người có thể đạt tới hạnh phúc” [53,
tr. 114]. Đây là những nhận định mang tính chất gợi mở để chúng tôi tiếp tục mở
rộng trong luận án.
Chúng tôi rất chú ý đến loạt công trình do Đỗ Lai Thuý sưu tầm, biên soạn, và
giới thiệu có liên quan đến phân tâm học (Phân tâm học và tình yêu; Phân tâm học
và văn hoá tâm linh; Phân tâm học và văn hoá nghệ thuật; Phân tâm học và tính
cách dân tộc). Sở dĩ chúng tôi dành sự trân trọng cho loạt công trình này bởi vì đây
là những tư liệu có giá trị tham khảo cao đối với việc đào sâu nghiên cứu nội dung
quan điểm của phân tâm học về con người và văn hóa – văn minh, nhất là trong bối
cảnh những tư liệu nguyên bản về phân tâm học còn khá khan hiếm hiện nay.
Như vậy, tổng quan một số công trình tiêu biểu có liên quan đến quan điểm
của phân tâm học về văn hóa – văn minh, các tác giả đều đi đến một điểm chung là
chủ yếu tập trung vào nội dung phân tâm học Freud về văn hóa – văn minh, chưa
bàn nhiều đến các nhà phân tâm học khác như C.Jung và E.Fromm. Trên cơ sở
những nghiên cứu ấy, chúng tôi tiếp thu và tiếp tục làm rõ quan điểm phân tâm học
của Freud, Jung và Fromm về văn hóa – văn minh trong luận án.
29
Tóm lại, từ tổng quan tình hình nghiên cứu trong và ngoài nước có liên quan
trực tiếp hoặc gián tiếp đến đề tài luận án, chúng tôi nhận thấy rằng, phân tâm học
đã được đề cập và nghiên cứu ở nhiều cách tiếp cận và với những mức độ đậm nhạt
khác nhau. Những thành tựu đạt được của các công trình nghiên cứu từ trước đến
nay là không thể phủ nhận, giúp ích rất đáng kể cho hiểu biết của chúng ta về phân
tâm học. Tuy nhiên, các công trình chủ yếu nghiên cứu phân tâm học thông qua tư
tưởng của người sáng lập ra nó – Sigmund Freud, trong khi những đại biểu quan
trọng khác của phân tâm học chỉ được giới thiệu rất mờ nhạt. Chính vì thế, trong
luận án này, chúng tôi không chỉ dừng lại ở tư tưởng của Sigmund Freud, mà còn
hướng đến làm rõ quan điểm về con người và văn hóa – văn minh của một số nhà
phân tâm học quan trọng khác (Carl Gustav Jung và Erich Fromm) nhằm cung cấp
một cái nhìn đầy đủ và toàn diện hơn về phân tâm học.
Kết luận chƣơng 1
Nội dung quan điểm của phân tâm học về con người và văn hóa – văn minh là
rất rộng. Vấn đề này đã ít nhiều được bàn đến trong các công trình nghiên cứu về
phân tâm học. Tuy nhiên ở Việt Nam hiện nay, phân tâm học được nghiên cứu chủ
yếu dừng lại ở Freud. Vì thế, không thể nói đã có một bức tranh khoa học đầy đủ và
cái nhìn toàn diện về Phân tâm học ở Việt Nam. Do đó, khảo sát về các công trình
nghiên cứu phân tâm học như một “sợi chỉ xuyên suốt” (Freud – Jung – Fromm) về
con người và văn hóa – văn minh và chúng tôi tạm chia thành ba lĩnh vực chủ yếu:
Các công trình tiêu biểu giới thiệu khái quát về bối cảnh lịch sử - xã hội và
những tiền đề ra đời, phát triển của phân tâm học, điểm chung của các công trình
này là giới thiệu hoặc phân tích cụ thể về điều kiện, kinh tế xã hội; những tiền đề về
khoa học trong quá trình hình thành và phát triển phân tâm học. Tuy nhiên, việc
khái quát về bối cảnh lịch sử - xã hội và những tiền đề ra đời của phân tâm học với
tính cách là một khuynh hướng nghiên cứu về con người và văn hóa – văn minh
cũng được đề cập tới một cách khái quát nhưng chưa có những phân tích rõ ràng, vì
vậy, việc làm này là cần thiết trong quá trình nghiên cứu.
30
Các công trình tiêu biểu có liên quan đến nội dung quan điểm của phân tâm
học về con người, các công trình nghiên cứu về lĩnh vực này là rất đa dạng và phong
phú. Tuy nhiên, quan điểm của phân tâm học nói chung cũng như của ba nhà phân
tâm học Freud, Jung và Fromm nói riêng đều có một đặc điểm chung là xem “vô
thức” là yếu tố chủ đạo, điều khiển và chi phối trong đời sống con người và xã hội.
Các công trình tiêu biểu có liên quan đến nội dung quan điểm của phân tâm
học về văn hoá – văn minh, đa số các nhà nghiên cứu về vấn đề này đã chỉ ra được
vai trò của văn hóa – văn minh trong đời sống con người và xã hội từ góc tiếp cận
phân tâm học. Tuy nhiên, vẫn chưa có một công trình nào nghiên cứu quan điểm
của phân tâm học, vạch ra bản chất, vai trò của văn hóa – văn minh trong đời sống
con người và xã hội mang tính hệ thống như một sợi chỉ xuyên suốt từ phân tâm học
Freud đến Tân phân tâm học.
31
CHƢƠNG 2
BỐI CẢNH LỊCH SỬ - XÃ HỘI
VÀ NHỮNG TIỀN ĐỀ RA ĐỜI CỦA PHÂN TÂM HỌC
2.1. Bối cảnh lịch sử - xã hội
Bất kỳ một học thuyết, trào lưu lý luận hay một hệ tư tưởng nào ra đời bao giờ
cũng là sự phản ánh hoàn cảnh xã hội trong một giai đoạn lịch sử nhất định. Quan
niệm duy vật lịch sử chỉ ra rằng, “tư duy lý luận của mỗi thời đại, cũng có nghĩa là
cả thời đại chúng ta, là một sản phẩm lịch sử mang những hình thức rất khác nhau
trong những thời đại khác nhau và do đó có một nội dung rất khác nhau” [105, tr.
487]. Sự hình thành và phát triển của phân tâm học cũng chính là kết quả nảy sinh
từ bối cảnh lịch sử chính trị xã hội Tây Âu đương thời. Vì vậy, làm rõ những bối
cảnh lịch sử - xã hội ra đời của phân tâm học là cần thiết để thấy, những biến đổi về
kinh tế, chính trị xã hội, tiến trình phát triển văn hóa, văn minh của xã hội loài
người và sự phát triển của khoa học có tác động như thế nào đến sự ra đời của phân
tâm học.
Sigmund Freud, sinh ra và lớn lên ở Viên, thủ đô của Đế quốc Áo - Hung, nơi
chủ nghĩa tư bản đã được xác lập và nhanh chóng phát triển. Trong đế quốc Áo –
Hung, luôn xảy ra những cuộc chiến tranh, khủng bố, tàn sát lẫn nhau đưa tới sự
chết chóc. Gia đình của Freud cũng không tránh khỏi vòng xoáy của các cuộc chiến
tranh và làn sóng chống Do Thái đang diễn ra lúc bấy giờ. Khi cuộc chiến tranh
giữa Ý, Pháp, Phổ và Áo diễn ra, hai người anh của ông buộc phải tham gia vào
quân đội. Cha của ông đã dẫn cả gia đình chạy tới Lazic để lánh nạn. Sự thay đổi về
mặt xã hội làm cho kinh tế của toàn bộ Đế quốc Áo – Hung rơi vào khủng hoảng,
công việc làm ăn của gia đình Freud gặp phải khó khăn, khiến gia đình phải ly tán.
“Do sự biến đổi về kinh tế của toàn bộ đế quốc Áo – Hung, sự buôn bán của bố
Freud cũng chịu ảnh hưởng nặng nề, đời sống gia đình trở nên nghèo túng” [97, tr.
10], “hai người anh khác mẹ của Freud quyết định sang sinh sống ở Anh, Freud lên
bốn đi theo bố mẹ sang Viên” [97, tr. 17]. Freud đến Viên thủ đô của Áo, một trong
32
những thành lũy của chủ nghĩa tư bản lúc bấy giờ, với vẻ bề ngoài hoa lệ, “phong
cảnh thiên nhiên đẹp, rộng rãi, phong nhã của Viên mĩ lệ” [97, tr. 17 – 18], lại chứa
đựng bên trong đầy ắp những mâu thuẫn kinh tế, chính trị xã hội và tư tưởng, nó
cũng là một lò lửa sục sôi chứa đựng những uẩn ức về đời sống tinh thần của xã hội
lúc bấy giờ.
Freud trực tiếp chứng kiến các cuộc chiến tranh Mỹ - Tây Ban Nha (1898),
Nhật – Nga (1904 – 1905), và cuộc chiến tranh thế giới lần thứ nhất (1914 – 1918).
Đặc biệt, cuộc chiến tranh thế giới lần thứ nhất xảy ra, “lôi cuốn hàng ngàn hàng
vạn nhân dân tạo ra vết thương tinh thần to lớn, sự xáo động về chính trị, kinh tế và
sự dồn nén xã hội khiến bệnh tâm thần tăng vọt. Tất cả những điều kiện trên đều
ảnh hưởng rất lớn đối với sự hình thành và phát triển tư tưởng của Freud” [97, tr.
