Luận án Nữ trí thức trong các trường chính trị tỉnh, thành phố ở Việt Nam hiện nay

HỌC VIỆN CHÍNH TRỊ QUỐC GIA HỒ CHÍ MINH NGUYỄN THỊ LAN NỮ TRÍ THỨC TRONG CÁC TRƯỜNG CHÍNH TRỊ TỈNH, THÀNH PHỐ Ở VIỆT NAM HIỆN NAY LUẬN ÁN TIẾN SĨ CHUYÊN NGÀNH: CHỦ NGHĨA XÃ HỘI KHOA HỌC HÀ NỘI - 2017 HỌC VIỆN CHÍNH TRỊ QUỐC GIA HỒ CHÍ MINH NGUYỄN THỊ LAN NỮ TRÍ THỨC TRONG CÁC TRƯỜNG CHÍNH TRỊ TỈNH, THÀNH PHỐ Ở VIỆT NAM HIỆN NAY LUẬN ÁN TIẾN SĨ CHUYÊN NGÀNH: CHỦ NGHĨA XÃ HỘI KHOA HỌC Mã số: 62 22 03 08 NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC: PGS.TS. ĐỖ THỊ THẠCH HÀ NỘI - 2017 LỜ

pdf182 trang | Chia sẻ: huong20 | Ngày: 14/01/2022 | Lượt xem: 394 | Lượt tải: 2download
Tóm tắt tài liệu Luận án Nữ trí thức trong các trường chính trị tỉnh, thành phố ở Việt Nam hiện nay, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
I CAM ĐOAN Tôi xin cam đoan đây là công trình nghiên cứu của riêng tôi. Các số liệu, kết quả nêu trong luận án là trung thực, có nguồn gốc rõ ràng và được trích dẫn đầy đủ theo quy định. Tác giả Nguyễn Thị Lan MỤC LỤC Trang MỞ ĐẦU 1 Chương 1: TỔNG QUAN TÌNH HÌNH NGHIÊN CỨU LIÊN QUAN ĐẾN ĐỀ TÀI LUẬN ÁN 7 1.1. Những công trình nghiên cứu ở trong nước có liên quan đến đề tài luận án 7 1.2. Những công trình nghiên cứu ở nước ngoài có liên quan đến luận án 22 1.3. Đánh giá những công trình tổng quan và những vấn đề luận án tiếp tục làm sáng tỏ 26 Chương 2: ĐẶC ĐIỂM, VAI TRÒ VÀ NHỮNG YẾU TỐ TÁC ĐỘNG ĐẾN NỮ TRÍ THỨC TRONG CÁC TRƯỜNG CHÍNH TRỊ Ở VIỆT NAM HIỆN NAY 31 2.1. Quan niệm về nữ trí thức, nữ trí thức trong các trường chính trị ở Việt Nam 31 2.2. Đặc điểm và vai trò của nữ trí thức trong các trường chính trị ở Việt Nam hiện nay 35 2.3. Những yếu tố tác động đến vai trò của nữ trí thức trong các trường chính trị 55 Chương 3: THỰC TRẠNG THỰC HIỆN VAI TRÒ CỦA NỮ TRÍ THỨC TRONG CÁC TRƯỜNG CHÍNH TRỊ VÀ NHỮNG VẤN ĐỀ ĐẶT RA HIỆN NAY 68 3.1. Thực trạng thực hiện vai trò của nữ trí thức trong các trường chính trị hiện nay 68 3.2. Những vấn đề đặt ra đối với phát huy vai trò nữ trí thức trong các trường chính trị hiện nay 97 Chương 4: QUAN ĐIỂM CƠ BẢN VÀ GIẢI PHÁP CHỦ YẾU NHẰM PHÁT HUY VAI TRÒ NỮ TRÍ THỨC TRONG CÁC TRƯỜNG CHÍNH TRỊ Ở VIỆT NAM HIỆN NAY 114 4.1. Quan điểm cơ bản phát huy vai trò nữ trí thức trong các trường chính trị ở Việt Nam hiện nay 114 4.2. Những giải pháp chủ yếu nhằm phát huy vai trò của nữ trí thức trong các trường chính trị hiện nay 121 4.3. Đề xuất một số khuyến nghị 142 KẾT LUẬN 148 DANH MỤC CÔNG TRÌNH CỦA TÁC GIẢ ĐÃ CÔNG BỐ LIÊN QUAN ĐẾN LUẬN ÁN 151 DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO 152 PHỤ LỤC 164 DANH MỤC CÁC BẢNG Trang Bảng 2.1: Một số trường chính trị có tỷ lệ nữ trí thức thấp trong tổng số đội ngũ trí thức của nhà trường 41 Bảng 2.2: Một số trường chính trị có số lượng nữ trí thức chiếm tỷ lệ cao trong tổng số đội ngũ trí thức nhà trường 42 Bảng 2.3: Trình độ học vấn của nữ trí thức ở một số trường chính trị trong cả nước 45 Bảng 3.1: Chức danh giảng dạy của nữ giảng viên ở một số trường chính trị 69 Bảng 3.2: Nữ trí thức ở một số trường chính trị tham gia các chương trình đào tạo, bồi dưỡng 72 Bảng 3.3: Số lượng lớp và chất lượng đào tạo, bồi dưỡng của một số trường chính trị trong năm học 2015 - 2016 77 Bảng 3.4: Số lượng nữ trí thức tham gia đề tài nghiên cứu khoa học cấp cơ sở ở một số trường chính trị 81 Bảng 3.5: Số lượng nữ trí thức tham gia đề tài nghiên cứu khoa học cấp tỉnh, thành phố ở một số trường chính trị từ năm 2008 đến 2015 82 Bảng 3.6: Số lượng nam/nữ trí thức tham gia đề tài nghiên cứu khoa học cấp tỉnh, thành phố ở một số trường chính trị 84 Bảng 3.7: Số lượng nữ trí thức tham gia Ban chấp hành Đảng bộ ở một số trường chính trị nhiệm kỳ 2010 - 2015 và 2015 - 2020 91 Bảng 3.8: Số lượng nữ trí thức tham gia Ban Giám hiệu ở một số trường chính trị hiện nay 92 1 MỞ ĐẦU 1. Tính cấp thiết của đề tài luận án Ở Việt Nam, hiện nay có 63 trường chính trị tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương (sau đây gọi chung là trường chính trị), được Đảng, Nhà nước giao thực hiện chức năng, nhiệm vụ là tổ chức đào tạo, bồi dưỡng cán bộ lãnh đạo, quản lý của hệ thống chính trị cấp cơ sở, cán bộ, công chức ở địa phương về lý luận chính trị - hành chính; đường lối, các nghị quyết, chỉ thị của Đảng, chính sách và pháp luật của Nhà nước; kiến thức và chuyên môn, nghiệp vụ về công tác xây dựng Đảng, chính quyền, Mặt trận Tổ quốc và các đoàn thể chính trị - xã hội; kiến thức về pháp luật và quản lý nhà nước và một số lĩnh vực khác [17]. Thực hiện đường lối đổi mới của Đảng, cùng với sự phát triển đi lên của đất nước, trong những năm qua hệ thống các trường chính trị đã không ngừng phát triển, có nhiều đóng góp tích cực, hiệu quả vào sự nghiệp đào tạo, bồi dưỡng đội ngũ cán bộ trong hệ thống chính trị ở cơ sở, từng bước đáp ứng yêu cầu đặt ra của sự nghiệp đổi mới đất nước. Những kết quả đạt được trong việc thực hiện nhiệm vụ chính trị của các trường chính trị tỉnh, thành phố có sự đóng góp quyết định của đội ngũ trí thức nói chung và nữ trí thức nói riêng đang làm việc ở các cơ sở đó. Là một bộ phận chủ lực trong công tác đào tạo, nghiên cứu khoa học, lãnh đạo, quản lý trong các trường chính trị, trong những năm qua, được sự quan tâm của các cấp ủy đảng, chính quyền, nhà trường và sự vươn lên của bản thân, đội ngũ nữ trí thức các trường chính trị không ngừng phát triển cả về số lượng, cơ cấu và chất lượng. Họ đã và đang làm việc hăng say, nhiệt huyết với tinh thần, trách nhiệm cao nhất trong thực hiện nhiệm vụ chuyên môn. Một số chị đã trở thành nhà giáo ưu tú, giáo viên dạy giỏi toàn quốc; có chị trở thành nhà quản lý giỏi với cương vị là thủ trưởng đơn vị. Hiện nay, nữ 2 trí thức các trường chính trị tham gia công tác lãnh đạo, quản lý từ cấp khoa, phòng trở lên chiếm trên 20%, trong đó cán bộ quản lý cấp trường chiếm tỷ lệ khoảng 8%; tỷ lệ có học hàm, học vị cũng được tăng lên, Những đóng góp của các chị góp phần không nhỏ vào thành tích to lớn của các nhà trường trong công tác đào tạo cán bộ của Đảng, nghiên cứu khoa học cấp cơ sở, qua đó góp phần khẳng định vị thế, vai trò của nữ trí thức Việt Nam nói chung trong tiến trình xây dựng đất nước. Tuy nhiên, từ thực tiễn ở các trường chính trị hiện nay, cho thấy, đội ngũ nữ trí thức ở đây, chưa thực sự phát huy hết tiềm năng, vai trò; chưa đáp ứng được yêu cầu khách quan của sự nghiệp đào tạo cán bộ lãnh đạo, quản lý cấp cơ sở cũng như công tác nghiên cứu khoa học phục vụ phát triển kinh tế - xã hội địa phương. Tỷ lệ nữ trí thức ở các trường chính trị có trình độ đại học trở lên chiếm ưu thế tuyệt đối (100%), nhưng càng ở bậc cao, tỷ lệ này càng thấp đi, thậm chí rất thấp (tiến sỹ chỉ khoảng 2%, chỉ có 12,1% nhà giáo ưu tú, chưa có nữ giáo sư, phó giáo sư...). Số lượng nữ trí thức người dân tộc thiểu số chiếm tỷ lệ rất thấp. Phần lớn nữ trí thức có trình độ cao đều đã ở tuổi cao, nữ trí thức trẻ làm lãnh đạo, quản lý nhà trường còn ít. Trình độ ngoại ngữ, tin học, kiến thức, kỹ năng, năng lực lãnh đạo, quản lý của một bộ phận không nhỏ nữ trí thức chưa tương xứng với yêu cầu phân cấp quản lý công việc ở các trường chính trị hiện nay, Bất cập trên do nhiều nguyên nhân, như nhận thức xã hội về vai trò của nữ trí thức chưa có sự công bằng so với nam trí thức; môi trường, điều kiện làm việc, cơ chế, chính sách có tính đặc thù cho nữ trí thức trong các trường chính trị còn hạn chế; do sự tự ty, an phận của một bộ phận không nhỏ nữ trí thức v.v.. Vì vậy, trước yêu cầu của sự nghiệp đào tạo đội ngũ cán bộ cho cấp cơ sở, nâng cao chất lượng về chuyên môn, nghiệp vụ, cũng như công tác nghiên cứu khoa học góp phần phát triển kinh tế - xã hội ở địa phương, cần 3 phải phát huy vai trò của toàn thể đội ngũ cán bộ các nhà trường, trong đó có vai trò quan trọng của đông đảo nữ trí thức các trường chính trị là rất cần thiết, đòi hỏi phải có các giải pháp toàn diện, động bộ, khả thi. Tuy nhiên, cho đến nay, ở nước ta chưa có một công trình nào nghiên cứu cụ thể về nữ trí thức trong các trường chính trị. Đây là một khoảng trống cần nhận được sự quan tâm của các nhà nghiên cứu, của Đảng, Nhà nước, các địa phương. Là một giảng viên đang giảng dạy tại trường chính trị, tác giả đã lựa chọn đề tài “Nữ trí thức trong các trường chính trị tỉnh, thành phố ở Việt Nam hiện nay” làm đề tài luận án tiến sĩ, chuyên ngành Chủ nghĩa xã hội khoa học với mong muốn góp phần đề xuất các hướng phát triển đội ngũ nữ trí thức các trường chính trị đáp ứng yêu cầu đào tạo cán bộ của Đảng, Nhà nước hiện nay. 2. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu của luận án 2.1. Mục đích Trên cơ sở lý luận và thực tiễn về vai trò của nữ trí thức trong các trường chính trị ở Việt Nam, luận án đề xuất một số quan điểm cơ bản, giải pháp chủ yếu góp phần phát huy vai trò nữ trí thức trong các trường chính trị đáp ứng yêu cầu nhiệm vụ đào tạo cán bộ lãnh đạo, quản lý của hệ thống chính trị cấp cơ sở hiện nay. 2.2. Nhiệm vụ Thứ nhất, làm rõ đặc điểm, vai trò và những yếu tố tác động đến nữ trí thức trong các trường chính trị ở Việt Nam hiện nay. Thứ hai, phân tích thực trạng thực hiện vai trò của nữ trí thức trong các trường chính trị ở Việt Nam hiện nay và những vấn đề đặt ra. Thứ ba, đề xuất các quan điểm cơ bản, những giải pháp chủ yếu nhằm phát huy vai trò nữ trí thức trong các trường chính trị ở Việt Nam đáp ứng yêu 4 cầu, nhiệm vụ đào tạo cán bộ lãnh đạo, quản lý của hệ thống chính trị cấp cơ sở hiện nay. 3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu 3.1. Đối tượng nghiên cứu Đối tượng nghiên cứu: Đội ngũ nữ trí thức trong các trường chính trị ở Việt Nam (vai trò, thực hiện vai trò). 3.2. Phạm vi nghiên cứu - Về không gian: Hiện nay, cả nước có 63 trường chính trị tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương. Tuy nhiên, trong luận án tác giả đã lựa chọn tiến hành nghiên cứu, khảo sát nữ trí thức ở 08 trường chính trị đại diện cho các vùng miền trong cả nước. Phía Bắc: Trường Chính trị tỉnh Lào Cai, Trường Chính trị tỉnh Phú Thọ, Trường Chính trị Tô Hiệu thành phố Hải Phòng. Miền Trung và Tây Nguyên: Trường Chính trị tỉnh Nghệ An, Trường Chính trị tỉnh Quảng Ngãi, Trường Chính trị tỉnh Đắk Lắk. Phía Nam: Trường Chính trị tỉnh Tây Ninh và Trường Chính trị thành phố Cần Thơ. - Về thời gian: Luận án nghiên cứu nữ trí thức trong các trường chính trị từ năm 2008 đến nay (Từ khi có Quyết định 184-QĐ/TW, ngày 03/9/2008 của Ban Chấp hành Trung ương Đảng về Chức năng, nhiệm vụ, tổ chức bộ máy của các trường chính trị tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương). - Về nội dung: Nữ trí thức trong các trường chính trị hiện nay tham gia vào nhiều hoạt động khác nhau của nhà trường từ giảng dạy lý luận chính trị, nghiên cứu khoa học, lãnh đạo, quản lý, công tác quản trị văn phòng, công tác tài chính kế toán, Tuy nhiên, trong giới hạn của luận án, tác giả chỉ tập trung nghiên cứu vai trò, thực hiện vai trò của nữ trí thức trong các trường chính trị 5 trên 03 lĩnh vực chủ yếu: (1) Hoạt động đào tạo, (2) Hoạt động nghiên cứu khoa học và (3) Hoạt động lãnh đạo, quản lý của nhà trường. 