BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO BỘ TƯ PHÁP
TRƯỜNG ĐẠI HỌC LUẬT HÀ NỘI
LÒ CHÂU THỎA
PHỔ BIẾN, GIÁO DỤC PHÁP LUẬT
CHO ĐỒNG BÀO DÂN TỘC THÁI Ở TÂY BẮC VIỆT NAM
HIỆN NAY
LUẬN ÁN TIẾN SĨ LUẬT HỌC
HÀ NỘI - 2020
BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO BỘ TƯ PHÁP
TRƯỜNG ĐẠI HỌC LUẬT HÀ NỘI
LÒ CHÂU THỎA
PHỔ BIẾN, GIÁO DỤC PHÁP LUẬT
CHO ĐỒNG BÀO DÂN TỘC THÁI Ở TÂY BẮC VIỆT NAM
HIỆN NAY
Chuyên ngành : Lý luận và lịch sử nhà nước và pháp luật
Mã số : 9380106
LUẬN ÁN TIẾN SĨ LUẬT HỌC
Người hướng dẫn
218 trang |
Chia sẻ: huong20 | Ngày: 14/01/2022 | Lượt xem: 370 | Lượt tải: 1
Tóm tắt tài liệu Luận án Phổ biến, giáo dục pháp luật cho đồng bào dân tộc Thái ở Tây Bắc Việt Nam hiện nay, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
khoa học: 1. TS. Trần Đình Thắng
2. TS. Đỗ Xuân Lân
HÀ NỘI - 2020
LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan đây là công trình nghiên
cứu của riêng tôi. Các số liệu nêu trong luận
án là trung thực. Những kết luận khoa học của
luận án chưa từng được ai công bố trong bất
kỳ công trình nào khác.
TÁC GIẢ LUẬN ÁN
Lò Châu Thỏa
MỤC LỤC
Trang
MỞ ĐẦU 1
Chương 1: TỔNG QUAN TÌNH HÌNH NGHIÊN CỨU LIÊN QUAN
ĐẾN ĐỀ TÀI LUẬN ÁN 5
1.1. Tình hình nghiên cứu trong nước liên quan đến đề tài luận án 5
1.2. Tình hình nghiên cứu ở nước ngoài về những vấn đề có liên quan
đến đề tài 16
1.3. Đánh giá chung về tình hình nghiên cứu đề tài và các vấn đề cần
tiếp tục nghiên cứu 21
Chương 2: CƠ SỞ LÝ LUẬN VỀ PHỔ BIẾN, GIÁO DỤC PHÁP LUẬT
CHO ĐỒNG BÀO DÂN TỘC THÁI 26
2.1. Khái niệm, đặc điểm và vai trò của phổ biến, giáo dục pháp luật cho
đồng bào dân tộc Thái 26
2.2. Mục đích, chủ thể, đối tượng, nội dung và hình thức phổ biến, giáo
dục pháp luật cho đồng bào dân tộc Thái 39
2.3. Các yếu tố ảnh hưởng tới phổ biến, giáo dục pháp luật cho đồng
bào dân tộc Thái 52
Chương 3: ĐẶC ĐIỂM TỰ NHIÊN, KINH TẾ, VĂN HÓA, XÃ HỘI VÀ
THỰC TRẠNG PHỔ BIẾN, GIÁO DỤC PHÁP LUẬT CHO
ĐỒNG BÀO DÂN TỘC THÁI Ở TÂY BẮC VIỆT NAM
HIỆN NAY 64
3.1. Đặc điểm tự nhiên, kinh tế, văn hóa, xã hội vùng Tây Bắc 64
3.2. Thực trạng phổ biến, giáo dục pháp luật cho đồng bào dân tộc Thái
ở Tây Bắc 70
Chương 4: QUAN ĐIỂM VÀ GIẢI PHÁP PHỔ BIẾN, GIÁO DỤC
PHÁP LUẬT CHO ĐỒNG BÀO DÂN TỘC THÁI Ở TÂY
BẮC VIỆT NAM HIỆN NAY 112
4.2. Quan điểm phổ biến, giáo dục pháp luật cho đồng bào dân tộc Thái
ở Tây Bắc 112
4.3. Giải pháp phổ biến, giáo dục pháp luật cho đồng bào dân tộc Thái ở
Tây Bắc 117
KẾT LUẬN 151
CÁC CÔNG TRÌNH KHOA HỌC CỦA TÁC GIẢ ĐÃ CÔNG BỐ CÓ
LIÊN QUAN ĐẾN ĐỀ TÀI LUẬN ÁN 154
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO 155
PHỤ LỤC
DANH MỤC CÁC TỪ VIẾT TẮT
BCVPL : Báo cáo viên
CBCC : Cán bộ, công chức
DTTS : Dân tộc thiểu số
ĐBDT : Đồng bào dân tộc
ĐBDTTS : Đồng bào dân tộc thiểu số
GDPL : Giáo dục pháp luật
HĐND : Hội đồng nhân dân
PBGDPL : Phổ biến, giáo dục pháp luật
QPPL : Quy phạm pháp luật
TTVPL : Tuyên truyền viên pháp luật
UBND : Ủy ban nhân dân
XHCN : Xã hội chủ nghĩa
DANH MỤC CÁC BẢNG
Số hiệu
bảng
Tên bảng Trang
3.1 Tổng hợp kinh phí cho công tác PBGDPL của 6 tỉnh Tây Bắc
giai đoạn từ 2010-2019
93
3.2 Tổng hợp kinh phí cho công tác PBGDPL của 6 tỉnh Tây Bắc
giai đoạn từ 2003 - 2009
93
1
MỞ ĐẦU
1. Lý do của việc nghiên cứu đề tài
Hiện nay ở Việt Nam đang xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ
nghĩa (XHCN) của nhân dân, do nhân dân, vì nhân dân - một Nhà nước đề cao vai
trò của pháp luật trong mọi lĩnh vực của đời sống xã hội. Phổ biến, giáo dục pháp
luật (PBGDPL) được xác định là khâu đầu tiên của quá trình tổ chức thực hiện pháp
luật, là một trong những điều kiện căn bản để xây dựng xã hội pháp quyền dân chủ
và tăng cường pháp chế XHCN. PBGDPL cho nhân dân, trong đó có các đối tượng
đặc thù là người dân tộc thiểu số (DTTS) ở vùng núi, biên giới, vùng kinh tế đặc
biệt khó khăn là chủ trương lớn của Đảng, đã được các cấp chính quyền đặc biệt
quan tâm tổ chức thực hiện trên thực tiễn.
Đồng bào dân tộc (ĐBDT) Thái là dân tộc đứng thứ ba về số lượng trong
cộng đồng 54 dân tộc anh em ở Việt Nam với trên 1,8 triệu người, có mặt trên khắp
63 tỉnh, thành phố trên cả nước, nhưng cư trú tập trung hầu hết ở vùng Tây Bắc.
Người Thái có lịch sử cư trú lâu dài ở Tây Bắc trên một ngàn năm, có tiếng nói và
chữ viết riêng, có những đặc điểm rất riêng về văn hóa, tín ngưỡng, tập quán có ảnh
hưởng lớn đến văn hóa của các nhóm cư dân trong khu vực... Đặc biệt, trước năm
1945, ở Tây Bắc, với chính sách "nhu viễn" của triều đình phong kiến, người Thái
đã có hệ thống luật tục riêng được thể hiện bằng văn bản, và có hệ thống chức dịch
địa phương tổ chức thực hiện. Luật tục với lịch sử tồn tại và duy trì hàng mấy trăm
năm đã ăn sâu vào nếp sống, nếp nghĩ của đồng bào dân tộc Thái, rất cần có những
nghiên cứu khoa học từ góc độ Luật học để phát triển những giá trị tốt đẹp, phù hợp
pháp luật của luật tục, góp phần giải quyết hài hòa mối quan hệ giữa pháp luật và
luật tục, phong tục, tập quán và bài trừ, xóa bỏ những hủ tục, quy định trái pháp luật.
Tây Bắc Việt Nam là địa bàn có vị trí quan trọng về kinh tế - xã hội, an ninh
quốc phòng, là vị trí chiến lược, phên dậu quốc gia; vùng Tây Bắc có sự hiện diện của
42 dân tộc anh em, trong đó có 20 dân tộc có trên 500 người. Xét ở góc độ ngôn ngữ,
20 dân tộc này thuộc 7 nhóm ngôn ngữ khác nhau. Mỗi dân tộc ở Tây Bắc có nguồn
2
gốc, lịch sử khác nhau, có bản sắc văn hóa, các đặc điểm tâm lý riêng. Sự đa dạng này
của các dân tộc đã tạo nên một Tây Bắc với những sắc thái văn hóa độc đáo, đa dạng,
song nổi trội là không gian văn hóa Thái. Công tác PBGDPL ở Tây Bắc thời gian qua
đã đạt được nhiều thành tựu đáng khích lệ, tuy nhiên, tình trạng vi phạm pháp luật
do thiếu hiểu biết pháp luật, số lượng người mắc tệ nạn xã hội và tội phạm về ma
túy còn cao... đòi hỏi việc PBGDPL ở Tây Bắc cần có những mục tiêu, giải pháp cụ
thể phù hợp với đặc trưng riêng có của Tây Bắc và đối tượng là ĐBDT Thái để
PBGDPL, góp phần tích cực vào việc xây dựng nhà nước pháp quyền XHCN.
Phổ biến, GDPL là đề tài được rất nhiều học giả quan tâm trên các diễn đàn
khoa học trong và ngoài nước. Tuy nhiên, chưa có công trình nào nghiên cứu toàn
diện, có hệ thống về PBGDPL cho ĐBDT Thái ở Tây Bắc Việt Nam hiện nay.
Xuất phát từ thực trạng nêu trên, nghiên cứu sinh chọn đề tài "Phổ biến,
giáo dục pháp luật cho đồng bào dân tộc Thái ở Tây Bắc Việt Nam hiện nay" làm
đề tài luận án tiến sĩ luật học, chuyên ngành Lý luận và lịch sử nhà nước và pháp
luật với mong muốn đóng góp một phần nhỏ bé vào sự nghiệp chung.
2. Mục đích, nhiệm vụ nghiên cứu luận án
Mục đích của luận án là nghiên cứu toàn diện, có hệ thống các vấn đề lý
luận và thực tiễn về PBGDPL cho ĐBDT Thái ở Tây Bắc Việt Nam hiện nay, đề xuất
mục tiêu, quan điểm và giải pháp PBGDPL cho ĐBDT Thái ở Tây Bắc Việt Nam.
Để đạt được mục đích trên, luận án có các nhiệm vụ:
- Đánh giá tổng quan tình hình nghiên cứu về đề tài PBGDPL nói chung và
cho ĐBDT Thái ở Tây Bắc nói riêng; chỉ ra những kết quả đã đạt được và dự kiến
những vấn đề cần tiếp tục nghiên cứu.
- Nghiên cứu, làm sáng tỏ cơ sở lý luận về PBGDPL cho ĐBDT Thái, bao
gồm: Khái niệm, đặc điểm, vai trò và các yếu tố ảnh hưởng đến PBGDPL cho
ĐBDT Thái ở Tây Bắc.
- Nghiên cứu, làm sáng tỏ cơ sở thực tiễn PBGDPL cho ĐBDT Thái ở Tây
Bắc bám sát các đặc điểm về tự nhiên, kinh tế, văn hóa, xã hội ở Tây Bắc, nhất là sự
tác động của các yếu tố khách quan, chủ quan đến thực trạng PBGDPL ở Tây Bắc.
3
- Dựa trên các vấn đề lý luận và thực tiễn, luận án xác định mục tiêu, xây
dựng các quan điểm và đề xuất các giải pháp PBGDPL cho ĐBDT thái ở Tây Bắc
thời gian tới.
3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu của luận án
Đối tượng nghiên cứu của luận án là những vấn đề lý luận và thực tiễn về
PBGDPL cho ĐBDT Thái ở Tây Bắc Việt Nam dưới góc độ Lý luận và lịch sử nhà
nước và pháp luật.
Phạm vi nghiên cứu của luận án: PBGDPL cho người dân nói chung là vấn
đề rất rộng. Do vậy, luận án chỉ nghiên cứu cơ sở lý luận và thực tiễn về PBGDPL
cho ĐBDT Thái ở Tây Bắc Việt Nam (gồm 06 tỉnh: Hòa Bình, Sơn La, Điện Biên,
Lai Châu, Lào Cai, Yên Bái).
Về thời gian, luận án nghiên cứu về hoạt động PBGDPL từ năm 2012 (thời
điểm triển khai thực hiện Luật PBGDPL) đến nay.
4. Cơ sở lý luận và phương pháp nghiên cứu của luận án
Đề tài được nghiên cứu dựa trên cơ sở lý luận của chủ nghĩa Mác - Lênin, tư
tưởng Hồ Chí Minh và đường lối, quan điểm của Đảng về Nhà nước và pháp luật, về
chính sách đối với đồng bào dân tộc thiểu số (ĐBDTTS) ở nước ta.
Phương pháp nghiên cứu: Luận án sử dụng phương pháp logic - lịch sử để
nghiên cứu chương 1, 2 và 3 để nghiên cứu tổng quan tình hình nghiên cứu đề tài,
cơ sở lý luận, thực trạng PBGDPL ở Tây Bắc thời gian qua; phương pháp hệ thống -
cấu trúc, quy nạp, diễn dịch để nghiên cứu chương 2, 3 và 4; phương pháp phân tích
tổng hợp tại tất cả các chương; khái quát hóa, trừu tượng hóa tại chương 2, 3; luật
học so sánh tại chương 1 và 2, phương pháp nghiên cứu tài liệu, phân tích thực tiễn
và các phương pháp của xã hội học pháp luật được sử dụng tại chương 1, 2 và 3 của
luận án.
5. Những đóng góp mới về khoa học của luận án
Luận án là tài liệu chuyên khảo đầu tiên ở nước ta nghiên cứu về PBGDPL
cho ĐBDT Thái ở Tây Bắc Việt Nam một cách toàn diện, có hệ thống và có các
điểm mới sau:
4
Một là, đánh giá khái quát tình hình nghiên cứu đề tài, chỉ ra những kết quả
đã được nghiên cứu và những vấn đề cần tiếp tục nghiên cứu.
Hai là, xây dựng cơ sở lý luận về PBGDPL cho ĐBDT Thái như: Khái
niệm, đặc điểm, vai trò và các yếu tố ảnh hưởng đến PBGDPL cho ĐBDT Thái.
Ba là, lần đầu tiên thực trạng PBGDPL cho ĐBDT Thái ở Tây Bắc Việt
Nam hiện nay được phân tích, đánh giá một cách khoa học dưới tác động của nhân
tố khách quan, chủ quan (kết quả đã đạt được, tồn tại, hạn chế, nguyên nhân) làm
tiền đề thực tiễn để rút ra bài học kinh nghiệm và đề xuất giải pháp khắc phục.
Bốn là, luận án đưa ra quan điểm và đề xuất giải pháp PBGDPL cho ĐBDT
Thái ở Tây Bắc Việt Nam hiện nay.
6. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn của luận án
- Luận án là công trình khoa học đầu tiên ở nước ta nghiên cứu tương đối
toàn diện, có hệ thống về cơ sở lý luận và thực tiễn về PBGDPL cho ĐBDT Thái ở
Tây Bắc Việt Nam hiện nay. Vì vậy, luận án góp phần bổ sung vào hệ thống lý luận
về GDPL nói chung, cho nhóm đối tượng, địa bàn đặc thù nói riêng. Đây là tài liệu
có ý nghĩa tham khảo về phương diện lý luận và thực tiễn cho quá trình xây dựng và
hoàn thiện chính sách, pháp luật cũng như cơ chế tổ chức, triển khai thực hiện công
tác PBGDPL cho người dân ở Tây Bắc và các địa phương có đối tượng, điều kiện
kinh tế - xã hội tương đồng.
