HỌC VIỆN CHÍNH TRỊ QUỐC GIA HỒ CHÍ MINH
ĐỖ THÁI HUY
PHáT HUY VAI TRò CủA NHÂN Tố CHủ QUAN
TRONG XÂY DựNG ĐộI NGũ CáN Bộ CHủ CHốT CấP Xã
ở ĐồNG BằNG SÔNG HồNG HIệN NAY
LUẬN ÁN TIẾN SĨ
CHUYấN NGÀNH: CHỦ NGHĨA DUY VẬT BIỆN CHỨNG
VÀ CHỦ NGHĨA DUY VẬT LỊCH SỬ
HÀ NỘI - 2018
HỌC VIỆN CHÍNH TRỊ QUỐC GIA HỒ CHÍ MINH
ĐỖ THÁI HUY
PHáT HUY VAI TRò CủA NHÂN Tố CHủ QUAN
TRONG XÂY DựNG ĐộI NGũ CáN Bộ CHủ CHốT CấP Xã
ở ĐồNG BằNG SÔNG HồNG HIệN NAY
LUẬN ÁN TIẾN SĨ
CHUYấN
153 trang |
Chia sẻ: huong20 | Ngày: 14/01/2022 | Lượt xem: 401 | Lượt tải: 0
Tóm tắt tài liệu Luận án Phát huy vai trò của nhân tố chủ quan trong xây dựng đội ngũ cán bộ chủ chốt cấp xã ở đồng bằng sông Hồng hiện nay, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
NGÀNH: CHỦ NGHĨA DUY VẬT BIỆN CHỨNG
VÀ CHỦ NGHĨA DUY VẬT LỊCH SỬ
Mã số: 62 22 03 02
Người hướng dẫn khoa học: GS.TS. TRẦN THÀNH
HÀ NỘI - 2018
LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan đây là công trình nghiên cứu của
riêng tôi. Các số liệu, kết quả nêu trong luận án là trung
thực, có nguồn gốc rõ ràng và được trích dẫn đầy đủ theo
quy định.
Tác giả luận án
Đỗ Thái Huy
MỤC LỤC
Trang
MỞ ĐẦU 1
Chương 1: TỔNG QUAN TÌNH HÌNH NGHIÊN CỨU 7
1.1. Tổng quan những công trình nghiên cứu liên quan đến nhân tố
chủ quan và phát huy vai trò nhân tố chủ quan trong xây dựng
đội ngũ cán bộ chủ chốt cấp xã 7
1.2. Tổng quan những công trình nghiên cứu liên quan đến thực trạng
phát huy vai trò của nhân tố chủ quan trong xây dựng đội ngũ
cán bộ chủ chốt cấp xã 15
1.3. Tổng quan những công trình nghiên cứu liên quan đến các giải
pháp phát huy vai trò của nhân tố chủ quan trong xây dựng đội
ngũ cán bộ chủ chốt cấp xã 21
1.4. Giá trị của các công trình nghiên cứu đã tổng quan và những vấn
đề đặt ra cần tiếp tục nghiên cứu và làm sáng tỏ thêm 30
Chương 2: NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ VAI TRÒ CỦA NHÂN TỐ
CHỦ QUAN TRONG XÂY DỰNG ĐỘI NGŨ CÁN BỘ CHỦ
CHỐT CẤP XÃ 33
2.1. Nhân tố chủ quan - khái niệm, kết cấu và vai trò của nhân tố chủ quan 33
2.2. Đội ngũ cán bộ chủ chốt cấp xã - khái niệm, đặc điểm, vai trò 46
2.3. Vai trò của nhân tố chủ quan trong xây dựng đội ngũ cán bộ chủ
chốt cấp xã 56
Chương 3: PHÁT HUY VAI TRÒ CỦA NHÂN TỐ CHỦ QUAN TRONG
XÂY DỰNG ĐỘI NGŨ CÁN BỘ CHỦ CHỐT CẤP XÃ Ở
ĐỒNG BẰNG SÔNG HỒNG - THỰC TRẠNG VÀ NGUYÊN
NHÂN CHỦ YẾU 74
3.1. Những yếu tố ảnh hưởng đến việc phát huy vai trò nhân tố chủ
quan trong xây dựng đội ngũ cán bộ chủ chốt cấp xã ở đồng bằng
sông Hồng 74
3.2. Thực trạng phát huy vai trò của nhân tố chủ quan trong xây dựng
đội ngũ cán bộ chủ chốt cấp xã ở đồng bằng sông Hồng 85
3.3. Nguyên nhân chủ yếu của những ưu điểm và hạn chế của việc
phát huy vai trò nhân tố chủ quan trong xây dựng đội ngũ cán bộ
chủ chốt cấp xã ở đồng bằng sông Hồng 103
Chương 4: MỘT SỐ GIẢI PHÁP CƠ BẢN NHẰM PHÁT HUY VAI TRÒ
NHÂN TỐ CHỦ QUAN TRONG XÂY DỰNG ĐỘI NGŨ CÁN
BỘ CHỦ CHỐT CẤP XÃ Ở ĐỒNG BẰNG SÔNG HỒNG 113
4.1. Nâng cao nhận thức vể công tác xây dựng đội ngũ cán bộ chủ
chốt cấp xã ở đồng bằng sông Hồng 113
4.2. Tiếp tục tăng cường sự lãnh đạo của đảng, sự quản lý của nhà
nước; đổi mới cơ chế kiểm tra, giám sát hoạt động của đội ngũ
cán bộ chủ chốt cấp 116
4.3. Đổi mới công tác quy hoạch, tuyển dụng gắn với đào tạo, bồi
dưỡng nâng cao trình độ đối với đội ngũ cán bộ chủ chốt cấp xã
ở đồng bằng sông Hồng 121
4.4. Đổi mới chính sách sử dụng, đánh giá; chính sách đãi ngộ đổi với
đội ngũ cán bộ chủ chốt cấp xã ở đồng bằng sông Hồng 125
4.5. Phát huy tính tính tực trong hoạt động của chính bản thân đội ngũ
cán bộ chủ chốt cấp xã ở đồng bằng sông Hồng 129
KẾT LUẬN 136
DANH MỤC CÁC CÔNG TRÌNH KHOA HỌC CỦA TÁC GIẢ ĐÃ CÔNG
BỐ CÓ LIÊN QUAN ĐẾN ĐỀ TÀI LUẬN ÁN 138
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO 139
DANH MỤC CÁC BẢNG
Trang
Bảng 3.1: Tổng số đơn vị hành chính cấp xã và số xã ở các tỉnh Đồng
bằng sông Hồng (năm 2014) 83
Bảng 3.2: Bảng hệ số lương phân chia theo chức vụ của đội ngũ cán
bộ chủ chốt cấp xã 91
Bảng 3.3: Tỉ lệ dân số từ 15 tuổi trở lên biết chữ phân theo địa
phương năm 2015 105
Bảng 3.4: Thu nhập bình quân trên đầu người một tháng năm 2014 ở
các tỉnh khu vực đồng bằng sông Hồng 107
1
MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Hệ thống chính trị ở Việt Nam bao gồm Đảng, Nhà nước, Mặt trận Tổ
quốc và các đoàn thể chính trị - xã hội được tổ chức chặt chẽ từ Trung ương
đến cơ sở. Cấp cơ sở bao gồm xã, phường, thị trấn trong đó, phường là cơ sở
ở đô thị được đặc trưng bởi quản lý đô thị, xã và thị trấn là cấp cơ sở ở khu
vực nông thôn. Xã là một địa bàn rộng lớn chiếm hơn 80% tổng đơn vị hành
chính cơ sở và gần 80% dân số cả nước. Vì thế, có thể nói "cấp xã ở đây
chính là nói tới vùng nông thôn làng xã" [4, tr.13]. Cấp xã nói riêng và cấp cơ
sở nói chung có vai trò quan trọng vì đó là nền tảng của nền hành chính quốc
gia, là nơi đáp ứng trực tiếp những nhu cầu cuộc sống vật chất của nhân dân
và tổ chức hoạt động để phát triển tốt nhất những khả năng sáng tạo và năng
lực làm chủ của nhân dân lao động. Đội ngũ cán bộ cấp xã nói chung và đội
ngũ cán bộ chủ chốt cấp xã nói riêng đóng vai trò rất quan trọng trong việc
phát triển chính quyền địa phương bởi họ không chỉ thực hiện những nhiệm
vụ của Đảng và Nhà nước giao phó tại cơ cở mà còn là cầu nối giữa Đảng,
Nhà nước với nhân dân.
Trước yêu cầu của tình hình mới, đội ngũ cán bộ chủ chốt nói chung và
cán bộ chủ chốt cấp xã đang đứng trước một thách thức rất lớn. Tại Hội nghị
Trung ương 6 khóa XII, ngày 25-10-2017, Đảng Cộng sản Việt Nam đã ban
hành Nghị quyết số 18-NQ/TW về một số vấn đề về tiếp tục đổi mới, sắp xếp
tổ chức bộ máy của hệ thống chính trị tinh gọn, hoạt động hiệu lực, hiệu quả.
Theo chủ trương đó, tất cả hệ thống chính trị từ Trung ương đến cơ sở đều có
sự sắp xếp theo hướng tinh gọn, hiệu quả. Từ đây đặt ra một vấn đề cấp bách
là nếu ở đâu, đội ngũ cán bộ chủ chốt yếu kém, làm việc không hiệu quả tất
yếu sẽ dẫn đến hoạt động của hệ thống chính trị nơi đó kém hiệu quả và có
2
nhiều khả năng bị luân chuyển khỏi vị trí làm việc hiện tại hoặc bị chuyển
công tác khác. Điều đó đặt ra yêu cầu cần phải hết sức chú trọng đến việc xây
dựng đội ngũ cán bộ chủ chốt các cấp, coi đây là nhiệm vụ quan trọng hàng
đầu, có ý nghĩa quyết định đến sự phát triển của hệ thống chính trị từ Trung
ương đến cơ sở.
Đồng bằng sông Hồng là địa bàn khá rộng lớn, có vị trí quan trọng
trong sự phát triển kinh tế - xã hội ở khu vực miền Bắc nước ta. Trong
những năm qua, cùng với việc kiện toàn hệ thống chính trị cấp xã ở nông
thôn, đội ngũ cán bộ chủ chốt cấp xã đã có những bước chuyển biến tích
cực: số lượng tăng lên, trình độ được cải thiện, đang từng bước được trẻ
hóa Điều đó góp phần tích cực trong việc thực hiện nhiệm vụ chính trị và
phát triển kinh tế - xã hội ở nông thôn. Tuy nhiên, so với yêu cầu đẩy mạnh
công nghiệp hóa, hiện đại hóa nông nghiệp và hội nhập quốc tế, đội ngũ
cán bộ chủ chốt cấp xã ở vùng đồng bằng sông Hồng nhìn chung còn nhiều
hạn chế, bất cập. Một trong những nguyên nhân có hạn chế đó là do chưa
phát huy đúng mức các yếu tố đóng vai trò quan trọng trong xây dựng đội
ngũ cán bộ chủ chốt cấp xã.
Có rất nhiều nhân tố có vai trò trong xây dựng đội ngũ cán bộ chủ chốt
cấp xã ở đồng bằng sông Hồng nhưng những nhân tố chủ quan đóng vai trò
quan trọng nhất, có ý nghĩa quyết định. Những nhân tố chủ quan đó là năng
lực, phẩm chất, ý thức và hoạt động của các chủ thể như Đảng, Nhà nước, các
tổ chức chính trị - xã hội, nhân dân và của cả bản thân đội ngũ cán bộ chủ
chốt cấp xã. Trong những năm qua, mặc dù Đảng và Nhà nước đã có những
chủ trương, chính sách đúng đắn; các tổ chức chính trị - xã hội cũng có những
đóng góp tích cực trong xây dựng đội ngũ cán bộ chủ chốt cấp xã ở đồng
bằng sông Hồng; tuy nhiên, các yếu tố chủ quan trên về cơ bản vẫn chưa phát
huy được đúng mức vai trò to lớn của mình; đặc biệt là bản thân đội ngũ cán
3
bộ chủ chốt cấp xã chưa thực sự có những nỗ lực hết mình để nâng cao trình
độ, phẩm chất đạo đức, lối sống làm cho chất lượng của đội ngũ cán bộ
chủ chốt cấp xã nhìn chung vẫn chưa đáp ứng được yêu cầu, nhiệm vụ phát
triển kinh tế - xã hội ở nông thôn vùng đồng bằng sông Hồng. Do đó, việc
phát huy vai trò của nhân tố chủ quan trong xây dựng đội ngũ cán bộ chủ
chốt cấp xã ở đồng bằng sông Hồng là một trong những vấn đề cấp bách
trong phát triển chính quyền cấp xã nói riêng và phát triển kinh tế - xã hội ở
đồng bằng sông Hồng nói chúng. Vì những lý do trên, tôi chọn vấn đề "Phát
huy vai trò của nhân tố chủ quan trong xây dựng đội ngũ cán bộ chủ chốt
cấp xã ở đồng bằng sông Hồng hiện nay" làm đề tài nghiên cứu trong luận
án tiến sĩ triết học.
2. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu
2.1. Mục đích nghiên cứu
Trên cơ sở nghiên cứu thực trạng phát huy vai trò nhân tố chủ quan
trong xây dựng đội ngũ cán bộ chủ chốt cấp xã ở đồng bằng sông Hồng hiện
nay; luận án đề xuất những giải pháp cơ bản nhằm tiếp tục phát huy vai trò của
nhân tố chủ quan trong xây dựng đội ngũ cán bộ chủ chốt cấp xã ở đồng bằng
sông Hồng trong những năm tiếp theo.
2.2. Nhiệm vụ nghiên cứu
Để đạt được được mục tiêu trên, luận án thực hiện được những nhiệm
vụ cụ thể sau:
Một là, tổng quan những công trình nghiên cứu liên quan đến nhân tố
chủ quan và phát huy vai trò nhân tố chủ quan trong xây dựng đội ngũ cán bộ
chủ chốt cấp xã ở đồng bằng sông Hồng;
Hai là, làm rõ khái niệm, cấu trúc, vai trò của nhân tố chủ quan; vai trò
của nhân tố chủ quan trong xây dựng đội ngũ cán bộ chủ chốt cấp xã ở đồng
bằng sông Hồng;
4
Ba là, phân tích thực trạng và nguyên nhân của thực trạng phát huy vai
trò của nhân tố chủ quan trong xây dựng đội ngũ cán bộ chủ chốt cấp xã ở
đồng bằng sông Hồng hiện nay;
Bốn là, đề xuất giải pháp cơ bản nhằm phát huy vai trò của nhân tố chủ
quan trong xây dựng đội ngũ cán bộ chủ chốt cấp xã ở đồng bằng sông Hồng
hiện nay.
3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
3.1. Đối tượng nghiên cứu
Đối tượng nghiên cứu của luận án là vai trò của nhân tố chủ quan trong
xây dựng đội ngũ cán bộ chủ chốt cấp xã ở đồng bằng sông Hồng.
3.2. Phạm vi nghiên cứu
- Phạm vi đối tượng nghiên cứu: Luận án tập trung nghiên cứu vai trò
của nhân tố chủ quan thuộc về các chủ thể cơ bản trong xây dựng đội ngũ cán
bộ chủ chốt cấp xã ở đồng bằng sông Hồng là Đảng, Nhà nước, các tổ chức
chính trị - xã hội, nhân dân và chính đội ngũ cán bộ chủ chốt cấp xã.
- Phạm vi thời gian và không gian nghiên cứu: Là vai trò của các nhân
tố chủ quan trong xây dựng đội ngũ cán bộ chủ chốt cấp xã ở đồng bằng sông
Hồng từ khi đổi mới (năm 1986) đến nay.
4. Cơ sở lý luận và phương pháp nghiên cứu
4.1. Cơ sở lý luận
Luận án dựa trên cơ sở lý luận của chủ nghĩa Mác - Lênin và tư
tưởng Hồ Chí Minh về nhân tố chủ quan, về đội ngũ cán bộ chủ chốt cấp
xã. Luận án cũng dựa trên những quan điểm, đường lối của Đảng Cộng sản
Việt Nam; chính sách, pháp luật của Nhà nước Việt Nam trong xây dựng
đội ngũ cán bộ chủ chốt cấp xã. Ngoài ra, luận án cũng kế thừa giá trị của
những công trình nghiên cứu trước đó những vấn đề liên quan đến nội dung
nghiên cứu.
5
4.2. Phương pháp nghiên cứu
Luận án được thực hiện trên cơ sở vận dụng phương pháp luận chủ
nghĩa duy vật biện chứng và chủ nghĩa duy vật lịch sử, như phương pháp trừu
tượng hóa khoa học, phương pháp lôgíc - lịch sử... Ngoài ra, luận án còn sử
dụng các phương pháp phân tích, tổng hợp, so sánh, thống kê... để triển khai
các nội dung của luận án.
5. Ý nghĩa khoa học và thực tiễn của luận án
5.1. Ý nghĩa khoa học của luận án
- Luận án góp phần trình bày rõ thêm, phong phú thêm một số vấn đề lý
luận về nhân tố chủ quan. Đặc biệt, từ những vấn đề lý luận đó, luận án phân
tích vai trò của nhân tố chủ quan trong xây dựng đội ngũ cán bộ chủ chốt cấp
xã ở Việt Nam.
- Kết quả nghiên cứu của luận án có thể được sử dụng để làm tài liệu
tham khảo cho việc học tập, nghiên cứu, giảng dạy triết học Mác - Lênin nói
riêng và các ngành khoa học xã hội khác nói chung.
5.2. Ý nghĩa thực tiễn của luận án
Từ việc phân tích thực trạng của việc phát huy vai trò của đội ngũ cán
bộ chủ chốt cấp xã ở đồng bằng sông Hồng, luận án đề xuất một số giải pháp
cơ bản nhằm tiếp tục phát huy vai trò của nhân tố chủ quan trong xây dựng
đội ngũ cán bộ chủ chốt cấp xã ở đồng bằng sông Hồng trong những năm tiếp
theo. Những giải pháp mà luận án đưa ra cũng có thể có ý nghĩa tham chiếu
đối với việc phát huy vai trò của nhân tố chủ quan trong xây dựng đội ngũ cán
bộ chủ chốt cấp xã ở các địa phương khác trên cả nước.
6. Đóng góp mới của luận án
- Luận án nhận diện và góp phần làm sáng tỏ vai trò của nhân tố chủ
quan trong xây dựng đội ngũ cán bộ chủ chốt cấp xã ở động bằng sông Hồng
trên các phương diện cơ bản như năng lực, phẩm chất, ý thức và hoạt động
của các chủ thể.
6
- Luận án đưa ra những giải pháp cụ thể, khá toàn diện nhằm khắc
phục những hạn chế cơ bản trong việc phát huy vai trò nhân tố chủ quan
của các chủ thể tham gia xây dựng đội ngũ cán bộ chủ chốt cấp xã ở đồng
bằng sông Hồng.
7. Kết cấu của luận án
Ngoài phần mở đầu, kết luận và danh mục tài liệu tham khảo, nội dung
luận án bao gồm 4 chương, 15 tiết.
7
Chương 1
TỔNG QUAN TÌNH HÌNH NGHIÊN CỨU
Nhân tố chủ quan và xây dựng đội ngũ cán bộ chủ chốt cấp xã ở nước
ta hiện nay đều là những vấn đề nghiên cứu nhận được sự quan tâm của nhiều
nhà khoa học. Liên quan đến nội dung của luận án, tác giả đã tổng quan
những tài liệu đó thành ba nhóm chính dựa theo bố cục ba chương của luận án
như sau:
1.1. TỔNG QUAN NHỮNG CÔNG TRÌNH NGHIÊN CỨU LIÊN QUAN
ĐẾN NHÂN TỐ CHỦ QUAN VÀ PHÁT HUY VAI TRÒ NHÂN TỐ CHỦ QUAN
TRONG XÂY DỰNG ĐỘI NGŨ CÁN BỘ CHỦ CHỐT CẤP XÃ
1.1.1. Những công trình nghiên cứu liên quan đến nhân tố chủ quan
Vì nhân tố chủ quan có vai trò quan trọng trong hoạt động của chủ thể
nên có nhiều tác giả nghiên cứu vấn đề nhân tố chủ quan, phát huy nhân tố chủ
quan trong hoạt động thực tiễn. Tiêu biểu là những công trình nghiên cứu sau:
Cuốn sách: "Tác động của điều kiện khách quan và nhân tố chủ quan
đối với quá trình xây dựng nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ
nghĩa ở Việt Nam" của tác giả Dương Thị Liễu [35]. Đây vốn là luận án tiến
sĩ chuyên ngành triết học của tác giả đã được chỉnh sửa, bổ sung. Cuốn sách
bao gồm ba chương, trong đó ở chương 1 với tên gọi "Lý luận chung về điều
kiện khách quan và nhân tố chủ quan", tác giả đã phân tích những vấn đề lý
luận về nhân tố chủ quan. Trước hết, tác giả đã đưa ra những quan điểm khác
nhau về nhân tố chủ quan. Có ý kiến đồng nhất nhân tố chủ quan với hoạt
động có ý thức của con người; có ý kiến lại đồng nhất nhân tố chủ quan với ý
thức, tư tưởng, ý thức xã hội; ý kiến khác lại cho rằng nhân tố chủ quan bao
gồm tất cả các lĩnh vực của đời sống xã hội, cả lĩnh vực vật chất và lĩnh vực
tinh thần [35, tr.22-23]. Khi đưa ra các quan điểm đó, tác giả cũng đã có
8
những phân tích, tranh luận để từ đó đưa ra quan điểm của mình về nhân tố
chủ quan: "Nhân tố chủ quan là toàn bộ hoạt động của chủ thể (hoạt động
nhận thức và hoạt động thực tiễn) nhằm thực hiện mục đích của mình và
những thuộc tính, phẩm chất, trạng thái của chủ thể được biểu hiện (định
hướng) trong hoạt động đó" [35, tr.30]. Tác giả cũng chỉ ra hai hình thức biểu
hiện của nhân tố chủ quan trong lịch sử; đó là con người cá nhân riêng biệt
với ý thức, ý chí và khả năng hoạt động của họ và lực lượng xã hội như quần
chúng, đảng phái, nhà nước. Sự phân định này của tác giả có ý nghĩa quan
trọng đối với tác giả luận án khi nhận diện những nhân tố chủ quan tác động
đến việc xây dựng đội ngũ cán bộ chủ chốt cấp xã ở nước ta.
Luận án Tiến sĩ Triết học: "Về nhân tố chủ quan và nhân tố khách
quan: Một số vấn đề lý luận và thực tiễn ở nước ta hiện nay" của tác giả
Phạm Ngọc Minh [43]. Đây là một công trình khoa học đã bàn sâu đến vấn đề
lý luận về nhân tố chủ quan. Tác giả quan niệm, "nhân tố chủ quan là những
gì thuộc về chủ thể và tham gia trực tiếp vào quá trình hoạt động của chủ thể
cũng như bản thân sự hoạt động đó" [43, tr.22]. Theo tác giả, những yếu tố
quan trọng cấu thành nhân tố chủ quan là ý thức và nói chung là đời sống tinh
thần của con người, những kỹ năng, kỹ xảo và thói quen của họ trong hoạt
động sản xuất, kinh nghiệm xã hội, trình độ văn hóa, phẩm chất, ý chí, tính tổ
chức rong hoạt động Quan điểm này của tác giả cũng có ý nghĩa tham khảo
nhất định đối với tác giả luận án khi phân tích những yếu tố cấu thành của
nhân tố chủ quan.
Luận án Tiến sĩ Triết học: "Tích cực hóa nhân tố chủ quan để giai cấp
công nhân Việt Nam thực hiện và hoàn thành sứ mệnh lịch sử của mình" của
tác giả Trần Thị Bích Liên [34]. Trong chương 1 của Luận án, tác giả đã đưa
ra quan niệm về nhân tố chủ quan. Theo tác giả, nhân tố chủ quan là một
phạm trù quan trọng của chủ nghĩa duy vật lịch sử, đặc trưng cho hoạt động
9
tích cực, có ý thức của quần chúng nhân dân, của các giai cấp đảng phái,
nhóm xã hội và của từng cá nhân nhằm biến đổi và cải tạo hiện thức xã hội.
Do đó, "tất cả những gì thuộc về chủ thể cũng hoạt động của chủ thể nhằm tác
động vào hoàn cảnh khách quan để biến đổi nó đều thuộc phạm trù "nhân tố
chủ quan"" [34, tr.23]. Những yếu tố thuộc về nhân tố chủ quan bao gồm trình
độ nhận thức, ý chí, năng lực của chủ thể; những hành động có ý thức nhằm
giải quyết những nhiệm vụ lịch sự nhất định. Tác giả còn nhấn mạnh thêm,
nhân tố chủ quan có mối quan hệ chặt chẽ với nhân tố con người. Nhân tố chủ
quan là sự tổng hòa những đặc trưng về phẩm chất và năng lực của con người;
cụ thể là những phẩm chất chính trị, đạo đức hình thành nên thế giới quan, lý
tưởng, niềm tin, lập trường, thái độ chính trị, thái độ lao động, ý thức tổ chức
kỷ luật, ý chí, tác phong ứng xử, năng lực hành động ở con người với tư
cách là chủ thể. Những phân tích này của tác giả Trần Thị Bích Liên có ý
nghĩa tham khảo nhất định với tác giả luận án khi phân tích những yếu tố cấu
thành của nhân tố chủ quan.
Bài viết: "Nhân tố chủ quan trong cơ chế vận dụng và trong hoạt động
của các quy luật xã hội" của tác giả Lương Việt Hải [25]. Trong bài viết này,
tác giả bàn đến các khái niệm cơ bản là chủ quan, nhân tố chủ quan, vai trò
của nhân tố chủ quan trong cơ chế vận dụng và trong hoạt động của các quy
luật xã hội nói chung và ở nước ta trong giai đoạn trước và sau đổi mới nói
riêng. Theo tác giả, "nhân tố chủ quan là những gì thuộc về chủ thể như ý
thức, phẩm chất, hoạt động của chủ thể" [25, tr.51].
Bài viết: "Một cách tiếp cận về cặp phạm trù điều kiện khách quan và
nhân tố chủ quan" của tác giả Phạm Văn Nhuận [48]. Trong bài viết này, tác
giả đã đưa ra quan niệm về nhân tố chủ quan như sau:
Nhân tố chủ quan là tất cả những yếu tố, đặc trưng hợp thành phẩm
chất và năng lực nhận thức, năng lực tổ chức hoạt động thực tiễn
10
của chủ thể, được huy động vào những hoạt động cụ thể dưới sự cho
phối, thúc đẩy của nguồn gốc - động lực nội tại, tạo nên tính năng
động sáng tạo của chủ thể nhằm cải biến điều kiện khách quan trong
quá trình thực hiện mục tiêu xác định do chủ thể đặt ra [48, tr.59].
Tác giả còn nhấn mạnh thêm, sức mạnh của nhân tố chủ quan không
phải tự nhiên thể hiện ra mà phải thông qua hoạt động của chủ thể. Đặc biệt,
tác giả cũng đi sâu phân tích tính tích cực xã hội của nhân tố chủ quan thông
qua các hoạt động của chủ thể trên ba mặt cơ bản như tạo động lực cho mọi
hoạt động của chủ thể; tạo nên nền tảng cho mọi hoạt động của chủ thể với
các đặc điểm, phẩm chất, ý thức của chủ thể và tạo ra tính tích cự, chủ động,
sáng tạo cho các hoạt động của chủ thể.
Những công trình khoa học kể trên được chọn để tổng quan vì nó liên
quan trực tiếp đến những vấn đề lý luận về nhân tố chủ quan. Nó cung cấp
cho tác giả luận án những quan điểm khác nhau về nhân tố chủ quan, những
yếu tố cấu thành của nhân tố chủ quan, vai trò của nhân tố chủ quan trong
hoạt động thực tiễn của con người.
1.1.2. Những công trình nghiên cứu liên quan đến đội ngũ cán bộ
công chức cấp xã nói chung và đội ngũ cán bộ chủ chốt cấp xã nói riêng
Là một nước nông nghiệp với hơn 80% dân số sinh sống ở nông thôn
nên đội ngũ cán bộ công chức cấp xã nói chung và cán bộ chủ chốt cấp xã nói
riêng ở Việt Nam rất đông đảo. Đây cũng là đối tượng nghiên cứu của nhiều
nhà khoa học. Dưới đây là những công trình nghiên cứu liên quan trực tiếp
đến nội dung của luận án:
Cuốn sách: "Hệ thống chính trị cơ sở nông thôn nước ta hiện nay" của
tác giả Hoàng Chí Bảo [4] đã đưa ra một hệ thống quan điểm lý luận cơ bản
về hệ thống chính trị ở cơ sở, trong đó có cấp xã: "cấp xã ở đây chính là nói
tới vùng nông thôn làng xã" [4, tr.13]. Tác giả khẳng định vai trò, vị trí của hệ
11
thống chính trị cơ sở trong việc giữ vững ổn định chính trị ở cơ sở là ổn định
từ chiều sâu trong lòng dân và cũng thực sự là lo cho cuộc sống của dân. Vì
thế, chính quyền cơ sở nói chung và cấp xã nói riêng "là địa bàn cần phải tới,
cái đích cần phải đạt được của mọi hoạt động chỉ đạo chiến lược từ trung
ương đến địa phương" [4, tr.190]. Trên cơ sở phân tích thực trạng hoạt động
của hệ thống chính trị cơ sở ở nước ta hiện nay, tác giả cho rằng để tiếp tục
đổi mới và nâng cao chất lượng hệ thống chính trị cơ sở trước hết phải xác
định mục tiêu đó là vì dân, dựa vào dân và do nhân dân; nâng cao nhận thức
cho cán bộ đảng viên, đồng thời khắc phục những mặt trái của cơ chế thị
trường để phát huy tốt hơn tính năng động, sáng tạo của cán bộ cơ sở. Trong
cuốn sách, tác giả cũng chỉ ra những vai trò to lớn của đội ngũ cán bộ cơ sở
trong việc xây dựng chính quyền cấp xã, cán bộ cấp xã là cầu nối giữa Đảng
và Nhà nước với nhân dân. Cuốn sách của tác giả Hoàng Chí Bảo đã cung cấp
cho tác giả luận án những quan điểm lý luận cơ bản về vai trò của chính
quyền cấp xã và đội ngũ cán bộ cấp xã.