4. Cơ sở lý luận và phương pháp nghiên cứu 4.1. Cơ sở lý luận Luận án được thực hiện dựa trên cơ sở lý luận của Chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, quan điểm của Đảng Cộng sản Việt Nam về đội ngũ trí thức, nữ trí thức, vai trò của đội ngũ nữ trí thức. Luận án tham khảo các kết quả nghiên cứu của các nhà khoa học ở trong nước và nước ngoài liên quan đến đối tượng nghiên cứu của luận án. 4.2. Phương pháp nghiên cứu Trên cơ sở phương pháp luận chủ nghĩa duy vật biện chứng, chủ nghĩa duy vật lịch sử, luận án sử dụng phương pháp phân tích, tổng hợp, thống kê, so sánh và một số phương pháp liên ngành. Luận án sử dụng phương pháp điều tra xã hội học, gồm 01 mẫu phiếu khảo sát, với số lượng: 425 phiếu; phạm vi: 08 trường chính trị tỉnh, thành phố đã được lựa chọn ở mục phạm vi không gian; đối tượng phiếu khảo sát: 220 nữ trí thức và 205 nam trí thức là cán bộ giảng viên, chuyên viên, lãnh đạo, quản lý các cấp của nhà trường; kết quả khảo sát (Phụ lục 7). 5. Đóng góp mới về khoa học của luận án Một là, luận án góp phần làm rõ đặc điểm, vai trò, điểm mạnh, điểm hạn chế trong thực hiện vai trò của nữ trí thức trong các trường chính trị hiện nay; chỉ rõ những vấn đề đặt ra đối với việc phát huy vai trò của nữ trí thức trong các trường chính trị hiện nay. Hai là, luận án góp phần đề xuất một số giải pháp, khuyến nghị nhằm phát huy vai trò của nữ trí thức trong các trường chính trị đáp ứng yêu cầu trong công tác đào tạo cán bộ cấp cơ sở hiện nay. 6 6. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn của luận án Luận án cung cấp một số cơ sở lý luận, thực tiễn góp phần trong xây dựng và thực hiện chính sách đối với nữ trí thức trong các trường chính trị nói riêng, nữ trí thức làm công tác lý luận chính trị nói chung. Luận án có thể dùng làm tài liệu tham khảo trong việc nghiên cứu, giảng dạy và học tập những chuyên đề liên quan đến vấn đề con người, đội ngũ trí thức, nữ trí thức, phụ nữ và các chuyên ngành khác có liên quan. 7. Kết cấu của luận án Ngoài phần mở đầu, kết luận, danh mục công trình của tác giả đã công bố liên quan đến luận án, danh mục tài liệu tham khảo và phụ lục, luận án gồm 4 chương, 11 tiết. 7 Chương 1 TỔNG QUAN TÌNH HÌNH NGHIÊN CỨU LIÊN QUAN ĐẾN ĐỀ TÀI LUẬN ÁN 1.1. NHỮNG CÔNG TRÌNH NGHIÊN CỨU Ở TRONG NƯỚC CÓ LIÊN QUAN ĐẾN ĐỀ TÀI LUẬN ÁN 1.1.1. Những công trình nghiên cứu tiêu biểu về trí thức Trong những năm qua, các công trình nghiên cứu về trí thức Việt Nam rất đa dạng, phong phú, tiêu biểu như: Hoàng Phê trong cuốn Từ điển Tiếng Việt cho rằng, trí thức là “người chuyên làm việc lao động trí óc và có chuyên môn cần thiết cho hoạt động nghề nghiệp của mình” [68]. Cách định nghĩa này đã chỉ ra một số đặc điểm của trí thức, nhưng, cho đến nay, nó đã bị vượt qua, bởi nó chưa nhấn mạnh được đặc điểm lao động đặc thù của người trí thức là lao động trí óc sáng tạo, phức tạp, tạo ra những sản phẩm có giá trị đặc biệt về tinh thần, vật chất. Với hai công trình Trí thức Việt Nam trước yêu cầu phát triển đất nước [44] và Trí thức Việt Nam tiến cùng thời đại [45] của Nguyễn Đắc Hưng đã làm rõ quan niệm về trí thức; vị trí, vai trò của trí thức; những phương hướng chủ yếu để xây dựng và phát triển đội ngũ trí thức ở nước ta đáp ứng yêu cầu của thời đại. Trên cơ sở khẳng định nội hàm rất rộng của khái niệm trí thức, tác giả đã chỉ rõ: Trí thức là những người không chỉ có trình độ học vấn cao mà điều quan trọng nhất là họ thực sự lao động bằng trí tuệ có tính sáng tạo, có những cống hiến nhất định hữu ích cho xã hội và phải được xã hội kiểm định chất lượng thông qua hoạt động thực tiễn [45, tr.16-17]. Đây là sự đổi mới tư duy về trí thức, từ chỗ coi trọng trình độ chuyên môn được đào tạo đến chỗ thừa nhận và đòi hỏi năng lực lao động thực tế thông qua sự kiểm định khách quan của xã hội. 8 Nguyễn An Ninh, Phát huy tiềm năng của trí thức khoa học xã hội và nhân văn trong công cuộc đổi mới đất nước [67]. Từ những kiến giải về tiềm năng của trí thức khoa học xã hội và nhân văn trong giai đoạn hiện nay, tác giả đã đề xuất những giải pháp thiết thực nhằm phát huy tiềm năng của đội ngũ này góp phần vào quá trình đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước. Trong hai công trình nghiên cứu: Xây dựng và phát huy nguồn lực trí tuệ Việt Nam phục vụ sự nghiệp chấn hưng đất nước [48] và công trình Nguồn lực trí tuệ Việt Nam - Lịch sử, hiện trạng và triển vọng [49] của Nguyễn Văn Khánh đã tập trung luận chứng khoa học về vấn đề trí thức, nguồn lực trí tuệ với cách tiếp cận liên ngành. Đội ngũ trí thức được tác giả quan niệm là tầng lớp tinh hoa của nguồn lực trí tuệ Việt Nam. Trên cơ sở khảo sát, đánh giá chất lượng của nguồn nhân lực này, ông đã đưa ra hệ thống giải pháp có ý nghĩa thiết thực đối với việc xây dựng và phát huy vai trò của nguồn lực trí tuệ đáp ứng yêu cầu, đòi hỏi của sự nghiệp chấn hưng đất nước. Nguyễn Khánh Bật, Trần Thị Huyền, Xây dựng đội ngũ trí thức thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa theo tư tưởng Hồ Chí Minh [10]. Đây là công trình nghiên cứu mang tính chuyên sâu về trí thức dưới góc độ tư tưởng Hồ Chí Minh. Nhóm tác giả đã khái quát những nội dung cơ bản trong tư tưởng Hồ Chí Minh về trí thức, làm rõ sự vận dụng sáng tạo của Đảng và Nhà nước ta trong công tác xây dựng trí thức đồng thời đánh giá những đóng góp, hạn chế của đội ngũ này trong cách mạng Việt Nam, trên có sở đó, đi sâu phân tích những giải pháp xây dựng đội ngũ trí thức ở nước ta thời kỳ 2011 - 2020 đáp ứng yêu cầu của sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước. Phạm Tất Dong trong đề tài Luận cứ khoa học cho các chính sách nhằm phát huy năng lực sáng tạo của giới trí thức và sinh viên [15] đã tập trung phân tích làm rõ cơ sở lý luận, thực tiễn và tính pháp lý của việc 9 hoạch định chính sách, giải pháp hướng vào việc khơi dậy, khai thác, sử dụng năng lực sáng tạo của giới trí thức và sinh viên trong hoạt động giáo dục và đào tạo. Đàm Đức Vượng, Nguyễn Viết Thông, Xây dựng đội ngũ trí thức Việt Nam giai đoạn 2011- 2020 [122]. Đây là công trình nghiên cứu công phu và có hệ thống về trí thức. Trên cơ sở đánh giá tổng thể về thực trạng đội ngũ trí thức Việt Nam, đề tài đi sâu phân tích, kiến nghị những giải pháp nhằm xây dựng và phát huy nguồn lực trí tuệ trong thời kỳ đổi mới toàn diện đất nước. Đề tài đã làm rõ thêm nội hàm của khái niệm trí thức trên bình diện rộng. Không những chỉ ra tính chất lao động trí óc cùng với những yêu cầu về sự hiểu biết, trình độ, khát vọng dân chủ, công bằng, tự do và kết quả sáng tạo trong việc truyền bá, phổ biến, ứng dụng vào đời sống xã hội của trí thức, các tác giả đề tài còn xác định rõ thiên chức, phẩm chất, tính cách của người trí thức Việt Nam. Đây là tư liệu quan trọng cho tác giả luận án khi nghiên cứu về đặc điểm của đội ngũ nữ trí thức ở các trường chính trị ở Việt Nam hiện nay. Luận án Trí thức Việt Nam trong phát triển kinh tế tri thức [92] của Nguyễn Công Trí, đã chỉ ra những đặc trưng, tiêu chí cơ bản để xác định trí thức, vai trò của đội ngũ này trong điều kiện phát triển kinh tế tri thức. Luận án xác định, trí thức là người lao động trí óc và thường có trình độ học vấn cao, được đào tạo hoặc tự đào tạo. Tuy nhiên, “giá trị quan trọng nhất của người trí thức chân chính đó là chân lý và lẽ phải; trí thức là người tự tin và ngay thẳng, có lòng tự trọng, khả năng hành xử đúng mực và thích ứng cao với các biến đổi của môi trường tự nhiên, xã hội” [92, tr.30]. Trần Thị Lan trong cuốn Chất lượng lao động của đội ngũ trí thức giáo dục đại học Việt Nam [55] đã nêu lên cơ sở lý luận về chất lượng lao động của trí thức giáo dục đại học; đánh giá thực trạng chất lượng lao động của đội ngũ trí thức giáo dục đại học Việt Nam và đề xuất những giải pháp cơ bản để 10 nâng cao chất lượng lao động của đội ngũ này. Tác giả luận án cho rằng “trí thức là một tầng lớp xã hội được đặc trưng bởi phương thức lao động trí óc, sáng tạo. Họ là lực lượng chủ yếu tham gia trực tiếp vào việc phát kiến, giữ gìn và truyền bá tri thức góp phần thúc đẩy sự phát triển nhận thức khoa học và sự tiến bộ của xã hội” [55, tr.26]. Tiếp tục làm rõ quan điểm của chủ nghĩa Mác - Lênin và sự nhận thức đúng đắn của Đảng ta trong quan điểm về trí thức, một số bài viết đăng trên các tạp chí trong thời gian qua đã đề cập đến vấn đề này, tiêu biểu như: Đội ngũ trí thức trong sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước [50]; Những bài học từ quan điểm của Lênin về trí thức [51] của Phan Thanh Khôi; và Suy ngẫm và nhận thức về vấn đề tri thức [6] của Nguyễn Đức Bách Đồng thời, nhiều bài viết đã khai thác những khía cạnh mới về chức năng, nhiệm vụ, chính sách sử dụng, đãi ngộ trí thức và giải pháp phát huy vai trò của đội ngũ trí thức nhằm đáp ứng đòi hỏi, yêu cầu của quá trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa, hội nhập, phát triển kinh tế tri thức. Có thể kể đến một số bài viết như có giá trị khoa học như: Mấy vấn đề cần đổi mới tạo động lực và điều kiện để trí thức nước ta phát huy tài năng trí tuệ [5] của Nguyễn Đức Bách và Nhà khoa học và sự sáng tạo trong khoa học xã hội [52] của Phan Thanh Khôi, Bàn về khái niệm trí thức, Dương Trung Quốc, trong bài viết Đảng và trí thức - một thoáng nhìn lịch sử [69] đã cho rằng, trí thức phải được coi là một “phẩm chất” nhiều hơn là một tầng lớp. Do tác động của xu thế phát triển giáo dục đào tạo, khoa học công nghệ và sự phát triển của “kinh tế tri thức” làm cho nội hàm của khái niệm “trí thức” cần được mở rộng hơn. Học vấn đã có cơ hội đến với các giai cấp, tầng lớp trong xã hội, mọi lực lượng lao động xã hội đều phải coi tri thức là một nhu cầu sống còn của mình. Những công trình nghiên cứu nêu trên đã cung cấp cơ sở lý luận, thực tiễn quan trọng để tác giả luận án luận chứng về nữ trí thức, về vai trò của đội 11 ngũ nữ trí thức dưới góc độ là một bộ phận của đội ngũ trí thức trong điều kiện đổi mới, hội nhập, phát triển kinh tế tri thức và công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước. 1.1.2. Những công trình nghiên cứu về phụ nữ, bình đẳng giới và nữ trí thức Thứ nhất, những công trình nghiên cứu tiêu biểu về phụ nữ, bình đẳng giới. Khi nghiên cứu về phụ nữ, bình đẳng giới ở Việt Nam, các nhà nghiên cứu đã tiếp cận dưới cả hai góc độ, vị thế, vai trò của phụ nữ trong gia đình và ngoài xã hội. Một số công trình nghiên cứu về giới, bình đẳng giới ở Việt Nam đã góp phần nâng cao nhận thức, lý luận và năng lực vận dụng quan điểm giới, bình đẳng giới vào nghiên cứu những vấn đề đặt ra đối với nữ trí thức trong các trường chính trị ở Việt Nam hiện nay. Tiêu biểu có thể kể đến một số công trình như sau: Cuốn sách Địa vị người phụ nữ trong gia đình nữ trí thức [26] của Đoàn Thị Bích Điểm đã chỉ ra rằng, vị thế của người phụ nữ ngày càng được nâng cao trong gia đình so với phụ nữ Việt Nam trong chế độ xã hội cũ. Tuy nhiên so với nam giới vị thế này vẫn còn kém xa, kể cả trong các gia đình nữ trí thức. Họ chủ yếu có ưu thế trong việc quyết định những công việc liên quan đến nội trợ, ít quan trọng hơn như mua thức ăn, quần áo, tiền học cho con,... Tác giả cũng đã giải thích thực trạng trên là do dựa trên sự phân công lao động xã hội theo