- Luận án có thể dùng làm tài liệu tham khảo cho việc nghiên cứu các vấn
đề lý luận và thực tiễn về PBGDPL; PBGDPL đối với các địa bàn, đối tượng đặc
thù. Luận án có thể là tài liệu tham khảo trong quá trình giảng dạy môn học Nghiệp
vụ PBGDPL, Lý luận chung về nhà nước và pháp luật, GDPL trong các cơ sở giáo
dục, đào tạo, cơ sở nghiên cứu; trong các lớp tập huấn, bồi dưỡng kỹ năng, nghiệp
vụ PBGDPL.
7. Kết cấu của luận án
Ngoài phần mở đầu, kết luận, danh mục tài liệu tham khảo và phụ lục, nội
dung của luận án gồm 4 chương, 12 tiết.
5
Chương 1
TỔNG QUAN TÌNH HÌNH NGHIÊN CỨU
LIÊN QUAN ĐẾN ĐỀ TÀI LUẬN ÁN
1.1. Tình hình nghiên cứu trong nước liên quan đến đề tài luận án
Vấn đề PBGDPL nói chung, PBGDPL cho những đối tượng xã hội cụ thể
trong những năm qua đã được nhiều nhà khoa học ở trong nước và nước ngoài, tác
giả của những cuốn sách chuyên khảo, bài báo khoa học, đề tài nghiên cứu khoa học
đề cập, luận giải, phân tích ở những cấp độ, phương diện khác nhau và đã đạt được
nhiều kết quả quan trọng. Liên quan đến đề tài luận án, có ba nhóm công trình
nghiên cứu sau đây: a) Nhóm 1: các công trình nghiên cứu về PBGDPL nói chung
và PBGDPL cho các nhóm đối tượng xã hội nói riêng; b) Nhóm 2: các công trình
nghiên cứu về dân tộc Thái nói chung, ĐBDT Thái ở Tây Bắc Việt Nam nói riêng;
c) Nhóm 3: các công trình nghiên cứu về Tây Bắc, PBGDPL cho ĐBDT Thái ở Tây
Bắc Việt Nam.
1.1.1. Nhóm các công trình về phổ biến, giáo dục pháp luật nói chung
Phổ biến, GDPL là chủ đề được nhiều nhà nghiên cứu quan tâm nghiên
cứu. Dưới góc độ lý luận, từ trước năm 1980 các tác giả trong và ngoài nước chủ
yếu đề cập đến GDPL và GDPL cho các nhóm đối tượng cụ thể, còn phổ biến pháp
luật chưa được đề cập nhiều. Từ sau khi có Chỉ thị số 32-CT/TƯ ngày 09/12/2003
về tăng cường sự lãnh đạo của Đảng trong công tác PBGDPL, nâng cao ý thức chấp
hành pháp luật của cán bộ, nhân dân, và Luật PBGDPL năm 2011 được ban hành,
cụm từ "phổ biến, giáo dục pháp luật" được đề cập nhiều hơn; đã có một số công
trình nghiên cứu, bài viết đăng trên các tạp chí khoa học chuyên ngành về GDPL,
PBGDPL, cụ thể là:
Các luận án Phó tiến sĩ: "Ý thức pháp luật và giáo dục pháp luật ở Việt
Nam" của Nguyễn Đình Lộc thực hiện năm 1978 tại Trường Đại học Tổng hợp
Matxcơva" [70]; "Ý thức pháp luật và pháp chế xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam" của
Vũ Đức Khiển thực hiện năm 1982 tại Viện Hàn lâm Khoa học xã hội thuộc Ban
6
Chấp hành Trung ương Đảng Cộng sản Liên Xô [65]; Đề tài cấp Nhà nước, mã số
KX 07-17 "Xây dựng ý thức và lối sống tuân theo pháp luật" do GS.TSKH Đào Trí Úc
làm chủ nhiệm (1995) có thể được coi là những công trình nghiên cứu sớm nhất về ý
thức pháp luật, mở ra một hướng nghiên cứu cơ bản trong khoa học pháp lý Việt Nam.
Kế đó là các công trình nghiên cứu nhiều mặt về ý thức pháp luật của tác giả Hoàng
Thị Kim Quế "Bàn về ý thức pháp luật", Tạp chí Luật học, số 1/2003, Vũ Minh
Giang "Xây dựng lối sống theo pháp luật - nhìn từ góc độ lịch sử truyền thống", Tạp
chí Nhà nước và pháp luật, số 1/1993. Với cách tiếp cận đó, hầu hết các nghiên cứu
về GDPL, phổ biến pháp luật đều bắt đầu từ việc nghiên cứu, đánh giá về thực trạng
ý thức pháp luật, cấu trúc của ý thức pháp luật và ảnh hưởng của ý thức pháp luật
đối với việc xây dựng chương trình và xác định hình thức, phương thức GDPL.
GS.TSKH Đào Trí Úc với hai chuyên khảo rất có giá trị, cả về mặt lý luận
và thực tiễn: "Những vấn đề lý luận cơ bản về pháp luật" [120] và "Nhà nước và
pháp luật của chúng ta trong sự nghiệp đổi mới" [122]. Trong các chuyên khảo này,
tác giả đã làm rõ các kênh phổ biến pháp luật, đặt phổ biến pháp luật trong quan hệ
với xây dựng ý thức, lối sống tuân theo pháp luật và nhấn mạnh sự hiểu biết pháp
luật của nhân dân là yếu tố đầu tiên để hình thành ý thức pháp luật; pháp luật phải
qua nhiều hình thức khác nhau mới đến được với người dân và trở thành sự hiểu
biết về pháp luật, tri thức pháp luật [122, tr. 633]. Một trong những nội dung quan
trọng về ý thức pháp luật được các tác giả đề cập đến trong các công trình của mình
là hiện tượng coi thường pháp luật và nguồn gốc, nguyên nhân của nó trong xã hội
nước ta. Theo các tác giả, hiện tượng đó bắt nguồn từ nhiều phía: do các yếu tố lịch
sử: sự áp bức của thực dân - phong kiến đã tạo nên sự phủ nhận những gì đi liền với
sự áp bức đó, là công cụ cho sự áp bức đó, trong đó có pháp luật; tâm lý của những
người dân "sống sau lũy tre xanh" coi trọng lệ làng hơn phép nước; sự tồn tại quá
lâu của cơ chế hành chính, quan liêu, bao cấp trong đời sống xã hội, trong quản lý
kinh tế v.v... [54], [63], [70], [122].
Chuyên đề nghiên cứu chuyên sâu các vấn đề lý luận về PBGDPL có đề tài
nghiên cứu khoa học cấp Bộ do Viện Nghiên cứu khoa học pháp lý và Vụ
7
PBGDPL, Bộ Tư pháp phối hợp thực hiện: Một số vấn đề lý luận và thực tiễn về
phổ biến, giáo dục pháp luật trong công cuộc đổi mới [136]. Từ kết quả nghiên cứu
của đề tài trên, Bộ Tư pháp đã xuất bản số chuyên đề rất có giá trị: "Tuyên truyền
giáo dục pháp luật" [134]. Theo ấn phẩm này, các vấn đề lý luận cơ bản về GDPL
đã được nghiên cứu tương đối toàn diện và có hệ thống như bản chất, mục đích, vai
trò, chủ thể, khách thể, đối tượng của GDPL. Nhận diện và làm rõ nội dung, hình
thức, phương tiện, phương pháp và hiệu quả của GDPL.
Tác giả Trần Ngọc Dũng nghiên cứu về GDPL gắn với quá trình thi hành
hiến chương ASEAN để làm rõ các vấn đề như vai trò của GDPL trong sự nghiệp
xây dựng Nhà nước pháp quyền, phát triển kinh tế - xã hội, tăng cường hội nhập
toàn diện của Việt Nam trong phạm vi ASEAN và quốc tế; phân tích, đánh giá
chính sách của Nhà nước Việt Nam về GDPL; làm rõ hệ thống và chương trình
GDPL của Việt Nam; chỉ ra những thành tựu, những khiếm khuyết, bất cập của sự
nghiệp GDPL Việt Nam trong những năm qua [36, tr. 19-22].
Trong khuôn khổ một bài viết, tác giả Hoàng Thị Kim Quế nhận diện và
làm rõ hơn về hiệu quả của PBGDPL ở nước ta hiện nay [85, tr. 39-45]. Tác giả
Nguyễn Thu Thủy phân tích, làm rõ các vấn đề liên quan đến chất lượng GDPL và
các tiêu chí đánh giá [101, tr. 28-33]. Có thể khẳng định các nghiên cứu này đã góp
phần bổ sung những thiếu hụt trong các nghiên cứu lý luận trước đây về GDPL.
Số chuyên đề Thực hiện Luật Phổ biến, giáo dục pháp luật [94], Tạp chí Dân
chủ và pháp luật phản ánh những thành tựu sau 3 năm đưa Luật PBGDPL vào đời
sống xã hội, phân tích những hạn chế, bất cập và nguyên nhân, để từ đó đưa ra những
giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả công tác PBGDPL ở nước ta trong thời gian tới.
Tài liệu tham khảo nội bộ của Vụ PBGDPL - Bộ Tư pháp Hoạt động phổ
biến, giáo dục pháp luật tại một số nước trên thế giới [139], (2013) giới thiệu công
tác PBGDPL cho các tầng lớp xã hội tại một số nước trên thế giới, như Cộng hòa
Pháp, Cộng hòa nhân dân Trung Hoa, Vương quốc Đan Mạch, Liên bang Nga,
Cộng hòa Liên bang Australia, Vương quốc Thái Lan, Singapor trên các phương
diện khác nhau, từ thể chế, chính sách, cơ cấu tổ chức, phương thức tổ chức thực
8
hiện và những hình thức PBGDPL của các quốc gia đó. Đây là tài liệu tham khảo
hữu ích đối với tác giả luận án trong việc khảo sát, đánh giá công tác PBGDPL của
các nước, đề xuất giải pháp có thể áp dụng cho Việt Nam
Cẩm nang lý luận về GDPL và PBGDPL cần kể đến hệ thống giáo trình của
các cơ sở đào tạo Luật như: Giáo trình Lý luận nhà nước và pháp luật [115], của
Trường Đại học Luật Hà Nội xuất bản năm 2016, Nhà xuất bản Công an nhân dân;
Trong Chương IX - Ý thức pháp luật, đưa ra khái niệm GDPL, mục đích của GDPL,
nội dung và hình thức GDPL. Giáo trình Công tác phổ biến, giáo dục pháp luật và
hòa giải ở cơ sở [116], của Trường Trung cấp Luật Thái Nguyên là học liệu dành
cho học viên học Trung cấp Luật tại các cơ sở đào tạo Trung cấp Luật thuộc Bộ Tư
pháp, cuốn sách đề cập hai nội dung cơ bản là PBGDPL và hòa giải ở cơ sở, các tác
giả đề cập đến các nội dung: Khái niệm, vai trò, nguyên tắc của PBGDPL, nội dung,
hình thức PBGDPL; xây dựng và thực hiện kế hoạch PBGDPL; nghiệp vụ thực hiện
một số hình thức PBGDPL; một số vấn đề chung về hòa giải ở cơ sở; nghiệp vụ hòa
giải ở cơ sở, đây là tài liệu cho học viên học nghề Luật, cách đề cập vấn đề ngắn
gọn, cụ thể theo hướng cầm tay, chỉ việc, là nguồn tư liệu để tác giả luận án sử dụng
để đề xuất các giải pháp mang tính chất nghiệp vụ PBGDPL cho đối tượng trực tiếp
thực hiện tham gia PBGDPL ở cơ sở.
1.1.2. Nhóm các công trình về phổ biến, giáo dục pháp luật cho các nhóm
đối tượng xã hội cụ thể, địa bàn cụ thể
Từ những công trình nghiên cứu về PBGDPL nói chung, vấn đề PBGDPL
cho từng đối tượng xã hội cụ thể và tại các địa bàn cụ thể cũng bắt đầu được triển
khai nghiên cứu. Có thể kể đến một số sách, đề tài khoa học, công trình nghiên cứu
như sau:
Luận án tiến sĩ Luật học của Vũ Thị Hoài Phương thực hiện năm 2009:
Giáo dục pháp luật trong các doanh nghiệp nhà nước ở Việt Nam [83]; qua nghiên
cứu GDPL cho các đối tượng trong doanh nghiệp nhà nước bao gồm người lao
động, cán bộ công đoàn, cán bộ chuyên môn nghiệp vụ, cán bộ quản lý trong doanh
nghiệp. Qua việc phân tích, đánh giá tình hình thực hiện pháp luật, luận án chứng
9
minh khá toàn diện thực trạng hoạt động GDPL cho người lao động và cán bộ công
đoàn, cán bộ quản lý trong các doanh nghiệp nhà nước. Tác giả đề xuất các nhóm
giải pháp gồm giải pháp về nâng cao vai trò và chất lượng của chủ thể GDPL.
Luận án tiến sĩ Luật học của Nguyễn Quốc Sửu thực hiện năm 2010: Giáo
dục pháp luật cho đội ngũ cán bộ, công chức hành chính trong điều kiện xây dựng
Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam; ngay trong phần Mở đầu luận án,
tác giả trích dẫn một đoạn trong bài văn bia do Thân Nhân Trung soạn và đề tại Văn
Miếu - Quốc Tử Giám: "Hiền tài là nguyên khí quốc gia, nguyên khí thịnh thì đất
nước mạnh và càng lớn mạnh, nguyên khí suy thì thế nước yếu mà càng xuống thấp.
Bởi vậy, các bậc vua tài giỏi đời xưa, chẳng có đời nào lại không chăm lo nuôi
dưỡng và đào tạo nhân tài, bồi đắp thêm nguyên khí". Tác giả nhận định: ngày nay,
một trong những nhiệm vụ "bồi đắp nguyên khí quốc gia" là Nhà nước phải chăm lo
giáo dục, bồi dưỡng đội ngũ cán bộ, công chức (CBCC) nói chung, CBCC hành
chính nói riêng, trong đó có GDPL cho họ [92].
- Luận án tiến sĩ Luật học của Trần Thị Sáu thực hiện năm 2012: Giáo dục
pháp luật cho học sinh trung học phổ thông ở Việt Nam [88]; luận án bổ sung cơ sở
lý luận về GDPL trong điều kiện mới trên cơ sở mở rộng quan niệm GDPL theo
hướng phát huy năng lực của đối tượng GDPL, đồng thời đưa ra quan niệm về
GDPL cho học sinh trong trường trung học phổ thông; làm sáng tỏ mục đích, vai trò
và đặc điểm của GDPL cho học sinh trong trường trung học phổ thông; xây dựng
quan niệm về hiệu quả GDPL và những điều kiện bảo đảm hiệu quả GDPL cho học
sinh trong các trường trung học phổ thông. Tác giả đã tiến hành khảo sát, phân tích,
đánh giá thực trạng GDPL cho học sinh trong các trường trung học phổ thông ở
nước ta, qua đó rút ra những kết luận làm cơ sở cho việc xây dựng các biện pháp
nâng cao hiệu quả GDPL cho học sinh trong trường trung học phổ thông và đề xuất
những giải pháp góp phần nâng cao hiệu quả hoạt động GDPL cho học sinh trong
các trường trung học phổ thông ở nước ta trong điều kiện đổi mới toàn diện nền
giáo dục và xây dựng Nhà nước pháp quyền XHCN Việt Nam.