11]. Bên trong những thay đổi về kinh tế, chính trị xã hội ở Áo nói riêng và châu Âu
nói chung là những mâu thuẫn và căng thẳng trong “đời sống tinh thần xã hội” với
những thói đạo đức giả, những ức chế của đời sống tinh thần của một xã hội quan
phương Tây Thanh giáo bảo thủ và chủ nghĩa bài Do thái của Công giáo thống trị.
Những giá trị đạo đức truyền thống bị xem thường, coi nhẹ và thay vào đó là những
mốt sống mới với thói đạo đức giả. Xã hội phương Tây thời kỳ này xuất hiện mâu
thuẫn mới trong đời sống tâm thần: “một bên là những quan niệm truyền thống với
các tập tục, thành kiến của một xã hội Thanh giáo bảo thủ, một bên là những quan
niệm mới, những “chuẩn” mới” [54, tr. 5 – 6].
Vấn đề tính dục và những nhu cầu tâm, sinh lý (nhu cầu sinh học) của con
người trong xã hội phương Tây cuối thế kỷ XIX vẫn chưa được công khai thừa
nhận. Vì thế, trong xã hội và con người luôn tồn tại mâu thuẫn của một thế giới bên
trong với đời sống tính dục sục sôi diễn ra với một thế giới bên ngoài với cái tôi
thanh cao thuần khiết. Hai thế giới này đấu tranh với nhau làm cho đời sống tâm
thần con người luôn trong tình trạng căng thẳng, ức chế,... dễ dẫn đến mắc bệnh tâm
thần.
Tóm lại, điều kiện kinh tế, chính trị xã hội phương Tây cuối thế kỷ XIX đầu
thế kỷ XX có những đặc trưng cơ bản sau:
33
Thứ nhất, chủ nghĩa tư bản ra đời và nhanh chóng chuyển từ chủ nghĩa tư bản
tự do cạnh tranh sang chủ nghĩa đế quốc cùng với sự trợ lực mạnh mẽ của cuộc cách
mạng khoa học kỹ thuật đã tạo ra một khối lượng của cải vật chất to lớn cho xã hội,
do đó đời sống vật chất của con người hiện đại đã được cải thiện đáng kể.
Thứ hai, những cuộc chiến tranh giành độc lập và tranh giành thị trường nổ ra
lôi kéo hàng ngàn hàng vạn nhân dân lao động tham gia, nhưng cuối cùng cái giá
mà họ phải trả đó là sự tổn thương về đời sống tâm thần.
Thứ ba, trong xã hội xuất hiện nhiều mâu thuẫn mới, nhất là mâu thuẫn về đời
sống tâm thần của con người: một bên là những quan niệm truyền thống tốt đẹp, với
các phong tục tập quán, đạo đức xã hội Thanh giáo với một bên là những quan niệm
về chuẩn mực, lối sống trong xã hội mới đầy sôi động.
Những đặc điểm này khiến cho đời sống con người, nhất là đời sống tâm thần
ở châu Âu có sự thay đổi mạnh mẽ. Con người sống trong một xã hội mới đầy sôi
động như vậy cần có sự thay đổi cho phù hợp, nhưng khi những thay đổi của con
người chưa thích ứng kịp thời với những điều kiện xã hội mới sẽ rơi vào tình trạng
căng thẳng, mất cân bằng tâm lý. Nếu không kịp thời có những phương pháp làm
dịu bớt các sức ép ấy, giúp cho con người có đời sống tâm thần ổn định hơn, lâu
ngày, sẽ rơi vào tình trạng mắc bệnh tâm thần. Do vậy, nhiệm vụ trong xã hội lúc
này bên cạnh giải phóng con người khỏi sự áp bức bóc lột về mặt thể xác, còn đặt ra
vấn đề cấp bách là giải phóng đời sống tâm thần của con người.
2.2. Tiền đề khoa học
Sự ra đời và phát triển của phân tâm học cũng như các trào lưu triết học ở cuối
thế kỷ XIX đầu thế kỷ XX không thể tách rời với những thành tựu khoa học trước
đó và đang phát triển như vũ bão lúc bấy giờ. Trong quá trình nghiên cứu và xác lập
học thuyết của mình, Freud được tiếp xúc, gặp gỡ, học hỏi rất nhiều nhà khoa học
trong nhiều lĩnh vực như: y học, tâm lý học, triết học, sinh học, sinh lý học thần
kinh và trực tiếp nhất là các phương pháp chữa bệnh tâm thần từ thực tiễn chữa trị
bệnh tâm thần của ông.
34
Những phát hiện lớn trong khoa học làm cho con người “Có bước phát triển
dài về nhận thức mối liên hệ tương hỗ đối với quá trình tự nhiên” [97, tr. 11], có ảnh
hưởng đến sự ra đời và phát triển phân tâm học
Thuyết tiến hoá của Charles Darwin (1809 - 1882). Freud “đã từng tin tưởng
một cách cuồng nhiệt và chịu ảnh hưởng sâu sắc “Thuyết tiến hóa của Darwin’”
[97, tr. 12], Freud viết: “Học thuyết Darwin đang rất thịnh hành lúc ấy đã cuốn hút
tôi mạnh mẽ như nó có thể tạo ra một xung lực phi thường để nhận thức được muôn
vật của thế giới” [88, tr. 29]. Do vậy, khi nghiên cứu về con người và nhân cách con
người, Freud đã xem xét, đánh giá bản tính, hành vi của con người trên quan điểm
sinh vật học.
Với lý thuyết tiến hoá, Darwin cho rằng, loài người cũng như những sinh vật
nói chung trong quá trình tồn tại và phát triển chúng luôn đấu tranh để tồn tại.
Trong thời kì phát triển, những cá thể nếu không thích nghi với môi trường sống sẽ
bị đào thải. Ông chỉ ra, con người có hai bản năng quan trọng là bản năng duy trì
nòi giống và bản năng tìm kiếm thức ăn. Ngoài ra, Darwin đưa ra một số khái niệm
như: xung đột tâm lí, vai trò giấc mơ và những bí ẩn của các hành vi, sự hưng phấn
tình dục. Lý thuyết của Darwin được Freud đánh giá cao khi ông cho rằng, lý thuyết
mà Darwin đưa ra làm cho con người có thể hy vọng vào những bước tiến phi
thường trong xã hội. Về phương diện lý luận, “Thuyết tiến hóa làm cho Freud vững
tin rằng đã là con người tiến hóa từ giới tự nhiên, thì trên thân thể con người tất
nhiên cũng bảo lưu một số bản năng có tính động vật” [97, tr. 12]. Freud cho rằng,
tâm lý con người trong quá trình hoạt động bị chi phối bởi một số xung động bản
năng có tính chất động vật nguyên thủy, và các hoạt động tâm sinh lý của con người
cũng tuân theo các quy luật đó. Những khái niệm, những vấn đề Darwin đưa ra đã
được Freud tiếp nhận, tiếp tục nghiên cứu và phát triển một cách hoàn chỉnh trong
học thuyết phân tâm học của mình.
Freud sử dụng khái niệm “năng lượng và định luật bảo toàn năng lượng” của
H.Helmholtz (1821 -1894) và E.W.Brucke (1819 - 1892) vào việc nghiên cứu lý
thuyết xung năng vô thức của mình. H.Helmholtz xem cơ thể con người giống như
35
một hệ thống hợp nhất hai loại năng lượng: năng lượng cơ giới (điện, hoá) với các
hình thức sinh lý và năng lượng tâm lý, trong đó ông coi trọng và nhấn mạnh năng
lượng tâm lý và cho rằng, đây là một loại năng lượng liên hệ gắn liền với tính bản
năng không thể tách rời được. Hai nguồn năng lượng này trong cơ thể con người
không mất đi, chúng luôn hoán chuyển, chuyển hoá lẫn nhau thông qua những hành
vi của cơ thể, nguồn năng lượng tâm lý này, được Freud tiếp thu và đưa vào trong
phân tâm học gọi là libido, và nó trở thành một khái niệm trung tâm trong học
thuyết phân tâm học.
Brucke và Helmholtz trong quá trình nghiên cứu đã đưa ra quan điểm đồng
nhất rằng, toàn bộ những năng lượng hoạt động trong sinh vật là những gì có tính
chất lý hóa, sự hoạt động đó là sự tăng lên hay giảm đi của năng lượng vật lý, nguồn
năng lượng này không thay đổi, nó có cả ở con người, nhờ nó mà con người có thể
thực hiện các chức năng sống như tuần hoàn máu, hít thở, vận động và những hoạt
động nội tiết. Còn trong hoạt động tinh thần như: nhận biết, suy nghĩ, ghi nhớ,...
phải có một nguồn năng lượng khác ngoài nguồn năng lượng vật lý nhưng về bản
chất thì nó vẫn không có gì thay đổi. Freud đã tiếp thu quan điểm này của Brucke và
Helmholtz vận dụng vào học thuyết phân tâm học của ông trong quá trình tìm hiểu
về vô thức.
J.Muller (1801 – 1858) với “Thuyết năng lượng chuyên biệt” cho rằng, tất cả
các hành vi, hoạt động của con người và của phải phẫu học, cũng như các hiện
tượng vật lý đều phải được xem xét ở góc độ sinh lý học. Ông xem xét một cách chi
tiết sự khác nhau trong hệ thống sinh lý của mỗi loài động vật, và các thuộc tính của
chúng, ông coi giữa chúng có liên quan đến sự hiện diện của một đời sống tâm thần
chung hay không. Theo Muller, trong cơ thể mỗi sinh vật sống có một nguồn năng
lượng mà với sự tác động vật lý thì không bao giờ có thể cảm nhận được đầy đủ.