giới. Phụ nữ là lực lượng thường xuyên thực hiện các công việc nội trợ nên quyết định những công việc này. Đàn ông là trụ cột của gia đình nên thường lo toan những việc lớn. Điều này đã khẳng định dù có dân chủ hơn, bình đẳng hơn, các gia đình trong đó có gia đình nữ trí thức vẫn bị ảnh hưởng bởi các định kiến giới. Lê Thị Quý trong bài viết Phụ nữ trong đổi mới: Thành tựu và thách thức [70] cho rằng nhiều nghiên cứu đã luận giải tỷ số chênh lệch giữa nam 12 và nữ với tư cách là lãnh đạo quản lý trong bộ máy nhà nước ở các cấp. Đồng thời, tác giả bước đầu chỉ ra quan niệm, định kiến giới của một số cán bộ chính quyền và người dân đối với việc phụ nữ tham gia lãnh đạo. Nghiên cứu này đã cung cấp một số cơ sở cho đề tài khi nghiên cứu nữ trí thức tham gia vào lĩnh vực lãnh đạo quản lý trong các trường chính trị ở Việt Nam hiện nay. Trong bài viết Chất lượng nguồn nhân lực nữ qua lăng kính giới [30] của Lưu Song Hà, Phan Thị Thu Hà đã phân tích chất lượng nguồn nhân lực nữ ở Việt Nam từ những khía cạnh thể lực, trí lực và tâm lực. Từ kết quả nghiên cứu thực tiễn, nhóm tác giả đã đề xuất một số giải pháp nhằm góp phần nâng cao chất lượng nguồn nhân lực nữ và bình đẳng giới. Nghiên cứu này góp phần gợi mở cho tác giả luận án về những giải pháp nhằm nâng cao việc thực hiện vai trò của nữ trí thức các trường chính trị trong việc thực hiện nhiệm vụ chính trị được giao. Đỗ Thị Thạch trong bài Tăng cường sự tham gia của phụ nữ trong công tác lãnh đạo, quản lý ở nước ta hiện nay [79], đã nhấn mạnh ở Việt Nam, cùng với tiến trình lịch sử của dân tộc, phụ nữ luôn phát huy vai trò và tỏ rõ khả năng của mình trên mọi lĩnh vực của đời sống xã hội, góp phần tích cực vào sự nghiệp phát triển chung của đất nước. Trong công cuộc đổi mới hiện nay, vai trò của phụ nữ càng cần phải phát huy hơn bao giờ hết, nhất là trong lãnh đạo, quản lý, vì phụ nữ vừa có tiềm năng, năng lực, vừa có truyền thống trong lịch sử, vừa là yêu cầu chung trong sự nghiệp phát triển đất nước. Thứ hai, những công trình nghiên cứu về nữ trí thức Nữ trí thức Việt Nam một bộ phận của trí thức Việt Nam, là bộ phận tinh hoa của phụ nữ Việt Nam, cùng với đội ngũ trí thức và phụ nữ Việt Nam, cho đến nay, nhiều nhà khoa học trong nước đã dày công nghiên cứu, bỏ nhiều tâm huyết để tìm hiểu, đánh giá và tìm ra các giải pháp hữu hiệu nhằm khai thác 13 tiềm năng, phát huy vai trò của đội ngũ nữ trí thức Việt Nam. Tiêu biểu có thể kể đến một số công trình như sau: Đỗ Thị Thạch trong công trình Phát huy nguồn lực nữ trí thức Việt Nam trong sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa [74] đã làm rõ quan niệm về trí thức, nữ trí thức. Tác giả, đã phân tích những phẩm chất trí tuệ, cũng như những yếu tố tác động đến sự phát triển trí tuệ của nữ trí thức; những đóng góp của họ đối với sự phát triển của gia đình và đất nước, v.v... Từ đó, tác giả đã đề xuất một số giải pháp nhằm phát huy nguồn lực nữ trí thức Việt Nam trong sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước. Đây là công trình đã có một cách tiếp cận mới, góp phần làm rõ quá trình hình thành và đặc điểm của nguồn lực nữ trí thức Việt Nam; góp phần quan trọng trong việc xóa bỏ định kiến giới, khẳng định vai trò to lớn của nguồn lực nữ trí thức đối với sự phát triển của xã hội, tiến tới thực hiện mục tiêu bình đẳng giới ở nước ta hiện nay. Công trình là tư liệu nghiên cứu quan trọng cho cách tiếp cận của luận án. Trần Thị Minh Đức với công trình Thực trạng nữ trí thức Việt Nam trong sự nghiệp phát triển đất nước [27] đã đề cập đến cơ sở thực tiễn và những vấn đề lý luận quan trọng của việc nghiên cứu nữ trí thức Việt Nam trong phát triển đất nước. Nghiên cứu đã tập trung phân tích đặc điểm, cơ cấu xã hội của đội ngũ nữ trí thức, vai trò của họ trong một số lĩnh vực tiêu biểu được coi là thế mạnh. Đồng thời, tác giả cũng chỉ ra vai trò không thể thay thế của nữ trí thức làm điểm nhấn khác biệt với nam trí thức đó là chức năng làm vợ, thiên chức làm mẹ. Vai trò "kép” của nữ trí thức vừa là hạnh phúc vừa là thách thức đối với họ cần phải hội tụ nhiều biện pháp mới vượt qua. Khẳng định vai trò to lớn của nữ trí thức đối với sự phát triển của đất nước, và đưa ra những kiến nghị chính sách đối với Đảng và Nhà nước, tại 14 Hội thảo khoa học của Hội Liên hiệp Phụ nữ Việt Nam và Đại học Quốc gia Hà Nội Nữ trí thức Việt Nam đối với sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước [40] được tổ chức tại thủ đô Hà Nội. Hội thảo đã tập hợp được rất nhiều quan điểm, bài viết có giá trị nói về những đóng góp to lớn của nữ trí thức trên mọi lĩnh vực đời sống xã hội trong những năm qua. Đồng thời, nhiều bài tham luận đã chỉ rõ thách thức đối với nữ trí thức và những rào cản đang cản trở bước tiến của họ. Theo ý kiến của nhiều tác giả, những thách thức và các rào cản nảy sinh từ định kiến giới trong xã hội; từ gia đình và bản thân người phụ nữ. Trên cơ sở đó, nhiều nhà khoa học trong Hội thảo cũng đã đề ra những giải pháp phát triển nữ trí thức trong tương lai để tiến kịp sự phát triển của nam giới. Đề tài nghiên cứu khoa học Vai trò, vị thế của nữ trí thức trong quá trình công nghiệp hóa ở Việt Nam [95] của Trung tâm Nghiên cứu phụ nữ - Trường Cán bộ Phụ nữ Trung ương (nay là Học viên Phụ nữ Việt Nam) đã chỉ rõ, mặc dù so với nam giới, vị thế của phụ nữ còn thấp, kể cả trong gia đình trí thức, nhưng xu hướng trong gia đình nữ trí thức, mối quan hệ vợ chồng là mối quan hệ dân chủ, bình đẳng, tôn trọng lẫn nhau,... Như vậy, sự hiểu biết, tri thức có vai trò quan trọng trong xây dựng mối quan hệ bình đẳng giới trong gia đình. Tại Hội thảo của Liên hiệp các Hội khoa học và Kỹ thuật Việt Nam Giải pháp nâng cao vai trò của nữ trí thức trong hoạt động khoa học và công nghệ giai đoạn 2015-2020 [39], các đại biểu đã được nghe 05 báo cáo của các nhà nghiên cứu, khoa học và các ý kiến đóng góp sôi nổi của nữ trí thức thuộc Hội Nữ trí thức Việt Nam. Trong đó, báo cáo “Giải pháp phát huy vai trò của nữ trí thức trong giảng dạy, nghiên cứu lý luận chính trị” của tác giả Nguyễn Thị Báo đã cung cấp nhiều thông tin, đưa ra nhiều giải pháp cụ thể để phát huy hơn nữa vai trò của nữ trí thức trong lĩnh vực nghiên 15 cứu, giảng dạy lý luận chính trị. Đây là một tài liệu hữu ích, có giá trị tham khảo quan trọng cho luận án. Trong công trình Nữ trí thức với sự nghiệp phát triển đất nước [83] của Nguyễn Thị Việt Thanh đã tập hợp một số tham luận được thực hiện trong khuôn khổ đề tài khoa học độc lập cấp Nhà nước “Phát huy vai trò và vị thế của nguồn nhân lực nữ trí thức trong sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa và hội nhập quốc tế”. Các bài tham luận đã mang đến cái nhìn khoa học về những vấn đề khác nhau. Nhiều tham luận đã có giá trị khoa học cao khi áp dụng các phương pháp hiện đại, nghiên cứu nữ trí thức từ góc độ một nguồn lực lao động quan trọng của đất nước, nhưng lại có những đặc tính riêng về giới, với những thuận lợi nhưng cũng có nhiều trở ngại, thách thức nảy sinh khi phải cố gắng dung hòa giữa chức năng của người phụ nữ trong gia đình và vai trò của một cá thể độc lập trong xã hội. Công trình này đã cung cấp cho luận án phương pháp tiếp cận khoa học hiện đại khi nghiên cứu, đánh giá nữ trí thức trong các trường chính trị ở Việt Nam hiện nay. Nguyễn Đình Tấn trong bài viết Vai trò của nữ trí thức trong quá trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa [73] đã cho rằng: Nữ trí thức là bộ phận hợp thành của tầng lớp trí thức (họ mang tất cả những đặc trưng cơ bản của người trí thức nói chung. Họ là những người có đặc trưng về giới tính là phụ nữ, có đủ trình độ kiến thức, chuyên môn cần thiết cho hoạt động nghề nghiệp và làm việc trong lĩnh vực trí óc), có vai trò quan trọng trên mọi mặt của đời sống xã hội và gia đình; họ là một lực lượng lao động trí tuệ hùng hậu, v.v... có đóng góp tích cực vào quá trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước. Lưu Song Hà trong bài viết Nữ trí thức với gia đình và sự nghiệp [29] đã đề cập đến vai trò “kép” của phụ nữ, đồng thời cũng đã so sánh vai trò này đối với nữ trí thức. Bên cạnh nhiều thành công thì nữ trí thức gặp nhiều khó khăn, thách thức khi phải gánh trên vai nhiều chức phận, những rào cản 16 từ việc thực hiện...nam - nữ). Do vậy, khi định nghĩa về trí thức có thể ứng dụng để nhận diện cả nam trí thức và nữ trí thức. Tuy nhiên, theo tác giả luận án quan niệm này mới chỉ cho thấy đặc điểm của nữ trí thức dưới góc độ là một người trí thức, nhưng chưa chỉ ra được nét đặc thù riêng của họ so với nam trí thức nhìn từ góc độ giới. Quan niệm khác lại cho rằng: “Nữ trí thức là những người có trình độ cử nhân trở lên, làm công việc liên quan đến hoạt động trí tuệ và có tính sáng tạo, tạo ra những sản phẩm tinh thần và vật chất có giá trị cho xã hội” [86]. Ở mỗi góc độ khác nhau, có những định nghĩa, quan niệm khác nhau về nữ trí thức. Trên cơ sở tiếp cận những quan niệm của một số học giả, tác giả luận án nhận thấy có những điểm chung, thống nhất giữa những nhà nghiên cứu khi định nghĩa về nữ trí thức như: Một là, nữ trí thức là bộ phận hợp thành của đội ngũ trí thức. Xét về bản chất ở họ hội tụ đầy đủ những đặc trưng cơ bản của đội ngũ trí thức nói chung như: Lao động trí óc, có năng lực tư duy độc lập sáng tạo, có trình độ học vấn cao về lĩnh vực chuyên môn nhất định,... Hai là, nữ trí thức là một bộ phận tinh hoa của giới nữ. Họ là lực lượng tiêu biểu cho giới nữ. Ở họ hội tụ những phẩm chất tốt đẹp đặc trưng của phụ nữ (đức tính cần cù, chịu thương chịu khó, khéo léo, đảm đang,). Vì vậy "tư cách trí thức và tư cách nữ gắn bó hữu cơ trong mỗi nữ trí thức nước ta” [74, tr.20]. Hai đặc điểm trên đã chỉ rõ nữ trí thức vừa là người trí thức, vừa là phụ nữ, có những điểm đặc thù phân biệt với những người trí thức nói chung. Như vậy, nữ trí thức là những người có trình độ học vấn cao, đang làm việc trên các lĩnh vực cơ bản của đời sống xã hội. Họ lao động trí óc là chủ 33 yếu có tính chất sáng tạo và phức tạp tạo ra những sản phẩm tinh thần, vật chất có giá trị cho xã hội. Nữ trí thức, nhìn từ chiều cạnh giáo dục, họ là những người có học vấn và trình độ chuyên môn kỹ thuật cao, giỏi kỹ năng, giàu kinh nghiệm. Họ là một bộ phận quan trọng trong đội ngũ trí thức cả nước. Nhìn từ chiều cạnh giới tính, họ vừa là bộ phận tiêu biểu về trí tuệ của phụ nữ Việt Nam, đồng thời là những người vợ, người mẹ, người thầy đầu tiên của con người, có vai trò vô cùng quan trọng đối với sự nghiệp trồng người và xây dựng gia đình bền vững. 2.1.2. Quan niệm về nữ trí thức trong các trường chính trị ở Việt Nam Nữ trí thức trong các trường chính trị hiện nay là một bộ phận của nữ trí thức Việt Nam, là những người lao động trí óc, có năng lực tư duy độc lập, sáng tạo; có trình độ học vấn cao; có bản lĩnh chính trị vững vàng, đang trực tiếp tham gia truyền bá chủ nghĩa Mác-Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, đường lối, các nghị quyết, chỉ thị của Đảng, chính sách và pháp luật của Nhà nước, kiến thức và chuyên môn, nghiệp vụ về công tác xây dựng Đảng, chính quyền, Mặt trận Tổ quốc và các đoàn thể chính trị - xã hội, kiến thức về pháp luật và quản lý