Luận án Phòng, chống tham nhũng trong các cơ quan hành chính nhà nước cấp trung ương thông qua công tác kiểm tra của Đảng cộng sản Việt Nam

HỌC VIỆN CHÍNH TRỊ QUỐC GIA HỒ CHÍ MINH TRẦN VĂN TĨNH PHÕNG, CHỐNG THAM NHŨNG TRONG CÁC CƠ QUAN HÀNH CHÍNH NHÀ NƢỚC CẤP TRUNG ƢƠNG THÔNG QUA CÔNG TÁC KIỂM TRA CỦA ĐẢNG CỘNG SẢN VIỆT NAM LUẬN ÁN TIẾN SĨ CHUYÊN NGÀNH LÝ LUẬN VÀ LỊCH SỬ NHÀ NƢỚC VÀ PHÁP LUẬT HÀ NỘI - 2020 HỌC VIỆN CHÍNH TRỊ QUỐC GIA HỒ CHÍ MINH TRẦN VĂN TĨNH PHÕNG, CHỐNG THAM NHŨNG TRONG CÁC CƠ QUAN HÀNH CHÍNH NHÀ NƢỚC CẤP TRUNG ƢƠNG THÔNG QUA CÔNG TÁC KIỂM TRA CỦA ĐẢNG CỘNG SẢN VIỆT NAM LUẬN ÁN TIẾN S

pdf182 trang | Chia sẻ: huong20 | Ngày: 18/01/2022 | Lượt xem: 393 | Lượt tải: 1download
Tóm tắt tài liệu Luận án Phòng, chống tham nhũng trong các cơ quan hành chính nhà nước cấp trung ương thông qua công tác kiểm tra của Đảng cộng sản Việt Nam, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Ĩ CHUYÊN NGÀNH LÝ LUẬN VÀ LỊCH SỬ NHÀ NƢỚC VÀ PHÁP LUẬT Mã số: 62 38 01 01 NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC: PGS, TS Lê Minh Thông HÀ NỘI - 2020 LỜI CAM ĐOAN Tôi xin cam đoan đây là công trình nghiên cứu của riêng tôi. Các số liệu, kết quả nêu trong luận án là trung thực, có nguồn gốc rõ ràng và được trích dẫn đầy đủ theo quy định. Tác giả Trần Văn Tĩnh MỤC LỤC Trang MỞ ĐẦU 1 CHƢƠNG 1: TỔNG QUAN TÌNH HÌNH NGHIÊN CỨU LIÊN QUAN ĐẾN ĐỀ TÀI LUẬN ÁN VÀ NHỮNG VẤN ĐỀ ĐẶT RA CẦN TIẾP TỤC NGHIÊN CỨU 6 1.1. Tổng quan tình hình nghiên cứu liên quan đến đề tài 6 1.2. Những vấn đề đặt ra cần tiếp tục nghiên cứu trong luận án, giả thuyết nghiên cứu và câu hỏi nghiên cứu 21 CHƢƠNG 2: CƠ SỞ LÝ LUẬN VỀ PHÕNG, CHỐNG THAM NHŨNG TRONG CÁC CƠ QUAN HÀNH CHÍNH NHÀ NƢỚC CẤP TRUNG ƢƠNG THÔNG QUA CÔNG TÁC KIỂM TRA CỦA ĐẢNG 26 2.1. Khái niệm, đặc điểm và vai trò phòng, chống tham nhũng trong các cơ quan hành chính nhà nước cấp trung ương thông qua công tác kiểm tra của Đảng 26 2.2. Nội dung, phương thức hoạt động phòng, chống tham nhũng và mối quan hệ giữa công tác kiểm tra của Đảng với các cơ quan chức năng liên quan trong phòng, chống tham nhũng đối với các cơ quan hành chính nhà nước cấp trung ương 47 2.3. Điều kiện bảo đảm công tác kiểm tra của Đảng trong phòng, chống tham nhũng đối với các cơ quan hành chính nhà nước cấp trung ương 67 2.4. Kinh nghiệm phòng, chống tham nhũng của Trung Quốc và những giá trị tham khảo ở Việt Nam 73 CHƢƠNG 3: THỰC TRẠNG VỀ PHÕNG, CHỐNG THAM NHŨNG TRONG BỘ MÁY NHÀ NƢỚC VÀ CÁC CƠ QUAN HÀNH CHÍNH NHÀ NƢỚC CẤP TRUNG ƢƠNG THÔNG QUA CÔNG TÁC KIỂM TRA CỦA ĐẢNG 81 3.1. Quá trình phát triển quan điểm của Đảng về phòng, chống tham nhũng trong bộ máy nhà nước, các cơ quan hành chính nhà nước cấp trung ương thông qua công tác kiểm tra của Đảng 81 3.2. Ưu điểm, hạn chế và nguyên nhân của thực trạng về phòng, chống tham nhũng trong các cơ quan hành chính nhà nước cấp trung ương thông qua công tác kiểm tra của Đảng từ Đại hội X của Đảng đến nay 95 CHƢƠNG 4: QUAN ĐIỂM, GIẢI PHÁP PHÕNG, CHỐNG THAM NHŨNG TRONG CÁC CƠ QUAN HÀNH CHÍNH NHÀ NƢỚC CẤP TRUNG ƢƠNG THÔNG QUA CÔNG TÁC KIỂM TRA CỦA ĐẢNG 125 4.1. Quan điểm phòng, chống tham nhũng trong các cơ quan hành chính nhà nước cấp trung ương thông qua công tác kiểm tra của Đảng 125 4.2. Giải pháp phòng, chống tham nhũng trong các cơ quan hành chính nhà nước cấp trung ương thông qua công tác kiểm tra của Đảng 128 KẾT LUẬN 157 DANH MỤC CÔNG TRÌNH NGHIÊN CỨU CỦA TÁC GIẢ ĐÃ CÔNG BỐ CÓ LIÊN QUAN ĐẾN LUẬN ÁN 159 DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO 160 PHỤ LỤC 168 DANH MỤC CÁC TỪ VIẾT TẮT BCS đảng Ban Cán sự đảng Công tác kiểm tra của Đảng Công tác kiểm tra của Đảng Cộng sản Việt Nam MTTQ Mặt trận Tổ quốc PCTN Phòng, chống tham nhũng UBKT Ủy ban Kiểm tra UBND Ủy ban nhân dân XHCN Xã hội chủ nghĩa DANH MỤC CÁC HÌNH Trang Hình 2.1: Mô hình tổ chức của các cơ quan hành chính nhà nước cấp trung ương 27 Hình 2.2: Mô hình tổ chức của Ủy ban Kiểm tra Trung ương và Cơ quan Ủy ban Kiểm tra Trung ương 36 1 MỞ ĐẦU 1. Tính cấp thiết của đề tài Tham nhũng là một hiện tượng xã hội tồn tại khách quan trong bộ máy nhà nước, là một trong những căn bệnh gắn liền với quyền lực nhà nước, luôn ăn sâu bám rễ trong mọi chế độ xã hội. Một số nơi trên thế giới, tham nhũng làm suy kiệt cơ thể xã hội, gây xáo trộn, mất ổn định chính trị. Phòng, chống tham nhũng (PCTN) là công việc khó khăn, phức tạp, cần có sự quyết liệt và kiên trì, là chính sách ưu tiên hàng đầu của nhiều quốc gia và sự nỗ lực của cả cộng đồng quốc tế. Tham nhũng là sự vụ lợi bằng việc lợi dụng quyền lực, được coi là một tệ nạn ở hầu hết các nước trên thế giới. Đối với Việt Nam, trong những năm gần đây, tệ nạn tham nhũng đã nổi lên một cách tràn lan, xâm phạm kỷ cương phép nước, làm mất lành mạnh của cơ quan, tổ chức, gây thiệt hại cho lợi ích tài sản nhà nước, tập thể và cá nhân, làm tăng thêm sự phân hóa giàu nghèo bất chính, nẩy sinh mâu thuẫn xã hội, ảnh hưởng tiêu cực đến khối đại đoàn kết dân tộc, xói mòn truyền thống đạo đức tốt đẹp của dân tộc, đảo lộn các giá trị xã hội và ảnh hưởng tiêu cực đến thế hệ tương lai, làm tổn thất đến đội ngũ cán bộ, công chức, viên chức thậm chí làm hư hỏng một số cán bộ đã được đào tạo, rèn luyện qua nhiều thời kỳ...từ đó làm giảm sút lòng tin của nhân dân đối với sự lãnh đạo của Đảng và sự quản lý, điều hành của Nhà nước và ảnh hưởng tiêu cực đến sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc của nhân dân ta. Đảng và Nhà nước ta đã xác định tham nhũng là “quốc nạn”, một nguy cơ lớn, thậm chí đe dọa sự tồn vong của chế độ. Tham nhũng hiện diện trong hầu hết các lĩnh vực đời sống xã hội mà chủ thể là những cá nhân có chức, có quyền, có cơ hội lợi dụng quyền để vụ lợi. Trong các cơ quan hành chính nhà nước nói chung và đặc biệt là cơ quan hành chính nhà nước cấp trung ương nói riêng, cơ quan thực thi quyền lực nhà nước, quản lý mọi mặt đời sống xã hội, có thẩm quyền quyết định đơn phương, thì tham nhũng càng có điều kiện nảy sinh và phát triển, do đó việc PCTN ở những cơ quan này càng phải chú trọng. Nhiệm vụ này được quy định cho nhiều chủ thể, bao gồm các cơ quan quyền lực, cơ quan thực thi pháp luật, cơ quan hành chính nhà nước, các tổ chức chính trị, chính trị xã hội, các tổ chức xã hội và nhân dân, trong đó vai trò của Đảng Cộng sản Việt Nam thông qua công tác kiểm tra của Đảng có ý nghĩa, tác dụng rất quan trọng. Trên thực tế những năm qua, vai trò PCTN của Đảng Cộng sản Việt Nam thông qua công tác kiểm tra của Đảng đã được đẩy mạnh và tỏ rõ có hiệu quả cao. Cần thiết 2 phải có sự nghiên cứu sâu về mặt lý luận để làm rõ ý nghĩa, nội dung, hình thức, phương pháp của hoạt động PCTN này, cũng như phải có sự đánh giá thực trạng để từ đó đề xuất các giải pháp tiến hành thể chế hóa tạo cơ sở pháp lý đầy đủ hơn nhằm tăng cường và nâng cao hiệu quả hoạt động, phát huy hơn nữa vai trò công tác kiểm tra của Đảng trong PCTN đối với các cơ quan hành chính nhà nước cấp trung ương. Đề tài luận án này là một cố gắng theo hướng đó, nó có tính cấp thiết, có ý nghĩa cả về lý luận và thực tiễn lớn. Vì vậy, việc nghiên cứu về PCTN trong các cơ quan nhà nước thông qua công tác kiểm tra của Đảng vừa có ý nghĩa lý luận đối với Đảng cầm quyền, vừa có ý nghĩa thực tiễn lớn trong PCTN ở nước ta giai đoạn hiện nay. Xuất phát từ những phân tích trên đây, nghiên cứu sinh đã lựa chọn vấn đề “Phòng, chống tham nhũng trong các cơ quan hành chính nhà nước cấp trung ương thông qua công tác kiểm tra của Đảng cộng sản Việt Nam” để làm đề tài nghiên cứu viết luận án tiến sỹ luật học. 2. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu của luận án 2.1. Mục đích nghiên cứu Trên cở sở nghiên cứu về lý luận và đánh giá thực trạng, luận án có mục đích xây dựng các quan điểm và đề xuất giải pháp khoa học nâng cao vai trò, hiệu quả công tác PCTN trong các cơ quan hành chính nhà nước cấp trung ương thông qua hoạt động kiểm tra của Đảng. 2.2. Nhiệm vụ nghiên cứu Thứ nhất, phân tích, làm rõ tình hình nghiên cứu liên quan đến đề tài, tìm ra những nội dung đã nghiên cứu và xác định những vấn đề cần tập trung nghiên cứu. Thứ hai, phân tích, làm rõ cơ sở lý luận và thực tiễn về vị trí, vai trò công tác kiểm tra của Đảng và đặc điểm, nội dung, phương thức kiểm tra của Đảng đối với PCTN trong cơ quan hành chính nhà nước cấp trung ương; Làm rõ kinh nghiệm của Trung Quốc trong việc phát huy vai trò của công tác kiểm tra của Đảng về phòng, chống tham nhũng trong cơ quan hành chính nhà nước cấp trung ương. Thứ ba, phân tích, đánh giá thực trạng PCTN trong cơ quan hành chính nhà nước cấp trung ương: quá trình phát triển quan điểm của Đảng, ưu điểm, hạn chế và nguyên nhân. Thứ tư, phân tích rõ quan điểm của Đảng về đấu tranh PCTN trong các các cơ quan hành chính nhà nước cấp trung ương. Trên cơ sở đó đề xuất các nhóm giải pháp 3 nâng cao vai trò, hiệu quả công tác kiểm tra của Đảng trong PCTN đối với các cơ quan hành chính nhà nước cấp trung ương. 3. Đối tƣợng và phạm vi nghiên cứu của luận án 3.1. Đối tượng nghiên cứu Đối tượng nghiên cứu của luận án là hoạt động đấu tranh PCTN trong các cơ quan hành chính nhà nước cấp trung ương thông qua công tác kiểm tra của Đảng. 3.2. Phạm vi nghiên cứu - Phạm vi nội dung: Luận án giới hạn ở những vấn đề về công tác kiểm tra của Đảng trong PCTN đối với các cơ quan hành chính nhà nước cấp trung ương. - Phạm vi thời gian: Mốc thời gian nghiên cứu của đề tài luận từ Đại hội X của Đảng năm 2006 đến thực Đại hội lần thứ XII của Đảng năm 2019. 4. Cơ sở lý luận và phƣơng pháp nghiên cứu của luận án 4.1. Cơ sở lý luận Cơ sở lý luận của Luận án là chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, các quan điểm, đường lối, nghị quyết, chỉ thị, quy định của Đảng và chính sách, pháp luật của Nhà nước về đấu tranh PCTN, lãng phí trong bộ máy nhà nước nói chung và các cơ quan hành chính nhà nước cấp trung ương nói riêng. Ngoài ra, Luận án nghiên cứu thực tiễn về kết quả PCTN trong bộ máy nhà nước, về công tác kiểm tra, giám sát của Đảng trong PCTN, kiểm soát quyền lực nhà nướccủa các nhà khoa học, tác giả đi trước cũng là nguồn tài liệu tham khảo quan trọng của luận án. 4.2. Phương pháp nghiên cứu Trong quá trình viết Luận án, tác giả đã sử dụng các phương pháp phân tích và tổng hợp, phương pháp lịch sử và lôgíc, phương pháp so sánh - thống kê, khái quát hóa, phương pháp trao đổi, xin ý kiến chuyên gia. - Phương pháp tiếp cận hệ thống: Luận án tiếp cận thực tiễn nghiên cứu về PCTN bộ máy nhà nước và công tác kiểm tra của Đảng trong PCTN đối với các cơ quan hành chính nhà nước cấp trung ương ở trong và nước ngoài có liên quan đến nội dung luận án. Trên cơ sở đó hệ thống hóa, khái quát và so sánh để làm sáng tỏ cơ sở lý luận của luận án, nghiên cứu vấn đề PCTN trong các cơ quan hành chính nhà nước cấp trung ương thông qua công tác kiểm tra của Đảng ở Việt Nam. Đồng thời xác định rõ những vấn đề mà luận án cần triển khai tiếp tục nghiên cứu. - Phương pháp phân tích, tổng hợp: Luận án nghiên cứu tổng kết công tác thực tiễn để thống kê, phân tích, so sánh và đánh giá tình hình về những kết quả, hạn chế, 4 cùng với nguyên nhân của PCTN trong bộ máy nhà nước và các cơ quan hành chính nhà nước cấp trung; đồng thời, đánh giá, phân tích