HỌC VIỆN CHÍNH TRỊ QUỐC GIA HỒ CHÍ MINH
LƯƠNG HỮU NAM
PHÁT TRIỂN ĐỘI NGŨ TRÍ THỨC
Ở TÂY NGUYÊN THỜI KỲ ĐẨY MẠNH
CÔNG NGHIỆP HÓA, HIỆN ĐẠI HÓA
LUẬN ÁN TIẾN SĨ
CHUYÊN NGÀNH: CHỦ NGHĨA XÃ HỘI KHOA HỌC
HÀ NỘI - 2017
HỌC VIỆN CHÍNH TRỊ QUỐC GIA HỒ CHÍ MINH
LƯƠNG HỮU NAM
PHÁT TRIỂN ĐỘI NGŨ TRÍ THỨC
Ở TÂY NGUYÊN THỜI KỲ ĐẨY MẠNH
CÔNG NGHIỆP HÓA, HIỆN ĐẠI HÓA
LUẬN ÁN TIẾN SĨ
CHUYÊN NGÀNH: CHỦ NGHĨA XÃ HỘI KHOA HỌC
Mã số: 62 22 03 08
NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC:
1. GS.TS
176 trang |
Chia sẻ: huong20 | Ngày: 14/01/2022 | Lượt xem: 403 | Lượt tải: 0
Tóm tắt tài liệu Luận án Phát triển đội ngũ trí thức ở Tây nguyên thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
TRỊNH QUỐC TUẤN
2. TS. ĐINH KHẮC TUẤN
HÀ NỘI - 2017
LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan đây là công trình nghiên cứu của
riêng tôi. Các số liệu, kết quả nêu trong luận án là trung
thực, có nguồn gốc rõ ràng và được trích dẫn đầy đủ theo
quy định.
Tác giả
Lương Hữu Nam
MỤC LỤC
Trang
MỞ ĐẦU 1
Chương 1: TỔNG QUAN TÌNH HÌNH NGHIÊN CỨU LIÊN QUAN ĐẾN
ĐỀ TÀI 5
1.1. Những công trình nghiên cứu về đội ngũ trí thức và phát triển đội ngũ
trí thức 5
1.2. Những công trình nghiên cứu về đội ngũ trí thức và phát triển đội ngũ trí
thức ở Tây Nguyên thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp hoá, hiện đại hoá 16
1.3. Những giá trị của các công trình và vấn đề đặt ra tiếp tục nghiên cứu 25
Chương 2: PHÁT TRIỂN ĐỘI NGŨ TRÍ THỨC Ở TÂY NGUYÊN THỜI KỲ
ĐẨY MẠNH CÔNG NGHIỆP HOÁ, HIỆN ĐẠI HOÁ - NHỮNG VẤN ĐỀ
LÝ LUẬN VÀ THỰC TIỄN 28
2.1. Một số quan niệm cơ bản 28
2.2. Mối quan hệ giữa phát triển đội ngũ trí thức ở Tây Nguyên với sự nghiệp
đẩy mạnh công nghiệp hoá, hiện đại hoá 39
2.3. Những yếu tố cơ bản tác động đến sự phát triển đội ngũ trí thức ở
Tây Nguyên 54
Chương 3: THỰC TRẠNG PHÁT TRIỂN ĐỘI NGŨ TRÍ THỨC Ở TÂY
NGUYÊN THỜI KỲ ĐẨY MẠNH CÔNG NGHIỆP HOÁ, HIỆN ĐẠI HOÁ
VÀ NHỮNG VẤN ĐỀ ĐẶT RA 68
3.1. Thực trạng phát triển đội ngũ trí thức ở Tây Nguyên 68
3.2. Những vấn đề chủ yếu đặt ra đối với sự phát triển đội ngũ trí thức ở
Tây Nguyên hiện nay 104
Chương 4: QUAN ĐIỂM CƠ BẢN VÀ GIẢI PHÁP CHỦ YẾU TIẾP TỤC
PHÁT TRIỂN ĐỘI NGŨ TRÍ THỨC Ở TÂY NGUYÊN HIỆN NAY 114
4.1. Những quan điểm cơ bản tiếp tục phát triển đội ngũ trí thức ở Tây Nguyên
hiện nay 114
4.2. Những giải pháp chủ yếu tiếp tục phát triển đội ngũ trí thức ở Tây Nguyên
hiện nay 123
KẾT LUẬN VÀ KIẾN NGHỊ 147
DANH MỤC CÔNG TRÌNH KHOA HỌC CỦA TÁC GIẢ ĐÃ CÔNG BỐ
LIÊN QUAN ĐẾN LUẬN ÁN 151
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO 152
PHỤ LỤC 163
DANH MỤC CÁC CHỮ VIẾT TẮT
CNH, HĐH Công nghiệp hóa, hiện đại hóa
CNTT Công nghệ thông tin
DTTS Dân tộc thiểu số
ĐNTT Đội ngũ trí thức
GDĐT Giáo dục, đào tạo
KHCN Khoa học và công nghệ
KTTT Kinh tế tri thức
KT-XH Kinh tế - xã hội
NCKH Nghiên cứu khoa học
DANH MỤC CÁC BẢNG
Trang
Bảng 2.1: Cơ cấu GDP vùng Tây Nguyên giai đoạn 2001 - 2015 59
Bảng 2.2: GDP bình quân đầu người ở Tây Nguyên giai đoạn
2001 - 2015 59
Bảng 3.1: Tỉ lệ người có trình độ đại học trở lên theo trình độ và so
với dân số, lực lượng lao động 70
Bảng 3.2: Tỉ lệ trí thức dân tộc thiểu số trong cơ cấu đội ngũ trí
thức ở Tây Nguyên 78
Bảng 3.3: Chi cho sự nghiệp khoa học của các tỉnh Tây Nguyên 97
DANH MỤC CÁC BIỂU ĐỒ
Trang
Biểu 3.1: Cơ cấu trình độ học vấn của đội ngũ trí thức ở Tây Nguyên. 76
Biểu 3.2: Trình độ lý luận chính trị của đội ngũ trí thức ở Tây Nguyên
phân theo trình độ học vấn 90
Biểu 3.3: Cơ sở vật chất phục vụ công việc cho đội ngũ trí thức ở Tây Nguyên 96
Biểu 3.4: Những khó khăn tác động đến sự phát triển đội ngũ trí thức ở
Tây Nguyên hiện nay 98
Biểu 3.5: Đánh giá của trí thức ở Tây Nguyên về các chính sách đối với
đội ngũ trí thức 102
1
MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Trí thức là vốn quý của dân tộc, là hiện thân trí tuệ của thời đại. Xã hội
càng phát triển, vị trí, vai trò của trí thức càng được đề cao, nhất là trong bối
cảnh cuộc cách mạng KHCN lần thứ tư đang diễn ra mạnh mẽ, với sự cạnh
tranh về chất xám ngày càng tăng.
Đảng Cộng sản Việt Nam khẳng định:
Trong mọi thời đại, tri thức luôn là nền tảng tiến bộ xã hội, đội ngũ
trí thức là lực lượng nòng cốt sáng tạo và truyền bá tri thức. Ngày
nay, cùng với sự phát triển nhanh chóng của cách mạng khoa học
và công nghệ hiện đại, đội ngũ trí thức trở thành nguồn lực đặc biệt
quan trọng, tạo nên sức mạnh của mỗi quốc gia trong chiến lược
phát triển [40, tr.81].
Bởi vậy, phát triển ĐNTT chính là nâng tầm trí tuệ, sức mạnh của dân
tộc, qua đó góp phần quan trọng vào sự nghiệp xây dựng và phát triển đất
nước theo con đường xã hội chủ nghĩa mà Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ
XII của Đảng khẳng định “xây dựng đội ngũ trí thức ngày càng lớn mạnh, có
chất lượng cao, đáp ứng yêu cầu phát triển đất nước” [42, tr.161].
Tây Nguyên là vùng đất giàu tiềm năng, thế mạnh về tài nguyên thiên
nhiên và việc khai thác các yếu tố này đã thúc đẩy kinh tế phát triển. Tuy
nhiên, do chưa tìm hiểu, đánh giá đầy đủ và thấu đáo dẫn đến sự hiểu biết về
vùng đất, con người nơi đây còn nhiều hạn chế. Tư duy khai thác mang tính
tận thu, tận diệt vẫn là chủ đạo ở nhiều cấp, nhiều ngành và người dân ở đây,
chưa hình thành tư duy khai thác gắn với bảo tồn, phát triển. Hệ quả là rừng
bị tàn phá, môi trường sinh thái xuống cấp nghiêm trọng; cơ cấu dân cư có
nhiều thay đổi và xáo trộn không theo quy hoạch; nhiều vấn đề phức tạp nảy
sinh, tác động xấu đến an ninh chính trị, trật tự an toàn xã hội, đe doạ đến sự
ổn định và phát triển Tây Nguyên, từ đó dễ tạo ra những lỗ hổng, kẽ hở cho
các thế lực thù địch, phản động chống phá.
2
Thực tế trên cho thấy, để đảm bảo sự ổn định, phát triển nhanh và bền
vững thì Tây Nguyên cần phải chuyển đổi mô hình tăng trưởng từ chiều rộng
sang kết hợp chiều rộng với chiều sâu. Trong đó, cần phải xây dựng nguồn
nhân lực chất lượng cao làm bước đột phá. Giải quyết bài toán này chính là
gỡ nút thắt cho sự đi lên nơi đây. Song tìm ra lời giải cho bài toán không phải
là việc dễ dàng mà hết sức khó khăn. Nhất là trong một thời gian dài Tây
Nguyên là vùng trũng về GDĐT, kéo theo đó là nguồn nhân lực nói chung và
ĐNTT nói riêng còn nhiều hạn chế, bất cập về số lượng, chất lượng và cơ cấu.
Bên cạnh đó, trong những năm qua dù đã có nhiều công trình khoa học
nghiên cứu về Tây Nguyên nhưng dưới góc độ triết học chưa có đề tài nào
nghiên cứu một cách đầy đủ, toàn diện về sự phát triển ĐNTT ở Tây Nguyên.
Điều đó cũng đặt ra sự cần thiết phải tìm hiểu về lĩnh vực này.
Xuất phát từ những lý do trên, việc tìm hiểu, nghiên cứu, đánh giá thực
trạng phát triển ĐNTT ở Tây Nguyên để xác định quan điểm, giải pháp tiếp
tục phát huy, phát triển đội ngũ này có ý nghĩa hết sức quan trọng cả về mặt
lý luận và thực tiễn. Hơn nữa, là một người con sinh sống, trưởng thành và
công tác hơn 30 năm qua ở Tây Nguyên, với mong muốn đóng góp một phần
sức lực nhỏ bé của mình vào quá trình phát triển, coi như một sự tri ân đối với
vùng đất và con người nơi đây đã nuôi dưỡng, đùm bọc mình, vì vậy, nghiên
cứu sinh chọn đề tài “Phát triển đội ngũ trí thức ở Tây Nguyên thời kỳ đẩy
mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa” làm luận án tiến sĩ triết học, chuyên
ngành chủ nghĩa xã hội khoa học.
2. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu của luận án
2.1. Mục đích nghiên cứu
Thông qua việc đánh giá thực trạng phát triển ĐNTT ở Tây Nguyên
thời kỳ đẩy mạnh CNH, HĐH, luận án đề xuất các quan điểm cơ bản, giải
pháp chủ yếu nhằm tiếp tục phát triển đội ngũ này trong thời gian tới, đáp ứng
yêu cầu của sự nghiệp CNH, HĐH Tây Nguyên.
3
2.2. Nhiệm vụ nghiên cứu
Luận án khái quát các công trình nghiên cứu về trí thức, phát triển
ĐNTT nói chung và ở Tây Nguyên thời kỳ đẩy mạnh CNH, HĐH nói riêng.
Làm rõ cơ sở lý luận và thực tiễn về phát triển ĐNTT ở Tây Nguyên. Đưa ra
quan niệm về phát triển ĐNTT ở Tây Nguyên, những yếu tố tác động đến sự
phát triển. Trên cơ sở đó đánh giá thực trạng phát triển đội ngũ này ở Tây
Nguyên và chỉ rõ những vấn đề đặt ra, từ đó đề xuất các quan điểm, giải pháp.
3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu của luận án
3.1. Đối tượng nghiên cứu
Luận án nghiên cứu ĐNTT và phát triển ĐNTT ở Tây Nguyên.
3.2. Phạm vi nghiên cứu
Luận án nghiên cứu ĐNTT và sự phát triển ĐNTT ở Tây Nguyên từ
năm 1996 đến nay.
4. Cơ sở lý luận, thực tiễn và phương pháp nghiên cứu của luận án
4.1. Cơ sở lý luận, thực tiễn
- Cơ sở lý luận: Việc thực hiện luận án dựa trên cơ sở lý luận của chủ
nghĩa Mác-Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, quan điểm của Đảng và pháp luật
của Nhà nước về trí thức, phát triển ĐNTT. Luận án còn kế thừa có chọn lọc
những thành tựu nghiên cứu lý luận của ngành khoa học xã hội và nhân văn
liên quan đến đề tài.
- Cơ sở thực tiễn: Thực trạng phát triển ĐNTT ở Tây Nguyên thời kỳ
đẩy mạnh CNH, HĐH.
4.2. Phương pháp nghiên cứu
- Phương pháp luận: Luận án vận dụng quan điểm của chủ nghĩa duy
vật biện chứng và chủ nghĩa duy vật lịch sử vào quá trình nghiên cứu.
- Nghiên cứu tài liệu thứ cấp: Là những tài liệu thu thập được từ các
nghị quyết, quyết định, báo cáo, các công trình nghiên cứu đã công bố và các
tài liệu khác liên quan đến đề tài.
- Phương pháp điều tra xã hội học: Xây dựng và sử dụng bảng hỏi để lấy
ý kiến. Trên cơ sở dữ liệu thu thập được, tiến hành xử lý và phân tích theo mục
4
đích, yêu cầu và nội dung nghiên cứu. Để đạt được mục đích, yêu cầu, nghiên
cứu sinh tiến hành khảo sát 5 tỉnh Tây Nguyên. Tổng số phiếu khảo sát là 750
phiếu. Đối tượng được khảo sát là những người có trình độ đại học trở lên, đang
công tác và làm việc ở các cơ quan, đơn vị trên địa bàn các tỉnh Tây Nguyên.
Thời gian tiến hành khảo sát từ tháng 10 năm 2015 đến tháng 5 năm 2016.
Sau khi lấy ý kiến, nghiên cứu sinh sử dụng phần mềm thống kê xã hội
học (phần mềm SPSS) để xử lý và phân tích các dữ liệu thu được từ các phiếu
khảo sát, trong đó có sự phân tích mối tương quan giữa các câu trả lời để làm
cơ sở cho việc nhận định, đánh giá thực trạng.
- Phương pháp trình bày nội dung luận án: Lịch sử - lôgíc, phân tích -
tổng hợp, so sánh, thống kê.
5. Đóng góp mới của luận án
- Luận án đưa ra quan niệm về ĐNTT, phát triển ĐNTT ở Tây Nguyên.
Mối quan hệ giữa phát triển ĐNTT ở Tây Nguyên với đẩy mạnh CNH, HĐH
và những yếu tố cơ bản tác động đến sự phát triển ĐNTT ở Tây Nguyên.
- Cung cấp một cách nhìn về thực trạng ĐNTT và phát triển ĐNTT ở
Tây Nguyên thời kỳ đẩy mạnh CNH, HĐH đất nước và những vấn đề đặt ra
trong quá trình phát triển đội ngũ này.
- Đề xuất và đưa ra các quan điểm cơ bản, giải pháp chủ yếu tiếp tục
phát triển ĐNTT ở Tây Nguyên trong những năm tới.
6. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn của luận án
- Ý nghĩa lý luận: Góp phần bổ sung một số nội dung lý luận về ĐNTT
và phát triển ĐNTT ở Tây Nguyên để hoàn thiện thêm cơ sở cho việc xem
xét, hoạch định chính sách đối với sự phát triển đội ngũ này.
- Ý nghĩa thực tiễn: Góp phần làm sáng tỏ thực trạng phát triển ĐNTT
ở Tây Nguyên và những giải pháp tiếp tục phát triển đội ngũ này.
Luận án có thể làm tài liệu tham khảo trong học tập, nghiên cứu.
7. Kết cấu của luận án
Ngoài phần mở đầu, kết luận, danh mục công trình đã công bố của tác
giả, danh mục tài liệu tham khảo và phụ lục, luận án gồm 4 chương, 10 tiết.
5
Chương 1
TỔNG QUAN TÌNH HÌNH NGHIÊN CỨU LIÊN QUAN ĐẾN ĐỀ TÀI
Cùng với sự phát triển nhanh chóng và ngày càng mạnh mẽ của KHCN,
KTTT, những năm qua đã có nhiều nghiên cứu trong và ngoài nước đề cập
đến các phương diện khác nhau của ĐNTT. Điều đó thể hiện vị trí, vai trò của
đội ngũ này ngày càng quan trọng đối với sự phát triển. Liên quan đến vấn đề
trên, có thể kể đến một số công trình khoa học tiêu biểu sau:
1.1. NHỮNG CÔNG TRÌNH NGHIÊN CỨU VỀ ĐỘI NGŨ TRÍ THỨC VÀ
PHÁT TRIỂN ĐỘI NGŨ TRÍ THỨC
1.1.1. Những công trình nghiên cứu về đội ngũ trí thức
- Trí thức Việt Nam thời xưa, của Vũ Khiêu [59]: Khẳng định: Trí thức
Việt Nam dù ngày xưa hay hôm nay đều chung một dòng chảy. Thời kỳ khác
nhau có thể đem lại sự khác nhau giữa các thế hệ trí thức Việt Nam về hoàn
cảnh xã hội, nhiệm vụ lịch sử, cách thức tư duy và hành động nhưng điều đó
không làm lu mờ phẩm chất bền vững của họ từ xưa đến nay, đó là sự gắn bó
máu thịt với dân tộc, cùng với dân tộc nổi chìm trong dòng chảy lịch sử:
Hưng thịnh hay suy vong; vinh quang hay tủi nhục; thành công hay thất bại.
Từ đó tác giả khẳng định: Trí thức thời xưa vẫn còn gửi lại trí thức hôm nay
những hoài bão chưa thực hiện được và những lo lắng khôn nguôi về vận
mệnh của dân tộc, đất nước.
- Bác Hồ với nhân sĩ trí thức, do Trần Đương (biên soạn) [44]: Cuốn
sách là sự chắt lọc, hệ thống hoá các nguồn tư liệu thành những bài viết về
mối quan hệ và ảnh hưởng của lãnh tụ Nguyễn Ái Quốc đối với nhân sĩ, trí
thức Việt Nam thời kỳ đất nước mới giành được độc lập, đang rất cần những
người có tâm, có tài để phục vụ sự nghiệp kháng chiến, kiến quốc. Người đã
quy tụ được đông đảo nhân sĩ, trí thức rất nổi tiếng và tài năng, cả những
người đã từng phục vụ trong chế độ cũ, các nhà khoa học đã thành danh ở
nước ngoài trở về với dân tộc, cống hiến tài năng cho sự nghiệp cách mạng.
6
Qua cuốn sách cho ta thấy được những phẩm chất cao quý của trí thức
chân chính đó là đức tính khiêm tốn, giản dị, tâm huyết với ngành, nghề của
mình và luôn trung thành với Đảng, sẵn sàng hy sinh vì sự nghiệp cách mạng.
Đồng thời, thấy được tâm đức, nghệ thuật của Bác Hồ trong việc cảm hóa, thu
hút và sử dụng trí thức, trong đó đầu tiên là việc phát hiện trí thức; sự chân
thành, cầu thị và niềm tin của Người vào trí thức.
- Về trí thức Nga, nhiều tác giả (Nga), do La Thành và Phạm Nguyên
Trường dịch [78]: Nhấn mạnh đến khía cạnh đạo đức trong định nghĩa trí
thức. Trí thức Nga được hiểu là một tầng lớp xã hội theo nghĩa một lớp người
tương đối đông về số lượng và có sự liên kết nội tại mật thiết và thống nhất.
Đặc điểm phân biệt họ với các tầng lớp xã hội khác là họ có trình độ cao hơn
so với mặt bằng chung của xã hội trong những thời kỳ lịch sử nhất định, luôn
tự ý thức về sứ mệnh của mình đối với toàn thể cộng đồng và có thái độ dấn
thân để thực hiện sứ mệnh đem lại tương lai tươi sáng cho cộng đồng.
Các tác giả nhấn mạnh phẩm chất, tính cách trí thức trước hết là tính
độc lập trong tư duy, “những con người tự do trong đức tin của mình, những
con người không bị lệ thuộc bởi các ràng buộc về kinh tế, đảng phái, quyền
chính, không phải tuân phục các khế ước tư tưởng, mới thuộc giới trí thức”
[78, tr.240].
- Nguồn lực trí tuệ Việt Nam, lịch sử, hiện trạng và triển vọng, của
Nguyễn Văn Khánh (chủ biên) [58]: Từ phương pháp tiếp cận mang tính liên
ngành, cuốn sách đánh giá nguồn lực trí tuệ Việt Nam và xây dựng, phát huy
nguồn lực trí tuệ; những yếu tố thúc đẩy, cản trở việc phát huy nguồn lực này.
Từ đó đề xuất giải pháp và khuyến nghị về mặt chính sách nhằm phát triển
nguồn lực trí tuệ Việt Nam phục vụ sự nghiệp đẩy mạnh CNH, HĐH đất
nước. Trong đó nhấn mạnh ba giải pháp chủ yếu, đó là: Chống chảy máu chất
xám; hoàn thiện chính sách bảo hộ tài sản trí tuệ; chú trọng xây dựng và phát
huy nguồn lực trí thức nữ, DTTS và trí thức Việt kiều.
7
- Trí thức Việt Nam tiến cùng thời đại, của Nguyễn Đắc Hưng [55]:
Khái quát về trí thức và ĐNTT, phân tích nội hàm khái niệm trí thức, theo đó:
Trí thức là những người không chỉ có trình độ học vấn và chuyên môn cao,
lao động bằng trí óc trên mọi lĩnh vực của đời sống KT-XH mà còn phải có
khả năng sáng tạo ra tri thức và vận dụng tri thức vào thực tiễn, làm ra của
cải, phục vụ nhu cầu con người và phát triển xã hội. Tác giả cũng chỉ ra
những thách thức mới đòi hỏi ĐNTT phải phát huy vai trò trong công tác dự
báo và chủ động trước những biến đổi nhanh chóng của tình hình trong nước
và thế giới. Đồng thời, qua phân tích vai trò của GDĐT, cho thấy sự cần thiết
của việc đổi mới công tác GDĐT và chính sách thu hút, sử dụng trí thức.
- Trí thức nữ Việt Nam trong công cuộc đổi mới hiện nay - tiềm năng
và phương hướng xây dựng, của Đỗ Thị Thạch [85]: Đây là công trình nghiên
cứu chuyên sâu về lực lượng trí thức nữ. Tác giả đã có những đóng góp mới
cả về lý luận và thực tiễn khi kiến giải tiềm năng cũng như vai trò to lớn của
lực lượng trí thức nữ Việt Nam đối với sự phát triển của đời sống xã hội. Xuất
phát từ thái độ tôn trọng, tin vào khả năng đóng góp của lực lượng này, tác
giả đề xuất những phương hướng, giải pháp cơ bản nhằm phát huy tiềm năng,
vai trò của lực lượng trí thức nữ trong sự nghiệp cách mạng, nhất là trong quá
trình đổi mới đất nước.
- Trí thức người dân tộc thiểu số ở Việt Nam trong công cuộc đổi mới,
của Trịnh Quang Cảnh [16]: Nghiên cứu dưới góc độ chính trị - xã hội về trí
thức DTTS ở Việt Nam với tư cách là một bộ phận trong tầng lớp trí thức
Việt Nam. Trên cơ sở đánh giá thực trạng việc sử dụng nguồn lực trí tuệ, trí
thức người DTTS và tình hình ĐNTT DTTS, tác giả đề xuất phương hướng
và một số giải pháp nhằm phát huy, phát triển tiềm năng trí tuệ của đội ngũ
này đáp ứng yêu cầu phát triển KT-XH vùng miền núi, DTTS.
- Trí thức Việt Nam trong phát triển kinh tế tri thức, của Nguyễn Công
Trí [97]: Từ cách tiếp cận tổng hợp, tác giả nêu lên những đặc trưng, tiêu chí
cơ bản để xác định trí thức, vai trò của đội ngũ này trong điều kiện phát triển
8
KTTT. Trí thức là người lao động trí óc và thường có trình độ học vấn cao,
được đào tạo hoặc tự đào tạo. Giá trị quan trọng nhất của trí thức chân chính
đó là chân lý và lẽ phải; trí thức là người tự tin và ngay thẳng, có lòng tự
trọng, khả năng hành xử đúng mực.
- Đội ngũ trí thức giáo dục đại học Việt Nam trong đào tạo nguồn nhân
lực chất lượng cao thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa, của
Nguyễn Thị Thanh Hà [46]: Trình bày những quan niệm, đặc điểm và vai trò
của ĐNTT giáo dục đại học đối với đào tạo nguồn nhân lực chất lượng cao ở
Việt Nam. Trên cơ sở đó, tác giả đi vào phân tích, đánh giá thực trạng và đề
xuất những quan điểm cơ bản, giải pháp chủ yếu nhằm phát huy vai trò
ĐNTT giáo dục đại học trong đào tạo nguồn nhân lực chất lượng cao.
- Đổi mới sự lãnh đạo của Đảng đối với công tác vận động trí thức
trong giai đoạn hiện nay, của Lê Công Lương [70]: Khẳng định trí thức là
vốn quý của dân tộc, là lực lượng tiêu biểu, thể hiện trình độ của một quốc
gia. Tác giả trình bày một số quan niệm về trí thức và công tác vận động trí
thức. Đánh giá thực trạng, chỉ ra những hạn chế, nguyên nhân và rút ra những
kinh nghiệm lãnh đạo công tác vận động trí thức làm cơ sở thực tiễn cho việc
đổi mới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam đối với công tác vận động
trí thức. Dự báo thuận lợi, khó khăn, từ đó xác định mục tiêu, yêu cầu và đề
xuất các giải pháp tiếp tục đổi mới sự lãnh đạo của Đảng đối với công tác vận
động trí thức đến năm 2025.
- Quan điểm và chính sách của V.I.Lênin đối với trí thức trong cách
mạng xã hội chủ nghĩa, của Trịnh Quốc Tuấn [101]: Bài nghiên cứu khẳng
định trí thức có vai trò hết sức quan trọng trong cách mạng xã hội chủ nghĩa,
vì vậy cần phải phát huy tiềm năng trí tuệ, nếu không “thì cuộc cách mạng xã
hội chủ nghĩa nổ ra và giành những thắng lợi rực rỡ sẽ ngừng lại bởi thiếu sự
phát động khởi nguồn và xã hội khó tránh khỏi lâm vào khủng hoảng” [101,
tr.8]. Đồng thời, tác giả cũng nhấn mạnh, V.I.Lênin đã từ bản thân mình là
một trí thức để nhìn nhận tầng lớp trí thức, qua đó có chính sách đúng đắn đối
9
với trí thức. Tác giả khẳng định đặc trưng nổi bật nhất của trí thức là nhân
cách sáng tạo. Và để phát huy vai trò ĐNTT cần phải tạo điều kiện cho họ
được làm việc theo nguyện vọng, sở trường và tài năng; quan tâm cải thiện
đời sống vật chất và tinh thần để tạo điều kiện cho họ làm việc, cống hiến; có
môi trường tự do cho lao động sáng tạo, có không khí dân chủ để giao lưu.
- Vài nét về vai trò của trí thức - quan điểm từ châu Âu, của Trần
Phương Hoa [52]: Khẳng định lịch sử văn hoá, văn minh châu Âu là lịch sử
của các dòng chảy tư tưởng, trong đó có sự đóng góp của trí thức. Đồng thời
đưa ra những cách nhìn nhận về trí thức:
Trước hết, người Anh dùng khái niệm “intellectual” để nói về văn
hóa của họ, một nền văn hóa được đúc kết từ trí tuệ của con người.
Sau sự kiện Dreyfus ở Pháp, nước Anh mới tập trung vào
“intellectual” như là một giai tầng đặc biệt và vấn đề trách nhiệm
của họ đối với xã hội. Trước thế kỷ XIX, khái niệm “intellectual”
hoặc “intelligentsia” không được sử dụng để chỉ một “giai tầng”.
Những người làm việc trí óc được mô tả qua các từ “clerisy” (trí
thức), “man of letter”, “literary men” (kẻ sĩ), hoặc “cultivators of
science” (người vun trồng khoa học). Sau những năm 1870, 1880
mới dùng các từ “intellectual” [52].
Bài nghiên cứu cũng đề cập đến việc các nhà nghiên cứu châu Âu phân
biệt 5 nghĩa khác nhau của khái niệm trí thức: Trí thức là “học giả”; trí thức
được dùng như tính từ có nghĩa là “trí tuệ”: Trí thức là người có trí tuệ,
thường có nghĩa bổ sung là người có học thức cao, phân biệt với những người
làm việc tay chân; trí thức là người có tư duy độc lập và có đầu óc phê phán;
trí thức là người thực hiện các chức năng xã hội hoặc vì xã hội; trí thức, ngoài
chức năng định hướng văn hóa còn có vai trò định hướng chính trị và xã hội,
họ phải có vai trò can thiệp vào đời sống chính trị và có tiếng nói đối với nhà
cầm quyền dựa trên quan điểm khoa học.
10
- Chính sách thu hút nhân tài của Singapore: Bài bản và chuyên
nghiệp, của Hà Minh [71]: Nêu lên những kinh nghiệm trong việc thu hút
nhân tài của Singapore, trong đó nhấn mạnh đến sự rõ ràng, bài bản và
chuyên nghiệp trong chính sách; thực hiện mức lương tương xứng với giá trị
chất xám; quan tâm đến giáo dục và có niềm tin mãnh liệt đối với nhân tài.
Các Bộ trưởng Singapore cũng đều tốt nghiệp các trường đại học
nổi tiếng tầm cỡ thế giới. Ông Lý Quang Diệu có quan điểm rất rõ
ràng: Lãnh đạo giỏi là đầu tàu định hướng cho đất nước phát triển,
nên không thể thăng quan tiến chức nhờ quan hệ cửa trước cửa sau
hay sẵn sàng ngã giá để mua danh bán tước. Ông nói: "Lãnh đạo
dốt sẽ ngáng chân những người giỏi, không cho họ ngồi vào những
vị trí quan trọng". Ở Singapore, những người tài thực sự được coi là
thịt, là da đắp vào bộ khung lãnh đạo quốc gia [71].
Qua một số công trình khoa học tiêu biểu nêu trên cho thấy, ĐNTT
được các nhà nghiên cứu đề cập khá đầy đủ ở nhiều khía cạnh khác nhau từ
khái niệm, vị trí, vai trò, đặc điểm, phẩm chất đến thực trạng và giải pháp đối
với đội ngũ này. Ngoài các nội dung thống nhất thì vẫn còn những quan niệm
khác nhau khi đề cập đến trí thức và ĐNTT. Điều đó cho thấy, việc nghiên
cứu đối tượng này đến nay vẫn đặt ra nhiều vấn đề cần phải tiếp tục làm rõ.