10
Luận án tiến sĩ Luật học của Phan Hồng Dương thực hiện năm 2014 Giáo
dục pháp luật cho sinh viên các trường Đại học không chuyên luật ở Việt Nam [38];
Luận án tập trung nghiên cứu về GDPL cho sinh viên các trường không chuyên luật
ở Việt Nam với các nội dung: cơ sở lý luận, thực trạng và đề xuất các giải pháp
nhằm tăng cường GDPL cho sinh viên các Trường không chuyên luật ở Việt Nam.
Đặc biệt, tác giả đã có sự khảo sát, tìm hiểu việc GDPL cho sinh viên các trường
không chuyên luật ở một số nước tiêu biểu trên thế giới như: Mĩ, Australia, Thụy
Điển, Pháp, Liên bang Nga, Cộng hòa Séc, Trung Quốc và gợi mở cho Việt Nam
trong hoạt động GDPL cho sinh viên các trường không chuyên luật - Một trong
những đối tượng PBGDPL được xác định trong luận án.
Luận án tiến sĩ Luật học của Nguyễn Thị Tĩnh thực hiện năm 2015: Giáo dục
pháp luật cho người dân ở tỉnh Đắk Lắk trong giai đoạn hiện nay [102], trên cơ sở
đánh giá khái quát tình hình nghiên cứu đề tài, chỉ ra những kết quả đã được nghiên
cứu và những vấn đề cần tiếp tục nghiên cứu. tác giả xây dựng mô hình lý luận khoa
học đặc thù về GDPL cho người dân tỉnh Đắk Lắk như: Khái niệm, vai trò, đặc trưng
và các yếu tố ảnh hưởng đến GDPL cho người dân tỉnh Đắk Lắk. Đặc biệt, với luận
án này, lần đầu tiên thực trạng GDPL cho người dân tỉnh Đắk Lắk được phân tích,
đánh giá một cách khoa học dưới tác động của nhân tố khách quan, chủ quan (kết
quả đã đạt được, tồn tại, hạn chế, nguyên nhân) làm tiền đề thực tiễn để xác định
mục tiêu, quan điểm, giải pháp đổi mới. Luận án xác định rõ mục tiêu, quan điểm
và đề xuất một số giải pháp đổi mới GDPL cho người dân tỉnh Đắk Lắk hiện nay.
Luận án tiến sĩ Luật học của Ngô Văn Trù thực hiện năm 2016: Giáo dục
pháp luật cho phạm nhân trong các trại giam ở Việt Nam [109]; trên cơ sở nghiên
cứu lý luận về GDPL cho phạm nhân trong các trại giam ở Việt Nam, khảo sát tình
hình phạm nhân, điều tra xã hội học về thực trạng công tác GDPL cho phạm nhân
tại các trại giam trong những năm qua (đánh giá những kết quả đạt được, chỉ ra
những hạn chế, bất cập của công tác này, tìm hiểu nguyên nhân của nó); từ đó, đề
xuất quan điểm và các giải pháp bảo đảm nâng cao chất lượng, hiệu quả công tác
GDPL cho phạm nhân trong các trại giam ở Việt Nam hiện nay.
11
Luận án tiến sĩ Luật học của Dương Thành Trung thực hiện năm 2015:
Giáo dục pháp luật cho đồng bào dân tộc Khmer ở vùng đồng bằng sông Cửu Long,
Việt Nam [110]. Trên cơ sở khái quát về mặt lý luận, phân tích và làm rõ về mặt
thực tiễn công tác GDPL, khảo sát, đánh giá thực trạng công tác GDPL cho ĐBDT
Khmer ở vùng đồng bằng sông Cửu Long, Việt Nam; chỉ ra những thành tựu, kết
quả đạt được, những tồn tại, hạn chế và nguyên nhân của chúng để trên cơ sở đó, đề
xuất quan điểm các chỉ đạo và những giải pháp bảo đảm nâng cao chất lượng, hiệu
quả GDPL cho ĐBDT Khmer ở vùng đồng bằng sông Cửu Long, Việt Nam trong
các giai đoạn tiếp theo. Những đóng góp mới của luận án là: Góp phần khái quát, hệ
thống hóa lý luận về hoạt động GDPL cho ĐBDT Khmer ở vùng đồng bằng sông
Cửu Long, Việt Nam; làm rõ nội hàm những khái niệm có liên quan, như mục tiêu,
chủ thể, đối tượng, nội dung, phương pháp và hình thức GDPL cho ĐBDT Khmer ở
vùng đồng bằng sông Cửu Long; những nét đặc trưng về kinh tế, chính trị, văn hóa -
xã hội của vùng đồng bằng sông Cửu Long có ảnh hưởng đến hoạt động này; Luận
án trên là nguồn tư liệu quý cho việc nghiên cứu về PBGDPL cho ĐBDT Thái ở
Tây Bắc vì ĐBDT Khmer ở vùng đồng bằng sông Cửu Long và ĐBDT Thái ở Tây
Bắc (đối tượng nghiên cứu) đều là những nhóm cư dân chiếm đa số của khu vực, có
ảnh hưởng lớn đến văn hóa, lối sống của các dân tộc khác trong vùng, về mặt lý
luận, hai luận án có nhiều điểm tương đồng, là tài liệu làm cơ sở để so sánh, phân
biệt sự khác nhau của PBGDPL ở đồng bằng sông Cửu Long và ở Tây Bắc.
Ngoài ra, có thể kể thêm một số công trình nghiên cứu trong nước, như: Luận
án tiến sĩ Luật học của Đinh Xuân Thảo (1996): Giáo dục pháp luật trong các trường
đại học, trung học chuyên nghiệp và dạy nghề (không chuyên luật) ở nước ta hiện
nay [96]; Nguyễn Duy Lãm (Chủ biên, 1997): Một số vấn đề về phổ biến, giáo dục
pháp luật trong giai đoạn hiện nay [66]; Đề tài khoa học cấp bộ của Khoa Nhà nước và
Pháp luật - Học viện Chính trị Quốc gia Hồ Chí Minh thực hiện năm 1999: Đổi mới
giáo dục pháp luật trong hệ thống các trường Chính trị ở nước ta hiện nay [64].
Luận văn thạc sĩ Luật học của Lê Tiến Thịnh (2014): Giáo dục pháp luật thông qua
hoạt động xét xử hình sự của Tòa án - qua thực tiễn tỉnh Thanh Hóa [99].
12
1.1.3. Nhóm nghiên cứu về dân tộc Thái, Tây Bắc và phổ biến, giáo dục
pháp luật cho đồng bào dân tộc Thái ở Tây Bắc Việt Nam
Với quá trình lịch sử phát triển lâu dài và tính phong phú, đa dạng, độc đáo,
dân tộc Thái và vùng Tây Bắc đã được nhiều nhà khoa học trong nước quan tâm
nghiên cứu. có thể kể đến một số công trình tiêu biểu sau đây:
Người Thái ở Tây Bắc Việt Nam [107] của tác giả Cầm Trọng. Tác giả cuốn
sách nghiên cứu về lịch sử, kinh tế, xã hội, tập quán người Thái Tây Bắc Việt Nam.
Nội dung cuốn sách gồm có: Người Thái ở Tây Bắc Việt Nam; các loại hình kinh
tế. Ruộng đất và xã hội; Bản Mường; Một số nét khái quát về tôn giáo, nghệ thuật,
văn học.. Đây là công trình của tác giả Việt Nam đầu tiên giới thiệu khá sâu sắc về
văn hóa, phong tục tập quán của người Thái Tây Bắc nước ta, đồng thời là "cẩm
nang" quan trọng cho những người quan tâm tìm hiểu văn hóa các DTTS Tây Bắc
Việt Nam, trong đó có người Thái.
Luật tục Thái ở Việt Nam [100], của nhóm tác giả Ngô Đức Thịnh và Cầm
Trọng được trình bày bằng hai ngôn ngữ: chữ Thái và bản dịch tiếng Việt. Nội
dung chủ yếu của cuốn sách trình bày khái quát một số khái niệm về luật tục, luật
tục người Thái; những nội dung cơ bản của luật tục người Thái Đen ở Thuận
Châu, Sơn La và một số nội dung luật tục người Thái ở Tây Bắc do đồng tác giả
Cầm Trọng sưu tầm. Đây là cuốn sách rất có ý nghĩa trong việc nghiên cứu đề tài,
vì nội dung luật tục thấm đẫm hơi thở cuộc sống, nó bao gồm các quy tắc xử sự
chung của cộng đồng người Thái, chứa đựng thế giới quan, nhân sinh quan, chi
phối ứng xử của rất nhiều thế hệ người Thái mà ngày nay vẫn ảnh hưởng rất lớn
đến việc thực hiện pháp luật của người dân tộc Thái và công tác PBGDPL cho
ĐBDT Thái ở Tây Bắc.
Văn hóa Thái Việt Nam [108], của nhóm tác giả Cầm Trọng, Phan Hữu Dật.
Công trình này giới thiệu tổng quát về người Thái và Thái học, về văn hóa Thái
trong cội nguồn chung của Việt Nam và Đông Nam Á... và mối quan hệ giữa văn
hóa Thái với văn hóa các dân tộc nói ngôn ngữ Môn - Khơ Me ở Tây Bắc và một số
dân tộc ở miền Bắc Việt Nam.
13
Luật tục người Thái và sự vận dụng trong quản lý nhà nước đối với cộng
đồng người Thái ở các tỉnh Bắc Trung Bộ Việt Nam [89], Luận án tiến sĩ Luật học
của Vì Văn Sơn. Trong luận án này, tác giả tiếp cận khái niệm, đặc điểm luật tục
người Thái và mối tương quan của luật tục người Thái với pháp luật; đánh giá vai
trò của luật tục người Thái trong lịch sử đời sống cộng đồng người Thái; tìm hiểu
kinh nghiệm vận dụng luật tục trên thế giới và Việt Nam. Từ những luật tục đã được
văn bản hóa và kết quả sưu tầm trong nhân dân, tác giả đã chọn lựa, phân loại, phân
tích những giá trị xã hội của luật tục người Thái tương tác với một số nội dung quản
lý nhà nước hiện hành, nhất là quản lý hành chính nhà nước đối với cộng đồng
người Thái; Khảo sát, đánh giá thực trạng, kết quả vận dụng luật tục của một số xã
có người Thái cư trú tập trung ở hai tỉnh Thanh Hóa, Nghệ An; đề xuất quan điểm,
giải pháp vận dụng luật tục người Thái trong quản lý nhà nước, chủ yếu là quản lý
hành chính nhà nước ở cơ sở đối với cộng đồng người Thái ở các tỉnh Bắc Trung bộ
Việt Nam. Luận án là tài liệu tham khảo hữu ích cho tác giả trong việc tìm hiểu về
đặc điểm luật tục người Thái nói chung, mối tương quan của luật tục người Thái với
pháp luật và vận dụng trong việc nhận định các yếu tố tác động, sự khác nhau trong
công tác PBGDPL cho ĐBDT Thái ở Tây Bắc và Bắc Trung Bộ Việt Nam.
Luật tục và phát triển nông thôn ở Việt Nam hiện nay [112], của Trung tâm
Khoa học xã hội và nhân văn Quốc gia, Viện Nghiên cứu Văn hóa dân gian. Trong
công trình này có một số bài viết đáng chú ý như: "Luật tục và chiến lược phát triển
nông thôn ở Việt Nam" của tác giả Nguyễn Duy Quí [112, tr. 13]; "Vai trò của luật
tục vùng cao trong công tác giao đất khoán rừ...g của Nhà nước, của các cơ quan và
công chức nhà nước, của các tổ chức xã hội, các tập thể lao động nhằm xây dựng,
củng cố và nâng cao ý thức pháp luật và văn hóa pháp luật của người dân. Theo
hướng tiếp cận này, xây dựng và nâng cao ý thức pháp luật, văn hóa pháp luật là
mục tiêu của GDPL, còn chủ thể của GDPL là Nhà nước, xã hội và những người có
trách nhiệm trong các tập thể, cộng đồng [68], [143], [146], [148].
Trong các tài liệu khoa học về pháp luật ở nước ta hiện nay, các tác giả đã khá
thống nhất với khái niệm GDPL: "giáo dục pháp luật là quá trình tác động một cách
có hệ thống, có mục đích và thường xuyên tới nhận thức của con người nhằm trang bị
cho mỗi người một trình độ kiến thức pháp lý nhất định để từ đó có ý thức đúng đắn
về pháp luật, tôn trọng và tự giác xử sự theo yêu cầu của pháp luật" [113, tr. 177].
So với phổ biến thì giáo dục cũng nhằm nâng cao nhận thức, tình cảm song
nội dung rộng hơn, phương thức tiến hành chặt chẽ hơn, đối tượng xác định hơn,
mục đích lớn hơn. Xét dưới góc độ nhất định thì phổ biến chính là các phương thức
giáo dục cụ thể [59].
Lý thuyết về thực hiện pháp luật cho thấy, PBGDPL là cầu nối quan trọng
giữa hoạt động xây dựng pháp luật và cuộc sống, là phương thức đưa pháp luật vào
cuộc sống. PBGDPL với quan niệm chung nhất là một quá trình tác động có định
hướng của chủ PBGDPL đến ý thức của con người. Quá trình này chịu ảnh hưởng
của những điều kiện khách quan như chế độ xã hội, trình độ phát triển của kinh tế -
xã hội, môi trường sống... và của những nhân tố chủ quan như sự tác động tự giác,
định hướng của nhân tố con người... Sự hình thành ý thức của con người là quá
trình ảnh hưởng, tác động thống nhất của các điều kiện khách quan lẫn các nhân tố
chủ quan. Quá trình nhận thức của con người không tách rời những điều kiện tồn tại
của xã hội. Sự thay đổi các điều kiện chính trị, kinh tế, xã hội sẽ tạo ra khả năng
phát triển đời sống tinh thần của con người và ảnh hưởng đến chất lượng giáo dục
nói chung và PBGDPL nói riêng. PBGDPL không chỉ đơn thuần là đưa các thông
điệp pháp luật đến với mọi người, mà còn là một "nghệ thuật" chuyển tải thông điệp
29
đó, cần thực hiện trên cơ sở cách tiếp cận đa ngành, hệ thống, toàn diện và hiệu quả.
Cùng với việc thừa nhận ảnh hưởng của các điều kiện khách quan là to lớn đối với
việc hình thành ý thức của cá nhân con người (trong đó có ý thức pháp luật), cần
nhấn mạnh tác động cực kỳ quan trọng của nhân tố chủ quan mà hoạt động
PBGDPL hướng tới. Sự hình thành ý thức pháp luật của con người là sản phẩm của
một quá trình phức tạp, trong đó có nhiều yếu tố cùng ảnh hưởng và tác động biện
chứng với nhau, quy định và chi phối lẫn nhau. Trong số các công trình nghiên cứu
chuyên sâu về PBGDPL phải kể đến cuốn sách "Bàn về giáo dục pháp luật" của các
tác giả Trần Ngọc Đường và Dương Thị Thanh Mai. Trong cuốn sách này đã nêu
một số nguyên lý cơ bản về GDPL. Ngoài ra, có nhiều công trình nghiên cứu khác
dưới dạng các luận án tiến sĩ, luận văn thạc sĩ, các đề tài nghiên cứu khoa học cấp
bộ đã bổ sung, làm phong phú thêm lý thuyết về PBGDPL.