thực trạng về những kết quả, hạn chế và nguyên nhân của PCTN trong các cơ quan hành chính nhà nước thông qua công tác kiểm tra của Đảng. - Phương pháp tổng kết thực tiễn: luận án sử dụng phương pháp phân tích và tổng hợp, phương pháp lịch sử và lôgíc phân tích, luận chứng để làm sáng tỏ các quan điểm và giải pháp bảo đảm nâng cao hiệu quả PCTN trong các cơ quan hành chính cấp trung ương thông qua công tác kiểm tra của Đảng ở Việt Nam hiện nay. - Phương pháp chuyên gia: thông qua việc gặp gỡ, trao đổi trực tiếp những nội dung về cơ chế, pháp lý, tổ chức bộ máy hoặc góp ý vào luận án, tác giả luận án có điều kiện tranh thủ được kiến thức của các chuyên gia, nhà khoa học, cán bộ chuyên ngành về công tác PCTN và công tác kiểm tra của Đảng để củng cố thêm những căn cứ khoa học, kinh nghiệm thực tiễn góp phần hoàn thiện luận án. Trong đó, cách thức chọn mẫu theo nội dung về cơ chế thành lập UBKT cấp ủy; xây dụng mô hình sát nhập UBKT với Thanh tra, Nội chính; bổ sung quy định, cơ chế UBKT cấp ủy thực hiện PCTN và giám sát, kiểm soát quyền lực; nghiên cứu xây dựng Luật Giám sát và cơ quan Giám sát; mô hình về tổ chức bộ máy của UBKT cấp ủy trong các bộ, ngành trung ương đáp ứng yêu cầu nhiệm vụ. Cách thức tiến hành khảo sát thực hiện phỏng vấn cá nhân (trao đổi trực tiếp hoặc qua điện thoại) theo các hình thức phỏng vấn bán tiêu chuẩn: có một số câu hỏi có tính chất quyết định được tiêu chuẩn hóa, còn các câu hỏi khác có thể phát biểu tùy tình hình cụ thể và phỏng vấn sâu: thực hiện phỏng vấn lấy ý kiến chuyên gia đi sâu vào một số nội dung. Về đối tượng khảo sát bao gồm các đồng chí là thành viên UBKT Trung ương (phó chủ nhiệm và Ủy viên UBKT Trung ương) và lãnh đạo một số ban đảng Trung ương (kể cả một số đồng chí đã chuyển công tác hoặc nghỉ hưu); các đồng chí là bí thư đảng ủy các bộ, ngành cơ quan hành chính nhà nước trung ương (các đồng chí đối tượng này cơ bản giữ chức vụ chính quyền là thứ trưởng và tương đương); một số đồng chí là Bí thư, Phó bí thư Đảng Khối các cơ quan Trung ương; với tổng số khoảng 30 đồng chí. 5. Những điểm mới về khoa học của luận án Một là, trên cơ sở nghiên cứu khái quát hóa lý luận về PCTN trong các cơ quan hành chính nhà nước cấp trung ương thông qua công tác kiểm tra của Đảng, làm rõ 5 khái niệm, đặc điểm, nội dung, phương thức cũng như sự cần thiết về cơ sở chính trị và cơ sở pháp lý trong việc xác lập vai trò công tác kiểm tra của Đảng trong PCTN của các cơ quan hành chính nhà nước cấp trung ương trong điều kiện chính trị do một Đảng duy nhất cầm quyền ở nước ta hiện nay. Hai là, luận án xác định chính xác ưu điểm, hạn chế và nguyên nhân của thực trạng phòng, chống tham nhũng trong các cơ quan hành chính nhà nước cấp trung ương thông qua hoạt động kiểm tra của Đảng. Ba là, đề xuất các quan điểm và giải pháp đột phá, khả thi, khoa học nhằm nâng cao hiệu quả công tác kiểm tra của Đảng trong đấu tranh PCTN tại các cơ quan hành chính nhà nước cấp trung ương. Đặc biệt xác định cơ chế, mô hình tổ chức cơ quan phù hợp thực hiện có hiệu quả công tác đấu tranh PCTN và giám sát kiểm soát quyền lực nhà nước; góp phần tích cực vào việc thực hiện chủ trương đẩy mạnh cuộc đấu tranh PCTN, xây dựng Đảng và Nhà nước trong sạch, vững mạnh. 6. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn của luận án 6.1. Ý nghĩa lý luận Kết quả nghiên cứu của luận án sẽ góp phần bổ sung và phát triển và làm phong phú thêm các vấn đề lý luận về PCTN trong các cơ quan hành chính nhà nước cấp trung ương thông qua công tác kiểm tra của Đảng; góp phần làm sáng tỏ quan điểm của Đảng về vị trí, vai trò, chức năng, nhiệm vụ của UBKT Trung ương, UBKT các cấp trong cuộc đấu PCTN thông qua công tác kiểm tra của Đảng. 6.2. Ý nghĩa thực tiễn Luận án là công trình khoa học có thể làm tài liệu tham khảo cho các nhà khoa học, nhà nghiên cứu giảng dạy những nội dung liên quan đến PCTN trong các Trường Đại học chuyên luật và không chuyên luật, trong hệ thống các Trường chính trị từ Trung ương đến địa phương. Đặc biệt Luận án góp phần cung cấp cơ sở khoa học về PCTN thông qua công tác kiểm tra của Đảng cho những người trực tiếp tham gia hoạt động PCTN trong bộ máy nhà nước và các cơ quan hành chính nhà nước cấp trung ương. 7. Kết cấu của đề tài nghiên cứu Ngoài phần mở đầu, kết luận, danh mục công trình khoa học của tác giả đã công bố liên quan đến luận án, danh mục tài liệu tham khảo và phụ lục, nội dung luận án được kết cấu gồm 4 chương, 10 tiết. 6 Chƣơng 1 TỔNG QUAN TÌNH HÌNH NGHIÊN CỨU LIÊN QUAN ĐẾN ĐỀ TÀI LUẬN ÁN VÀ NHỮNG VẤN ĐỀ ĐẶT RA CẦN TIẾP TỤC NGHIÊN CỨU 1.1. TỔNG QUAN TÌNH HÌNH NGHIÊN CỨU LIÊN QUAN ĐẾN ĐỀ TÀI 1.1.1. Nhóm công trình nghiên cứu về phòng, chống tham nhũng 1.1.1.1. Tình hình nghiên cứu trong nước Nghiên cứu về PCTN trong các cơ quan hành chính nhà nước cấp trung ương thông qua công tác kiểm tra của Đảng góc độ tiếp cận đầu tiên phải xuất phát từ việc tìm hiểu kiến thức nền tảng về tham nhũng và PCTN. Trên phương diện này, có thể điểm danh một số công trình nghiên cứu tiêu biểu sau: - Sách “Phòng, chống tham nhũng trong hoạt động công vụ ở Việt Nam - Lý luận và thực tiễn” của Nguyễn Quốc Sửu [63]. Nội dung sách đề cập tương đối toàn diện và có hệ thống về tham nhũng và PCTN trong hoạt động công vụ ở nước ta hiện nay. Tác giả đã phân tích, làm rõ những hành vi tham nhũng có nguy cơ nảy sinh trong quá trình cán bộ, công chức thi hành nhiệm vụ như: tham ô tài sản; nhận hối lộ; lạm dụng chức vụ, quyền hạn chiếm đoạt tài sản; lợi dụng chức vụ, quyền hạn trong khi thi hành nhiệm vụ, công vụ Phân tích tình hình tham nhũng và thực trạng công tác đấu tranh PCTN ở nước ta hiện nay, dự báo tình hình tham nhũng trong những năm tới là cơ sở để tác giả đưa ra bốn nhóm giải pháp cơ bản nhằm bảo đảm nâng cao hiệu quả công tác PCTN trong hoạt động công vụ. Cuốn sách là một tài liệu tham khảo có giá trị cho học viên, sinh viên, các nhà nghiên cứu và hoạch định chính sách về PCTN ở Việt Nam. - Đề tài về “Luận cứ khoa học cho việc xây dựng chiến lược phòng ngừa và nâng cao hiệu quả đấu tranh phòng, chống tham nhũng ở Việt Nam cho đến năm 2020” do Thanh tra Chính phủ chủ trì [66]. Đề tài xây dựng 9 chuyên đề bao gồm: hệ thống các tiêu chí điều tra nhận diện tham nhũng; phương pháp tính và các chỉ tiêu tổng hợp; phần mềm xử lý số liệu; chiến lược, chính sách chống tham nhũng của Trung Quốc, Hàn Quốc, EU, Hungary; các biện pháp chống rửa tiền và báo cáo kết quả điều tra xã hội học về thực trạng và nguyên nhân tham nhũng, cùng với Báo cáo kiến nghị các giải pháp nâng cao hiệu quả phòng, ngừa, đấu tranh chống tham nhũng và việc xây 7 dựng Chiến lược PCTN của Việt Nam. Nội dung của Đề tài là cơ sở lý luận và căn cứ khoa học cho việc nghiên cứu xây dựng nội dung cơ bản của luận án cả về lý thuyết và thực tiễn. - Đề tài khoa học: “Đấu tranh chống tham nhũng: những vấn đề lý luận và giải pháp thực tiễn” của Quách Lê Thanh [65] đã xây dựng khái niệm, đặc trưng cơ bản về tham nhũng, đánh giá tình hình và nguyên nhân tham nhũng và những kết quả, hạn chế, yếu kém trong đấu tranh chống tham nhũng. Trên cơ sở đó đề ra mục tiêu, quan điểm và một số giải pháp đấu tranh PCTN trong thời gian tới. - Đề tài khoa học cấp Bộ “Tham nhũng và phòng, chống tham nhũng trong khu vực tư ở Việt Nam” của Đinh Văn Minh [51]. Đề tài cho rằng tham nhũng sẽ xuất hiện và tồn tại ở nhiều lĩnh vực và hoạt động của khu vực tư. Do vậy, trong phạm vi nghiên cứu, nhóm nghiên cứu đã đề xuất một số định hướng và giải pháp PCTN trong khu vực tư ở Việt Nam; gắn PCTN trong khu vực tư với PCTN trong khu vực công; tạo cơ chế phát huy mạnh mẽ tiềm năng to lớn của khu vực kinh tế tư nhân gắn với tăng cường thanh tra, kiểm tra hoạt động sản xuất kinh doanh của các doanh nghiệp. Bên cạnh đó, cần khuyến khích các doanh nghiệp xây dựng và thực hiện quy tắc kinh doanh không tham nhũng, không hối lộ, chống xung đột lợi ích. - Đề tài khoa học cấp Bộ: “Xây dựng, hoàn thiện cơ chế kiểm soát quyền lực trong thể chế chính trị nhằm ổn định và phát triển bền vững chế độ chính trị ở Việt Nam” của Nguyễn Văn Mạnh [47] là công trình nghiên cứu sâu về kiểm soát quyền lực chính trị ở Việt Nam hiện nay. Trong một chừng mực nhất định Đề tài cũng đã đề cập đến tham nhũng và PCTN trong hệ thống trị nói chung và bộ máy nhà nước nói riêng, cũng như việc xây dựng cơ chế để kiểm soát chặt chẽ quyền lực chính trị, trong đó có quyền lực nhà nước hiện nay. - Chuyên đề “Chống tham nhũng của Việt Nam và một số nước trên thế giới” của Lê Văn Giảng [30]. Nội dung chuyên đề đã đề cập những quan niệm về tham nhũng của Lênin, Hồ Chí Minh và quan niệm về tham nhũng của các học giả trên thế giới và Việt Nam hiện nay để đưa ra khái niệm về tham nhũng. Qua đó xác định nguồn gốc, bản chất và đặc trưng của tham nhũng. Đồng thời tác giả cũng đánh giá thực trạng, tác hại và nguyên nhân tham nhũng và đấu tranh chống tham nhũng ở Việt Nam. Trên cơ sở đó đưa ra quan điểm, mục tiêu, yêu cầu và giải pháp đấu tranh chống tham nhũng trong thời gian tới ở nước ta. 8 - Bài “Nguyên tắc xử lý tài sản tham nhũng” [7]. Nội dung bài báo thể hiện nguyên tắc xử lý tài sản tham nhũng phải được thu hồi, tịch thu, trả lại cho chủ sở hữu, quản lý hợp pháp hoặc sung quỹ nhà nước kể cả tài sản tham nhũng có yếu tố nước ngoài. Theo bài báo này thì nguyên tắc công khai là một trong những nguyên tắc xử lý tài sản tham nhũng có hiệu quả và phải quán triệt. - Bài “Giám sát xã hội như một giải pháp phòng, chống tham nhũng, lãng phí” của Tạ Ngọc Tấn [64] đã phân tích và luận giải sự cần thiết của hoạt động giám sát xã hội đối với hoạt động của bộ máy nhà nước. Xét về bản chất, giám sát xã hội thực chất là sự kiểm tra, đánh giá, điều chỉnh hoạt động của các cơ quan, tổ chức, cá nhân nắm giữ quyền lực nhà nước. Trong điều kiện xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa (XHCN), hoạt động giám sát xã hội cần phải được coi trọng để nhân dân thực hiện quyền làm chủ. Trên cơ sở đánh giá thực trạng về hoạt động của bộ máy nhà nước, tác giả đề xuất giải pháp nâng cao hiệu quả hoạt động giám sát xã hội, góp phần đấu tranh, PCTN, nâng cao hiệu quả, hiệu lực của quản lý nhà nước. - Bài “Bổ sung quyền giám sát của nhân dân” của Nguyễn Văn Hải [33] cho rằng trong giai đoạn mới động viên, khuyến khích và tạo điều kiện thuận lợi để người dân được tham gia giám sát hoạt động của bộ máy Đảng, chính quyền và giám sát cán bộ, công chức là một trong những biện pháp ngăn ngừa, PCTN, lãng phí, tiêu cực có hiệu quả. Đó là đòi hỏi tất yếu để xây dựng Nhà nước ta thực sự là Nhà nước của dân, do dân và vì dân và đội ngũ cán bộ, đảng viên thực sự là “công bộc, đầy tớ” trung thành, tận tụy của nhân dân. 1.1.1.2. Tình hình nghiên cứu ở nước ngoài - Theo từ điển Oxford Unabridged Dictonary [39] tham nhũng là sự bóp méo hoặc phá hoại tính liêm chính trong thực hiện công vụ bởi hối lộ hay thiên vị. Từ điển Webster's Collegiate Dictonary [39] tham nhũng là sự khích lệ làm điều sai trái bởi những phương tiện không đúng đắn hoặc bất hợp pháp (như hối lộ). Theo từ điển bách khoa của Cộng hòa Liên bang Đức [39] thì tham nhũng là hiện tượng mất phẩm chất, hối lộ, đút lót, thường xảy ra đối với công chức có quyền hành [39, tr.10]. Áo cho rằng tham nhũng là hiện tượng lừa đảo, hối lộ, bóc lột [39, tr.10]. Từ điểm bách khoa Thụy sỹ tham nhũng là hậu quả nghiêm trọng của sự vô tổ chức của tầng lớp có trách nhiệm trong bộ máy nhà nước, đó là hành vi phạm pháp để phục vụ lợi ích cá nhân [39, tr.10]. 9 - Học giả Nye đưa ra định nghĩa tổng quát về bản chất của tham nhũng: “Tham nhũng là hành vi làm sai lệch trách nhiệm, bổn phận chính thống của một vai trò công vì tiền hoặc tài sản trục lợi cho cá nhân (hoặc cho người thân), xâm phạm các quy tắc, ngược lại với các hành xử chẩn mực, liên quan đến quyền lợi cá nhân” [29]. - Sách, Ngân hàng thế giới: Kiềm chế tham nhũng hướng tới một mô hình xây dựng sự trong sạch quốc gia, của Rick Stapenhurst, Sahr J. Kpundeh [62]. Sách gồm một tập hợp có chọn lọc các công trình về tham nhũng và đấu tranh chống tham nhũng của các nhà nghiên cứu thuộc các quốc tịch khác nhau của Ngân hàng Thế giới. Nội dung chủ yếu của cuốn sách tập trung tìm hiểu, nghiên cứu vấn đề tham nhũng trên mọi khía cạnh của vấn đề. Bằng những phân tích cụ thể, thông qua những nghiên cứu tình huống về đấu tranh chống tham nhũng thành công và chưa thành công ở một số nước và lãnh thổ trên thế giới, các tác giả của cuốn sách đã nêu bật tầm quan trọng của cuộc đấu tranh chống tham nhũng, từ đó rút ra những bài học kinh nghiệm chủ yếu và đề xuất những giải pháp hữu hiệu nhất để khắc phục và kiểm soát được nạn tham nhũng đang hoành hành trên thế giới ngày nay. - Sách, Ngân hàng thế giới: Đương đầu với tham nhũng ở châu Á - Những bài học thực tế và khuôn khổ hành động của Vinay Bhargava, Emil Bolongaita [103]. Với nội dung chính là những vấn đề về tham nhũng khu vực công những tác phẩm được viết dựa trên kết quả nghiên cứu và kinh nghiệm có được tại các quốc gia của Ngân hàng thế thế giới với vai trò là một động lực phát triển tài chính toàn cầu. Các tác giả cũng nhấn mạnh việc lựa chọn các công cụ chống tham nhũng phù hợp với môi trường quản lý - những yếu tố then chốt trong cuộc chiến chống tham nhũng. Đó là những kinh nghiệm quý báu mà Ngân hàng thế giới tổng kết thực tiễn chống tham nhũng ở các nước Châu Á có giá trị tham khảo đối với những người làm công tác nghiên cứu và thực thi chính sách PCTN ở Việt Nam nói chung và các học viên nghiên cứu sinh nói riêng. - Cuốn sách của Hồng Vĩ “Tham nhũng và biện pháp chống tham nhũng ở Trung Quốc” [100]. Tác giả khái quát về tác hại của tham nhũng gây lãng phí lớn về nguồn tài nguyên kinh tế, làm lung lay cơ sở ổn định chính trị của một đất nước, phá hoại việc thực thi pháp luật, cản trở sự phát triển kinh tế, đầu độc không khí xã hội. Đồng thời tác giả đã phác họa 23 dạng tham nhũng ở Trung Quốc hiện nay. Trên cơ sở đó tác giả đi vào phân tích nguyên nhân của thực trạng này; trong các nguyên nhân 10 thực tế làm cho hiện tượng tham nhũng sinh sôi nảy nở ở Trung Quốc hiện nay thì kinh tế là một nguyên nhân quan trọng. Các thể chế chính trị chậm chạp, quyền lực không bị khống chế là căn nguyên sâu xa sinh ra hiện tượng tham nhũng ở Trung Quốc hiện nay. Từ đó, tác giả giới thiệu cụ thể một số cách làm của các địa phương, ban, ngành trong quá trình đấu tranh PCTN những năm gần đây ở Trung Quốc. 1.1.2. Nhóm công trình nghiên cứu về phòng, chống tham nhũng trong bộ máy nhà nƣớc và cơ quan hành chính nhà nƣớc cấp trung ƣơng 1.1.2.1. Tình hình nghiên cứu trong nước * Nhóm công trình nghiên cứu về phòng, chống tham nhũng trong bộ máy nhà nước nói chung: - Sách: Cơ sở lý luận về tổ chức và hoạt động của hệ thống chính trị trong quá trình xây dựng chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam của Lê Minh Thông [72]. Nội dung khẳng định nhân dân là chủ thể duy nhất tối cao của hệ thống chính trị. Do vậy, các tổ chức đảng, nhà nước và Mặt trận Tổ quốc (MTTQ) và các tổ chức thành viên đều phục tùng ý chí của nhân dân, chịu sự kiểm tra, giám sát của nhân dân. Đồng thời, đổi mới, nâng cao chất lượng hoạt động của các tổ chức chính trị - xã hội cùng với việc hoàn thiện hệ thống pháp luật nói chung và pháp luật PCTN thông qua các tổ chức chính trị - xã hội, tổ chức xã hội, trong đó có Đảng cộng sản Việt Nam là nhiệm vụ có tính cấp thiết trong giai đoạn hiện nay. - Đề tài khoa học cấp Bộ “Giải pháp đột phá đấu tranh phòng, chống hiệu quả tham nhũng trong bộ máy nhà nước ở Việt Nam hiện nay” của Nguyễn Cảnh Quý [61]. Nội dung Đề tài đã đưa ra cơ sở lý luận sâu sắc và biện chứng về PCTN trong bộ máy nhà nước. Đồng thời đánh giá thực trạng một cách toàn diện về kết quả đấu tranh phòng, chống hiệu quả tham nhũng trong bộ máy nhà nước. Trên cở sở đưa ra giải pháp mang tính đột phá có tính khả thi và chiến lược cao trong việc PCTN bộ máy nhà nước ở Việt Nam hiện nay. Nội dung Đề tài có ý nghĩa và tác dụng quan trọng trong việc nghiên cứu và triển khai thực hiện công tác PCTN trong bộ máy nhà nước hiện nay, cũng như có giá trị tham khảo đối với việc nghiêm cứu về PCTN trong tình hình hiện nay. - Đề tài khoa học cấp Bộ “Tổ chức và hoạt động của các cơ quan có chức năng phòng, chống tham nhũng và một số vấn đề đặt ra” của Đinh Văn Minh [50]. Nội dung Đề tài đưa ra cơ sở lý luận và sự cần thiết về việc hoàn thiện cơ quan có chức năng 11 PCTN. Đồng thời đánh giá thực trạng theo chức năng nhiệm vụ của cơ quan có chức năng PCTN hiện nay. Trên cơ sở đó đề ra các giải pháp xây dựng và hoàn thiện các cơ quan có chức năng PCTN để thực hiện có hiệu quả nhiệm công tác này trong tình hình hiện nay. Đây là một công trình có ý nghĩa thực tiễn cao, giúp cho việc nghiên cứu xây dựng hoàn thiện hơn nữa cơ quan có chức năng PCTN đáp ứng yêu cầu nhiệm vụ đấu tranh PCTN hiện nay. - Đề tài khoa học cấp Bộ: “Phòng, chống tham nhũng trong các cơ quan thực hiện chức năng phòng, chống tham nhũng” của Tạ Thu Thủy [75]. Nội dung Đề tài đưa ra cơ sở lý luận và sự cần thiết về PCTN trong các cơ quan có chức năng thực hiện PCTN. Đồng thời đánh giá thực trạng việc thực hiện PCTN trong các cơ quan thực hiện chức năng PCTN hiện nay. Trên cơ sở đó đề ra các giải pháp thực hiện PCTN trong các cơ quan có chức năng PCTN để thực hiện có hiệu quả nhiệm công tác này trong tình hình hiện nay. Đây là một công trình có ý nghĩa thực tiễn cao, giúp cho việc nghiên cứu thực hiện có hiệu quả việc PCTN trong các cơ quan có chức năng PCTN đáp ứng yêu cầu nhiệm vụ đấu tranh PCTN hiện nay. - Luận văn về“Thanh tra và vấn đề phòng, chống tham nhũng” của Phạm Thị Huệ [37], nghiên cứu những vấn đề lý luận và thực tiễn về vai trò của công tác thanh tra trong đấu tranh PCTN như: những vấn đề lý luận về vai trò của thanh tra đối với quản lý Nhà nước; quan điểm của Đảng, Nhà nước và của Chủ tịch Hồ Chí Minh về vai trò của công tác thanh tra trong quản lý nhà nước nói chung và trong đấu tranh PCTN nói riêng. Từ đó đề xuất các kiến nghị nhằm tăng cường công tác thanh tra góp phần hữu hiệu nâng cao hiệu quả trong cuộc đấu tranh PCTN. - Bài “chống tham nhũng xét từ góc độ quyền lực” của Vũ Quốc Tuấn [84]. Nội dung bài viết đề cập vấn đề tham nhũng trên cơ sở quyền lực, từ những quyền lực tha hóa là điều kiện cơ sở thực hiện hành vi tham nhũng. Vấn đề lớn nhất ở đây là phải xác định rõ vai trò của Nhà nước trong kinh tế thị trường. Do đó, phải tìm cách hạn chế quyền lực cụ thể của mỗi cơ quan công quyền cũng như của mỗi công chức, không cho họ bành trướng thêm ngoài quy định của pháp luật, nghĩa là cơ quan nào người nào làm việc gì, chịu trách nhiệm cá nhân đến đâu, phải rõ ràng và phải được giám sát. Các thủ tục hành chính của từng việc phải công bố công khai, minh bạch, được niêm yết công khai nơi công sở. Bộ máy càng hợp lý, gọn nhẹ, công chức được sử dụng và được đãi ngộ xứng đáng, càng dễ chống tham nhũng. Quan trọng hơn nữa là những công chức 12 nhũng nhiễu doanh nghiệp phải bị trừng trị đích đáng, không để cho họ bênh che nhau, vì thông thường trong hệ thống quyền lực, họ rất dễ có mối quan hệ mật thiết với nhau, cho nên phải đưa sự giám sát của doanh nghiệp vào từng khâu, từng mắt xích của hệ thống. - Một số báo cáo như: Báo cáo tổng kết 10 năm thực hiện Luật PCTN của Chính phủ [12]; Báo cáo số 419/BC-CP, ngày 17/10/2016 công tác PCTN năm 2016 củ...kiểm tra của Đảng? Kết luận chƣơng 1 Trong thời gian qua đã có nhiều công trình nghiên cứu trong và ngoài nước về công tác đấu tranh PCTN ở những bình diện và góc độ khác nhau. Thực tiễn công tác đấu tranh PCTN ở nhiều quốc gia trên thế giới cho thấy việc kết hợp chặt chẽ giữa phòng ngừa và trừng trị nghiêm khắc những kẻ tham nhũng có ý nghĩa hết sức quan trọng. Do đó, để đấu tranh chống tham nhũng có hiệu quả đòi hỏi phải kết hợp chặt chẽ hai hình thức này. Trong những năm vừa qua, cùng với xu thế hội nhập quốc tế và quá trình toàn cầu hoá về kinh tế đang diễn ra ngày càng sôi động, tham nhũng đã trở thành quốc nạn nhức nhối của nhiều quốc gia, dân tộc trên thế giới. Ở Việt Nam, trong những năm qua công tác PCTN đã đạt được nhiều kết quả quan trọng ngay từ những ngày thành lập nước. Chúng ta đã xây dựng được hệ thống pháp luật trong PCTN, điển hình như Luật Phòng, chống tham nhũng (2005). Nước ta đã ký kết, tham gia Công ước Liên hiệp quốc về chống tham nhũng nhằm đẩy mạnh và tăng cường khả năng PCTN của các quốc gia thành viên này từ 19/12/2003. Tuy nhiên, ngoài những kết quả đã đạt được, tình trạng tham nhũng đã, đang diễn ra hết sức phức tạp và kéo dài trong bộ máy của hệ thống chính trị từ trung ương đến địa phương và trong nhiều tổ chức kinh tế. Tham nhũng đang trở thành một trong những nguy cơ đe doạ sự tồn vong của chế độ và sự sống còn của Nhà nước. Bởi vậy, đấu tranh chống tham nhũng đã được Đảng và Nhà nước ta xác định một trong những yêu cầu cấp bách có ý nghĩa quan trọng hàng đầu trong giai đoạn hiện nay. Nghiên cứu về tham nhũng và đấu tranh chống tham nhũng là cả một hệ thống biện pháp, tìm tòi, sáng tạo, trên cơ sở phát huy vai trò tích cực của toàn thể cán bộ, đảng viên và nhân dân ta. Chính vì vậy, tìm hiểu về công tác PCTN ở một số nước trên thế giới, từ đó vận dụng linh hoạt, có hiệu quả vào tình hình thực tế của đất nước là nội dung quan trọng, cần thiết. Đấu tranh chống tham nhũng tức là đấu tranh chống lại các hành vi trái pháp luật của những người có chức vụ, quyền hạn nằm trong bộ máy nhà 25 nước, Do đó, để đạt hiệu quả không nên chỉ chú trọng giao nhiệm vụ chống tham nhũng cho các cơ quan bảo vệ pháp luật mà phải thành lập tổ chức chống tham nhũng độc lập với các cơ quan nhà nước, trực thuộc người đứng đầu Đảng và Nhà nước.Tổ chức này phải có những quyền hạn nhất định, được áp dụng các biện pháp trong sạch, nâng cao ý thức trách nhiệm của đội ngũ công chức, trước hết phải có những quy định cụ thể về chức trách, nhiệm vụ, quy chế làm việc, trách nhiệm rõ ràng. Ở nước ta, Đảng lãnh đạo toàn bộ hệ thống chính trị và toàn xã hội, nên hiện nay hầu hết những người có chức vụ, có quyền đều là đảng viên, chịu sự kiểm tra, giám sát của Đảng. Thực tế các nhiệm kỳ vừa qua, với chức năng, nhiệm vụ của mình, UBKT Trung ương và UBKT các cấp đã tích cực tham gia và đã có đóng góp quan trọng vào cuộc đấu tranh ngăn ngừa, phòng chống quan liêu, tham nhũng, lãng phí bằng việc tham mưu giúp Bộ Chính trị, Ban Bí thư lãnh đạo, chỉ đạo và tiến hành kiểm tra thực hành tiết kiệm, chống lãng phí; qua việc kiểm tra tổ chức đảng cấp dưới và đảng viên khi có dấu hiệu vi phạm, kiểm tra tài chính đảng, giải quyết đơn thư tố cáo đã góp phần trực tiếp giải quyết một số vụ nổi cộm về tham nhũng. Có thể khẳng định, công tác kiểm tra của Đảng không chỉ là những chức năng lãnh đạo của Đảng mà còn góp phần quan trọng, có hiệu quả nhất vào cuộc đấu tranh PCTN và giám sát kiểm soát quyền lực trong bộ máy nhà nước nói chung và các cơ quan hành chính nhà nước cấp trung ương hiện nay. Do vậy việc tiếp tục nghiên cứu xây dựng đề án tăng cường nhiệm vụ PCTN cho UBKT Trung ương và UBKT các cấp ủy. Cùng với việc xây dựng kiểm tra, giám sát của Đảng nhằm đẩy mạnh công tác PCTN trong bộ máy nhà nước nói chung và cơ quan hành chính nhà nước cấp trung ương nói riêng để hạn chế tối đa việc lạm dụng quyền lực Nhà nước của những kẻ tham nhũng trong các cơ quan này là một đòi hỏi và yêu cầu cấp thiết hiện nay. 26 Chƣơng 2 CƠ SỞ LÝ LUẬN VỀ PHÕNG, CHỐNG THAM NHŨNG TRONG CÁC CƠ QUAN HÀNH CHÍNH NHÀ NƢỚC CẤP TRUNG ƢƠNG THÔNG QUA CÔNG TÁC KIỂM TRA CỦA ĐẢNG 2.1. KHÁI NIỆM, ĐẶC ĐIỂM VÀ VAI TRÕ PHÕNG, CHỐNG THAM NHŨNG TRONG CÁC CƠ QUAN HÀNH CHÍNH NHÀ NƢỚC CẤP TRUNG ƢƠNG THÔNG QUA CÔNG TÁC KIỂM TRA CỦA ĐẢNG 2.1.1. Khái niệm cơ quan hành chính nhà nƣớc cấp trung ƣơng Các cơ quan hành chính nhà nước là một trong bốn phân hệ cơ quan của bộ máy Nhà nước Cộng hoà XHCN Việt Nam, bao gồm Chính phủ, các bộ, cơ quan ngang bộ, cơ quan thuộc Chính phủ, Ủy ban nhân dân (UBND) các cấp và các cơ quan trực thuộc. Các cơ quan hành chính nhà nước cấp trung ương được xác định bao gồm Chính phủ và các cơ quan hành chính nhà nước ở trung ương là các bộ, cơ quan ngang bộ. Trong đó, Chính phủ là cơ quan chấp hành của Quốc hội, đồng thời là cơ quan hành chính nhà nước cao nhất của nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam, thực hiện quyền hành pháp. Cơ quan hành chính nhà nước cấp trung ương là cơ quan quản lý hành chính nhà nước cao nhất, được giao những quyền lực nhà nước rất lớn nhằm thực hiện những quyền và nghĩa vụ pháp lý với mục đích hướng tới lợi ích công, trực tiếp tổ chức và quản lý mọi lĩnh vực của đời sống xã hội trên phạm vi cả nước. Do vậy hoạt động của các cơ quan này có tầm quan trọng đặc biệt, quản lý điều hành mang tính định hướng vĩ mô, tác động trực tiếp đến hiệu quả hoạt động của Nhà nước trên các lĩnh vực và mọi mặt của đời sống xã hội. - Cơ cấu tổ chức của Chính phủ gồm có: Thủ tướng Chính phủ, các phó thủ tướng và các bộ trưởng, thủ trưởng các cơ quan ngang bộ. Số phó thủ tướng, bộ trưởng và thủ trưởng cơ quan ngang bộ do Quốc hội quyết định. - Các bộ, cơ quan ngang gồm có: Bộ Quốc phòng, Bộ Công an, Bộ Ngoại giao, Bộ Nội vụ, Bộ Tư pháp, Bộ Kế hoạch và Đầu tư, Bộ Tài chính, Bộ Công thương, Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn, Bộ Giao thông - Vận tải, Bộ Xây dựng, Bộ Tài nguyên và Môi trường, Bộ Thông tin và Truyền thông, Bộ Lao động, Thương binh và Xã hội, Bộ Văn hóa, Thể thao và Du lịch, Bộ Khoa học và Công nghệ, Bộ Giáo dục và Đào tạo, Bộ Y tế. Các cơ quan ngang bộ gồm Uỷ ban Dân tộc, Ngân hàng Nhà nước Việt Nam, Thanh tra Chính phủ, Văn phòng Chính phủ. 27 Bộ trưởng và thủ trưởng cơ quan ngang bộ là người đứng đầu chịu trách nhiệm trước Thủ tướng, trước Quốc hội về quản lý nhà nước ngành, lĩnh vực trong phạm vi cả nước hoặc về công tác được giao phụ trách; tham gia vào hoạt động của tập thể Chính phủ; tham dự các phiên họp của Quốc hội khi xem xét về những vấn đề có liên quan đến ngành, lĩnh vực hoặc về công tác được giao phụ trách. Chính phủ (Thủ tƣớng, các phó Thủ tƣớng, các thành viên CP) Các bộ Cơ quan ngang bộ Hình 2.1: Mô hình tổ chức của các cơ quan hành chính nhà nƣớc cấp trung ƣơng Mỗi cơ quan hành chính nhà nước cấp trung ương đều có những chức năng, nhiệm vụ khác nhau. Chính phủ thống nhất quản lý mọi lĩnh vực trong đời sống xã hội. Bộ, cơ quan ngang bộ thực hiện chức năng quản lý nhà nước đối với ngành hoặc lĩnh vực trong phạm vi cả nước; quản lý nhà nước các dịch vụ công thuộc ngành, lĩnh vực; thực hiện đại diện chủ sở hữu phần vốn của nhà nước tại doanh nghiệp có vốn nhà nước theo quy định của pháp luật. 2.1.2. Khái niệm, đặc điểm tham nhũng trong các cơ quan hành chính nhà nƣớc cấp trung ƣơng Tham nhũng là hiện tượng xã hội, tồn tại tất yếu, khách quan xuất hiện từ lâu trong xã hội loài người có phân chia giai cấp, nên tham nhũng là một phạm trù mang tính lịch sử. Tham nhũng được nhiều học giả và các tổ chức quan tâm nghiên cứu, được biết đến với nhiều quan niệm khác nhau. Trong tiếng Anh từ tham nhũng là "Corruption" có nghĩa là "hư hỏng, thối nát, phá hoại" [55, tr.370]. Trong tiếng Việt, thuật ngữ tham nhũng được xác định là: “Lợi dụng quyền hành để nhũng nhiễu nhân dân và lấy của dân” [102, tr.1165]. Từ điển Luật học (Black’s Law) định nghĩa “tham nhũng là sự phá vỡ những nguyên tắc công chính, đức hạnh và luân lý”. Các tiếp cận này tương đối rộng, xem xét tham nhũng không chỉ ở khu vực công mà bao gồm toàn bộ các hoạt động của đời sống xã hội có tổ chức; không chỉ mô tả các hành vi có mục đích tư lợi mà còn bao gồm cả các hành vi trái với luân thường, đạo lý. 28 Một số tổ chức quốc tế về PCTN cũng có các quan niệm khác nhau về tham nhũng. Theo Công ước Liên hợp quốc (UN) về PCTN xác định tham nhũng là sự lợi dụng quyền lực nhà nước để trục lợi riêng. Công ước này cũng nêu rõ các hành vi tham nhũng bao gồm việc người có chức vụ, quyền hạn lấy cắp, tham ô tài sản nhà nước; lợi dụng địa vị công tác để trục lợi riêng; tạo sự xung đột về thứ tự quan tâm giữa trách nhiệm đối với xã hội và lợi ích cá nhân để mưu cầu trục lợi. Ngân hàng Thế giới (WB) lại đưa ra quan niệm tham nhũng là việc lợi dụng quyền lực công nhằm lợi ích cá nhân [35, tr.3].Tổ chức minh bạch quốc tế (TT) cho rằng, tham nhũng là hành vi của người lợi dụng chức vụ, quyền hạn hoặc cố ý làm trái pháp luật để phục vụ cho lợi ích cá nhân [107]. Theo Ban nghiên cứu thuộc Hội đồng Châu Âu “tham nhũng bao gồm những hành vi hối lộ và bất kỳ một hành vi nào khác của những người được giao thực hiện một trách nhiệm nào đó trong khu vực nhà nước hoặc tư nhân, nhưng đã vi phạm trách nhiệm được giao để thu bất kỳ một thứ lợi ích bất hợp pháp nào cho cá nhân hoặc người khác” [106, tr.21]. Theo tài liệu hướng dẫn của Liên hợp quốc về cuộc đấu tranh quốc tế chống tham nhũng thì "Tham nhũng - đó là sự lợi dụng quyền lực nhà nước để trục lợi riêng" bao gồm những hành vi lợi dụng chức vụ, quyền hạn để tham ô, trộm cắp tài sản của Nhà nước, hoặc lợi dụng địa vị công tác để trục lợi riêng thông qua việc sử dụng không chính thức địa vị chính thức của mình, hoặc tạo ra xung đột về thứ tự quan tâm giữa trách nhiệm đối với xã hội và lợi ích cá nhân để mưu cầu trục lợi. Như vậy giữa các nước có sự khác nhau về truyền thống lịch sử, đặc điểm văn hoá, điều kiện kinh tế - xã hội, cũng như các tổ chức quốc tế hay các cơ quan nghiên cứu về PCTN có nhiều quan niệm khác nhau về tham nhũng, nhưng đều có chung quan niệm: Tham nhũng là hành vi của người có chức vụ, quyền hạn đã lợi dụng chức vụ, quyền hạn đó để tham ô, nhận hối lộ hoặc cố ý làm trái pháp luật vì động cơ vụ lợi. Tham nhũng nảy sinh từ khi có Nhà nước, xuất hiện khi một số người sử dụng quyền hạn được giao để thỏa mãn lòng tham, tính vụ lợi của mình. Khái niệm tham nhũng gồm hai yếu tố: tham và những. Tham là hám lợi, tư lợi, vụ lợi. Nhũng là lợi dụng quyền hạn chức trách được giao để thỏa mãn lòng tham, lợi ích cá nhân. Hai yếu tố này là tiền đề của nhau, thúc đẩy và gắn bó chặt chẽ với nhau. Tuy có nhiều quan niệm khác nhau nhưng nhìn chung đều thống nhất ở việc coi tham nhũng là việc lợi dụng quyền lực để vụ lợi. Quan niệm này dẫn đến có hai khái niệm khá phổ biến về tham nhũng: 29 Thứ nhất, khái niệm tham nhũng được hiểu theo nghĩa rộng bao gồm mọi hành vi của bất kỳ người nào có chức vụ, quyền hạn hoặc được giao nhiệm vụ, quyền hạn đã lợi dụng chức vụ, quyền hạn, hoặc nhiệm vụ được giao để vụ lợi. Chủ thể của hành vi tham nhũng có thể là cán bộ, công chức, viên chức hoặc những người khác thuộc khu vực nhà nước (cơ quan nhà nước, doanh nghiệp nhà nước, trong các tổ chức chính trị, tổ chức xã hội...) mà không phải là cán bộ, công chức, viên chức; thậm chí, chủ thể của hành vi tham nhũng có thể là người thuộc khu vực tư nhân. Thứ hai, khái niệm tham nhũng theo nghĩa hẹp và đã được pháp luật Việt Nam quy định, Luật PCTN năm 2005 sửa đổi, bổ sung năm 2007, 2012 (sau đây gọi chung là Luật PCTN) định nghĩa: “tham nhũng là hành vi của người có chức vụ, quyền hạn đã lợi dụng chức vụ, quyền hạn đó vì vụ lợi” (Khoản 2, Điều 1) [60]: Khoản 3, Điều 1 quy định “người có chức vụ, quyền hạn là cán bộ, công chức, viên chức; sĩ quan, quân nhân chuyên nghiệp, công nhân quốc phòng trong cơ quan, đơn vị thuộc quân đội nhân dân; sĩ quan, hạ sĩ quan nghiệp vụ, sĩ quan, hạ sĩ quan chuyên môn - kỹ thuật trong cơ quan, đơn vị thuộc Công an nhân dân; cán bộ lãnh đạo, quản lý trong doanh nghiệp của Nhà nước; cán bộ lãnh đạo, quản lý là người đại diện phần vốn góp của Nhà nước tại doanh nghiệp; người được giao thực hiện nhiệm vụ, công vụ có quyền hạn trong khi thực hiện nhiệm vụ, công vụ đó”. Các hành vi tham nhũng, bao gồm: Tham ô tài sản; nhận hối lộ; lạm dụng chức vụ, quyền hạn chiếm đoạt tài sản; lợi dụng chức vụ, quyền hạn trong khi thi hành nhiệm vụ, công vụ vì vụ lợi; lạm quyền trong khi thi hành nhiệm vụ, công vụ vì vụ lợi; lợi dụng chức vụ, quyền hạn gây ảnh hưởng với người khác để trục lợi; giả mạo trong công tác vì vụ lợi; đưa hối lộ, môi giới hối lộ được thực hiện bởi người có chức vụ, có quyền hạn để giải quyết công việc của cơ quan, tổ chức, đơn vị hoặc địa phương vì vụ lợi; nhũng nhiễu vì vụ lợi; không thực hiện nhiệm vụ, công vụ vì vụ lợi; lợi dụng chức vụ, quyền hạn để bao che cho người có hành vi vi phạm pháp luật vì vụ lợi; cản trở, can thiệp trái pháp luật vào việc kiểm tra, thanh tra kiểm toán, điều tra, truy tố, xét xử, thi hành án vì vụ lợi. Như vậy, pháp luật của nước ta cũng xác định chủ thể của tham nhũng là người có chức vụ, quyền hạn trong bộ máy nhà nước, tức là những người được sử dụng quyền lực công; hành vi tham nhũng là lợi dụng chức vụ, quyền hạn bao gồm những việc làm và những việc không làm (làm ngơ, bỏ qua, cho qua, né tránh) vì mục đích vụ 30 lợi nhằm nhận được các lợi ích vật chất (tiền, quà biếu) và các lợi ích tinh thần không bằng công sức của mình. Trong phạm vi nghiên cứu về tham nhũng trong các cơ quan hành chính cấp trung ương, Luận án chỉ tiếp cận tham nhũng trong khu vực công, cụ thể trong cơ quan nhà nước nói chung và cơ quan hành chính nhà nước cấp trung ương nói riêng, thì khái niệm về tham nhũng trong cơ quan hành chính cấp trung ương như sau: Tham nhũng trong cơ quan hành chính cấp trung ương được hiểu là hành vi vi phạm pháp luật về phòng, chống tham nhũng do người có chức vụ, quyền hạn trong bộ máy các cơ quan hành chính nhà nước cấp trung ương lợi dụng chức vụ, quyền hạn của mình thực hiện gây hậu quả xấu cho xã hội, xâm phạm đến tài sản, lợi ích, hoạt động đúng đắn của các cơ quan hành chính nhà nước, người dân và xã hội (1). Từ những khái niệm tham nhũng nêu trên, có thể khái quát những đặc điểm và biểu hiện của tham nhũng trong cơ quan hành chính nhà nước cấp trung ương như sau: Thứ nhất, đặc điểm về chủ thể: chủ thể tham nhũng là những người có chức vụ, quyền hạn trong bộ máy cơ quan hành chính trung ương hoặc được giao thực hiện một công vụ, nhiệm vụ nhất định và có quyền hạn nhất định khi thực hiện công vụ, nhiệm vụ đó. Theo đặc điểm này, tham nhũng là hành vi của người có chức vụ, quyền hạn làm việc trong bộ máy hành chính nhà nước cấp trung ương, các cơ quan có trọng trách lớn, có ảnh hưởng sâu rộng trong mọi mặt của đời sống xã hội; hoặc những người được giao thực hiện một công vụ, nhiệm vụ nhất định và có quyền hạn trong nhiệm vụ đó. Thứ hai, đặc điểm về mục đích: hành vi lợi dụng chức vụ, quyền hạn của những người trong bộ máy cơ quan hành chính nhà nước cấp trung ương có mục đích vụ lợi để thu lợi bất chính. Người có hành vi tham nhũng luôn nhằm mục đích vụ lợi luôn tính toán đến việc thu lợi bất chính, bao gồm lợi ích vật chất, tinh thần cho mình hoặc người khác. Thực chất đó là hành vi lợi dụng chức vụ, quyền hạn địa vị công tác hoặc nhiệm vụ được giao để không làm hoặc làm trái với công vụ mà mình phải thực hiện để chiếm đoạt tài sản của Nhà nước, của tổ chức và của người dân, thỏa mãn lợi ích cá nhân của họ hay cho người khác hoặc một nhóm người mà mình quan tâm. Thứ ba, đặc điểm về phương thức thực hiện: những biểu hiện cơ bản tham nhũng trong cơ quan hành chính cấp trung ương đa dạng về quy mô, hình thức: có tham nhũng nhỏ, vặt vãnh trong việc sách nhiễu, cố ý gây phiền hà cho các tổ chức và người dân; có tham nhũng lớn và cực lớn, đan xen, phối hợp cả tham nhũng cá nhân 31 lẫn tham nhũng theo nhóm, gọi là “lợi ích nhóm”, có tổ chức, có chủ mưu, thao túng vào tổ chức, thể chế và chính sách cùng những người có trọng trách, có thẩm quyền giải quyết, lợi ích nhóm hiện nay thể hiện rất tinh vi, mang lại hậu quả cũng rất lớn; có tham nhũng trong lĩnh vực hoạt động kinh tế, sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp; có tham nhũng trong các lĩnh vực quản lý đất đai, tài sản, quản lý kinh tế, chính sách, xã hội; có tham nhũng trong công tác cán bộ thuyên chuyển, cất nhắc, đề bạt, bổ nhiệm cán bộ, chạy danh, chạy chức, chạy quyền... Càng ở cấp cao, vị trí có khả năng sinh lợi nhiều thì mức độ tham nhũng càng lớn. Ngoài ra, tham nhũng thông qua việc chậm sửa chính sách, pháp luật, cố tình lợi dụng sự mâu thuẫn, chồng chéo, hoặc lỗ hổng chính sách để trục lợi cho cá nhân quản lý là phương thức tham nhũng mang tính phổ biến của cơ quan hành chính cấp trung ương. Thứ tư, đặc điểm về hành vi: các hành vi tham nhũng được thực hiện trong cơ quan hành chính nhà nước cấp trung ương phổ biến với những biểu hiện sau: tham ô tài sản; nhận hối lộ; lạm dụng chức vụ, quyền hạn chiếm đoạt tài sản; lợi dụng chức vụ, quyền hạn trong khi thi hành nhiệm vụ, công vụ vì vụ lợi; lạm quyền trong khi thi hành nhiệm vụ, công vụ vì vụ lợi; lợi dụng chức vụ, quyền hạn gây ảnh hưởng với người khác để trục lợi; giả mạo trong công tác vì vụ lợi; đưa hối lộ, môi giới hối lộ được thực hiện bởi người có chức vụ, quyền hạn để giải quyết công việc của cơ quan, tổ chức, đơn vị hoặc địa phương thuộc phạm vi quản lý vì vụ lợi; lợi dụng chức vụ, quyền hạn sử dụng trái phép tài sản của Nhà nước vì vụ lợi; nhũng nhiễu vì vụ lợi. Là hành vi của người có chức vụ quyền hạn trong bộ máy nhà nước gây khó khăn cho doanh nghiệp, người dân nhằm đạt những lợi ích vật chất, lợi ích tinh thần nhất định; không thực hiện nhiệm vụ, công vụ vì vụ lợi; lợi dụng chức vụ, quyền hạn để bao che cho người có hành vi vi phạm pháp luật vì vụ lợi. Thứ năm, đặc điểm về nguyên nhân tham nhũng trong cơ quan hành chính nhà nước cấp trung ương phổ biến do mức sống thấp của cán bộ, công chức; lòng tham và quyền lực công không được quản lý kiểm soát chặt chẽ; thiếu công khai, minh bạch trong tổ chức và hoạt động; buông lỏng quản lý, kiểm tra và kỷ luật lỏng lẻo; sự chuyển đổi cơ chế kinh tế từ tập trung, quan liêu bao cấp sang cơ chế thị trường gây ra sự cám dỗ về quyền lợi vật chất. Hơn nữa, nền kinh tế thị trường định hướng XHCN vẫn giữ lợi thế cho cơ quan quản lý ngành và lĩnh vực, dẫn đến cạnh tranh không lành mạnh, độc quyền tạo điều kiện cho tham nhũng phát triển; tham nhũng do tập quán mang ơn, 32 trả ơn dẫn đến tệ hối lộ. Trong các nguyên nhân mang tính phổ biến nêu trên, nguyên nhân quan trọng gây ra tham nhũng là sự thiếu hiệu quả của hoạt động kiểm tra, giám sát của Đảng, Nhà nước và xã hội đối với cơ quan hành chính nhà nước cấp trung ương; do phân cấp quản lý hành chính chưa rành mạch cùng với thiếu biện pháp, phương pháp kiểm tra; do sự thiếu rèn luyện và trau dồi đạo đức của công chức; 2.1.3. Khái niệm công tác kiểm tra của Đảng Cộng sản Việt Nam và tổ chức bộ máy, chức năng, nhiệm vụ của Ủy ban Kiểm tra, cơ quan Ủy ban Kiểm tra 2.1.3.1. Khái niệm công tác kiểm tra của Đảng Cộng sản Việt Nam Để thực hiện sứ mệnh của Đảng cẩm quyền, Đảng cộng sản Việt Nam ngay từ khi ra đời đã luôn coi trọng công tác kiểm tra và khẳng định kiểm tra là một trong những chức năng lãnh đạo quan trọng, góp phần lớn trong việc hoàn thành mọi nhiệm vụ chính trị của từng giai đoạn cách mạng của đất nước, của Đảng và dân tộc. Trong điều kiện xây dựng Đảng và xây dựng Nhà nước pháp quyền XHCN ở Việt Nam hiện nay, công tác kiểm tra của Đảng được nhận thức đầy đủ hơn, thúc đẩy sự đoàn kết, sức chiến đấu trong Đảng và đặc biệt là góp phần quan trọng trong PCTN. Trong các tác phẩm của mình, Lê Nin đã nhấn mạnh tính tất yếu của công tác kiểm tra của Đảng. Đảng Cộng sản cầm quyền lãnh đạo toàn bộ hệ thống chính trị các các lĩnh vực thì khi đường lối đã xác định, phương hướng đã được thông qua thì cần lựa chọn người và kiểm tra công việc thực tế. Theo Lênin: “Kiểm tra tạo ra tinh thần trách nhiệm cao và kỷ luật nghiêm ở mỗi cán bộ, đảng viên, mặt khác kiểm tra sẽ đẩy mạnh cuộc đấu tranh "chống chủ nghĩa quan liêu, nhằm mở rộng dân chủ, phát huy óc sáng kiến, nhằm phát hiện, lột mặt nạ và đuổi ra khỏi Đảng những kẻ lén lút chui vào Đảng" [40, tr109]. Chủ tịch Hồ Chí cũng luôn khẳng định “Khi đã có chính sách đúng, thì sự thành công hoặc thất bại của chính sách đó là do nơi cách tổ chức công việc, nơi lựa chọn cán bộ và do nơi kiểm tra. Nếu ba điều ấy sơ sài thì chính sách đúng mấy cũng vô ích” [48, tr.520]. Như vậy, công tác kiểm tra của Đảng gồm những hoạt động sau: Thứ nhất, công tác kiểm tra của Đảng cộng sản Việt Nam của tổ chức đảng từ Trung ương đến cơ sở. Theo quy định Điều lệ Đảng: “Kiểm tra, giám sát là những chức năng lãnh đạo của Đảng”. Công tác kiểm tra của Đảng là việc các tổ chức đảng xem xét, đánh giá, kết luận những ưu điểm, khuyết điểm của tổ chức đảng và đảng viên trong việc chấp hành Cương lĩnh chính trị, điều lệ đảng, nghị quyết, chỉ thị, quy định của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước, nhằm bảo đảm cho các quyết định, quy 33 định của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước được thực hiện nghiêm túc, có kết quả, góp phần thực hiện thắng lợi nhiệm vụ chính trị và công tác xây dựng đảng. Công tác giám sát của Đảng là việc các tổ chức đảng theo dõi, xem xét, đánh giá hoạt động của tổ chức đảng và đảng viên chịu sự giám sát trong việc chấp hành Cương lĩnh chính trị, điều lệ đảng, nghị quyết, chỉ thị của Đảng và đạo đức, lối sống theo quy định của Ban Chấp hành Trung ương, kịp thời tác động để mọi hoạt động đúng quĩ đạo, mục tiêu, yêu cầu đã được xác định, góp phần phục vụ thực hiện thắng lợi nhiệm vụ chính trị và công tác xây dựng đảng. Thứ hai, việc thực hiện nhiệm vụ công tác kiểm tra, giám sát của tổ chức đảng phải do cấp ủy và UBKT cấp ủy thực hiện theo thẩm quyền. Thứ ba, chủ thể thực hiện chức năng kiểm tra của Đảng là cấp ủy, UBKT cấp ủy từ trung ương đến cơ sở, cụ thể là: + Ở trung ương: Ban Chấp hành Trung ương, Bộ Chính trị, Ban Bí thư; UBKT Trung ương. + Ở đảng bộ trực thuộc trung ương: Ban chấp hành, ban thường vụ các tỉnh ủy, thành ủy, đảng ủy trực thuộc Trung ương; UBKT các tỉnh ủy, thành ủy, đảng ủy trực thuộc Trung ương. + Ở đảng bộ cấp trên cơ sở trực tiếp (cấp huyện và tương đương): Ban chấp hành, ban thường vụ các huyện ủy, thị ủy, quận ủy, đảng ủy trực thuộc tỉnh, thành phố; cấp ủy, Ban Cán sự đảng (BCS đảng), đảng đoàn các bộ, ngành, đoàn thể trung ương; UBKT các huyện ủy, thị ủy, quận ủy, đảng ủy trực thuộc tỉnh, thành phố; UBKT cấp ủy các bộ, ngành, đoàn thể trung ương. + Ở tổ chức đảng cơ sở: Ban chấp hành, ban thường vụ, chi ủy; UBKT Đảng ủy cơ sở. Do vậy, công tác kiểm tra của Đảng cộng sản Việt Nam bao gồm: công tác kiểm tra, giám sát của cấp ủy, UBKT cấp ủy từ trung ương đến cơ sở thực hiện theo thẩm quyền. 2.1.3.2. Khái niệm công tác kiểm tra của Đảng đối với tổ chức đảng và đảng viên trong các cơ quan hành chính nhà nước cấp trung ương Thứ nhất, công tác kiểm tra của Đảng đối với tổ chức đảng và đảng viên trong các cơ quan hành chính nhà nước cấp trung ương được xác định do cấp ủy và UBKT cấp ủy ở trung ương và các bộ, cơ quan ngang bộ ở trung ương thực hiện. Công tác 34 kiểm tra luôn mang tính Đảng sâu sắc bởi đây là hoạt động lãnh đạo của Đảng đối với cơ quan hành chính nhà nước cấp trung ương. Đồng thời cả quá trình kiểm tra đều phải tuân thủ nguyên tắc của Đảng, quy định của Điều lệ Đảng, Cương lĩnh của đảng và tiến hành kiểm tra một cách công khai, dân chủ, tập thể và có lãnh đạo, chỉ đạo sâu sát. Thứ hai, chủ thể kiểm tra của đảng đối với cơ quan hành chính nhà nước cấp trung ương là cấp ủy, UBKT cấp ủy ở trung ương và các bộ, cơ quan ngang bộ bao gồm: ở trung ương: Ban Chấp hành Trung ương, Bộ Chính trị, Ban Bí thư; UBKT Trung ương; ở các bộ, cơ quan ngang bộ bao gồm ban cán sự đảng, đảng ủy và UBKT đảng ủy các bộ, cơ quan ngang bộ. Thứ ba, đối tượng kiểm tra, giám sát đối với cơ quan hành chính nhà nước cấp trung ương là các tổ chức đảng và đảng viên bao gồm: chi bộ, chi ủy, đảng ủy bộ phận, đảng ủy cơ sở; cấp ủy, ban thường vụ cấp ủy, thường trực cấp ủy từ cấp trên cơ sở trở lên; ủy ban kiểm tra; các cơ quan tham mưu giúp việc của cấp ủy; ban cán sự đảng, đảng đoàn; đảng viên. Đặc điểm đặc thù của công tác kiểm tra của Đảng đối với cơ quan hành chính nhà nước cấp trung ương thể hiện ở chỗ các cán bộ, đảng viên hoặc tổ chức đảng nêu trên khi được kiểm tra thì vừa là đối tượng vừa là đồng chủ thể kiểm tra. Là đối tượng kiểm tra, nên đảng viên hoặc tổ chức đảng thuộc cơ quan hành chính cấp trung ương được kiểm tra phải chấp hành nghiêm túc mọi yêu cầu, nội dung, quy trình, quy chế kiểm tra; là chủ thể kiểm tra, thì người đảng viên hoặc tổ chức đảng được kiểm tra không thụ động đứng ngoài cuộc mà phải chủ động, tự giác tham gia thực hiện đầy đủ quyền và trách nhiệm trong cuộc kiểm tra. Do đó, người đảng viên nào thuộc đối tượng kiểm tra, nếu có dấu hiệu vi phạm chính sách, pháp luật song nếu khi tổ chức đảng chưa tiến hành thẩm tra, xác minh, chưa có kết luận và chưa có quyết định thi hành kỷ luật khai trừ ra khỏi Đảng thì người đó vẫn có tư cách đảng viên, là chủ thể của cuộc kiểm tra đang tiến hành. Đây cũng chính là đặc trưng mang tính đảng của chủ thể kiểm tra và đối tượng chịu sự kiểm tra. Thứ tư, nội dung kiểm tra, giám sát là: việc thực hiện Cương lĩnh chính trị, điều lệ đảng, nghị quyết, chỉ thị của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước, các quy định của Đảng đối với tổ chức đảng và đảng viên. Thứ năm, phương pháp, biện pháp kiểm tra có tính đặc thù. Nghiên cứu công tác kiểm tra của Đảng cũng cần phải phân biệt với công tác giám sát của Đảng bởi hai hoạt động này có sự phân biệt về thời điểm, biện pháp, đối tượng tác động trong từng 35 giai đoạn nhất định. Nếu như giám sát là hoạt động của Đảng được tiến hành thường xuyên hoặc theo chuyên đề là hoạt động không cần phải có biện pháp thẩm tra hoặc xác minh. Giám sát chỉ đơn thuần là theo dõi, quan sát, xem xét nên các kết luận giám sát chỉ là những đánh giá bước đầu. Trong khi đó, kiểm tra đòi hỏi phải có các biện pháp thẩm tra, xác minh như kiểm tra sự chấp hành của đối tượng kiểm tra thực hiện chức trách, nhiệm vụ được giao đã xảy ra trong quá khứ, đã kết thúc. Kiểm tra còn được tiến hành cả việc thực hiện chức trách, nhiệm vụ đang thực hiện. Phạm vi, thời điểm kiểm tra rộng hơn phạm vi, thời điểm giám sát. Nếu như giám sát chỉ thông báo kết quả giám sát và những yêu cầu, kiến nghị nếu có, không kết luận và không có xử lý kỷ luật thì kiểm tra chấp hành phải tiến hành thẩm tra, xác minh để làm rõ ưu điểm, khuyết điểm, hạn chế, nguyên nhân làm rõ đúng, sai hoặc vi phạm của đối tượng kiểm tra, phải xem xét, kết luận kiểm tra. Do đó, về mức độ thì kiểm tra là biện pháp phòng ngừa, xử lý sâu hơn, kỹ lưỡng hơn, chặt chẽ hơn so với giám sát. Hơn nữa, kiểm tra trong đảng đối với cơ quan hành chính cấp trung ương còn thể hiện phương pháp tự kiểm tra và kiểm tra. Đây là hai phương pháp kiểm tra có mối liên hệ mật thiết với nhau, tạo nên tính đặc thù, khác hẳn các phương pháp của cơ quan bảo vệ pháp luật. Như vậy, công tác kiểm tra của Đảng đối với các cơ quan hành chính nhà nước cấp trung ương là hoạt động do Ban Chấp hành Trung ương, Bộ Chính trị, Ban Bí thư và cấp ủy, ban cán sự đảng, UBKT Trung ương, UBKT cấp ủy các bộ, cơ quan ngang bộ xem xét, đánh giá, kết luận những ưu điểm, khuyết điểm của tổ chức đảng và đảng viên trong việc chấp hành Cương lĩnh chính trị, điều lệ đảng, nghị quyết, chỉ thị, quy định của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước, nhằm ngăn chặn, phòng ngừa và phát hiện kịp thời, xử lý nghiêm minh những hành vi tham nhũng theo quy định của Đảng (2). 2.1.3.3. Tổ chức bộ máy, chức năng, nhiệm vụ của Ủy ban Kiểm tra và Cơ quan Ủy ban Kiểm tra - Tổ chức bộ máy của UBKT và cơ quan UBKT Ủy ban Kiểm tra Trung ương và UBKT các cấp ủy trong các cơ quan hành chính nhà nước cấp trung ương: Ngày 16/10/1948, Ban Thường vụ Trung ương Đảng ra Quyết nghị số 29-NQ/TW về việc thành lập Ban Kiểm tra Trung ương. Từ Đại hội toàn quốc lần thứ III (tháng 9/1960) Ban Kiểm tra được đổi tên thành UBKT, UBKT được thành lập đến cấp quận uỷ, huyện uỷ và tương đương. Đại hội X của Đảng đã bổ sung chức năng, nhiệm vụ giám sát cho UBKT các cấp. 36 - Tổ chức bộ máy của UBKT trung ương Cơ quan UBKT Trung ương bao gồm: Ủy ban Kiểm tra Trung ương ương do Ban Chấp hành Trung ương trong các nhiệm kỳ gần vừa qua từ 19 đến 21 ủy viên, trong đó có Chủ nhiệm UBKT Trung ương ương là Ủy viên Bộ Chính trị, các phó chủ nhiệm, có 01 phó chủ nhiệm thườn trực và các ủy viên. Cơ quan UBKT Trung ương gồm có Lãnh đạo Cơ quan UBKT Trung ương bao gồm thủ trưởng Cơ quan UBKT Trung ương; các phó thủ trưởng Cơ quan UBKT Trung ương; trong đó phân công một đồng chí Phó Chủ nhiệm thường trực UBKT Trung ương là phó thủ trưởng thường trực Cơ quan UBKT Trung ương. Tổ chức bộ máy của Cơ quan UBKT Trung ương gồm 14 vụ, đơn vị, trong đó có 12 vụ chức năng, gồm: 7 vụ khu vực phụ trách các địa phương, địa bàn (Vụ TW 1, Vụ 1A, Vụ Địa phương 2, Vụ Địa phương 3, Vụ Địa phương 5, Vụ Địa phương 7, Vụ Kiểm tra tài chính); 5 vụ còn lại (Vụ Tổng hợp, Vụ Tổ chức - Cán bộ, Vụ Nghiên cứu, Vụ Đơn thư và tiếp đảng viên, công dân, Vụ Đào tạo - Bồi dưỡng); các đơn vị: Văn phòng và Tạp chí Kiểm tra, theo sơ đồ sau: UBKT Trung ƣơng (Chủ nhiệm - Các phó CN - Các UV- UB) Cơ quan UBKT Trung ƣơng Lãnh đạo Cơ quan UBKT TW (Chủ nhiệm - Phó CN...chính Trung ương, Đấu tranh chống tham nhũng: những vấn đề lý luận và giải pháp thực tiễn, Đề tài khoa học KXBĐ02, Hà Nội. 7. Báo điện tử Đảng Cộng sản (2007), “Nguyên tắc xử lý tài sản tham nhũng”, ngày 21/8. 8. Nguyễn Cảnh Chất (biên dịch) (2005), Hành chính công và hiệu quả quản lý của Chính phủ, Tài liệu nghiên cứu về nền hành chính Trung Quốc, Nxb Lao động, Hà Nội. 9. Trần Thị Minh Châu (2009), Phòng, chống tham nhũng trong các cơ quan hành chính nhà nước cấp tỉnh ở Sơn La, Luận văn thạc sĩ Luật, Hà Nội. 10. Chính phủ (2009), Nghị quyết ban hành Chiến lược quốc gia phòng, chống tham nhũng đến năm 2020, Hà Nội. 11. Chính phủ (2009), Báo cáo số 157-BC/CP về công tác phòng, chống tham nhũng, Hà Nội. 12. Chính phủ (2016), Báo cáo tổng kết 10 năm thực hiện Luật Phòng, chống tham nhũng, Hà Nội. 13. Chính phủ (2016), Báo cáo số 419/BC-CP, ngày 17/10/2016 công tác phòng, chống tham nhũng năm 2016, Hà Nội. 161 14. Chính phủ (2017), Báo cáo số 460/BC-CP, ngày 18/10/2017 công tác phòng, chống tham nhũng năm 2017, Hà Nội. 15. Hạ Quốc Cường (2007), Không ngừng nâng cao trình độ lãnh đạo và trình độ cầm quyền, tăng cường năng lực chống tha hóa, phòng biến chất và chống rủi ro, Hà Nội. 16. Phan Diễn (2001), "Đổi mới công tác kiểm tra là một bộ phận trong đổi mới phương thức lãnh đạo của Đảng", Tạp chí Kiểm tra, (15), tr.8-12. 17. Nguyễn Thị Doan (2002), "Tăng cường công tác kiểm tra của Đảng nhằm góp phần ngăn chặn và đẩy lùi tham nhũng", Tạp chí Cộng sản, (8), tr.11-14. 18. Nguyễn Thị Doan (2003), "Đấu tranh chống những biểu hiện cơ hội, thực dụng trong thời kỳ mới", Tạp chí Cộng sản, (22), tr.28-33. 19. Cao Thị Dung, Bùi Anh Tuấn (2017), "Kiểm tra, giám sát - một trong những phương thức lãnh đạo của Đảng trong kiểm soát quyền lực Nhà nước hiện nay", Kỷ yếu Hội thảo khoa học Một số vấn đề lý luận và thực tiễn tiếp tục đổi mới phương thức lãnh đạo của Đảng thông qua tổ chức Đảng và đảng viên, Học viện Báo chí và Tuyên truyền, Hà Nội. 20. Đảng Cộng sản Việt Nam (2006), Điều lệ Đảng cộng sản Việt Nam, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội. 21. Đảng Cộng sản Việt Nam (2001), Văn kiện Đảng toàn tập, tập 14, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội. 22. Đảng Cộng sản Việt Nam (2001), Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ IX của Đảng, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội. 23. Đảng Cộng sản Việt Nam (2006), Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ X của Đảng, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội. 24. Đảng Cộng sản Việt Nam (2011). Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XI của Đảng, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội. 25. Đảng Cộng sản Việt Nam (2012), Văn kiện Hội nghị lần thứ tư Ban Chấp hành Trung ương khóa XI, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội. 26. Đảng Cộng sản Việt Nam (2015), Chỉ thị số 50-CT/TW, ngày 07/12/2015 của Bộ Chính trị về tăng cường sự lãnh đạo của Đảng đối với công tác phát hiện, xử lý vụ việc, vụ án tham nhũng, Hà Nội. 162 27. Đảng Cộng sản Việt Nam (2016), Văn kiện Đại hội Đại biểu toàn quốc lần thứ XII, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội. 28. Chu Húc Đồng (2007), "Kiên trì phương châm quản lý Đảng một cách nghiêm minh, triển khai cuộc xây dựng tác phong của Đảng, xây dựng liêm chính và đấu tranh chống tham nhũng", Kỷ yếu Xây dựng đảng cầm quyền - kinh nghiệm Việt Nam - Trung Quốc, tr.122-135. 29. Gerald E. Caiden, Tham nhũng và quản lý. 30. Lê Văn Giảng (2007), Chuyên đề Chống tham nhũng của Việt Nam và một số nước trên thế giới. 31. Nguyễn Thúy Hà (2017), "Cơ chế kiểm soat quyền lực trong Đảng Cộng sản Việt Nam hiện nay", Kỷ yếu Hội thảo khoa học Một số vấn đề lý luận và thực tiễn tiếp tục đổi mới phương thức lãnh đạo của Đảng thông qua tổ chức Đảng và đảng viên, Học viện Báo chí và Tuyên truyền, Hà Nội. 32. Phạm Thái Hà (2016), "Phát huy hiệu quả công tác kiểm tra, giám sát trong phòng, chống tham nhũng", tại trang doi/201605/phat-huy-hieu-qua-cong-tac-kiem-tra-giam-sat-trong-phong-chong- tham-nhung-300571, [truy cập ngày 20/8/2017]. 33. Nguyễn Văn Hải (2010), “Bổ sung quyền giám sát của nhân dân”, tại trang www.chinhphu.vn, [truy cập ngày 05/11/2017]. 34. Thành Kiến Hoa (2016), Xây dựng chế độ là chính sách giúp giải quyết tận gốc tham nhũng, tiêu cực, Viện khoa học xã hội Trung Quốc. 35. Học viện Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh, Viện Thông tin khoa học (2006), “Tham nhũng và phòng, chống tham nhũng ở một số nước trên thế giới”, Tạp chí Thông tin tư liệu, (1), tr.3 36. Hoàng Minh Hội (2014), Hoàn thiện pháp luật về giám sát của nhân dân đối với cơ quan hành chính nhà nước ở Việt Nam, Luận án tiến sĩ Luật học, Học viện Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh, Hà Nội. 37. Phạm Thị Huệ (2006), Thanh tra và vấn đề phòng, chống tham nhũng, Luận văn thạc sĩ Luật, Hà Nội. 38. Trần Duy Hưng (2017), “Một số vấn đề hợp nhất Cơ quan Ủy ban Kiểm tra Trung ương với Thanh tra Chính phủ”, Tạp chí Kiểm tra, (12), tr.38-41. 163 39. Nguyễn Văn Kim (2003), Pháp luật chống tham nhũng của các nước trên thế giới, Nxb Văn hóa dân tộc, Hà Nội. 40. V.I.Lênin (1976), Toàn tập, tập 33, Nxb Tiến bộ, Mát-xcơ-va. 41. V.I.Lênin (1978). Toàn tập, tập 43, Nxb Tiến bộ, Mát-xcơ-va. 42. V.I.Lênin (1978). Toàn tập, tập 44, Nxb Tiến bộ, Mát-xcơ-va. 43. V.I.Lênin (1978). Toàn tập, tập 45, Nxb Tiến bộ, Mát-xcơ-va. 44. V.I.Lênin (1979). Toàn tập, tập 54, Nxb Tiến bộ, Mát-xcơ-va. 45. Lê Hồng Liêm (2009), Công tác kiểm tra, giám sát của Đảng với phòng, chống tham nhũng trong tình hình hiện nay: Thực trạng và giải pháp, Đề tài khoa học cấp bộ KHBĐ-46, Hà Nội. 46. Lê Hồng Liêm (2013), Nghiên cứu mối quan hệ không bình thường giữa một bộ phận cán bộ, đảng viên có chức, quyền với các doanh nghiệp để trục lợi: Thực trạng và giải pháp phòng, chống thông qua công tác kiểm tra, giám sát của Đảng, Đề tài khoa học cấp bộ, Hà Nội. 47. Nguyễn Văn Mạnh (2017), Xây dựng, hoàn thiện cơ chế kiểm soát quyền lực trong thể chế chính trị nhằm ổn định và phát triển bền vững chế độ chính trị ở Việt Nam, Đề tài khoa học cấp Bộ. 48. Hồ Chí Minh (1995). Toàn tập, tập 6, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội. 49. Hồ Chí Minh (2000). Toàn tập, tập 11, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội. 50. Đinh Văn Minh (chủ nhiệm) (2014), Tổ chức và hoạt động của các cơ quan có chức năng phòng, chống tham nhũng và một số vấn đề đặt ra, Đề tài khoa học cấp Bộ, Hà Nội. 51. Đinh Văn Minh (2015), Tham nhũng và phòng, chống tham nhũng trong khu vực tư ở Việt Nam, Đề tài khoa học cấp Bộ, Hà Nội. 52. Trần Thu Minh (2016), “Những điểm mới trong chế độ tuần thị của Đảng Cọng sản Trung Quốc sau Đại hội XVIII", Tạp chí Thông tin khoa học lý luận chính trị, (24+25), tr.52-58. 53. Montesquieu (2004), Bàn về tinh thần pháp luật. Nxb Lý luận chính trị, Hà Nội. 54. Vương Tùng Niên (2000), Năm vấn đề đương đại, Nxb Bắc Kinh, Bắc Kinh, Trung Quốc. 55. Oxford, Cambridge (1997), Từ điển Anh - Việt, Nxb Đại học quốc gia Hà Nội. 56. Quốc hội nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam (2001), Luật số 32/2001/QH10 ban hành về Luật tổ chức Chính phủ, Hà Nội. 164 57. Quốc hội nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam (2003), Hiến pháp nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam năm 1992 sửa đổi, bổ sung theo Nghị quyết số 51/2001/QH10 ngày 25/12/2001 của Quốc hội khóa X, Nxb Hà Nội. 58. Quốc hội nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam (2004), Luật Khiếu nại, tố cáo, Hà Nội. 59. Quốc hội nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam (2005), Luật Phòng, chống tham nhũng, Hà Nội. 60. Quốc hội nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam (2012), Luật phòng, chống tham nhũng năm 2012, Hà Nội. 61. Nguyễn Cảnh Quý (chủ nhiệm) (2017), Giải pháp đột phá đấu tranh phòng, chống hiệu quả tham nhũng trong bộ máy nhà nước ở Việt Nam hiện nay, Đề tài khoa học cấp Bộ. 62. Rick Stapenhurst, Sahr J. Kpundeh (chủ biên) (2002), Sách, Ngân hàng thế giới: Kiềm chế tham nhũng hướng tới một mô hình xây dựng sự trong sạch quốc gia, Trần Thị Thái Hà biên dịch, Nxb Chính trị quốc gia xuất bản, Hà Nội. 63. Nguyễn Quốc Sửu, Phòng, chống tham nhũng trong hoạt động công vụ ở Việt Nam - Lý luận và thực tiễn, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội. 64. Tạ Ngọc Tấn (2006), "Giám sát xã hội như một giải pháp phòng, chống tham nhũng, lãng phí", Tạp chí Cộng sản, (16). 65. Quách Lê Thanh (1997), Đấu tranh chống tham nhũng: những vấn đề lý luận và giải pháp thực tiễn, Đề tài khoa học KXBĐ02, Hà Nội. 66. Thanh tra Chính phủ (2007), Luận cứ khoa học cho việc xây dựng chiến lược phòng ngừa và nâng cao hiệu quả đấu tranh phòng, chống tham nhũng ở Việt Nam cho đến năm 2020, Đề tài độc lập cấp nhà nước, Viện Khoa học Thanh tra, Hà Nội. 67. Thanh tra Chính phủ (2007), Báo cáo tổng kết công tác năm 2007 và phương hướng, nhiệm vụ năm 2008, Hà Nội. 68. Thanh tra Chính phủ (2008), Báo cáo tổng kết công tác năm 2008 và phương hướng, nhiệm vụ năm 2009, Hà Nội. 69. Thanh tra Chính phủ (2009), Báo cáo tổng kết công tác năm 2009 và phương hướng, nhiệm vụ năm 2010, Hà Nội. 70. Tôn Xuân Thần (2017), Chế độ chống tham nhũng từ sau Đại hội XVIII của Đảng Cộng sản Trung Quốc sáng tạo lý luận và thực tiễn, Viện khoa học xã hội Trung Quốc. 165 71. Thông tấn xã Việt Nam (2014), Những vấn đề lý luận của Đại hội XVI của Đảng Cộng sản Trung Quốc, Nxb Khoa học xã hội, Hà Nội. 72. Lê Minh Thông (2007), Cơ sở lý luận về tổ chức và hoạt động của hệ thống chính trị trong quá trình xây dựng chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội. 73. Cao Văn Thống (2017), “Công tác giám của Ủy ban Kiểm tra - Kỷ luật Đảng Cộng sản Trung Quốc”, Tạp chí Kiểm tra, (11), tr.53-55. 74. Tô Quang Thu (2016), Phát hiện và thu hồi tài sản do tham nhũng mà có - Thực trạng và giải pháp, Đề tài khoa học cấp bộ KHBĐ-08. 75. Tạ Thu Thủy (chủ nhiệm) (2015), Phòng, chống tham nhũng trong các cơ quan thực hiện chức năng phòng, chống tham nhũng, Đề tài khoa học cấp Bộ, Thanh tra Chính phủ, Hà Nội. 76. Trần Văn Tĩnh (2011), Công tác kiểm tra, giám sát của Đảng đối với hoạt động của các cơ quan hành chính nhà nước cấp trung ương ở Việt Nam hiện nay, Luận văn thạc sĩ Luật, Hà Nội. 77. Trần Văn Tĩnh (2011), "Tăng cường vai trò công tác kiểm tra, giám sát của Đảng trong đấu tranh phòng, chống tham nhũng giai đoạn hiện nay", Tạp chí Thanh tra, (7), tr.6-8. 78. Trần Văn Tĩnh (2017), "Công tác kiểm tra của Đảng trong phòng, chống tham nhũng ở các cơ quan hành chính nhà nước cấp trung ương", Tạp chí Cộng sản, (900), tr.22-28. 79. Trần Văn Tĩnh (2017), "Công tác kiểm tra của Đảng Cộng sản Việt Nam với vấn đề trong phòng, chống tham nhũng ở các cơ quan hành chính nhà nước cấp trung ương", Tạp chí Giáo dục lý luận, (266), tr.96-101. 80. Hà Mạnh Trí (2017), "Tăng cường sự phối hợp giữa công tác kiểm tra của Đảng và công tác kiểm sát của ngành kiểm sát nhân dân", Tạp chí Kiểm tra, tr.22-25. 81. Mai Trực (chủ nhiệm) (2016), Công tác kiểm tra, giám sát và kỷ luật Đảng với kiểm soát quyền lực ở nước ta theo tinh thần Đại hội XII của Đảng, Đề tài khoa học cấp bộ KHBĐ-21, Ủy ban Kiểm tra Trung ương. 82. Nguyễn Xuân Trường, Nguyễn Thùy Dung (2015), “Một số vấn đề về công tác kiểm tra, giám sát của Đảng trong phòng, chống tham nhũng”, Thông tin điện tử của Ban Nội chính Trung ương, ngày 21-02. 83. Nguyễn Văn Tuấn (2015), Vai trò của các cơ quan Thanh tra nhà nước trong kiểm soát việc thực hiện quyền hành pháp ở Việt Nam, Luận án tiến sĩ Luật học, Học viện Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh, Hà Nội. 166 84. Vũ Quốc Tuấn (2006), "Chống tham nhũng xét từ góc độ quyền lực", Báo Doanh nhân Sài Gòn, ngày 28/9. 85. Ủy ban Kiểm tra Đảng ủy Khối các cơ quan Trung ương (2010), Báo cáo về tổng kết công tác kiểm tra, giám sát và thi hành kỷ luật trong Đảng nhiệm kỳ 2007 - 2010, Hà Nội. 86. Ủy ban Kiểm tra Đảng ủy Khối các cơ quan Trung ương (2015), Báo cáo về tổng kết công tác kiểm tra, giám sát và thi hành kỷ luật trong Đảng nhiệm kỳ 2010 - 2015, Hà Nội. 87. Uỷ ban Kiểm tra Trung ương (2000), Báo cáo thực trạng tệ quan liêu, tham nhũng và cuộc đấu tranh chống tệ quan liêu, tham nhũng trong Đảng thời gian qua (1996-2000), Hà Nội. 88. Uỷ ban Kiểm tra Trung ương (2006), Đổi mới công tác kiểm tra, kỷ luật của Đảng nhằm nâng cao sức chiến đấu của Đảng trong giai đoạn cách mạng mới, Đề tài cấp Nhà nước, Hà Nội. 89. Uỷ ban Kiểm tra Trung ương (2009), Công tác kiểm tra, giám sát của Đảng với phòng, chống tham nhũng trong tình hình hiện nay: Thực trạng và giải pháp, Đề tài khoa học KHBĐ-46, Hà Nội. 90. Uỷ ban Kiểm tra Trung ương (2010), Báo cáo số 391-BC/UBKTTW về tổng kết thực hiện Quy chế làm việc của Ủy ban kiểm tra Trung ương khóa X, Hà Nội. 91. Uỷ ban Kiểm tra Trung ương (2010), Báo cáo về tổng kết công tác kiểm tra, giám sát và thi hành kỷ luật trong Đảng nhiệm kỳ Đại hội X của Đảng (2006-2010), Hà Nội. 92. Uỷ ban Kiểm tra Trung ương (2015), Báo cáo tổng kết công tác kiểm tra, giám sát và thi hành kỷ luật trong Đảng nhiệm kỳ Đại hội XI của Đảng (2011-2015), Hà Nội. 93. Ủy ban Kiểm tra Trung ương (2015), Báo có tổng kết 10 năm thực hiện Luật phòng, chống tham nhũng của Ủy ban kiểm tra Trung ương (2006 - 2015), Hà Nội. 94. Uỷ ban Kiểm tra Trung ương (2015), Báo cáo số 327-BC/UBKTTW về tổng kết thực hiện Quy chế làm việc của Ủy ban kiểm tra Trung ương khóa XI, Hà Nội. 95. Uỷ ban Kiểm tra Trung ương (2015), Báo cáo số 323-BC/UBKTTW về tổng kết 10 năm thực hiện Luật phòng, chống tham nhũng, Hà Nội. 96. Ủy ban Kiểm tra Trung ương (2016), Báo cáo kết quả công tác kiểm tra, giám sát và thi hành kỷ luật trong Đảng năm 2016, phương hướng, nhiệm vụ năm 2017, Hà Nội. 167 97. Ủy ban Kiểm tra Trung ương (2017), Báo cáo kết quả công tác kiểm tra, giám sát và thi hành kỷ luật trong Đảng năm 2017, phương hướng, nhiệm vụ năm 2018, Hà Nội. 98. Ủy ban Kiểm tra Trung ương (2018), Báo cáo kết quả công tác kiểm tra, giám sát và thi hành kỷ luật trong Đảng năm 2018, phương hướng, nhiệm vụ năm 2019, Hà Nội. 99. Văn phòng Ban Chỉ đạo Trung ương về phòng, chống tham nhũng - Thanh tra Chính phủ - Đại sứ quán Thụy Điển tại Việt Nam: Thông cáo báo chí tại cuộc đối thoại về phòng, chống tham nhũng lần thứ ba, tháng 6/2008, Hà Nội. 100. Hồng Vĩ (2007), Tham nhũng và biện pháp chống tham nhũng ở Trung Quốc, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội. 101. Viện Ngôn ngữ học, Trung tâm Khoa học xã hội và Nhân văn quốc gia (2002), Từ điển Pháp - Việt, Nxb Thành phố Hồ Chí Minh, Thành phố Hồ Chí Minh. 102. Viện Ngôn ngữ học (2004), Từ điển tiếng Việt, Nxb Đà Nẵng, Đà Nẵng. 103. Vinay Bhargava, Emil Bolongaita (2003), Sách Ngân hàng thế giới: Đương đầu với tham nhũng ở châu Á - Những bài học thực tế và khuôn khổ hành động. Thanh tra Chính phủ phối hợp với Nxb Tư pháp, Hà Nội. 104. Tào Vĩnh (2017), Những thành tựu và kinh nghiệm trong công tác chống tham nhũng của Đảng Cộng sản Trung Quốc từ Đại hội XVIII đến nay, Viện khoa học xã hội Trung Quốc. 105. Vu Ka Vai (2001), Role of Ombudsman in Combating Corruption (Vai trò của Thanh tra trong đấu tranh chống tham nhũng). 106. Nguyễn Xuân Yên, Nguyễn Hòa Bình và Bùi Minh Thanh (đồng chủ biên) (2007), Phòng, chống tham nhũng ở Việt Nam và thế giới, Nxb Công an nhân dân, Hà Nội. Tài liệu trên website: 107. nhung. 108. tham-nhung.html. 109. dich-chong-tham-nhung-520067 110. tra.html. 168 PHỤ LỤC NỘI DUNG TRAO ĐỔI, PHỎNG VẤN CHUYÊN GIA Về phòng, chống tham nhũng trong bộ máy nhà nƣớc và các cơ quan hành chính nhà nƣớc cấp trung ƣơng thông qua công tác kiểm tra của Đảng I. ĐỐI TƢỢNG PHỎNG VẤN 1. Một số đồng chí là thành viên UBKT Trung ương (phó chủ nhiệm và Ủy viên UBKT Trung ương) và lãnh đạo một số ban đảng Trung ương (kể cả một số đồng chí đã chuyển công tác hoặc nghỉ hưu): Số đối tượng này thực hiện phóng vấn là 15 đồng chí. 2. Một số đồng chí là bí thư đảng ủy các bộ, ngành cơ quan hành chính nhà nước trung ương (các đồng chí đối tượng này cơ bản giữ chức vụ chính quyền là thứ trưởng và tương đương): Số đối tượng này thực hiện phỏng vấn là 10 đồng chí. 3. Một số đối tượng là Bí thư, Phó bí thư Đảng Khối các cơ quan Trung ương: Số đối tượng này thực hiện phỏng vấn là 05 đồng chí. Tổng số đối tƣợng thực hiện phỏng vấn là 30 đồng chí II. HÌNH THỨC PHỎNG VẤN Thực hiện phỏng vấn cá nhân (trao đổi trực tiếp hoặc qua điện thoại), gồm các hình thức sau: + Phỏng vấn bán tiêu chuẩn: có một số câu hỏi có tính chất quyết định được tiêu chuẩn hóa, còn các câu hỏi khác có thể phát biểu tùy tình hình cụ thể. + Phỏng vấn sâu: thực hiện phỏng vấn lấy ý kiến chuyên gia đi sâu vào một số nội dung. III. NỘI DUNG PHỎNG VẤN Về cơ chế thành lập UBKT cấp ủy; xây dụng mô hình sát nhập UBKT với Thanh tra, Nội chính; bổ sung quy định, cơ chế UBKT cáp ủy thực hiện PCTN và giám sát, kiểm soát quyền lực; nghiên cứu xây dựng Luật Giám sát và cơ quan Giám sát; mô hình về tổ chức bộ máy của UBKT cấp ủy trong các bộ, ngành trung ương đáp ứng yêu càu nhiệm vụ. IV. CÂU HỎI PHỎNG VẤN Kính thưa đồng chí! Đấu tranh PCTN trong bộ máy nhà nước nói chung và trong các cơ quan hành chính nhà nước trung ương nói riêng thông qua công tác kiểm tra của Đảng trong những năm qua đạt được kết quả quan trọng. Tuy nhiên, trong điều kiện Đảng cầm quyền mọi tổ 169 chức đảng, đảng viên trong bộ máy nhà nước và các cơ hành chính nhà nước cấp trung ương đều chịu sự kiểm tra, giám sát của Đảng. Nhưng trên thực tế còn nhiều bất cập, tồn tại, do vậy cần phải nghiên cứu có cơ chế pháp lý và tổ chức bộ máy phù hợp đáp ứng yêu cầu nhiệm vụ trong tình hình hiện nay. Vì vậy chúng tôi triển khai đề tài PCTN trong các cơ quan hành chính nhà nước cấp trung ương thông qua công tác kiểm tra của Đảng, để có cơ sở căn cứ đề xuất xây dựng cơ sở lý luận và giải pháp nâng cao chất lượng công tác này. Với mục đích đó kính đề nghị các đồng chí cho biết những ý kiến, quan điểm, chính kiến của mình theo một số nội dung cơ bản sau, đồng thời có thêm những ý kiến trao đổi cụ thể về những vấn đề cần quan tâm, để giúp chúng tôi có thông tin quý báu cần thiết. Xin trân trọng cảm ơn các đồng chí! Câu hỏi 1: Xin đồng chí cho biết ý kiến của mình theo các mô hình sau về cơ chế thành lập UBKT cấp ủy hiện nay để bảo thực hiện công tác kiểm tra, giám sát nói chung và thực hiện có hiệu quả việc PCTN hiện nay? Cơ chế thành lập UBKT cấp ủy Đồng ý Không đồng ý Lý do UBKT cấp ủy do cấp ủy bầu (như hiện nay) UBKT cấp ủy do đại hội bầu Ý kiến khác (nêu rõ ý kiến) Câu hỏi 2: Xin đồng chí cho biết ý kiến của mình theo các mô hình sau về việc sát nhập UBKT cấp ủy với các cơ quan có chức năng tương đồng để bảo thực hiện tốt nhiệm vụ và thực hiện có hiệu quả việc PCTN, giám sát kiểm soát quyền lực trong tình hình hiện nay? Mô hình sát nhập Đồng ý Không đồng ý Lý do UBKT với Thanh tra nhà nước UBKT với ban nội chính và Thanh tra nhà nước Ý kiến khác (nêu rõ ý kiến) 170 Câu hỏi 3: Xin đồng chí cho biết ý kiến của mình về cơ chế để thực hiện có hiệu quả Quy định số 01-Qđi/TW, ngày 10/5/2018 của Bộ Chính trị quy định về trách nhiệm và thẩm quyền của UBKT trong công tác PCTN hiện nay? Vấn đề này hiện này tuy Bộ Chính trị đã ban hành quy định, nhưng để thực hiện cần có quy đinh và cơ chế như sau: Yêu cầu xây dựng cơ chế Nội dung cơ bản cơ chế Đồng ý Không đồng ý Ý kiến khác 1. Bổ sung quy định của Đảng - Đưa chức năng, nhiệm vụ về PCTN của UBKT vào Điều lệ Đảng. - Xây dựng quy định cụ thể về hành vi vi phạm. 2. Xây dựng tổ chức bộ máy - Thành lập Cục PCTN đối với UBKT Trung ương. - Phòng PCTN đối với UBKT tỉnh ủy, thành ủy. 3. Xây dựng cơ chế và chế tài về xử lý vi phạm - Bổ sung xem xét xử lý đơn thư tố cáo nặc danh với nội dung có vi phạm, địa chỉ cụ thể. - Có chế tài xử lý cụ thể hành vi vi phạm đối với kỷ luật Đảng, chính quyền và PL. Câu hỏi 4: Xin đồng chí cho biết ý kiến của mình về cơ chế để cấp ủy, UBKT cấp ủy thực hiện có hiệu quả giám sát, kiểm soát quyền lực? Theo một số vấn đề sau: Nội dung này nghiên cứu thực hiện thành hai bước theo nội dung sau: Bước 1: xây dựng thực các nội dung sau: Yêu cầu xây dựng cơ chế Nội dung cơ bản cơ chế Đồng ý Không đồng ý Ý kiến khác 1. Xây dựng quy định của của Đảng về trách nhiệm, thẩm quyền của UBKT cấp ủy trong việc giám sát, kiểm soát quyền lực. - Xây dựng ban hành quy định về thẩm quyền và trách nhiêm của UBKT trong giám sát, kiểm soát quyền lực. - Đưa chức năng, nhiệm vụ về giám sát, kiểm soát quyền lực của UBKT vào Điều lệ Đảng. - Xây dựng quy định cụ thể về hành vi vi phạm. 2. Xây dựng tổ chức bộ máy - Thành lập Cục Giám sát đối với UBKT Trung ương. - Phòng Giám sát đối với UBKT tỉnh ủy, thành ủy. 3. Xây dựng cơ chế và chế tài xử lý vi phạm. - Xây dựng Điều lệ giám sát. - Có chế tài xử lý cụ thể hành vi vi phạm đối với kỷ luật Đảng, chính quyền và PL. 171 Bước 2: xây dựng thực các nội dung sau: 1. Nghiên cứu xây dựng Luật Gám sát. Về nội dung pháp lý Yêu cầu tính pháp lý và cơ chế thực hiện Đồng ý Không đồng ý Ý kiến khác Thẩm quyền ban hành Quốc hội thông qua Thẩm quyền thực hiện Thanh tra, kiểm tra, khởi tố hành vi vi phạm Đối tượng thực hiện Cán bộ, công chức trong bộ máy nhà nước và hệ thống chính trị Phạm vi thực hiện Giám sát hoạt động các bộ, cơ quan ngang bộ, chính quyền địa phương và các tập đoàn kinh tế nhà nước 2. Nghiên cứu thành lập Ủy ban Giám sát Quốc gia. Về nội dung pháp lý Yêu cầu tính pháp lý và cơ chế thực hiện Đồng ý Không đồng ý Ý kiến khác Thẩm quyền phê duyệt Quốc hội phê chuẩn Thẩm quyền thực hiện Thanh tra, kiểm tra, khởi tố hành vi vi phạm Đối tượng thực hiện Cán bộ, công chức trong bộ máy nhà nước và hệ thống chính trị Phạm vi thực hiện Giám sát hoạt động các bộ, cơ quan ngang bộ, chính quyền địa phương và các tập đoàn kinh tế nhà nước 172 Câu hỏi 5: Xin đồng chí cho biết ý kiến của mình về việc đề xuất xây dựng mô hình tổ chức và cơ chế của cấp ủy, UBKT cấp ủy trong các bộ, ngành trung ương bảo đảm hoạt động hiệu quả, theo định hướng sau: Xây dựng, điều chỉnh, bổ sung cơ chế pháp lý Đồng ý Không đồng ý Ý kiến khác 1. Xóa bỏ BCS đảng, đảng đoàn trong các bộ, ngành trung ương. 2. Chuyển giao chức năng, nhiệm vụ BCS đảng, đảng đoàn cho đảng ủy. 3. Bố trí nhất thể hóa chức danh lãnh đạo chủ chốt đảng và chính quyền trong các bộ, ngành trung ương (bộ trưởng, thủ trưởng cơ quan kiêm bí thư đảng ủy) 4. Bố trí một số chức danh chuyên trách của cấp ủy và UBKT cấp ủy để thực hiện có hiệu quả nhiệm vụ theo yêu cầu. 5. Có cơ chế để Trung ương Đảng lãnh đạo, chỉ đạo trực tiếp cấp ủy, lãnh đạo các bộ ngành trung ương. V. TỔNG HỢP KẾT QUẢ PHỎNG VẤN Câu hỏi 1: Xin đồng chí cho biết ý kiến của mình theo các mô hình sau về cơ chế thành lập UBKT cấp ủy hiện nay để bảo thực hiện công tác kiểm tra, giám sát nói chung và thực hiện có hiệu quả việc PCTN hiện nay? Nội dung này có các ý kiến như sau: Cơ chế thành lập UBKT cấp ủy Đồng ý Không đồng ý Lý do UBKT cấp ủy do cấp ủy bầu (như hiện nay) 4 13% 25 83% UKKT do đại hội bầu về danh nghĩa vẫn hoạt động dưới sự lãnh đạo của cấp ủy. UBKT cấp ủy do đại hội bầu 25 83% 4 13% UBKT sẽ độc lập hơn trong hoạt động Ý kiến khác (nêu rõ ý kiến) 1= 4% Cần có cơ quan khác do luật quy định, Quốc hội thông qua thực hiện giám sát BCH Trung ương. Cần có cơ chế khác 173 Câu hỏi 2: Xin đồng chí cho biết ý kiến của mình theo các mô hình sau về việc sát nhập UBKT cấp ủy với các cơ quan có chức năng tương đồng để bảo thực hiện tốt nhiệm vụ và thực hiện có hiệu quả việc PCTN, giám sát kiểm soát quyền lực trong tình hình hiện nay? Nội dung này có các ý kiến như sau: Mô hình sát nhập Đồng ý Không đồng ý Lý do UBKT với Thanh tra nhà nước 18 60% 10 33% Phù hợp thực hiện nhiệm vụ, nhất là PCTN UBKT với ban nội chính và Thanh tra nhà nước 10 33% 18 60% Phù hợp thực hiện nhiệm vụ, nhất là PCTN, giám sát kiểm soát quyền lực Ý kiến khác (nêu rõ ý kiến) 2 = 7% Giữ nguyên như hiện nay Chức năng thanh tra về nhà nước, kiểm tra trong đảng khó thực hiện. Câu hỏi 3: Xin đồng chí cho biết ý kiến của mình về cơ chế để thực hiện có hiệu quả Quy định số 01-Qđi/TW, ngày 10/5/2018 của Bộ Chính trị quy định về trách nhiệm và thẩm quyền của UBKT trong công tác PCTN hiện nay? Nội dung này có các ý kiến như sau: Yêu cầu xây dựng cơ chế Nội dung cơ bản cơ chế Đồng ý Không đồng ý Ý kiến khác 1. Bổ sung quy định của Đảng - Đưa chức năng, nhiệm vụ về PCTN của UBKT vào Điều lệ Đảng. - Xây dựng quy định cụ thể về hành vi vi phạm. 30 28 100% 93% 0 2 7% Thực hiên theo QĐ của đảng và nhà nước đã có 2. Xây dựng tổ chức bộ máy - Thành lập Cục PCTN đối với UBKT Trung ương. - Phòng PCTN đối với UBKT tỉnh ủy, thành ủy. 30 100% 0 3. Xây dựng cơ chế và chế tài về xử lý vi phạm - Bổ sung xem xét xử lý đơn thư tố cáo nặc danh với nội dung có vi phạm, địa chỉ cụ thể. - Có chế tài xử lý cụ thể hành vi vi phạm đối với kỷ luật Đảng, chính quyền và PL. 20 30 66% 10 0 33% Không phù hợp với Luật đã quy định 174 Câu hỏi 4: Xin đồng chí cho biết ý kiến của mình về cơ chế để cấp ủy, UBKT cấp ủy thực hiện có hiệu quả giám sát, kiểm soát quyền lực? Theo một số vấn đề sau: Nội dung này nghiên cứu thực hiện thành hai bước theo nội dung sau: Bước 1: Nội dung này các ý kiến như sau Yêu cầu xây dựng cơ chế Nội dung cơ bản cơ chế Đồng ý Không đồng ý Ý kiến khác 1. Xây dựng quy định của của Đảng về trách nhiệm, thẩm quyền của UBKT cấp ủy trong việc giám sát, kiểm soát quyền lực. - Xây dựng ban hành quy định về thẩm quyền và trách nhiêm của UBKT trong giám sát, kiểm soát quyền lực. - Đưa chức năng, nhiệm vụ về giám sát, kiểm soát quyền lực của UBKT vào Điều lệ Đảng. - Xây dựng quy định cụ thể về hành vi vi phạm. 25 (83%) 25 (83%) 30 5 (17%) 5 (17%) 0 Cần nghiên cứu kỹ hơn và có lựa chọn phù hợp với tình hình hiện nay. 2. Xây dựng tổ chức bộ máy - Thành lập Cục Giám sát đối với UBKT Trung ương. - Phòng Giám sát đối với UBKT tỉnh ủy, thành ủy. 30 (100%) 0 3. Xây dựng cơ chế và chế tài xử lý vi phạm. - Xây dựng Điều lệ giám sát. - Có chế tài xử lý cụ thể hành vi vi phạm đối với kỷ luật Đảng, chính quyền và PL. 30 (100%) 0 Bước 2: xây dựng thực các nội dung sau: 1. Nghiên cứu xây dựng Luật Gám sát. Nội dung này ý kiến nhƣ sau: Về nội dung pháp lý Yêu cầu tính pháp lý và cơ chế thực hiện Đồng ý Không đồng ý Ý kiến khác Thẩm quyền ban hành Quốc hội thông qua 20 (66%) 10 (33%) Cần nghiên cứu kỹ hơn và có lựa chọn phù hợp với tình hình hiện nay. Thẩm quyền thực hiện Thanh tra, kiểm tra, khởi tố hành vi vi phạm 20 (66%) 10 (33%) Đối tượng thực hiện Cán bộ, công chức trong bộ máy nhà nước và hệ thống chính trị 20 (66%) 10 (33%) Phạm vi thực hiện Giám sát hoạt động các bộ, cơ quan ngang bộ, chính quyền địa phương và các tập đoàn kinh tế nhà nước 20 (66%) 10 (33%) 175 2. Nghiên cứu thành lập Ủy ban Giám sát Quốc gia. Về nội dung pháp lý Yêu cầu tính pháp lý và cơ chế thực hiện Đồng ý Không đồng ý Ý kiến khác Thẩm quyền phê duyệt Quốc hội phê chuẩn 18 (60%) 12 (40%) Cần nghiên cứu kỹ hơn và có lựa chọn phù hợp với tình hình hiện nay. Thẩm quyền thực hiện Thanh tra, kiểm tra, khởi tố hành vi vi phạm 18 (60%) 12 (40%) Đối tượng thực hiện Cán bộ, công chức trong bộ máy nhà nước và hệ thống chính trị 18 (60%) 12 (40%) Phạm vi thực hiện Giám sát hoạt động các bộ, cơ quan ngang bộ, chính quyền địa phương và các tập đoàn kinh tế nhà nước 18 (60%) 12 (40%) Hai nội dung này một số ý đề nghị cần nghiên cứu kỹ hơn cả việc xây dựng Luật cũng như thành lập cơ quan giám sát, phù hợp với tình hình cụ thể, trong đó về thành lập cơ quan giám sát có có hai phương án, đó là: + Phương án 1: Thành lập cơ quan giám sát ở ba cấp trung ương, tỉnh và huyện, đối với trung ương thành lập Ủy ban Giám sát Quốc gia, do Quốc hội bầu, có thẩm quyền như biểu tổng hợp trên, Ủy ban Giám sát tỉnh và huyện do hội đồng nhân dân cùng cấp bầu, có thẩm quyền tương ứng. + Phương án 2: để giám sát quyền lực nhà nước cần có cơ chế và tổ chức giám sát trong Đảng, nhất là với Ban Chấp hành Trung ương, vì đây là khoảng trống quyền lực chưa được giám sát. Do vậy chỉ thành thành lập Ủy ban Giám sát Trung ương do Đại hội Đảng toàn quốc bầu, thực hiện giám sát đối với tập thể và cá nhân Ban Chấp hành Trung ương. Câu hỏi 5: Xin đồng chí cho biết ý kiến của mình về việc đề xuất xây dựng mô hình tổ chức và cơ chế của cấp ủy, UBKT cấp ủy trong các bộ, ngành trung ương bảo đảm hoạt động hiệu quả, theo định hướng sau: 176 Xây dựng, điều chỉnh, bổ sung cơ chế pháp lý Đồng ý Không đồng ý Ý kiến khác 1. Xóa bỏ BCS đảng, đảng đoàn trong các bộ, ngành trung ương. 17 (56%) 13 (44%) Một số nêu mô hình BCS đảng, đảng đoàn tuy có bất cập, nhưng vẫn phù hợp. 2. Chuyển giao chức năng, nhiệm vụ BCS đảng, đảng đoàn cho đảng ủy. 17 (56%) 13 (44%) 3. Bố trí nhất thể hóa chức danh lãnh đạo chủ chốt đảng và chính quyền trong các bộ, ngành trung ương (bộ trưởng, thủ trưởng cơ quan kiêm bí thư đảng ủy) 20 (66%) 10 (33%) Một số ý kiến nêu bộ trưởng, thủ trưởng cơ quan ngang bộ có nhiều việc, khó thực hiện 4. Bố trí một số chức danh chuyên trách của cấp ủy và UBKT cấp ủy để thực hiện có hiệu quả nhiệm vụ theo yêu cầu. 26 (86%) 4 (14%) Khi đã nhất thể hóa thì chỉ cần một số chức danh chuyên trách 5. Có cơ chế để Trung ương Đảng lãnh đạo, chỉ đạo trực tiếp cấp ủy, lãnh đạo các bộ ngành trung ương. 17 (56%) 13 (44%)

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • pdfluan_an_phong_chong_tham_nhung_trong_cac_co_quan_hanh_chinh.pdf
  • pdfscan_2020-03-25_154722_01.pdf
  • pdfTT (T.Viet).pdf