1.1.2. Những công trình nghiên cứu về phát triển đội ngũ trí thức
- Luận cứ khoa học cho các chính sách nhằm phát huy năng lực sáng
tạo của giới trí thức và sinh viên, Phạm Tất Dong chủ nhiệm [33]: Từ việc
trình bày, phân tích một số quan niệm khác nhau về trí thức, qua đó nhấn
mạnh 4 chức năng cơ bản của trí thức là: Chức năng sáng tạo văn hoá, sáng
tạo và duy trì những giá trị cơ bản của xã hội: chân, thiện, mỹ; chức năng phê
phán; chức năng đào tạo lớp trí thức mới và chức năng xã hội. Từ đó đề tài đi
đến kết luận những dấu hiệu đặc trưng của trí thức là: Sáng tạo, phổ biến và
vận dụng văn hoá; thể hiện được trình độ, trí tuệ của thời đại; trăn trở với thời
cuộc, luôn hướng đến sự nghiệp xây dựng xã hội dân chủ, công bằng, bình
11
đẳng; có năng lực tư duy sáng tạo, phát hiện và giải quyết vấn đề, sự say mê,
tập trung cao độ, dũng cảm theo đuổi công việc.
Công trình cũng đánh giá thực trạng, tình hình cũng như tâm trạng, nhu
cầu và xu thế phát triển của ĐNTT, từ đó xác định những quan điểm và đề
xuất một số chính sách đối với ĐNTT. Về quan điểm, tác giả nhấn mạnh: con
người với trí tuệ thời đại là nhân tố quyết định sự phát triển KT-XH; đào tạo
và xây dựng ĐNTT là một vòng đua tranh của thời đại; lao động trí tuệ là lao
động phức tạp mang lại những giá trị đặc biệt và đầu tư cho việc xây dựng
ĐNTT phải là một ưu tiên. Về chính sách: Thực hiện chính sách GDĐT; sử
dụng và đãi ngộ trí thức; thực hiện đoàn kết và tập hợp rộng rãi ĐNTT.
- Đào tạo nguồn nhân lực ở Nhật Bản, bài học cho Việt Nam, do
Nguyễn Tiến Lực (chủ biên) [69]: Một trong những yếu tố đưa Nhật Bản
vươn lên là sự tích cực trong tiếp thu văn minh, thành tựu của nhân loại, tham
gia giao thương quốc tế, cử người đi du học nước ngoài, mời chuyên gia nước
ngoài đến Nhật làm việc để học cái hay nhất, cái tốt nhất. Cuốn sách cũng cho
thấy, con người là yếu tố quan trọng nhất để làm nên kỳ tích Nhật Bản. Nhật
Bản lấy con người làm trung tâm, có cả một triết lý đào tạo và giáo dục con
người. Nhật Bản rất coi trọng đào tạo nguồn nhân lực, có nền giáo dục đứng
vào tốp đầu thế giới. Trong quá trình phát triển của mình, Nhật Bản đã để lại
những bài học quý báu về đào tạo nguồn nhân lực chất lượng cao. Những bài
học này có giá trị tham khảo trong việc đào tạo nguồn nhân lực chất lượng
cao cho sự nghiệp CNH, HĐH của Việt Nam.
- Phát huy tiềm năng trí thức khoa học xã hội Việt Nam, của Nguyễn
An Ninh [79]: Hệ thống hoá những nội dung lý luận về tiềm năng của trí thức
khoa học xã hội, cũng như những yếu tố quy định tiềm năng của trí thức khoa
học xã hội. Theo tác giả: “Tiềm năng của con người là những khả năng, năng
lực, phẩm chất, xu thế phát triển, hiện có trong con người song chưa có
điều kiện bộc lộ ra hoặc chưa có điều kiện để thể hiện ra trọn vẹn” [79, tr.17].
Từ đó khẳng định việc khai thác tiềm năng của trí thức khoa học xã hội là xu
thế tất yếu của thời đại.
12
Trên cơ sở lý luận, tác giả đi vào phân tích đặc điểm, tiềm năng và thực
trạng phát huy tiềm năng của trí thức khoa học xã hội Việt Nam trong tiến
trình cách mạng, đặc biệt là trong thời kỳ đổi mới nhằm làm rõ mối quan hệ
có tính quy luật giữa tiềm năng của trí thức khoa học xã hội với nhu cầu phát
triển đất nước. Từ đó đề xuất một số phương hướng và giải pháp phát huy
tiềm năng của trí thức khoa học xã hội ở nước ta. Trong đó nhấn mạnh việc
nâng cao nhận thức của xã hội về vai trò của khoa học xã hội; tạo động lực
cho quá trình phát huy tiềm năng; tạo nguồn nhân lực cho sự phát triển tiềm
năng trí thức khoa học xã hội và tăng cường sự lãnh đạo của Đảng, quản lý
của Nhà nước để phát huy tiềm năng của đội ngũ này ở nước ta.
- Xây dựng đội ngũ trí thức thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại
hóa theo tư tưởng Hồ Chí Minh, do Nguyễn Khánh Bật, Trần Thị Huyền
(đồng chủ biên) [6]: Khái quát những nội dung cơ bản trong tư tưởng Hồ Chí
Minh về trí thức, làm rõ sự vận dụng sáng tạo của Đảng và Nhà nước trong
công tác xây dựng ĐNTT, đồng thời đánh giá những đóng góp, hạn chế của
đội ngũ này, trên cơ sở đó nêu lên những giải pháp xây dựng ĐNTT ở nước ta
giai đoạn 2011- 2020 đáp ứng yêu cầu của sự nghiệp CNH, HĐH đất nước.
- Thực trạng và giải pháp xây dựng đội ngũ trí thức Việt Nam trong sự
nghiệp đổi mới đất nước, của Đàm Đức Vượng [117]: Cuốn sách làm rõ hơn
khái niệm trí thức, dẫn ra những khái niệm về trí thức ở một số nước trên thế
giới. Trong đó nhấn mạnh, việc xác định đúng nội dung cơ bản của khái niệm
trí thức là cơ sở phát hiện, khai thác, đào tạo, bồi dưỡng, sử dụng đội ngũ này.
Nó còn liên quan đến công tác tổ chức, việc hoạch định các chính sách, nhiệm
vụ và giải pháp xây dựng ĐNTT thời kỳ đẩy mạnh CNH, HĐH đất nước.
Bên cạnh đó, tác giả phân tích những đặc trưng, chức năng cơ bản của
trí thức nói chung và trí thức Việt Nam nói riêng, qua đó làm rõ đặc trưng cơ
bản của các thế hệ trí thức Việt Nam từ khi Đảng ra đời đến nay. Về phẩm
chất của trí thức Việt Nam, tác giả nhấn mạnh đến đức và tài, thể hiện ở tư
cách của con người, chất lượng NCKH. Phẩm chất đặt ra cho trí thức là phải
làm gì và làm như thế nào để góp phần vào sự nghiệp phát triển đất nước.
13
Đã là trí thức thì ở nước nào cũng vậy, thời nào cũng vậy, đều phải
có phẩm chất, tính cách chung là đề cao giá trị chân - thiện - mỹ. Để
có được phẩm chất, bản thân người trí thức, trước hết phải có tinh
thần độc lập trong tư duy, và chế độ xã hội phải tạo mọi điều kiện
thuận lợi để người trí thức được tự do sáng tạo. Tuy nhiên, mỗi dân
tộc đều có tính cách riêng, tầng lớp trí thức của mỗi dân tộc cũng có
bản sắc riêng [117, tr.39].
- Chiến lược phát triển nhân tài của Việt Nam hiện nay, của Cao Văn
Thông và Đỗ Xuân Tuất [87]: Đề cập đến các khái niệm tiềm năng, năng
khiếu, năng lực, tài năng, nhân tài, thiên tài, trí thức cùng đặc điểm của nhân
tài; những quan điểm của ông cha ta về hiền tài và việc chiêu hiền, đãi sĩ của
các triều đại phong kiến Việt Nam; tư tưởng Hồ Chí Minh về trí thức và nhân
tài; kinh nghiệm trong công tác đào tạo, sử dụng và đãi ngộ nhân tài của
Trung Quốc và một số vấn đề rút ra qua các công tác này; những quan điểm,
chủ trương của Đảng Cộng sản Việt Nam về nhân tài và một số kiến nghị đối
với công tác đào tạo, sử dụng và đãi ngộ nhân tài của Việt Nam hiện nay.
Trong đó, các tác giả nhấn mạnh đến việc đề nghị Chính phủ sớm chỉ đạo
nghiên cứu, xây dựng Chiến lược nhân tài quốc gia phục vụ sự nghiệp CNH,
HĐH đất nước và hội nhập quốc tế, cũng như trong công tác đào tạo, sử dụng
và đãi ngộ nhân tài.
- Phát triển nguồn nhân lực chất lượng cao trong quá trình công
nghiệp hoá, hiện đại hoá ở Thành phố Đà Nẵng hiện nay, của Lê Văn Phục
[81]: Đề cập đến nguồn nhân lực chất lượng cao và vai trò của nó đối với quá
trình CNH, HĐH ở Việt Nam. Thực trạng phát triển nguồn nhân lực chất
lượng cao ở Thành phố Đà Nẵng và những vấn đề đặt ra trong quá trình phát
triển nguồn nhân lực này. Trên cơ sở đó nêu lên một số quan điểm và đề xuất
giải pháp nhằm phát triển nguồn nhân lực chất lượng cao ở Đà Nẵng.
- Động lực của trí thức trong lao động sáng tạo ở nước ta hiện nay, của
Phan Thanh Khôi [61]: Nêu và phân tích những kiểu lao động sáng tạo của trí
thức, đồng thời xác định và sơ đồ hoá hệ thống động lực của quá trình lao
14
động của trí thức; cách xác định lực lượng trí thức với tính cách là nguồn
nhân lực trí tuệ của đất nước; những biểu hiện của tình trạng chưa phát huy
hết khả năng sáng tạo của trí thức Việt Nam. Tác giả còn nêu lên một cách có
hệ thống các yếu tố động lực trực tiếp của trí thức như lý tưởng - tình cảm, trí
tuệ - tinh thần và kinh tế - vật chất.
- Phát huy nguồn lực trí tuệ trong công cuộc đổi mới ở nước ta hiện
nay, của Bùi Thị Ngọc Lan [62]: Phân tích cấu trúc, đặc trưng và nội dung
nguồn lực trí tu...g Mười Nga (1917). Ông đã đi sâu
nghiên cứu về đặc điểm, tính chất của tầng lớp trí thức, từ đó thu hút, lôi kéo
trí thức cũ và đào tạo trí thức mới cho việc xây dựng chủ nghĩa xã hội ở Nga.
V.I.Lênin viết:
Tôi dùng chữ trí thức, giới trí thức, để dịch những danh từ Đức Literat,
Literatentum là những danh từ có nghĩa bao hàm không những chỉ các
nhà trước tác mà thôi, mà còn bao hàm tất cả mọi người có học thức,
các đại biểu của những nghề tự do nói chung, các đại biểu của lao
29
động trí óc (tức là những người mà người Anh gọi là brain worker),
khác với những đại biểu của lao động chân tay [112, tr.372].
Như vậy, trí thức trong quan niệm của V.I.Lênin không chỉ là những
nhà tư tưởng vĩ đại (nhà trước tác), mà còn là những người có học thức và đại
biểu lao động trí óc của các tầng lớp trong xã hội. V.I.Lênin không đồng nhất
lao động trí óc với trí thức, mà chỉ có những người tiêu biểu trong hàng ngũ
lao động trí óc mới được coi là trí thức.
Kế thừa, vận dụng và phát triển sáng tạo chủ nghĩa Mác-Lênin vào điều
kiện, hoàn cảnh cụ thể của cách mạng Việt Nam, Chủ tịch Hồ Chí Minh
khẳng định:
Trí thức là hiểu biết. Trong thế giới chỉ có hai thứ hiểu biết: Một là
hiểu biết sự tranh đấu sinh sản. Khoa học tự nhiên do đó mà ra. Hai là
hiểu biết tranh đấu dân tộc và tranh đấu xã hội. Khoa học xã hội do đó
mà ra. Ngoài hai cái đó, không có trí thức nào khác. Một người học
xong đại học, có thể gọi là trí thức. Song y không biết cày ruộng,
không biết làm công, không biết đánh giặc, không biết làm nhiều việc
khác. Nói tóm lại: Công việc thực tế, y không biết gì cả. Thế là y chỉ
có trí thức một nửa. Trí thức của y là trí thức học sách, chưa phải trí
thức hoàn toàn. Y muốn thành một người trí thức hoàn toàn, thì phải
biết đem trí thức đó áp dụng vào thực tế [49, tr.235].
Theo cách tiếp cận này thì trí thức không chỉ là người hiểu biết, có tri
thức về tự nhiên, xã hội mà còn phải đem sự hiểu biết, tri thức đó vào thực
tiễn đời sống. Đồng thời, một trong những tiêu chí cụ thể để có thể được coi
là trí thức về mặt học vấn là từ tốt nghiệp đại học trở lên. Quan niệm này cũng
cho thấy sự hình thành trí thức và chức năng, nhiệm vụ của trí thức.
Trên cơ sở lý luận Mác-Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh và thực tiễn của
Việt Nam, Đảng Cộng sản Việt Nam khẳng định "Trí thức là những người lao
động trí óc, có trình độ học vấn cao về lĩnh vực chuyên môn nhất định, có
năng lực tư duy độc lập, sáng tạo, truyền bá và làm giàu tri thức, tạo ra những
sản phẩm tinh thần và vật chất có giá trị đối với xã hội” [40, tr.82].
30
Có thể nhận thấy quan niệm của Đảng về trí thức ngày càng toàn diện,
đầy đủ và sâu sắc trên cơ sở tiếp thu, kế thừa, phát triển Chủ nghĩa Mác-
Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh về trí thức cùng với thực tiễn vận động của đất
nước và thực trạng ĐNTT nước ta. Theo cách tiếp cận này thì có 3 tiêu chí cơ
bản để phân biệt trí thức với các bộ phận khác:
Thứ nhất, về trình độ học vấn, trí thức phải là những người có trình độ
học vấn cao về lĩnh vực chuyên môn nhất định.
Lao động của trí thức mang tính sáng tạo, phức tạp và không tự nhiên
hình thành mà chủ yếu thông qua quá trình đào tạo, bồi dưỡng, rèn luyện một
cách có hệ thống ở các trường đại học, học viện, viện nghiên cứu. Kết quả của
quá trình này được biểu hiện thông qua trình độ học vấn và sự công nhận về
bằng cấp. Theo chúng tôi, nếu xét về bằng cấp cũng phải từ tốt nghiệp đại học
trở lên, vì bắt đầu từ trình độ này, sự sáng tạo trong lao động mới bộc lộ
tương đối rõ nét.
Tuy nhiên, không phải tất cả những người có trình độ học vấn cao đều
là trí thức và những người không có trình độ học vấn cao (thể hiện qua bằng
cấp) không phải là trí thức. Vì trong thực tế, có những người có trình độ học
vấn cao nhưng lao động của họ mang ít tính sáng tạo thì không thể coi là trí
thức và cũng có những người không được đào tạo, không có bằng cấp nhưng
lao động sáng tạo, phức tạp thì họ là trí thức. Do đó, trình độ học vấn là một
trong những yếu tố quan trọng để xem một cá nhân là trí thức hay không
nhưng còn phải căn cứ vào các yếu tố khác mới có một quan niệm đầy đủ.
Thứ hai, về phương thức lao động và chức năng. Trí thức lao động
bằng trí óc, có năng lực độc lập trong tư duy, sáng tạo, truyền bá và làm giàu
tri thức cho xã hội. Trí thức là người lao động trí óc nhưng không phải tất cả
lao động trí óc đều là trí thức, mà phải là những người lao động trí óc sáng tạo
và có tính độc lập trong tư duy. Họ không chỉ có chức năng sáng tạo mà còn
truyền bá, phổ biến và làm giàu tri thức cho xã hội thông qua lao động của
mình, làm cho sự hiểu biết của con người ngày càng đa dạng, phong phú, đi
31
sâu vào nhận thức bản chất của sự vật, hiện tượng trong tự nhiên và xã hội.