Hiện nay, trong giới nghiên cứu và trong thực tiễn, vẫn chưa có sự thống nhất
cao về các khái niệm: tuyên truyền, PBGDPL. Qua thực tiễn PBGDPL, chúng tôi cho
rằng trước hết cần thống nhất nội hàm của khái niệm PBGDPL theo hướng sau đây:
Thứ nhất: PBGDPL là việc truyền bá pháp luật cho đối tượng nhằm nâng
cao tri thức, tình cảm, niềm tin pháp luật cho con người, từ đó nâng cao ý thức tôn
trọng pháp luật, nghiêm chỉnh chấp hành pháp luật.
Thứ hai: PBGDPLlà lĩnh vực hoạt động bao gồm tất cả các công đoạn như
định hướng công tác PBGDPL, lập chương trình, kế hoạch PBGDPL, áp dụng các
hình thức PBGDPL; triển khai chương trình PBGDPL; kiểm tra, sơ kết, tổng kết,
đúc rút kinh nghiệm... về PBGDPL [133, tr. 9].
Tuy nhiên, đối với khái niệm PBGDPL, hiện nay, trong khoa học pháp lý có
nhiều ý kiến đồng nhất hai khái niệm "phổ biến pháp luật" và "giáo dục pháp luật" vì
cho rằng chúng có mục đích chung là giáo dục ý thức pháp luật, nâng cao ý thức chấp
hành pháp luật cho mọi người. Hai khái niệm này có khi được dùng tách rời nhau như
hai khái niệm riêng biệt, nhưng có khi lại được sử dụng liền nhau. Mục tiêu của
PBGDPL bao gồm: mục tiêu về nhận thức (trang bị kiến thức, hiểu biết pháp luật), mục
tiêu về thái độ, tình cảm (làm hình thành tình cảm, xúc cảm pháp luật và niềm tin đối
30
với pháp luật); mục tiêu về kỹ năng (hình thành, củng cố thói quen, nếp sống, hành vi
xử sự tích cực theo các chuẩn mực pháp luật). Mục đích của PBGDPL là cái cuối cùng
phải đạt được của hoạt động GDPL. Nó chính là những thông tin, kiến thức, hiểu biết
về pháp luật; thái độ, tình cảm, niềm tin đối với pháp luật; và thói quen, lối sống,
hành vi xử sự tích cực theo pháp luật. Như vậy, suy cho cùng, mục đích của
PBGDPL là làm hình thành, củng cố và nâng cao ý thức pháp luật cho đối tượng
tiếp nhận PBGDPL.
Quan niệm PBGDPL còn được hiểu theo nghĩa rộng và nghĩa hẹp:
Theo nghĩa rộng, PBGDPL là lĩnh vực công tác bao gồm tất cả những gì
phục vụ cho việc đưa pháp luật đến với các đối tượng nhằm mục đích hiện thực hóa
các quy định của pháp luật trong đời sống, đó là: Quan điểm, chủ trương về
PBGDPL; Chính sách, pháp luật về PBGDPL; Tổ chức, nhân lực PBGDPL; Cơ chế
vận hành PBGDPL; Điều kiện bảo đảm PBGDPL; Định hướng công tác PBGDPL;
Lập chương trình, kế hoạch PBGDPL; Lựa chọn nội dung pháp luật cần phổ biến,
giáo dục; Áp dụng các hình thức PBGDPL; Triển khai chương trình, kế hoạch
PBGDPL; Kiểm tra, đôn đốc, sơ kết, tổng kết công tác PBGDPL, đúc rút kinh nghiệm,
nghiên cứu khoa học, nâng cao trình độ lý luận... về PBGDPL...
Theo nghĩa hẹp, PBGDPL là một bộ phận của công tác giáo dục chính trị tư
tưởng, một công đoạn của hoạt động tổ chức thực hiện pháp luật, là hoạt động định
hướng có tổ chức, có chủ định nhằm mục đích cung cấp cho đối tượng được tác
động kiến thức pháp luật cần thiết, góp phần hình thành, bồi dưỡng, củng cố và phát
triển ở đối tượng thái độ và hành vi ứng xử đúng đắn, phù hợp với các đòi hỏi của
hệ thống pháp luật hiện hành; góp phần nâng cao hiệu lực, hiệu quả quản lý nhà
nước, tăng cường pháp chế, phát huy dân chủ, hình thành, củng cố và nâng cao văn
hóa pháp lý, phục vụ công cuộc phát triển đất nước, phát triển xã hội [116, tr. 11-12].
Từ sự phân tích trên, có thể định nghĩa: Phổ biến, giáo dục pháp luật là quá
trình hoạt động có mục đích, có tổ chức, có kế hoạch, theo nội dung và thông qua
những phương pháp, hình thức nhất định từ phía chủ thể thực hiện hoạt động
PBGDPL, tác động đến đối tượng tiếp nhận PBGDPL nhằm làm hình thành và phát
31
triển ở họ hệ thống tri thức pháp luật, trình độ hiểu biết về pháp luật; làm hình
thành tình cảm, thói quen và hành vi xử sự tích cực theo pháp luật.
* Đồng bào dân tộc Thái trong cộng đồng các dân tộc ở Việt Nam
Trong đề tài nghiên cứu này, khái niệm ĐBDT Thái dùng để chỉ tộc người
Thái trong quốc gia đa dân tộc Việt Nam. Xét về góc độ lịch sử tộc người, các nhà
khoa học xác định người Thái ở Việt Nam có chung nguồn gốc với người Thái trên
thế giới, hay rộng hơn là những người cùng ngữ hệ Thái nói chung. Biểu hiện rõ
nhất là thông qua ngôn ngữ, văn hóa, ý thức tộc người. Ngôn ngữ Thái trên thế giới
nói chung và ngôn ngữ của người Thái ở Việt Nam là tương đồng. Thông qua
nghiên cứu của Giáo sư Phan Đăng Nhật về bộ ba các anh hùng ca Thái: Khủn
Chưởng (sưu tầm ở miền Tây Nghệ An), Chương Han (lưu truyền ở Tây Bắc Việt
Nam) và Thạo Hùng hay Chương (lưu truyền ở Thái Lan và Lào), nhiều nội dung,
nhân vật, cốt truyện cơ bản giống nhau [58, tr. 419-432].
Khá nhiều công trình nghiên cứu chuyên biệt về người Thái hoặc các công
trình nghiên cứu về Thái học (Thai Studies) đều chưa có công trình nào đủ cứ liệu
khẳng định chắc chắn nguồn gốc của người Thái bắt đầu từ đâu. Theo Hoàng Hoa
Toàn trong bài viết có tựa đề: Đôi nét về lịch sử cổ đại của người Thái ở Trung
Quốc [138, tr. 69-78], ông cho rằng tổ tiên của người Tày - Thái phía Tây đã sớm
và liên tục có mặt ở Tây Nam Trung Quốc từ vài thế kỷ trước công nguyên. Vùng
Tây Nam hoặc chính xác hơn là Vân Nam của Trung Quốc là đất khởi thủy của
người Thái và cho đến ngày nay vẫn là nơi tụ cư chính của người Thái ở Trung
Quốc. Căn cứ vào một số tài liệu và một số truyền thuyết dân gian thì bắt đầu từ thế
kỷ thứ VIII sau công nguyên trở về sau, dân tộc Thái ở Tây Nam Trung Quốc bắt
đầu diễn ra những đợt thiên di lớn, nhỏ khác nhau, những đợt thiên di này đều liên
quan đến một số sự kiện lịch sử. Vào thế kỷ thứ VIII, tộc người Thái ở vùng biên
giới Vân Nam bị Nam Chiếu (728 - 902) chinh phục, người Nam Chiếu nhiều lần
dùng vũ lực chuyển dời một bộ phận người Thái vào sâu trong nội địa Vân Nam. Từ
thế kỷ X trở đi, do sự phát triển lớn mạnh của kinh tế - xã hội của bản tộc và sự
bành trướng của các vương triều Trung Hoa, nhất là thời Nguyên (thế kỷ XIII) đẩy
32
mạnh chính sách dùng vũ lực chinh phục các tộc người phương Nam dẫn đến sự di
cư lớn của người Thái ở vùng Tây Nam Trung Quốc xuống phương Nam. Về sau,
có bộ phận gặp được những điều kiện địa lý và lịch sử thuận lợi đã thành lập được
các vương quốc trên lưu vực sông Mê Kông, Tây Lào, Bắc Băng Gan, Thái Lan.
Cũng có bộ phận gặp điều kiện ít thuận lợi hơn, chỉ thành lập được các tiểu nhóm
cát cứ, do những lãnh chúa phong kiến đứng đầu.
Trong cuốn "Tư liệu về lịch sử và xã hội dân tộc Thái" do Đặng Nghiêm Vạn
chủ biên và một số cộng sự thực hiện [131, tr. 21-22], các tác giả đã cho chúng ta hình
dung những nét cơ bản về lịch sử tộc người Thái. Cuốn Truyện kể bản mường của
người Thái Đen, ghi các sự kiện xảy ra trong từng mường do một chúa đất cai quản,
đời này ghi tiếp đời kia từ lúc hai nhân vật nửa huyền thoại, nửa có thực là tạo Ngần,
tạo Xuông dẫn dắt người Thái theo dọc sông Hồng (nặm Tao) đến khai phá đất Mường
Lò (Nghĩa Lộ ngày nay) và người con là Lạng Chượng đi chinh phục các dân tộc cư trú
ở Tây Bắc trước đó bắt đầu từ Mường Lò, qua Sơn La đến Điện Biên cho đến thời kỳ
thực dân Pháp xâm lược Việt Nam. Như vậy, thông qua nhiều tài liệu cho thấy, người
Thái đến Việt Nam vào khoảng thời kỳ trước, sau thế kỷ X; di cư vào Bắc Trung Bộ
(vùng Thanh Hóa, Nghệ An) thuộc nhánh từ sông Mê Kông Thái Lan tới, nhánh này
di cư sang Việt Nam rồi tiến về phía Mộc Châu, Yên Châu sau đó theo sông Mã di
cư về miền Tây Nghệ An. Thời điểm người Thái di cư đến vùng đất này cũng chưa
có ý kiến thống nhất, có thể sớm hơn thế kỷ XI hoặc không thể sớm hơn thế kỷ XII;
theo các nguồn tài liệu thông sử cho rằng người Thái có mặt tại đây rõ nét nhất là
thời Trần và thời thuộc Minh, từ thế kỷ XIII - XV [131, tr. 25-26].
Người Thái ở Việt Nam bao gồm nhiều ngành và mỗi ngành lại chia thành
nhiều nhóm với những tên gọi khác nhau tùy theo từng địa phương. Ở Tây Bắc có
những nhóm: Thái Đen, cư trú chủ yếu ở Sơn La, Yên Bái, Điện Biên; Thái Trắng
cư trú chủ yếu ở tỉnh Lai Châu, có một nhóm Thái Trắng đã chịu ảnh hưởng lớn của
văn hóa Tày, như ở Sa Pa, Bắc Hà - Lào Cai. Sự phân chia cộng đồng người Thái
thành hai ngành Thái Trắng (Tay Lón, Tay Khao), Thái Đen (Tay Đăm) rất phổ
biến ở vùng Tây Bắc.
33
Cách gọi theo địa danh cũng phổ biến ở Tây Bắc, cách gọi tên người Thái
theo mường (mường là thiết chế truyền thống của người Thái, tồn tại trước năm
1945) như: Tay Mường Vạt (Bạt), Mường La, Mường Then (Thanh), những
nhóm người Thái này có thể thuộc ngành Thái Đen hoặc Thái Trắng song có đặc
điểm là cùng cư trú trong một vùng (mường).
Đối với người Thái ở Thanh Hóa và Nghệ An lại có sự khác biệt: Sự phân
biệt giữa ngành Thái Trắng và Thái Đen như ở Tây Bắc lại không rõ. Đặc điểm
chung nổi bật về cách gọi tên của người Thái ở vùng này là gọi theo các mường, nơi
họ đang sinh sống (mường là thiết chế truyền thống của người Thái, tồn tại trước
năm 1945) [5, tr. 17]. Người Thái hai tỉnh Thanh Hóa, Nghệ An cũng tự xếp mình
vào các nhóm địa phương (local groups) mỗi khi họ cần phải làm như vậy, như
trường hợp khi đi ra khỏi địa bàn của mình. Cụ thể, ở tỉnh Thanh Hóa có các nhóm
Tày Do, Tày, Tày Mường. Trong ba nhóm này, nhóm Tày và nhóm Tày Do có số
lượng đông hơn, Tày Do thuộc ngành Thái Trắng, các nhóm Tày, Tày Mường thuộc
ngành Thái Đen. Từ Do ở đây có thể hiểu người Thái có chung nguồn gốc với các
từ Do để chỉ Mường Do ở Vân Nam - Trung Quốc, Mường Do ở Nghĩa Lộ - Yên
Bái, Mường Do ở huyện Phong Thổ, tỉnh Lai Châu của Việt Nam. Ở Nghệ An có
các nhóm Tày Mường, Tày Thanh, Tày Mười và vấn đề tên gọi của các nhóm này
phức tạp hơn. Các nhóm Tày Mường còn có tên gọi là Hàng Tổng và nhóm Tày Thanh
còn gọi là Man Thanh. Hàng Tổng là một từ thuần Việt dùng để chỉ dân gốc của địa
phương, còn Man Thanh cũng có ý nghĩa gần như Tày Thanh, cách gọi tên như vậy
đã trở thành thói quen được duy trì đến ngày nay Dù sự phân biệt thành các ngành
Thái Trắng, Thái Đen ở miền núi của các tỉnh Thanh Hóa, Nghệ An không rõ ràng,
nhưng nếu được hỏi thì người dân vẫn có thể tự xác định mình thuộc ngành nào. Bộ
phận tự gọi là Tày Do ở Thanh Hóa và Tày Mường ở Nghệ An chỉ là một và họ tự
nhận mình là người Thái Trắng. Các nhóm Tày, Tày Mường ở Thanh Hóa gần gũi với
nhóm Tày Thanh, Tày Mười ở Nghệ An và tự coi là người Thái Đen [5, tr. 18-19].
Về địa bàn cư trú, người Thái cư trú tại khắp 63 tỉnh, thành phố trên toàn
quốc. Tuy nhiên, người Thái cư trú tập trung và hầu hết tại các tỉnh Sơn La, Điện
Biên, Lai Châu, Yên Bái, Hòa Bình, Nghệ An, Thanh Hóa, Đắk Lắk, Đắk Nông.
34
* Khái niệm phổ biến, giáo dục pháp luật cho đồng bào dân tộc Thái
Từ sự phân tích luận giải các vấn đề lý luận liên quan ở trên, trên cơ sở khái
niệm chung về PBGDPL, đồng thời, có tính đến những yếu tố đặc thù về địa lý, chính
trị, kinh tế, văn hóa, xã hội... của đồng bào dân tộc Thái ở Tây Bắc, theo chúng tôi có
thể quan niệm:
Phổ biến, giáo dục pháp luật cho đồng bào dân tộc Thái là quá trình hoạt
động có định hướng, có tổ chức có mục đích, có kế hoạch, theo nội dung và thông
qua những phương pháp, hình thức nhất định từ phía chủ thể thực hiện hoạt động
phổ biến, giáo dục pháp luật, tác động đến đối tượng tiếp nhận phổ biến, giáo dục
pháp luật là đồng bào dân tộc Thái, nhằm làm hình thành và phát triển ở họ hệ
thống tri thức pháp luật, trình độ hiểu biết về pháp luật; làm hình thành tình cảm,
thói quen và hành vi xử sự tích cực theo pháp luật.
2.1.2. Đặc điểm của phổ biến, giáo dục pháp luật cho đồng bào dân tộc Thái
2.1.2.1. Những đặc điểm chung
Phổ biến, GDPL cho ĐBDT Thái là một dạng cụ thể của PBGDPL nói
chung vì vậy nó cũng có các đặc điểm chung của PBGDPL. Bao gồm:
Thứ nhất, PBGDPL là hoạt động có mục đích nhằm hình thành ở đối tượng
PBGDPL những tri thức hiểu biết về Nhà nước và pháp luật cũng như tình cảm và
thói quen xử sự phù hợp với quy định của pháp luật. Thông qua PBGDPL giúp các
chủ thể nhận thức đúng đắn, đầy đủ và toàn diện về những chuẩn mực xã hội,
những hành vi được làm, những hành vi không được làm, những hành vi bị nghiêm
cấm và giới hạn các quyền, nghĩa vụ của mình và của các chủ thể khác được pháp
luật bảo vệ và cơ chế để tổ chức thực thi các quyền và nghĩa vụ, bảo vệ các quyền
và lợi ích hợp pháp.
Thứ hai, PBGDPL là hoạt động có định hướng nhằm điều chỉnh hành vi của
các chủ thể theo những chuẩn mực mà pháp luật đặt ra. Đó cũng chính là quá trình
chuyển tải các tri thức của nhân loại nói chung, của một Nhà nước, một chính thể
nói riêng về hiện tượng Nhà nước và pháp luật để hình thành ở đối tượng PBGDPL
tri thức hiểu biết đúng đắn về Nhà nước và pháp luật. Thông qua hiểu biết pháp
35
luật, các chủ thể biết tự mình điều chỉnh hành vi của mình cho phù hợp với những
chuẩn mực, quy tắc, đòi hỏi của pháp luật. Sự hiểu biết pháp luật của các chủ thể
càng sâu sắc, càng đầy đủ, chính xác thì tính hợp pháp trong hành động của họ càng
được bảo đảm và hạn chế được các hành vi vi phạm pháp luật do không hiểu biết
pháp luật. Thông qua PBGDPL còn giúp các chủ thể định hướng hành vi đúng đắn
phù hợp với pháp luật, biết sử dụng tri thức pháp luật để bảo vệ quyền và lợi ích
hợp pháp của mình, từng bước xây dựng và hình thành thói quen suy nghĩ và hành
động hợp pháp và cao hơn là xây dựng lối sống văn hóa pháp luật.
Thứ ba, PBGDPL là hoạt động có tổ chức, đó là sự tác động của chủ thể
PBGDPL lên đối tượng PBGDPL theo những nguyên tắc, yêu cầu cụ thể, với những
nội dung, hình thức, phương pháp nhất định phù hợp với đặc thù của đối tượng
PBGDPL nhằm đạt được các mục tiêu mà chủ thể PBGDPL đề ra. Trong quá trình
hoạt động có tổ chức đó, trách nhiệm trước hết và chủ yếu thuộc về Nhà nước; Nhà
nước giữ vai trò nòng cốt trong việc tổ chức thực hiện và huy động mọi nguồn lực
xã hội tham gia để đạt được các mục tiêu đề ra bởi lẽ, chính nhà nước ban hành
Hiến pháp và pháp luật nên có trách nhiệm tổ chức và bảo đảm việc thi hành Hiến
pháp và pháp luật mà khâu đầu tiên PBGDPL đến với nhân dân và đội ngũ cán bộ,
công chức, viên chức được giao nhiệm vụ tổ chức thực thi pháp luật.
Thứ tư, PBGDPL là hoạt động thường xuyên, liên tục, lâu dài, đặt trong
mối quan hệ với quá trình giáo dục toàn diện các tri thức tinh hoa pháp luật trong
đời sống xã hội, quy tắc xã hội; là quá trình PBGDPL kết hợp chặt chẽ giữa các
chủ thể chuyên nghiệp và các chủ thể không chuyên nghiệp, có định hướng của
Nhà nước. Đặc biệt, do mục tiêu hướng đến là tri thức hiểu biết pháp luật, xây
dựng tình cảm lối sống và cao hơn là văn hóa pháp luật, vì vậy người thực hiện
hoạt động PBGDPL phải là người có tri thức hiểu biết pháp luật, không chỉ nắm
vững tri thức pháp luật ở góc độ tính hệ thống, mà còn phải có kỹ năng truyền tải
các tri thức, quy định pháp luật đó đến với các chủ thể một cách rõ ràng, đơn giản,
dễ hiểu, đồng thời là tấm gương sáng, là hình mẫu trong việc tuân thủ và chấp
hành pháp luật.
36
Thứ năm, đối tượng PBGDPL với tư cách là đối tượng chịu sự tác động trực
tiếp của các thông tin pháp luật, trực tiếp tiếp nhận các thông tin pháp luật từ các chủ
thể PBGDPL, vì thế, năng lực, trình độ hiểu biết pháp luật cũng như các yếu tố nhân
thân khác của chủ thể PBGDPL là yếu tố tác động trực tiếp ảnh hưởng đến quá trình
tiếp thu tri thức hiểu biết pháp luật từ phía đối tượng PBGDPL. Mục tiêu cao nhất của
PBGDPL là nhằm truyền đạt thông tin, nội dung pháp luật, tri thức pháp luật trong đời
sống đến với đối tượng, giúp đối tượng PBGDPL có được những hiểu biết về pháp
luật góp phần nâng cao ý thức pháp luật; hình thành lòng tin, tình cảm vào pháp
luật, hình thành nhân cách hành vi và xây dựng đời sống văn hóa pháp luật.
Thứ sáu, ngoài sự tác động có chủ định của các chủ thể PBGDPL lên đối
tượng PBGDPL, một thuộc tính quan trọng khác trong hoạt động PBGDPL đó là
nghĩa vụ học tập, tiếp cận tri thức pháp luật của người dân thể hiện ở tính tích cực,
chủ động tự giác của mỗi cá nhân trong việc tự mình nâng cao tri thức hiểu biết
pháp luật cũng như vận dụng tri thức hiểu biết pháp luật vào quá trình thực hiện các
hành vi của mình.
2.2.2.2. Đặc điểm riêng của phổ biến, giáo dục pháp luật cho đồng bào dân
tộc Thái
Với tính cách là một dạng cụ thể của PBGDPL, PBGDPL cho BĐDT Thái có
đầy đủ những đặc điểm chung nêu trên và có các đặc điểm riêng như:
Thứ nhất: về nội dung, PBGDPL cho ĐBDT Thái được đặt trong mối quan
hệ hài hòa với giáo dục các tri thức tinh hoa của luật tục Thái. Thực tiễn cho thấy
dù chưa được công nhận là nguồn của pháp luật nhưng luật tục Thái vẫn tồn tại với
tính hợp lý của nó, cùng tham gia điều chỉnh các quan hệ xã hội đặc biệt là trong
đời sống dân sự. Trong hệ tư tưởng pháp luật của người dân Tây Bắc nói chung và
người dân tộc Thái nói riêng hiện nay đã có sự ảnh hưởng của tư tưởng luật tục và
ngược lại, làm hình thành những thói quen ứng xử hỗn hợp. Trong những năm gần
đây một số phong tục tập quán tốt đẹp lâu đời trong luật tục của ĐBDT Thái đã
được nghiên cứu, tiếp nhận sử dụng như một phương tiện điều chỉnh quan hệ dân sự
trong đời sống hàng ngày, đó là các tập quán về bảo vệ rừng, bảo vệ cây trồng, vật
37
nuôi trong gia đình; các quy định về bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng, hôn nhân
một vợ một chồng v.v... Các phong tục tập quán này cũng đã được chính quyền các
tỉnh Tây Bắc thừa nhận và áp dụng đồng thời với pháp luật. Luật tục Thái là môi
trường cho sự phát sinh, tồn tại và phát triển của pháp luật, là chất liệu tạo nên sự
mềm dẻo của pháp luật, làm cho nội dung của pháp luật trở nên phong phú hơn, sát
với thực tế hơn, và đặc biệt là được cộng đồng dân tộc Thái tự nguyện thi hành. Mặt
khác, trong tập quán sinh hoạt của người dân tộc Thái mặc dù chưa phổ biến nhưng
đã xuất hiện tư tưởng pháp luật, vì vậy, PBGDPL cho ĐBDT Thái ở Tây Bắc không
đặt song song với giáo dục tri thức luật tục Thái là sự giáo dục chưa toàn diện.
Thứ hai, về đối tượng, PBGDPL cho ĐBDT Thái có đối tượng PBGDPL là
hai nhóm người cụ thể gồm nhóm ĐBDT Thái có khả năng hiểu, đọc, viết chữ phổ
thông và nhóm ĐBDT Thái chỉ có thể nghe, nói tiếng dân tộc Thái. Trong đó bao
gồm: Đội ngũ cán bộ, công chức, viên chức, chiến sĩ các lực lượng vũ trang nhân
dân; đội ngũ cán bộ làm công tác xã hội, cán bộ hoạt động ở cơ sở, già làng, trưởng
bản, những người có uy tín trong cộng đồng, nông dân, doanh nhân, người lao động,
phụ nữ học sinh, sinh viên... hiện đang sinh sống và làm việc trên địa bàn Tây Bắc.
Đặc thù của các đối tượng này là họ có thể tiếp thu kiến thức pháp luật bằng ngôn
ngữ, và một phần qua chữ viết của dân tộc Thái. Trong những điều kiện cụ thể nhất
định họ có thể là đối tượng PBGDPL và cũng có thể là chủ thể PBGDPL hay như
những phiên dịch, hỗ trợ cho chủ thể PBGDPL.
Thứ ba, về chủ thể, PBGDPL cho ĐBDT Thái luôn gắn với vai trò quan
trọng của trưởng bản, trưởng thôn, người có uy tín trong dòng họ, trong cộng đồng,
những người thông thạo tiếng Thái, am hiểu phong tục, tập quán của ĐBDT Thái.
Đồng thời công cụ quan trọng để PBGDPL cho đồng bào dân tộc Thái đó là các Đài
phát thanh, truyền hình các tỉnh khu vực Tây Bắc thực hiện phát thanh, truyền hình
bằng tiếng dân tộc Thái. Đây là đặc điểm riêng của việc PBGDPL cho ĐBDT Thái.
Thứ tư, về hình thức, phương pháp, PBGDPL cho ĐBDT Thái cho dù được
thực hiện ở hình thức trực tiếp, gián tiếp, hay thông qua các phương tiện thông tin
đại chúng... đều được thực hiện bằng tiếng dân tộc Thái, chữ Thái. Đặc biệt, Đài
38
phát thanh, truyền hình các tỉnh Lai Châu, Điện Biên, Sơn La, Hòa Bình, Yên Bái
đều có chương trình phát thanh, truyền hình bằng tiếng dân tộc Thái. Đây là đặc
điểm riêng có của khu vực Tây Bắc và cho đồng bào dân tộc Thái hiện nay.
Phổ biến, GDPL không chỉ đơn thuần là một hoạt động truyền tải tiếp nhận
thông thường giữa chủ thể PBGDPL và đối tượng PBGDPL, mà là một quá trình
kiên trì bền bỉ của một đội ngũ đông đảo các chủ thể PBGDPL trong việc minh
chứng về sự công bằng minh bạch về giá trị bảo vệ quyền và lợi ích cho người dân
không gì thay thế được của luật pháp. Sự minh chứng này được thể hiện thông qua
những tấm gương người thật việc thật hết sức cụ thể về lao động, về xây dựng mô
hình kinh tế, về đạo đức lối sống, về quan hệ gia đình và xã hội... và đặc biệt, nếu
được diễn đạt bằng ngôn ngữ Thái, trong không gian văn hóa Thái, có sự hỗ trợ của
các phương tiện kỹ thuật hiện đại... thì hiệu quả sẽ rất tốt.
2.1.3. Vai trò của phổ biến, giáo dục pháp luật cho người dân tộc Thái
Nếu coi hệ thống pháp luật thực định là "pháp luật trên giấy tờ", còn hành
vi pháp luật thực tế hợp pháp được thực hiện bởi mỗi công dân là "pháp luật trong
hành động" thì hoạt động PBGDPL cho các tầng lớp nhân dân chính là "cầu nối"
giữa "pháp luật trên giấy tờ" và "pháp luật trong hành động". Điều đó nói lên rằng,
công tác PBGDPL cho các tầng lớp nhân dân ở nước ta có vai trò vô cùng quan
trọng, nhất là trong điều kiện xây dựng Nhà nước pháp quyền XHCN Việt Nam
hiện nay. Cũng như PBGDPL cho các đối tượng xã hội khác, PBGDPL cho ĐBDT
Thái có vai trò rất quan trọng.
2.1.3.1. Phổ biến, giáo dục pháp luật góp phần cung cấp, trang bị, nâng
cao kiến thức, hiểu biết pháp luật cho đồng bào dân tộc Thái
Đối với ĐBDT, vì nhiều nguyên nhân về lịch sử, địa lý, kinh tế, xã hội mà
trình độ hiểu biết về pháp luật còn nhiều hạn chế. Có những người dân tộc Thái chỉ
biết rất ít hoặc hầu như không biết đến các quy định pháp luật. Muốn cung cấp,
trang bị, nâng cao kiến thức pháp luật cho ĐBDT Thái thì PBGDPL chính là
phương thức hỗ trợ tích cực, là con đường nhanh chóng và hiệu quả để trang bị,
nâng cao kiến thức pháp luật cho đồng bào.
39
2.1.3.2. Phổ biến, giáo dục pháp luật góp phần góp phần cung cấp, trang
bị, nâng cao kiến thức, hiểu biết pháp luật
Hệ thống pháp luật được Nhà nước ta xây dựng, ban hành là để bảo vệ các
quyền và lợi ích của các tầng lớp nhân dân, bảo đảm lợi ích chung của cộng đồng, bảo
đảm sự công bằng và thực hành nền dân chủ xã hội. Pháp luật chỉ có thể được mọi
người thực hiện nghiêm chỉnh và thực sự phát huy hiệu quả khi họ tin tưởng vào các
nguyên tắc, quy định của pháp luật. Chỉ khi nào người dân nhận thức đúng đắn, đầy đủ
các nguyên tắc, quy định của pháp luật thì họ mới thực hiện pháp luật một cách tự giác
mà không cần một biện pháp cưỡng chế nào từ phía Nhà nước. Từ vai trò cung cấp
thông tin, nâng cao kiến thức, hiểu biết pháp luật cho các tầng lớp nhân dân, hoạt động
PBGDPL có vai trò góp phần xây dựng, củng cố niềm tin của nhân dân đối với pháp luật.
2.1.3.3. Phổ biến, giáo dục pháp luật góp phần nâng cao ý thức tự giác chấp
hành pháp luật, thực hiện pháp luật.
Phổ biến, GDPL góp phần phát triển kinh tế, văn hóa, xã hội cho cộng đồng
ĐBDT Thái, tạo điều kiện cho ĐBDT Thái thực hiện, bảo vệ quyền và lợi ích hợp
pháp của mình. Góp phần thực hiện chính sách bình đẳng giữa đồng bào các dân
tộc, giảm dần sự khác biệt giữa các vùng miền khác nhau. Thông qua hoạt động
PBGDPL, củng cố niềm tin sâu sắc của ĐBDT Thái vào sự cần thiết phải tuân theo
một cách tự nguyện các quy định của pháp luật là những yếu tố quan trọng làm hình
thành hành vi pháp luật tích cực, từ đó, nâng cao ý thức tự giác chấp hành pháp luật
thực hiện pháp luật của ĐBDT Thái.