nhà nước và một số lĩnh vực khác cho cán bộ trong hệ thống chính trị cấp cơ sở trên toàn quốc hiện nay. Là một bộ phận của nữ trí thức Việt Nam nhưng do sự phân công lao động xã hội, cơ cấu nghề nghiệp, nữ trí thức trong các trường chính trị vừa có những đặc điểm chung của nữ trí thức cả nước, vừa có nét riêng mang tính đặc thù của môi trường công tác, cụ thể: Thứ nhất, cũng giống như nữ trí thức Việt Nam, nữ trí thức trong các trường chính trị là những người lao động trí óc, có năng lực tư duy độc lập, sáng tạo; có trình độ học vấn cao. Tuy nhiên, chuyên ngành được đào tạo chuyên sâu của đội ngũ này chủ yếu là các ngành khoa học xã hội và nhân 34 văn, lĩnh vực chính trị - xã hội (Triết học, Kinh tế chính trị, Chủ nghĩa xã hội khoa học, Luật học, Xây dựng Đảng, Lịch sử Đảng, Khoa học hành chính,). Thứ hai, do xuất phát từ yêu cầu của thực tiễn công việc đảm nhận, nữ trí thức trong các trường chính trị thường được đào tạo có hệ thống về trình độ lý luận (từ Trung cấp lý luận chính trị, Cao cấp lý luận chính trị và Cử nhân chính trị). Đồng thời, đội ngũ này cũng có khả năng góp phần định hướng trực tiếp cho công tác lý luận của Đảng trong phạm vi hệ thống chính trị cấp cơ sở. Thứ ba, ngoài những chuẩn mực đạo đức, nghề nghiệp của nữ trí thức nói chung, nữ trí thức trong các trường chính trị phải luôn được nhấn mạnh về bản lĩnh chính trị vững vàng, trung thành với sự nghiệp cách mạng của Đảng, của nhân dân, có “tâm” với nghề giáo. Bởi lẽ, lực lượng này đang trực tiếp thực hiện công tác “huấn luyện” cán bộ của Đảng ở cấp cơ sở về lý luận chính trị - hành chính, đường lối, các nghị quyết, chỉ thị của Đảng, chính sách và pháp luật của Nhà nước, kiến thức và chuyên môn, nghiệp vụ về công tác xây dựng Đảng, chính quyền, Mặt trận Tổ quốc và các đoàn thể chính trị - xã hội, kiến thức về pháp luật và quản lý nhà nước và một số lĩnh vực khác. Thứ tư, nữ trí thức trong các trường chính trị chủ yếu hoạt động trên các lĩnh vực: Hoạt động đào tạo (giảng dạy, bồi dưỡng), nghiên cứu khoa học và lãnh đạo, quản lý. Đối tượng đào tạo của họ là cán bộ lãnh đạo, quản lý của Đảng, chính quyền, đoàn thể nhân dân cấp cơ sở (xã, phường, thị trấn và các đơn vị tương đương); trưởng, phó phòng, ban, ngành, đoàn thể cấp huyện và tương đương; trưởng, phó phòng của sở, ban, ngành, đoàn thể cấp tỉnh và tương đương; cán bộ dự nguồn các chức danh trên; cán bộ, công chức cấp cơ sở và một số đối tượng. Trình độ họ tham gia đào tạo là trung cấp lý luận chính trị - hành chính và bồi dưỡng, cập nhật kiến thức, kỹ năng lãnh đạo, chuyên môn, nghiệp vụ, cho các đối tượng trên [20]. 35 2.2. ĐẶC ĐIỂM VÀ VAI TRÒ CỦA NỮ TRÍ THỨC TRONG CÁC TRƯỜNG CHÍNH TRỊ Ở VIỆT NAM HIỆN NAY 2.2.1. Chức năng, nhiệm vụ của các trường chính trị Ngày 05 tháng 09 năm 1994 Ban Bí thư Trung ương Đảng đã ban hành Quyết định số 88-QĐ/TW về việc thành lập trường chính trị cấp tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương để tăng cường và thống nhất sự lãnh đạo, quản lý của các tỉnh, thành ủy và ủy ban nhân dân các tỉnh, thành phố đối với công tác đào tạo, bồi dưỡng cán bộ. Trường chính trị tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương được thành lập trên cơ sở hợp nhất trường đảng và trường hành chính hoặc trường quản lý nhà nước của tỉnh, thành phố, gọi chung là trường chính trị tỉnh, thành phố. Căn cứ vào Điều lệ Đảng, căn cứ Quy chế làm việc của Ban Chấp hành Trung ương, Bộ Chính trị và Ban Bí thư khóa X, Nghị quyết Hội nghị lần thứ tư Ban Chấp hành Trung ương Đảng (khóa X) về đổi mới, kiện toàn tổ chức bộ máy các cơ quan Đảng, định hướng về đổi mới tổ chức bộ máy Nhà nước, Mặt trận Tổ quốc và các đoàn thể chính trị - xã hội, Ban Chấp hành Trung ương Đảng đã ban hành Quyết định số 184-QĐ/TW ngày 03/9/2008 về “chức năng, nhiệm vụ, tổ chức bộ máy của trường chính trị tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương”. Quyết định nêu rõ: Về vị trí, “Trường chính trị tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương là đơn vị sự nghiệp trực thuộc tỉnh ủy, thành ủy và ủy ban nhân dân tỉnh, thành phố, đặt dưới sự lãnh đạo trực tiếp và thường xuyên của ban thường vụ tỉnh ủy, thành ủy” [20]. Theo đó, trường chính trị có vị trí như một ban, ngành cấp tỉnh, thành phố, giống như các sở, ban, ngành khác của tỉnh, thành phố. Nhà trường có con dấu và tài khoản riêng để hoạt động. Tỉnh ủy, thành ủy quyết định bộ máy biên chế, chính sách đối với cán bộ và học viên của trường; lãnh đạo, chỉ đạo nội dung, quy hoạch, kế hoạch đào tạo bồi dưỡng 36 cán bộ. Ủy ban nhân dân tỉnh, thành phố quản lý hướng dẫn quy chế đào tạo, kế hoạch ngân sách, kinh phí đào tạo, cơ sở vật chất và các nhu cầu hoạt động khác của nhà trường. Về nghiệp vụ, trường chính trị chịu sự chỉ đạo, hướng dẫn về nghiệp vụ của Học viện Chính trị - Hành chính quốc gia Hồ Chí Minh (nay là Học viện Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh). Về chức năng, Trường chính trị tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương có chức năng tổ chức đào tạo, bồi dưỡng cán bộ lãnh đạo, quản lý của hệ thống chính trị cấp cơ sở, cán bộ, công chức ở địa phương về lý luận chính trị - hành chính; đường lối, các nghị quyết, chỉ thị của Đảng, chính sách và pháp luật của Nhà nước; kiến thức và chuyên môn, nghiệp vụ về công tác xây dựng Đảng, chính quyền, Mặt trận Tổ quốc và các đoàn thể chính trị - xã hội; kiến thức về pháp luật và quản lý nhà nước và một số lĩnh vực khác [20]. Tại Điều 2 của Quyết định số 184-QĐ/TW đã nêu rõ nhiệm vụ của các trường chính trị như sau: Một là, trường có nhiệm vụ đào tạo, bồi dưỡng cán bộ lãnh đạo, quản lý của Đảng, chính quyền, đoàn thể nhân dân cấp cơ sở (xã, phường, thị trấn và các đơn vị tương đương); trưởng, phó phòng, ban, ngành, đoàn thể cấp huyện và tương đương; trưởng, phó phòng của sở, ban, ngành, đoàn thể cấp tỉnh và tương đương; cán bộ dự nguồn các chức danh trên; cán bộ, công chức cấp cơ sở và một số đối tượng khác về chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh; về đường lối của Đảng, chính sách và pháp luật của Nhà nước; về nghị quyết, chỉ thị của Đảng và Nhà nước và một số lĩnh vực khác. Hai là, trường có nhiệm vụ đào tạo Trung cấp Lý luận chính trị - Hành chính cho cán bộ lãnh đạo, quản lý của hệ thống chính trị cấp cơ sở; cán bộ, công chức, viên chức ở địa phương. 37 Ba là, bồi dưỡng, cập nhật kiến thức, kỹ năng lãnh đạo, chuyên môn, nghiệp vụ cho các chức danh cán bộ lãnh đạo, quản lý; cán bộ chuyên môn, nghiệp vụ của các tổ chức đảng, chính quyền, đoàn thể nhân dân cấp cơ sở. Bốn là, có nhiệm vụ bồi dưỡng, cập nhật kiến thức cho đại biểu hội đồng nhân dân cấp xã, cấp huyện. Năm là, đào tạo tiền công vụ đối với công chức dự bị; bồi dưỡng chuyên viên và các chức danh tương đương. Sáu là, trường chính trị phối hợp với ban Tuyên giáo tỉnh ủy, thành ủy trực thuộc Trung ương hướng dẫn và bồi dưỡng nghiệp vụ, phương pháp giảng dạy cho đội ngũ giảng viên của trung tâm bồi dưỡng chính trị cấp huyện. Bảy là, tổ chức nghiên cứu khoa học phục vụ giảng dạy, học tập và tổng kết kinh nghiệm thực tiễn ở địa phương, cơ sở. Tám là, có nhiệm vụ mở các lớp đào tạo, bồi dưỡng ngoài các đối tượng đã nêu trên theo chỉ đạo của cấp ủy, chính quyền địa phương. Theo quy định của Ban Bí thư Trung ương Đảng, trong công tác đào tạo, bồi dưỡng cán bộ lãnh đạo, quản lý và cán bộ, công chức cấp cơ sở các trường chính trị cần bám sát chức năng, nhiệm vụ để có thể mở rộng quy mô đào tạo, quán triệt tốt quan điểm cơ bản của Đảng trong công tác đào tạo cán bộ; thực hiện hiệu quả việc đa dạng hóa chương trình đào tạo, hình thức đào tạo, bồi dưỡng, đổi mới nội dung chương trình theo hướng thiết thực. Cũng tại Điều 3 của Quyết định 184-QĐ/TW ngày 03 tháng 9 năm 2008 của Ban Bí thư Trung ương Đảng khóa X, quy định rõ về cơ cấu tổ chức bộ máy của các trường chính trị có Ban Giám hiệu (gồm Hiệu trưởng và các Phó Hiệu trưởng); 04 khoa (Khoa Lý luận Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, Khoa Xây dựng Đảng, Khoa Dân vận, Khoa Nhà nước và pháp luật) và 03 phòng chức năng (Phòng Đào tạo, Phòng Nghiên cứu khoa học - Thông tin - Tư liệu và Phòng Tổ chức - Hành chính - Quản trị) [20]. 38 Trên cơ sở về tổ chức bộ máy, nhiệm vụ chính trị thực hiện, Ban thường vụ các tỉnh ủy, thành ủy xem xét, quyết định cụ thể số biên chế cho trường với định khung biên chế chung không quá 60 cán bộ, công chức, viên chức, người lao động. Riêng thành phố Hà Nội, thành phố Hồ Chí Minh, tỉnh Thanh Hoá, tỉnh Nghệ An, tuỳ theo quy mô có thể nhiều hơn nhưng không quá 90 người. Trong tổng số biên chế, cán bộ giảng dạy và nghiên cứu phải chiếm từ 2/3 trở lên. Ngoài số biên chế theo quy định, trường chính trị được thực hiện chế độ giảng viên kiêm nhiệm. Các trường chính trị ở Việt Nam hiện nay đều là những đơn vị có truyền thống bề dày lịch sử; nơi đào tạo, bồi dưỡng nâng cao trình độ lý luận chính trị cho nhiều thế hệ cán bộ lãnh đạo, quản lý các cấp ở cơ sở. Cùng với quá trình trưởng thành và phát triển của nhà trường, đội ngũ trí thức của 63 trường chính trị cũng không ngừng lớn mạnh cả về số lượng và chất lượng, ngày càng đáp ứng được yêu cầu của sự nghiệp giáo dục, đào tạo, trong đó nữ trí thức là lực lượng nòng cốt không thể thiếu. 2.2.2. Đặc điểm của nữ trí thức trong các trường chính trị 2.2.2.1. Về nguồn đào tạo Trong hệ thống các trường chính trị hiện nay, theo thống kê chưa đầy đủ, đội ngũ nữ trí thức chiếm khoảng 43% tổng số trí thức của cả hệ thống. Trong đó, có khoảng 13% nữ trí thức được đào tạo, trưởng thành trước thời kỳ đổi mới và 87% nữ trí thức được đào tạo, trưởng thành trong thời kỳ đổi mới đất nước [120]. Thực tiễn nguồn đào tạo của đội ngũ nữ trí thức ở các trường chính trị đã góp phần khẳng định tính đúng đắn, phù hợp trong tư duy của Đảng về giải phóng và phát huy vai trò của phụ nữ trong sự nghiệp cách mạng. Hiện nay, nữ trí thức Việt Nam nói chung, nữ trí thức trong các trường 39 chính trị nói riêng đã có những điều kiện thuận lợi nhiều hơn so với thời kỳ trước. Họ ngày càng được bình đẳng so với nam giới trong thực hiện nhiệm vụ đào tạo, nghiên cứu khoa học, lãnh đạo, quản lý và các hoạt động khác. Về cơ bản họ đã được công bằng so với nam giới trong đóng góp và hưởng thụ. Họ ngày càng được Đảng và Nhà nước, lãnh đạo các địa phương quan tâm hơn, được đào tạo chính quy, cơ bản và có hệ thống, được bồi dưỡng về chuyên môn, nghiệp vụ, đáp ứng ngày càng cao yêu cầu thực tiễn của công việc chuyên môn. Qua khảo sát cho thấy, nữ trí thức trong các trường chính trị được đào tạo trong nước là chủ yếu và chiếm số lượng lớn. Chẳng hạn, Trường Chính trị tỉnh Nghệ An có 34 nữ trí thức (từ đại học trở lên) đều đào tạo ở trong nước [56]. Trường Chính trị tỉnh Phú Thọ hiện nay có 48 nữ trí thức, trong đó trình độ đại học: 09, thạc sỹ: 39 (trong đó có 01 nghiên cứu sinh) đều đào tạo trong nước [103]. Ở các trường chính trị, nữ trí thức được đào tạo trong nước chiếm phần đông cũng đang là một lợi thế lớn, góp phần thực hiện tốt nhiệm vụ chính trị mà Học viện Chính trị quốc Gia Hồ Chí Minh và các tỉnh ủy, ủy ban nhân dân tỉnh, thành ủy, ủy ban nhân dân thành phố giao. Vì, ưu thế nổi bật