Chúng tôi cho rằng, đây là tiêu chí quan trọng nhất để nhận biết trí thức.
Thứ ba, sản phẩm lao động của trí thức là những giá trị tinh thần và vật
chất. Thước đo đối với trí thức chính là sản phẩm mà họ tạo ra cho xã hội, sản
phẩm là kết quả lao động sáng tạo của trí thức, do đó để sản phẩm càng có giá
trị thì lao động của trí thức càng khó khăn, phức tạp. Không ít trí thức hy sinh
cả cuộc đời của mình chỉ để theo đuổi niềm say mê khám phá, sáng tạo của
mình và khi sản phẩm ra đời đã mang lại những giá trị hết sức to lớn đối với
sự vận động và phát triển xã hội, qua đó ghi đậm dấu ấn sáng tạo của họ.
Theo từ điển Triết học thì "Trí thức - tập đoàn xã hội gồm những người
làm nghề lao động trí óc. Giới trí thức bao gồm kỹ sư, kỹ thuật viên, thầy
thuốc, luật sư, nghệ sĩ, thầy giáo và người làm công tác khoa học, một bộ
phận viên chức” [76, tr.598].
Từ điển Chủ nghĩa Cộng sản khoa học xác định:
Trí thức - một nhóm xã hội bao gồm những người chuyên làm nghề
lao động trí óc phức tạp và có học vấn chuyên môn cần thiết cho
ngành lao động đó. Sự tồn tại của trí thức với tính cách là một nhóm
xã hội đặc biệt gắn liền với việc phân công xã hội giữa lao động trí
óc và lao động chân tay [75, tr.360].
Từ điển Bách khoa Việt Nam khẳng định "Trí thức là tầng lớp xã hội
làm nghề lao động trí óc, trong đó, bộ phận chủ yếu là những người có học
vấn cao, hiểu biết sâu rộng về chuyên môn của mình, có sáng tạo và phát
minh” [77, tr.582].
Từ điển Tiếng Việt xác định "Trí thức là người chuyên làm việc lao
động trí óc và có tri thức chuyên môn cần thiết cho hoạt động nghề nghiệp
của mình” [114, tr.999].
Như vậy, có rất nhiều quan niệm khác nhau về trí thức, thể hiện tính đa
dạng cũng như phức tạp khi tiếp cận, nhìn nhận và đánh giá họ. Trong mỗi
quan niệm đều có những nhân tố hợp lý và khoa học. Chúng tôi cho rằng,
quan niệm của Đảng Cộng sản Việt Nam về trí thức là sự phản ánh khá đầy
32
đủ, sâu sắc về trí thức, nhất là trí thức Việt Nam, là cơ sở, định hướng để
nghiên cứu về trí thức và phát triển ĐNTT hiện nay.
2.1.1.2. Quan niệm về đội ngũ trí thức ở Tây Nguyên
Trên cơ sở quan niệm về trí thức nêu trên cùng với tính đặc thù của các
điều kiện tự nhiên, xã hội, văn hoá và dân tộc ở Tây Nguyên, chúng tôi cho
rằng: ĐNTT ở Tây Nguyên là một bộ phận của ĐNTT Việt Nam, bao gồm
những người lao động trí óc sáng tạo, có năng lực tư duy độc lập và trình độ
hiểu biết, truyền bá và làm giàu tri thức, tạo ra những sản phẩm có giá trị
cho xã hội, đang sinh sống, công tác ở các tỉnh Tây Nguyên.
Từ quan niệm trên, có thể hiểu ĐNTT ở Tây Nguyên được xác định
thông qua một số nội dung chủ yếu sau:
Thứ nhất, ĐNTT ở Tây Nguyên là một bộ phận của ĐNTT Việt Nam,
do đó nó mang trong mình những đặc điểm cơ bản của trí thức Việt Nam, là
bộ phận không thể tách rời và gắn bó với vận mệnh của đất nước, dân tộc.
Thứ hai, ĐNTT ở Tây Nguyên gồm những người lao động trí óc sáng
tạo, có năng lực tư duy độc lập và trình độ hiểu biết. Trong đó, trình độ hiểu
biết có thể đo lường thông qua trình độ học vấn hoặc cũng có thể không. Nếu
thông qua trình độ học vấn phải từ tốt nghiệp đại học trở lên.
Thứ ba, chức năng chủ yếu của ĐNTT ở Tây Nguyên là truyền bá, làm
giàu tri thức và tạo ra những sản phẩm có giá trị tinh thần, vật chất phục vụ
cho sự phát triển của xã hội, mà trực tiếp và trước hết là Tây Nguyên.
Thứ tư, ĐNTT ở Tây Nguyên gồm những người có phẩm chất đạo đức
và bản lĩnh chính trị; tin tưởng vào đường lối, chủ trương của Đảng, chính
sách, pháp luật của Nhà nước, đặc biệt là các chủ trương, chính sách liên quan
đến sự ổn định và phát triển Tây Nguyên.
Thứ năm, ĐNTT ở Tây Nguyên gồm những trí thức đang sinh sống,
công tác ở các tỉnh Tây Nguyên. Họ sinh ra, lớn lên ở đây và cũng có thể từ
nơi khác tới đây sinh sống, lập nghiệp, hiện đang làm việc trong các cơ quan,
đơn vị, lĩnh vực, ngành nghề khác nhau ở Tây Nguyên, bao gồm những trí
33
thức công tác trong các cơ quan, đơn vị của Trung ương đóng trên địa bàn các
tỉnh Tây Nguyên.
Do đặc thù của Tây Nguyên, nhiều già làng là những người tiêu biểu về
mặt trí tuệ của cộng đồng các DTTS tại chỗ ở Tây Nguyên. Nếu như quan
niệm trí thức là những người có trình độ học vấn cao thể hiện qua bằng cấp,
thì các già làng ở Tây Nguyên không có, nhưng nói về sự am hiểu điều kiện
địa lý, tự nhiên, xã hội, lịch sử và văn hoá truyền thống thì phải kể đến những
người này. Họ không chỉ là người đại diện cho sự đoàn kết, gắn bó của cộng
đồng các dân tộc ở đây mà còn là hiện thân của trí tuệ, tinh hoa của DTTS tại
chỗ ở Tây Nguyên. Lao động của họ mang tính sáng tạo.
Phần lớn già làng là những người có uy tín, là chỗ dựa tinh thần, là
người hướng dẫn trong làm ăn, sản xuất, đồng thời trực tiếp giải quyết nhiều
vấn đề nảy sinh trong đời sống xã hội của cộng đồng các DTTS tại chỗ ở Tây
Nguyên. Họ là kho kinh nghiệm và tri thức sản xuất, là pho sử thi sống, là thủ
lĩnh của cộng đồng các DTTS tại chỗ ở Tây Nguyên.
Việc truyền bá đường lối, chủ trương của Đảng, chính sách, pháp luật
của Nhà nước và các tri thức mới tới cộng đồng các DTTS ở Tây Nguyên có
hiệu quả hay không phụ thuộc rất lớn vào tiếng nói, việc làm của các già làng.
Đồng thời, tâm tư, nguyện vọng của cộng đồng các dân tộc ở đây cũng được
thể hiện chủ yếu thông qua lực lượng này.
Mặc dù, hiện nay vai trò của già làng so với trước đã có phần giảm sút
nhưng chưa có lực lượng, cá nhân nào có thể đảm đương, thay thế được họ
trong đời sống xã hội của cộng đồng các DTTS tại chỗ ở Tây Nguyên. Họ vẫn
là đại diện cho tinh hoa, trí tuệ của DTTS tại chỗ nơi đây.
Trong thực tế, đa số các già làng ở Tây Nguyên đã đảm nhiệm vai trò
của trí thức và họ xứng đáng được xã hội và nhà nước tôn vinh là những trí
thức theo một danh tính nào đó.
2.1.2. Quan niệm về phát triển đội ngũ trí thức ở Tây Nguyên
Phát triển là thuật ngữ được sử dụng phổ biến trong nhiều ngành khoa
học, lĩnh vực khác nhau, vì vậy có nhiều cách hiểu không giống nhau. Dưới
34
góc độ triết học, theo quan điểm của chủ nghĩa Mác-Lênin thì phát triển là sự
vận động theo hướng đi lên cả về lượng và chất. Nguồn gốc của sự phát triển
nằm trong chính bản thân sự vật, hiện tượng, là sự thống nhất và đấu tranh
giữa các mặt đối lập.
Từ điển tiếng Việt xác định “Phát triển là biến đổi hoặc làm cho biến đổi
từ ít đến nhiều, hẹp đến rộng, thấp đến cao, đơn giản đến phức tạp” [115, tr.769].
Theo giáo trình triết học Mác-Lênin thì: “Phát triển là một phạm trù
triết học dùng để khái quát quá trình vận động tiến lên từ thấp đến cao, từ đơn
giản đến phức tạp, từ kém hoàn thiện đến hoàn thiện hơn” [53, tr.227].
Từ những lý giải nêu trên có thể thấy một số đặc điểm chủ yếu của phát
triển như sau:
Phát triển là quá trình vận động của sự vật, hiện tượng theo hướng ngày
càng hoàn thiện. Là quá trình vận động từ thấp lên cao, từ ít đến nhiều, từ
chưa hoàn thiện đến hoàn thiện.
Phát triển là kết quả tự thân của sự vật, hiện tượng do các yếu tố, mối
liên hệ bên trong, cũng như bên ngoài quy định. Trong đó mối liên hệ bên
trong mang tính tự thân vận động quyết định. Còn các yếu tố, mối liên hệ bên
ngoài tác động, thâm nhập vào bên trong sự vật, hiện tượng.
Nội dung của sự phát triển được thể hiện trên các mặt chủ yếu là số
lượng, chất lượng và cơ cấu.
Như vậy, sự phát triển là quá trình hoàn thiện về số lượng, chất lượng
và cơ cấu. Nguyên nhân chủ yếu của sự phát triển do chính các yếu tố nội tại
bên trong sự vật, hiện tượng quyết định.
Qua sự trình bày, phân tích về ĐNTT và quan niệm phát triển nêu trên,
chúng tôi xác định: Phát triển ĐNTT ở Tây Nguyên là quá trình vận động
tăng lên về số lượng, chất lượng, hợp lý về cơ cấu của ĐNTT ở Tây Nguyên,
do sự tác động hợp quy luật của các chủ thể. Từ quan niệm này, có thể hiểu
sự phát triển ĐNTT ở Tây Nguyên bao gồm:
Thứ nhất, nội dung phát triển:
Phát triển về số lượng được thể hiện ở số lượng trí thức thời kỳ sau
nhiều hơn thời kỳ trước và tỉ lệ này tăng lên trong cơ cấu dân số, phù hợp với
35
điều kiện, hoàn cảnh của Tây Nguyên. Đó là sự bảo đảm về số lượng đáp ứng
yêu cầu thực hiện thắng lợi quá trình CNH, HĐH Tây Nguyên. Để đáp ứng
được yêu cầu này phải phát triển KT-XH, nâng cao quy mô giáo dục, nhất là
giáo dục đại học và khả năng thu hút trí thức từ các địa phương khác lên Tây
Nguyên công tác.
Phát triển về mặt chất lượng thể hiện trên các khía cạnh chủ yếu về thể
lực, trí lực và nhân cách, trong đó về mặt thể lực là sự gia tăng chiều cao, cân
nặng, tuổi thọ, sức khoẻ và sự dẻo dai, bền bỉ cơ bắp và thần kinh; về mặt trí
lực bao gồm việc nâng cao trình độ chuyên môn nghiệp vụ, ngoại ngữ, tin
học; sức sáng tạo, kinh nghiệm, kỹ năng lao động cũng như khả năng tham
gia các hoạt động tư vấn, phản biện và giám định xã hội; về mặt nhân cách là
sự nâng cao phẩm chất chính trị, đạo đức, tác phong, ý thức tổ chức kỷ luật,
lối sống lành mạnh, tích cực, có tinh thần trách nhiệm. Để phát triển về chất
lượng không chỉ nâng cao chất lượng đào tạo, bồi dưỡng trong đó bao hàm cả
tự đào tạo, đào tạo lại mà còn phải đẩy mạnh CNH, HĐH Tây Nguyên, đẩy
nhanh việc áp dụng các tiến bộ KHCN vào sản xuất và đời sống, cũng như sử
dụng đúng người, đúng việc để phát huy sức sáng tạo của trí thức.
Sự phát triển ĐNTT ở Tây Nguyên về mặt chất lượng còn thể hiện ở
năng lực thực tiễn, đó là khả năng tổng kết thực tiễn, đúc rút thành lý luận cũng
như khả năng “thực tiễn hoá” lý luận thông qua hoạt động sáng tạo của mình.
Vì ĐNTT không chỉ nghiên cứu, khái quát các quá trình tự nhiên, xã hội thành
các quy luật và được biểu hiện qua các sáng tạo, phát minh, sáng chế mà còn
phải có năng lực đưa các tri thức trở lại thực tiễn để phục vụ sự phát triển.
Phát triển ĐNTT ở Tây Nguyên còn bao hàm việc hình thành cơ cấu
ngày càng hợp lý, cân đối về thành phần xuất thân, trình độ học vấn, giới tính,
độ tuổi, ngành, nghề và thành phần dân tộc, v.v... Sự phát triển đội ngũ này
còn bao gồm yếu tố nâng cao hiệu lực, hiệu quả lãnh đạo, quản lý và sử dụng
trí thức của các cơ quan, đơn vị. Trong đó, đặc biệt nhấn mạnh đến đường lối,
chủ trương, chính sách, pháp luật, chương trình, kế hoạch của các cấp uỷ
đảng, chính quyền, Mặt trận và đoàn thể đối với ĐNTT. Phát triển ĐNTT ở
36
Tây Nguyên về mặt cơ cấu cần bám sát mục tiêu của chiến lược phát triển
KT-XH trong từng giai đoạn lịch sử cụ thể.
Thứ hai, chủ thể phát triển:
Nguyên nhân chủ yếu của sự phát triển là sự tác động hợp quy luật của
các chủ thể. Trong đó, trước hết do yêu cầu nội tại trong chính bản thân của
đội ngũ này, đó là quá trình tự thân vận động không ngừng của các yếu tố cấu
thành ĐNTT, đồng thời là đòi hỏi khách quan của sự phát triển KT-XH và
CNH, HĐH. Môi trường tự nhiên và xã hội là những điều kiện hết sức quan
trọng đối với sự phát triển ĐNTT.
Chủ thể phát triển ĐNTT còn là gia đình, nhà trường và xã hội. Trong
đó đường lối, chủ trương của Đảng và chính sách, pháp luật của Nhà nước có
tác động hết sức to lớn đến sự phát triển, nhất là các chính sách đúng đắn, phù
hợp, có tính khả thi cao.
Thứ ba, phương thức phát triển:
Phát triển ĐNTT có nhiều phương thức khác nhau, trong đó chủ yếu là:
Đào tạo, bồi dưỡng không chỉ làm cho số lượng tăng lên mà còn nâng
cao chất lượng ĐNTT, qua đó đáp ứng tốt hơn yêu cầu của sự nghiệp CNH,
HĐH Tây Nguyên.
Quá trình đào tạo, bồi dưỡng bao gồm cả quá trình tự đào tạo, đào tạo
lại với nhiều phương thức khác nhau như đào tạo chính quy tập trung, không
chính quy, từ xa; qua trường lớp hoặc tự học, tự nghiên cứu nâng cao trình độ.
Sử dụng trí thức là việc đặt trí thức vào một vị trí, một công việc nhất
định qua đó phát huy có hiệu quả năng lực, trí tuệ và khả năng sáng tạo. Sử
dụng trí thức có ý nghĩa hết sức quan trọng trong việc phát huy vai trò của họ
đối với sự phát triển. Sử dụng đúng người đúng việc sẽ là động lực để trí thức
phát huy tốt khả năng, sự sáng tạo của mình.