Cuốn sách: "Vai trò cán bộ lãnh đạo chủ chốt cấp xã trong việc giữ vững
ổn định chính trị - xã hội ở nông thôn nước ta hiện nay" của tác giả Mai Đức
Ngọc [45]. Theo tác giả, đội ngũ cán bộ chủ chốt cấp xã có vai trò quan trọng
trong việc giữ vững ổn định chính trị - xã hội ở nông thôn; nâng cao đời sống
nhân dân ở nông thôn; góp phần đẩy mạnh sự nghiệp công nghiệp hoá, hiện
đại hoá nông nghiệp, nông thôn. Việc xây dựng đội ngũ cán bộ, công chức
cấp xã nói chung, cán bộ chủ chốt cấp xã nói riêng chính là nhằm tạo dựng
nhân tố ổn định chính trị - xã hội từ cơ sở. Vì thế, Đảng và Nhà nước cần xây
dựng, đào tạo, bồi dưỡng đội ngũ cán bộ lãnh đạo chủ chốt cấp xã có đủ năng
lực, phẩm chất để đảm bảo công tác lãnh đạo. Việc xây dựng đội ngũ cán bộ,
công chức cấp xã có đầy đủ về phẩm chất đạo đức, năng lực chuyên môn,
trình độ lý luận chính trị, khả năng tổ chức, quản lý đang là một trong những
12
nhiệm vụ hàng đầu đối với công tác cán bộ của Việt Nam hiện nay. Do đó,
cuốn sách rất có giá trị tham khảo để đưa ra những nội dung cần thiết đối với
việc xây dựng đội ngũ cán bộ, công chức cấp xã hiện nay.
Đề tài khoa học cấp Bộ: "Nâng cao năng lực tổ chức thực tiễn của cán
bộ chủ chốt cấp xã ở một số tỉnh Đồng bằng sông Hồng trong điều kiện hiện
nay" của tác giả Nguyễn Thị Tuyết Mai [40]. Trong chương 1 của đề tài, các
tác giả đã khẳng định vai trò to lớn của hệ thống chính trị cấp xã. Với đặc
trưng là một nước nông nghiệp:
Chính quyền cấp xã của Việt Nam chính là nền tảng của nền hành
chính quốc gia, là nơi đáp ứng những nhu cầu cuộc sống của dân
và tổ chức hoạt động để phát triển tốt nhất những khả năng sáng
tạo và năng lực làm chủ của nhân dân lao động. Cấp xã là nơi
thực tiễn diễn ra sôi động hàng ngày, nơi trực tiếp kiểm nghiệm
tính đúng đắn trong đường lối của Đảng bởi đường lối, Nghị
quyết của Đảng phải thông qua xã, đến được với xã và được thực
hiện ở xã [40, tr.11].
Tác giả cũng đưa ra quan niệm về cán bộ chủ chốt cấp xã, đó là "những
người đứng đầu cơ quan Đảng, chính quyền, Mặt trận Tổ quốc và các đoàn
thể chính trị - xã hội của hệ thống chính trị cấp xã" [40, tr.18]. Quan điểm này
được tác giả luận án sử dụng để nhận diện đội ngũ cán bộ cấp xã ở nước ta
hiện nay. Tác giả cũng chỉ ra tầm quan trọng của đội ngũ cán bộ chủ chốt cấp
xã như lãnh đạo, quản lý, giữa những vị trí trọng yếu nhất trong các tổ chức
Đảng, chính quyền, đoàn thể ở xã; có trách nhiệm chính trong việc đề xuất
những chủ trương, nghị quyết của cấp ủy Đảng, chính quyền, đoàn thể trong
phạm vi cấp xã; điều hành và tổ chức thực hiện các chủ trương trong địa bàn
xã; chịu trách nhiệm trước tập thể và quần chúng nhân dân nhiệm vụ ở cương
vị công tác được giao ở xã Theo tác giả, để thực hiện được những nhiệm vụ
13
trên, đội ngũ cán bộ chủ chốt cấp xã phải có những phẩm chất, năng lực;
trong đó quan trọng nhất là năng lực tổ chức thực tiễn.
Đề tài: "Nghiên cứu tiếp tục hoàn thiện chế độ, chính sách đối với cán
bộ, công chức cơ sở" của tác giả Nguyễn Thế Vịnh [77] đã phân tích thực
trạng về chế độ, chính sách đối với cán bộ, công chức cơ sở, từ đó đề xuất
quan điểm và giải pháp nhằm hoàn thiện chế độ, chính sách đối với cán bộ,
công chức cơ sở. Số liệu trong đề tài phong phú cho sự tham khảo, tạo cơ sở
khoa học cho việc đưa ra những giải pháp xây dựng đội ngũ cán bộ, công
chức cấp xã hiện nay.
Luận án Tiến sĩ: "Xây dựng đội ngũ cán bộ chủ chốt cấp xã vùng nông
thôn đồng bằng sông Cửu Long hiện nay" của Phạm Công Khâm [30]. Trong
chương 1 của Luận án, tác giả đã đưa ra những quan điểm khác nhau về đội
ngũ cán bộ chủ chốt cấp xã. Ở mỗi quan điểm, tác giả đều đưa ra những phân
tích, bình luận để từ đó trình bày quan niệm về đội ngũ cán bộ chủ chốt cấp
xã như sau:
Đội ngũ cán bộ chủ chốt cấp xã là những người đứng đầu quan
trọng nhất trong hệ thống bộ máy đảng, chính quyền, lực lượng vũ
trang, mặt trận và các đoàn thể chính trị - xã hội ở xã, có tác dụng
chính, chi phối việc chấp hành chủ trương, nghị quyết của Đảng,
chính sách, pháp luật của Nhà nước thông qua việc lãnh đạo và tổ
chức thực hiện các nhiệm vụ kinh tế - xã hội trên địa bàn nông thôn
mà họ phụ trách [30, tr.34].
Từ đó, tác giả đã phân tích vai trò của đội ngũ cán bộ chủ chốt cấp xã
như: đội ngũ cán bộ chủ chốt cấp xã giữ vai trò quyết định trong việc hiện
thực hóa sự lãnh đạo và quản lý của Đảng và Nhà nước về mọi mặt của đời
sống kinh tế [30, tr.41]; đội ngũ cán bộ chủ chốt cấp xã giữ vai trò quyết định
trong việc xây dựng hệ thống tổ chức bộ máy vững mạnh và phong trào cách
14
mạng sâu rộng ở nông thôn [30, tr.42]. Từ việc phân tích điều kiện kinh tế -
xã hội, thực tiễn phát triển của đồng bằng sông Cửu Long, tác giả khẳng định
xây dựng đội ngũ cán bộ chủ chốt cấp xã vùng nông thôn đồng bằng sông
Cửu Long là vấn đề quan trọng, cơ bản và cấp bách hiện nay. Quan điểm của
tác giả về đội ngũ cán bộ chủ chốt cấp xã và những phân tích về vai trò, vị trí
của đội ngũ này có ý nghĩa tham khảo nhất định với tác giả khi phân tích
những vấn đề lý luận về đội ngũ cán bộ chủ chốt cấp xã ở nước ta.
Luận văn Thạc sĩ: "Nâng cao năng lực quản lý cho đội ngũ cán bộ chủ
chốt cấp xã tại tỉnh Bình Phước" của tác giả Nguyễn Thị Kim Ánh [1]. Trong
chương 1 của luận văn, tác giả cũng trình bày những vấn đề lý luận cơ bản về
đội ngũ cán bộ chủ chốt cấp xã. Theo tác giả, "cán bộ chủ chốt cấp xã là
những người đứng đầu, giữ vị trí quan trọng trong hệ thống chính trị ở cơ sở,
trực tiếp lãnh đạo và tổ chức thực hiện những nhiệm vụ phát triển kinh tế,
chính trị, văn hóa, xã hội trên địa bàn" [1, tr.9-10]. Từ đó, tác giả đã chỉ ra
những người thuộc đội ngũ cán bộ chủ chốt cấp xã. Đó là: Bí thư và Phó Bí
thư Đảng ủy, Chủ tịch và Phó Chủ tịch Hội đồng nhân dân, Chủ tịch và Phó
Chủ tịch Ủy ban nhân dân, Chủ tịch Mặt trận Tổ quốc, Chủ tịch Hội Cựu
chiến binh, Chủ tịch Hội liên hiệp phụ nữ, Bí thư Đoàn Thanh niên Cộng sản Hồ
Chí Minh, Chủ tịch Hội nông dân. Ngoài ra, tác giả còn chỉ ra những đặc điểm
và vai trò của đội ngũ cán bộ chủ chốt cấp xã. Tác giả khẳng định, đội ngũ cán
bộ chủ chốt cấp xã có vai trò quan trọng bởi đó là những người lãnh đạo và điều
hành nền hành chính của địa phương. Hiệu quả hoạt động của nền hành chính cơ
sở và đời sống của nhân dân địa phương phụ thuộc chủ yếu vào đội ngũ cán bộ
chủ cấp xã. Đây là một nhận định thỏa đáng về vai trò của đội ngũ cán bộ chủ
chốt cấp xã với sự phát triển của chính quyền cơ sở ở nông thôn nước ta.
Bên cạnh những công trình nghiên cứu chuyên sâu về cán bộ, công chức
cấp xã, trong đó có đội ngũ cán bộ chủ chốt còn có những công trình nghiên
15
cứu về hệ thống chính trị cơ sở ở nước ta. Tiêu biểu là: Cuốn sách: "Những
vấn đề lý luận và thực tiễn về chính quyền địa phương hiện nay" của hai tác
giả Lê Minh Thông và Nguyễn Như Phát [59]; cuốn sách: "Thực hiện quy chế
dân chủ và xây dựng chính quyền cấp xã ở nước ta hiện nay" của tác giả
Nguyễn Văn Sáu, Hồ Văn Thông [51]; bài viết: "Quan điểm và giải pháp để
củng cố và tăng cường hệ thống chính trị ở cơ sở" của Hoàng Chí Bảo [3];
"Hệ thống chính trị cơ sở vùng sâu, vùng xa và những vấn đề đặt ra cần được
giải quyết" của Hồ Minh Đức [22]... Những công trình nghiên cứu kể trên
cũng đã chỉ ra vai trò to lớn của hệ thống chính trị cấp xã ở nông thôn, trong
đó nhấn mạnh đến vai trò của đội ngũ cán bộ chủ chốt cấp xã.
1.2. TỔNG QUAN NHỮNG CÔNG TRÌNH NGHIÊN CỨU LIÊN QUAN
ĐẾN THỰC TRẠNG PHÁT HUY VAI TRÒ CỦA NHÂN TỐ CHỦ QUAN TRONG
XÂY DỰNG ĐỘI NGŨ CÁN BỘ CHỦ CHỐT CẤP XÃ
Trong bài viết: "Về đội ngũ cán bộ công chức xã, phường, thị trấn" của
tác giả Nguyễn Đức [23] đã chỉ ra vai trò của Đảng và Nhà nước đối với sự
phát triển của đội ngũ cán bộ cấp xã, phường ở nước ta hiện nay. Trong thời
gian qua, Đảng và Nhà nước đa đưa ra nhiều chủ trương, chính sách xây dựng
và phát triển đội ngũ cán bộ cấp xã, trong đó có đội ngũ cán bộ chủ chốt khiến
đội ngũ này từng bước phát triển cả về số lượng và chất lượng:
Sau 5 năm thực hiện Nghị quyết Trung ương 5 khóa IX và các Nghị
định của Chính phủ, các cấp ủy đã coi trọng và đẩy mạnh công tác
đào tạo, bồi dưỡng, quy hoạch và không ngừng nâng cao trình độ,
kiến thức các mặt của đội ngũ cán bộ ở cơ sở. Nhìn chung, đội ngũ
cán bộ xã, phường, thị trấn từng bước được phát triển cả số lượng
và chất lượng [23].
Tác giả còn chỉ ra những chủ trương đúng đắn, tích cực của Đảng và
Nhà nước như thực hiện tiêu chuẩn trẻ hóa đội ngũ cán bộ chủ chốt cấp xã;
16
đưa sinh viên tốt nghiệp các trường Đại học, cao đẳng về xã côn...của tất cả những yếu tố thuộc nhân tố chủ
quan trong xây dựng đội ngũ cán bộ chủ chốt ở đồng bằng sông Hồng. Các
công trình nghiên cứu về xây dựng đội ngũ cán bộ chủ chốt cấp xã trước
đây cũng mới chủ yếu nhắc đến vai trò của Đảng, Nhà nước, chính quyền
địa phương; chưa nhấn mạnh đến vai trò của các tổ chức chính trị - xã hội
địa phương cũng như của chính bản thân đội ngũ cán bộ chủ chốt cấp xã.
Theo tác giả, đây cũng là những yếu tố rất quan trọng thuộc về nhân tố chủ
quan trong xây dựng đội ngũ cán bộ chủ chốt cấp xã ở nước ta nói chung
và ở đồng bằng sông Hồng nói riêng. Do vậy, đây là vấn đề cần tiếp tục
nghiên cứu.
1.4.2. Những vấn đề đặt ra cần tiếp tục nghiên cứu và làm sáng tỏ thêm
Trên cơ sở tổng quan những công trình nghiên cứu liên quan đến nội
dung của luận án, tác giả nhận thấy có một số vấn đề cần được tiếp tục nghiên
cứu và làm sáng tỏ thêm như sau:
Thứ nhất, trước những biến đổi không ngừng của đời sống kinh tế - xã
hội, đội ngũ cán bộ chủ chốt cấp xã chịu tác động của rất nhiều yếu tố. Do đó,
cần phân tích một cách đầy đủ và toàn diện vai trò của những yếu tố thuộc
nhân tố chủ quan trong xây dựng đội ngũ cán bộ chủ chốt cấp xã; chỉ ra yêu
cầu của việc phát huy nhân tố chủ quan trong xây dựng động ngũ này trong
bối cảnh hiện nay .
Thứ hai, trước yêu cầu của việc xây dựng và phát triển hệ thống chính
trị cấp xã ở nông thôn, cần phải phân tích rõ những ưu điểm và hạn chế trong
32
việc phát huy vai trò của nhân tố chủ quan trong xây dựng đội ngũ cán bộ chủ
chốt cấp xã ở vùng đồng bằng sông Hồng hiện nay.
Thứ ba, để phát huy vai trò của đội ngũ cán bộ chủ chốt cấp xã trong
xây dựng và phát triển chính quyền địa phương ở vùng đồng bằng sông Hồng,
cần có những giải pháp có tính khả thi, gắn liền với thực tiễn hiện nay của
nước ta đang trong quá trình đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa gắn với
kinh tế tri thức và hội nhập quốc tế. Những giải pháp được đưa ra cần toàn
diện, có tính bao quát nhằm phát huy tất cả những yếu tố thuộc nhân tố chủ
quan trong xây dựng đội ngũ cán bộ chủ chốt cấp xã ở đồng bằng sông Hồng
hiện nay.
Tiểu kết chương 1
Có khá nhiều công trình nghiên cứu bàn đến những vấn đề lý luận về
nhân tố chủ quan và vai trò của nhân tố chủ quan cũng như bàn đến vấn đề
xây dựng đội ngũ cán bộ chủ chốt cấp xã ở Việt Nam hiện nay. Luận án
không chỉ là sự kế thừa kết quả nghiên cứu trước đó về những vấn đề lý luận
về nhân tố chủ quan, về chính quyền cơ sở và đội ngũ cán bộ chủ chốt cấp xã
mà còn sự tiếp tục nghiên cứu, triển khai những vấn đề đang đặt ra với xây
dựng đội ngũ cán bộ chủ chốt cấp xã ở vùng đồng bằng sông Hồng trong bối
cảnh đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa nông nghiệp nông thôn. Những
khoảng trống về mặt lý luận và yêu cầu của thực tiễn cũng như tầm quan
trọng của vấn đề nghiên cứu trong bối cảnh mới hiện nay đã thôi thúc tác giả
lựa chọn vấn đề "Phát huy nhân tố chủ quan trong xây dựng đội ngũ cán bộ
chủ chốt cấp xã ở đồng bằng sông Hồng hiện nay" làm đề tài nghiên cứu
của luận án.
33
Chương 2
NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ VAI TRÒ CỦA NHÂN TỐ
CHỦ QUAN TRONG XÂY DỰNG ĐỘI NGŨ CÁN BỘ
CHỦ CHỐT CẤP XÃ
2.1. NHÂN TỐ CHỦ QUAN - KHÁI NIỆM, KẾT CẤU VÀ VAI TRÒ CỦA
NHÂN TỐ CHỦ QUAN
2.1.1. Khái niệm nhân tố chủ quan
Muốn hiểu được khái niệm "nhân tố chủ quan", cần xuất phát từ khái
niệm "chủ quan". Khái niệm này không tồn tại một cách độc lập mà nằm trong
mối quan hệ biện chứng với khái niệm "khách quan".
Theo quan điểm của triết học Mác - Lênin, khách quan là tất cả những
gì bên ngoài chủ thể, tồn tại độc lập với chủ thể, là đối tượng nhận thức của
chủ thể, được chủ thể sử dụng vào trong hoạt động thực tiễn: "Khách quan là
tất cả những gì tồn tại ngoài chủ thể, đối lập với chủ thể mà chủ thể phải tính
đến hay phải sử dụng vào hoạt động của mình" [35, tr.14]. Khách quan là
những cái tồn tại bên ngoài chủ thể nhưng cũng không thể đồng nhất khách
quan với thế giới vật chất nói chung. Thế giới vật chất tồn tại một cách khách
quan, vô cùng tận nên nhiều bộ phận của thế giới khách quan con người chưa
thể biết được, chưa thể khám phá ra nên nó chưa thể có mối quan hệ với chủ
thể. Chỉ những bộ phận của thế giới khách quan có mối quan hệ mới chủ thể,
được chủ thể tính đến và sử dụng và trong hoạt của mình mới được gọi là cái
khách quan. Vì vậy, "cái khách quan là tất cả những gì tồn tại ngoài chủ thể
và không phụ thuộc vào ý thức, ý chí của chủ thể, có quan hệ với hoạt động
của chủ thể" [43, tr.16].
Chủ quan theo quan niệm của triết học Mác - Lênin là cái thuộc về chủ
thể nhưng nó không đồng nhất với ý thức - dù ý thức là một bộ phận quan
34
trọng của cái chủ quan. Ngoài ý thức, chủ thể còn có những sức mạnh vật chất
của bản thân chủ thể. Đó là những yếu tố thuộc về thể chất, không tồn tại bên
ngoài chủ thể mà luôn gắn với chủ thể, phục thuộc vào chủ thể. Tuy ý thức là
một bộ phận quan trọng của cái chủ quan nhưng nếu chỉ có ý thức, tư tưởng
thì con người sẽ không thể cải tạo được thế giới. Đúng như C.Mác đã từng
khẳng định: "Tư tưởng căn bản không thể thực hiện được gì hết. Muốn thực
hiện tư tưởng cần có những con người sử dụng lực lượng thực tiễn" [38,
tr.81]. Như vậy, có thể hiểu chủ quan là những cái thuộc về chủ thể, được chủ
thể sử dụng như một yếu tố để tác động vào khách thể trong một hoàn cảnh
lịch sử nhất định: "Chủ quan là tất cả những gì phụ thuộc vào chủ thể, hoặc
được chủ thể sử dụng như một bộ phận hữu cơ của chủ thể để tác động vào
khách thể" [35, tr.14].
Để khái quát đặc điểm của khách quan (hay cái khách quan), chủ quan
(hay cái chủ quan), có ý kiến cho rằng: "Đặc điểm của cái chủ quan là tính
chất thuộc về chủ thể và sự lệ thuộc vào nó, còn đặc điểm của cái khách quan
không chỉ là sự tồn tại bên ngoài chủ thể, mà còn là tính độc lập với chủ thể"
[74, tr.107]. Như vậy, sự phân biệt khách quan và chủ quan là rất cần thiết
cho con người cả trong nhận thức và trong hoạt động thực tiễn.
Trên thực tế, đã có nhiều người đồng nhất cặp phạm trù khách quan và
chủ quan với cặp phạm trù vật chất và ý thức. Tuy vật chất mang tính khách
quan và ý thức mang tính chủ quan nhưng ý thức chỉ mang tính chủ quan
trong mối quan hệ với vật chất cũng như ý thức xã hội chỉ mang tính chủ quan
trong mối quan hệ với tồn tại xã hội. Tuy nhiên, nếu xét ở một trạng thái ý
thức như một đối tượng của nhận thức, như một thực tế xã hội cần được cải
tạo thì nó lại trở thành cái khách quan so với chủ thể nhận thức và cải tạo nó.
Ví như những tư tưởng bảo thủ, lạc hậu của giai cấp phong kiến mang tính
chủ quan khi được xem xét trong mối liên hệ với tồn tại xã hội của chế độ
35
phong kiến nhưng nó cũng trở thành cái khách quan đối với mỗi chủ thể khi
nhận thức và cải tạo nó trong chế độ xã hội xã hội chủ nghĩa bởi lẽ nó là cái
có trước, gắn liền với một chế độ nhất định trong lịch sử, tồn tại độc lập và
không phụ thuộc vào ý muốn chủ quan của chủ thể. Bởi vậy, sự phân biệt
giữa khách quan và chủ quan là cần thiết nhưng cũng cần phải thừa nhận tính
tương đối của sự phân biệt này. Điều đó cũng không có nghĩa là xóa nhòa
ranh giới thế giới về mặt thế giới quan giữa khách quan và chủ quan: "Tính
chất tương đối này không được che mờ ý nghĩa tuyệt đối của tính đối lập giữa
khách quan và chủ quan trong phạm vi vấn đề cơ bản của triết học. Tính tuyệt
đối ấy thể hiện ở chỗ khách quan luôn là tính thứ nhất, chủ quan bao giờ cũng
là tính thứ hai" [35, tr.16].
Cặp phạm trù "khách quan" và "chủ quan" được cụ thể hóa bằng cặp
phạm trù "điều kiện khách quan" và "nhân tố chủ quan". Hiện nay, có nhiều ý
kiến khác nhau khi gọi tên cặp phạm trù này. Có người gọi là "nhân tố chủ
quan" và "nhân tố khách quan". Theo chúng tôi, mặc dù sự phân biệt giữa
"điều kiện" và "nhân tố" chỉ là tương đối nhưng cũng rất cần thiết. Nếu cả
khách quan và chủ quan đều dùng là "nhân tố" thì sẽ vô tình đặt dấu ngang
bằng giữa những yếu tố đóng vai trò là điều kiện, là cơ sở với những yếu tố
đóng vai trò quyết định đối với hoạt động của chủ thể, trực tiếp gây ra biến
đổi trong hoạt động của chủ thể. Vì vậy, theo chúng tôi, việc sử dụng khái
niệm "điều kiện khách quan" và "nhân tố chủ quan" chứa đựng nhiều yếu tố
hợp lý. Chúng cho thấy vai trò của từng yếu tố đối với hoạt động của chủ thể.
Điều kiện khách quan là một phạm trù dùng để chỉ những mặt, những
yếu tố tồn tại bên ngoài chủ thể, có tác động đến hoạt động của chủ thể và
thường xuyên quy định đến hoạt động của chủ thể. Những yếu tố tạo thành
điều kiện khách quan rất phong phú và đa dạng. Nó bao gồm các mặt, các yếu
tố, các kết cấu vật chất tồn tại dưới dạng sẵn có trong tự nhiên; điều kiện địa
36
lý tự nhiên, môi trường sống, phương thức sản xuất Đây là những yếu tố có
tính vật chất. Ngoài ra, điều kiện khách quan còn bao gồm những quan hệ xã
hội, hệ tư tưởng, các phong tục tập quán Những yếu tố này tồn tại độc lập
với chủ thể, không phụ thuộc vào ý muốn của chủ thể. Khi chủ thể xuất hiện,
có nhu cầu nhận thức và cải tạo khách thể thì các mặt, các yếu tố, các mối
quan hệ của điều kiện khách quan trở thành điểm xuất phát, thành căn cứ cho
hoạt động của chủ thể. Như vậy, không thể đồng nhất điều kiện khách quan
với cái khách quan nói chung. Nếu khách quan là tất cả những gì tồn tại
không phụ thuộc vào ý muốn của chủ thể thì điều kiện khách quan chỉ bao
hàm những yếu tố không phụ thuộc vào ý muốn chủ quan của chủ thể nhưng
có tác động đến hoạt động của chủ thể, tạo nên một hoàn cảnh cụ thể để chủ
thể hoạt động.
Điều kiện khách quan không phải là những cái chung chung, trừu tượng
mà luôn mang tính cụ thể. Cùng với sự phát triển của lịch sử - xã hội, điều
kiện khách quan không ngừng vận động và biến đổi. Chúng tác động đến chủ
thể theo những chiều hướng khác nhau, thậm chí trái ngược nhau. Vì vậy, để
hoạt động một cách có hiệu quả, chủ thể cần nhận thức và nắm bắt được kịp
thời những điều kiện khách quan và phát huy một cách tối đa vai trò tích cực
của nhân tố chủ quan.
Về phạm trù "nhân tố chủ quan", hiện nay cũng có nhiều ý kiến khác
nhau. Điều đó nói lên tính phức tạp của vấn đề được nghiên cứu. Có tác giả
đồng nhất nhân tố chủ quan với hoạt động có ý thức hoặc hoạt động tự giác
của con người vì họ cho rằng chỉ những họat động có ý thức mới giúp cho chủ
thể cải tạo được thực tiễn. Theo chúng tôi, quan niệm như vậy chưa làm rõ
được đặc trưng của nhân tố khách quan - tức là cái thuộc về chủ thể hoạt
động. Hoạt động của con người không chỉ chịu tác động của nhân tố chủ quan
mà còn chịu tác động bởi những điều kiện khách quan tồn tại bên ngoài chủ
37
thể. Vì vậy, nếu đồng nhất nhân tố chủ quan với với hoạt động có ý thức hay
hoạt động tự giác của con người là đã vô tình "chủ quan hóa" hoạt động của
con người. Bên cạnh đó, cũng có quan điểm đồng nhất nhân tố chủ quan với ý
thức, tư tưởng. Mặc dù không thể phủ nhận được vai trò của ý thức, tư tưởng
trong việc hình thành nhân tố chủ quan nhưng nếu chí có ý thức và tư tưởng
mà thiếu hoạt động của con người thì ý thức, tư tưởng cũng sẽ không thể trở
thành nguyên nhân làm thay đổi hoạt động của con người được: "Chính trong
thực tiễn mà con người phải chứng minh chân lý, nghĩa là chứng minh tính
hiện thực và sức mạnh, tính trần tục của tư duy của mình" [39, tr.10]. Hơn
nữa, nếu đồng nhất nhân tố chủ quan với ý thức, tư tưởng thì mặt đối lập với
nó không phải là điều kiện khách quan mà phải là vật chất. Điều đó dễ dẫn
đến những sai lầm cả về mặt nhận thức luận và phương pháp luận.
Theo chúng tôi, để có một quan niệm đầy đủ về nhân tố chủ quan, trước
hết cần phải có sự phân biệt các khái niệm có nội hàm sát gần nhau nhưng lại
không hoàn toàn giống nhau, không trùng khít với nhau như con người - chủ
thể - nhân tố chủ quan. Theo quan điểm của chủ nghĩa Mác - Lênin, con
người là một khái niệm chung nhất dùng để chỉ một đối tượng trong mối quan
hệ đối lập với giới tự nhiên. Con người vừa là sản phẩm của giới tự nhiên
song cũng đồng thời là chủ thể của giới tự nhiên bởi con người bằng những
phương thức sản xuất trong một giai đoạn lịch sử nhất định đã cải tạo giới tự
nhiên, cải tạo xã hội và chính bản thân mình. Tuy nhiên, khi đặt con người (có
thể là cả loài người hay cũng có thể là một phận người hay một cá nhân cụ
thể) trong trạng thái đang tích cực hoạt động, trước một đối tượng cần nhận
thức và cải tạo nó theo một mục đích nhất định thì con người lúc đó không
tồn tại một cách chung chung, trừu tượng mà trở thành chủ thể, đối lập với nó
là khách thể - đối tượng mà con người tác động vào đó trong quá trình hoạt
động thực tiễn để đạt được mục đích của mình. Khi xem xét con người - chủ
38
thể hành động với tất cả những mặt, những yếu tố những mối quan hệ cả về
năng lực, phẩm chất, động lực tạo nên tính tích cực của chủ thể, giúp cho
chủ thể hoạt động một cách có hiệu quả thì ta sẽ có được khái niệm nhân tố
chủ quan mà đối lập với nó là điều kiện khách quan. Do đó, có thể hiểu một
cách khái quát, nhân tố chủ quan là tất cả những mặt, những yếu tố, những
thuộc tính thuộc về chủ thể, trực tiếp tác động đến chủ thể và giúp cho chủ thể
hoạt động một cách tích cực, sáng tạo và có hiệu quả.
Như vậy, có thể nhận thấy điều kiện khách quan và nhân tố chủ quan là
những phạm trù luôn gắn liền với nhau. Điều kiện khách quan tạo thành hoàn
cảnh, thành môi trường hoạt động của chủ thể, tác động đến hoạt động của
chủ thể còn nhân tố chủ quan trực tiếp tạo nên những biến đổi trong hoạt động
của chủ thể, phát huy được tính tích cực, chủ động, sáng tạo trong hoạt động
của chủ thể, làm cho chủ thể hoạt động một cách có hiệu quả. Tuy nhiên, việc
xác định điều kiện khách quan và nhân tố chủ quan cần phải linh hoạt, tránh
tư duy cứng nhắc, phải dựa trên quan điểm "lịch sử - cụ thể" . Cùng một hiện
tượng, một quá trình nhưng trong trường hợp này, trong mối quan hệ này là
điều kiện khách quan nhưng trong điều kiện khác, trong mối quan hệ khác lại
thuộc về nhân tố chủ quan. Vấn đề là ở chỗ phải luôn chú ý đến những hoàn
cảnh cụ thể, những mối quan hệ cụ thể và chủ thể hành động.
2.1.2. Kết cấu của nhân tố chủ quan
Có thể nhận thấy đặc trưng của nhân tố chủ quan là: Trực tiếp tham gia
vào hoạt động của chủ thể; chỉ đạo, điều chỉnh, định hướng cho hoạt động của
chủ thể; giúp cho chủ thể phát huy được tính tích cực, chủ động, sáng tạo của
chủ thể; làm cho hoạt động của chủ thể có hiệu quả.
Nhân tố chủ quan bao gồm những yếu tố cơ bản như sau:
Thứ nhất, ý thức của chủ thể. Đây là một bộ phận quan trọng cấu thành
nội dung của khái niệm nhân tố chủ quan nhưng không phải là ý thức nói
39
chung mà chỉ những bộ phận ý thức trực tiếp tham gia vào hoạt động của chủ
thể: "Nhân tố chủ quan không phải là ý thức nói chung mà là cái ý thức đã trở
thành sự chỉ đạo và phương châm của hoạt động. Nói cách khác, đã biến
thành đặc điểm nhất định của hành vi hoạt động của chủ thể" [74, tr.69]. Nội
dung của ý thức ấy bao gồm tri thức, tức là sự hiểu biết của chủ thể về giới tự
nhiên và xã hội được chủ thể tích lũy trong quá trình nhận thức và hoạt động
thực tiễn. Cùng với tri thức, đó là những quan điểm, tư tưởng tạo thành niềm
tin, ý chí của chủ thể, là ý chí quyết tâm của chủ thể trong quá trình hoạt
động thực tiễn. Tất cả những phẩm chất này luôn ảnh hưởng đến hoạt động
của chủ thể theo những chiều hướng khác nhau. Nếu tri thức đúng đắn; nếu
những tư tưởng, quan điểm phù hợp với tiến bộ xã hội; nếu niềm tin, ý chí
quyết tâm được hình thành trên những quan điểm, tư tưởng, tri thức khoa
học thì nó sẽ thúc đẩy hoạt động của chủ thể, làm cho hoạt động của chủ thể
có hiệu quả. Ngược lại, nếu tư tưởng, quan điểm sai lầm, phiến diện; nếu
những niềm tin và sự quyết tâm mù quáng; nếu tri thức phản khoa học sẽ cản
trở hoạt động của chủ thể, làm cho hoạt động của chủ thể kém hiệu quả, dễ
dẫn đến những sai lầm. Như vậy, có thể nói, tri thức, quan điểm, tư tưởng,
niềm tin và ý chí quyết tâm của chủ thể hòa quyện, thống nhất với nhau tạo
thành nhân tố chủ quan.
Thứ hai, hoạt động của chủ thể. Thuộc về nhân tố chủ quan không chỉ
là ý thức của chủ thể mà còn là bản thân hoạt động của chủ thể. Nhờ có quá
trình hoạt động, chủ thể mới có thể hiện thực hóa được ý thức của mình. Quá
trình hoạt động của chủ thể không phải là một quá trình tự phát mà luôn mang
theo những mục đích nhất định. Mục đích chính là động lực cho hoạt động
của chủ thể. Mục đích của chủ thể không ngừng biến đổi, nhờ đó nó thúc đẩy
hoạt động của chủ thể. Do đó, có thể nói, lịch sử chính là quá trình con người
theo đuổi mục đích của mình ở những giai đoạn khác nhau, với những cấp độ
4 0
khách nhau: "Lịch sử chẳng qua chỉ là hoạt động của con người theo đuổi
mục đích của bản thân mình" [38, tr.141].
Thứ ba, những phẩm chất, năng lực và trạng thái của chủ thể. Nhân tố
chủ quan không chỉ được cấu thành bởi ý thức của chủ thể và bản thân hoạt
động của chủ thể mà còn bao gồm cả phẩm chất, trạng thái thuộc về năng lực
thể chất của chủ thể. Vì nhân tố chủ quan tạo ta tính chủ động, tích cực trong
hoạt động của chủ thể nên nhiều người chỉ nhấn mạnh vai trò của ý thức với
sự hình thành nhân tố chủ quan mà xem nhẹ yếu tố năng lực thể chất của chủ
thể. Năng lực thể chất chính là điều kiện, là tiền đề để chủ thể hoạt động và
phát huy được vai trò tích cực của ý thức trong hoạt động của mình.
Như vậy, nhân tố chủ quan là sự kết hợp của ý thức, phẩm chất, năng
lực với hoạt động của chủ thể. Đó chính là những yếu tố thuộc về bản thân
chủ thể, có thể thúc đẩy hoặc kìm hãm chủ thể trong việc thực hiện mục đích
của mình trong hoạt động thực tiễn.
2.1.3. Vai trò của nhân tố chủ quan
Trong mối quan hệ giữa điều kiện khách quan và nhân tố chủ quan,
mặc dù điều kiện khách quan là tính thứ nhất, giữa vai trò quyết định đối với
nhân tố chủ quan nhưng điều đó không có nghĩa là nhân tố chủ quan hoàn
toàn thụ động, lệ thuộc vào điều kiện khách quan mà với tính tích cực, chủ
động, sáng tạo của mình, nhân tố chủ quan có thể chuyển các điều kiện khách
quan thành nội dung hoạt động của mình và đóng vai trò là chủ thể của lịch
sử, là động lực sáng tạo ra lịch sử.
Vai trò tích cực, chủ động, sáng tạo của nhân tố chủ quan trong việc cải
tạo điều kiện khách quan được thể hiện trên những mặt cơ bản sau:
Thứ nhất, nhân tố chủ quan có thể cải tạo điều kiện khách quan theo
mục đích của mình. Theo quan điểm duy vật lịch sử của chủ nghĩa Mác, con
người có ba hoạt động sản xuất cơ cơ bản là sản xuất vật chất, sản xuất ra các
41
mối quan hệ xã hội và sản xuất ra chính bản thân con người và thế giới loài
người. Để thực hiện ba hoạt động đó, con người cùng một lúc phải thiết lập
hai mối quan hệ - quan hệ với tự nhiên và quan hệ với chính con người. Vai
trò của nhân tố chủ quan được thể hiện trên cả hai phương diện ấy. Lịch sử
của loài người gắn liền với quá trình cải tạo giới tự nhiên. Giới tự nhiên mà
hiện nay con người đang sống về cơ bản không còn là tự nhiên nguyên sơ nữa
mà chính là "tự nhiên thứ hai" - tự nhiên đã được con người cải tạo bởi "thế
giới không thỏa mãn con người và con người quyết định biến đổi thế giới
bằng hành động của mình" [32, tr.229]. Như vậy, từ việc được thế giới khách
quan cung cấp cho cơ sở, điều kiện để hoạt động; nhân tố chủ quan đã biết cải
tạo điều kiện khách quan theo những mục đích nhất định của mình. Con
người với tư cách là chủ thể hoạt động không những tạo ra những dạng sẵn có
trong tự nhiên mà còn có thể thay đổi kết cấu của vật thể, tạo ra những dạng
mới nhằm thỏa mãn nhu cầu của mình. Do đó, thế giới khách quan đã in dấu
ấn của con người, từ tự nhiên thuần túy trở thành ự nhiên của con người. Ở
góc độ này, C.Mác và Ph.Ăngghen đã phê phán chủ nghĩa duy vật trước Mác
nói chung và L.Phoiơbắc nói chung khi họ chỉ thừa nhận vai trò thụ động của
con người trước tự nhiên mà không thấy được vai trò to lớn của con người
trong việc cải tạo giới tự nhiên bằng những hoạt động thực tiễn của mình:
"Ông không thấy rằng thế giới cảm giác được bao quanh ông không phải là
một vật đã tồn tại trực tiếp từ ngàn xưa và luôn luôn giống bản thân nó mà lại
là sản phẩm của công nghiệp và của trạng thái xã hội" [39, tr.62].
Cùng với việc tác động vào giới tự nhiên, thay đổi hình ảnh của giới tự
nhiên theo mục đích của mình, con người còn tác động lẫn nhau để cải biến
các quan hệ sản xuất. Bằng các cuộc cách mạng xã hội, con người đã từng
bước hoàn thiện các quan hệ xã hội và tạo ra những bước ngoặt trong lịch sử.
Nhờ đó mà các hình thái kinh tế - xã hội đã thay thể lẫn nhau thúc dẩy sự phát
42
triển của xã hội loài người. Tất cả những bước tiễn trong lịch sử đều đánh dấu
vai trò chủ động, tích cực, sáng tạo của nhân tố chủ quan trong việc cải tạo
điều kiện khách quan.
Thứ hai, nhân tố chủ quan lựa chọn những khả năng khách quan và
biến những khả năng của điều kiện khách quan thành hiện thực. Điều kiện
khách quan luôn chứa đựng những khả năng khách quan. Những khả năng
khách quan dù đã chín muồi nhưng nếu không có những nhân tố chủ quan đã
chín muồi thì những khả năng ấy đã không thể trở thành hiện thực. Bởi vậy,
biến đổi điều kiện khách quan phải đồng thời với biến đổi nhân tố chủ quan,
nếu không, bất kỳ quá trình nào, sự kiện nào cũng chỉ nằm trong trạng thái
khả năng mà thôi. Do đó, khi chỉ ra bài học kinh nghiệm cho sự thành bại của
cuộc cách mạng vô sản, trong bài "Sự sụp đổ của Quốc tế thứ hai", bên cạnh
việc chỉ ra vai trò to lớn của điều kiện khách quan là tình thế cách mạng,
V.I.Lênin còn đặc biệt nhấn mạnh đến vai trò quyết định của nhân tố chủ
quan là tính tự giác, sự giác ngộ về tư tưởng, sự kiên quyết và lòng quả cảm
của quần chúng cách mạng. Theo V.I.Lênin, nếu không có những nhân tố đó
thì dù điều kiện khách quan có chín muồi, cách mạng cũng không thể thành
công được. Ngoài ra, V.I.Lênin còn đặc biệt nhấn mạnh vai trò của nhân tố
chủ quan trong việc biến chủ nghĩa xã hội từ khả năng trở thành hiện thực:
Chúng ta không ra lệnh ngay lập tức thực hiện xã hội chủ nghĩa
trong toàn bộ nền công nghiệp nước ta vì chủ nghĩa xã hội chỉ có
thể thiết lập và đứng vững được khi nào giai cấp công nhân đã biết
quản lý và khi nào quần chúng công nhân đã củng cố được uy tín
của mình. Không thế, chủ nghĩa xã hội chỉ là một nguyện vọng mà
thôi [33, tr.166].
Như vậy, có thể nói tuy điều kiện khách quan là cái có trước, là tiền đề
tạo ra những khả năng cho nhân tố chủ quan hoạt động nhưng trên cơ sở của
43
những điều kiện khách quan đã sẵn có, bằng những hoạt động tích cực, chủ
động, sáng tạo của mình, nhân tố chủ quan đã biến những khả năng của điều
kiện khách quan thành hiện thực. Thành công của cuộc cách mạng tháng Tám
ở nước ta năm 1945 là một ví dụ tiêu biểu cho điều đó. Đầu năm 1945, trong
khi quân phát xít lần lượt thất bại trên các chiến trường và đầu hàng quân
Đồng minh; ở Đông Dương, phát xít Nhật đã đảo chính Pháp. Lúc này, thời
cơ cách mạng đã đến với nước ta, điều kiện khách quan đã chin muồi. Tuy
nhiên, Đảng ta đã phát động quần chúng nhân dân giành chính quyền ở khắp
mọi nơi, đi từ khởi nghĩa từng phần đến khởi nghĩa toàn phần; xây dựng căn
cứ cách mạng, xây dựng lực lượng vũ trang để tiến tới tổng khởi nghĩa trong
toàn quốc. Nhờ đó mà nhân tố chủ quan đã phát huy được vai trò tích cực của
mình để làm nên thắng lợi của cuộc cách mạng tháng Tám, đập tan sự đô hộ
hơn 80 năm của Thực dân Pháp, sự xâm lược của phát xít Nhật và sự thống trị
hơn 10 thế kỷ của chế độ phong kiến.
Như vậy, khả năng của điều kiện khách quan không tự động biến thành
hiện thực và phải do sự giác ngộ, sự nhận thức, sự tích cực chủ động của
chính chủ thể trong quá trình hoạt động. Trong quá trình đó, nhân tố chủ quan
không tùy ý lựa chọn tất cả những khả năng từ điều kiện khách quan mà chỉ
lựa chọn những khả năng phù hợp với tiến trình lịch sử và phù hợp với yêu
cầu, mục đích của mình. Sự lựa chọn đó là sự thể hiện rõ nét vai trò tích cực,
tính độc lập tương đối của nhân tố chủ quan so với điều kiện khách quan.
Thứ ba, nhân tố chủ quan lựa chọn những con đường, cách thức,
phương pháp tối ưu để tác động vào điều kiện khách quan nhằm đạt được
những hiệu quả cao nhất trong quá trình hoạt động. Từ khả năng đến hiện
thực không bằng giờ chỉ có một con đường, một cách thức, một phương pháp
thực hiện. Mặc dù những con đường, những cách thức, những phương pháp
đó do điều kiện khách quan quy định, tuân theo những quy luật khách quan
44
nhưng việc lựa chọn con đường nào, cách thức nào, phương pháp nào là do
nhân tố chủ quan quyết định. Nhân tố chủ quan bao giờ cũng tìm cho mình
con đường ngắn nhất, phương pháp tối ưu nhất để đạt được hiệu quả cao nhất.
Nhờ đó, quá trình hiện thức hóa khả năng được thúc đẩy, tiến trình phát triển
của lịch sử cũng được đẩy nhanh hơn. Đồng chí Lê Duẩn đã từng khẳng định:
Trong hoàn cảnh lịch sử nhất định bao giờ cũng có thể có nhiều khả
năng tiến lên. Và sự vật tiến lên theo khả năng này hay khả năng
khác còn tùy thuộc vào ý định của con người. Cũng như để đạt được
mục đích nhất định, không phải chỉ có một con đường mà có thể có
nhiều con đường, giống như đi đến một điểm trung tâm, người ta có
thể đi từ trên xuống, hoặc từ dưới lên, từ tả qua hay từ hữu lại. Đi
theo con đường nào, cái đó do con người quyết định [9, tr.116].
Thứ tư, nhân tố chủ quan có thể thay đổi hình thức, trật tự tác động của
điều kiện khách quan. Trong điều kiện khách quan luôn bào hàm những quy
luật khách quan. Quy luật vốn là những mối liên hệ bản chất, tất yếu, có tính
ổn định của các sự vật, hiện tượng nhưng hình thức và trật tự tác động của
quy luật có thể thay đổi theo những điều kiện cụ thể khác nhau. Nhân tố chủ
quan không thể tự sáng tạo ra những quy luật, cũng không thể xóa bỏ được
những quy luật nhưng cũng có thể thay đổi hình thức và trật tự tác động của
những quy luật khách quan bằng cách tạo ra những điều kiện khách quan mới.
Trong trường hợp này, vai trò của nhân tố chủ quan được thể hiện ở chỗ trên
cơ sở nhận thức được những quy luật khách quan, nhân tố chủ quan cải tạo
những điều kiện khách quan hiện có thành những điều kiện khách quan mới,
làm cho những quy luật trong điều kiện khách quan cũ mất hiệu lực, nhường
chỗ cho những quy luật mới hình thành cho phù hợp với điều kiện khách quan
mới. Ví dụ, nền kinh tế nước ta trước đổi mới dựa trên chế độ tập trung, quan
lieu bao cấp có những quy luật vận hành của riêng nó nhưng khi nền kinh tế
45
đó không đem lại hiệu quả kinh tế cao, làm cho xã hội kém phát triển; Đảng ta
đã quyết định chuyển sang nền kinh tế thị trường. Lúc đó, những quy luật cũ
của nền kinh tế bao cấp đã mất đi nhưỡng chỗ cho quy luật của nền sản xuất
hàng hóa, nền kinh tế thị trường. Thêm nữa, kinh tế thị trường là sản phẩm
của nền kinh tế thế giới nhưng Đảng ta đã lựa chọn nền kinh tế thị trường
định hướng xã hội chủ nghĩa, có sự quản lý của Nhà nước. Sự lựa chọn đó đã
nói lên vai trò to lớn của nhân tố chủ quan trong việc thay đổi hình thức, trật
tự tác động của điều kiện khách quan.
Hơn nữa, trong quá trình hoạt động của mình, cùng một lúc, nhân tố
chủ quan có thể chịu tác động của nhiều quá trình, nhiều quy luật khác
nhau. Những quá trình, những quy luật đó luôn vận động theo nhiều chiều
hướng khác nhau, thậm chí trái ngược nhau; quá trình này, quy luật này
hạn chế tác dụng của quá trình kia, quy luật kia. Vì vậy, để hoạt động có
hiệu quả, nhân tố chủ quan phải phát huy khả năng trong việc điều chỉnh
một cách tự giác sự tác động của những quá trình, những quy luật nhằm tạo
ra một sự hài hòa để đạt được hiệu quả cao nhất trong hoạt động thực tiễn
của mình. Ví dụ, toàn cầu hóa là một điều kiện khách quan không chỉ mang
đến những thời cơ mà còn tạo ra những thách thức đối với các nước đang
phát triển như Việt Nam. Vai trò của nhân tố chủ quan được thể hiện ở chỗ
nhân tố chủ quan cần phải biết tận dụng những thời cơ, vượt qua những
thách thức, hạn chế những tiêu cực để phát triển nền kinh tế - xã hội của
đất nước trong bối cảnh mới.
Như vậy, có thể nhận thấy, dựa trên những điều kiện khách quan đã
chín muồi, nhân tố chủ quan cũng không ngừng vận động, biến đổi, phát huy
được vai trò tích cực, chủ động, sáng tạo của mình trong quá trình cải tạo thực
tiễn. Bởi vậy, nhân tố chủ quan chính là yếu tố quyết định tiến trình phát triển
của lịch sử.
46
2.2. ĐỘI NGŨ CÁN BỘ CHỦ CHỐT CẤP XÃ - KHÁI NIỆM, ĐẶC ĐIỂM,
VAI TRÒ
2.2.1. Khái niệm đội ngũ cán bộ chủ chốt cấp xã
"Đội ngũ" thường được dùng với tư cách một thuật ngữ quân sự để chỉ
về "một tổ chức gồm nhiều người, tập hợp thành một lực lượng để chiến đấu
hay bảo vệ". Do phát triển của thực tiễn xã hội, thuật ngữ "đội ngũ" dần được
dùng trong công tác quản lý nhân sự. Ngày này, chúng ta quen dùng đội ngũ
cán bộ, đội ngũ thanh niên, đội ngũ nhà giáoTheo những nghĩa này, "đội
ngũ" thường được hiểu là một nhóm người được tổ chức và tập hợp thành một
lực lượng để thực hiện mục đích nhất định trong quan hệ phối hợp thống nhất
về chức năng, nhiệm vụ. Trong các Nghị quyết của Đảng và các văn bản quản
lý của Nhà nước thường dùng thuật ngữ "đội ngũ cán bộ" để chỉ những người
làm việc trong các tổ chức Đảng, Nhà nước, các tổ chức chính trị - xã hội
Hệ thống chính trị ở Việt Nam bao gồm Đảng, Nhà nước, Mặt trận Tổ
quốc và các đoàn thể chính trị - xã hội được tổ chức chặt chẽ từ Trung ương
đến cơ sở. Xã, phường, thị trấn được xác định là cấp cơ sở trong hệ thống bốn
cấp quản lý hành chính nhà nước ở nước ta hiện nay. Hệ thống chính trị cơ sở
có vai trò quan trọng trong tổ chức và vận động nhân dân hiện thực hóa Nghị
quyết của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước và chương trình, kế
hoạch phát triển kinh tế - xã hội của địa phương.
Cấp cơ sở bao gồm xã, ph...g hiện nay.
Bốn là, đổi mới công tác thi đua khen thưởng đối với đội ngũ cán bộ
chủ chốt cấp xã ở đồng bằng sông Hồng. Hiện nay, ở một số tỉnh đồng bằng
sông Hồng, công tác thi đua khen tưởng còn mang tính hình thức, dập
khuôn, khen thưởng theo phong trào, ưu tiên khen thưởng những người
lãnh đạo đứng đầu, có thâm niên công tác mà không chú ý vào năng lực,
quá trình làm việc, hiệu quả công việc. Do đó, chưa thực sự phát huy được
tính tích cực của đội ngũ cán bộ chủ chốt cấp xã hiện nay. Cần đổi mới có
chế thị đua khen thưởng theo hướng thiết thực, khuyến khích sự sáng tạo
của cá nhân, căn cứ vào đóng góp thực tế chứ không căn cứ vào chức vụ,
cơ cấu. Công tác bình xét thi đua khen thưởng cũng cần công tâm, phát huy
tinh thần dân chủ; giá trị khen thưởng cần chú trọng cả về vật chất và tinh
thần, tránh hời hợt, hình thức khiến người được nhận khen thưởng cũng
không thật sự thấy vinh dự, phấn chấn.
4.5. PHÁT HUY TÍNH TÍNH TỰC TRONG HOẠT ĐỘNG CỦA CHÍNH BẢN
THÂN ĐỘI NGŨ CÁN BỘ CHỦ CHỐT CẤP XÃ Ở ĐỒNG BẰNG SÔNG HỒNG
Trong các giải pháp phát huy nhân tố chủ quan trong xây dựng đội ngũ
cán bộ chủ chốt cấp xã ở đồng bằng sông Hồng, đây là giải pháp quan trọng
nhất vì xét cho đến cùng, các yếu tố khác như vai trò của Đảng, Nhà nước,
các tổ chức chính trị xã hội cũng chỉ là những yếu tố tác động đến việc xây
dựng đội ngũ cán bộ chủ chốt cấp xã ở đồng bằng sông Hồng, còn bản thân
họ chính là yếu tố quyết định nhất. Nếu các giải pháp trên đều được thực hiện
nhưng bản thân đội ngũ cán bộ chủ chốt cấp xã không tích cực học tập, rèn
luyện và tu dưỡng phẩm chất đạo đức, phong cách của chính bản thân mình
thì việc xây dựng đội ngũ cán bộ này cũng không thực sự hiệu quả.
130
Thứ nhất, đội ngũ cán bộ chủ chốt cấp xã ở đồng bằng sông Hồng cần
tích cực học tập để nâng cao trình độ, năng lực.
Một trong những yếu tố ảnh hưởng đến khả năng làm việc và năng lực
tổ chức thực tiễn của đội ngũ cán bộ chủ chốt cấp xã ở đồng bằng sông Hồng
hiện nay là do trình độ còn hạn chế. Trong 4 cấp đơn vị hành chính ở nươc
sta, đội ngũ cán bộ chủ chốt cấp xã thường có trình độ thấp nhất, có những
người lại có tư tưởng an bài, coi việc hoạt động thực tiễn quan trọng hơn việc
học tập. Do đó, để tạo nên những bước chuyển về chất trong việc nâng cao
chất lượng đội ngũ cán bộ chủ chốt cấp xã ở đồng bằng sông Hồng, đáp ứng
yêu cầu ngày càng cao của sự phát triển kinh tế - xã hội trong thời kỳ mới,
bản thân đội ngũ này phải luôn có ý thức học tập để nâng cao trình độ, năng
lực của mình, xem đó là nhiệm vụ bắt buộc cũng như nhu cầu của bản thân
nhằm nâng cao nhận thức, sự hiểu biết.
Đối với đội ngũ cán bộ chủ chốt cấp xã hiện nay, không chỉ học chuyên
môn mà còn tích cực, chủ động học tập các môn lý luận chính trị như chủ
nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh để giữ vững lập trường tư tưởng và
bản lĩnh chính trị để bản thân không dao động, thoái hoá, biến chất trước tác
động tiêu cực của cơ chế thi trường hiện nay. Cần thấy được vai trò của lý
luận chính trị đối với hoạt động lãnh đạo, quản lý là vấn đề rất cần thiết không
thể thiếu được; nên chính bản thân của đội ngũ cán bộ lãnh đạo, quản lý cấp
xã cần xem học tập, nâng cao trình độ chính trị là một nhu cầu thực sự, thúc
đẩy họ luôn có tinh thần cầu thị, nhu cầu nghiên cứu, học tập nâng cao trình
độ lý luận chính trị cũng như chuyên môn, nghiệp vụ học tập lý luận chính
trị là để hiểu bản chất khoa học, cách mạng của chủ nghĩa Mác - Lênin và tư
tưởng Hồ Chí Minh quan điểm, đường lối, chủ trương của Đảng chứ không
phải học "câu chữ"; trong quá trình học tập phải biết vận dụng lý luận ấy vào
thực tiễn công tác, qua đó tổng kết rút kinh nghiệm và khái quát nó lại bổ
131
sung, phát triển lý luận. Học tập lý luận chính trị phải kiên quyết đấu tranh
chống những tư tưởng học cốt để lấy bằng, lấy "mác" để lên lương, thăng
chức Ngoài ra, đội ngũ cán bộ chủ chốt cấp xã cũng cần chủ động và tích
cực tìm hiểu, học tập những kiến thức về pháp luật, tự bổ sung cho mình
những tri thức mới về kinh tế, xã hội, lao động sản xuất để từng bước nâng
cao năng lực hoạt động thực tiễn của mình, tránh lối làm việc tùy tiện, vô
nguyên tắc, coi thường pháp luật.
Thứ hai, đội ngũ cán bộ chủ chốt cấp xã ở đồng bằng sông Hồng cần tích
cực rèn luyện và tu dưỡng phẩm chất chính trị, phẩm chất đạo đức cách mạng.
Không phải ngẫu nhiên mà trong những năm gần đây, vấn đề đạo đức
cách mạng của người cán bộ được đặt lên hàng đầu vì "tình trạng suy thoái về
tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống của một bộ phận không nhỏ cán bộ, đảng
viên và tệ quan liêu, tham nhũng lãng phí chưa bị đẩy lùi" [19, tr.61]. Điều đó
làm suy giảm nghiêm trọng hiệu quả công việc và uy tín của đội ngũ cán bộ,
đảng viên, trong đó có cán bộ chủ chốt cấp xã đối với nhân dân. Do đó, đội
ngũ cán bộ chủ chốt cấp xã ở đồng bằng sông Hồng cần tích cực rèn luyện để
nâng cao phẩm chất chính trị và đạo đức cách mạng.
Trước hết, đội ngũ cán bộ chủ chốt cấp xã ở đồng bằng sông Hồng luôn
phải trung thành với chủ nghĩa Mác - Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh, kiên
định theo con đường và mục tiêu của Đảng và Nhà nước. Ở cấp xã, sự trung
thành và niềm tin tưởng đó được biểu hiện ở việc tin tưởng và chấp hành tốt
mọi đường lối, chủ trương của Đảng, quyết tâm cụ thể hóa và tổ chức thực
hiện đường lối đó cho sát hợp với tình hình thực tiễn của địa phương mình,
tích cực tuyên truyền, giáo dục đường lối, chủ trương của Đảng cho cán bộ,
quần chúng nhân dân.
Ngoài ra, cán bộ chủ chốt cấp xã ở đồng bằng sông Hồng cần phải có
long nhiệt tình cách mạng và tinh thần trách nhiệm cao trong công việc. Là
132
người cán bộ đầu tầu của địa phương, họ không được bàng quan trước những
biến động của đời sống xã hội và những biến đổi của địa phương; luôn trăn
trở trước những khó khăn, yếu kém, bất cập của địa phương để từ đó có
những quyết sách phù hợp, kịp thời đối với sự phát triển của địa phương; luôn
có khát vọng đưa địa phương mình ngày càng phát triển. Đây chính là động
lực tinh thần mà đội ngũ cán bộ chủ chốt cấp xã cần nuôi dưỡng để không
ngừng vươn lên hoàn thành tốt nhiệm vụ của mình.
Là những cán bộ chủ chốt cấp xã cả về mặt Đảng và tổ chức chính
quyền, đội ngũ cán bộ chủ chốt cấp xã ở đồng bằng sông Hồng cũng cần rèn
luyện ý thức chính trị như tuân thủ kỷ luật Đảng, pháp luật của Nhà nước, kỷ
luật của cơ quan, tổ chức; không được lợi dụng chức quyền của mình để làm
việc một cách tùy tiện, vô nguyên tắc, phải luôn giữ mình liêm khiết, trong
sạch; kiên quyết đấu tránh chống lại những biểu hiện tiêu cực của đội ngũ cán
bộ, đảng viên như bè phái, cục bộ, tham nhũng, lãng phí, cửa quyền, hách
dịchCó như vậy mới có xây dựng được một đội ngũ cán bộ chủ chốt cấp xã
vững mạnh, trong sạch.
Thứ ba, đội ngũ cán bộ chủ chốt cấp xã ở đồng bằng sông Hồng cần
tích cực xây dựng và củng cố mối liên hệ mật thiết với nhân dân.
Cán bộ chủ chốt cấp xã là những người từ nhân dân mà ra, sống và làm
việc gần dân nhất nên cũng có ảnh hưởng dễ dàng nhất đến quần chúng nhân
dân. Tuy nhiên, ở nhiều nơi, cán bộ chủ chốt cấp xã vẫn còn quan liêu, hành
chính hóa, ngại tiếp xúc với dân hoặc áp đặt, ức hiếp nhân dân khiến nhân dân
bất bình, này sinh những mâu thuẫn, mất niềm tin vào cán bộ, vào Đảng và
Nhà nước. Thực tiễn đã cho thấy, sự gắn bó máu thịt giữa tổ chức Đảng với
nhân dân là nguồn gốc tạo nên sức mạnh to lớn của Đảng. Công cuộc đổi mới
của Việt Nam là kết quả của việc phát huy sức mạnh đại đoàn kết toàn dân,
của sự thống nhất giữa đường lối đúng đắn của Đảng với ý nguyện và hành
133
động của nhân dân. Là tổ chức Đảng cấp cơ sở, vừa gần dân mà cũng là cầu
nối của dân với những đường lối lãnh đạo của Đảng và nhà nước, người cán
bộ chủ chốt cấp xã phải là người tiên phong trong các hoạt động tiếp xúc nhân
dân, tiếp thu các ý kiến của người dân nhằm phản ánh lên các cấp lãnh đạo,
xây dựng được một môi trường quản lý mà người dân có thể tự do dân chủ
tham gia đóng góp, xây dựng cho chính quê hương mình.
Để xây dựng và củng cố mối quan hệ mật thiết với nhân dân, người cán
bộ chủ chốt cấp xã cần làm tốt công tác dân vận; giáo dục và động viên tích
cực tham gia các hoạt động giám sát, phản biện xã hội đối với hoạt động của
Đảng và chính quyền cấp xã. Ngoài ra, cán bộ chủ chốt cấp xã cũng cần tích
cực thực hiện quy chế dân chủ cơ sở, phát huy quyền dân chủ thực sự của
nhân dân, đẩy mạnh hình thức dân chủ trực tiếp để nhân dân tích cực phát huy
vai trò của mình trong xây dựng chính quyền cấp xã. Người cán bộ chủ chốt
cấp xã cũng cần biết lắng nghe ý kiến của nhân dân bởi đó là kênh thông tin đa
chiều, đôi lúc phản ánh rất chân thực và chính xác mà cán bộ có thể thu thập
được. Xây dựng và củng cố mối quan hệ mật thiết với nhân dân chính là cách
người cán bộ chủ chốt cấp xã xây dựng được "thế trận lòng dân" đúng như lời
dạy của Chủ tịch Hồ Chí Minh:
Kinh nghiệm các địa phương cho biết: nơi nào công việc kém là vì
cán bộ xa cách dân chúng, không cùng dân chúng bàn bạc, không
giải thích. Nơi kha khá là vì cán bộ biết giải thích, biết bàn bạc cùng
dân chúng nhưng chưa hoàn toàn. Nơi nào khá hơn là việc gì to nhỏ
cán bộ cũng biết giải thích, biết cùng dân chúng bàn bạc đến nơi đến
chốn, dựa vào dân chúng [41, tr.295].
Thứ tư, cán bộ chủ chốt cấp xã ở đồng bằng sông Hồng phải tích cực
phát huy phương pháp "nêu gương" trong công tác cũng như trong đời sống
hàng ngày.
134
Đội ngũ cán bộ chủ chốt cấp xã chính là những "hạt giống" của địa
phương nên phải luôn có ý thức gương mẫu trong công việc cũng như trong
cuộc sống hàng ngày. Theo lẽ đó, cán bộ chủ chốt cấp xã cần tích cực nêu
gương trong lối sống và tinh thần trách nhiệm, cả trong công việc chung và
trong cuộc sống cá nhân. Gương mẫu chính là điều kiện để thực hiện sự lãnh
đạo của cán bộ cấp xã ở nông thôn. Chỉ có phát huy vai trò tiền phong gương
mẫu, cán bộ chủ chốt cấp xã mới có thể đoàn kết, dẫn dắt quần chúng nhân
dân cùng thực hiện những nhiệm vụ chính trị ở địa phương và tạo dựng được
hình ảnh đẹp trong nhân dân, củng cố uy tín của mình trước nhân dân, được
nhân dân ủng hộ, giúp đỡ. Để làm tốt điều đó, người cán bộ lãnh đạo chủ chốt
cấp xã cần nghiêm túc với bản thân mình và gia đình mình trong công việc,
đời sống hàng ngày như làm giàu chính đáng, xây dựng đời sống văn hóa
mới, sinh đẻ có kế hoạch, thực hành tiết kiệm, luôn đi đầu trong các phong
trào của địa phương. Đó là những tấm gương bằng lời nói và việc làm thiết
thực mà nhân dân có thể trực tiếp nhìn thấy và noi theo. Đó cũng chính là
cách những người cán bộ chủ chốt cấp xã có thể củng cố niềm tin tưởng với
nhân dân địa phương. Thật vậy, uy tín của cán bộ với nhân dân không phải là
thứ nói là có, cũng không thể mua được bằng tiền là chỉ có thể có được bằng
cách họ nỗ lực không ngừng để trở thành những tấm gương trong công việc
và cuộc sống của mình cho người khác noi theo.
Tiểu kết chương 4
Để tiếp tục phát huy vai trò của nhân tố chủ quan trong xây dựng đội
ngũ cán bộ chủ chốt cấp xã ở các tỉnh đồng bằng sông Hồng, cần chú ý đến
một số giải pháp có tính chất phương pháp luận như: nâng cao nhận thức của
Đảng ủy, chính quyền, các tổ chức chính trị - xã hội và nhân dân địa phương
về tầm quan trọng của việc xây dựng đội ngũ cán bộ chủ chốt. Bên cạnh đó,
135
cần tiếp tục tăng cường sự lãnh đạo của Đảng, sự quản lý của Nhà nước và
chính quyền địa phương; sự kiểm tra, giám sát của các tổ chức chính trị và
quần chúng nhân dân đối với hoạt động của đội ngũ cán bộ chủ chốt cấp xã;
đồng thời bản thân đội ngũ cán bộ chủ chốt cấp xã ở đồng bằng sông Hồng
cũng phải có ý thức nâng cao trình độ chuyên môn, phát huy tinh thần trách
nhiệm, củng cố mối quan hệ mật thiết với nhân dân Các giải pháp này liên
quan đến tất cả những yếu tố thuộc nhân tố chủ quan trong xây dựng đội ngũ
cán bộ chủ chốt cấp xã ở các tỉnh đồng bằng sông Hồng.
136
KẾT LUẬN
Là một nước nông nghiệp với khoảng ¾ dân số cả nước sinh sống ở
nông thôn, hệ thống chính trị cấp xã đóng vai trò quan trọng trong việc phát
triển kinh tế - xã hội, ổn định đời sống cho nhân dân ở nông thôn. Đội ngũ
cán bộ, công chức nói chung và cán bộ chủ chốt cấp xã nói riêng không chỉ là
những người lãnh đạo, điều hành mà còn là cầu nối giữa Đảng, Nhà nước với
quần chúng nhân dân. Do đó, xây dựng đội ngũ cán bộ chủ chốt cấp xã là một
trong những nhiệm vụ trọng yếu vì nó ảnh hưởng trực tiếp đến sự ổn định
chính trị và phát triển kinh tế - xã hội ở nông thôn nước ta. Có nhiều yếu tố
tác động đến việc xây dựng đội ngũ cán bộ chủ chốt cấp xã nhưng những yếu
tố thuộc nhân tố chủ quan đóng vai trò quyết định. Đó là nhận thức, năng lực
hoạt động của Đảng, Nhà nước, các tổ chức chính trị - xã hội, quần chúng
nhân dân và bản thân đội ngũ cán bộ chủ chốt cấp xã.
Đồng bằng sông Hồng là vùng có vị trí trọng yếu ở khu vực miền Bắc
nước ta. Trong những năm qua, theo sự chỉ đạo của Đảng, Đảng và chính
quyền cơ sở đã có những nhận thức rõ nét hơn về vai trò, vị trí của đội ngũ
cán bộ chủ chốt cấp xã. Nhiều chính sách về tiền lương, bảo hiểm, đào tạo,
bồi dưỡng... dành cho đội ngũ cán bộ chủ chốt cấp xã ở các tỉnh đồng bằng
sông Hồng đã bước đầu được triển khai có hiệu quả. Các tổ chức chính trị - xã
hội và nhân dân địa phương ngày càng quan tâm đến hoạt động của chính
quyền cấp xã nói chung và hoạt động của đội ngũ cán bộ chủ chốt cấp xã nói
riêng. Bản thân đội ngũ cán bộ chủ chốt cấp xã ở các tỉnh đồng bằng sông
Hồng nhìn chung cũng có ý thức học tập để nâng cao trình độ, giữ gìn phẩm
chất đạo đức, lối sống... Tuy nhiên, vẫn còn một số chính sách bất hợp lý đối
với cán bộ chủ chốt cấp xã, nhất là chính sách về tiền lương, trợ cấp. Hầu như
các tỉnh đồng bằng sông Hồng cũng chưa có bộ tiêu chuẩn chung dành cho
137
đội ngũ cán bộ chủ chốt cấp xã nên công tác kiểm tra, đánh giá cán bộ hàng
năm còn gặp nhiều khó khăn. Việc thực hiện Quy chế dân chủ cơ sở ở nhiều
nơi còn mang tính hình thức nên chưa phát huy được tốt vai trò của các tổ
chức chính trị - xã hội và quần chúng nhân dân trong việc kiểm tra, giám sát
hoạt động của đội ngũ cán bộ chủ chốt cấp xã.
Để tiếp tục phát huy vai trò của nhân tố chủ quan trong xây dựng đội
ngũ cán bộ chủ chốt cấp xã ở các tỉnh đồng bằng sông Hồng trong những năm
tiếp theo; cần nâng cao nhận thức của các chủ thể về vai trò của đội ngũ cán
bộ chủ chốt cấp xã bằng việc quán triệt quan điểm của Đảng về xây dựng hệ
thống chính trị cơ sở, đẩy mạnh công tác tuyên truyền đối với các tổ chức
chính trị - xã hội và quần chúng nhân dân; hoàn thiện một số chính sách về
tiền lương, bảo hiểm, chính sách đào tạo, bồi dưỡng; chính sách đãi ngộ đối
với đội ngũ cán bộ chủ chốt cấp xã. Ngoài ra, bản thân đội ngũ cán bộ chủ
chốt cấp xã cũng cần phát huy vai trò tích cực của mình trong công tác; có ý
thức trách nhiệm với chính quyền và quần chúng nhân dân, không ngừng học
tập để nâng cao trình độ, rèn luyện phẩm chất đạo đức, lối sống để đáp ứng nhu
cầu ngày càng cao của việc ổn định chính trị, đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện
đại hóa nông nghiệp, nông thôn và thực hiện các mục tiêu của Chương trình
Quốc gia về xây dựng nông thôn mới ở nước ta trong những năm tiếp theo.
138
DANH MỤC CÁC CÔNG TRÌNH KHOA HỌC CỦA TÁC GIẢ
ĐÃ CÔNG BỐ CÓ LIÊN QUAN ĐẾN ĐỀ TÀI LUẬN ÁN
1. Đỗ Thái Huy (2014), "Nâng cao chất lượng đội ngũ cán bộ, công chức
cấp xã đáp ứng yêu cầu mới", Tạp chí Con số và sự kiện, (4).
2. Đỗ Thái Huy (2014), "Đội ngũ cán bộ, công chức cấp cơ sở ở nước ta
hiện nay: thực trạng và giải pháp", Tạp chí Lý luận chính trị &
truyền thông, (4).
3. Đỗ Thái Huy (2017), "Đội ngũ cán bộ, công chức cấp xã của khu vực
đồng bằng sông Hồng - những đặc trưng và một số giải pháp nâng
cao chất lượng ", Tạp chí Con số và sự kiện, (8).
4. Đỗ Thái Huy (2017), "Quan điểm của Đảng trong xây dựng đội ngũ cán
bộ chủ chốt cấp xã ở Việt Nam hiện nay", Tạp chí Lý luận chính trị
& truyền thông, (9).
139
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Nguyễn Thị Kim Ánh (2010), Nâng cao năng lực quản lý cho đội ngũ
cán bộ chủ chốt cấp xã tại tỉnh Bình Phước, Luận văn thạc sĩ Khoa
học chính trị, Học viện Chính trị - Hành chính Quốc gia Hồ Chí
Minh, Hà Nội.
2. Toan Ánh (1990), Làng xã Việt Nam (nếp cũ), Nxb Thành phố Hồ Chí
Minh, Hồ Chí Minh.
3. Hoàng Chí Bảo (2002), "Quan điểm và giải pháp để củng cố và tăng
cường hệ thống chính trị ở cơ sở", Tạp chí Dân vận, (1+2), tr.12-18.
4. Hoàng Chí Bảo (Chủ biên) (2004), Hệ thống chính trị cơ sở ở nông thôn
nước ta hiện nay, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.
5. Chính phủ (2005), Nghị định số 159/2005/NĐ-CP ngày 27 tháng 12 năm
2005 của Chính phủ về việc phân loại đơn vị hành chính xã,
phường, thị trấn, Hà Nội.
6. Chính phủ (2009), Nghị định số 92/2009/NĐ-CP về chức danh, số lượng,
một số chế độ, chính sách đối với cán bộ, công chức ở xã, phường,
thị trấn, Hà Nội.
7. Chính phủ (2010), Nghị định số 18/2010/NĐ-CP về đào tạo, bồi dưỡng
cán bộ, công chức, Hà Nội.
8. Phan Đại Doãn (1996), Quản lý xã hội nông thôn nước ta hiện nay - Một
số vấn đề cấp bách và giải pháp, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.
9. Lê Duẩn (1976), Cách mạng xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam, Nxb Sự thật,
Hà Nội.
10. Đảng Cộng sản Việt Nam (1982), Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc
lần thứ V, Nxb Sự thật, Hà Nội,
11. Đảng Cộng sản Việt Nam (1991), Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc
lần thứ VII, Nxb Sự thật, Hà Nội.
140
12. Đảng Cộng sản Việt Nam (1996), Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc
lần thứ VIII, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.
13. Đảng Cộng sản Việt Nam (1997), Văn kiện Hội nghị lần thứ hai Ban
Chấp hành Trung ương khóa VIII, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.
14. Đảng Cộng sản Việt Nam (2001), Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc
lần thứ IX, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.
15. Đảng Cộng sản Việt Nam (2002), Văn kiện Hội nghị lần thứ năm Ban
Chấp hành trung ương Đảng khóa IX về đổi mới và nâng cao chất
lượng hệ thống chính trị ở sở xã, phường, thị trấn, Nxb Chính trị
quốc gia Hà Nội.
16. Đảng Cộng sản Việt Nam (2002), Nghị quyết số 17-NQ/TW của Hội nghị
lần thứ năm Ban Chấp hành Trung ương Đảng khóa IX ngày
18/3/2002, Văn phòng Trung ương Đảng, Hà Nội.
17. Đảng Cộng sản Việt Nam (2005), Văn kiện Đại hội Đảng thời kỳ trước
đổi mới, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.
18. Đảng Cộng sản Việt Nam (2011), Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc
lần thứ XI, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.
19. Đảng Cộng sản Việt Nam (2016), Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc
lần thứ XII, Văn phòng Trung ương Đảng, Hà Nội.
20. Đảng Cộng sản Việt Nam (2017), Văn kiện Hội nghị lần thứ sáu Ban
Chấp hành Trung ương Đảng khóa XII, Văn phòng Trung ương
Đảng, Hà Nội.
21. Dương Minh Đức (2005), Nâng cao năng lực tư duy lý luận của cán bộ
lãnh đạo chủ chốt cấp tỉnh ở đồng bằng Bắc bộ hiện nay, Luận án
tiến sĩ Khoa học chính trị, Học viện Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh,
Hà Nội.
22. Hồ Minh Đức (2002), "Hệ thống chính trị cơ sở vùng sâu, vùng xa và
những vấn đề đặt ra cần được giải quyết", Tạp chí Dân vận, (1+2),
tr.21 - 27.
141
23. Nguyễn Đức (2008), "Về đội ngũ cán bộ công chức xã, phường, thị trấn",
tại trang [truy cập ngày 21/9/2017].
24. Cao Thị Hà (2009), Nâng cao trình độ lý luận chính trị cho đội ngũ cán bộ
chủ chốt cấp xã ở tỉnh Hà Giang hiện nay, Luận văn thạc Triết học,
Học viện Chính trị - Hành chính quốc gia Hồ Chí Minh, Hà Nội.
25. Lương Việt Hải (1986), "Nhân tố chủ quan trong cơ chế vận dụng và
trong hoạt động của các quy luật xã hội", Tạp chí Triết học, (4).
26. Trần Thị Hạnh (2015), "Chất lượng đội ngũ cán bộ, công chức cấp xã từ
sau Hội nghị Trung ương 5 khóa IX và một số kiến nghị", tại trang
[truy cập ngày 3/7/2017].
27. Lê Văn Hoà (2004), Nâng cao năng lực lãnh đạo của đội ngũ cán bộ chủ
chốt chính quyền cơ sở, Luận văn thạc sĩ Triết học, Học viện Hành
chính quốc gia, Hà Nội.
28. Trần Thái Học (Chủ nhiệm) (2006), Thực trạng và một số giải pháp nâng
cao chất lượng cán bộ, công chức xã vùng đồng bào dân tộc Tây
Nguyên, Đề tài khoa học cấp Bộ, Văn phòng Chính phủ, Hà Nội.
29. Nguyễn Duy Hùng (Chủ biên) (2008), Luận cứ khoa học và một số giải pháp
xây dựng đội ngũ cán bộ lãnh đạo, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.
30. Phạm Công Khâm (2000), Xây dựng đội ngũ cán bộ chủ chốt cấp xã
vùng nông thôn đồng bằng sông Cửu Long hiện nay, Luận án tiến sĩ
Lịch sử, Học viện Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh, Hà Nội.
31. V.I.Lênin (2005), Toàn tập, tập 26, Nxb Tiến bộ, Mát xơcơva.
32. V.I.Lênin (2005), Toàn tập, tập 29, Nxb Tiến bộ, Mát xơcơva.
33. V.I.Lênin (2005), Toàn tập, tập 37, Nxb Tiến bộ, Mát xơcơva.
34. Trần Thị Bích Liên (2001), Tích cực hóa nhân tố chủ quan để giai cấp
công nhân Việt Nam thực hiện và hoàn thành sứ mệnh lịch sử của
mình, Luận án Tiến sĩ Triết học, Học viện Chính trị quốc gia Hồ Chí
Minh, Hà Nội.
142
35. Dương Thị Liễu (1996), Tác động của các điều kiện khách quan và nhân
tố chủ quan đối với quá trình xây dựng nền kinh tế thị trường định
hướng xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam, Luận án Phó Tiến sĩ Triết học,
Học viện Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh, Hà Nội.
36. Phạm Tấn Linh (2006), Nâng cao năng lực của đội ngũ cán bộ, công
chức xã, phường, thị trấn trên địa bàn tỉnh Đồng Nai, Luận văn thạc
sĩ Triết học, Học viện Hành chính Quốc gia, Hà Nội.
37. Nguyễn Hồng Lương (2006), Phát huy vai trò nhân tố chủ quan trong
hoạt động của hệ thống chính trị cấp cơ sở ở Bà Rịa - Vũng Tàu hiện
nay, Luận án tiến sĩ Triết học, Học viện Chính trị quốc gia Hồ Chí
Minh, Hà Nội.
38. C.Mác và Ph.Ăngghen (1995), Toàn tập, tập 2, Nxb Chính trị quốc gia,
Hà Nội.
39. C.Mác và Ph.Ăngghen (1995), Toàn tập, tập 3, Nxb Chính trị quốc gia,
Hà Nội.
40. Nguyễn Thị Tuyết Mai (Chủ nhiệm) (2005), Nâng cao năng lực tổ chức
thực tiễn của cán bộ chủ chốt cấp xã ở một số tỉnh Đồng bằng sông
Hồng trong điều kiện hiện nay, Đề tài khoa học cấp bộ, Học viện
Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh, Hà Nội.
41. Hồ Chí Minh (1995), Toàn tập, tập 5, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.
42. Hồ Chí Minh (1995), Toàn tập, tập 6, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội
43. Phạm Ngọc Minh (1999), Về nhân tố chủ quan và nhân tố khách quan:
một số vấn đề lý luận và thực tiễn ở nước ta hiện nay, Luận án tiến
sĩ Triết học, Học viện Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh, Hà Nội.
44. Nguyễn Thế Nghĩa (1999), Về nhân tố chủ quan và nhân tố khách quan:
một số vấn đề lý luận và thực tiễn ở nước ta hiện nay, Luận án tiến
sĩ Triết học, Học viện Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh, Hà Nội.
143
45. Mai Đức Ngọc (2008), Vai trò cán bộ lãnh đạo chủ chốt cấp xã trong
việc giữ vững ổn định chính trị - xã hội ở nông thôn nước ta hiện
nay, Nxb Chính trị - Hành chính, Hà Nội.
46. Mai Đức Ngọc (2015), "Cán bộ lãnh đạo chủ chốt cấp xã ở nông thôn
Việt Nam hiện nay" , Tạp chí Khoa học xã hội, (12), tr.19-27.
47. Trần Thị Thanh Nhàn (2014), "Một số giải pháp nâng cao ý thức chính
trị cho đội ngũ cán bộ chủ chốt cấp xã ở tỉnh Đồng Tháp hiện nay",
Tạp chí Tuyên giáo, (7), tr.19-25.
48. Phạm Văn Nhuận (1999), "Một cách tiếp cận về cặp phạm trù điều kiện
khách quan và nhân tố chủ quan" Tạp chí Triết học, (6).
49. Trần Văn Phòng (2007), Nâng cao năng lực thổng kết thực tiễn của đội ngũ
lãnh đạo chủ chốt cấp tỉnh vùng đồng bằng sông Hồng, Đề tài khoa
học cấp Bộ, Học viện Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh, Hà Nội.
50. Mạc Minh Sản (2008), Hoàn thiện pháp luật về cán bộ, công chức chính
quyền cấp xã đáp ứng yêu cầu xây dựng nhà nước pháp quyền xã
hội chủ nghĩa Việt Nam, Luận án tiến sĩ Luật học, Học viện Chính
trị quốc gia Hồ Chí Minh, Hà Nội.
51. Nguyễn Văn Sáu, Hồ Văn Thông (Đồng chủ biên) (2004), Thực hiện quy
chế dân chủ và xây dựng chính quyền cấp xã ở nước ta hiện nay,
Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.
52. Nguyễn Thị Minh Tâm (2014), "Củng cố mối quan hệ giữa cá nhân và
cộng đồng ở nông thôn đồng bằng sông Hồng", Tạp chí Lý luận
chính trị, (6).
53. Trịnh Thanh Tâm (2013), Xây dựng đội ngũ nữ cán bộ chủ chốt cấp xã (qua
thực tiễn ở đồng bằng sông Hồng), Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.
54. Lê Hữu Tầng (1984), "Vấn đề phát huy và sử dụng đúng đắn tác dụng
năng động của nhân tố chủ quan", Trong cuốn: Đại hội Đảng lần thứ
V. Mấy vấn đề lý luận và thực tiễn, Nxb Sự thật, Hà Nội.
144
55. Trần Thành (2015), Nhân tố chủ quan trong tạo dựng nền kinh tế thị
trường định hướng xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam, Nxb Chính trị
quốc gia - Sự thật, Hà Nội.
56. Chu Văn Thành, Thanh Văn Phúc (Đồng chủ biên) (2000), Chính quyền
cấp xã và quản lý nhà nước cấp xã, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.
57. Ngô Đức Thịnh (2003), Văn hóa vùng và phân vùng văn hóa ở Việt Nam,
Nxb Trẻ, Thành phố Hồ Chí Minh.
58. Ngô Đức Thịnh (2009), Bản sắc văn hóa vùng ở Việt Nam, Nxb Giáo
dục Việt Nam, Hà Nội.
59. Lê Minh Thông, Nguyễn Như Phát (2003), Những vấn đề lý luận và thực
tiễn về chính quyền địa phương hiện nay, Nxb Chính trị quốc gia,
Hà Nội.
60. Nguyễn Tiến Thủ (2001), Quan hệ giữa chủ thể và khách thể nhận thức
với việc phát huy vai trò chủ thể trong hoạt động của sinh viên Việt
Nam hiện nay, Luận án Tiến sĩ Triết học, Học viện Chính trị quốc
gia Hồ Chí Minh, Hà Nội.
61. Thủ tưởng Chính phủ (2005), Nghị định số 159/2005/NĐ-CP ngày 27
tháng 12 năm 2005 của Chính phủ về việc phân loại đơn vị hành
chính xã, phường, thị trấn, Hà Nội.
62. Lê Văn Thư (2015), Các Tỉnh ủy ở đồng bằng sông Hồng lãnh đạo phát
triển văn hóa - xã hội trong giai đoạn hiện nay, Luận án Tiến sĩ Khoa
học chính trị, Học viện Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh, Hà Nội.
63. Đoàn Văn Tình (2015), "Nâng cao chất lượng đội ngũ cán bộ, công chức
cấp xã, góp phần xây dựng chính quyền địa phương vững mạnh",
Tạp chí Tổ chức Nhà nước, (4).
64. Tỉnh ủy Hà Nam (2007), Quyết định số 1307/QĐ-TU quy định về việc
chuẩn hóa đối với đội ngũ cán bộ cấp xã, phường, thị trấn, Hà Nam.
14 5
65. Tỉnh ủy Nam Định (2007), Kế hoạch số 249-KH/TU về đào tạo, bồi
dưỡng cán bộ chủ chốt cấp xã, phường, thị trấn, Nam Định.
66. Tỉnh ủy Thái Bình (2007), Báo cáo số 83-BC/TU ngày 5 tháng 8 năm
2007 sơ kết 5 năm thực hiện Đề án 26-ĐA/TU của Ban Thường vụ
Tỉnh ủy Thái Bình về đào tạo cán bộ xã, phường, thị trấn có trình độ
cao đẳng, Đại học, Thái Bình.
67. Tỉnh ủy Thái Bình (2007), Báo cáo số 83-BC/TU ngày 5 tháng 8 năm
2007 sơ kết 5 năm thực hiện Đề án 26-ĐA/TU của Ban Thường vụ
Tỉnh ủy Thái Bình về đào tạo cán bộ xã, phường, thị trấn có trình độ
cao đẳng, Đại học.
68. Tổng Cục Thống kê (2014), Niên giám Thống kê, Nxb Thống kê, Hà Nội.
69. Tổng Cục Thống kê (2015), Niên giám Thống kê, Nxb Thống kê, Hà Nội.
70. Tổng Cục Thống kê (2016), Niên giám Thống kê, Nxb Thống kê, Hà Nội.
71. Nguyễn Phú Trọng, Trần Xuân Sầm (Chủ biên) (2001), Luận cứ khoa
học của việc nâng cao chất lượng đội ngũ cán bộ trong thời kỳ đẩy
mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước, Nxb Chính trị quốc
gia, Hà Nội.
72. Nguyễn Thanh Tuấn (2015), "Xây dựng và hoàn thiện chính quyền cấp
xã theo tinh thần Hiến pháp năm 2013", tại trang
chicongsan.org.vn/, [truy cập ngày20/7/2015].
73. Trần Từ (1984), Cơ cấu tổ chức của làng Việt cổ truyền Bắc Bộ, Nxb
Khoa học xã hội, Hà Nội.
74. A.K.Uleđốp (1980), Những quy luật xã hội học, Nxb Khoa học xã hội,
Hà Nội.
75. Y Vênh (2010), "Kon Tum: Nâng cao chất lượng đội ngũ cán bộ chủ
chốt cấp cơ sở", tại trang truy cập ngày
26/3/2017].
146
76. Phùng Thị Thu Vinh (2005), Nâng cao năng lực của đội ngũ cán bộ
chính quyền cơ sở trên địa bàn tỉnh Phú Thọ, Luận văn thạc sĩ Triết
học, Học viện Hành chính quốc gia, Hà Nội.
77. Nguyễn Thế Vịnh (Chủ nhiệm) (2008), Nghiên cứu tiếp tục hoàn thiện
chế độ, chính sách đối với cán bộ, công chức cơ sở, Đề tài khoa học
cấp bộ, Vụ Chính quyền địa phương thuộc Bộ Nội vụ, Hà Nội.
78. Phạm Văn Vọng (2012), "Xây dựng, nâng cao chất lượng đội ngũ cán bộ
cơ sở ở tỉnh Vĩnh Phúc", tại trang [truy
cập ngày 18/9/2017].
79. Trần Quốc Vượng (1998), Việt Nam - cái nhìn địa văn hóa, Nxb Văn hóa
dân tộc, Hà Nội.
80. Trần Quốc Vượng (2000), Văn hóa Việt Nam - tìm tòi và suy ngẫm, Nxb
Văn hóa - Dân tộc, Hà Nội.
81. Trần Quốc Vượng (2005), Cơ sở văn hóa Việt Nam, Nxb Giáo dục, Hà Nội.
82. Lê Hữu Xanh (1994), Nâng cao vai trò nhân tố chủ quan trong việc xây
dựng đội ngũ đảng viên nông thôn nước ta hiện nay, Luận án Phó
Tiến sĩ Triết học, Học viện Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh, Hà Nội.
83. Lê Hữu Xanh (Chủ biên) (2001), Tác động của tâm lý làng xã trong việc
xây dựng đời sống kinh tế, xã hội ở nông thôn đồng bằng Bắc Bộ
hiện nay, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.
84. Lê Hữu Xanh (Chủ biên) (2004), Tâm lý làng xã và ảnh hưởng của nó
trong quá trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa, Nxb Chính trị quốc
gia, Hà Nội.
85. Lê Hữu Xanh (2005), "Văn hóa truyền thống ảnh hưởng đến sự hình
thành, phát triển năng lực tổ chức thực hiện của cán bộ chủ chốt cấp
xã đồng bằng sông Hồng hiện nay", Tạp chí Tâm lý học, (4).
86. Vũ Thanh Xuân (2016), "Xây dựng đội ngũ cấp chiến lược Việt Nam
trong thời kỳ mới", Tạp chí Dân vận, (6), tr.12-18.
147
87. Dương Trung Ý (2013), "Nâng cao chất lượng đội ngũ cán bộ chủ chốt
cấp xã", Tạp chí Xây dựng Đảng, (5), tr.22.
88. Nguyễn Bình Yên (2015), "Đặc điểm của đội ngũ cán bộ ở nông thôn
Việt Nam", Tạp chí Giáo dục lý luận, (10), tr.6-10.
89. Phan Ngọc Yến (2013), "Nâng cao chất lượng giáo dục lý luận chính trị
cho đội ngũ cán bộ chủ chốt cấp xã ở tỉnh Hậu Giang hiện nay", Tạp
chí Tuyên giáo, (7).
90. Ngô Thị Thanh Yến (2012), "Xây dựng đội ngũ cán bộ Việt Nam đáp
ứng yêu cầu đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước", Tạp
chí Phát triển nhân lực, (6).
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- luan_an_phat_huy_vai_tro_cua_nhan_to_chu_quan_trong_xay_dung.pdf