2.2. Mục đích, chủ thể, đối tượng, nội dung và hình thức phổ biến, giáo
dục pháp luật cho đồng bào dân tộc Thái
2.2.1. Mục đích của phổ biến, giáo dục pháp luật cho đồng bào dân tộc Thái
Việc xác định rõ mục đích của PBGDPL cho ĐBDT Thái ở Tây Bắc có vai
trò rất quan trọng; bởi lẽ, nếu không xác định rõ ràng, đúng đắn mục đích thì các chủ
thể PBGDPL không thể đưa ra nội dung, phương pháp và hình thức PBGDPL phù hợp;
việc thực hiện PBGDPL cho họ sẽ rơi vào tình trạng giáo điều, phong trào và kém hiệu
quả. PBGDPL cho ĐBDT Thái là một quá trình có mở đầu, có diễn biến theo từng
40
bước, từng giai đoạn cụ thể, kết thúc trong một phạm vi không gian nhất định và vào
một khoảng thời gian xác định. Các chủ thể PBGDPL phải trả lời được các câu hỏi đặt
ra: PBGDPL cho ĐBDT Thái ở để làm gì? Hoạt động này bao gồm những nội dung gì?
PBGDPL được thực hiện như thế nào, bằng cách nào? v.v... Việc trả lời câu hỏi thứ
nhất chính là xác định mục đích của PBGDPL cho đối tượng này.
Từ sự luận giải trên đây, có thể khẳng định: Mục đích của PBGDPL cho
ĐBDT Thái ở là định hướng cơ bản, xuyên suốt, là cái phải đạt được của hoạt động
PBGDPL cho đối tượng này. Đó là những thông tin, kiến thức pháp luật; thái độ,
tình cảm, niềm tin đối với pháp luật; thói quen, lối sống, hành vi xử sự tích cực theo
pháp luật mà ĐBDT Thái có thể tiếp thu và hiện thực hóa trong quá trình hoạt động
sống, lao động, sinh hoạt.
Phổ biến, GDPL cho ĐBDT Thái ở Tây Bắc phải đạt mục đích cụ thể sau:
Thứ nhất, hình thành, củng cố và nâng cao ý thức pháp luật cho người dân.
PBGDPL cho bất kỳ đối tượng nào, trước hết, cũng đều nhằm cung cấp, trang bị
những thông tin, kiến thức, hiểu biết pháp luật cho đối tượng, góp phần hình thành,
củng cố và nâng cao nhận thức, ý thức pháp luật của họ. Đây là mục đích quan trọng
đầu tiên mà hoạt động PBGDPL cho ĐBDT Thái phải đạt được; bởi lẽ, sự hiểu biết
pháp luật, nhận thức đúng đắn bản chất, vai trò xã hội của pháp luật sẽ là cơ sở để
ĐBDT Thái thêm tin tưởng vào chính sách, pháp luật của Nhà nước, sự quản lý, điều
hành của các cấp chính quyền địa phương. Hơn nữa, có kiến thức, hiểu biết pháp luật,
ĐBDT Thái sẽ có ý thức chủ động, tự giác trong tổ chức các hoạt động lao động, sinh
hoạt của mình; tự đánh giá, đối chiếu hành vi của mình với các quy định của pháp
luật khi tham gia vào các quan hệ xã hội cụ thể.
Ở nước ta hiện nay, nhìn chung, ý thức pháp luật của đội ngũ CBCC và các
tầng lớp nhân dân, trong đó có ĐBDT Thái, vẫn còn thấp do ảnh hưởng của tư
tưởng bảo thủ, nếp sống cũ thuộc nền sản xuất nhỏ lẻ, manh mún. Một bộ phận
CBCC các cấp, các ngành chưa ý thức đầy đủ về chức năng, nhiệm vụ của mình,
chưa thực sự là "công bộc" của dân; nhiều người dân vẫn chưa nhận thức đúng đắn
về các quyền và nghĩa vụ cơ bản của công dân. Bên cạnh đó, công tác PBGDPL cho
41
CBCC và nhân dân có lúc, có nơi còn bị hiểu và thực hiện chưa đúng, dẫn đến xem
nhẹ vai trò của công tác này. Đây là một trong những nguyên nhân làm cho kỷ
cương xã hội, phép nước chưa nghiêm; nhiều lúc, nhiều nơi vẫn còn xảy ra các vụ
việc vi phạm pháp luật nghiêm trọng; làm suy giảm niềm tin của nhân dân đối với
pháp luật. Từ thực tế đó, Đảng và Nhà nước ta luôn chú trọng, đề cao công tác
PBGDPL. Nghị quyết Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VI của Đảng đã nhấn
mạnh: "Coi trọng công tác giáo dục, tuyên truyền, giải thích pháp luật... Cán bộ
quản lý các cấp, từ trung ương đến đơn vị cơ sở phải có kiến thức về quản lý hành
chính và hiểu biết về pháp luật. Cần sử dụng nhiều hình thức và biện pháp để giáo
dục, nâng cao ý thức pháp... biến, giáo dục cho đồng bào dân tộc Thái những
quy định pháp luật nào sau đây?
TT Phương án trả lời
Ý kiến đồng ý
Số lượng Tỷ lệ (%)
1 Các quy định pháp luật về dân tộc, tôn giáo 76 9,1
2
Các quy định pháp luật về trách nhiệm tham gia bảo vệ giữ gìn
an ninh quốc phòng biên giới chủ quyền quốc gia, tài nguyên
khoáng sản
71 8,5
3 Các quy định pháp luật về đời sống lao động sản xuất 49 5,9
4 Tất cả 3 loại pháp luật 654 78,2
Câu 3: Ông (bà), anh (chị) có thường xuyên được phổ biến, giáo dục pháp luật không?
TT Phương án trả lời
Ý kiến đồng ý
Số lượng Tỷ lệ (%)
1 Thường xuyên 497 59,4
2 Không thường xuyên 303 36,2
3 Chưa bao giờ 36 4,3
Câu 4. Nếu ông bà thường xuyên được phổ biến pháp luật thì việc phổ biến pháp luật
đó tiến hành bằng hình thức nào dưới đây là nhiều nhất?
TT Phương án trả lời
Ý kiến đồng ý
Số lượng Tỷ lệ (%)
1 Phổ biến giáo dục pháp luật trực tiếp 381 45,6
2 Tư vấn hướng dẫn tìm hiểu pháp luật 195 23,3
3 Cung cấp thông tin tài liệu pháp luật 135 16,1
4 Thông qua các phương tiện thông tin đại chúng 247 29,5
5 Thi tìm hiểu pháp luật 110 13,2
6 Các hình thức khác 34 4,1
Câu 5: Theo ông (bà), anh (chị), đối với đồng bào dân tộc Thái ở miền núi, vùng sâu,
vùng xa, biên giới thì hình thức phổ biến, giáo dục pháp luật nào dưới đây có hiệu
quả nhất?
TT Phương án trả lời
Ý kiến đồng ý
Số lượng Tỷ lệ (%)
1 Hòa giải cơ sở 162 19,4
2 Trợ giúp pháp lý lưu động 138 16,5
3 Tư vấn pháp luật tại chỗ 278 33,3
4 Cungcấp miễn phí thông tin, tài liệu bằng tiếng thái 166 19,9
5
Lồng ghép phổ biến giáo dục pháp luật trong các hoạt
động văn hóa văn nghệ truyền thống
297 35,5
6 Các hình thức phổ biến giáo dục pháp luật khác 34 4,1
Câu 6: Ông (bà), anh (chị), muốn được thường xuyên phổ biến, giáo dục loại pháp
luật nào dưới đây?
TT Phương án trả lời
Ý kiến đồng ý
Số lượng Tỷ lệ (%)
1 Pháp luật về hôn nhân và gia đình 476 4,1
2 Pháp luật về giao thông đường bộ 345 413
3 Pháp luật về đất đai 330 39,5
4 Phápluật về tài nguyên khoáng sản 126 15,1
5 Các loại pháp luật khác 26 3,1
Câu 7: Ông (bà), anh (chị) có nhận xét gì về Phương án trả lời phổ biến, giáo dục
pháp luật cho đồng bào dân tộc Thái hiện nay?
TT Phương án trả lời
Ý kiến đồng ý
Số lượng Tỷ lệ (%)
1 Chung chung trừu tượng khó hiểu 221 26,4
2 Sát với đời sống lao động sản xuất của đồng bào Thái 321 38,4
3 Cụ thể, dễ hiểu 269 32,2
4 Xa với đời sống và lao động sản xuất của đồng bào Thái 91 10,9
5 Nhận xét khác 19 2,3
Câu 8: Ông (bà), anh (chị) có nhận xét gì về cán bộ tuyên truyền, phổ biến, giáo dục
pháp luật cho đồng bào dân tộc Thái hiện nay?
TT Phương án trả lời
Ý kiến đồng ý
Số lượng Tỷ lệ (%)
1 Chưa am hiểu sâu về pháp luật 199 23,8
2 Am hiểu sâu về pháp luật 166 19,9
3 Chưa biết cách tuyên truyền, phổ biến pháp luật 216 25,8
4 Đã biết cách tuyên truyền phổ biến pháp luật 239 35
5 Nhận xét khác 13 1,6
Câu 9: Theo ông (bà), anh (chị), trong thời gian tới, Phương án trả lời phổ biến, giáo
dục pháp luật cho đồng bào dân tộc Thái cần được lựa chọn như thế nào để việc phổ
biến, giáo dục pháp luật có hiệu quả hơn?
TT
Phương án trả lời
Ý kiến đồng ý
Số lượng Tỷ lệ (%)
1
Phù hợp với lứa tuổi trình độ của người được phổ biến
giáo dục pháp luật
465 55,6
2
Sát với thực tế cuộc sống và lao động sản xuất của đồng
bào dân tộc Thái vùng Tây Bắc
416 49,8
3 Các hình thức khác 26 3,1
Câu 10: Ông (bà), anh (chị) có kiến nghị gì về hình thức phổ biến, giáo dục pháp luật
cho đồng bào dân tộc Thái trong thời gian tới?
TT Phương án trả lời
Ý kiến đồng ý
Số lượng Tỷ lệ (%)
1
Phù hợp với lứa tuổi trình độ của người được phổ biến
giáo dục pháp luật
344 41,1
2
Phải thiết thực và tiết kiệm về thời gian công sức cho
đồng bào
272 32,5
3 Phải phối kết hợp chặt chẽ hài hòa và thường xuyên hơn nữa 314 37,6
4 Các kiến nghị khác 7 0,8
Phụ lục 4
PHIẾU ĐIỀU TRA XÃ HỘI HỌC
Dành cho Mặt trận Tổ quốc Việt Nam và các thành viên của Mặt trận;
các tổ chức hành nghề về pháp luật và tổ chức xã hội - nghề nghiệp về pháp luật
Để có căn cứ đánh giá thực trạng phổ biến, giáo dục pháp luật cho đồng bào dân tộc
Thái ở Tây Bắc hiện nay, từ đó đề xuất biện pháp nâng cao hiệu quả phổ biến,giáo dục pháp
luật cho cho đồng bào dân tộc Thái, chúng tôi mong các ông (bà), anh (chị) cho ý kiến của
mình bằng cách trả lời các câu hỏi trong Phiếu hỏi này. Đối với câu hỏi đã có sẵn các
phương án trả lời, ông (bà), anh (chị) đồng ý với phương án nào xin đánh dấu "X" vào
phương án đó; đối với câu hỏi không có sẵn phương án trả lời, đề nghị ông (bà), anh (chị)
vui lòng trả lời cụ thể. Ý kiến của ông (bà), anh (chị) sẽ là những thông tin rất có giá trị đối
với công tác nghiên cứu khoa học của chúng tôi. Chúng tôi cam kết chỉ sử dụng thông tin và
ý kiến của ông (bà), anh (chị) trong hoạt động nghiên cứu khoa học.
Rất mong nhận được sự giúp đỡ nhiệt tình của ông (bà), anh (chị).
Xin trân trọng cảm ơn!
Câu 1: Theo Quý vị, việc phổ biến, giáo dục pháp luật cho đồng bào dân tộc Thái ở
Tây Bắc hiện nay có cần thiết không?
1. Rất cần thiết 2. Cần thiết 3. Không cần thiết
Câu 2: Nếu Quý vị cho rằng việc phổ biến, giáo dục pháp luật cho đồng bào dân tộc
Thái ở Tây Bắc là cần thiết, thì theo Quý vị, do những nguyên nhân nào dưới đây?
1. Trình độ hiểu biết pháp luật của đồng bào dân tộc Thái còn hạn chế
2. Tình hình vi phạm pháp luật có chiều hướng gia tăng
3. Ý thức tôn trọng và chấp hành pháp luật thấp kém
4. Cả 3 nguyên nhân trên
Câu 3: Tổ chức của Quý vị có thường xuyên tổ chức phổ biến, giáo dục pháp luật
cho hội viên, đoàn viên của Tổ chức mình không?
1. Thường xuyên 2. Không thường xuyên 3. Không bao giờ
Câu 4: Nếu Tổ chức của Quý vị thường xuyên tổ chức phổ biến, giáo dục pháp luật
cho hội viên, đoàn viên của Tổ chức mình thì sử dụng những hình thức nào dưới đây?
1. Xây dựng, tập huấn, bồi dưỡng đội ngũ báo cáo viên pháp luật và
tuyên truyền viên của Tổ chức mình
2. Mời chuyên gia pháp luật trực tiếp nói chuyện và phổ biến pháp luật
cho hội viên, đoàn viên
3. Tổ chức thi tìm hiểu pháp luật trong nội bộ Tổ chức mình
4. Lồng ghép phổ biến, giáo dục pháp luật trong hoạt động văn hóa,
văn nghệ của Tổ chức mình
5. Tập huấn kiến thức pháp luật cho hội viên, đoàn viên Tổ chức mình
6. Tất cả các hình thức trên
Câu 5: Tổ chức của Quý vị có thường xuyên tham gia phổ biến, giáo dục pháp luật
cho đồng bào dân tộc Thái ở Tây Bắc không?
1. Thường xuyên 2. Không thường xuyên 3. Chưa bao giờ
Câu 6. Nếu tham gia phổ biến, giáo dục pháp luật cho đồng bào dân tộc Thái ở Tây
Bắc thì tổ chức của Quý vị thường xuyên sử dụng hình thức phổ biến, giáo dục pháp
luật nào dưới đây?
1. Nói chuyện pháp luật trực tiếp
2. Tham gia hòa giải ở cơ sở
3. Trợ giúp pháp lý lưu động
4. Tư vấn pháp luật tại chỗ
5. Cung cấp miễn phí thông tin, tài liệu pháp luật bằng tiếng Thái
6. Lồng ghép phổ biến, giáo dục pháp luật vào hoạt động văn hóa,
văn nghệ truyền thống của đồng bào dân tộc Thái
7. Tất cả những hình thức trên
Câu 7: Theo Quý vị, loại quy định pháp luật nào dưới đây cần phổ biến, giáo dục
thường xuyên nhất cho đồng bào dân tộc Thái ở Tây Bắc hiện nay?
1. Các quy định pháp luật về dân tộc
2. Các quy định pháp luật về tôn giáo
3. Các quy định pháp luật về trách nhiệm tham gia bảo vệ an ninh,
quốc phòng, biên giới, chủ quyền quốc gia, tài nguyên và khoáng sản
4. Các quy định pháp luật gắn liền với đời sống và lao động, sản xuất
của đồng bào dân tộc Thái
5. Các quy định pháp luật về hôn nhân và gia đình
6. Các quy định pháp luật về bình đẳng giới, phòng chống bạo lực gia đình
7. Các quy định pháp luật về bảo vệ môi trường
8. Các loại quy định pháp luật khác (nếu có): ......................................................................
............................................................................................................................................
Câu 8: Theo Quý vị, trong các hình thức phổ biến, giáo dục pháp luật sau đây thì
hình thức nào đạt hiệu quả cao nhất?
1. Nói chuyện pháp luật trực tiếp
2. Tham gia hòa giải ở cơ sở
3. Trợ giúp pháp lý lưu động
4. Tư vấn pháp luật
5. Cung cấp miễn phí thông tin, tài liệu pháp luật bằng tiếng Thái
6. Lồng ghép phổ biến, giáo dục pháp luật vào hoạt động văn hóa,
văn nghệ truyền thống của đồng bào dân tộc Thái
Câu 9: Có ý kiến cho rằng trợ giúp pháp lý lưu động cho người dân là hình thức có
nhiều ưu thế và đạt hiệu quả cao nhất so với các hình thức khác. Ý kiến của Quý vị
như thế nào?
1. Đúng 2. Không đúng 3. Không biết
Câu 10: Những người ủng hộ quan điểm cho rằng trợ giúp pháp lý lưu động có nhiều
lợi thế và đạt hiệu quả cao nhất vì cán bộ trợ giúp pháp lý tới tận người dân để trợ
giúp, người dân không phải đến trung tâm để trợ giúp, như vậy sẽ tiết kiệm chi phí
sức người, sức của cho người dân. Ngoài ra, cán bộ trợ giúp pháp lý trực tiếp giải đáp
các thắc mắc, các câu hỏi của người dân thông qua các ví dụ cụ thể, tình huống cụ
thể, làm cho người dân dễ hiểu, dễ vận dụng.
Quý vị có tán thành với ý kiến trên hay không?
1. Tán thành 2. Không tán thành 3. Không biết
Câu 11: Trong quá trình phổ biến, giáo dục pháp luật cho đồng bào dân tộc Thái hiện
nay, quý vị thường gặp khó khăn, vướng mắc gì dưới đây?
1. Trình độ văn hóa của người dân thấp kém
2. Đi lại khó khăn
3. Kinh phí cho hoạt động phổ biến, giáo dục pháp luật còn hạn hẹp
4. Trình độ và năng lực của cán bộ làm công tác phổ biến, giáo dục pháp luật
còn hạn chế
5. Các khó khăn, vướng mắc khác (nếu có): ........................................................................
............................................................................................................................................
Câu 12: Quý vị có kiến nghị gì với Nhà nước trong việc hỗ trợ, tạo điều kiện cho Tổ
chức mình tham gia phổ biến, giáo dục pháp luật cho đồng bào dân tộc Thái?
1. Hỗ trợ kinh phí cho hoạt động phổ biến, giáo dục pháp luật
2. Cung cấp miễn phí sách báo, tài liệu pháp luật
3. Hỗ trợ phương tiện phục vụ phổ biến, giáo dục pháp luật
4. Đào tạo, bồi dưỡng miễn phí báo cáo viên pháp luật, tuyên truyền viên
pháp luật của Tổ chức
5. Các hỗ trợ khác (nếu có): ................................................................................................
............................................................................................................................................
Câu 13: Xin Quý vị cho biết những thông tin cần thiết về cá nhân (nếu có thể):
1. Giới tính: Nam Nữ
2. Tuổi: Dưới 30 31 - 50 51 trở lên
3. Trình độ học vấn và chuyên môn:
Trung học phổ thông Trung cấp
Cao đẳng, đại học Sau đại học
4. Cơ quan, tổ chức làm việc
Cơ quan đảng Cơ quan nhà nước
Đoàn thể CT-XH Các tổ chức khác
5. Chức vụ: .........................................................................................................................
KẾT QUẢ ĐIỀU TRA XÃ HỘI HỌC
dành cho Mặt trận Tổ quốc Việt Nam và các thành viên của Mặt trận; các tổ chức
hành nghề về pháp luật và tổ chức xã hội - nghề nghiệp về pháp luật
(Qua khảo sát 210 phiếu hỏi ý kiến)
Thông tin chung
TT Phương án trả lời
Kết quả
Số lượng Tỷ lệ (%)
1 Giới tính
Số lượng 210 100,0
Nam 118 56,2
Nữ 92 43,8
2 Tuổi
Số lượng 210 100,0
Dưới 30 92 43,8
Từ 31 đến 50 109 51,9
Trên 50 9 4,3
3
Trình độ học
vấn và
chuyên môn
Số lượng 210 100,0
Trung học phổ thông 33 15,7
Trung cấp 74 38,2
Cao đẳng và Đại học 80 38,1
Trên Đại học 23 11,0
4
Cơ quan, tổ
chức làm
việc
Số lượng 210 100,0
Cơ quan Đảng 9 4,3
Cơ quan nhà nước 131 62,4
Đoàn thể chính trị-xã hội 48 22,9
Các tổ chức khác 22 10,5
5 Chức vụ
Không có chức vụ 132 62,9
Có chức vụ 78 37,1
Câu 1: Theo Quý vị, việc phổ biến, giáo dục pháp luật cho đồng bào dân tộc Thái ở
Tây Bắc hiện nay có cần thiết không?
TT Phương án trả lời Ý kiến đồng ý Tỷ lệ (%)
1 Rất cần thiết 10 5,7
2 Cần thiết 131 62,4
3 Không cần thiết 67 31,9
Câu 2: Nếu Quý vị cho rằng việc phổ biến, giáo dục pháp luật cho đồng bào dân tộc
Thái ở Tây Bắc là cần thiết, thì theo Quý vị, do những nguyên nhân nào dưới đây?
TT Phương án trả lời
Ý kiến đồng ý
Số lượng Tỷ lệ (%)
1 Trình độ hiểu biết pháp luật của đồng bào dân tộc Thái
còn hạn chế
41 19,5
2 Tình hình vi phạm pháp luật có chiều hướng gia tăng 18 8,6
3 Ý thức tôn trọng và chấp hành pháp luật thấp kém 18 8,6
4 Cả 3 nguyên nhân trên 132 62,9
Câu 3: Tổ chức của Quý vị có thường xuyên tổ chức phổ biến, giáo dục pháp luật cho
hội viên, đoàn viên của Tổ chức mình không?
TT Phương án trả lời Ý kiến đồng ý Tỷ lệ (%)
1 Thường xuyên 138 65,7
2 Không thường xuyên 38 18,1
3 Không bao giờ 34 16,2
Câu 4: Nếu Tổ chức của Quý vị thường xuyên tổ chức phổ biến, giáo dục pháp luật
cho hội viên, đoàn viên của Tổ chức mình thì sử dụng những hình thức nào dưới đây?
TT Phương án trả lời
Ý kiến đồng ý
Số lượng Tỷ lệ (%)
1 Xây dựng, tập huấn, bồi dưỡng đội ngũ báo cáo viên pháp
luật và tuyên truyền viên của Tổ chức mình
52 24,8
2 Mời chuyên gia pháp luật trực tiếp nói chuyện và phổ biến
pháp luật cho hội viên, đoàn viên
14 6,7
3 Tổ chức thi tìm hiểu pháp luật trong nội bộ Tổ chức mình 27 12,9
4 Lồng ghép phổ biến, giáo dục pháp luật trong hoạt động
văn hóa, văn nghệ của Tổ chức mình
63 30,0
5 Tập huấn kiến thức pháp luật cho hội viên, đoàn viên Tổ
chức mình
24 11,4
6 Tất cả các hình thức trên 88 41,9
Câu 5: Tổ chức của Quý vị có thường xuyên tham gia phổ biến, giáo dục pháp luật
cho đồng bào dân tộc Thái ở Tây Bắc không?
TT Phương án trả lời Ý kiến đồng ý Tỷ lệ (%)
1 Thường xuyên 109 51,9
2 Không thường xuyên 54 25,7
3 Chưa bao giờ 47 22,4
Câu 6. Nếu tham gia phổ biến, giáo dục pháp luật cho đồng bào dân tộc Thái ở Tây
Bắc thì Tổ chức của Quý vị thường xuyên sử dụng hình thức phổ biến, giáo dục pháp
luật nào dưới đây?
TT Phương án trả lời
Ý kiến đồng ý
Số lượng Tỷ lệ %
1 Nói chuyện pháp luật trực tiếp 48 22,9
2 Tham gia hòa giải ở cơ sở 43 20,5
3 Trợ giúp pháp lý lưu động 52 24,8
4 Tư vấn pháp luật tại chỗ 30 14,3
5 Cung cấp miễn phí thông tin, tài liệu pháp luật bằng tiếng Thái 18 8,6
6
Lồng ghép phổ biến, giáo dục pháp luật vào hoạt động văn
hóa, văn nghệ truyền thống của đồng bào dân tộc Thái
41 19,5
7 Tất cả những hình thức trên 50 23,8
Câu 7: Theo Quý vị, loại quy định pháp luật nào dưới đây cần phổ biến, giáo dục
thường xuyên nhất cho đồng bào dân tộc Thái ở Tây Bắc hiện nay?
TT Phương án trả lời
Ý kiến đồng ý
Số lượng Tỷ lệ %
1 Các quy định pháp luật về dân tộc 52 24,8
2 Các quy định pháp luật về tôn giáo 54 25,7
3
Các quy định pháp luật về trách nhiệm tham gia bảo vệ an
ninh, quốc phòng, biên giới, chủ quyền quốc gia, tài nguyên
và khoáng sản
79 37,6
4
Các quy định pháp luật gắn liền với đời sống và lao động,
sản xuất của đồng bào dân tộc Thái
68 32,4
5 Các quy định pháp luật về hôn nhân và gia đình 93 44,3
6
Các quy định pháp luật về bình đẳng giới, phòng chống bạo
lực gia đình
74 35,2
7 Các quy định pháp luật về bảo vệ môi trường 58 27,6
8 Các loại quy định pháp luật khác (nếu có): 21 10,0
Câu 8: Theo Quý vị, trong các hình thức phổ biến, giáo dục pháp luật sau đây thì
hình thức nào đạt hiệu quả cao nhất?
TT Phương án trả lời
Ý kiến đồng ý
Số lượng Tỷ lệ (%)
1 Nói chuyện pháp luật trực tiếp 83 29,5
2 Tham gia hòa giải ở cơ sở 39 18,6
3 Trợ giúp pháp lý lưu động 67 31,9
4 Tư vấn pháp luật 26 12,4
5 Cung cấp miễn phí thông tin, tài liệu pháp luật bằng tiếng Thái 26 12,4
6
Lồng ghép phổ biến, giáo dục pháp luật vào hoạt động văn
hóa, văn nghệ truyền thống của đồng bào dân tộc Thái
54 25,7
Câu 9: Có ý kiến cho rằng trợ giúp pháp lý lưu động cho người dân là hình thức có
nhiều ưu thế và đạt hiệu quả cao nhất so với các hình thức khác. Ý kiến của Quý vị
như thế nào?
TT Phương án trả lời Ý kiến đồng ý Tỷ lệ (%)
1 Không biết 40 19,0
2 Đúng 133 63,3
3 Không đúng 37 17,6
Câu 10: Những người ủng hộ quan điểm cho rằng trợ giúp pháp lý lưu động có nhiều
lợi thế và đạt hiệu quả cao nhất vì cán bộ trợ giúp pháp lý tới tận người dân để trợ
giúp, người dân không phải đến trung tâm để trợ giúp, như vậy sẽ tiết kiệm chi phí
sức người, sức của cho người dân. Ngoài ra, cán bộ trợ giúp pháp lý trực tiếp giải đáp
các thắc mắc, các câu hỏi của người dân thông qua các ví dụ cụ thể, tình huống cụ
thể, làm cho người dân dễ hiểu, dễ vận dụng.
Quý vị có tán thành với ý kiến trên hay không?
TT Phương án trả lời Ý kiến đồng ý Tỷ lệ (%)
1 Không biết 35 16,7
2 Tán thành 145 69,0
3 Không tán thành 30 14,3
Câu 11: Trong quá trình phổ biến, giáo dục pháp luật cho đồng bào dân tộc Thái hiện
nay, quý vị thường gặp khó khăn, vướng mắc gì dưới đây?
TT Phương án trả lời
Ý kiến đồng ý
Số lượng Tỷ lệ (%)
1 Trình độ văn hóa của người dân thấp kém 83 39,5
2 Đi lại khó khăn 45 21,4
3
Kinh phí cho hoạt động phổ biến, giáo dục pháp luật còn
hạn hẹp
88 41,9
4
Trình độ và năng lực của cán bộ làm công tác phổ biến,
giáo dục pháp luật còn hạn chế
54 25,7
5 Các khó khăn, vướng mắc khác (nếu có) 22 10,5
Câu 12: Quý vị có kiến nghị gì với Nhà nước trong việc hỗ trợ, tạo điều kiện cho Tổ
chức mình tham gia phổ biến, giáo dục pháp luật cho đồng bào dân tộc Thái?
TT Phương án trả lời
Ý kiến đồng ý
Số lượng Tỷ lệ (%)
1 Hỗ trợ kinh phí cho hoạt động phổ biến, giáo dục pháp luật 112 53,3
2 Cung cấp miễn phí sách báo, tài liệu pháp luật 55 26,2
3 Hỗ trợ phương tiện phục vụ phổ biến, giáo dục pháp luật 68 32,4
4
Đào tạo, bồi dưỡng miễn phí báo cáo viên pháp luật,
tuyên truyền viên pháp luật của tổ chức
51 24,3
5 Các hỗ trợ khác (nếu có): 21 10,0
Phụ lục 5
Thống kê tình hình đồng bào dân tộc Thái và Tây Bắc
1. Thống kê tình hình phân bố, số lượng người dân tộc Thái ở Tây Bắc
Đơn vị tính: người
Cả nước Tây Bắc Điện Biên Lai Châu Lào Cai Yên Bái Sơn La Hòa Bình
Dân tộc thiểu số 13 386 330 3 345 377 461 359 358 879 447 473 445 858 1 006 312 625 496
Dân tộc Thái 1 719 654 1 077 186 206 261 134 281 1 875 58 178 643 726 32 865
Tỉ lệ % dân số VN 12,8 32,2 44,7 37,4 0,4 13,0 64,0 5,3
Tỉ lệ % so với người
dân tộc thiểu số
14,4 33,3 45,9 37,4 0,4 13,8 65,7 5,5
Nguồn: [117, tr. 97].
2. Thống kê tình hình học vấn, đào tạo nghề của người dân tộc Thái
Tình trạng học vấn
Tỉ lệ
đi học
nói chung
Số lượng,tỉ lệ người từ
15 tuổi trở lên biết
đọc,viết chữ phổ thông
Số lượng, tỉ lệ
người từ 15 tuổi trở lên
biết đọc, viết
Chưa tốt
nghiệp tiểu
học (%)
Tốt nghiệp
tiểu học
(%)
Tốt nghiệp
THCS
(%)
Tốt nghiệp
THPT trở
lên (%)
Tỉ lệ (%)
Số lượng
(người)
Tỉ lệ (%)
Số lượng
(người)
Tỉ lệ (%)
Tổng số 19,82 33,47 29,3 17,41 78,04 990 708 81,0 993 700 81,3
Nam 16.15 32.64 32.31 18.89 78.54 548 119 90,4 549 719 90,7
Nữ 24.2 34.47 25.69 15.65 77.52 442 589 71,8 443 981 72,0
Nguồn: [117, tr. 177].
3. Thống kê tình hình lao động của người dân tộc Thái
Tỉ lệ hộ
có làm
nghề
truyền
thống
(%)
Số lượng,tỉ lệ hộ
có làm dịch vụ,
du lịch
Nghề Nghiệp
Cơ cấu lao động chia theo nhóm nghề nghiệp
(%)
Tình trạng việc làm
của người dân tộc Thái
từ 15 tuổi trở lên
Số
lượng
(số hộ)
Tỉ lệ
(%)
Lao
động có
kĩ năng
cao (%)
Lao
động có
kĩ năng
trung
bình
(%)
Lao
động
không
có kĩ
năng
(%)
Thất
nghiệp
(%)
Nhà
lãnh
đạo
Lao động
có kĩ năng
trong
nông,
lâm, ngư
nghiệp
Quản lí
chuyên
môn kỹ
thuật bậc
cao và
trung
bình
Nhân
viên/thợ
/ lao
động có
kĩ thuật
Lao
động
đơn
giản
Số lượng
(người)
Tỷ lệ
(%)
Cơ cấu
lao
động
có việc
làm
(%)
Tổng số 2,6 1 152 0,3 0,6 7,4 2,8 15,3 83,9 1 104 470 90,2
Nam 2,96 20,89 75,45 0,7 50,7
Nữ 2,7 7,89 88,95 0,46 49,3
Nguồn: [117, tr. 149].
4. Thống kê tình hình sử dụng thiết bị truyền thông, thông tin của người dân tộc Thái
Số lượng và tỉ lệ hộ
gia đình có đài radio,
cát-set
Số lượng và tỉ lệ hộ
gia đình có ti vi
Số lượng và hộ gia đình
có kết nối mạng internet
(wifi, cáp hoặc 3G)
Số hộ gia đình
có điện thoại (cố định
hoặc di động)
Số hộ gia đình sử dụng
điện lưới
Số lượng (hộ) Tỉ lệ (%) Số lượng (hộ) Tỉ lệ (%) Số lượng (hộ) Tỉ lệ (%) Số lượng (hộ) Tỉ lệ(%) Số lượng (hộ) Tỉ lệ (%)
15.717 4,0 340 544 87,0 10 702 2,7 301 003 77,0 93,3
Nguồn: [117, tr. 134, 135, 150, 151].
5. Thống kê tình hình giữ gìn văn hóa truyền thống của người dân tộc Thái
Số hộ và tỉ lệ hộ có các thành viên của hộ biết
múa điệu múa truyền thống của dân tộc mình
Số hộ và tỉ lệ hộ có các thành viên của hộ biết
hát bài hát truyền thống của dân tộc mình
Số hộ và tỉ lệ hộ có các thành viên của hộ biết
sử dụng nhạc cụ truyền thống của dân tộc mình
Số hộ Tỉ lệ (%) Số lượng (hộ) Tỉ lệ (%) Số lượng (hộ) Tỉ lệ (%)
134.606 34,4 73.120 18,7 33.729 8,6
Nguồn: [117, tr. 172, 173, 174].
Phụ lục 6
Thống kê tình hình phổ biến, giáo dục pháp luật ở Tây Bắc
1. Thống kê số lượng thành viên hội đồng phối hợp PBGDPL, báo cáo viên,
tuyên truyền viên pháp luật, cán bộ pháp chế làm công tác PBGDPL ở Tây Bắc
TT
Tỉnh/
thành phố
Giai đoạn 2003 đến 2009 Giai đoạn 2010 đến nay
Thành
viên
HĐPH
PBGDPL
Báo cáo
viên
pháp
luật cấp
tỉnh
Báo cáo
viên
pháp
luật cấp
huyện
Tuyên
truyền
viên
pháp
luật
Cán bộ
thực
hiện
nhiệm
vụ
PBGDPL
Cán bộ
pháp
chế thực
hiện
nhiệm
vụ
PBGDPL
Thành
viên
HĐPH
PBGDPL
Báo cáo
viên
pháp
luật cấp
tỉnh
Báo cáo
viên
pháp
luật cấp
huyện
Tuyên
truyền
viên
pháp
luật
Cán bộ
thực
hiện
nhiệm
vụ
PBGDPL
Cán bộ
pháp
chế thực
hiện
nhiệm
vụ
PBGDPL
Tổng cộng 114 506 1.531 8.956 899 86 157 587 1.667 13.241 1.487 313
1 Điện Biên 28 67 234 1.580 144 19 45 105 258 1.956 339 23
2 Hòa Bình 27 167 505 1.236 231 37 87 270 1.662 368 125
3 Lai Châu 22 47 284 1.578 98 33 62 353 1.631 120 43
4 Lào Cai 144 212 1.329 184 49 151 248 2.586 209 55
5 Sơn La 37 81 296 3.233 242 18 42 138 338 2.613 451 21
6 Yên Bái 44 200 2.793 46
Nguồn: [3, Phụ lục số 08].
2. Kinh phí cho công tác phổ biến, giáo dục pháp luật ở Tây Bắc
Giai đoạn từ 2010-2019
Kinh phí cấp tỉnh
Kinh phí cấp huyện Kinh phí cấp xã Kinh phí NSNN
phân bổ thường xuyên
Kinh phí NSNN cấp
theo Chương trình,
Đề án
Kinh phí từ nguồn
hỗ trợ khác
Cả nước 944.587.858.165 324.640.019.000 17.575.652.000 824.413.600.903 636.399.677.938
Tây Bắc 23.396.747.000 14.788.192.960 35.399.115.000
Điện Biên 3.203.408.000 5.201.592.960 4.691.000.000 1.811.000.000
Hòa Bình 11.000.000.000 4.000.000.000 8.301.000.000 6.624.000.000
Lào Cai 5.586.600.000 3.150.000.000 5.670.000.000
Sơn La 9.193.339.000 19.257.115.000 7.485.705.000
Yên Bái
Giai đoạn từ 2010-2019
Kinh phí cấp tỉnh
Kinh phí cấp huyện Kinh phí cấp xã Kinh phí NSNN
phân bổ thường xuyên
Kinh phí NSNN cấp
theo Chương trình,
Đề án
Kinh phí từ nguồn
hỗ trợ khác
Cả nước 194.693.224.770 28.421.369.000 7.473.006.474 246.873.365.485 181.504.854.200
Tây Bắc .... .... .... .... .....
Điện Biên 2.911.000.000 1.514.006.474 534.000.000 249.600.000
Hòa Bình 1.607.838.000 256.000.000 418.500.000 1.216.880.000
Lào Cai
Sơn La 2.246.365.900 5.258.625.000 1.234.000.000
Yên Bái
Nguồn: [3, Phụ lục số 04].
3. Thống kê số lượng các văn bản hướng dẫn triển khai PBGDPL của các tỉnh Tây Bắc
Tên tỉnh/thành phố
Các loại văn bản
Ghi
chú Chỉ thị
Nghị quyết/
Thông tri
Thông báo/
Kết luận
Chương trình
hành động
Quyết định Kế hoạch
Công văn/
Hướng dẫn
Cả nước 157 108 11 4 448 712 128 0
Tây Bắc 13 17 3 86 103 40
Điện Biên 4 3 1 13 23 28
Hòa Bình 1 2 6
Lai Châu 5 2 5 13
Lào Cai * 2 5 1 53 49 12
Sơn La 1 5 1 6 9
Yên Bái 2 4 3
Ghi chú: * Thống kê văn bản hướng dẫn của 03 cấp và của Hội đồng phối hợp PBGDPL tỉnh
Nguồn: [3, Phụ lục số 03].
4. Danh mục thực hiện đề án phổ biến, giáo dục pháp luật giai đoạn 2013-2016 các tỉnh Tây Bắc
TT
Địa
phương
ĐA NT, DTTS
(1)
ĐA NNL
(2)
ĐA NT
(3)
ĐA NLĐ
(4)
ĐA KN, TC
(5)
ĐA CĐDC
(6)
ĐA BGHĐ
(7)
ĐA ĐBTĐ
(8)
ĐA XHH
(9)
ĐA khác
(10)
1
Điện
Biên
ĐA dân sự,
chính trị
2
Hòa
Bình
44/KH-
UBND ngày
19/6/2014
37/KH-
UBND ngày
25/5/2015
35/KH-
UBND ngày
25/5/2015
38/KH-
UBND ngày
25/5/2015
ĐA Tăng
cường công
tác PBGDPL
trên Đài PTTH
tỉnh giai đoạn
2013-2016
3
Lai
Châu
1168/KH-
UBND ngày
09/9/2013
1039/KH-
UBND ngày
19/8/2013
1437/QĐ-
UBND ngày
07/11/2013
1426/KH-
UBND ngày
05/11/2012
630/KH-
UBND ngày
09/5/2014
118/KH-
MTTQ-BTT
ngày 08/5/2014
885/KH-
UBND
09/KH-HLG
ngày
19/12/2013
4 Lào Cai
108/KH-
UBND ngày
03/6/2013
1483/QĐ-
UBND ngày
27/5/2015
95/KH-
UBND ngày
16/5/2013
152/KH-
UBND ngày
27/8/2013
151/KH-
UBND ngày
27/8/2013
55/KH-
UBND ngày
08/4/2014
38/KH-
UBND ngày
12/02/2015
2499/QĐ-
UBND ngày
07/8/2015
5 Sơn La
50/KH-
UBND ngày
27/5/2013
1825/QĐ-
UBND ngày
23/8/2013
758/QĐ-
UBND ngày
17/4/2013
27/Kh-
UBND ngày
09/4/2013
1176/QĐ-
UBND ngày
16/5/2014
1526/QĐ-
UBND ngày
12/6/2014
134/KH-
UBND ngày
23/11/2015
67/KH-
UBND ngày
28/8/2014
ĐA dân sự,
chính trị.
6 Yên Bái
GHI CHÚ: * Thông tin số liệu do các bộ, ngành, địa phương cung cấp tại báo cáo tổng kết 15 năm thực hiện Chỉ thị số 32-CT/TW
(1) Đề án “Tuyên truyền, phổ biến pháp luật cho người dân nông thôn và đồng bào dân tộc thiểu số”
(2) Đề án Củng cố, kiện toàn và nâng cao chất lượng nguồn nhân lực trong công tác phổ biến, giáo dục pháp luật đáp ứng yêu cầu đổi mới,
phát triển của đất nước
(3) Đề án Nâng cao chất lượng công tác phổ biến, giáo dục pháp luật trong nhà trường
(4) Đề án Tuyên truyền, phổ biến pháp luật cho người lao động và người sử dụng lao động trong các loại hình doanh nghiệp
(5) Đề án “Tiếp tục tăng cường công tác phổ biến, giáo dục pháp luật về khiếu nại, tố cáo ở xã, phường, thị trấn giai đoạn 2012 - 2016”
(6) Đề án “Tiếp tục xây dựng và đẩy mạnh công tác tuyên truyền, vận động chấp hành pháp luật trong cộng đồng dân cư giai đoạn 2012 - 2016”
(7) Đề án “Tăng cường phổ biến, giáo dục pháp luật cho cán bộ, nhân dân vùng biên giới, hải đảo giai đoạn 2012 - 2016” ”
(8) Xây dựng Đề án “Tăng cường công tác phổ biến, giáo dục pháp luật tại một số địa bàn trọng điểm về vi phạm pháp luật giai đoạn 2012 - 2016”
(9) Đề án “Xã hội hóa công tác phổ biến, giáo dục pháp luật và trợ giúp pháp lý giai đoạn 2012-2016”
(10) Đề án khác về phổ biến, giáo dục pháp luật
Nguồn: [2, Phụ lục số IIc].
5. Danh mục đề án phổ biến, giáo dục pháp luật giai đoạn 2017 - 2021 thực hiện ở Tây Bắc*
TT
Địa
phương
ĐA NT
(1)
ĐA NLĐ
(2)
ĐA BĐBP
(3)
ĐA ĐBTĐ
(4)
ĐA XHH
(5)
ĐA BCA
(6)
ĐA DTTS & MN
(7)
DA ĐĐ
(8)
ĐA khác
(9)
1
Điện
Biên
3038/KH-
UBND ngày
16/10/2017
1377/KH-
UBND ngày
28/5/2018
3205/KH-
UBND ngày
31/10/2017
705/KH-UBND ngày
26/3/2018 ĐA thanh
thiếu niên
2
Hòa
Bình
Sở GD tiếp
tục thực hiện
ĐA nhà
trường
122/KH-
UBND ngày
30/8/2017
143/KH-
UBND ngày
11/10/2018
ĐA thanh thiếu niên;
tiếp tục thực hiện Đề
án phòng, chống
tham nhũng
3 Lai Châu
2216/KH-
UBND ngày
30/11/2017
1919/KH-
UBND ngày
18/10/2017
754/KH-
UBND ngày
27/4/2017
33/KH-HLG
ngày 8/8/2017
607/KH-
UBND ngày
08/5/2018
ĐA thanh thiếu niên;
ĐA phòng, chống
tra tấn
4 Lào Cai
312/KH-
UBND ngày
05/12/2017
06/KH-UBND
ngày
09/01/2018
293/KH-
UBND ngày
13/11/2017
247/KH-
UBND ngày
19/9/2017
178/KH-UBND
ngày 25/5/2018
ĐA Hỗ trợ hoạt động
bình đẳng giới vùng
dân tộc thiểu số
5 Sơn La
200/KH-
UBND ngày
02/12/2017
2458/QĐ-
UBND ngày
18/9/2017
2685/QĐ-
UBND ngày
16/10/2017
162/KH-
UBND ngày
29/9/2017
169/KH-
UBND ngày
13/10/2017
84/KH-UBND
ngày
21/4/2018
ĐA thanh thiếu niên;
ĐA phòng, chống tra
tấn; ĐA dân sự,
chính trị
6 Yên Bái
GHI CHÚ: * Danh mục tính đến ngày 01/5/2019, thông tin số liệu do các bộ, ngành, địa phương cung cấp tại báo cáo tổng kết 15 năm thực hiện Chỉ thị số 32-CT/TW
(1) Đề án “Nâng cao chất lượng công tác PBGDPL trong nhà trường” đến năm 2021
(2) Đề án “Tuyên truyền, phổ biến pháp luật cho người lao động và người sử dụng lao động trong các loại hình doanh nghiệp” đến năm 2021
(3) Đề án “Tăng cường PBGDPL cho cán bộ, nhân dân vùng biên giới, hải đảo giai đoạn 2012 - 2016” đến năm 2021
(4) Đề án “Tăng cường công tác PBGDPL tại một số địa bàn trọng điểm về vi phạm pháp luật giai đoạn 2012 - 2016” đến năm 2021
(5) Đề án “Xã hội hóa công tác PBGDPL và trợ giúp pháp lý giai đoạn 2012 - 2016” đến năm 2021
(6) Đề án “Tăng cường PBGDPL cho người đang chấp hành hình phạt tù; người bị áp dụng các biện pháp tư pháp hoặc các biện pháp xử lý hành chính, người mới ra
tù tái hòa nhập cộng đồng, thanh thiếu niên vi phạm pháp luật, lang thang cơ nhỡ giai đoạn 2018-2021”
(7) Đề án “Tăng cường ứng dụng công nghệ thông tin trong công tác phổ biến, giáo dục pháp luật giai đoạn 2019 - 2021”
(8) Đề án “Đẩy mạnh công tác phổ biến, giáo dục pháp luật và tuyên truyền, vận động đồng bào vùng dân tộc thiểu số và miền núi giai đoạn 2017-2021”
(9) Dự án phổ biến, giáo dục và nâng cao nhận thức chính sách pháp luật đất đai cho các cơ quan, tổ chức, hộ gia đình, cá nhân và cộng đồng dân cư trong phạm vi cả
nước, ưu tiên đồng bào dân tộc, vùng sâu, vùng xa và nông thôn giai đoạn 2016 – 2020
(10) Đề án khác về phổ biến, giáo dục pháp luật.
Nguồn: [2, Phụ lục số IId].