Môi trường, điều kiện công tác chính là không gian để trí thức tự do
phát minh, sáng tạo cũng như thể hiện tư tưởng, chính kiến của mình mà
không bị hiểu sai hoặc “chụp mũ”. Môi trường, điều kiện công tác bao gồm cả
cơ sở vật chất cũng như quan hệ giữa người với người trong quá trình công
37
tác và sự hoàn thiện cơ chế, chính sách. Ngoài ra còn là trạng thái dân chủ,
công bằng, bình đẳng để trí thức có thể cống hiến, phấn đấu và cạnh tranh
lành mạnh để vươn lên.
Đãi ngộ, thu hút trí thức. Đãi ngộ là một trong những hoạt động không
kém phần quan trọng trong phát triển ĐNTT, là một yếu tố giúp họ yên tâm
công tác và là động lực thúc đẩy sự cống hiến, sáng tạo. Vì vậy, cần đưa ra
những cơ chế, chính sách đãi ngộ hợp lý nhằm thu hút trí thức giỏi, có phẩm
chất, trình độ và năng lực về công tác. Đồng thời, có hình thức khen thưởng
cả về vật chất và tinh thần thích đáng.
Thu hút trí thức từ các địa phương khác về công tác tại Tây Nguyên
cũng là một trong những phương thức bổ sung vào ĐNTT nơi đây. Trong đó,
trước mắt cần thu hút những trí thức xuất thân hoặc có gia đình, người thân ở
Tây Nguyên nhưng hiện đang công tác tại các địa phương khác trong nước,
thậm chí cả ở nước ngoài.
Thứ tư, mục tiêu phát triển:
Phát triển ĐNTT ở Tây Nguyên hướng tới nhiều mục tiêu khác nhau,
trong đó chủ yếu là nhằm khai thác hiệu quả các lợi thế, tiềm năng của vùng
phục vụ sự nghiệp đẩy mạnh CNH, HĐH và phát triển KT-XH Tây Nguyên,
cũng như góp phần xây dựng toàn diện con người.
2.1.3. Quan niệm về công nghiệp hoá, hiện đại hoá ở Tây Nguyên
Công nghiệp hoá là con đường phát triển tất yếu của các quốc gia trên
thế giới, là phương thức chuyển đổi nền kinh tế nông nghiệp sang nền kinh tế
công nghiệp với trình độ phát triển cao hơn cả về năng suất, chất lượng và
hiệu quả.
Hiện đại hoá là quá trình đưa các tiến bộ KHCN vào quá trình quản lý,
sản xuất tạo ra sự biến đổi về chất của nền sản xuất xã hội. Trong bối cảnh
KTTT đang hình thành do sự phát triển nhanh chóng và tác động của KHCN
thì công nghiệp hoá gắn với hiện đại hoá là một yêu cầu tất yếu để phát triển
nhanh và bền vững.
Trên cơ sở tiếp thu kinh nghiệm của các nước đi trước cùng với thực tế
quá trình chuyển đổi nền kinh tế nước ta, Đảng Cộng sản Việt Nam xác định:
38
Công nghiệp hóa, hiện đại hóa là quá trình chuyển đổi căn bản toàn
diện các hoạt động sản xuất kinh doanh, dịch vụ và quản lý kinh tế,
xã hội, từ sử dụng sức lao động thủ công là chính sang sử dụng một
cách phổ biến sức lao động với công nghệ, phương tiện và phương
pháp tiên tiến hiện đại, dựa trên sự phát triển công nghiệp và tiến bộ
khoa học, công nghệ, tạo ra năng suất lao động xã hội cao [39, tr.65].
Như vậy, quan niệm của Đảng về CNH, HĐH bao trùm các lĩnh vực
của đời sống KT-XH, không chỉ trong lĩnh vực kinh tế mà còn trong quản lý
xã hội. CNH, HĐH trên cơ sở phát triển công nghiệp gắn kết chặt chẽ với các
tiến bộ về KHCN.
Đối với Tây Nguyên, CNH, HĐH là con đường tất yếu để đưa nơi đây
từng bước thoát khỏi nghèo nàn, lạc hậu, khai thác có hiệu quả các tiềm năng,
thế mạnh của vùng, đồng thời nâng cao hiệu lực, hiệu quả quản lý kinh tế, xã
hội, góp phần vào sự phát triển nhanh và bền vững Tây Nguyên.
Tây Nguyên trong một thời gian dài là vùng đất khá biệt lập so với các
vùng khác trong cả nước, các hoạt động sản xuất chủ yếu khép kín, tự cung tự
cấp với phương thức đốt, phát, chọc trỉa, dựa vào các lợi thế tài nguyên thiên
nhiên sẵn có. Phương thức trao đổi chủ yếu là vật đổi vật. Trình độ quản lý xã
hội dựa trên hệ thống luật tục với vai trò quan trọng của già làng, trưởng
buôn, thầy mo, thầy cúng,v.v... Khi cùng cả nước bước vào sự nghiệp đổi mới
thì khoảng cách về trình độ phát triển của Tây Nguyên so với cả nước có sự
cách biệt khá xa. Do đó, mục tiêu CNH, HĐH Tây Nguyên là khai thác các
tiềm năng, thế mạnh của vùng phục vụ sự phát triển KT-XH, nâng cao đời
sống nhân dân và giảm dần khoảng cách phát triển so với cả nước, từng bước
vươn lên, phát triển cùng đất nước.
Công nghiệp hoá, hiện đại hoá Tây Nguyên không chỉ là quá trình
chuyển đổi phương thức sản xuất, quản lý xã hội, áp dụng các tiến bộ KHCN
vào sản xuất và đời sống mà còn phải gắn với việc bảo tồn, phát huy những
giá trị truyền thống, đặc thù của vùng đất và con người nơi đây, nhất là các
nguồn tài nguyên thiên nhiên và các tri thức sản xuất của cộng đồng DTTS tại
39
chỗ. Do đó, mục tiêu CNH, HĐH Tây Nguyên không chỉ nhằm khai thác các
thế mạnh của vùng mà còn phải bảo tồn, phát huy các thế mạnh đó để đảm
bảo sự ổn định và phát triển bền vững nơi đây, qua đó nâng cao đời sống vật
chất và tinh thần của cộng đồng các dân tộc ở Tây Nguyên, nhất là DTTS. Có
như vậy, sự nghiệp CNH, HĐH Tây Nguyên mới đi đến thành công.
So với cả nước trước khi tiến hành CNH, HĐH thì đã có những tiền đề,
kinh nghiệm trong quá trình thực hiện công nghiệp hoá trước đây, còn Tây
Nguyên đi vào con đường CNH, HĐH gần như bắt đầu từ con số không,
ngoại trừ nguồn tài nguyên thiên nhiên, không vốn, không KHCN, không
nguồn nhân lực được đào tạo, trình độ quản lý thấp kém, v.v. Do đó, quá
trình CNH, HĐH Tây Nguyên gặp nhiều khó khăn bởi điểm xuất phát thấp.
Công nghiệp hoá, hiện đại hoá Tây Nguyên trước hết phải lấy lĩnh vực
nông nghiệp làm khâu đột phá, gắn với thế mạnh các cây công nghiệp và sự
màu mỡ, phì nhiêu của đất đỏ bazan.
Như vậy, CNH, HĐH Tây Nguyên ngoài những đặc điểm chung còn có
những điểm đặc thù, do đó cần có những phương thức, bước đi phù hợp với
điều kiện, đặc điểm nơi đây. Có như vậy, CNH, HĐH Tây Nguyên mới đạt
được mục tiêu, yêu cầu đề ra.
2.2. MỐI QUAN HỆ GIỮA PHÁT TRIỂN ĐỘI NGŨ TRÍ THỨC Ở TÂY
NGUYÊN VỚI SỰ NGHIỆP ĐẨY MẠNH CÔNG NGHIỆP HOÁ, HIỆN ĐẠI HOÁ
2.2.1. Sự phát triển đội ngũ trí thức ở Tây Nguyên là yếu tố quan
trọng bảo đảm thực hiện thắng lợi sự nghiệp đẩy mạnh công nghiệp hoá,
hiện đại hoá
Trong mọi thời đại, con người luôn là trung tâm của sự phát triển. Thời
đại ngày nay, con người và nguồn nhân lực nói chung, ĐNTT nói riêng lại
càng quan trọng, họ vừa là nguồn lực cơ bản và chủ yếu, vừa là động lực và
mục tiêu của sự phát triển. Không thể có sự phát triển nhanh và bền vững nếu
không có một ĐNTT cao về phẩm chất, trí tuệ, năng lực và hợp lý về cơ cấu
và số lượng.
Đối với Tây Nguyên, sự phát triển ĐNTT đóng vai trò hết sức quan
trọng đảm bảo thắng lợi của sự nghiệp đẩy mạnh CNH, HĐH nơi đây, bởi lẽ:
40
Thứ nhất, ĐNTT ở Tây Nguyên có vai trò quyết định trong việc tổng
kết thực tiễn, sáng tạo tri thức mới góp phần quan trọng trong việc hoạch định
đường lối CNH, HĐH Tây Nguyên.
Những năm sau giải phóng, Tây Nguyên vẫn là vùng đất giàu tiềm
năng “chưa được đánh thức”. Trong lĩnh vực kinh tế, công lao lớn đầu tiên
của trí thức ở Tây Nguyên là đã cộng tác, phối hợp với những trí thức, chuyên
gia thuộc các cơ quan nghiên cứu ở Trung ương tiến hành những nghiên cứu,
điều tra thực địa công phu cùng với tra cứu thư tịch được bảo tàng trong nước
và nước ngoài lưu giữ để từng bước “phát lộ” tiềm năng đó. Dần dần tiềm
năng đó được xác định trên tổng thể về quy mô, số lượng, chất lượng theo
phương pháp đo đạc, ước tính dựa trên sự áp dụng tri thức khoa học và các
phương tiện hiện đại. Thành quả của các phát hiện đó chính là cơ sở cho việc
dự thảo các chiến lược phát triển kinh tế của Tây Nguyên, chiến lược tổng thể
cho đến chiến lược từng lĩnh vực, từng ngành. Cơ cấu kinh tế Tây Nguyên
được phác thảo và từng bước được chi tiết hoá, bổ sung, điều chỉnh trong đó
xác định trọng điểm các ngành mũi nhọn và cả lộ trình khai thác, phát huy.
Nhìn chung, suốt tiến trình đó trí thức ở Tây Nguyên đã góp phần đáng được
ghi nhận để Đảng, Nhà nước khẳng định chiến lược phát triển kinh tế Tây
Nguyên, rồi tiếp tục hoàn thiện, điều chỉnh cho phù hợp với sự thay đổi tình
hình trong nước, khu vực và thế giới trong các kỳ đại hội của Đảng.
Tiếp thu đường lối xây dựng, phát triển nền kinh tế thị trường định
hướng xã hội chủ nghĩa, trí thức ở Tây Nguyên đã đóng góp ý kiến và trực
tiếp tham gia triển khai để đường lối, chủ trương đó được vận dụng phù hợp
với điều kiện thực tế của Tây Nguyên, nơi mà mặt bằng xuất phát về kinh tế
còn thấp (có nơi rất thấp như ở một số khu vực DTTS) so với các vùng khác
trong cả nước.
Cũng như vậy, thực hiện CNH, HĐH là hướng đi tất yếu của cả nước
trên con đường xây dựng chủ nghĩa xã hội như Nghị quyết Đại hội Đảng đã
khẳng định. Nhưng ở Tây Nguyên với nét đặc thù về trình độ lực lượng sản
xuất còn thấp kém và tương ứng với nó là sự thấp kém của quan hệ sản xuất
41
thì việc vận dụng đường lối, chủ trương ấy đòi hỏi sự sáng tạo mà trong thực
tế ĐNTT ở Tây Nguyên góp phần quan trọng.
Liên hiệp các hội khoa học và kỹ thuật các tỉnh đã huy động nhiều nhà
khoa học có trình độ, kinh nghiệm vào việc thực hiện các nhiệm vụ quan
trọng, như: chuyển dịch cơ cấu kinh tế, tái cơ cấu kinh tế, chuyển giao công
nghệ, phát triển các vùng chuyên canh, nâng cao năng suất cây trồng, vật
nuôi, phản biện đề án quy hoạch, kế hoạch sử dụng đất, quy hoạch tổng thể
phát triển KT-XH; tham gia làm thành viên, dự các cuộc họp của hội đồng
nghiệm thu các đề tài, đề án, dự án, công trình quan trọng có liên quan tới lĩnh
vực kinh tế và môi trường như các công trình thủy điện, thủy lợi, du lịch, giao
thông, xây dựng; khai thác tài nguyên, quy hoạch dân cư,v.v...
Các hội thành viên của trí thức đã có nhiều hoạt động tư vấn, phản
biện, giám định có hiệu quả, được các cơ quan quản lý đánh giá cao, như: Hội
Khoa học Kỹ thuật Lâm nghiệp đã tư vấn xây dựng phương án giao đất, giao
rừng ở vùng đệm Vườn Quốc gia Chư Yang Sin, tư vấn điều phối thực hiện
dự án hỗ trợ sau giao đất, giao rừng để xóa đói giảm nghèo. Hội Kiến trúc sư
phản biện các công trình: khu công nghiệp, khu du lịch, quy hoạch trung tâm
huyện; Hội Khoa học Kỹ thuật Cầu đường phản biện các dự án tỉnh lộ 3, 8, 9;
Hội Cơ khí tư vấn những giải pháp công nghệ, cung cấp thiết bị máy móc
phục vụ cho sản xuất,v.v.
Những đóng góp của ĐNTT vào sự phát triển KT-XH Tây Nguyên khó
trình bày bằng những số liệu cụ thể, chi tiết trong khuôn khổ của một luận án,
nhưng có một sự kiện, một số liệu - có thể là minh chứng sáng giá về thành
tựu phát triển KT-XH của Tây nguyên như là kết quả sự nỗ lực của các cấp,
các ngành và cộng đồng các dân tộc trong đó có phần đóng góp xứng đáng
của trí thức. Sự kiện, số liệu đó là: Những năm qua tốc độ phát triển kinh tế
của Tây Nguyên luôn cao hơn mức bình quân của cả nước. Nhiều vùng đồng
bào DTTS từ chỗ “bốn không” (Không đường, không điện, không trường,
không trạm), đời sống hết sức khó khăn, đến nay về cơ bản các khoảng trống
42
“Bốn không” đó đã được lấp đầy, đời sống đồng bào có những thay đổi rõ rệt,
nhiều người vươn lên làm giàu trên chính mảnh đất của mình.
Thứ hai, ĐNTT ở Tây Nguyên đi đầu trong việc đào tạo, bồi dưỡng
nguồn nhân lực cho sự nghiệp đẩy mạnh CNH, HĐH và áp dụng các thành
tựu KHCN vào quá trình quản lý và sản xuất.
Mục tiêu của GDĐT là xây dựng con người với đầy đủ phẩm chất,
năng lực, trí tuệ và bản lĩnh, đáp ứng yêu cầu phát triển trong từng giai đoạn
lịch sử. Thời kỳ nào cũng vậy, trọng trách này trước hết thuộc về ĐNTT.
Ở Tây Nguyên, sau giải phóng và trước giai đoạn đổi mới, trí thức đã
tư vấn, chịu trách nhiệm trực tiếp trong việc cải tạo hệ thống giáo dục cũ
(phục vụ sự cai trị, bóc lột của thực dân Pháp và đế quốc Mỹ) sang hệ thống
giáo dục mới xã hội chủ nghĩa, phục vụ sự phát triển Tây Nguyên. Trong thời
kỳ đổi mới, ĐNTT tham gia thực hiện chính sách đổi mới căn bản và toàn
diện GDĐT theo tinh thần nghị quyết của Đảng.