của bộ phận này là được trang bị lập trường tư tưởng chính trị vững vàng, có kiến thức nhất định về lý luận chủ nghĩa Mác - Lênin; được đào tạo chuyên sâu trong lĩnh vực chuyên môn làm việc, hiểu sâu, rõ hơn tình hình thực tiễn của đất nước, địa phương,... những phẩm chất này rất cần đối với môi trường công tác đặc thù tính đảng ở các trường chính trị hiện nay. Ngoài ra, có một bộ phận nhỏ nữ trí thức trong các trường chính trị được đào tạo ở nước ngoài (trình độ đại học, trên đại học). Ưu thế của bộ phận này là họ có năng lực thực hành khá; được tiếp xúc với nền khoa học tiên tiến, nền văn hóa, giá trị truyền thống của nhiều quốc gia, dân tộc; có 40 trình độ ngoại ngữ tốt; phương pháp, tác phong làm việc khá khoa học; tiếp cận và sử dụng thành thạo công nghệ thông tin, mức độ vận dụng các phương pháp giảng dạy tích cực có tính hiệu quả cao,... điều này là rất cần thiết với yêu cầu sự nghiệp đào tạo, nghiên cứu khoa học, tham gia lãnh đạo, quản lý trong bối cảnh toàn cầu hóa, hội nhập quốc tế hiện nay. Tuy nhiên, ở các trường chính trị, số lượng nữ trí thức được đào tạo ở nước ngoài chiếm tỷ lệ thấp (khoảng 2,7% trong tổng số nữ trí thức của 63 trường), thấp hơn nhiều so với các đơn vị hành chính sự nghiệp, các sở, ban, ngành, các trường cao đẳng, đại học đặt trên địa bàn tỉnh, thành phố. Hầu hết các trường chính trị chưa có nữ trí thức được đào tạo ở nước ngoài. Hiện nay, ở Trường Chính trị Tô Hiệu thành phố Hải Phòng, có 02 tiến sĩ trong tổng số 32 nữ trí thức, trong đó có 01 tiến sĩ được đào tạo ở nước ngoài (Trung Quốc) [109]. Đây cũng là vấn đề cần được quan tâm trong tạo nguồn nữ trí thức ở các trường chính trị trong thời gian tới. Nhìn chung, nữ trí thức trong các trường chính trị dù được đào tạo từ nguồn nào, đều có những điểm mạnh, yếu khác nhau về tác phong, phong cách làm việc, về tư duy, về trình độ ngoại ngữ, khả năng sử dụng công nghệ thông tin, về năng lực giảng dạy, khả năng giải quyết công việc, khả năng nghiên cứu khoa học, lãnh đạo, quản lý,... Trong quá trình phát triển của các trường chính trị, đòi hỏi đội ngũ này cần có sự hợp tác, giúp đỡ nhau để phát huy những điểm mạnh, khắc phục những hạn chế, cùng nhau phát huy sức mạnh tổng hợp của giới nữ, nữ trí thức trong sự nghiệp đào tạo, bồi dưỡng cán bộ lãnh đạo, quản lý của Đảng, chính quyền và đoàn thể cấp cơ sở. 2.2.2.2. Về số lượng và nhóm tuổi Một là: Theo số liệu thống kê chưa đầy đủ, trong tất cả 63 trường chính trị trong cả nước, tỷ lệ nữ trí thức so với nam trí thức cũng không thấp hơn nhiều, chiếm khoảng 43% trong tổng số đội ngũ trí thức của các trường chính trị. 41 Riêng đối với 08 trường chính trị chúng tôi lựa chọn khảo sát, với tổng số 425 khách thể là trí thức (diện lấy phiếu), trong đó nữ trí thức là 220, chiếm 51,8% và nam trí thức là 205, chiếm 48,2% [56]. Đồng thời, ở các vùng miền khác nhau, tỷ lệ nữ trí thức trong tổng số đội ngũ trí thức của các trường chính trị khác nhau, về cơ bản có thể chia thành 02 nhóm như sau: (1) Nhóm các trường chính trị có số lượng nữ trí thức chiếm tỷ lệ thấp trong tổng số đội ngũ trí thức của nhà trường. Bảng 2.1: Một số trường chính trị có tỷ lệ nữ trí thức thấp trong tổng số đội ngũ trí thức của nhà trường STT Trường chính trị Tổng số trí thức Số lượng nữ trí thức (người) Tỷ lệ (%) 1 Tỉnh Quảng Ngãi 43 21 48,8 2 Tỉnh Đăk Lăk 49 19 38,8 3 Tỉnh Tây Ninh 50 17 34,0 4 Thành phố Cần Thơ 63 21 33,3 5 Tổng số 205 78 38,0 Nguồn: Báo cáo tổng kết năm học 2015 - 2016 của các trường chính trị, Vụ Các trường chính trị - Học viện Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh [96; 106; 107; 111]. Nhìn vào kết quả khảo sát cho biết, 04 trường chính trị có số lượng nữ trí thức chiếm tỷ lệ thấp hơn so với nam trí thức, trong đó 3/4 nhà trường, có tỷ lệ nữ trí thức thấp hơn nam trí thức (dưới 40%). Tuy nhiên, so với tỷ lệ nữ/nam ở một số lĩnh vực khác (lãnh đạo, quản lý, kinh doanh...), sự chênh lệch giữa nữ trí thức và nam trí thức trong các trường chính trị chưa quá lớn. Điều này góp phần phản ánh tình hình chung về bình đẳng giới của Việt Nam trong lĩnh vực giáo dục và đào tạo. Đây cũng là thuận lợi để cả hai giới phấn 42 đấu đóng góp và phát huy vai trò, vị thế của giới mình cho sự trưởng thành của các nhà trường. Kết quả khảo sát cũng cho thấy, tỷ lệ nữ trí thức thấp hơn nam trí thức đều thuộc về các trường chính trị ở phía Nam và khu vực Tây Nguyên. Xét ở một góc độ nào đó, sự chênh lệch này phản ánh mức độ đóng góp, vai trò, vị thế của nữ trí thức ở các trường chính trị khu vực phía Bắc và Bắc Trung Bộ sẽ khác với nữ trí thức của các trường chính trị thuộc khu vực phía Nam, Tây Nguyên. Đây cũng là vấn đề cần chú ý đối với các tỉnh ủy, ủy ban nhân dân các tỉnh trong chiến lược phát triển nữ trí thức trong các trường chính trị đối với các vùng miền khác nhau. (2) Nhóm các trường có số lượng nữ trí thức chiếm tỷ lệ cao trong đội ngũ trí thức. Bảng 2.2: Một số trường chính trị có số lượng nữ trí thức chiếm tỷ lệ cao trong tổng số đội ngũ trí thức nhà trường STT Trường Chính trị Tổng số trí thức Số lượng nữ trí thức (người) Tỷ lệ % 1 Tỉnh Lào Cai 45 28 62,2 2 Tỉnh Phú Thọ 59 48 81,4 3 Tô Hiệu thành phố Hải Phòng 55 32 58,2 4 Tỉnh Nghệ An 61 34 55,7 5 Tổng số 220 142 64,5 Nguồn: Báo cáo tổng kết năm học 2015 - 2016 của các trường chính trị, Vụ Các trường chính trị - Học viện Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh [99; 102; 103; 109]. Qua số liệu cho thấy, hiện nay, Trường Chính trị tỉnh Phú Thọ, số lượng nữ trí thức chiếm tỷ lệ rất cao (81,4%) trong tổng số đội ngũ trí thức của nhà trường. Với tỷ lệ áp đảo, một mặt, là ưu thế khi vai trò, vị thế và năng 43 lực của họ được khai thác, sử dụng và phát huy có hiệu quả trong thực hiện nhiệm vụ chính trị của nhà trường. Mặt khác, tình trạng mất cân đối khá rõ về số lượng giữa nam/nữ trí thức đã và đang tạo ra những khó khăn không nhỏ đối với cấp lãnh đạo, quản lý của nhà trường. Ở những đơn vị có đông nữ trí thức, do đặc thù giới tính, nữ trí thức gặp không ít khó khăn khi tham gia những nhiệm vụ cần phải đi sớm, về muộn, hoặc đi công tác xa nhà liên tục,.... Ngoài ra, “bản tính” hay đố kỵ, níu kéo, soi xét lẫn nhau,... giữa nữ trí thức cũng ảnh hưởng không nhỏ đến không khí đoàn kết của đơn vị và sự phấn đấu của mỗi cá nhân. Khác với nhóm thứ nhất, xu hướng nữ trí thức chiếm áp đảo so với nam trí thức, thường diễn ra có tính chất phổ biến hơn ở một số trường thuộc khu vực phía Bắc và Bắc Trung Bộ. Qua ý kiến khảo sát, nguyên nhân chủ yếu là ở khu vực này, phụ nữ được thụ hưởng thành quả của tư tưởng giải phóng phụ nữ khá sớm, ngay khi nước nhà giành độc lập, nhất là từ sau khi miền bắc tiến hành xây dựng chủ nghĩa xã hội (1954). Nhờ đó, điều kiện học tập lên trình độ cao, tham gia công tác xã hội của họ thuận lợi hơn so với một số vùng, miền khác. Mặt khác, các trường chính trị ở các tỉnh phía Bắc đều có thời gian ra đời, phát triển lâu hơn so với các trường thuộc khu vực khác, nhất là khu vực phía Nam, do vậy, việc xây dựng đội ngũ trí thức cũng thuận lợi hơn. Hai là: Về nhóm tuổi của nữ trí thức trong các trường chính trị Đối tượng người học của các trường chính trị là những cán bộ, công chức, cán bộ lãnh đạo, quản lý trong các cơ quan Đảng, Nhà nước, Mặt trận và các tổ chức chính trị - xã hội từ tỉnh, thành phố xuống đến xã/phường/thị trấn. Trong đó, một bộ phận không nhỏ có trình độ học vấn tương đối cao, am hiểu kiến thức thực tiễn, có khả năng đánh giá, phân tích, tổng kết thực tiễn cơ sở. Do đó, để đáp ứng được khả năng đào tạo (giảng dạy, bồi dưỡng) lý 44 luận chính trị cho đối tượng này, ngoài trình độ chuyên môn, đội ngũ trí thức, nữ trí thức trong các trường chính trị cần phải có kiến thức thực tiễn đa dạng, phong phú; khả năng ứng xử, xử lý tình huống nảy sinh ở cơ sở và phải có nghiệp vụ sư phạm tốt. Những điều này không chỉ học trong các nhà trường, qua sách vở mà phải học trong cuộc sống, phải trải nghiệm thực tiễn, do đó, nhất định phải có thời gian (thâm niên), kinh nghiệm công tác không phải ngắn đối với trí thức, nữ trí thức. Đội ngũ nữ trí thức trong các trường chính trị, theo khảo sát, hiện nay số có tuổi đời trung bình dưới 35 chiếm tỷ lệ cao nhất; sau đó từ 35 đến 45 tuổi; từ 45 tuổi trở lên chiếm tỷ lệ thấp nhất. Sự phân bố trong tháp tuổi trung bình của nữ trí thức trong các trường chính trị là rất thuận lợi trong việc thực hiện nhiệm vụ chính trị của nhà trường. Lợi thế của nữ trí thức trẻ là được đào tạo bài bản, khả năng tiếp cận phương tiện giảng dạy, nghiên cứu hiện đại và nắm bắt thông tin trong nước, quốc tế nhanh. Tuy nhiên, nữ trí thức trẻ do thâm niên công tác còn ít, kinh nghiệm thực tiễn chưa nhiều, đang trong độ tuổi sinh nở, tác động trực tiếp đến hiệu quả thực hiện nhiệm vụ của họ, đồng thời là những thách thức lớn cho những nhà quản lý, lãnh đạo các nhà trường trong phân công chuyên môn, đào tạo, bồi dưỡng. Đối với đội ngũ nữ trí thức ở nhóm tuổi từ 45 trở lên, có ưu thế về kinh nghiệm công tác, kiến thức thực tiễn trải nghiệm khá phong phú, việc thực hiện chức năng làm vợ, làm mẹ đã đi vào ổn định,... Họ có điều kiện hơn trong thực hiện chuyên môn của mình, cũng như giúp đỡ, chia sẻ kinh nghiệm cho thế hệ trẻ. Tuy nhiên, theo quy định về độ tuổi lao động thì nhóm này sẽ về hưu trong thời gian gần nhất. Đây cũng là khó khăn đặt ra cho các trường chính trị trong việc đào tạo đội ngũ nữ trí thức kế cận có đủ chiều sâu kiến thức chuyên môn và kiến thức thực tiễn phong phú để thực hiện nhiệm vụ của nhà trường. 45 2.2.2.3. Về trình độ của nữ trí thức Thứ nhất: Về chuyên môn, nghiệp vụ Hiện nay, trình độ chuyên môn, nghiệp vụ và trình độ lý luận chính trị của nữ trí thức trong các trường chính trị có xu hướng ngày càng được nâng cao, số người có trình độ đại học, sau đại học tăng liên tục qua các năm, từng bước đáp ứng yêu cầu trong việc thực hiện chức năng, nhiệm vụ của các nhà trường. Được sự quan tâm của các cấp lãnh đạo tỉnh, thành phố, ở nhiều trường chính trị hiện nay nữ trí thức được khuyến khích và tạo điều kiện (vật chất lẫn tinh thần) khi tham gia học tập, nâng cao trình độ tại các trường đại học và các Học viện lớn trong và ngoài nước. Sự nhất quán trong chủ trương, chính sách của lãnh đạo các tỉnh, thành phố và Ban Giám hiệu các trường trong công tác cán bộ kết hợp với sự nỗ lực của bản thân nữ trí thức đã góp phần làm thay đổi căn bản về cơ cấu trình độ của nữ trí thức trong các trường chính trị trong những năm qua. Bảng 2.3: Trình độ học vấn của nữ trí thức ở một số trường chính trị trong cả nước Đơn vị: Người Tên trường chính trị Đại học Thạc sĩ Tiến sĩ GS, PGS Tổng Tỉnh Lào Cai 16 11 1 - 28 Tỉnh Phú Thọ 9 39 - - 48 Tô Hiệu (TP.Hải Phòng) 9 21 2 - 32 Tỉnh Nghệ An 12 22 - - 34 Tỉnh Quảng Ngãi 12 8 1 - 21 Tỉnh Đăk Lăk 14 5 - - 19 Tỉnh Tây Ninh 11 6 - - 17 Thành phố Cần Thơ 8 12 1 - 21 Tổng số 91 124 5 220 Nguồn: Tổng hợp kết quả cơ cấu tổ chức của các trường chính trị, Phòng Tổ chức Quản trị - Hành chính, năm 2015 [100; 101; 104; 105; 97; 108; 110; 112]. 46 Số liệu trên đã cho thấy, trình độ của nữ trí thức trong các trường chính trị có xu hướng ngày càng được nâng lên. Trong đó, tỷ lệ nữ trí thức có trình độ thạc sỹ có tỷ lệ cao hơn cả trình độ đại học (56,4% so với 41,4%). Có những trường chính trị, tỷ lệ nữ trí thức có trình độ thạc sỹ rất cao, như Trường Chính trị tỉnh Phú Thọ với 39/48 nữ trí thức, chiếm 81,3%, gấp 4,3 lần so với nữ trí thức có trình độ đại học. Mặt khác, qua kết quả khảo sát bước đầu cũng cho thấy, càng lên trình độ cao, tỷ lệ nữ trí thức càng giảm, thậm chí không có. Theo thống kê chưa đầy đủ năm 2015, trong tổng số nữ trí thức của 63 trường chính trị, nữ trí thức có trình độ tiến sỹ chỉ chiếm khoảng 6,7%. Riêng ở 08 trường chính trị thực hiện khảo sát, chỉ có 04/08 trường là có nữ tiến sĩ, với số lượng khá khiêm tốn (05 nữ tiến sĩ), chiếm 2,2 % tổng số nữ trí thức của 08 trường chính trị. 08/08 trường chưa có nữ trí thức đạt học hàm giáo sư, phó giáo sư. Trên phạm vi toàn quốc, trong suốt nhiều năm, 62/63 trường chính trị chưa từng có nữ giáo sư hay phó giáo sư nào. Duy nhất, Học viện Cán bộ Thành phố Hồ Chí Minh, trước năm 2014, có một nữ phó giáo sư (PGS,TS Trương Thị Hiền, nguyên Giám đốc Học viện Cán bộ Thành phố Hồ Chí Minh. Nay chị đã nghỉ quản lý). Sự thiếu vắng của nữ trí thức có trình độ cao đang phổ biến trong các trường chính trị trên cả nước, cũng là một trong những rào cản lớn tới chất lượng của đội ngũ nữ trí thức ở các tỉnh, thành phố hiện nay. Kết quả khảo sát cũng cho biết, đang có sự khác biệt khá rõ về trình độ chuyên môn của nữ trí thức ở các trường chính trị theo vùng miền khác nhau. Nữ trí thức có trình độ thạc sỹ, tiến sĩ chủ yếu tập trung ở các trường chính trị thuộc vùng Đông Bắc bộ (Trường Chính trị tỉnh Phú Thọ), Bắc Trung bộ (Trường Chính trị tỉnh Nghệ An) và ở thành phố có tốc độ phát triển kinh tế khá (Trường Chính trị Tô Hiệu thành phố Hải Phòng). Ở khu vực phía nam, nhất là khu vực Tây Nguyên, hầu như không có nữ trí thức 47 đạt học vị tiến sĩ, số lượng nữ trí thức có trình độ thạc sĩ cũng còn ít. Trường Chính trị tỉnh Đăk Lăk có 05/19 nữ thạc sĩ, chiếm 26,3% [97]; Trường Chính trị tỉnh Đắk Nông, chỉ có 2 nữ thạc sĩ, chiếm 25% trong đội ngũ trí thức [98]. Nhìn chung, trình độ của nữ trí thức trong các trường chính trị đang được nâng cao, nhưng tốc độ còn chậm; phát triển theo kiểu hình tháp xuôi mà chưa có đỉnh, nhất là đỉnh cao. Điều này ảnh hưởng không nhỏ tới sự phát triển của nữ trí thức các trường chính trị, hạn chế việc phát huy vai trò của đội ngũ này trong việc thực hiện nhiệm vụ chuyên môn, ảnh hưởng đến công tác đào tạo, bồi dưỡng cán bộ lãnh đạo, quản lý cho hệ thống chính trị cấp cơ sở. Sự khác biệt này cũng cho thấy có nguyên nhân khách quan, chủ quan liên quan đến số lượng nữ trí thức trong các trường chính trị mà chúng tôi đã phân tích ở đặc điểm trên. Thứ hai: Về lý luận chính trị Nhằm đáp ứng yêu cầu nhiệm vụ chính trị của nhà trường trong tình hình mới, những năm qua đội ngũ nữ trí thức các trường chính trị đã tham gia tích cực trong đào tạo nâng cao trình độ lý luận chính trị, nghiên cứu, nắm bắt kịp thời chủ trương, đường lối, chính sách, pháp luật của Đảng và Nhà nước; cập nhật thông tin, bổ sung kiến thức thực tiễn. Về cơ bản nữ trí thức các trường chính trị đều có trình độ lý luận chính trị từ trung cấp và tương đương trở lên; nữ trí thức có trình độ cao cấp lý luận chính trị ngày nhiều đáp ứng yêu cầu về chuẩn hóa cán bộ theo quy định hiện nay. “Trường Chính trị tỉnh Phú Thọ, xét về trình độ lý luận chính trị, có 01 nữ cử nhân, chiếm 2,3%; 13 nữ có trình độ cao cấp, chiếm 30,2%; 33 nữ có trình độ trung cấp, chiếm 65,2% và có 01 nữ sơ cấp, chiếm 2,3%” [104]. Đa số lãnh đạo của các trường chính trị cho rằng, về cơ bản, trình độ chuyên môn và trình độ lý luận chính trị của nữ trí thức trong các trường 48 chính trị đã và đang được phát huy trong công tác giảng dạy, nghiên cứu khoa học, lãnh đạo, quản lý. Tỷ lệ nữ trí thức có trình độ cao cấp lý luận chính trị khá cao đã được đào tạo khá bài bản về lý luận chính trị, đây là điều kiện rất cần thiết để nữ trí thức tham gia công tác đào tạo đội ngũ cán bộ trong hệ thống chính trị cấp cơ sở hiện nay. Thứ ba: Về trình độ ngoại ngữ, tin học Ngoại ngữ và tin học là những công cụ cần thiết để nữ trí thức trong các trường chính trị tiếp cận với tri thức khoa học tiên tiến của thế giới, nâng cao trình độ, năng lực giảng dạy và nghiên cứu khoa học trong thời kỳ hội nhập quốc tế, góp phần nâng cao chất lượng và hiệu quả trong công tác đào tạo cán bộ tron...p ngày 12/12]. 47. Jennifer Lewington (2011), “Biết trọng dụng người tài, Canada vượt lên trước bầy sói”, Tạp chí Thông tin những vấn đề lý luận (phụ nữ lãnh đạo), (6), tr.9-12. 48. Nguyễn Văn Khánh (2010), Xây dựng và phát huy nguồn lực trí tuệ Việt Nam phục vụ sự nghiệp chấn hưng đất nước, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội. 49. Nguyễn Văn Khánh (2012), Nguồn lực trí tuệ Việt Nam - Lịch sử, hiện trạng và triển vọng, Nxb Chính trị Quốc gia - Sự thật, Hà Nội. 50. Phan Thanh Khôi (1995), “Đội ngũ trí thức trong sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước”, Tạp chí Nghiên cứu lý luận, Học viện Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh, (4), tr.31-32. 51. Phan Thanh Khôi (1996), “Những bài học từ quan điểm của Lênin bàn về trí thức”, Tạp chí Thông tin khoa học xã hội, (4), tr.20-23. 157 52. Phan Thanh Khôi (2002), “Nhà khoa học và sự sáng tạo trong khoa học xã hội”, Tạp chí Khoa học chính trị, (1), tr.25-28. 53. Phan Thanh Khôi, Đỗ Thị Thạch (đồng chủ biên) (2007), Những vấn đề giới - từ lịch sử đến hiện đại, Nxb Lý luận chính trị, Hà Nội. 54. Phan Thanh Khôi (2016), "Đội ngũ nữ trí thức trong phát triển bền vững đất nước", Kết quả nghiên cứu của đề tài độc lập cấp Nhà nước: Vai trò, vị thế của nữ trí thức Việt Nam trong phát triển bền vững (2014-2016), Hội Nữ trí thức Việt Nam chủ trì, Tạp chí lý luận, (9), tr.11-15. 55. Trần Thị Lan (2014), Chất lượng lao động của đội ngũ trí thức giáo dục đại học Việt Nam, Luận án tiến sĩ triết học, Học viện Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh, Hà Nội. 56. Nguyễn Ngọc Lâm (2013), “Phát huy năng lực, trí tuệ của đội ngũ cán bộ nữ”, Tạp chí Xây dựng Đảng, (10), tr.22-24. 57. Liên Hiệp các hội khoa học kỹ thuật Việt Nam (2014), “Giải pháp nâng cao vai trò của nữ trí thức trong hoạt động khoa học và công nghệ giai đoạn 2015-2020”. Hội thảo trong nước, Hà Nội. 58. Đinh Thị Tuyết Mai (2013), “Vai trò của nữ trí thức và vấn đề bình đẳng giới trong giáo dục ở Việt Nam”. Hội thảo nữ trí thức Hà Nội trong sự nghiệp phát triển thủ đô, Đại học quốc gia, Hà Nội. 59. Hồ Chí Minh (1995), Toàn tập, tập 5, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội. 60. Hồ Chí Minh (2002), Toàn tập, tập 6, Nxb Chính trị quốc gia Hà Nội. 61. Nguyễn Hữu Minh (2012), Nhóm giải pháp nâng cao vai trò, vị thế của nữ trí thức trong phát triển bền vững, chuyên đề độc lập: Jean Munro, 2012. Sự tham gia của phụ nữ trong vai trò lãnh đạo quản lý ở Việt Nam - Hà Nội, UNDP, tr.25. 62. Nguyễn Hữu Minh (2016), Nữ trí thức với gia đình và sự nghiệp, tại trang http:www.tapchicongsan.org.vn, [truy cập ngày 16/10]. 158 63. Nguyễn Hữu Minh (2016), Vấn đề công bằng và bình đẳng giới đối với nữ trí thức, Hà Nội, Trung tâm nghiên cứu Giới và phát triển, Hội thảo trong nước, Học viện Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh, Hà Nội. 64. Ngân hàng Phát triển thế giới (2012), Báo cáo phát triển toàn cầu: Bình đẳng giới và phát triển. 65. Trần Thị Minh Ngọc (2014), “Phát huy vai trò của nữ trí thức trong công tác nghiên cứu, giảng dạy lý luận chính trị tại các trường chính trị nước ta và một số vấn đề đặt ra”. Hội thảo khoa học nữ trí thức Hà Nội trong sự nghiệp phát triển thủ đô, Đại học quốc gia Hà Nội, Hà Nội. 66. Nhiều tác giả Nga (2009), Về trí thức Nga, La Thành và Phạm Nguyên Trường dịch. Nxb Trí thức, Hà Nội 67. Nguyễn An Ninh (2008), Phát huy tiềm năng của trí thức khoa học xã hội và nhân văn trong công cuộc đổi mới đất nước, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội. 68. Hoàng Phê (2002), Từ điển tiếng Việt, Nxb Viện Ngôn ngữ học, Hà Nội. 69. Dương Trung Quốc (2008), “Đảng và Trí thức - một thoáng nhìn lịch sử”, Tạp chí Tia Sáng, (6), tr.9-10. 70. Lê Thị Quý (2006), “Phụ nữ trong đổi mới: Thành tựu và thách thức”, Tạp chí Khoa học về phụ nữ, (74), tr.15-18. 71. Nguyễn Văn Sách (chủ biên) (2012), Trường Chính trị tỉnh Phú Thọ - 55 năm xây dựng và phát triển (1957-2012). Đề tài khoa học cấp tỉnh, Phú Thọ. 72. Ngụ Quý Tăng (2001), Kinh tế tri thức xu thế mới của xã hội thế kỷ XXI, Nxb Đại học quốc gia, Hà Nội. 73. Nguyễn Đình Tấn (2007), “Vai trò của nữ trí thức trong quá trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa”, Tạp chí gia đình và giới, (2), tr.8-12. 74. Đỗ Thị Thạch (2005), Phát huy nguồn lực nữ trí thức Việt Nam trong sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội. 159 75. Đỗ Thị Thạch (2010), Tác động của toàn cầu hóa đối với thực hiện bình đẳng giới ở Việt Nam hiện nay, Đề tài khoa học cấp cơ sở của Viện Chủ nghĩa xã hội khoa học, Học viện Chính trị - Hành chính quốc gia Hồ Chí Minh, Hà Nội. 76. Đỗ Thị Thạch (2010), “Trí thức nữ Việt Nam trước yêu cầu đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước”, Hội thảo nữ trí thức Việt Nam đối với sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước, Học viện Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh, Hà Nội. 77. Đỗ Thị Thạch (2012), “Đặc điểm của đội ngũ nữ trí thức Việt Nam trong sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước”, Hội thảo khoa học, Hà Nội. 78. Đỗ Thị Thạch (2013), “Nữ trí thức Việt Nam trước yêu cầu công nghiệp hóa, hiện đại hóa và hội nhập quốc tế”, Tạp chí Thông tin Khoa học chính trị - Hành chính, (1), tr.22-24. 79. Đỗ Thị Thạch (2013), “Tăng cường tham gia của phụ nữ vào lãnh đạo, quản lý ở nước ta hiện nay”, Tạp chí Cộng sản, (77), tr.13-15. 80. Đỗ Thị Thạch (2016), "Vai trò, vị trí của nữ trí thức Việt Nam trong phát triển bền vững", Kết quả nghiên cứu của đề tài độc lập cấp Nhà nước: Vai trò, vị thế của nữ trí thức Việt Nam trong phát triển bền vững (2014- 2016), Hội Nữ trí thức Việt Nam chủ trì, Tạp chí lý luận, (8), tr.10-12. 81. Nguyễn Thị Việt Thanh, Bùi Văn Tuấn (2013), “Quyền phụ nữ qua quy định pháp luật và chính sách của Đảng, Nhà nước Việt Nam”, Hội thảo nữ trí thức Hà Nội trong sự nghiệp phát triển thủ đô, Đại học quốc gia, Hà Nội. 82. Nguyễn Thị Việt Thanh (2013), "Phát huy năng lực, trí tuệ của đội ngũ cán bộ nữ", Tạp chí Xây dựng Đảng, (10), tr.22-25. 83. Nguyễn Thị Việt Thanh (chủ biên) (2015), Nữ trí thức với sự nghiệp phát triển đất nước, Nxb Đại học quốc gia, Hà Nội. 160 84. Nguyễn Thị Việt Thanh (2015), Phát huy nguồn nhân lực nữ trí thức trong sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước và hội nhập quốc tế - Báo cáo tổng hợp kết quả khoa học công nghệ đề tài KX.03.07/11-15, Viện Việt Nam học và Khoa học phát triển, Hà Nội. 85. Lê Thi (1998), Phụ nữ và bình đẳng giới trong đổi mới ở Việt Nam, Nxb Phụ nữ, Hà Nội. 86. Hoàng Bá Thịnh (2010), “Đặc điểm đội ngũ nữ trí thức Việt Nam hiện nay”, Hội thảo nữ trí thức Việt Nam đối với sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước, Hà Nội. 87. Trương Thị Thông (2013), “Từng bước đổi mới, nâng cao chất lượng đào tạo, bồi dưỡng cán bộ của các trường chính trị”, Thông tin công tác các trường chính trị, Vụ các trường chính trị - Học viện Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh, tr.8. 88. Nguyễn Thanh Thủy (2010), “Tăng cường vai trò của nữ trí thức trong vị trí người lãnh đạo”, Hội thảo nữ trí thức Việt Nam đối với sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước, Viện nghiên cứu gia đình và giới, Hà Nội. 89. Lộc Phương Thủy (2013), “Vài suy nghĩ về nữ trí thức trong lĩnh vực nghiên cứu khoa học”, Hội thảo nữ trí thức Hà Nội trong sự nghiệp phát triển thủ đô, Đại học quốc gia, Hà Nội. 90. Võ Thị Bích Thủy (2016), “Một số suy nghĩ về công tác đào tạo bồi dưỡng đội ngũ giảng viên ở trường Chính trị tỉnh Lâm Đồng”, tại trang http: //www.truongchinhtrilamdong.vn, [truy cập ngày 22/06]. 91. Nguyễn Thanh Thuyên (2016), “Xây dựng đội ngũ giảng viên trường chính trị đáp ứng yêu cầu của nhiệm vụ mới”, tại trang www.truongchinhtri bacgiang.vn, [truy cập ngày 22/06]. 92. Nguyễn Công Trí (2011), Trí thức Việt Nam trong phát triển kinh tế tri thức, Luận án tiến sĩ Triết học, Học viện Chính trị - Hành chính quốc gia Hồ Chí Minh, Hà Nội. 161 93. Phạm Quốc Trụ (2011), “Hội nhập quốc tế: Một số vấn đề lý luận và thực tiễn”, tại trang nghiencuubiendong.vn, [truy cập ngày 31/8]. 94. Trung tâm Hợp tác Nghiên cứu Phát triển Công nghệ Định vị Sử dụng Vệ tinh (Navis), (2015), “Thống kê giới tính, độ tuổi, vùng miền của các giáo sư, phó giáo sư từ năm 2011 đến 2015”, tại trang [truy cập ngày 12/01]. 95. Trung tâm Nghiên cứu phụ nữ (2011), Vai trò, vị thế của nữ trí thức trong quá trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa ở Việt Nam, Đề tài nghiên cứu khoa học cơ sở, Trường cán bộ phụ nữ Trung ương, Hà Nội. 96. Trường Chính trị tỉnh Đăk Lăk (2015), Báo cáo tổng kết năm học 2014 - 2015 và phương hướng nhiệm vụ 2016-2017, Đăk Lăk. 97. Trường Chính trị tỉnh Đăk Lăk (2015), Cơ cấu tổ chức bộ máy, tại trang tctdaklak.gov.vn, [truy cập ngày 22/06]. 98. Trường Chính trị tỉnh Đăk Nông (2015), Cơ cấu tổ chức bộ máy, tại trang www.daknong.gov.vn, [truy cập ngày 28/6]. 99. Trường Chính trị tỉnh Nghệ An (2015), Báo cáo tổng kết năm học 2014 - 2015 và phương hướng nhiệm vụ 2016-2017, Nghệ An. 100. Trường Chính trị tỉnh Nghệ An (2015), Cơ cấu tổ chức bộ máy, tại trang truongchinhtrina.gov.vn, [truy cập 22/06]. 101. Trường Chính trị tỉnh Lào Cai (2014), Cơ cấu tổ chức bộ máy, Lào Cai. 102. Trường Chính trị tỉnh Lào Cai (2015), Báo cáo tổng kết năm học 2014 - 2015 và phương hướng nhiệm vụ 2016-2017, Lào Cai. 103. Trường Chính trị tỉnh Phú Thọ (2015), Báo cáo tổng kết năm học 2014 - 2015 và phương hướng nhiệm vụ 2016-2017, Phú Thọ. 104. Trường Chính trị tỉnh Phú Thọ (2015), Cơ cấu tổ chức bộ máy, tại trang [truy cập ngày 22/06]. 105. Trường Chính trị tỉnh Quảng Ngãi (2014), Cơ cấu tổ chức bộ máy, Quảng Ngãi. 106. Trường Chính trị tỉnh Quảng Ngãi (2015), Báo cáo tổng kết năm học 2014 - 2015 và phương hướng nhiệm vụ 2016-2017, Quảng Ngãi. 162 107. Trường Chính trị tỉnh Tây Ninh (2015), Báo cáo tổng kết năm học 2014 - 2015 và phương hướng nhiệm vụ 2016-2017 , Tây Ninh. 108. Trường Chính trị tỉnh Tây Ninh (2015), Cơ cấu tổ chức bộ máy, tại trang https://truongchinhtri.tayninh.gov.vn, [truy cập ngày 22/06]. 109. Trường Chính trị Tô Hiệu thành phố Hải Phòng (2015), Báo cáo tổng kết năm học 2014 - 2015 và phương hướng nhiệm vụ 2016-2017, Hải Phòng. 110. Trường Chính trị Tô Hiệu thành phố Hải Phòng (2015), Cơ cấu tổ chức bộ máy, tại trang [truy cập 22/06]. 111. Trường Chính trị thành phố Cần Thơ (2015), Báo cáo tổng kết năm học 2014 - 2015 và phương hướng nhiệm vụ 2016-2017, Cần Thơ. 112. Trường Chính trị thành phố Cần Thơ (2015), Cơ cấu tổ chức bộ máy, tại trang cantho.gov.vn/wps/portal/truongchinhtri/, [truy cập ngày 2/8]. 113. Trịnh Quốc Tuấn, Đỗ Thị Thạch (đồng chủ biên) (2008), Khoa học giới - Những vấn đề lý luận và thực tiễn, Nxb Lý luận - Hành chính, Hà Nội. 114. Trịnh Quốc Tuấn (chủ nhiệm) (2010), Sự bình đẳng giới trong đội ngũ cán bộ, công chức và viên chức ở Việt Nam. Đề tài khoa học cấp cơ sở, Viện chủ nghĩa xã hội - Học viện Chính trị - Hành chính quốc gia Hồ Chí Minh, Hà Nội. 115. Lê Tuấn (2011), "Gỡ bỏ những rào cản để nữ trí thức phát triển", Tạp chí Cộng sản online, tại trang [truy cập ngày 20/7]. 116. UNIFEM (United Nations Development Fun Women) (2008) (Quỹ Phát triển Phụ nữ của Liên Hợp quốc), Giới và Trách nhiệm giải trình, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội. 117. UNIFEM (United Nations Development Fun Women) (2008) (Quỹ Phát triển Phụ nữ của Liên Hợp quốc), "Đảm bảo các mục tiêu phát triển thiên nhiên kỷ phụ vụ toàn thể nhân dân: Các phương pháp tiếp cận đáp ứng Giới dựa trên các quyền con người", Hội thảo quốc tế, Đại học quốc gia Hà Nội, Hà Nội. 163 118. UN Women (2010), (United Nations Entity for Gender Equality and the Empowerment of Women), Pháp luật của chúng ta có thể thúc đẩy bình đẳng giới, Sổ tay nghiên cứu rà soát pháp luật dựa trên công ước CEDEW, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội. 119. UN Women (2012), Báo cáo Suy nghĩ về bình đẳng giới và quyền con người trong công tác đánh giá, Đỗ Thị Vinh dịch, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội. 120. Vụ các Trường Chính trị (Học viện Chính trị - Hành chính quốc gia Hồ Chí Minh) (2011), Khảo sát, đánh giá kết quả triển khai thực hiện chương trình, giáo trình trung cấp lý luận chính trị-hành chính và quy chế, quy định quản lý đào tạo ở các trường chính trị tỉnh, thành phố khu vực miền núi phía bắc, Báo cáo kết quả đề tài khoa học cơ sở, Học viện Chính trị Hà chính quốc gia Hà Nội, Hà Nội. 121. Vụ các Trường Chính trị (Học viện Chính trị - Hành chính quốc gia Hồ Chí Minh) (2013), Khảo sát, đánh giá kết quả triển khai thực hiện chương trình, giáo trình trung cấp lý luận chính trị-hành chính và quy chế, quy định quản lý đào tạo ở các trường chính trị tỉnh, thành phố khu vực miền Tây Nam Bộ, Báo cáo kết quả đề tài khoa học cơ sở, Học viện Chính trị Hà chính quốc gia Hà Nội, Hà Nội. 122. Đàm Đức Vượng, Nguyễn Viết Thông (2010), Xây dựng đội ngũ trí thức Việt Nam giai đoạn 2011- 2020, Báo cáo tổng hợp kết quả nghiên cứu của đề tài KX04.16/06-10, Hà Nội. 123. Đức Vượng (2014), Thực trạng và giải pháp xây dựng đội ngũ nữ trí thức Việt Nam trong sự nghiệp đổi mới, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội. 124. V.I. Lênin (1997), Toàn tập, tập 8, Nxb Tiến bộ, Matxcova 125. V.I.Lênin (1997), Toàn tập, tập 36, Nxb Tiến bộ, Matxcova. 164 PHỤ LỤC Phụ lục 1 Số lượng nữ trí thức của một số trường chính trị tham gia các hoạt động nghiên cứu khoa học khác trong năm học 2014 - 2015 Trí thức tham gia Nữ trí thức tham gia Tên hoạt động nghiên cứu khoa học Người Tỷ lệ % Người Tỷ lệ % Viết sách tình hình nhiệm vụ địa phương 70 17,9 8 11,1 Viết lịch sử trường, địa phương 20 5,1 4 20,0 Viết bài tham gia Hội thảo khoa học cấp tỉnh và các bài phản biện các đề tài nghiên cứu khoa học 173 44,1 71 41,0 Viết bài cho báo, tạp chí TW, địa phương, nội san 209 53,3 134 64,1 Nguồn: Kết quả xử lý số liệu khảo sát đề tài luận án: Nữ trí thức trong các trường chính trị ở Việt Nam hiện nay, năm 2015 [56]. Phụ lục 2 Những lý do nữ trí thức nên tham gia vào công tác lãnh đạo, quản lý các cấp ở trường chính trị Đơn vị: % STT Lý do Đồng ý Không đồng ý 1 Đảm bảo bình đẳng giới trong lãnh đạo, quản lý 84,0 16,0 2 Các quan điểm sẽ đảm bảo quyền lợi và lợi ích cho phụ nữ hiệu quả hơn 71,7 28,3 3 Phát huy được sức mạnh tổng hợp của cả hai giới 72,7 27,3 4 Lý do khác (ghi rõ) Nữ tham gia sẽ tạo động lực tốt hơn trong thực hiện nhiệm vụ chung của nhà trường, Nguồn: Kết quả xử lý số liệu khảo sát đề tài luận án: Nữ trí thức trong các trường chính trị ở Việt Nam hiện nay, năm 2015 [56]. 165 Phụ lục 3 Những điểm mạnh của nữ trí thức khi tham gia công tác lãnh đạo, quản lý các cấp ở trường chính trị Đơn vị: % STT Điểm mạnh Đồng ý Không đồng ý 1 Quyết đoán 17,2 82,8 2 Chuyên môn cao 23,4 76,6 3 Có nhiều thời gian cho quản lý 18,8 81,2 4 Cầu thị, biết lắng nghe 42,0 58,0 5 Năng động 31,0 69,0 6 Nhẹ nhàng, gần gũi mọi người 74,6 25,4 7 Cẩn thận, tỷ mỉ, kiên trì 58,1 41,9 8 Có trách nhiệm cao 37,5 62,5 Nguồn: Kết quả xử lý số liệu khảo sát đề tài luận án: Nữ trí thức trong các trường chính trị ở Việt Nam hiện nay, năm 2015 [56]. Phụ lục 4 Kết quả học tập của học viên Trường Chính trị tỉnh Phú Thọ (Chỉ tính riêng với các lớp đào tạo) 2010-2011 2011-2012 2012-2013 2013-2014 2014-2015 Năm học Kết quả XL học tập của HV (%) (%) (%) (%) (%) Giỏi 32.97 13.03 13.52 18.07 12.57 Khá 59.30 75.96 78.88 68.88 63.91 Trung bình 7.73 11.01 7.60 13.05 23.52 Nguồn: Phòng Đào tạo, Trường Chính trị tỉnh Phú Thọ 166 Phụ lục 5 Nguyên nhân nữ trí thức ít có cơ hội tham gia nghiên cứu khoa học hơn nam giới Nữ Nam Tổng số Nguyên nhân Người % Người % Người % Thiếu chính sách ưu tiên, khuyến khích nữ giới trong nghiên cứu khoa học 56 77,8 16 22,2 72 100 Năng lực nghiên cứu khoa học của nữ giới thấp hơn nam giới 16 66,7 8 33,3 24 100 Nữ giới thiếu tự tin 40 71,4 16 28,6 56 100 Nữ giới ít người có học vị, chức danh khoa học cao so với nam giới 15 15,0 03 11,7 18 100 Nữ giới muốn giành thời gian cho gia đình 81 59,1 56 40,9 137 100 Nữ giới chưa thực sự vươn lên 24 24 16 40,0 40 100 Nguyên nhân khác 19 54,3 16 45,7 35 100 Nguồn: Kết quả xử lý số liệu khảo sát đề tài luận án: Nữ trí thức trong các trường chính trị ở Việt Nam hiện nay, 2015 [56]. 167 Phụ lục 6 HỌC VIỆN CHÍNH TRỊ QUỐC GIA HỒ CHÍ MINH PHIẾU TRƯNG CẦU Ý KIẾN Nữ trí thức trong các trường chính trị tỉnh, thành phố đã và đang đóng vai trò quan trọng trong công tác đào tạo, bồi dưỡng cán bộ cho hệ thống chính trị cấp cơ sở ở Việt Nam. Với mong muốn tìm hiểu về nữ trí thức, vai trò của nữ trí thức trong các trường chính trị tỉnh, thành phố, nghiên cứu sinh Nguyễn Thị Lan đã lựa chọn đề tài: Nữ trí thức trong các trường chính trị tỉnh, thành phố ở Việt Nam hiện nay để nghiên cứu. Để góp phần thực hiện tốt đề tài luận án, nghiên cứu sinh kính mong nhận được sự cộng tác và ủng hộ nhiệt tình của các Anh/Chị. Ý kiến của Anh/Chị sẽ đóng góp và đặt cơ sở quan trọng cho việc thực hiện thành công luận án của nghiên cứu sinh. Xin Anh/Chị cho biết ý kiến của mình thông qua việc trả lời các câu hỏi đã được chuẩn bị sẵn. Tất cả thông tin về ý kiến của Anh/Chị chỉ nhằm mục đích nghiên cứu. Xin trân trọng cảm ơn Anh/Chị. A. THÔNG TIN CHUNG 1. Giới tính:Nam  .Nữ  2. Đơn vị công tác:. 3. Chức vụ: + Đảng: + Chính quyền: + Đoàn thể:. 4. Trình độ chuyên môn và chức danh khoa học của Anh/Chị hiện này là: + Cử nhân:  + Thạc sĩ:  + Tiến sỹ:  + Phó giáo sư:  + Giáo sư:  5. Trình độ lý luận chính trị của Anh/Chị hiện nay là: + Cử nhân chính trị:  + Cao cấp:  + Trung cấp:  + Sơ cấp:  6. Xin Anh/Chị hãy cho biết quốc gia mà Anh/Chị đã được đào tạo các chương trình học sau: + Đào tạo Đại học: ....... + Đào tạo Cao học:... + Đào tạo Nghiên cứu sinh: + Được Phong hàm:. 168 7. Mức độ sử dụng ngoại ngữ của Anh/Chị hiện nay như thế nào? (Đánh dấu (x) vào ô mức độ Mức độ sử dụng Các ngoại ngữ Thành thạo Chưa thành thạo Không sử dụng Tiếng Anh Tiếng Pháp Tiếng Trung Tiếng Nga Ngoại ngữ khác (ghi rõ) B. NỘI DUNG 1. Với chức danh giảng viên, Anh/Chị vui lòng cho biết chức danh giảng dạy hiện nay? STT Chức danh giảng dạy 1 Giảng viên tập sự  2 Giảng viên  3 Giảng viên chính  4 Giảng viên cao cấp  2. Anh/Chị đã và đang tham gia giảng dạy các chương trình đào tạo, bồi dưỡng nào sau đây? STT Chương trình đào tạo, bồi dưỡng 1 Đào tạo, bồi dưỡng cán bộ lãnh đạo, quản lý của hệ thống chính trị cơ sở  2 Đào tạo Trung cấp Lý luận chính trị - Hành chính cho cán bộ lãnh đạo, quản lý của hệ thống chính trị cơ sở  3 Bồi dưỡng, cập nhật kiến thức cho Đại biểu Hội đồng nhân dân cấp xã, huyện  4 Bồi dưỡng, cập nhật kiến thức, kỹ năng lãnh đạo quản lý chuyên môn, nghiệp vụ cho các chức danh cán bộ lãnh đạo của hệ thống chính trị cơ sở  5 Đào tạo tiền công vụ đối với công chức dự bị; bồi dưỡng chuyên viên và các chức danh tương đương  6 Bồi dưỡng nghiệp vụ, phương pháp giảng dạy cho giảng viên Trung tâm bồi dưỡng chính trị cấp huyện  7 Tất cả các chương trình trên  169 3. Anh/Chị vui lòng cho biết về thời gian giảng dạy tại trường chính trị tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương? STT Số năm công tác 1 Dưới 05 năm  2 Từ 05 năm đến 10 năm  3 Trên 10 năm  4. Anh/Chị hãy cho biết số lượng tiểu luận tốt nghiệp cuối khóa mà Anh/Chị) đã hướng dẫn cho học viên trong năm học 2014 - 2015? 5. Anh/Chị hãy cho biết những hoạt động khoa học nào dưới đây Anh/Chị đã tham gia từ năm 2008 đến 2015? STT Hoạt động khoa học 1 Đề tài nghiên cứu khoa học cấp cơ sở  2 Đề tài nghiên cứu khoa học cấp tỉnh  3 Viết giáo trình các bài thuộc phần tình hình nhiệm vụ địa phương  4 Viết lịch sử trường, địa phương  5 Viết bài tham gia Hội thảo khoa học các cấp và các bài phản biện các đề tài nghiên cứu khoa học  6 Viết bài cho báo, tạp chí ở Trung ương, địa phương, nội san của trường chính trị  7 Tất cả các phương án trên  6. Anh/Chị tham gia các đề tài nghiên cứu khoa học cấp cơ sở từ 2008 đến 2015 với tư cách nào dưới đây? STT Năm Chủ nhiệm ĐT Thư ký ĐT Thành viên 1 2008    2 2009    3 2010    4 2011    5 2012    6 2013    7 2014    8 2015    170 7. Anh/Chị tham gia các đề tài nghiên cứu khoa học cấp tỉnh từ năm 2008 đến 2015 với tư cách nào dưới đây? STT Năm Chủ nhiệm ĐT Thư ký ĐT Thành viên 1 2008    2 2009    3 2010    4 2011    5 2012    6 2013    7 2014    8 2015    8. Theo Anh/Chị cơ hội tham gia nghiên cứu khoa học của nữ trí thức so với nam trí thức của nhà trường: 1. Ít hơn  2. Bằng nhau  3. Cao hơn  9. Nếu nữ trí thức có cơ hội tham gia ít hơn so với nam giới, theo Anh/Chị vì những nguyên nhân nào dưới đây: STT Nguyên nhân 1 Thiếu chính sách ưu tiên, khuyến khích nữ giới trong nghiên cứu khoa học  2 Năng lực nghiên cứu khoa học của nữ giới thấp hơn nam giới  3 Nữ giới thiếu tự tin  4 Nữ giới ít người có học vị, chức danh khoa học cao so với nam giới  5 Nữ giới muốn giành thời gian cho gia đình  6 Nữ giới chưa thực sự vươn lên  10. Theo Anh/chị trong công tác lãnh đạo, quản lý các cấp của nhà trường nên có sự tham gia của phụ nữ không? 1. Có  2. Không  Nếu có, xin Anh/chị hãy cho biết lý do vì sao? STT Lý do Đồng ý Không đồng ý 1 Đảm bảo bình đẳng giới trong lãnh đạo, quản lý 2 Các quan điểm sẽ đảm bảo quyền lợi và lợi ích cho phụ nữ hiệu quả hơn 3 Phát huy được sức mạnh tổng hợp của cả hai giới 4 Lý do khác (ghi rõ) 171 11. Xin Anh/Chị hãy cho biết những điểm mạnh của nữ trí thức khi tham gia công tác lãnh đạo, quản lý các cấp của nhà trường? STT Điểm mạnh Đồng ý Không đồng ý 1 Quyết đoán 2 Chuyên môn cao 3 Có nhiều thời gian cho quản lý 4 Cầu thị, biết lắng nghe 5 Năng động 6 Nhẹ nhàng, gần gũi mọi người 7 Cẩn thận, tỷ mỉ, kiên trì 8 Có trách nhiệm cao 12. Trong gia đình của Anh/chị hiện nay, xin Anh/chị hãy cho biết những công việc sau đây do vợ hay chồng đảm nhận chính? STT Công việc gia đình Vợ đảm nhận chính Chồng đảm nhận chính Như nhau 1 Công việc nội trợ: - Chợ búa - Dọn dẹp nhà cửa - Rửa bát - Nấu ăn - Giặt giũ 2 Chăm sóc con cái: - Cho con ăn uống - Đưa con đi học - Giúp con học 3 Chăm sóc sức khỏe người già/ốm 13. Anh/chị hãy cho biết việc đảm bảo yếu tố đời sống vật chất và đời sống tinh thần khi công tác tại trường chính trị có ảnh hưởng trực tiếp đến chất lượng lao động của Anh/chị không? 1. Có  2. Không  172 Phụ lục 7 KẾT QUẢ XỬ LÝ SỐ LIỆU KHẢO SÁT A. THÔNG TIN CHUNG TT Nội dung Số lượng Tỷ lệ % 1 Giới tính: 1, Nam 2, Nữ 205 220 48,2 51,8 2 Đơn vị công tác: 1, Trường chính trị tỉnh Lào Cai 2, Trường Chính trị tỉnh Phú Thọ 3, Trường Chính trị Tô Hiệu thành phố Hải Phòng 4, Trường Chính trị tỉnh Nghệ An 5, Trường Chính trị tỉnh Quảng Ngãi 6, Trường Chính trị tỉnh Đăk Lăk 7, Trường Chính trị tỉnh Tây Ninh 8, Trường Chính trị thành phố Cần Thơ 45 59 55 61 43 49 50 63 10,6 13,9 13,0 14,4 10,1 11,5 11,8 14,8 3 Chức vụ: 1, Đảng (Bí thư/Phó bí thư Chi bộ, Bí thư/Phó bí thư Đảng bộ) 2, Chính quyền (Trưởng/Phó khoa, phòng, Hiệu trưởng/Hiệu phó) 3, Đoàn thể (Chủ tịch/Phó chủ tịch Công đoàn, Cựu chiến binh, Bí thư/phó bí thư Đoàn TNCS Hồ Chí Minh) 128 189 48 35,1 51,8 13,1 4. Trình độ chuyên môn và chức danh khoa học: 1, Cử nhân 2, Thạc sĩ 3, Tiến sỹ 4, PGS, GS 175 242 8 - 41,2 56,9 1,4 - 5 Trình độ lý luận chính trị: 1, Cử nhân chính trị 2, Cao cấp 3, Trung cấp 4, Sơ cấp 32 152 148 93 7,5 35,8 34,8 21,9 6. Nước được đào tạo: 1, Việt Nam - Đại học và cao học - Tiến sĩ, PGS và GS 2, Nước ngoài - Đại học và cao học - Tiến sĩ, PGS và GS 415 7 2 1 97,7 1,7 0,4 0,2 7. Mức độ sử dụng ngoại ngữ: 1, Thành thạo 2, Chưa thành thạo 3, Không sử dụng 14 394 17 3,3 92,7 4,0 173 B. NỘI DUNG 1. Với chức danh giảng viên, Anh/Chị vui lòng cho biết chức danh giảng dạy hiện nay? STT Chức danh giảng dạy Số lượng Tỷ lệ 1 Giảng viên tập sự 9 3,1 2 Giảng viên 168 57,9 3 Giảng viên chính 111 38,3 4 Giảng viên cao cấp 2 0,7 2. Anh/Chị đã và đang tham gia giảng dạy những chương trình đào tạo, bồi dưỡng nào sau đây? STT Chương trình đào tạo, bồi dưỡng Số lượng Tỷ lệ 1 Đào tạo, bồi dưỡng cán bộ lãnh đạo, quản lý của hệ thống chính trị cơ sở 64 11,1 2 Đào tạo Trung cấp Lý luận chính trị - Hành chính cho cán bộ lãnh đạo, quản lý của hệ thống chính trị cơ sở 281 48,7 3 Bồi dưỡng, cập nhật kiến thức cho Đại biểu Hội đồng nhân dân cấp xã, huyện 68 11,8 4 Bồi dưỡng, cập nhật kiến thức, kỹ năng lãnh đạo quản lý chuyên môn, nghiệp vụ cho các chức danh cán bộ lãnh đạo của hệ thống chính trị cơ sở 47 8,1 5 Đào tạo tiền công vụ đối với công chức dự bị; bồi dưỡng chuyên viên và các chức danh tương đương 64 11,2 6 Bồi dưỡng nghiệp vụ, phương pháp giảng dạy cho giảng viên Trung tâm bồi dưỡng chính trị cấp huyện 53 9,1 3. Anh/Chị vui lòng cho biết về thời gian giảng dạy tại trường chính trị tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương? STT Số năm công tác Số lượng Tỷ lệ 1 Dưới 05 năm 73 25,1 2 Từ 05 năm đến 10 năm 107 36,9 3 Trên 10 năm 110 38,0 174 4. Anh/Chị hãy cho biết số lượng tiểu luận tốt nghiệp cuối khóa mà Anh/Chị) đã hướng dẫn cho học viên trong năm học 2014 - 2015? STT Số tiểu luận Số lượng Tỷ lệ 1 Nam 112 51,4 2 Nữ 106 48,6 5. Anh/Chị hãy cho biết những hoạt động khoa học nào dưới đây Anh/Chị đã tham gia từ năm 2008 đến 2015? STT Hoạt động khoa học Số lượng Tỷ lệ 1 Đề tài nghiên cứu khoa học cấp cơ sở 386 28,7 2 Đề tài nghiên cứu khoa học cấp tỉnh 54 4,0 3 Viết giáo trình các bài thuộc phần tình hình nhiệm vụ địa phương 142 10,5 4 Viết lịch sử trường, địa phương 49 3,6 5 Viết bài tham gia Hội thảo khoa học các cấp và các bài phản biện các đề tài nghiên cứu khoa học 345 25,6 6 Viết bài cho báo, tạp chí ở Trung ương, địa phương, nội san của trường chính trị 370 27,6 6. Anh/Chị tham gia các đề tài nghiên cứu khoa học cấp cơ sở từ 2008 đến 2015 với tư cách nào dưới đây? Chủ nhiệm đề tài Thư ký đề tài Thành viên Năm Số lượng Tỷ lệ Số lượng Tỷ lệ Số lượng Tỷ lệ 2008 48 12,8 48 12,8 280 74,5 2009 46 12,3 46 12,3 284 75,4 2010 48 12,9 48 12,9 276 74,2 2011 51 13,7 51 13,7 272 72,6 2012 49 13,0 49 13,0 281 74,0 2013 49 13,0 49 13,0 281 74,0 2014 51 13,3 51 13,3 283 73,4 2015 52 13,5 52 13,5 282 73,0 175 7. Anh/Chị tham gia các đề tài nghiên cứu khoa học cấp tỉnh từ năm 2008 đến 2015 với tư cách nào dưới đây? Chủ nhiệm đề tài Thư ký đề tài Thành viên Năm Số lượng Tỷ lệ Số lượng Tỷ lệ Số lượng Tỷ lệ 2008 8 15,1 8 15,1 37 69,8 2009 8 14,8 8 14,8 38 70,4 2010 8 15,1 8 15,1 37 69,8 2011 7 13,0 7 13,0 40 74,0 2012 7 12,5 7 12,5 42 75,0 2013 7 12,7 7 12,7 41 74,6 2014 8 15,1 8 15,1 39 69,8 2015 8 14,8 8 14,8 38 70,4 8. Theo Anh/Chị cơ hội tham gia nghiên cứu khoa học của nữ trí thức so với nam trí thức của nhà trường: Cơ hội tham gia Ít hơn Bằng nhau Cao hơn Số lượng 138 151 76 9. Nếu nữ trí thức có cơ hội tham gia ít hơn so với nam giới, theo Anh/Chị vì những nguyên nhân nào dưới đây: Nữ Nam Tổng số Nguyên nhân Người % Người % Người % Thiếu chính sách ưu tiên, khuyến khích nữ giới trong nghiên cứu khoa học 56 77,8 16 22,2 72 100 Năng lực nghiên cứu khoa học của nữ giới thấp hơn nam giới 16 66,7 8 33,3 24 100 Nữ giới thiếu tự tin 40 71,4 16 28,6 56 100 Nữ giới ít người có học vị, chức danh khoa học cao so với nam giới 15 15,0 03 11,7 18 100 Nữ giới muốn giành thời gian cho gia đình 81 59,1 56 40,9 137 100 Nữ giới chưa thực sự vươn lên 24 24 16 40,0 40 100 Nguyên nhân khác 19 54,3 16 45,7 35 100 176 10. Theo Anh/chị trong công tác lãnh đạo, quản lý các cấp của nhà trường nên có sự tham gia của phụ nữ không? Phương án Tỷ lệ (%) Phương án Tỷ lệ (%) 1. Có 99 2. Không 1,0 Nếu có, xin Anh/chị hãy cho biết lý do vì sao? STT Lý do Đồng ý Không đồng ý 1 Đảm bảo bình đẳng giới trong lãnh đạo, quản lý 84,0 16,0 2 Các quan điểm sẽ đảm bảo quyền lợi và lợi ích cho phụ nữ hiệu quả hơn 71,7 28,3 3 Phát huy được sức mạnh tổng hợp của cả hai giới 72,7 27,3 4 Lý do khác (ghi rõ) Nữ tham gia sẽ tạo động lực tốt hơn trong thực hiện nhiệm vụ chung của nhà trường, 11. Xin Anh/Chị hãy cho biết những điểm mạnh của nữ trí thức khi tham gia công tác lãnh đạo, quản lý các cấp của nhà trường? STT Điểm mạnh Đồng ý Không đồng ý 1 Quyết đoán 17,2 82,8 2 Chuyên môn cao 23,4 76,6 3 Có nhiều thời gian cho quản lý 18,8 81,2 4 Cầu thị, biết lắng nghe 42,0 58,0 5 Năng động 31,0 69,0 6 Nhẹ nhàng, gần gũi mọi người 74,6 25,4 7 Cẩn thận, tỷ mỉ, kiên trì 58,1 41,9 8 Có trách nhiệm cao 37,5 62,5 177 12. Trong gia đình của Anh/chị hiện nay, xin Anh/chị hãy cho biết những công việc sau đây do vợ hay chồng đảm nhận chính? STT Công việc gia đình Vợ đảm nhận chính (%) Chồng đảm nhận chính (%) Như nhau (%) 1 Công việc nội trợ: - Chợ búa - Dọn dẹp nhà cửa - Rửa bát - Nấu ăn - Giặt giũ 92,0 0,2 7,8 2 Chăm sóc con cái: - Cho con ăn uống - Đưa con đi học - Giúp con học 64,7 11,2 24,1 3 Chăm sóc sức khỏe người già/ốm 87,2 5,4 7,4 13. Anh/chị hãy cho biết việc đảm bảo yếu tố đời sống vật chất và đời sống tinh thần khi công tác tại trường chính trị có ảnh hưởng trực tiếp đến chất lượng lao động của Anh/chị không? Phương án Tỷ lệ (%) Phương án Tỷ lệ (%) 1. Có 74,5 2. Không 25,5

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • pdfluan_an_nu_tri_thuc_trong_cac_truong_chinh_tri_tinh_thanh_ph.pdf
Tài liệu liên quan