Theo “Thuyết năng lượng chuyên biệt”, khi có một sự tác động vật lý vào một giác
quan nào, thì giác quan đó bị kích thích phóng ra một năng lượng riêng vốn có làm
cho ta cảm nhận được sự tác động ấy. Đây là một phát hiện mà Freud đã tiếp thu
trong quá trình tìm hiểu về các yếu tố tâm thần con người.
36
G.T. Fechner (1801 - 1877) sử dụng khái niệm “Ngưỡng cửa ý thức” khi nói
về hoạt động của ý thức. Fechner xem những “cảm giác vô thức” là những trạng
thái nằm dưới “ngưỡng cửa ý thức” nó gắn với những hoạt động sinh lý, là cơ sở để
xuất hiện các hành vi có ý thức. “Tuy nhiên chúng tôi không thể không để ý đến ý
kiến của một nhà bác học thâm trầm như G.Th.Fechner: ông quan niệm vấn đề “dễ
chịu khó chịu” với những nét chính rất gần với những điều mà chúng tôi đã tìm ra
nhân việc nghiên cứu phân tâm học của chúng tôi” [38, tr. 17]. Theo G.Th.Fechner,
ý thức con người chỉ hoạt động đến ngưỡng nhất định, phần vượt ngưỡng và chịu sự
chi phối bởi các yếu tố ngoài ý thức được gọi là “vô thức”. Ngoài ra, những khái
niệm mà Fechner đưa ra như: nguyên tắc thoả mãn, năng lượng tâm lý,... đã ảnh
hưởng đến sự hình thành một số khái niệm của phân tâm học. Freud gọi ông là
“Fichner vĩ đại” [dẫn theo 77, tr. 137].
Theodor Hermann Meynert (1833-1892), một nhà giải phẫu học và bệnh lý
học thần kinh người mang hai quốc tịch Đức-Áo, được biết đến như một trong
những người sáng lập của khoa học thần kinh (bệnh học thần kinh). Ông là thầy dạy
Freud môn tâm thần học. Meynert tìm hiểu các sự kiện tâm lý của những người mắc
chứng bệnh thần kinh, cả về những yếu tố bên ngoài và cấu trúc giải phẫu bệnh bên
trong của nó. Meynert cho rằng, do sự xung đột tồn tại giữa vỏ não và các tiểu vùng
vỏ não, sự xung đột này xảy ra là nguyên nhân chính dẫn tới chức năng bình thường
của các thành phần não bị thay đổi và bệnh tâm thần xuất hiện. Meynert là người
sáng lập ra tâm thần học, và xem nó là một môn khoa học chính xác dựa trên giải
phẫu; sách giáo khoa “tâm thần học” của ông được xuất bản năm 1884, một trong
những nội dung được nhấn mạnh đó là định nghĩa về “tâm thần”. Meynert là nhà
khoa học đầu tiên cho rằng cần khảo luận lâm sàng về bệnh của não trước, để thấy
được những bệnh tâm thần mà con người mắc phải và nghiên cứu về bộ não là một
sự kết hợp nghiên cứu liên ngành lại với nhau ở giải phẫu và sinh lý, được xem là
một phương pháp mới của Y học. Freud coi Meynert “như một thiên tài chói lọi
nhất mà ông gặp” [88, tr. 30] để nói về người thầy của mình.
37
Joseph Breuer (1842-1925), ở một mức độ nào đó có thể được coi là “người
mở đường” cho sự ra đời của phân tâm học. Mối quan hệ giữa Freud và Breuer khá
đặc biệt. Breuer đã đóng một vai trò rất lớn trong những năm tháng mà hai ông cộng
tác với nhau. Trong quá trình điều trị cho bệnh nhân Breuer đã phát hiện ra rằng
chứng loạn thần kinh có thể khởi sinh từ vô thức và quy trình sinh lý, hơn nữa, các
triệu chứng loạn thần kinh có thể biến mất khi những nguyên nhân cơ bản của triệu
chứng tâm thần không còn nữa. Ông trao đổi những kết quả này với Freud và cùng
nghiên cứu. Trong khi Breuer nhấn mạnh thôi miên đồng thời tin rằng mức độ biểu
hiện khác nhau của ý thức rất quan trọng trong cả hai trường hợp tâm thần và bất
thường, ngược lại Freud không xem thôi miên như là phương pháp duy nhất và có
thể chữa khỏi bệnh thần kinh. Vì thế, cuốn sách “Nghiên cứu về chứng bệnh
Hysteria” (1895) ra đời, đánh dấu sự bất đồng quan điểm giữa hai người trong điều
trị bệnh. Sự hợp tác giữa Breuer và Freud đã chấm dứt. Nhưng những gì mà Freud
tiếp nhận được ở Breuer là không thể chối bỏ trong quá trình xây dựng học thuyết
phân tâm học.
Hippolyte Bernheim (1840 - 1919), là một bác sĩ, nhà thần kinh học người
Pháp. Ông được biết đến với lý thuyết liên quan đến thuật thôi miên. Bernheim đã
có ảnh hưởng đáng kể đến Freud, người đã đến thăm Bernheim vào năm 1889, và
chứng kiến một số thí nghiệm của mình. Freud đã dịch chuyên luận nổi tiếng của
Bernheim “thôi miên, ám thị và phương pháp trị liệu bằng tâm lý” (1886); trong
chuyên luận này Freud nhận xét rằng:
Đối với Bernheim, không thể nói thôi miên một cách thuần túy, mà chỉ
có thể nói về hiện tượng ám thị. Ông là người say mê miêu tả tỉ mỉ hiện
tượng này và từ đó rút ra một phương pháp điều trị rõ ràng. Bernheim
nhận thấy trong ám thị chứa đựng một quá trình tâm lý chung cho tất cả
mọi người, ở cấp độ thay đổi khác nhau, dù họ là người ốm hay là người
khỏe mạnh. Bernheim vốn là một trong những người đầu tiên làm lung
lay bức tường ngăn cách giữa tâm lý học và tâm bệnh học. [88, tr. 37 –
38].
38
Khi nói về sự tiếp cận phương pháp thôi miên của Bernheim, Freud đã khẳng,
“Trong nhiều năm tôi đã dùng thôi miên để chữa bệnh đi kèm với sự ám thị tự bảo
vệ, và với sự khảo sát người bệnh theo phương pháp của Bernheim” [41, tr. 510].
Như vậy, việc Freud đã tiếp thu các phương pháp chữa bệnh tâm thần, bệnh
hysteria ở các nhà khoa học trước đó cũng như đang thực hành lúc bầy giờ và ông
cho rằng, những phương pháp chữa trị như vậy làm người bệnh không hoàn toàn
khỏi bệnh. Theo Freud, bằng các phương pháp đã sử dụng, các nhà khoa học chỉ tìm
ra được nguyên nhân gây bệnh từ bên ngoài mà chưa thấy được nguyên nhân sâu xa
ở bên trong, điều này đã thôi thúc Freud đi tìm một phương pháp điều trị mới giúp
cho những người mắc bệnh tâm thần hoàn toàn được trị khỏi.
Việc áp dụng phương pháp thực nghiệm vào nghiên cứu các hiện tượng tâm lý
con người ở cuối thế kỷ XIX đã cho ra đời một ngành khoa học độc lập có đối
tượng và phương pháp nghiên cứu riêng của mình đó là - tâm lý học. Tâm lý học có
ảnh hưởng đáng kể đến sự hình thành phân tâm học.
Người sáng lập của ngành tâm lý học là Wilhelm Wundt (1832 - 1920). Vào
năm 1879 ông thiết lập phòng thí nghiệm tâm lý học đầu tiên ở Leipzig, Đức. Ông
tách Tâm lý học ra khỏi các khoa học khác, từ đây, tâm lý học trở thành khoa học
độc lập. Wundt thừa nhận “ngưỡng cửa ý thức” của Fechner, nhưng ông đã phát
triển thêm và cho rằng, “trạng thái vô thức nội tại” của hoạt động tư duy liên hệ với
các tri giác, chúng có khả năng biến mất khỏi “lĩnh vực ý thức” do các nguyên nhân
khác nhau. Sự xuất hiện và mất đi của các tri giác không là gì khác ngoài tồn tại
một trạng thái vô thức nội tại trong con người. Trong các tác phẩm của mình, Freud
đã trích dẫn cả Fechner và Wundt. Freud viết rằng: “Các bạn hãy đọc trong các tác
phẩm của Wundt, Jodt và các triết gia khác: tất cả đều chỉ liệt kê ra những điểm
khác nhau giữa giấc mơ và tình trạng thức, hay chú ý đến những sự phân hóa của
các liên tưởng, sự biến mất của trí óc phê bình, của mọi tri thức và những dấu hiệu
tỏ rằng giấc mơ không có giá trị gì hết” [41, tr. 90 – 91], khi nói về cấm kị của cái
chết, sự sợ hãi của con người hiện tại với linh hồn người đã chết, Freud cho rằng,
“không thể nào thoát được sự truy đuổi rằng họ, theo diễn đạt của Wundt, chịu đau
39
đớn trước nỗi kinh hoàng sợ vì “linh hồn của anh ta biến thành ma quỷ”” [40, tr.
117] và “bằng sự xem xét một cách tương tự như vậy chúng tôi đã làm sáng tỏ tính
xác thực của quan điểm của Wundt, quan điểm tìm ra được thực thể của cấm kị từ
trong nỗi sợ hãi trước ma quỷ, như chúng ta đã từng nghe” [40, tr. 117]. Như vậy,
thuyết “ngưỡng ý thức” đã ảnh hưởng đến sự hình thành và phát triển các khái niệm
phân tâm học.
2.3. Tiền đề tư tưởng
Các nhà nghiên cứu theo định hướng đề cao phân tâm học một thời gian dài đã
coi Freud là người đầu tiên khám phá ra lĩnh vực vô thức, quan niệm này rất phổ
biến nhưng không có căn cứ rõ ràng. Do vậy, việc khái quát những tư tưởng triết
học về “vô thức” trong lịch sử tư tưởng có ảnh hưởng đến quá trình hình thành phân
tâm học với tính cách là khuynh hướng nghiên cứu về con người và văn hóa – văn
minh là cần thiết. Các công trình nghiên cứu mang tính phê phán về phân tâm học
đã công bố chỉ ra rằng: “công đầu đặt ra vấn đề vô thức hoàn toàn không thuộc về
Freud. Hàng loạt các tác giả khảo cứu chuyên sâu lịch sử của hệ vấn đề vô thức
thông qua tài liệu triết học, tâm lý học và khoa học tự nhiên” [dẫn theo 77, tr. 90].
Trong lịch sử tư tưởng triết học thời cổ đại như Hi Lạp, La Mã ở phương Tây
hay Babylon; Trung Quốc, Ấn Độ ở phương Đông, “vô thức” với tư cách là yếu tố
tác động đến đời sống tâm thần con người đã được bàn đến. Chẳng hạn, “nhân chi
sơ tính bản thiện hay bất thiện” (Nho giáo), hoặc “con người là một động vật chính
trị - xã hội” (Aristotle).
Từ thời sinh viên Freud đã được nghe các bài giảng về triết học Aristotle, và
trong thời gian này ông dịch một số tác phẩm tiêu biểu của J.S. Mill trong đó có bàn
về tư tưởng triết học Platon. “Điều này làm cho Freud có dịp đi sâu học tập tư tưởng
triết học của Platon” [97, tr. 48]. Do đó, ông đã tiếp nhận một số quan niệm về vô
thức của Platon. “Platon cho rằng hiện vật cảm tính chẳng qua chỉ là cái bóng của ý
niệm, đối tượng nhận thức của người ta không phải là thế giới hiện thực, mà là cái
bóng của ý niệm” [97, tr. 48]. Khi chúng ta vứt bỏ mọi sự vật vật cảm tính, bên
ngoài và hồi tưởng lại những cái thuộc về thế giới ý niện thì chúng ta mới nhận thức
40
được. “Tư tưởng này trực tiếp được Freud tiếp nhận, trở thành một bộ phận cấu
thành của lý luận như “liên tưởng tự do” trong phân tâm học của ông” [97, tr. 48].
Platon chịu ảnh hưởng của thuyết luân hồi trong kinh Vệ Đà của Ấn độ “qua sự
trung gian của những người theo chủ thuyết của Pythagoras” [38, tr. 95]. Freud rất
nhiều lần trích dẫn quan điểm của Platon trong khi nghiên cứu về bản năng tính dục.
“Cái Eros của Platon xét về phương diện nguồn gốc, phát hiện và liên lạc với ái
tình, hoàn toàn phù hợp với tinh lực tình yêu, với cái libido của phân tâm học” [38,
tr. 137]. Như vậy, chúng ta có thể thấy, Freud đã thực sự tiếp thu tư tưởng triết học
Hy lạp cổ đại về vô thức.
Bước vào thời cận đại, thời kỳ người ta chỉ quan tâm đến vấn đề ý thức, vấn
đề lý tính. Do vậy, việc nhận thức về bản chất đời sống tâm thần của con người là,
xác định vị trí, vai trò của ý thức, làm rõ ý nghĩa mối quan hệ giữa cảm tính và lý
tính, vạch ra những mối liên hệ bên trong và bên ngoài thế giới nội tâm của con
người là vấn đề hàng đầu trong quá trình nhận thức về bản chất đời sống tâm thần
của con người. Nhưng ở đây, các nhà triết học đã đặt ra một vấn đề có ý nghĩa cốt
lõi là: “lẽ nào cần xem tâm thần con người chỉ bao gồm ý thức, lẽ nào có thể giả
định sự hiện diện của vô thức trong tâm thần, lẽ nào có thể đưa ra bộ phận những
quá trình diễn ra một cách tự phát, vô thức ra khỏi đời sống tâm thần con người?”
[77, tr. 93]. Từ đó, các nhà triết học cố gắng đi vào để giải quyết vấn đề này.
Với mệnh đề nổi tiếng “Cogito ego sum” (Tôi tư duy nên tôi tồn tại), René
Descartes (1596 - 1650) muốn ám chỉ một thực tế là trong tâm thần của con người
không có và không thể có một quá trình nào ngoài quá trình diễn ra một cách ý
thức. Theo ông, tất cả mọi suy nghĩ, suy luận về tồn tại, con người và nhận thức thế
giới là nằm ở ý thức. Descartes cho rằng, thể xác và tâm thần như hai mặt của thực
thể con người, có liên hệ mật thiết với nhau nhưng lại hoàn toàn độc lập, không quy
định nhau. Ngược lại khi lý giải về các bộ phận của tâm thần con người, ông cho
...a đến ranh giới của
chứng mất trí” [52, tr. 141]. Do vậy, để con người có thể liên kết hoàn toàn với nhau
cần phải có những đặc điểm chung nhất kéo họ lại gần nhau đó là “tâm lý tôn giáo”.
Chỉ có tâm lý tôn giáo mới làm cho con người “hành động theo lương tri phụ thuộc
vào mức độ anh ta vượt khỏi những giới hạn của xã hội” [52, tr. 143].
Mục đích của bất kỳ tôn giáo nào cũng mong muốn đem lại cho con người
Chân - Thiện - Mỹ, cũng như mục đích của phân tâm học Fromm đưa ra vấn đề tâm
lý tôn giáo nhằm giúp cho con người có một cuộc sống ổn định, hạnh phúc hơn về
đời sống của mình, nhất là đối với đời sống tâm thần.
Cho dù chúng ta có phải là người mộ đạo hay không cho dù chúng ta có
tin vào tính chất cần thiết của một tôn giáo mới hoặc một tôn giáo chẳng
145
phải là tôn giáo hay không, hoặc vẫn tiếp tục giữ lại truyền thống Do
Thái giáo, Kitô giáo, vì chúng ta quan tâm đến bản chất chứ không phải
là hình thức, quan tâm đến sự trải nghiệm chứ không phải là ngôn từ,
quan tâm đến con người chứ không phải nhà thờ, nên chúng ta có thể
hợp nhất trong việc khước từ mạnh mẽ sự sùng bái thần tượng và có thể
tìm được một niềm tin chung trong việc khước từ này hơn là trong bất cứ
tuyên bố khẳng định nào về Thượng đế. Chắc chắn là chúngta sẽ tìm
được sự khiêm nhường và sự yêu thương trong tình huynh đệ” [51, tr.
174 – 175].
Như vậy, nếu chúng ta quan tâm đến bản chất chứ không phải đến cái vỏ bề
ngoài, đến cảm nghiệm cuộc sống đã trải qua chứ không phải đến những ngôi thánh
đường lung linh, huyền ảo, thì chúng ta có thể hợp nhất để quyết liệt chối bỏ sự tôn
thờ thần tượng trong xã hội hiện đại, biểu hiện như: sự phục tùng quyền lực, sự
sùng bái sức mạnh, sùng bái thành tích, sùng bái bạo lực, sùng bái thành công và sự
tiện nghi, chúng ta sẽ tìm thấy một niền tin chung trong sự phủ nhận này hơn bất
cứ trong mệnh đề xác quyết nào của các tôn giáo. Chắc chắn chúng ta sẽ trở nên
khiêm tốn hơn và sẽ sống với nhau như trong một “xã hội lành mạnh”. Theo chúng
tôi, Fromm đã có lý khi chỉ ra vai trò của tâm lý tôn giáo trong việc giúp cho con
người thoát khỏi sự tha hóa của xã hội.
Kết luận chƣơng 4
Với Freud, văn hóa ra đời từ giai đoạn đầu của con người gắn với sự sụp đổ
của tính tập thể bày đàn, bắt nguồn từ tâm trạng bơ vơ khi phải đối diện với sức
mạnh của thiên nhiên bên ngoài và sự xung đột bản năng bên trong, đó là từ tội lỗi
của những người con trai trưởng thành kết hợp lại để giết người Cha, sau đó, họ
phải đối diện với những cảm giác tội lỗi và sức mạnh không thể ngăn chặn cả bên
trong lẫn bên ngoài (xung khắc với văn hóa – văn minh), lúc này, họ đặt ra tục
Tôtem, và muốn quay về với sự bảo vệ của người cha, người mà có thể yêu thương
và bảo vệ trước những sức mạnh khi con người gặp phải. Theo ông, tôn giáo là tài
146
sản tinh thần của nền văn minh, do vậy, thông qua tôn giáo, con người có được sự
giúp đỡ cần thiết về đời sống tâm thần khi những bản năng không được thỏa mãn.
Theo Jung, vô thức tập thể là nguồn gốc của văn hóa – văn minh, các
archetype trong vô thức tập thể có ở mọi nền văn hóa – văn minh. Phân tích và tìm
hiểu các biểu tượng văn hóa, Jung nhận ra sự giống nhau đến kỳ lạ của những hình
ảnh, môtíp, các chủ đề trong đó người nằm mơ, các bệnh nhân thuộc các nền văn
hóa khác nhau với tuổi tác khác nhau, trình độ học vấn khác nhau, màu da khác
nhau,... để rút ra kết luận về tính xác thực và củng cố về sự tồn tại của một lớp vô
thức chung, mang tính tập thể trong tâm lý con người, là sự cố gắng làm cho tâm
thức con người quay trở lại ban đầu trên tinh thần nguyên thủy để sống với nhau
hòa hợp, hạnh phúc hơn.
Fromm nghiên cứu văn hóa – văn minh từ lập trường triết học của mình nhằm
khám phá những dạng tính cách xã hội khác nhau trong những nhân tố quy định nó.
Chừng nào sự tương tác của những nhân tố này vẫn còn hài hoà và ổn định thì khi
ấy tính cách xã hội tương ứng vẫn thể hiện chức năng duy trì sự ổn định của xã hội.
Ngược lại, khi những điều kiện biến đổi, sự hoạt động không đồng đều, thậm chí
trái ngược nhau của các nhân tố trên sẽ tác động không nhỏ đến tính cách xã hội.
Lúc này, tính cách xã hội không còn giữ vai trò là chiếc van an toàn cho xã hội nữa
mà trái lại trở thành yếu tố hủy hoại cấu trúc xã hội làm con người cô đơn và lo âu.
Lúc đó, con người tìm đến tâm lý tôn giáo, nhằm giúp họ có cuộc sống không còn
sợ hãi và lo âu.
147
KẾT LUẬN
Nghiên cứu quan điểm của phân tâm học về con người và văn hóa – văn minh
nói riêng và phân tâm học nói chung ở Việt Nam trong vài thập niên trở lại đây có
xu hướng mở rộng, nhưng phần lớn những công trình phân tâm học chủ yếu nghiên
cứu tư tưởng Freud, người sáng lập ra phân tâm học, nên những tác phẩm nghiên
cứu về phân tâm học sau Freud còn hạn chế.
Phân tâm học cũng như các trào lưu triết học phương Tây hiện đại là sự phản
tư, kết hợp tinh thần nhân văn của con người và xã hội phương Tây, cũng là những
hình thái ý thức xã hội, phản ánh đời sống xã hội lúc bấy giờ, do vậy, phân tâm học
không thể tách rời những điều kiện và tiền đề hình thành của mình. Là một trong
những thành tựu lớn của Y học và tâm lý học, một phương pháp mới trong điều trị
bệnh tâm thần, về sau phân tâm học trở thành một học thuyết nghiên cứu con người
và xã hội.
Phân tâm học định hướng vào làm rõ cơ sở tồn tại người, kết cấu của bộ máy
tâm thần, những nguyên tắc hoạt động sống của cá thể và tập thể dựa trên sự vận
dụng lý thuyết về vô thức (vô thức cá thể, vô thức tập thể và vô thức xã hội). Thông
qua việc làm rõ vị trí, vai trò, đặc điểm của vô thức, cấu trúc của bộ máy tâm thần
con người và sự tác động qua lại của những yếu tố trong cấu trúc ấy ở các giai đoạn
phát triển khác nhau của đời sống tâm thần con người. Điểm nổi bật trong Phân tâm
học về con người là dịch chuyển bản thể tồn tại người từ thực tại vật chất sang thực
tại tâm thần, bên trong thực tại tâm thần là sự dịch chuyển từ sự quyết định của hữu
thức sang vô thức. Sự dịch chuyển này trong bản thể tồn tại người tuy còn một số
hạn chế, nhưng việc chỉ ra bản chất của thực tại tâm thần con người của Phân tâm
học có những đóng góp quan trọng trong quan niệm về con người góp phần vào
nhận thức rõ và đầy đủ hơn trong vấn đề nhìn nhận tồn tại người trong thế giới.
Xem vô thức là bản thể tồn tại người, Phân tâm học khảo cứu con người trong mối
quan hệ với con người, con người với tự nhiên và con người với xã hội, làm rõ cơ
chế biểu hiện của vô thức trong đời sống con người trong sự tương tác với văn hóa
– văn minh.
148
Với vô thức cá thể, Freud xem văn hóa – văn minh phát sinh gắn với sự sụp đổ
của tính tập thể bày đàn, đó là từ tội lỗi của những người con trai kết hợp lại để giết
người Cha của mình. Sau đó, tất cả những người con trai trưởng thành lại đặt ra
những lệ cấm. Đây chính là bước chuyển từ quan hệ theo bản năng sang quan hệ
theo chuẩn mực “cấm kị”, là kết quả của sự lấn át bản năng tính dục và tôn giáo ra
đời là để thỏa mãn những xung đột nội tâm của ba yếu tố trong bộ máy tâm thần
con người là phi Ngã, Ngã và siêu Ngã. Tôn giáo là tài sản tinh thần của nền văn
minh, hình thành từ sự nghiêm khắc, áp lực của người Cha và sự phạm tội của
những người con thông qua mặc cảm Oedipe, có vai trò to lớn trong đời sống là
giúp cho con người thỏa mãn những bản năng vô thức. Freud xuất phát từ sự đối lập
giữa cá thể với văn hóa, cá thể với xã hội nên ông cho rằng văn hóa là kết quả của
của sự lấn át bản năng tính dục của con người trên cơ sở hạn chế những cấm đoán,
những đam mê, dục vọng bẩm sinh, điều này làm cho cá thể chính là kẻ thù của văn
hóa. Freud chưa nhìn thấy vai trò của lịch sử khi xem xét văn hóa, nhưng ông lại có
đóng góp quan trọng khi cho rằng, muốn đạt tới văn hóa, con người phải biết từ bỏ
hay hạn chế một số bản năng để hướng tới sự tôn trọng và yêu thương là cơ sở để
mỗi người có được hạnh phúc.
Với vô thức tập thể chứa đựng toàn bộ archetype, là vật trầm tích, của tất cả
những cái mà nhân loại trải nghiệm cho đến tận nguyên lý ban đầu của nó, là hệ
thống sinh động của những phản ứng và sắp đặt, hệ thống này là những archetype
nằm trong vô thức tập thể mang tính mờ ảo, bằng những hình ảnh tập thể, nó sẽ xác
định thực tế của cá thể, là những mô hình nhận thức và biểu tượng của văn hóa.
Thông qua archetype, Jung tìm ra trong kho tàng thế giới tâm thần của con người,
những nét văn hóa mang bản chất chung của loài người, Jung phát hiện ra nguồn
gốc sâu xa của một số hiện tượng trong các nền văn hóa khác nhau có một sự giống
nhau như những hình ảnh trong giấc mơ dù là người da màu hay da trắng, dù là học
thức cao hay học thức thấp,và ý nghĩa phổ biến của những biểu tượng trong lịch
sử giữa các nền văn hóa, con người cần tìm về những yếu tố có chung trong các nền
149
văn hóa, như thế con người sẽ tìm được tiếng nói chung và sống với nhau ngày càng
tốt đẹp.
Fromm coi nền văn minh công nghiệp hiện đại trong thế kỷ XX là văn hóa của
một xã hội hoàn toàn tha hóa. Trong nền văn minh này những quy định, quy tắc
cùng với những điều làm con người không thỏa mãn sẽ dồn nén rơi, chìm vào “vô
thức xã hội”. Đặc điểm của xã hội này là cảm xúc giả tạo, sự thần tượng hóa, tình
yêu méo mó, bệnh nhiễu tâm liên quan đến cuộc sống vô nghĩa. Fromm và những
người theo Chủ nghĩa Freud mới đề nghị, Phân tâm học nên chuyển hướng từ sinh
vật học sang xã hội học. Nghĩa là nó nên tự nhận mình như là một trong những
ngành khoa học xã hội hơn là một khoa học về tự nhiên. chúng ta thấy rằng con
người trước hết là một thực thể xã hội (chứ không phải là một thực thể sinh học như
quan điểm của Freud), con người không thể tự mình mà luôn cần những người khác
để thỏa mãn những nhu cầu bản năng của anh ta. Sự biến đổi của những điều kiện
kinh tế xã hội sẽ dẫn đến sự biến đổi tính cách xã hội, làm nảy sinh những nhu cầu
và lo âu mới mặt khác, tính cách không phải là kết quả của sự thích nghi thụ động
mà của sự thích nghi năng động với hoàn cảnh xã hội. Cách lý giải này về xã hội
hiện đại giúp chúng ta có nhận thức đầy đủ hơn về sự ảnh hưởng của tính cách xã
hội đến đời sống con người và nền văn hóa chúng ta đang tồn tại. Theo Fromm,
những đam mê của con người không phải bắt nguồn từ những nhu cầu có tính bản
năng, mà từ những điều kiện hiện sinh cụ thể của con người. Nhưng để những bản
năng được thỏa mãn, con người không tìm thấy ở đâu ngoài đời sống tâm lý tôn
giáo.
Nghiên cứu quan điểm của Phân tâm học về con người và văn hóa – văn minh
là xem xét quan điểm của phân tâm học về bản thể tồn tại người, nhân cách người
vận dụng vào nghiên cứu lĩnh vực nhân văn của con người – lĩnh vực văn hóa – văn
minh để thấy được sự ảnh hưởng và vai trò của văn hóa – văn minh trong đời sống
xã hội và con người, từ đó nhận ra những yếu tố tích cực và hạn chế những yếu tố
tiêu cực của phân tâm học về vấn đề này. Tuy nhiên, trong khuôn khổ của một luận
án chúng tôi mới bước đầu tìm hiểu, tiếp cận tư tưởng của ba nhà phân tâm học
150
Freud, Jung và Fromm. Chúng tôi cho rằng, phân tâm học là một lĩnh vực khá rộng
lớn cần được tiếp tục nghiên cứu quy mô rộng lớn và sâu sắc hơn, nhất là nghiên
cứu phân tâm học như một sợi chỉ xuyên suốt từ Freud (cha đẻ của phân tâm học)
tới các thế hệ tiếp theo và giai đoạn hiện nay.
151
DANH MỤC CÔNG TRÌNH CỦA TÁC GIẢ
CÓ LIÊN QUAN ĐẾN LUẬN ÁN
1. Nguyễn Văn Quế (2016), “Vai trò của tôn giáo trong xã hội hiện đại qua sự
kiến giải của Erich Fromm”, trong Nguyễn Thế Phúc, Ngô Văn Trân (đồng chủ
biên), “Triết học tôn giáo với những vấn đề nhân sinh quan: Lý luận và thực tiễn”,
Nxb Tôn giáo, Hà Nội, 2016, tr. 30 - 44.
2. Nguyễn Văn Quế (2015), “Vai trò của tôn giáo trong đời sống xã hội dưới
góc nhìn Phân tâm học của S.Freud”, Nghiên cứu Tôn giáo, Viện Nghiên cứu Tôn
giáo – Viện Hàn lâm Khoa học xã hội Việt Nam, ISSN: 1859-0403, số 4, tr. 13 –
22.
3. Nguyễn Văn Quế (2015), “Lý luận về biểu tượng nhân cách theo tư tưởng
của Carl Gustav Jung”, Thiết bị giáo dục, Hiệp hội thiết bị giáo dục Việt Nam,
ISSN: 1859-0810, số 7, tr. 193 – 196.
4. Nguyễn Văn Quế (2013), “Tôn giáo theo quan điểm của phân tâm học”,
Nghiên cứu Tôn giáo, Viện Nghiên cứu Tôn giáo – Viện Hàn lâm Khoa học xã hội
Việt Nam, ISSN: 1859-0403, số 11, tr. 3 – 10.
5. Nguyễn Văn Quế (2012), “Sự tiếp nhận Phân tâm học ở Việt Nam: Lịch sử
và vấn đề” (viết chung với PGS,TS. Nguyễn Tiến Dũng), Kỷ yếu hội thảo quốc tế
Triết học Áo và ý nghĩa hiện thời của nó, Viện Triết học, tr.15 – 25. In lại trong
PGS,TS. Phạm Văn Đức (chủ biên), Triết học Áo và ý nghĩa hiện thời của nó, Nxb
Khoa học xã hội, Hà Nội, 2014.
6. Nguyễn Văn Quế (2011), “Quan điểm của Phân tâm học về tôn giáo”, Y học
thực Hành, Số 757 + 758, tr. 224 – 229.
7. Nguyễn Văn Quế (2011), “Vai trò của tôn giáo trong đời sống xã hội dưới
góc nhìn của Phân tâm học”, Y học thực Hành, Số 757 + 758, 2011, tr. 312 – 318.
152
TÀI LIỆU THAM KHẢO
* Tiếng Việt:
1. Adler, J (2004), Tìm hiểu nhân cách, bản dịch của Trí Hải, Nxb Hoàng Đông
Phương, Sài Gòn.
2. Adler, Mortimer J (2004), Những tư tưởng lớn qua tác phẩm của thời đại, Nxb
Văn hoá Thông tin, Hà Nội.
3. Ngọc Anh sưu tầm và biên soạn (2002), Các hình thức thờ phụng của bộ lạc,
Nxb Văn hóa dân tộc – Trung tâm Văn hóa Ngôn ngữ Đông Tây, Hà Nội.
4. Lý Chấn Anh (2007), Nghiên cứu triết học cơ bản, bản dịch của Nguyễn Tài
Thư, Nxb Tri thức, Hà Nội.
5. Ban tư tưởng văn hoá Trung ương (2002), Vấn đề tôn giáo và chính sách tôn
giáo của Đảng Cộng sản Việt Nam, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.
6. Belik, A.A (2000), Văn hoá học những lý thuyết nhân học văn hóa, Tạp chí
văn hoá nghệ thuật, Hà Nội.
7. Bennet, E.A. (2002), Jung đã thực sự nói gì?, Nxb Văn hóa Thông tin, Hà
Nội.
8. Bochenski, J.M. (1969), Triết học Tây phương hiện đại, Nxb Ca Dao, Sài
Gòn.
9. Brinton, C. (2007), Con người và tư tưởng phương Tây, Nxb Từ điển bách
khoa, Hà Nội.
10. Charrier, J.P. (1972), Phân tâm học, Nxb Trẻ, Sài Gòn.
11. Quang Chiến (1993), “Tìm hiểu quan niệm của Giaxpe về con người”, Tạp chí
Triết học, số 4.
12. Clark, David S. (1998), Freud đã thực sự nói gì?, Nxb Thế giới, Hà Nội.
13. Doãn Chính, Đinh Ngọc Thạch (2008), Triết học Tây Âu Trung cổ, Nxb Chính
trị Quốc gia, Hà Nội.
14. Trương Chí Cương (2007), Tôn giáo học là gì, Nxb Tổng hợp Thành phố Hồ
Chí Minh, Thành phố Hồ Chí Minh.
153
15. Brinton, C., Wolff, R.L., Christopher, J.B. (2004), Văn minh phương Tây, Nxb
Văn hoá Thông tin, Hà Nội.
16. Daco, Pierre (2004), Những thành tựu lẫy lừng của tâm lý học hiện đại, Nxb
Thống kê, Hà Nội.
17. Dave Robinson và Oscar Zarate (2006), Nhập môn kierkegaard, Nxb Trẻ,
Thành phố Hồ Chí Minh.
18. Đỗ Lộc Diệp chủ biên (2003), Âu – Mỹ - Nhật: Văn hóa và phát triển, Nxb
Khoa học xã hội, Hà Nội.
19. Mai Ngọc Diệp (2004), “S.Freud và những luận điểm của ông chung quanh
những vấn đề liên quan đến văn hóa”, Tạp chí Thông tin khoa học, Đại học An
Giang, số 18.
20. Bùi Đăng Duy, Nguyễn Tiến Dũng (2005), Lịch sử triết học phương Tây hiện
đại, Nxb Tổng hợp Thành phố Hồ Chí Minh, Thành phố Hồ Chí Minh.
21. Bùi Đăng Duy, Nguyễn Tiến Dũng (2006), Triết học Mỹ, Nxb Tổng hợp Hồ
Chí Minh, Thành phố Hồ Chí Minh.
22. Nguyễn Tiến Dũng (2005), Chủ nghĩa hiện sinh và sự hiện diện ở Việt Nam,
Nxb Tổng hợp Thành phố Hồ Chí Minh.
23. Nguyễn Tiến Dũng (2002), “Triết học Mỹ với việc thiết lập nền tảng triết học
cho khoa học”, Tạp chí Triết học, số 2.
24. Nguyễn Tiến Dũng (1999), “Một số khía cạnh về văn hoá và con người trong
triết học phương Tây hiện đại”, Tạp chí Triết học, số 1.
25. Nguyễn Tiến Dũng (1996), Hiện tượng học: Thực chất và ý nghĩa, Tạp chí
Triết học, số 4.
26. Nguyễn Tiến Dũng (2003), “Triết học Nít Sơ và cuốn sách viết về triết học Nít
sơ đầu tiên ở Việt Nam”, Tạp chí Triết học, số 4.
27. Nguyễn Tiến Dũng (1997), “Chủ nghĩa thực dụng Mỹ”, Tạp chí Châu Mỹ
ngay nay, số 1.
28. Nguyễn Tiến Dũng (1997), “Chủ nghĩa cá nhân Mỹ”, Tạp chí Châu Mỹ ngay
nay, số 4.
154
29. Nguyễn Văn Dũng (1999), “William James với quan niệm về đạo đức”, Tạp
chí Triết học, số 3.
30. David, E.C. (2005), Các trường phái triết học trên thế giới, Nxb Văn hoá
Thông tin, Hà Nội.
31. Down, Robert B (2003), Những tác phẩm biến đổi thế giới, Nxb Lao động, Hà
Nội.
32. Đảng Cộng sản Việt Nam (2011), Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ
XI, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.
33. Đảng Cộng sản Việt Nam (1991), Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kì
quá độ lên chủ nghĩa xã hội, Nxb Sự thật, Hà Nội.
34. Lưu Phóng Đồng (1994), Triết học phương Tây hiện đại, Nxb Chính trị quốc
gia, Hà Nội, tập 4.
35. Lưu Phóng Đồng (2006), Giáo trình hướng tới thế kỷ 21- Triết học phương
Tây hiện đại, Nxb Lý luận chính trị, Hà Nội.
36. Phan Quang Định sưu tầm (2008), Toàn cảnh triết học Âu Mỹ thế kỷ XX, Nxb
Văn học, Hà Nội.
37. Fragons, M. (1999), Văn hóa thế kỷ XX, Nxb Văn hóa Thông tin, Hà Nội
38. Freud, S. (1969) Nghiên cứu phân tâm học, An Tiêm, Sài Gòn.
39. Freud, S. (1970), Phân tâm học tính dục, Nhị Nùng, Sài Gòn.
40. Freud, S. (2001), Vật tổ và cấm kỵ, Nxb Đại học quốc gia Hà Nội.
41. Freud, S.(2002), Phân tâm học nhập môn, Nxb Đại học quốc gia, Hà Nội.
42. Freud, S. (2002), Bệnh lý học thần kinh về sinh hoạt đời thường, Nxb Văn hóa
thông tin, Hà Nội.
43. Freud, S. (2002), “Tôi không nổi loạn chống lại trật tự vĩnh hằng”, bản dịch Lê
Huy Bắc, Tạp chí Nghiên cứu châu Âu, số 4.
44. Freud, S. (2005), Luận bàn về văn minh, Nxb Văn hóa thông tin, Hà Nội.
45. Freud, S. (2005), Các bài viết về giấc mơ và giải thích giấc mơ, Nxb Thế giới,
Hà Nội.
155
46. Freud, S. (2009), Tâm lý học đám đông và phân tích cái tôi con người, Nxb
Tri thức, Hà Nội.
47. Freud, S. (2015), Cái tôi và cái nó, Nxb Tri thức, Hà Nội.
48. Fromm, E. (1969), Phân tâm học về tình yêu, Nxb Nhị Nùng, Sài Gòn.
49. Fromm, E. (2002), Ngôn ngữ bị lãng quên, Nxb Văn hóa thông tin, Hà Nội.
50. Fromm, E. (2007), Trốn thoát tự do, Nxb Từ điển bách khoa, Hà Nội.
51. Fromm, E. (2012), Phân tâm học & tôn giáo, Nxb Từ điển bách khoa, Hà Nội.
52. Fromm, E. (2011), Thiền và phân tâm học, Nxb Thời đại, Hà Nội
53. Tạ Thị Vân Hà (2014), Tư tưởng triết học của S.Freud, Luận án tiến sỹ triết
học, Trường Đại học Khoa học xã hội và Nhân văn, Đại học quốc gia Hà Nội.
54. Trần Thanh Hà (2008) Học thuyết Freud và sự thể hiện của nó trong văn học
Việt nam, Nxb Đại học quốc gia Hà Nội, Hà Nội.
55. Phạm Minh Hạc (1999), Giáo dục Việt Nam trước ngưỡng cửa thế kỷ 21, Nxb
Chính trị quốc gia, Hà Nội.
56. Phạm Minh Hạc (2001), Một số vấn đề nghiên cứu nhân cách, Nxb Chính trị
quốc gia, Hà Nội.
57. Phạm Minh Hạc (2013), Học thuyết tâm lý học và Sigmund Freud, Nxb Giáo
dục, Hà Nội.
58. Nguyễn Hào Hải (2001), Một số học thuyết triết học phương Tây hiện đại,
Nxb Văn hoá Thông tin, Hà Nội.
59. Nguyễn Hào Hải (1995), “Vấn đề con người và thượng đế trong triết học
Phương Tây hiện đại”, Triết học, số 3.
60. Nguyễn Hào Hải (1996), “Thuyết trực giác của Bergson”, Triết học, số 6.
61. Nguyễn Hào Hải (1998), “Chủ nghĩa siêu hiện thực - Một tham vọng mới của
một số nhà triết học phương Tây muốn xoá bỏ sự ngăn cách giữa vật chất và
tinh thần”, Triết học, số 5.
62. Lê Nam Hải (2003), “C.G. Jung và lý thuyết vô thức tập thể”, Tạp chí Khoa
học, Đại học Huế, số 19.
156
63. Mai Thanh Hải (2006), Từ điển tôn giáo tín ngưỡng thế giới và Việt Nam, Nxb
Văn hoá Thông tin, Hà Nội.
64. Nguyễn Vũ Hảo (2013), ”Đạo đức học phương Tây đương đại: Tổng quan các
trào lưu và vấn đề chủ yếu”, Thông tin khoa học xã hội, số 4.
65. Vũ Gia Hiền (2006), Triết học từ góc độ biện chứng duy vật, Nxb Chính trị
quốc gia, Hà Nội.
66. Đỗ Lan Hiền (2004), “Vấn đề tôn giáo trong triết học phương Tây hiện đại”,
Triết học, số 4.
67. Nguyễn Chí Hiếu (2007), “Bản thể luận và cách tiếp cận bản thể luận trong
triết học phương Tây”, Triết học, số 6.
68. Nguyễn Chí Hiếu, Đỗ Minh Hợp (2013) Chủ nghĩa Mác phương Tây (trường
phái Frankfurt), Nxb Tôn Giáo, Hà Nội.
69. Nguyễn Huy Hoàng (2005), “Văn hóa dưới cái nhìn phân tâm học của Freud”,
Triết học, số 3.
70. Đỗ Minh Hợp (2000), “Triết học phương Tây hiện đại - Một cái nhìn khái
quát”, Triết học, số 1.
71. Đỗ Minh Hợp (2001), “Triết học phương Tây hiện đại”, Triết học, số 3.
72. Đỗ Minh Hợp (2003), “Chủ nghĩa hiện sinh nhìn từ góc độ văn hoá”, Triết
học, số 6.
73. Đỗ Minh Hợp, Nguyễn Anh Tuấn, Nguyễn Thanh, Lê Thanh Hải (2005), Tôn
giáo lý luận xưa và nay, Nxb Tổng hợp Thành phố Hồ Chí Minh, Thành phố
Hồ Chí Minh.
74. Đỗ Minh Hợp, Nguyễn Thanh, Nguyễn Anh Tuấn (2008), Đại cương lịch sử
triết học phương Tây hiện đại cuối thế kỷ XIX đầu thế ỷ XX, Nhà xuất bản
Tổng hợp Thành phố Hồ Chí Minh, Thành phố Hồ Chí Minh.
75. Đỗ Minh Hợp (2007), Triết học phương Tây hiện đại, Nxb Khoa học xã hội,
Hà Nội.
76. Đỗ Minh Hợp (2013), “Địa vị triết học của phân tâm học Freud”, Triết học, số
7.
157
77. Đỗ Minh Hợp (chủ biên) (2014), Nhân học triết học Freud và ảnh hưởng của
nó đến nhân học triết học phương Tây hiện đại, Nxb Tôn Giáo, Hà Nội.
78. Đỗ Minh Hợp (2014), Lịch sử triết học phương Tây (gồm 3 tập), Nxb Chính
trị Quốc gia, Hà Nội.
79. Trương Sỹ Hùng (2007), Tôn giáo và văn hoá, Nxb Khoa học xã hội, Hà Nội.
80. Hungtington, Samuel (2003), Sự va chạm của các nền văn minh, Nxb Lao
động, Hà Nội.
81. Đỗ Huy (1999), “Vấn đề xây dựng lối sống dân tộc - hiện đại ở nước ta hiện
nay”, Triết học, số 6.
82. Đỗ Huy (1994), “Suy nghĩ về nghiên cứu triết học phương Tây hiện nay”,
Triết học, số 4.
83. Đỗ Châu Huyền, Hoàng Tín Đức (1971), Những vĩ nhân thay đổi thế giới,
Nxb Thanh Tân, Sài Gòn,
84. Lưu Văn Hy (2003), Nhập môn lịch sử tâm lý học, Nxb Thống kê, Hà Nội.
85. John Dewey (2008), Dân chủ và giáo dục, Nxb Tri thức, Hà Nội.
86. J.S. Mill (2005), Bàn về tự do, Nxb Tri thức, Hà Nội.
87. J.K.Melvil (2007), Các con đường của triết học phương Tây hiện đại, Nxb
Giáo dục, Hà Nội.
88. Jaccard, Roland (1998), Freud – cuộc đời và sự nghiệp, Nxb Thế giới, Hà Nội.
89. Jung, Carl (2007), Thăm dò tiềm thức, Nxb Tri thức, Hà Nội.
90. Lưu Hồng Khanh (2005), Tâm Lý học chuyên sâu - ý thức và những tầng sâu
vô thức, Nxb Trẻ, Hà Nội.
91. Vũ Khiêu, Phong Hiền, Bùi Đăng Duy (1986), Triết học tư sản phương Tây
hôm nay, Nxb Thông tin lý luận, Hà Nội.
92. Đặng Xuân Kỳ (2005), Tư tưởng Hồ Chí Minh về phát triển văn hóa và con
người, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.
93. Phạm Minh Lăng (1984), Mấy trào lưu triết học phương Tây, Nxb Đại học và
Trung học chuyên nghiệp, Hà Nội.
158
94. Phạm Minh Lăng (2001) Những chủ đề cơ bản của triết học phương Tây hiện
đại, Nxb Văn hóa thông tin, Hà Nội.
95. Phạm Minh Lăng (2004), Freud và Tâm phân học, Nxb Văn hóa thông tin, Hà
Nội.
96. Phạm Minh Lăng (1999), “Vài nét về Freud và tâm phân học”, Triết học, số 5.
97. Diệp Mạnh Lý (2005), Ximôn Phrớt, Nxb Thuận Hóa – Trung tâm Văn hóa
ngôn ngữ Đông Tây, Hà Nội.
98. Nguyễn Cảnh Lâm, Minh Đức (2006), Những người khám phá bí ẩn thế giới,
Nxb trẻ, TP Hồ Chí Minh.
99. Le Bon, G (2006), Tâm lý học đám đông, Nxb Tri thức, Hà Nội.
100. Vũ Đình Lưu (1966), Thảm kịch văn hóa, Nxb An Tiêm, Sài Gòn.
101. Vũ Đình Lưu (1968), Hành trình vào Phân tâm học, Nxb Hoàng Đông
Phương, Sài Gòn.
102. Vũ Đình Lưu (1969), Phân tâm học áp dụng vào các ngành học vấn, Nxb Tổ
hợp Gió, Sài Gòn.
103. C.Mác, Ph.Ăngghen (2004), Toàn tập, Tập 2, Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội.
104. C.Mác, Ph.Ăngghen (2004), Toàn tập, Tập 7, Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội.
105. C.Mác, Ph.Ăngghen (2004), Toàn tập, Tập 20, Nxb Chính trị Quốc gia, Hà
Nội.
106. C.Mác, Ph.Ăngghen (2004), Toàn tập, Tập 21, Nxb Chính trị Quốc gia, Hà
Nội.
107. C.Mác, Ph.Ăngghen (2004), Toàn tập, Tập 42, Nxb Chính trị Quốc gia, Hà
Nội.
108. Marcuse, Herbert (1966), Dục tính và văn minh, Nxb Kinh Thi, Sài Gòn.
109. Mel, Thomson (2004), Triết học tôn giáo, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.
110. Miller, Henri (2008), Thế giới tính dục, Nxb Văn hoá Sài Gòn, Tp HCM.
111. Phan Trọng Ngọ (2003), Các lý thuyết phát triển tâm lý người, Nxb Đại học
Sư phạm, Hà Nội.
159
112. Lê Tôn Nghiêm (1969), Heidegger trước sự phá sản của tư tưởng phương
Tây, Nxb Sài Gòn.
113. Lê Tôn Nghiêm (2005), Những vấn đề triết học hiện đại, Nxb Ra Khơi, Sài
Gòn.
114. Lê Tôn Nghiêm (2001), Lịch sử triết học phương Tây (gồm 3 tập), Nxb Thành
phố Hồ Chí Minh, Nxb Thành phố Hồ Chí Minh.
115. Lại Bích Ngọc (2002), Nguồn gốc vai trò chức năng của tôn giáo trong lịch sử
thế giới Cổ Trung đại, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.
116. Đào Thị Oanh (2007), Vấn đề nhân cách trong tâm lý học ngày nay, Nxb Giáo
Dục, Hà Nội.
117. Osho (2007), Hành trình nội tại, Nxb Tổng hợp Thành Phố Hồ Chí Minh,
Thành phố Hồ Chí Minh
118. Nguyễn Thu Phong (2002), Minh triết trong tư tưởng phương Tây, Nxb Tổng
hợp Thành phố Hồ Chí Minh, Thành phố Hồ Chí Minh
119. Vũ Đình Phong, Lê Huy Hoà (2003), Những luận thuyết nổi tiếng thế giới,
Nxb Văn hoá Thông tin, Hà Nội.
120. Nguyễn Ngọc Phú (2006), Lịch sử tâm lý học, Nxb Đại học Quốc gia, Hà Nội.
121. Tô Kiều Phương (1943), Học thuyết Freud, Nxb Tân Việt, Sài Gòn.
122. Đặng Phùng Quân (1972), Triết học và khoa học, Nxb Sài Gòn.
123. Bùi Thị Kim Quỳ (2002), Mối quan hệ thời đại dân tộc tôn giáo, Nxb Khoa
học xã hội, Hà Nội.
124. Hồ Sĩ Quý (2007), Con người và phát triển con người, Nxb Giáo dục, Hà Nội
125. Richard Appignanesi và Oscar Zarate (2006), Nhập môn Freud, Nxb Trẻ,
thành phố Hồ Chí Minh.
126. Spengler, O (1971), Con người và kỷ thuật, Nxb Sài Gòn.
127. Samuel E. Stumpf & Donal C.Abel (2004), Nhập môn triết học phương Tây,
Nxb tổng hợp Thành phố Hồ Chí Minh, Thành phố Hồ Chí Minh.
128. Phạm Văn Sĩ (1986), Về tư tưởng và văn học phương Tây hiện đại, Nxb Đại
học và Trung học chuyên nghiệp, Hà Nội.
160
129. Sir Julian Huxley, J.Bronwski, Gerald Barry, James Fisher (2004), Tư tưởng
loài người qua các thời đại, Nxb Văn hóa thông tin, Hà Nội.
130. Trần Đăng Sinh, Đoàn Đức Doãn (2007), Giáo trình Tôn giáo học, Nxb Đại
học Sư phạm, Hà Nội.
131. Hoành Sơn Hoàng Sỹ Quý (2006), Tính dục nhìn theo phương Đông, Nxb
Trẻ, Thành phố Hồ Chí Minh.
132. Suzuki. D.T, Fromm.E, Richard de Martino (2011), Thiền và tâm phân học,
Nxb Thời đại, Sài Gòn
133. Stein, Murray (2011), Bản đồ tâm hồn của Jung, NXb Trẻ, Hà Nội.
134. Ngụy Hữu Tâm (2001), “Sigmund Freud và học thuyết phân tâm học”, Tâm lý
học, số (6).
135. Ngụy Hữu Tâm (2002), “Những băn khoăn cho phân tâm học Freud cổ điển”,
Tâm lý học, số (4).
136. Trần Đức Thảo (2003), Tìm cội nguồn của ngôn ngữ và ý thức, Nxb Khoa học
xã hội, Hà Nội.
137. Đặng Thái (1956), Lịch sử triết học phương Tây, Nxb Xây dựng, Hà Nội.
138. Nguyễn Văn Thêm (2001), “Vài nét sơ lược về phả hệ 1 thế kỷ phân tâm học”,
Tâm lý học, số 5.
139. Thompson, Mel (2004), Triết học tôn giáo, bản dịch của Đỗ Minh Hợp, Nxb
Chính trị quốc gia, Hà Nội,
140. Nguyễn Thanh Tuấn (2005), Văn hoá các nước tư bản phát triển, đặc điểm và
dự báo, Nxb Văn hóa Thông tin, Hà Nội.
141. Cao Huy Thuần (2006), Tôn giáo và xã hội hiện đại, Nxb Thuận Hóa, Huế,
142. Đỗ Lai Thúy sưu tầm & biên soạn (2000), Phân tâm học và văn hóa nghệ
thuật, Nxb Văn hóa thông tin, Hà Nội.
143. Đỗ Lai Thúy sưu tầm & biên soạn (2002), Phân tâm học và văn hóa tâm linh,
Nxb Văn hóa thông tin, Hà Nội.
144. Đỗ Lai Thúy sưu tầm & biên soạn (2003), Phân tâm học và tình yêu, Nxb Văn
hóa thông tin, Hà Nội.
161
145. Đỗ Lai Thúy sưu tầm & biên soạn (2006), Theo vết chân những người khổng
lồ: Tân Guylivơ phiêu lưu ký về các lý thuyết văn hóa, Nxb Văn hóa thông tin
và Tạp chí Văn hoá nghệ thuật Hà Nội.
146. Đỗ Lai Thúy sưu tầm & biên soạn (2007), Phân tâm học và tính cách dân tộc,
Nxb Tri thức, Hà Nội.
147. Tình dục (1969), 4 tập, Thái độ, Sài Gòn.
148. Đặng Hữu Toàn (2012), “Nhân học Freud”, Tạp chí triết học, số 11.
149. Vũ Mạnh Toàn (2013), “Quan niệm theo lối phân tâm học của S.Freud về tôn
giáo”, Triết học, số 8.
150. Đặng Nghiêm Vạn (1998), “Bản chất và biểu hiện của tôn giáo”, Tạp chí triết
học, số 2.
151. Trương Lập Văn, Sầm Hiền An, Từ Tôn Minh (2001), Tính trong triết học
phương Đông, Nxb Khoa học xã hội, Hà Nội.
152. Vlađimia Xalôv (1972), Những điểm mơ hồ xung quanh vấn đề nhân học
(1,2): Phân tâm học xem như ngành khoa học nghiên cứu về con người, Viện
Thông tin Khoa học xã hội.
153. Viện Thông tin Khoa học xã hội (1971), Chủ nghĩa Mác và phân tâm học, Tài
liệu phục vụ nghiên cứu.
154. Viện Thông tin Khoa học xã hội (1973), Về một sự phê phán mácxít đối với
học thuyết tâm phân học, Tài liệu phục vụ nghiên cứu.
155. Nguyễn Ước (2006), Các chủ đề triết học, Nxb Tri thức, Hà Nội.
156. Xizi (2003), Sinh mệnh đời người, Nxb Hà Nội, Hà Nội.
157. William S.Sahakan, Mabel L.Sahakan (2001), Tư tưởng của các triết gia vĩ
đại, Nxb Thành phố Hồ Chí Minh, Thành phố Hồ Chí Minh
158. Wilson, Stephen (2002), Sigmund Freud - Nhà phân tâm học thiên tài, Nxb
Trẻ, Thành phố Hồ Chí Minh.
* Tiếng Anh:
159. Brown, J (1961), Freud and the Post – Freudian, Baltimore.
160. Clark, R (1992), Freud: The Man and the Case, London.
162
161. Erikson, E (1989), The Life Cycle Completed, Norton & Company.
162. Freud, S (1989), An Autobiographycal Study, London.
163. Jung, C.G (1968), Analytical Psychology: It’s Theory and Practice, Vintage
Books.
164. Jung, C.G (1997), Colleted Works 7, Princeton University Press.
165. Jung, C.G (1997), Colleted Works 9i, Princeton University Press.
166. Sharp, Daryl (1991), Jung Lexicon, Inner City Books.
167. Steven, W (1995), Jung and the Jungians on Myth, Sage.
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- luan_an_quan_diem_cua_phan_tam_hoc_ve_con_nguoi_va_van_hoa_v.pdf