Tây Nguyên vốn là vùng trũng về GDĐT, nhất là ở vùng sâu, vùng xa,
vùng DTTS. Trước thực trạng đó và thực hiện sự lãnh đạo, chỉ đạo của cấp
uỷ, chính quyền cũng như với vai trò, trách nhiệm của mình, nhiều trí thức đã
không quản ngại khó khăn, thiếu thốn về cơ sở tuyên truyền, vận động các gia
đình cho con em tới trường học tập, nâng cao trình độ. Đồng thời, từng bước
tham gia tạo lập, gây dựng hệ thống trường, lớp ở các cấp học, bậc học, qua
đó mở rộng quy mô giáo dục. Hiện nay, toàn vùng có 20 trường đại học, cao
đẳng. Trong đó đại học có 44 chuyên ngành đào tạo hệ chính quy và 08
chuyên ngành đào tạo sau đại học. Cao đẳng sư phạm có 19 chuyên ngành
đào tạo chính quy và 19 chuyên ngành liên kết đào tạo đại học. Các trường
cao đẳng chuyên ngành và cao đẳng nghề có 53 ngành, nghề đào tạo; ngoài ra
các trường còn đào tạo liên thông, liên kết nhiều ngành, nghề khác [8].
Số lượng, chất lượng đội ngũ giảng viên các trường đại học, cao đẳng
được nâng lên. Số cán bộ giảng dạy trong các trường đại học và phân hiệu đại
học có 984 người, gồm: 14 phó giáo sư, 86 tiến sĩ, 510 thạc sĩ và 374 cử nhân.
Các trường cao đẳng sư phạm có 434 cán bộ giảng dạy, gồm: 10 tiến sĩ, 235
43
thạc sĩ, 189 cử nhân. Các trường cao đẳng chuyên ngành và cao đẳng nghề có
895 giảng viên, gồm: 02 tiến sĩ, 223 thạc sĩ, 670 cử nhân [8].
Trí thức là cán bộ lãnh đạo, quản lý giáo dục với sự hiểu biết và trách
nhiệm tham gia xây dựng cơ...trong việc thực hiện chính sách đối với nguồn nhân lực chất lượng cao. Việc
thành lập trung tâm không chỉ nhằm đảm bảo sự thống nhất trong quản lý
nguồn nhân lực chất lượng cao, tránh lãng phí, sử dụng không hiệu quả, mà
còn thể hiện tính chuyên nghiệp trong công tác tổ chức, cũng như sự trân
trọng, tôn vinh đối với trí thức. Trước mắt, trong khi chờ đợi thành lập trung
tâm thì nhiệm vụ này được giao cho liên hiệp các hội khoa học và kỹ thuật.
Thứ sáu, rà soát, sửa đổi, bổ sung Nghị định 45/2010/NĐ-CP, ngày
21/4/2010 "Quy định về tổ chức, hoạt động và quản lý Hội" và Quyết định số
68/2010/QĐ-TTg, ngày 01/11/2010 của Thủ tướng Chính phủ về "Quy định
Hội có tính chất đặc thù" cho phù hợp với Nghị quyết 27-NQ/TW của Ban
Chấp hành Trung ương và Chỉ thị 42-CT/TW của Bộ Chính trị.
151
DANH MỤC CÔNG TRÌNH KHOA HỌC CỦA TÁC GIẢ ĐÃ
CÔNG BỐ LIÊN QUAN ĐẾN LUẬN ÁN
1. Lương Hữu Nam (2016), “Thực trạng đội ngũ trí thức tỉnh Lâm Đồng và
một số giải pháp phát triển phát huy vai trò của trí thức”, Tạp chí
Sinh hoạt Lý luận, (01), (134), tr.72-77.
2. Lương Hữu Nam (2016), “Nhận diện từ thực tiễn đội ngũ trí thức ở Tây
Nguyên hiện nay”, Tạp chí Sinh hoạt Lý luận, (08), (141), tr.62-66.
3. Lương Hữu Nam (2017), “Thực trạng nguồn nhân lực chất lượng cao ở
Tây Nguyên và những vấn đề đặt ra”, Kỷ yếu hội thảo khoa học cấp
quốc gia năm 2016 về phát triển kinh tế-xã hội vùng Tây Nguyên,
Nxb Nông nghiệp, tr.241-245.
152
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Nguyễn Đức Bách (2015), Báo cáo kết quả đề tài khoa học công nghệ:
Nghiên cứu đề xuất các giải pháp đào tạo nguồn và sử dụng hiệu
quả nhân lực trí thức DTTS tại chỗ tỉnh Đắk Lắk, Viện Khoa học
Môi trường và Xã hội, Hà Nội.
2. Ban Chấp hành Trung ương (2002), Nghị quyết 10-NQ/TW của Bộ Chính
trị về phát triển kinh tế - xã hội và đảm bảo quốc phòng, an ninh
vùng Tây Nguyên thời kỳ 2001-2010, Hà Nội.
3. Ban Chấp hành Trung ương (2011), Kết luận số 12-KL/TW của Bộ
Chính trị về tiếp tục thực hiện Nghị quyết số 10-NQ/TW của Bộ
Chính trị (Khoá IX) phát triển vùng Tây Nguyên thời kỳ 2011-
2020, Hà Nội.
4. Ban Chỉ đạo Tây Nguyên (2011), Báo cáo tổng kết Nghị quyết 10-
NQ/TW của Bộ Chính trị về phát triển KT-XH và bảo đảm quốc
phòng, an ninh vùng Tây Nguyên thời kỳ 2001-2010, Hà Nội.
5. Báo điện tử Đài Tiếng nói Việt Nam (2014), Đào tạo Đại học - Cao
đẳng ở Tây Nguyên: Sinh viên tốt nghiệp và thất nghiệp (bài 1),
tại trang [truy cập ngày 30/8/2016].
6. Nguyễn Khánh Bật, Trần Thị Huyền (2012), Xây dựng ĐNTT thời kỳ đẩy
mạnh CNH, HĐH theo tư tưởng Hồ Chí Minh, Nxb Chính trị quốc
gia, Hà Nội.
7. Bộ Giáo dục và Đào tạo (2010), Báo cáo tổng kết 10 năm thực hiện Nghị
quyết 10-NQ/TW về phát triển KT-XH vùng Tây Nguyên, Hà Nội.
8. Bộ Giáo dục và Đào tạo (2013), Thông báo số 1394/TB-BGDĐT kết luận
tại Hội nghị các trường đại học, cao đẳng, trung cấp chuyên
nghiệp và dạy nghề về công tác đào tạo nguồn nhân lực cho Tây
Nguyên, Hà Nội.
153
9. Bộ Giao thông Vận tải (2010), Báo cáo số 4478/BC-BGTVT tổng kết 10
năm thực hiện Nghị quyết 10-NQ/TW về phát triển KT-XH vùng
Tây Nguyên, Hà Nội.
10. Bộ Lao động Thương binh và Xã hội (2010), Báo cáo kết quả thực hiện
Nghị quyết 10 của Bộ Chính trị về phát triển kinh tế - xã hội vùng
Tây Nguyên và bảo đảm quốc phòng an ninh vùng Tây Nguyên
thời kỳ 2001-2010, Hà Nội.
11. Bộ Nội vụ (2010), Báo cáo số 42/BC-BNV về kết quả triển khai thực
hiện Nghị quyết 10 của Bộ Chính trị về phát triển kinh tế - xã hội
vùng Tây Nguyên và bảo đảm quốc phòng an ninh vùng Tây
Nguyên thời kỳ 2001-2010, Hà Nội.
12. Bộ Y tế (2010), Báo cáo số 667/BC-BYT về tình hình y tế Tây Nguyên,
Hà Nội.
13. C.Mác, Ph.Ăngghen (1983), Toàn tập, tập 19, Nxb Chính trị quốc gia,
Hà Nội, tr.47.
14. C.Mác, Ph.Ăngghen (1995), Toàn tập, tập 4, Nxb Chính trị quốc gia,
Hà Nội.
15. C.Mác, Ph.Ăngghen (2002), Toàn tập, tập 20, Nxb Chính trị quốc gia,
Hà Nội.
16. Trịnh Quang Cảnh (2002), Trí thức người DTTS ở Việt Nam trong công
cuộc đổi mới, Luận án Tiến sĩ Triết học, Học viện Chính trị quốc
gia Hồ Chí Minh, Hà Nội.
17. Chính phủ (2003), Quyết định số 253/QĐ-TTg của Thủ tướng Chính phủ
về việc phê duyệt đề án một số giải pháp củng cố, kiện toàn chính
quyền cơ sở vùng Tây Nguyên giai đoạn 2002-2010, Hà Nội.
18. Chính phủ (2004), Chỉ thị số 45/CT-TTg của Thủ tướng Chính phủ về
tăng cường thực hiện các nhiệm vụ, giải pháp tiếp tục phát triển
vùng Tây Nguyên toàn diện, bền vững, Hà Nội.
19. Chính phủ (2004), Chỉ thị số16/CT-TTg của Thủ tướng Chính phủ về
đấu tranh xoá bỏ tổ chức phản động FULRO đang nhen nhóm
phục hồi trên một số địa bàn các tỉnh Tây Nguyên, Hà Nội.
154
20. Chương trình Phát triển Liên hiệp quốc (2016), Báo cáo phát triển con
người Việt Nam 2015, Nxb Khoa học xã hội, Hà Nội.
21. Cục Thống kê tỉnh Đắk Lắk (2011), Niên giám thống kê 2010, Đắk Lắk.
22. Cục Thống kê tỉnh Đắk Lắk (2016), Niên giám thống kê 2015, Đắk Lắk.
23. Cục Thống kê tỉnh Đắk Nông (2011), Niên giám thống kê 2010, Đắk Nông.
24. Cục Thống kê tỉnh Đắk Nông (2016), Niên giám thống kê 2015, Đắk Nông.
25. Cục Thống kê tỉnh Gia Lai (2011), Niên giám thống kê 2010, Gia Lai.
26. Cục Thống kê tỉnh Gia Lai (2016), Niên giám thống kê 2015, Gia Lai.
27. Cục Thống kê tỉnh Kon Tum (2011), Niên giám thống kê 2010, Kon Tum.
28. Cục Thống kê tỉnh Kon Tum (2016), Niên giám thống kê 2015, Kon Tum.
29. Cục Thống kê tỉnh Lâm Đồng (2010), Tổng điều tra dân số và nhà ở tỉnh
Lâm Đồng 2009, Lâm Đồng.
30. Cục Thống kê tỉnh Lâm Đồng (2011), Niên giám thống kê 2010, Lâm Đồng.
31. Cục Thống kê tỉnh Lâm Đồng (2016), Niên giám thống kê 2015, Lâm Đồng.
32. Trương Xuân Cừ (2013), Phát triển đội ngũ trí thức vùng Tây Bắc - Cần quan
tâm tới chính sách, địa chỉ truy cập baotintuc.vn, [truy cập ngày
25/5/2017].
33. Phạm Tất Dong (1994), Luận cứ khoa học cho các chính sách nhằm phát
huy năng lực sáng tạo của giới trí thức và sinh viên, Chương trình
KX04, Đề tài KX04-06, Hà Nội.
34. Trương Minh Dục (2014), "Xây dựng đội ngũ trí thức các tộc người ở Tây
Nguyên thời kỳ đổi mới", Tạp chí Lịch sử Đảng, (10), tr.78-83.
35. Phạm Thị Thu Dung (2014), Kết quả 5 năm thực hiện Nghị quyết Trung
ương 7 (Khóa X) về xây dựng ĐNTT ở tỉnh Gia Lai, Thông tin
Tuyên giáo Gia Lai, tại trang
[truy cập ngày 17/10/2015].
36. Nguyễn Thành Dũng (2012), Nâng cao chất lượng đội ngũ cán bộ chủ
chốt cấp huyện ở các tỉnh Tây Nguyên trong giai đoạn hiện nay,
Luận án Tiến sĩ khoa học chính trị, Học viện Chính trị - Hành
chính quốc gia Hồ Chí Minh, Hà Nội.
155
37. Đảng Cộng sản Việt Nam (1991), Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc
lần thứ VII, Nxb Sự thật, Hà Nội.
38. Đảng Cộng sản Việt Nam (1991), Cương lĩnh xây dựng đất nước trong
thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội, Nxb Sự thật, Hà Nội.
39. Đảng cộng sản Việt Nam (1994), Văn kiện Hội nghị lần thứ 7 BCHTW
khóa VII, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.
40. Đảng Cộng sản Việt Nam (2008), Nghị quyết Trung ương 7 khoá X về
xây dựng ĐNTT trong thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại
hóa đất nước, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.
41. Đảng Cộng sản Việt Nam (2011), Cương lĩnh xây dựng đất nước trong
thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội (bổ sung, phát triển năm
2011), Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.
42. Đảng Cộng sản Việt Nam (2016), Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc
lần thứ XII, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.
43. Đảng uỷ Công an Trung ương (2010), Báo cáo tổng kết 10 năm thực
hiện Nghị quyết 10 của Bộ Chính trị về phát triển kinh tế - xã hội
vùng Tây Nguyên và bảo đảm quốc phòng, an ninh vùng Tây
Nguyên thời kỳ 2001-2010, Hà Nội.
44. Trần Đương (2007), Bác Hồ với nhân sĩ, trí thức, Nxb Thông tấn, Hà Nội.
45. Đinh Ngọc Giang (2014), "Thu hút và trọng dụng nhân tài trong giai
đoạn hiện nay", Tạp chí Lý luận Chính trị, (4).
46. Nguyễn Thị Thanh Hà (2014), ĐNTT giáo dục đại học Việt Nam trong
đào tạo nguồn nhân lực chất lượng cao thời kỳ đẩy mạnh công
nghiệp hóa, hiện đại hóa, Luận án Tiến sĩ Triết học, Học viện
Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh, Hà Nội.
47. Trần Sơn Hải (2011), Phát triển nguồn nhân lực ngành du lịch khu vực
duyên hải Nam Trung Bộ và Tây Nguyên, Luận án Tiến sĩ Quản lý
hành chính công, Học viện Hành chính, Hà Nội.
156
48. Trương Thị Hạnh (2016), “Phát triển xã hội và quản lý phát triển xã hội
vùng Tây Nguyên: Những vấn đề lý luận và thực tiễn”, Hội thảo
Đào tạo đại học với phát triển nguồn nhân lực chất lượng cao ở
vùng Tây Nguyên hiện nay, Viện Khoa học xã hội vùng Tây
Nguyên, Đắk Lắk, tr.204-210.
49. Hồ Chí Minh (2002), Toàn tập, tập 5, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.
50. Hồ Chí Minh (2002), Toàn tập, tập 7, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.
51. Hồ Chí Minh (2002), Toàn tập, tập 8, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.
52. Trần Phương Hoa (2016), Vài nét về vai trò trí thức - quan điểm từ châu
Âu, tại trang [truy cập ngày 19/7/2016].
53. Hội đồng Trung ương chỉ đạo biên soạn giáo trình Quốc gia các bộ môn
khoa học Mác-Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh (2003), Giáo trình
Triết học Mác-Lênin, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.
54. Trần Việt Hùng (2012), "Phát huy vai trò của cán bộ người DTTS trong
phát triển KT-XH kết hợp với an ninh quốc phòng ở khu vực Tây
Nguyên", Hội thảo Quốc tế: Cơ chế đảm bảo quyền con người cho
các dân tộc thiểu số ở Việt Nam và kinh nghiệm ở các nước khu
vực Đông Nam Á.
55. Nguyễn Đắc Hưng (2008), Trí thức Việt Nam tiến cùng thời đại, Nxb
Chính trị quốc gia, Hà Nội.
56. Nguyễn Thành Huy (2008), Xây dựng ĐNTT Việt Nam: Kinh nghiệm
của Phần Lan, tại trang [truy cập ngày
15/10/2015].
57. Jacques Dournes (2014), Pơ tao, một lý thuyết về quyền lực ở người
Jarai Đông Dương (Nguyên Ngọc dịch), Nxb Tri thức, Hà Nội.
58. Nguyễn Văn Khánh (chủ biên) (2012), Nguồn lực trí tuệ Việt Nam, lịch
sử, hiện trạng và triển vọng, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.
59. Vũ Khiêu (2014), Trí thức Việt Nam thời xưa, Nxb Thuận Hoá, Huế.
60. Lê Văn Khoa, Phạm Quang Tú (đồng chủ biên) (2014), Hướng tới phát
triển bền vững Tây Nguyên, Nxb Tri thức, Hà Nội.
157
61. Phan Thanh Khôi (1992), Động lực của trí thức trong lao động sáng tạo
ở nước ta hiện nay, Luận án Phó Tiến sĩ Khoa học Triết học, Học
viện Nguyễn Ái Quốc, Hà Nội.
62. Bùi Thị Ngọc Lan (2000), Phát huy nguồn lực trí tuệ trong công cuộc
đổi mới ở nước ta hiện nay, Luận án Tiến sĩ Triết học, Học viện
Chính trị Quốc gia Hồ Chí Minh, Hà Nội.
63. Bùi Thị Ngọc Lan (2017), “Cách mạng công nghiệp lần thứ tư và một số
vấn đề đặt ra với Việt Nam”, Tạp chí Lý luận Chính trị, (01),
tr.30-33.
64. Liên hiệp các hội Khoa học và Kỹ thuật Gia Lai (2012), Báo cáo đánh
giá 5 năm triển khai Nghị quyết số 27-NQ/TW (khóa X) về xây
dựng đội ngũ trí thức trong thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp hóa,
hiện đại hóa đất nước, Gia Lai.
65. Liên hiệp các hội khoa học và kỹ thuật Gia Lai (2014), Thông tin về
nguồn nhân lực trình độ cao ở tỉnh Gia Lai, Gia Lai.
66. Liên hiệp các Hội Khoa học và Kỹ thuật Kon Tum (2013), Báo cáo về
nguồn nhân lực và chính sách khoa học và công nghệ trên địa bàn
tỉnh, Kon Tum.
67. Liên hiệp các Hội Khoa học và Kỹ thuật Lâm Đồng (2013), Báo cáo kết
quả nghiên cứu đề tài nghiên cứu thực trạng và đề xuất các giải
pháp xây dựng ĐNTT tỉnh Lâm Đồng, Lâm Đồng.
68. Nguyễn Võ Linh (2010), Thực trạng và giải pháp phát triển nguồn nhân
lực phục vụ phát triển KT-XH tỉnh Đắk Nông đến năm 2020, Viện
Quy hoạch và thiết kế nông nghiệp, Hà Nội.
69. Nguyễn Tiến Lực (2014), Đào tạo nguồn nhân lực ở Nhật Bản, bài học
cho Việt Nam, Nxb Khoa học xã hội, Hà Nội.
70. Lê Công Lương (2016), Đổi mới sự lãnh đạo của Đảng đối với công tác
vận động trí thức trong giai đoạn hiện nay, Luận án Tiến sĩ khoa
học chính trị, Học viện Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh, Hà Nội.
158
71. Hà Minh (2008), Chính sách thu hút nhân tài của Singapore: Bài bản và
chuyên nghiệp, tại trang [truy cập ngày
22/7/2016].
72. Lê Hữu Nghĩa (chủ biên) (2001), Một số vấn đề về xây dựng đội ngũ cán
bộ lãnh đạo chủ chốt cấp huyện người các dân tộc ở Tây Nguyên,
Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.
73. Nguyên Ngọc (2007), "Một lớp trí thức mới của Tây Nguyên, hoàn toàn
là hiện thực", Tạp chí Tia Sáng, tại trang
[truy cập ngày 17/10/2015].
74. Nhà xuất bản Thuận Hoá (1998), Từ điển Tiếng Việt, Huế.
75. Nhà xuất bản Tiến bộ (1986), Từ điển Chủ nghĩa cộng sản khoa học,
Mátxcơva.
76. Nhà xuất bản Tiến bộ (1986), Từ điển Triết học, Mátxcơva.
77. Nhà xuất bản Từ điển (2005), Từ điển Bách khoa Việt Nam, Tập 4, Hà Nội.
78. Nhiều tác giả (2009), Về trí thức Nga, Nxb Tri thức, Hà Nội.
79. Nguyễn An Ninh (2008), Phát huy tiềm năng trí thức khoa học xã hội
Việt Nam, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.
80. Phùng Hữu Phú (2015), Xây dựng ĐNTT trong thời kỳ đẩy mạnh công
nghiệp hóa, hiện đại hóa, Báo điện tử Đảng Cộng sản Việt Nam,
tại trang [truy cập ngày 10/10/2015].
81. Lê Văn Phục (2014), Phát triển nguồn nhân lực chất lượng cao trong
quá trình công nghiệp hoá, hiện đại hoá ở Thành phố Đà Nẵng,
Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.
82. Lê Quang Quý (2005), Xây dựng ĐNTT ngành kiến trúc trong công cuộc
đổi mới ở nước ta hiện nay, Luận án Tiến sĩ Triết học, Học viện
Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh, Hà Nội.
83. Phạm S (2014), Nông nghiệp công nghệ cao tạo bước đột phát góp phần
phát triển kinh tế - xã hội Lâm Đồng nhanh và bền vững, Thông
tin khoa học công nghệ tỉnh Lâm Đồng, (3), 2014.
159
84. Sở Khoa học và Công nghệ tỉnh Đắk Lắk (2016), “Phát triển xã hội và
quản lý phát triển xã hội vùng Tây Nguyên: Những vấn đề lý luận và
thực tiễn”, Phát triển và đào tạo nguồn nhân lực trong thời kỳ đổi
mới, Viện Khoa học xã hội vùng Tây Nguyên, Đắk Lắk tr.195-203.
85. Đỗ Thị Thạch (1999), Trí thức nữ Việt Nam trong công cuộc đổi mới
hiện nay - tiềm năng và phương hướng xây dựng, Luận án Tiến sĩ
Triết học, Học viện Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh, Hà Nội.
86. Bùi Tất Thắng (2016), “Phát triển xã hội và quản lý phát triển xã hội vùng
Tây Nguyên: Những vấn đề lý luận và thực tiễn”, Hội thảo Phát
triển và đào tạo nguồn nhân lực vùng Tây Nguyên trong thời kỳ đổi
mới, Viện Khoa học xã hội vùng Tây Nguyên, Đắk Lắk, tr.182-194.
87. Cao Văn Thông, Đỗ Xuân Tuất (2015), Chiến lược phát triển nhân tài
của Việt Nam hiện nay, Nxb Lý luận Chính trị, Hà Nội.
88. Thủ tướng Chính phủ (2011), Quyết định 579/QĐ-TTG phê duyệt
Chiến lược triển nhân lực Việt Nam thời kỳ 2011-2020, Hà Nội.
89. Thủ tướng Chính phủ (2011), Quyết định 1216 /QĐ-TTG phê duyệt
Quy hoạch phát triển nhân lực Việt Nam giai đoạn 2011-2020,
Hà Nội.
90. Thủ tướng Chính phủ (2012), Quyết định 936/QĐ-TTg phê duyệt Quy
hoạch tổng thể phát triển KT-XH vùng Tây Nguyên đến năm 2020,
Hà Nội.
91. Thủ tướng Chính phủ (2014), Quyết định phê duyệt quy hoạch xây dựng
vùng Tây Nguyên đến năm 2030, Hà Nội.
92. Thủ tướng Chính phủ (2014), Quyết định 276/QĐ-TTG về việc Kế hoạch
triển khai thực hiện Kết luận số 12-KL/TW của Bộ Chính trị về
tiếp tục thực hiện Nghị quyết số 10-NQ/TW của Bộ Chính trị
(Khoá IX) phát triển vùng Tây Nguyên thời kỳ 2011-2020, Hà Nội.
93. Tỉnh uỷ Đắk Lắk (2012), Báo cáo số 219-BC/TU tự kiểm tra việc lãnh đạo,
chỉ đạo thực hiện Nghị quyết số 27-NQ/TW của Ban Chấp hành
Trung ương Đảng (khóa X) về xây dựng đội ngũ trí thức trong thời
kỳ đẩy mạnh công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước, Đắk Lắk.
160
94. Tỉnh uỷ Lâm Đồng (2008), Chương trình hành động thực hiện Nghị
quyết số 27-NQ/TW của Ban Chấp hành Trung ương khóa X về
xây dựng ĐNTT trong thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại
hóa, Lâm Đồng.
95. Tổng cục Thống kê (2014), Niên giám thống kê 2013, Nxb Thống kê,
Hà Nội.
96. Tổng cục Thống kê (2016), Niên giám thống kê 2015, Nxb Thống kê,
Hà Nội.
97. Nguyễn Công Trí (2012), Trí thức Việt Nam trong phát triển kinh tế tri
thức, Luận án Tiến sĩ Triết học, Học viện Chính trị - Hành chính
quốc gia Hồ Chí Minh, Hà Nội.
98. Nguyễn Tuấn Triết (2003), Tây Nguyên cuối thế kỷ XX vấn đề dân cư và
nguồn nhân lực, Nxb Khoa học xã hội, Thành phố Hồ Chí Minh.
99. Phạm Thế Trịnh (2015), “Giải pháp chủ yếu phát triển nguồn nhân lực
trí thức tỉnh Đắk Lắk đến năm 2020”, Hội thảo Những đóng góp
của ĐNTT Đắk Lắk trong 30 năm đổi mới, Liên hiệp các hội khoa
học và kỹ thuật tỉnh Đắk Lắk, tr.20-31.
100. Trương Trổ (2013), Báo cáo kết quả nghiên cứu thực trạng và đề xuất
các giải pháp xây dựng ĐNTT tỉnh Lâm Đồng, đề tài khoa học cấp
tỉnh, Lâm Đồng.
101. Trịnh Quốc Tuấn (1995), Quan điểm và chính sách của V.I.Lênin đối với
trí thức trong cách mạng xã hội chủ nghĩa, Tạp chí Nghiên cứu Lý
luận, (4), tr.7-10.
102. Trương Văn Tuấn (2014), Xây dựng đội ngũ trí thức tại thành phố Hồ
Chí Minh trong sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất
nước, Đại học Khoa học Xã hội và Nhân văn Thành phố Hồ Chí
Minh, Thành phố Hồ Chí Minh.
103. Uỷ ban Nhân dân tỉnh Đắk Lắk (2011), Báo cáo Quy hoạch phát triển
nhân lực tỉnh Đắk Lắk, Đắk Lắk.
161
104. Uỷ ban Nhân dân tỉnh Đắk Nông (2011), Báo cáo Quy hoạch phát triển
nhân lực tỉnh Đắk Nông, Đắk Nông.
105. Uỷ ban Nhân dân tỉnh Đắk Nông (2011), Quy hoạch phát triển nguồn
nhân lực tỉnh Đắk Nông giai đoạn 2011 - 2020, Đắk Nông.
106. Uỷ ban Nhân dân tỉnh Gia Lai (2011), Quy hoạch phát triển nhân lực
tỉnh Gia Lai giai đoạn 2011 - 2020, Gia Lai.
107. Uỷ ban Nhân dân tỉnh Kon Tum (2011), Quy hoạch phát triển nguồn
nhân lực tỉnh Kon Tum, Kon Tum.
108. Uỷ ban Nhân dân tỉnh Lâm Đồng (2012), Báo cáo tổng hợp quy hoạch phát
triển nhân lực tỉnh Lâm Đồng giai đoạn 2011-2020, Lâm Đồng.
109. Uỷ ban Nhân dân tỉnh Lâm Đồng (2012), Quyết định 916/QĐ-UBND về
việc phê duyệt Quy hoạch phát triển nhân lực tỉnh Lâm Đồng đến
năm 2020, Lâm Đồng.
110. Uỷ ban Nhân dân tỉnh Lâm Đồng (2013), Báo cáo kết quả nghiên cứu đề
tài khoa học và công nghệ nghiên cứu thực trạng và đề xuất các
giải pháp xây dựng đội ngũ trí thức tỉnh Lâm Đồng, Lâm Đồng.
111. V.I.Lênin (1977), Toàn tập, tập 38, Nxb Tiến bộ, Mátxcơva.
112. V.I.Lênin (2005), Toàn tập, tập 8, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.
113. Viện Khoa học xã hội vùng Tây Nguyên (2016), Kỷ yếu hội thảo phát
triển xã hội và quản lý phát triển xã hội vùng Tây Nguyên: Những
vấn đề lý luận và thực tiễn, Đắk Lắk.
114. Viện Ngôn ngữ học (1994), Từ điển tiếng Việt, Nxb Giáo dục, Hà Nội.
115. Viện ngôn ngữ học (2003), Từ điển tiếng Việt, Nxb Đà Nẵng, Đà Nẵng.
116. Đặng Văn Vũ (2011), Văn hoá và con người Tây Nguyên trong văn xuôi
nghệ thuật 1945 - 2000, Luận án Tiến sĩ văn học Việt Nam,
Trường Đại học Khoa học xã hội và Nhân văn Thành phố Hồ Chí
Minh, Thành phố Hồ Chí Minh.
117. Đàm Đức Vượng (2014), Thực trạng và giải pháp xây dựng đội ngũ trí
thức Việt Nam trong sự nghiệp đổi mới đất nước, Nxb Chính trị quốc
gia, Hà Nội.
162
118. Cao Thị Thanh Xuân (2015), Phát triển đội ngũ hiệu trường trường
trung học phổ thông các tỉnh bắc Tây Nguyên trong bối cảnh đổi
mới giáo dục, Luận án Tiến sĩ Quản lý giáo dục, Viện Khoa học
Giáo dục Việt Nam, Hà Nội.
119. Trương Thị Bạch Yến (2014), Tạo nguồn cán bộ, công chức cấp xã
người dân tộc thiểu số các tỉnh Tây Nguyên giai đoạn hiện nay,
Luận án Tiến sĩ khoa học chính trị, chuyên ngành Xây dựng đảng,
Học viện Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh, Hà Nội.
120. Y Ghi Niê (2009), Đánh giá thực trạng và đề xuất một số giải pháp phát
huy trí tuệ của ĐNTT trên địa bàn tỉnh Đắk Lắk, đề tài khoa học
cấp tỉnh, Đắk Lắk.
121. Y Ngông Niê Kđăm (2006), Cuộc đời và trong lòng bạn bè, đồng
nghiệp, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.
163
PHỤ LỤC
Phụ lục 1
PHIẾU KHẢO SÁT Ý KIẾN
Nhằm đánh giá thực trạng và đề xuất các giải pháp phát triển đội ngũ trí thức
ở Tây Nguyên, rất mong Ông/Bà cung cấp một số thông tin sau (bằng cách đánh
dấu x vào một trong các ô cho sẵn):
Giới tính: Nam Nữ
Tuổi:..Dân tộc:.
Trình độ học vấn: Trung cấp Cao đẳng Đại học
Thạc sĩ Tiến sĩ Khác
Trình độ lý luận chính trị: Sơ cấp Trung cấp Cao cấp
Cử nhân Khác
Lĩnh vực công tác: Đảng Chính quyền Mặt trận-Đoàn thể
Đơn vị sự nghiệp Doanh nghiệp Khác
1. Ông/Bà có quan tâm đến chính sách đối với trí thức không?
Có Không
2. Trình độ ngoại ngữ của Ông/Bà?
Chưa học Trình độ A Trình độ B
Trình độ C Cử nhân Khác:.
3. Mức độ sử dụng ngoại ngữ của Ông/Bà như thế nào?
Thường xuyên Thỉnh thoảng Chưa bao giờ
4. Trình độ tin học của Ông/Bà?
Chưa học Trình độ A Trình độ B
Trình độ C Cử nhân Khác:.
5. Mức độ sử dụng tin học của Ông/Bà như thế nào?
Thường xuyên Thỉnh thoảng Chưa bao giờ
6. Cơ sở vật chất phục vụ công việc của Ông/Bà như thế nào?
Rất tốt Tốt Bình thường Nghèo nàn
7. Môi trường công tác của Ông/Bà như thế nào?
Rất tốt Tốt Bình thường Khó phát triển
164
8. Khó khăn lớn nhất tác động tới sự phát triển của Ông/Bà là gì?
Lương thấp Môi trường công tác Cơ chế, chính sách
Cơ sở vật chất Khác:..
9. Công việc hiện tại có phù hợp với chuyên ngành đào tạo của Ông/Bà không?
Phù hợp Tương đối Không phù hợp
10. Ông/Bà đã bao giờ viết bài nghiên cứu cho các tạp chí, sách, báo, hội thảo,
đề tài khoa học chưa?
Thường xuyên Thỉnh thoảng Chưa bao giờ
11. Ông/Bà tham gia các lớp bồi dưỡng, tập huấn nào không?
Thường xuyên Thỉnh thoảng Chưa bao giờ
12. Ông/Bà hài lòng với vị trí công việc hiện nay không?
Rất hài lòng Hài lòng Không hài lòng
13. Ông/Bà đã bao giờ tham gia tư vấn, phản biện, giám định các chương trình,
đề tài, đề án nào chưa?
Thường xuyên Thỉnh thoảng Chưa bao giờ
14. Ông/Bà có tham gia các hoạt động đào tạo, truyền bá kiến thức cho cộng
đồng không?
Thường xuyên Thỉnh thoảng Chưa bao giờ
15. Ông/Bà có muốn nâng cao trình độ, chuyên môn không?
Có Không Không cần thiết
16. Mức lương hiện nay làm cho Ông/Bà yên tâm công tác chưa?
Yên tâm Chưa yên tâm
17. Vị trí công tác của Ông/Bà đã tương xứng với cống hiến chưa?
Rất tương xứng Tương xứng Chưa tương xứng Khác
18. Theo Ông/Bà, đội ngũ trí thức của tỉnh hiện nay đã đáp ứng được yêu cầu
phát triển kinh tế-xã hội của địa phương chưa?
Đã đáp ứng Chưa đáp ứng Không biết
19. Ông/Bà cho biết chính sách đối với đội ngũ trí thức của tỉnh hiện nay?
Rất tốt Tốt Bình thường Chưa tốt Không rõ
Trân trọng cảm ơn sự hợp tác của Ông/Bà
165
Phụ lục 2
BẢNG TỔNG HỢP
KẾT QUẢ KHẢO SÁT ĐỘI NGŨ TRÍ THỨC Ở TÂY NGUYÊN
Tổng số phiếu: 750 phiếu, trong đó: Nam: 472; Nữ: 278.
- Kon Tum: 134 phiếu. Nam: 85 Nữ: 49.
- Gia Lai: 165 phiếu. Nam: 103 Nữ: 62.
- Đắk Lắk: 159 phiếu. Nam: 98 Nữ: 61.
- Đắk Nông: 120 phiếu. Nam: 75 Nữ: 45.
- Lâm Đồng: 172 phiếu. Nam: 111 Nữ: 61.
Stt Nội dung/Tỉnh Kon tum Gia Lai Đắk Lắk Đắk Nông Lâm Đồng Tây Nguyên
1 Độ tuổi
Số
phiếu
Tỉ lệ
%
Số
phiếu
Tỉ lệ
%
Số
phiếu
Tỉ lệ
%
Số
phiếu
Tỉ lệ
%
Số
phiếu
Tỉ lệ
%
Số
phiếu
Tỉ lệ
%
Dưới 30 15 11,2 8 4,8 9 5,7 37 30,8 12 7,0 81 10,8
Từ 30 đến dưới 40 74 55,2 68 41,2 62 39,0 48 40,0 74 43,0 326 43,5
Từ 40 đến dưới 50 42 31,3 79 47,9 68 42,8 21 17,5 70 40,7 280 37,3
Trên 50 3 2,2 10 6,1 20 12,6 14 11,7 16 9,3 63 8,4
2 Dân tộc
Kinh 90 67,2 124 75,2 119 74,8 92 76,7 135 78,5 560 74,7
DTTS 44 32,8 41 24,8 40 25,2 28 23,3 37 21,5 190 25,3
166
3 Học vấn
Đại học 108 80,6 124 75,2 117 73,6 97 80,8 123 71,5 569 75,9
Thạc sĩ 24 17,9 34 20,6 30 18,9 23 19,2 35 20,3 146 19,5
Tiến sĩ 2 1,5 7 4,2 12 7,5 0 0,0 14 8,1 35 4,7
4 Lý luận chính trị
Sơ cấp 30 22,4 31 18,8 22 13,8 24 20,0 28 16,3 135 18,0
Trung cấp 53 39,6 62 37,6 64 40,3 47 39,2 79 45,9 305 40,7
Cao cấp 25 18,7 40 24,2 40 25,2 19 15,8 30 17,4 154 20,5
Cử nhân 7 5,2 15 9,1 18 11,3 9 7,5 18 10,5 67 8,9
Chưa học 19 14,2 17 10,3 15 9,4 21 17,5 17 9,9 89 11,9
5 Lĩnh vực công tác
Đảng 11 8,2 18 10,9 28 17,6 49 40,8 29 16,9 135 18,0
Chính quyền 45 33,6 72 43,6 60 37,7 16 13,3 40 23,3 233 31,1
Mặt trận-Đoàn thể 18 13,4 28 17,0 21 13,2 20 16,7 17 9,9 104 13,9
Đơn vị sự nghiệp 55 41,0 38 23,0 36 22,6 29 24,2 73 42,4 231 30,8
Doanh nghiệp 4 3,0 6 3,6 10 6,3 6 5,0 9 5,2 35 4,7
Khác 1 0,7 3 1,8 4 2,5 0 0,0 4 2,3 12 1,6
6 Ông/Bà có quan tâm đến chính sách đối với trí thức không?
Có 134 100,0 164 99,4 154 96,9 115 95,8 168 97,7 735 98,0
Không 0 0,0 1 0,6 5 3,1 5 4,2 4 2,3 15 2,0
7 Trình độ ngoại ngữ của Ông/Bà?
Chưa học 15 11,2 6 3,6 2 1,3 4 3,3 2 1,2 29 3,9
A 50 37,3 44 26,7 40 25,2 23 19,2 29 16,9 186 24,8
B 54 40,3 95 57,6 84 52,8 79 65,8 117 68,0 429 57,2
C 3 2,2 9 5,5 12 7,5 7 5,8 9 5,2 40 5,3
Cử nhân 5 3,7 8 4,8 8 5,0 4 3,3 6 3,5 31 4,1
Khác 7 5,2 3 1,8 13 8,2 3 2,5 9 5,2 35 4,7
167
8 Mức độ sử dụng ngoại ngữ của Ông/Bà như thế nào?
Thường xuyên 6 4,5 2 1,2 7 4,4 4 3,3 11 6,4 30 4,0
Thỉnh thoảng 82 61,2 128 77,6 117 73,6 86 71,7 118 68,6 531 70,8
Chưa bao giờ 46 34,3 35 21,2 35 22,0 30 25,0 43 25,0 189 25,2
9 Trình độ tin học của Ông/Bà?
Chưa học 4 3,0 0 0,0 5 3,1 3 2,5 2 1,2 14 1,9
A 74 55,2 84 50,9 60 37,7 43 35,8 79 45,9 340 45,3
B 52 38,8 68 41,2 74 46,5 65 54,2 80 46,5 339 45,2
C 2 1,5 2 1,2 2 1,3 1 0,8 2 1,2 9 1,2
Cử nhân 0 0,0 4 2,4 4 2,5 6 5,0 4 2,3 18 2,4
Khác 2 1,5 7 4,2 14 8,8 2 1,7 5 2,9 30 4,0
10 Mức độ sử dụng tin học của Ông/Bà như thế nào?
Thường xuyên 120 89,6 151 91,5 145 91,2 104 86,7 143 83,1 663 88,4
Thỉnh thoảng 13 9,7 14 8,5 13 8,2 12 10,0 27 15,7 79 10,5
Chưa bao giờ 1 0,7 0 0,0 1 0,6 4 3,3 2 1,2 8 1,1
11 Cơ sở vật chất phục vụ công việc của Ông/Bà như thế nào?
Rất tốt 6 4,5 16 9,7 7 4,4 22 18,3 22 12,8 73 9,7
Tốt 57 42,5 72 43,6 82 51,6 56 46,7 96 55,8 363 48,4
Bình thường 66 49,3 70 42,4 67 42,1 39 32,5 54 31,4 296 39,5
Nghèo nàn 5 3,7 7 4,2 3 1,9 3 2,5 0 0,0 18 2,4
12 Môi trường làm việc của Ông/Bà như thế nào?
Rất tốt 4 3,0 10 6,1 8 5,0 18 15,0 14 8,1 54 7,2
Tốt 64 47,8 74 44,8 73 45,9 65 54,2 94 54,7 370 49,3
Bình thường 58 43,3 71 43,0 61 38,4 29 24,2 59 34,3 278 37,1
Khó phát triển 8 6,0 10 6,1 17 10,7 8 6,7 5 2,9 48 6,4
168
13 Khó khăn lớn nhất tác động tới sự phát triển của Ông/Bà là gì?
Lương thấp 55 41,0 55 33,3 60 37,7 50 41,7 80 46,5 300 40,0
Môi trường làm việc 32 23,9 26 15,8 22 13,8 13 10,8 29 16,9 122 16,3
Cơ chế chính sách 26 19,4 65 39,4 59 37,1 32 26,7 40 23,3 222 29,6
Cơ sở vật chất 13 9,7 8 4,8 6 3,8 4 3,3 6 3,5 37 4,9
Khác 8 6,0 11 6,7 12 7,5 21 17,5 17 9,9 69 9,2
14 Công việc hiện tại có phù hợp với chuyên ngành đào tạo của Ông/Bà không?
Phù hợp 72 53,7 99 60,0 77 48,4 54 45,0 93 54,1 395 52,7
Tương đối 44 32,8 39 23,6 62 39,0 45 37,5 53 30,8 243 32,4
Không phù hợp 18 13,4 27 16,4 20 12,6 21 17,5 26 15,1 112 14,9
15 Ông/Bà đã bao giờ viết bài nghiên cứu cho các tạp chí, sách, báo, hội thảo, đề tài khoa học chưa?
Thường xuyên 5 3,7 9 60,0 7 48,4 5 45,0 13 54,1 39 5,2
Thỉnh thoảng 50 37,3 54 23,6 61 39,0 47 37,5 64 30,8 276 36,8
Chưa bao giờ 79 59,0 102 16,4 91 12,6 68 17,5 95 15,1 435 58,0
16 Ông/Bà tham gia các lớp bồi dưỡng, tập huấn nào không?
Thường xuyên 35 26,1 41 24,8 34 21,4 10 8,3 24 14,0 144 19,2
Thỉnh thoảng 98 73,1 124 75,2 122 76,7 101 84,2 138 80,2 583 77,7
Chưa bao giờ 1 0,7 0 0,0 3 1,9 9 7,5 10 5,8 23 3,1
17 Ông/Bà hài lòng với vị trí công việc hiện nay không?
Rất hài lòng 14 10,4 19 11,5 16 10,1 11 9,2 18 10,5 78 10,4
Hài lòng 103 76,9 127 77,0 125 78,6 99 82,5 134 77,9 588 78,4
Không hài lòng 17 12,7 19 11,5 18 11,3 10 8,3 20 11,6 84 11,2
18 Ông/Bà đã bao giờ tham gia tư vấn, phản biện, giám định các chương trình, đề tài, đề án nào chưa?
Thường xuyên 6 4,5 11 6,7 11 6,9 6 5,0 19 11,0 53 7,1
Thỉnh thoảng 40 29,9 60 36,4 79 49,7 35 29,2 74 43,0 288 38,4
Chưa bao giờ 88 65,7 94 57,0 69 43,4 79 65,8 79 45,9 409 54,5
169
19 Ông/Bà có tham gia các hoạt động đào tạo, truyền bá kiến thức cho cộng đồng không?
Thường xuyên 18 13,4 9 5,5 17 10,7 10 8,3 17 9,9 71 9,5
Thỉnh thoảng 81 60,4 115 69,7 100,0 62,9 63 52,5 99 57,6 458 61,1
Chưa bao giờ 35 26,1 41 24,8 42,0 26,4 47 39,2 56 32,6 221 29,5
20 Ông/Bà có muốn nâng cao trình độ, chuyên môn không?
Có 126 94,0 164 99,4 150,0 94,3 110 91,7 161 93,6 711 94,8
Không 4 3,0 0 0,0 8,0 5,0 5 4,2 6 3,5 23 3,1
Không cần thiết 4 3,0 1 0,6 1,0 0,6 5 4,2 5 2,9 16 2,1
21 Mức lương hiện nay làm cho Ông/Bà yên tâm công tác chưa?
Yên tâm 43 32,1 42 25,5 34,0 21,4 41 34,2 44 25,6 204 27,2
Chưa yên tâm 91 67,9 123 74,5 125,0 78,6 79 65,8 128 74,4 546 72,8
22 Vị trí công tác của Ông/Bà đã tương xứng với cống hiến chưa?
Rất tương xứng 2 1,5 4 2,4 5,0 3,1 7 5,8 5 2,9 23 3,1
Tương xứng 82 61,2 113 68,5 93,0 58,5 76 63,3 113 65,7 477 63,6
Chưa tương xứng 45 33,6 44 26,7 56,0 35,2 31 25,8 43 25,0 219 29,2
Khác 5 3,7 4 2,4 5,0 3,1 6 5,0 11 6,4 31 4,1
23 Theo Ông/Bà, đội ngũ trí thức của tỉnh hiện nay đã đáp ứng được yêu cầu phát triển kinh tế-xã hội của địa phương chưa?
Đã đáp ứng 26 19,4 17 10,3 22,0 13,8 21 17,5 32 18,6 118 15,7
Chưa đáp ứng 96 71,6 135 81,8 132,0 83,0 82 68,3 122 70,9 567 75,6
Không biêt 12 9,0 13 7,9 5,0 3,1 17 14,2 18 10,5 65 8,7
24 Ông/Bà cho biết chính sách đối với đội ngũ trí thức của tỉnh hiện nay?
Rất tốt 0 0,0 0 0,0 0,0 0,0 2 1,7 1 0,6 3 0,4
Tốt 22 16,4 16 9,7 3,0 1,9 16 13,3 20 11,6 77 10,3
Bình thường 54 40,3 96 58,2 80,0 50,3 73 60,8 90 52,3 393 52,4
Chưa tốt 51 38,1 47 28,5 71,0 44,7 17 14,2 47 27,3 233 31,1
Không rõ 7 5,2 6 3,6 5,0 3,1 12 10,0 14 8,1 44 5,9
170
Phụ lục 3
SỐ NGƯỜI CÓ TRÌNH ĐỘ ĐẠI HỌC TRỞ LÊN Ở TÂY NGUYÊN.
Đơn vị tính: Người.
Tỉnh Tổng số Tiến sĩ Thạc sĩ Cử nhân
Kon Tum 11.452 10 269 11.173
Gia Lai 30.871 39 1.205 29.627
Đắk Lắk 33.136 143 1.003 31.990
Đắk Nông 5.435 02 85 5.348
Lâm Đồng 29.811 161 999 28.651
Tây Nguyên 110.705 355 3.561 106.789
Nguồn: Tác giả tổng hợp trên cơ sở [64; 65; 66; 67; 68; 103; 104; 106; 107; 108; 110].
Phụ lục 4
BẢN ĐỒ 5 TỈNH TÂY NGUYÊN
Nguồn: