HỌC VIỆN CHÍNH TRỊ QUỐC GIA HỒ CHÍ MINH
NGUYỄN THỊ LAN
NỮ TRÍ THỨC TRONG CÁC TRƯỜNG CHÍNH TRỊ
TỈNH, THÀNH PHỐ Ở VIỆT NAM HIỆN NAY
LUẬN ÁN TIẾN SĨ
CHUYÊN NGÀNH: CHỦ NGHĨA XÃ HỘI KHOA HỌC
HÀ NỘI - 2017
HỌC VIỆN CHÍNH TRỊ QUỐC GIA HỒ CHÍ MINH
NGUYỄN THỊ LAN
NỮ TRÍ THỨC TRONG CÁC TRƯỜNG CHÍNH TRỊ
TỈNH, THÀNH PHỐ Ở VIỆT NAM HIỆN NAY
LUẬN ÁN TIẾN SĨ
CHUYÊN NGÀNH: CHỦ NGHĨA XÃ HỘI KHOA HỌC
Mã số: 62 22 03 08
NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC: PGS.TS. ĐỖ THỊ THẠCH
HÀ NỘI - 2017
LỜ
182 trang |
Chia sẻ: huong20 | Ngày: 14/01/2022 | Lượt xem: 394 | Lượt tải: 2
Tóm tắt tài liệu Luận án Nữ trí thức trong các trường chính trị tỉnh, thành phố ở Việt Nam hiện nay, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
I CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan đây là công trình nghiên cứu của
riêng tôi. Các số liệu, kết quả nêu trong luận án là trung thực,
có nguồn gốc rõ ràng và được trích dẫn đầy đủ theo quy định.
Tác giả
Nguyễn Thị Lan
MỤC LỤC
Trang
MỞ ĐẦU 1
Chương 1: TỔNG QUAN TÌNH HÌNH NGHIÊN CỨU LIÊN QUAN ĐẾN ĐỀ
TÀI LUẬN ÁN 7
1.1. Những công trình nghiên cứu ở trong nước có liên quan đến đề tài luận án 7
1.2. Những công trình nghiên cứu ở nước ngoài có liên quan đến luận án 22
1.3. Đánh giá những công trình tổng quan và những vấn đề luận án tiếp tục
làm sáng tỏ 26
Chương 2: ĐẶC ĐIỂM, VAI TRÒ VÀ NHỮNG YẾU TỐ TÁC ĐỘNG ĐẾN
NỮ TRÍ THỨC TRONG CÁC TRƯỜNG CHÍNH TRỊ Ở VIỆT NAM HIỆN NAY 31
2.1. Quan niệm về nữ trí thức, nữ trí thức trong các trường chính trị ở Việt Nam 31
2.2. Đặc điểm và vai trò của nữ trí thức trong các trường chính trị ở Việt Nam
hiện nay 35
2.3. Những yếu tố tác động đến vai trò của nữ trí thức trong các trường chính trị 55
Chương 3: THỰC TRẠNG THỰC HIỆN VAI TRÒ CỦA NỮ TRÍ THỨC
TRONG CÁC TRƯỜNG CHÍNH TRỊ VÀ NHỮNG VẤN ĐỀ ĐẶT RA
HIỆN NAY 68
3.1. Thực trạng thực hiện vai trò của nữ trí thức trong các trường chính trị
hiện nay 68
3.2. Những vấn đề đặt ra đối với phát huy vai trò nữ trí thức trong các trường
chính trị hiện nay 97
Chương 4: QUAN ĐIỂM CƠ BẢN VÀ GIẢI PHÁP CHỦ YẾU NHẰM PHÁT
HUY VAI TRÒ NỮ TRÍ THỨC TRONG CÁC TRƯỜNG CHÍNH TRỊ Ở
VIỆT NAM HIỆN NAY 114
4.1. Quan điểm cơ bản phát huy vai trò nữ trí thức trong các trường chính trị ở
Việt Nam hiện nay 114
4.2. Những giải pháp chủ yếu nhằm phát huy vai trò của nữ trí thức trong các
trường chính trị hiện nay 121
4.3. Đề xuất một số khuyến nghị 142
KẾT LUẬN 148
DANH MỤC CÔNG TRÌNH CỦA TÁC GIẢ ĐÃ CÔNG BỐ LIÊN QUAN
ĐẾN LUẬN ÁN 151
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO 152
PHỤ LỤC 164
DANH MỤC CÁC BẢNG
Trang
Bảng 2.1: Một số trường chính trị có tỷ lệ nữ trí thức thấp trong tổng số
đội ngũ trí thức của nhà trường 41
Bảng 2.2: Một số trường chính trị có số lượng nữ trí thức chiếm tỷ lệ cao
trong tổng số đội ngũ trí thức nhà trường 42
Bảng 2.3: Trình độ học vấn của nữ trí thức ở một số trường chính trị
trong cả nước 45
Bảng 3.1: Chức danh giảng dạy của nữ giảng viên ở một số trường
chính trị 69
Bảng 3.2: Nữ trí thức ở một số trường chính trị tham gia các chương
trình đào tạo, bồi dưỡng 72
Bảng 3.3: Số lượng lớp và chất lượng đào tạo, bồi dưỡng của một số
trường chính trị trong năm học 2015 - 2016 77
Bảng 3.4: Số lượng nữ trí thức tham gia đề tài nghiên cứu khoa học cấp
cơ sở ở một số trường chính trị 81
Bảng 3.5: Số lượng nữ trí thức tham gia đề tài nghiên cứu khoa học cấp
tỉnh, thành phố ở một số trường chính trị từ năm 2008 đến 2015 82
Bảng 3.6: Số lượng nam/nữ trí thức tham gia đề tài nghiên cứu khoa học
cấp tỉnh, thành phố ở một số trường chính trị 84
Bảng 3.7: Số lượng nữ trí thức tham gia Ban chấp hành Đảng bộ ở một
số trường chính trị nhiệm kỳ 2010 - 2015 và 2015 - 2020 91
Bảng 3.8: Số lượng nữ trí thức tham gia Ban Giám hiệu ở một số trường
chính trị hiện nay 92
1
MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài luận án
Ở Việt Nam, hiện nay có 63 trường chính trị tỉnh, thành phố trực thuộc
Trung ương (sau đây gọi chung là trường chính trị), được Đảng, Nhà nước
giao thực hiện chức năng, nhiệm vụ là tổ chức đào tạo, bồi dưỡng cán bộ lãnh
đạo, quản lý của hệ thống chính trị cấp cơ sở, cán bộ, công chức ở địa phương
về lý luận chính trị - hành chính; đường lối, các nghị quyết, chỉ thị của Đảng,
chính sách và pháp luật của Nhà nước; kiến thức và chuyên môn, nghiệp vụ
về công tác xây dựng Đảng, chính quyền, Mặt trận Tổ quốc và các đoàn thể
chính trị - xã hội; kiến thức về pháp luật và quản lý nhà nước và một số lĩnh
vực khác [17].
Thực hiện đường lối đổi mới của Đảng, cùng với sự phát triển đi lên
của đất nước, trong những năm qua hệ thống các trường chính trị đã không
ngừng phát triển, có nhiều đóng góp tích cực, hiệu quả vào sự nghiệp đào tạo,
bồi dưỡng đội ngũ cán bộ trong hệ thống chính trị ở cơ sở, từng bước đáp ứng
yêu cầu đặt ra của sự nghiệp đổi mới đất nước. Những kết quả đạt được trong
việc thực hiện nhiệm vụ chính trị của các trường chính trị tỉnh, thành phố có
sự đóng góp quyết định của đội ngũ trí thức nói chung và nữ trí thức nói riêng
đang làm việc ở các cơ sở đó.
Là một bộ phận chủ lực trong công tác đào tạo, nghiên cứu khoa học,
lãnh đạo, quản lý trong các trường chính trị, trong những năm qua, được sự
quan tâm của các cấp ủy đảng, chính quyền, nhà trường và sự vươn lên của
bản thân, đội ngũ nữ trí thức các trường chính trị không ngừng phát triển cả
về số lượng, cơ cấu và chất lượng. Họ đã và đang làm việc hăng say, nhiệt
huyết với tinh thần, trách nhiệm cao nhất trong thực hiện nhiệm vụ chuyên
môn. Một số chị đã trở thành nhà giáo ưu tú, giáo viên dạy giỏi toàn quốc; có
chị trở thành nhà quản lý giỏi với cương vị là thủ trưởng đơn vị. Hiện nay, nữ
2
trí thức các trường chính trị tham gia công tác lãnh đạo, quản lý từ cấp khoa,
phòng trở lên chiếm trên 20%, trong đó cán bộ quản lý cấp trường chiếm tỷ lệ
khoảng 8%; tỷ lệ có học hàm, học vị cũng được tăng lên, Những đóng góp
của các chị góp phần không nhỏ vào thành tích to lớn của các nhà trường
trong công tác đào tạo cán bộ của Đảng, nghiên cứu khoa học cấp cơ sở, qua
đó góp phần khẳng định vị thế, vai trò của nữ trí thức Việt Nam nói chung
trong tiến trình xây dựng đất nước.
Tuy nhiên, từ thực tiễn ở các trường chính trị hiện nay, cho thấy, đội
ngũ nữ trí thức ở đây, chưa thực sự phát huy hết tiềm năng, vai trò; chưa đáp
ứng được yêu cầu khách quan của sự nghiệp đào tạo cán bộ lãnh đạo, quản lý
cấp cơ sở cũng như công tác nghiên cứu khoa học phục vụ phát triển kinh tế -
xã hội địa phương. Tỷ lệ nữ trí thức ở các trường chính trị có trình độ đại học
trở lên chiếm ưu thế tuyệt đối (100%), nhưng càng ở bậc cao, tỷ lệ này càng
thấp đi, thậm chí rất thấp (tiến sỹ chỉ khoảng 2%, chỉ có 12,1% nhà giáo ưu
tú, chưa có nữ giáo sư, phó giáo sư...). Số lượng nữ trí thức người dân tộc
thiểu số chiếm tỷ lệ rất thấp. Phần lớn nữ trí thức có trình độ cao đều đã ở tuổi
cao, nữ trí thức trẻ làm lãnh đạo, quản lý nhà trường còn ít. Trình độ ngoại
ngữ, tin học, kiến thức, kỹ năng, năng lực lãnh đạo, quản lý của một bộ phận
không nhỏ nữ trí thức chưa tương xứng với yêu cầu phân cấp quản lý công
việc ở các trường chính trị hiện nay,
Bất cập trên do nhiều nguyên nhân, như nhận thức xã hội về vai trò của
nữ trí thức chưa có sự công bằng so với nam trí thức; môi trường, điều kiện
làm việc, cơ chế, chính sách có tính đặc thù cho nữ trí thức trong các trường
chính trị còn hạn chế; do sự tự ty, an phận của một bộ phận không nhỏ nữ trí
thức v.v.. Vì vậy, trước yêu cầu của sự nghiệp đào tạo đội ngũ cán bộ cho cấp
cơ sở, nâng cao chất lượng về chuyên môn, nghiệp vụ, cũng như công tác
nghiên cứu khoa học góp phần phát triển kinh tế - xã hội ở địa phương, cần
3
phải phát huy vai trò của toàn thể đội ngũ cán bộ các nhà trường, trong đó có
vai trò quan trọng của đông đảo nữ trí thức các trường chính trị là rất cần
thiết, đòi hỏi phải có các giải pháp toàn diện, động bộ, khả thi.
Tuy nhiên, cho đến nay, ở nước ta chưa có một công trình nào nghiên
cứu cụ thể về nữ trí thức trong các trường chính trị. Đây là một khoảng trống
cần nhận được sự quan tâm của các nhà nghiên cứu, của Đảng, Nhà nước, các
địa phương. Là một giảng viên đang giảng dạy tại trường chính trị, tác giả đã
lựa chọn đề tài “Nữ trí thức trong các trường chính trị tỉnh, thành phố ở
Việt Nam hiện nay” làm đề tài luận án tiến sĩ, chuyên ngành Chủ nghĩa xã
hội khoa học với mong muốn góp phần đề xuất các hướng phát triển đội ngũ
nữ trí thức các trường chính trị đáp ứng yêu cầu đào tạo cán bộ của Đảng,
Nhà nước hiện nay.
2. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu của luận án
2.1. Mục đích
Trên cơ sở lý luận và thực tiễn về vai trò của nữ trí thức trong các
trường chính trị ở Việt Nam, luận án đề xuất một số quan điểm cơ bản, giải
pháp chủ yếu góp phần phát huy vai trò nữ trí thức trong các trường chính trị
đáp ứng yêu cầu nhiệm vụ đào tạo cán bộ lãnh đạo, quản lý của hệ thống
chính trị cấp cơ sở hiện nay.
2.2. Nhiệm vụ
Thứ nhất, làm rõ đặc điểm, vai trò và những yếu tố tác động đến nữ trí
thức trong các trường chính trị ở Việt Nam hiện nay.
Thứ hai, phân tích thực trạng thực hiện vai trò của nữ trí thức trong các
trường chính trị ở Việt Nam hiện nay và những vấn đề đặt ra.
Thứ ba, đề xuất các quan điểm cơ bản, những giải pháp chủ yếu nhằm
phát huy vai trò nữ trí thức trong các trường chính trị ở Việt Nam đáp ứng yêu
4
cầu, nhiệm vụ đào tạo cán bộ lãnh đạo, quản lý của hệ thống chính trị cấp cơ
sở hiện nay.
3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
3.1. Đối tượng nghiên cứu
Đối tượng nghiên cứu: Đội ngũ nữ trí thức trong các trường chính trị ở
Việt Nam (vai trò, thực hiện vai trò).
3.2. Phạm vi nghiên cứu
- Về không gian: Hiện nay, cả nước có 63 trường chính trị tỉnh, thành
phố trực thuộc Trung ương. Tuy nhiên, trong luận án tác giả đã lựa chọn tiến
hành nghiên cứu, khảo sát nữ trí thức ở 08 trường chính trị đại diện cho các
vùng miền trong cả nước.
Phía Bắc: Trường Chính trị tỉnh Lào Cai, Trường Chính trị tỉnh Phú Thọ,
Trường Chính trị Tô Hiệu thành phố Hải Phòng.
Miền Trung và Tây Nguyên: Trường Chính trị tỉnh Nghệ An, Trường
Chính trị tỉnh Quảng Ngãi, Trường Chính trị tỉnh Đắk Lắk.
Phía Nam: Trường Chính trị tỉnh Tây Ninh và Trường Chính trị thành phố
Cần Thơ.
- Về thời gian: Luận án nghiên cứu nữ trí thức trong các trường chính trị
từ năm 2008 đến nay (Từ khi có Quyết định 184-QĐ/TW, ngày 03/9/2008 của
Ban Chấp hành Trung ương Đảng về Chức năng, nhiệm vụ, tổ chức bộ máy
của các trường chính trị tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương).
- Về nội dung: Nữ trí thức trong các trường chính trị hiện nay tham gia
vào nhiều hoạt động khác nhau của nhà trường từ giảng dạy lý luận chính trị,
nghiên cứu khoa học, lãnh đạo, quản lý, công tác quản trị văn phòng, công tác
tài chính kế toán, Tuy nhiên, trong giới hạn của luận án, tác giả chỉ tập trung
nghiên cứu vai trò, thực hiện vai trò của nữ trí thức trong các trường chính trị
5
trên 03 lĩnh vực chủ yếu: (1) Hoạt động đào tạo, (2) Hoạt động nghiên cứu
khoa học và (3) Hoạt động lãnh đạo, quản lý của nhà trường.
4. Cơ sở lý luận và phương pháp nghiên cứu
4.1. Cơ sở lý luận
Luận án được thực hiện dựa trên cơ sở lý luận của Chủ nghĩa Mác -
Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, quan điểm của Đảng Cộng sản Việt Nam về đội
ngũ trí thức, nữ trí thức, vai trò của đội ngũ nữ trí thức.
Luận án tham khảo các kết quả nghiên cứu của các nhà khoa học ở trong
nước và nước ngoài liên quan đến đối tượng nghiên cứu của luận án.
4.2. Phương pháp nghiên cứu
Trên cơ sở phương pháp luận chủ nghĩa duy vật biện chứng, chủ nghĩa
duy vật lịch sử, luận án sử dụng phương pháp phân tích, tổng hợp, thống kê, so
sánh và một số phương pháp liên ngành.
Luận án sử dụng phương pháp điều tra xã hội học, gồm 01 mẫu phiếu
khảo sát, với số lượng: 425 phiếu; phạm vi: 08 trường chính trị tỉnh, thành phố
đã được lựa chọn ở mục phạm vi không gian; đối tượng phiếu khảo sát: 220 nữ
trí thức và 205 nam trí thức là cán bộ giảng viên, chuyên viên, lãnh đạo, quản
lý các cấp của nhà trường; kết quả khảo sát (Phụ lục 7).
5. Đóng góp mới về khoa học của luận án
Một là, luận án góp phần làm rõ đặc điểm, vai trò, điểm mạnh, điểm hạn
chế trong thực hiện vai trò của nữ trí thức trong các trường chính trị hiện nay;
chỉ rõ những vấn đề đặt ra đối với việc phát huy vai trò của nữ trí thức trong
các trường chính trị hiện nay.
Hai là, luận án góp phần đề xuất một số giải pháp, khuyến nghị nhằm
phát huy vai trò của nữ trí thức trong các trường chính trị đáp ứng yêu cầu
trong công tác đào tạo cán bộ cấp cơ sở hiện nay.
6
6. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn của luận án
Luận án cung cấp một số cơ sở lý luận, thực tiễn góp phần trong xây
dựng và thực hiện chính sách đối với nữ trí thức trong các trường chính trị nói
riêng, nữ trí thức làm công tác lý luận chính trị nói chung.
Luận án có thể dùng làm tài liệu tham khảo trong việc nghiên cứu,
giảng dạy và học tập những chuyên đề liên quan đến vấn đề con người, đội
ngũ trí thức, nữ trí thức, phụ nữ và các chuyên ngành khác có liên quan.
7. Kết cấu của luận án
Ngoài phần mở đầu, kết luận, danh mục công trình của tác giả đã công
bố liên quan đến luận án, danh mục tài liệu tham khảo và phụ lục, luận án gồm
4 chương, 11 tiết.
7
Chương 1
TỔNG QUAN TÌNH HÌNH NGHIÊN CỨU LIÊN QUAN ĐẾN
ĐỀ TÀI LUẬN ÁN
1.1. NHỮNG CÔNG TRÌNH NGHIÊN CỨU Ở TRONG NƯỚC CÓ LIÊN
QUAN ĐẾN ĐỀ TÀI LUẬN ÁN
1.1.1. Những công trình nghiên cứu tiêu biểu về trí thức
Trong những năm qua, các công trình nghiên cứu về trí thức Việt Nam
rất đa dạng, phong phú, tiêu biểu như:
Hoàng Phê trong cuốn Từ điển Tiếng Việt cho rằng, trí thức là “người
chuyên làm việc lao động trí óc và có chuyên môn cần thiết cho hoạt động
nghề nghiệp của mình” [68]. Cách định nghĩa này đã chỉ ra một số đặc
điểm của trí thức, nhưng, cho đến nay, nó đã bị vượt qua, bởi nó chưa nhấn
mạnh được đặc điểm lao động đặc thù của người trí thức là lao động trí óc
sáng tạo, phức tạp, tạo ra những sản phẩm có giá trị đặc biệt về tinh thần,
vật chất.
Với hai công trình Trí thức Việt Nam trước yêu cầu phát triển đất nước
[44] và Trí thức Việt Nam tiến cùng thời đại [45] của Nguyễn Đắc Hưng đã
làm rõ quan niệm về trí thức; vị trí, vai trò của trí thức; những phương hướng
chủ yếu để xây dựng và phát triển đội ngũ trí thức ở nước ta đáp ứng yêu cầu
của thời đại. Trên cơ sở khẳng định nội hàm rất rộng của khái niệm trí thức,
tác giả đã chỉ rõ: Trí thức là những người không chỉ có trình độ học vấn cao
mà điều quan trọng nhất là họ thực sự lao động bằng trí tuệ có tính sáng tạo,
có những cống hiến nhất định hữu ích cho xã hội và phải được xã hội kiểm
định chất lượng thông qua hoạt động thực tiễn [45, tr.16-17]. Đây là sự đổi
mới tư duy về trí thức, từ chỗ coi trọng trình độ chuyên môn được đào tạo đến
chỗ thừa nhận và đòi hỏi năng lực lao động thực tế thông qua sự kiểm định
khách quan của xã hội.
8
Nguyễn An Ninh, Phát huy tiềm năng của trí thức khoa học xã hội và
nhân văn trong công cuộc đổi mới đất nước [67]. Từ những kiến giải về tiềm
năng của trí thức khoa học xã hội và nhân văn trong giai đoạn hiện nay, tác giả
đã đề xuất những giải pháp thiết thực nhằm phát huy tiềm năng của đội ngũ này
góp phần vào quá trình đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước.
Trong hai công trình nghiên cứu: Xây dựng và phát huy nguồn lực trí tuệ
Việt Nam phục vụ sự nghiệp chấn hưng đất nước [48] và công trình Nguồn lực
trí tuệ Việt Nam - Lịch sử, hiện trạng và triển vọng [49] của Nguyễn Văn
Khánh đã tập trung luận chứng khoa học về vấn đề trí thức, nguồn lực trí tuệ
với cách tiếp cận liên ngành. Đội ngũ trí thức được tác giả quan niệm là tầng
lớp tinh hoa của nguồn lực trí tuệ Việt Nam. Trên cơ sở khảo sát, đánh giá chất
lượng của nguồn nhân lực này, ông đã đưa ra hệ thống giải pháp có ý nghĩa
thiết thực đối với việc xây dựng và phát huy vai trò của nguồn lực trí tuệ đáp
ứng yêu cầu, đòi hỏi của sự nghiệp chấn hưng đất nước.
Nguyễn Khánh Bật, Trần Thị Huyền, Xây dựng đội ngũ trí thức thời
kỳ đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa theo tư tưởng Hồ Chí Minh [10].
Đây là công trình nghiên cứu mang tính chuyên sâu về trí thức dưới góc độ
tư tưởng Hồ Chí Minh. Nhóm tác giả đã khái quát những nội dung cơ bản
trong tư tưởng Hồ Chí Minh về trí thức, làm rõ sự vận dụng sáng tạo của
Đảng và Nhà nước ta trong công tác xây dựng trí thức đồng thời đánh giá
những đóng góp, hạn chế của đội ngũ này trong cách mạng Việt Nam, trên
có sở đó, đi sâu phân tích những giải pháp xây dựng đội ngũ trí thức ở nước
ta thời kỳ 2011 - 2020 đáp ứng yêu cầu của sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện
đại hóa đất nước.
Phạm Tất Dong trong đề tài Luận cứ khoa học cho các chính sách
nhằm phát huy năng lực sáng tạo của giới trí thức và sinh viên [15] đã tập
trung phân tích làm rõ cơ sở lý luận, thực tiễn và tính pháp lý của việc
9
hoạch định chính sách, giải pháp hướng vào việc khơi dậy, khai thác, sử
dụng năng lực sáng tạo của giới trí thức và sinh viên trong hoạt động giáo
dục và đào tạo.
Đàm Đức Vượng, Nguyễn Viết Thông, Xây dựng đội ngũ trí thức Việt
Nam giai đoạn 2011- 2020 [122]. Đây là công trình nghiên cứu công phu và
có hệ thống về trí thức. Trên cơ sở đánh giá tổng thể về thực trạng đội ngũ trí
thức Việt Nam, đề tài đi sâu phân tích, kiến nghị những giải pháp nhằm xây
dựng và phát huy nguồn lực trí tuệ trong thời kỳ đổi mới toàn diện đất nước.
Đề tài đã làm rõ thêm nội hàm của khái niệm trí thức trên bình diện rộng.
Không những chỉ ra tính chất lao động trí óc cùng với những yêu cầu về sự
hiểu biết, trình độ, khát vọng dân chủ, công bằng, tự do và kết quả sáng tạo
trong việc truyền bá, phổ biến, ứng dụng vào đời sống xã hội của trí thức,
các tác giả đề tài còn xác định rõ thiên chức, phẩm chất, tính cách của người
trí thức Việt Nam. Đây là tư liệu quan trọng cho tác giả luận án khi nghiên
cứu về đặc điểm của đội ngũ nữ trí thức ở các trường chính trị ở Việt Nam
hiện nay.
Luận án Trí thức Việt Nam trong phát triển kinh tế tri thức [92] của
Nguyễn Công Trí, đã chỉ ra những đặc trưng, tiêu chí cơ bản để xác định trí
thức, vai trò của đội ngũ này trong điều kiện phát triển kinh tế tri thức. Luận
án xác định, trí thức là người lao động trí óc và thường có trình độ học vấn
cao, được đào tạo hoặc tự đào tạo. Tuy nhiên, “giá trị quan trọng nhất của
người trí thức chân chính đó là chân lý và lẽ phải; trí thức là người tự tin và
ngay thẳng, có lòng tự trọng, khả năng hành xử đúng mực và thích ứng cao
với các biến đổi của môi trường tự nhiên, xã hội” [92, tr.30].
Trần Thị Lan trong cuốn Chất lượng lao động của đội ngũ trí thức giáo
dục đại học Việt Nam [55] đã nêu lên cơ sở lý luận về chất lượng lao động
của trí thức giáo dục đại học; đánh giá thực trạng chất lượng lao động của đội
ngũ trí thức giáo dục đại học Việt Nam và đề xuất những giải pháp cơ bản để
10
nâng cao chất lượng lao động của đội ngũ này. Tác giả luận án cho rằng “trí
thức là một tầng lớp xã hội được đặc trưng bởi phương thức lao động trí óc,
sáng tạo. Họ là lực lượng chủ yếu tham gia trực tiếp vào việc phát kiến, giữ
gìn và truyền bá tri thức góp phần thúc đẩy sự phát triển nhận thức khoa học
và sự tiến bộ của xã hội” [55, tr.26].
Tiếp tục làm rõ quan điểm của chủ nghĩa Mác - Lênin và sự nhận thức
đúng đắn của Đảng ta trong quan điểm về trí thức, một số bài viết đăng trên
các tạp chí trong thời gian qua đã đề cập đến vấn đề này, tiêu biểu như: Đội
ngũ trí thức trong sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước [50];
Những bài học từ quan điểm của Lênin về trí thức [51] của Phan Thanh Khôi;
và Suy ngẫm và nhận thức về vấn đề tri thức [6] của Nguyễn Đức Bách
Đồng thời, nhiều bài viết đã khai thác những khía cạnh mới về chức năng,
nhiệm vụ, chính sách sử dụng, đãi ngộ trí thức và giải pháp phát huy vai trò
của đội ngũ trí thức nhằm đáp ứng đòi hỏi, yêu cầu của quá trình công nghiệp
hóa, hiện đại hóa, hội nhập, phát triển kinh tế tri thức. Có thể kể đến một số
bài viết như có giá trị khoa học như: Mấy vấn đề cần đổi mới tạo động lực và
điều kiện để trí thức nước ta phát huy tài năng trí tuệ [5] của Nguyễn Đức
Bách và Nhà khoa học và sự sáng tạo trong khoa học xã hội [52] của Phan
Thanh Khôi,
Bàn về khái niệm trí thức, Dương Trung Quốc, trong bài viết Đảng và
trí thức - một thoáng nhìn lịch sử [69] đã cho rằng, trí thức phải được coi là
một “phẩm chất” nhiều hơn là một tầng lớp. Do tác động của xu thế phát triển
giáo dục đào tạo, khoa học công nghệ và sự phát triển của “kinh tế tri thức”
làm cho nội hàm của khái niệm “trí thức” cần được mở rộng hơn. Học vấn đã
có cơ hội đến với các giai cấp, tầng lớp trong xã hội, mọi lực lượng lao động
xã hội đều phải coi tri thức là một nhu cầu sống còn của mình.
Những công trình nghiên cứu nêu trên đã cung cấp cơ sở lý luận, thực
tiễn quan trọng để tác giả luận án luận chứng về nữ trí thức, về vai trò của đội
11
ngũ nữ trí thức dưới góc độ là một bộ phận của đội ngũ trí thức trong điều
kiện đổi mới, hội nhập, phát triển kinh tế tri thức và công nghiệp hóa, hiện đại
hóa đất nước.
1.1.2. Những công trình nghiên cứu về phụ nữ, bình đẳng giới và
nữ trí thức
Thứ nhất, những công trình nghiên cứu tiêu biểu về phụ nữ, bình
đẳng giới.
Khi nghiên cứu về phụ nữ, bình đẳng giới ở Việt Nam, các nhà nghiên
cứu đã tiếp cận dưới cả hai góc độ, vị thế, vai trò của phụ nữ trong gia đình
và ngoài xã hội. Một số công trình nghiên cứu về giới, bình đẳng giới ở Việt
Nam đã góp phần nâng cao nhận thức, lý luận và năng lực vận dụng quan
điểm giới, bình đẳng giới vào nghiên cứu những vấn đề đặt ra đối với nữ trí
thức trong các trường chính trị ở Việt Nam hiện nay. Tiêu biểu có thể kể đến
một số công trình như sau:
Cuốn sách Địa vị người phụ nữ trong gia đình nữ trí thức [26] của
Đoàn Thị Bích Điểm đã chỉ ra rằng, vị thế của người phụ nữ ngày càng được
nâng cao trong gia đình so với phụ nữ Việt Nam trong chế độ xã hội cũ. Tuy
nhiên so với nam giới vị thế này vẫn còn kém xa, kể cả trong các gia đình nữ
trí thức. Họ chủ yếu có ưu thế trong việc quyết định những công việc liên
quan đến nội trợ, ít quan trọng hơn như mua thức ăn, quần áo, tiền học cho
con,... Tác giả cũng đã giải thích thực trạng trên là do dựa trên sự phân công
lao động xã hội theo giới. Phụ nữ là lực lượng thường xuyên thực hiện các
công việc nội trợ nên quyết định những công việc này. Đàn ông là trụ cột của
gia đình nên thường lo toan những việc lớn. Điều này đã khẳng định dù có
dân chủ hơn, bình đẳng hơn, các gia đình trong đó có gia đình nữ trí thức vẫn
bị ảnh hưởng bởi các định kiến giới.
Lê Thị Quý trong bài viết Phụ nữ trong đổi mới: Thành tựu và thách
thức [70] cho rằng nhiều nghiên cứu đã luận giải tỷ số chênh lệch giữa nam
12
và nữ với tư cách là lãnh đạo quản lý trong bộ máy nhà nước ở các cấp.
Đồng thời, tác giả bước đầu chỉ ra quan niệm, định kiến giới của một số
cán bộ chính quyền và người dân đối với việc phụ nữ tham gia lãnh đạo.
Nghiên cứu này đã cung cấp một số cơ sở cho đề tài khi nghiên cứu nữ trí
thức tham gia vào lĩnh vực lãnh đạo quản lý trong các trường chính trị ở
Việt Nam hiện nay.
Trong bài viết Chất lượng nguồn nhân lực nữ qua lăng kính giới [30]
của Lưu Song Hà, Phan Thị Thu Hà đã phân tích chất lượng nguồn nhân lực
nữ ở Việt Nam từ những khía cạnh thể lực, trí lực và tâm lực. Từ kết quả
nghiên cứu thực tiễn, nhóm tác giả đã đề xuất một số giải pháp nhằm góp
phần nâng cao chất lượng nguồn nhân lực nữ và bình đẳng giới. Nghiên cứu
này góp phần gợi mở cho tác giả luận án về những giải pháp nhằm nâng cao
việc thực hiện vai trò của nữ trí thức các trường chính trị trong việc thực hiện
nhiệm vụ chính trị được giao.
Đỗ Thị Thạch trong bài Tăng cường sự tham gia của phụ nữ trong
công tác lãnh đạo, quản lý ở nước ta hiện nay [79], đã nhấn mạnh ở Việt
Nam, cùng với tiến trình lịch sử của dân tộc, phụ nữ luôn phát huy vai trò
và tỏ rõ khả năng của mình trên mọi lĩnh vực của đời sống xã hội, góp phần
tích cực vào sự nghiệp phát triển chung của đất nước. Trong công cuộc đổi
mới hiện nay, vai trò của phụ nữ càng cần phải phát huy hơn bao giờ hết,
nhất là trong lãnh đạo, quản lý, vì phụ nữ vừa có tiềm năng, năng lực, vừa
có truyền thống trong lịch sử, vừa là yêu cầu chung trong sự nghiệp phát
triển đất nước.
Thứ hai, những công trình nghiên cứu về nữ trí thức
Nữ trí thức Việt Nam một bộ phận của trí thức Việt Nam, là bộ phận
tinh hoa của phụ nữ Việt Nam, cùng với đội ngũ trí thức và phụ nữ Việt Nam,
cho đến nay, nhiều nhà khoa học trong nước đã dày công nghiên cứu, bỏ nhiều
tâm huyết để tìm hiểu, đánh giá và tìm ra các giải pháp hữu hiệu nhằm khai thác
13
tiềm năng, phát huy vai trò của đội ngũ nữ trí thức Việt Nam. Tiêu biểu có thể
kể đến một số công trình như sau:
Đỗ Thị Thạch trong công trình Phát huy nguồn lực nữ trí thức Việt
Nam trong sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa [74] đã làm rõ quan niệm
về trí thức, nữ trí thức. Tác giả, đã phân tích những phẩm chất trí tuệ, cũng
như những yếu tố tác động đến sự phát triển trí tuệ của nữ trí thức; những
đóng góp của họ đối với sự phát triển của gia đình và đất nước, v.v... Từ đó,
tác giả đã đề xuất một số giải pháp nhằm phát huy nguồn lực nữ trí thức Việt
Nam trong sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước. Đây là công
trình đã có một cách tiếp cận mới, góp phần làm rõ quá trình hình thành và
đặc điểm của nguồn lực nữ trí thức Việt Nam; góp phần quan trọng trong việc
xóa bỏ định kiến giới, khẳng định vai trò to lớn của nguồn lực nữ trí thức đối
với sự phát triển của xã hội, tiến tới thực hiện mục tiêu bình đẳng giới ở nước
ta hiện nay. Công trình là tư liệu nghiên cứu quan trọng cho cách tiếp cận của
luận án.
Trần Thị Minh Đức với công trình Thực trạng nữ trí thức Việt Nam
trong sự nghiệp phát triển đất nước [27] đã đề cập đến cơ sở thực tiễn và
những vấn đề lý luận quan trọng của việc nghiên cứu nữ trí thức Việt Nam
trong phát triển đất nước. Nghiên cứu đã tập trung phân tích đặc điểm, cơ
cấu xã hội của đội ngũ nữ trí thức, vai trò của họ trong một số lĩnh vực tiêu
biểu được coi là thế mạnh. Đồng thời, tác giả cũng chỉ ra vai trò không thể
thay thế của nữ trí thức làm điểm nhấn khác biệt với nam trí thức đó là
chức năng làm vợ, thiên chức làm mẹ. Vai trò "kép” của nữ trí thức vừa là
hạnh phúc vừa là thách thức đối với họ cần phải hội tụ nhiều biện pháp mới
vượt qua.
Khẳng định vai trò to lớn của nữ trí thức đối với sự phát triển của đất
nước, và đưa ra những kiến nghị chính sách đối với Đảng và Nhà nước, tại
14
Hội thảo khoa học của Hội Liên hiệp Phụ nữ Việt Nam và Đại học Quốc gia
Hà Nội Nữ trí thức Việt Nam đối với sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa
đất nước [40] được tổ chức tại thủ đô Hà Nội. Hội thảo đã tập hợp được rất
nhiều quan điểm, bài viết có giá trị nói về những đóng góp to lớn của nữ trí
thức trên mọi lĩnh vực đời sống xã hội trong những năm qua. Đồng thời, nhiều
bài tham luận đã chỉ rõ thách thức đối với nữ trí thức và những rào cản đang
cản trở bước tiến của họ. Theo ý kiến của nhiều tác giả, những thách thức và
các rào cản nảy sinh từ định kiến giới trong xã hội; từ gia đình và bản thân
người phụ nữ. Trên cơ sở đó, nhiều nhà khoa học trong Hội thảo cũng đã đề
ra những giải pháp phát triển nữ trí thức trong tương lai để tiến kịp sự phát
triển của nam giới.
Đề tài nghiên cứu khoa học Vai trò, vị thế của nữ trí thức trong quá
trình công nghiệp hóa ở Việt Nam [95] của Trung tâm Nghiên cứu phụ nữ -
Trường Cán bộ Phụ nữ Trung ương (nay là Học viên Phụ nữ Việt Nam) đã
chỉ rõ, mặc dù so với nam giới, vị thế của phụ nữ còn thấp, kể cả trong gia
đình trí thức, nhưng xu hướng trong gia đình nữ trí thức, mối quan hệ vợ
chồng là mối quan hệ dân chủ, bình đẳng, tôn trọng lẫn nhau,... Như vậy, sự
hiểu biết, tri thức có vai trò quan trọng trong xây dựng mối quan hệ bình đẳng
giới trong gia đình.
Tại Hội thảo của Liên hiệp các Hội khoa học và Kỹ thuật Việt Nam
Giải pháp nâng cao vai trò của nữ trí thức trong hoạt động khoa học và
công nghệ giai đoạn 2015-2020 [39], các đại biểu đã được nghe 05 báo cáo
của các nhà nghiên cứu, khoa học và các ý kiến đóng góp sôi nổi của nữ trí
thức thuộc Hội Nữ trí thức Việt Nam. Trong đó, báo cáo “Giải pháp phát
huy vai trò của nữ trí thức trong giảng dạy, nghiên cứu lý luận chính trị”
của tác giả Nguyễn Thị Báo đã cung cấp nhiều thông tin, đưa ra nhiều giải
pháp cụ thể để phát huy hơn nữa vai trò của nữ trí thức trong lĩnh vực nghiên
15
cứu, giảng dạy lý luận chính trị. Đây là một tài liệu hữu ích, có giá trị tham
khảo quan trọng cho luận án.
Trong công trình Nữ trí thức với sự nghiệp phát triển đất nước [83] của
Nguyễn Thị Việt Thanh đã tập hợp một số tham luận được thực hiện trong
khuôn khổ đề tài khoa học độc lập cấp Nhà nước “Phát huy vai trò và vị thế
của nguồn nhân lực nữ trí thức trong sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa
và hội nhập quốc tế”. Các bài tham luận đã mang đến cái nhìn khoa học về
những vấn đề khác nhau. Nhiều tham luận đã có giá trị khoa học cao khi áp
dụng các phương pháp hiện đại, nghiên cứu nữ trí thức từ góc độ một nguồn
lực lao động quan trọng của đất nước, nhưng lại có những đặc tính riêng về
giới, với những thuận lợi nhưng cũng có nhiều trở ngại, thách thức nảy sinh
khi phải cố gắng dung hòa giữa chức năng của người phụ nữ trong gia đình và
vai trò của một cá thể độc lập trong xã hội. Công trình này đã cung cấp cho
luận án phương pháp tiếp cận khoa học hiện đại khi nghiên cứu, đánh giá nữ
trí thức trong các trường chính trị ở Việt Nam hiện nay.
Nguyễn Đình Tấn trong bài viết Vai trò của nữ trí thức trong quá trình
công nghiệp hóa, hiện đại hóa [73] đã cho rằng: Nữ trí thức là bộ phận hợp
thành của tầng lớp trí thức (họ mang tất cả những đặc trưng cơ bản của người
trí thức nói chung. Họ là những người có đặc trưng về giới tính là phụ nữ, có
đủ trình độ kiến thức, chuyên môn cần thiết cho hoạt động nghề nghiệp và
làm việc trong lĩnh vực trí óc), có vai trò quan trọng trên mọi mặt của đời
sống xã hội và gia đình; họ là một lực lượng lao động trí tuệ hùng hậu, v.v...
có đóng góp tích cực vào quá trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước.
Lưu Song Hà trong bài viết Nữ trí thức với gia đình và sự nghiệp [29]
đã đề cập đến vai trò “kép” của phụ nữ, đồng thời cũng đã so sánh vai trò
này đối với nữ trí thức. Bên cạnh nhiều thành công thì nữ trí thức gặp nhiều
khó khăn, thách thức khi phải gánh trên vai nhiều chức phận, những rào cản
16
từ việc thực hiện...nam - nữ). Do vậy, khi
định nghĩa về trí thức có thể ứng dụng để nhận diện cả nam trí thức và nữ trí
thức. Tuy nhiên, theo tác giả luận án quan niệm này mới chỉ cho thấy đặc
điểm của nữ trí thức dưới góc độ là một người trí thức, nhưng chưa chỉ ra
được nét đặc thù riêng của họ so với nam trí thức nhìn từ góc độ giới.
Quan niệm khác lại cho rằng: “Nữ trí thức là những người có trình độ
cử nhân trở lên, làm công việc liên quan đến hoạt động trí tuệ và có tính sáng
tạo, tạo ra những sản phẩm tinh thần và vật chất có giá trị cho xã hội” [86].
Ở mỗi góc độ khác nhau, có những định nghĩa, quan niệm khác nhau về
nữ trí thức. Trên cơ sở tiếp cận những quan niệm của một số học giả, tác giả
luận án nhận thấy có những điểm chung, thống nhất giữa những nhà nghiên
cứu khi định nghĩa về nữ trí thức như:
Một là, nữ trí thức là bộ phận hợp thành của đội ngũ trí thức. Xét về
bản chất ở họ hội tụ đầy đủ những đặc trưng cơ bản của đội ngũ trí thức nói
chung như: Lao động trí óc, có năng lực tư duy độc lập sáng tạo, có trình độ
học vấn cao về lĩnh vực chuyên môn nhất định,...
Hai là, nữ trí thức là một bộ phận tinh hoa của giới nữ. Họ là lực lượng
tiêu biểu cho giới nữ. Ở họ hội tụ những phẩm chất tốt đẹp đặc trưng của phụ
nữ (đức tính cần cù, chịu thương chịu khó, khéo léo, đảm đang,). Vì vậy "tư
cách trí thức và tư cách nữ gắn bó hữu cơ trong mỗi nữ trí thức nước ta” [74,
tr.20]. Hai đặc điểm trên đã chỉ rõ nữ trí thức vừa là người trí thức, vừa là phụ
nữ, có những điểm đặc thù phân biệt với những người trí thức nói chung.
Như vậy, nữ trí thức là những người có trình độ học vấn cao, đang làm
việc trên các lĩnh vực cơ bản của đời sống xã hội. Họ lao động trí óc là chủ
33
yếu có tính chất sáng tạo và phức tạp tạo ra những sản phẩm tinh thần, vật
chất có giá trị cho xã hội. Nữ trí thức, nhìn từ chiều cạnh giáo dục, họ là
những người có học vấn và trình độ chuyên môn kỹ thuật cao, giỏi kỹ năng,
giàu kinh nghiệm. Họ là một bộ phận quan trọng trong đội ngũ trí thức cả
nước. Nhìn từ chiều cạnh giới tính, họ vừa là bộ phận tiêu biểu về trí tuệ của
phụ nữ Việt Nam, đồng thời là những người vợ, người mẹ, người thầy đầu
tiên của con người, có vai trò vô cùng quan trọng đối với sự nghiệp trồng
người và xây dựng gia đình bền vững.
2.1.2. Quan niệm về nữ trí thức trong các trường chính trị ở Việt Nam
Nữ trí thức trong các trường chính trị hiện nay là một bộ phận của nữ
trí thức Việt Nam, là những người lao động trí óc, có năng lực tư duy độc lập,
sáng tạo; có trình độ học vấn cao; có bản lĩnh chính trị vững vàng, đang trực
tiếp tham gia truyền bá chủ nghĩa Mác-Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, đường
lối, các nghị quyết, chỉ thị của Đảng, chính sách và pháp luật của Nhà nước,
kiến thức và chuyên môn, nghiệp vụ về công tác xây dựng Đảng, chính
quyền, Mặt trận Tổ quốc và các đoàn thể chính trị - xã hội, kiến thức về
pháp luật và quản lý nhà nước và một số lĩnh vực khác cho cán bộ trong hệ
thống chính trị cấp cơ sở trên toàn quốc hiện nay.
Là một bộ phận của nữ trí thức Việt Nam nhưng do sự phân công lao
động xã hội, cơ cấu nghề nghiệp, nữ trí thức trong các trường chính trị vừa có
những đặc điểm chung của nữ trí thức cả nước, vừa có nét riêng mang tính
đặc thù của môi trường công tác, cụ thể:
Thứ nhất, cũng giống như nữ trí thức Việt Nam, nữ trí thức trong các
trường chính trị là những người lao động trí óc, có năng lực tư duy độc lập,
sáng tạo; có trình độ học vấn cao. Tuy nhiên, chuyên ngành được đào tạo
chuyên sâu của đội ngũ này chủ yếu là các ngành khoa học xã hội và nhân
34
văn, lĩnh vực chính trị - xã hội (Triết học, Kinh tế chính trị, Chủ nghĩa xã hội
khoa học, Luật học, Xây dựng Đảng, Lịch sử Đảng, Khoa học hành chính,).
Thứ hai, do xuất phát từ yêu cầu của thực tiễn công việc đảm nhận, nữ
trí thức trong các trường chính trị thường được đào tạo có hệ thống về trình
độ lý luận (từ Trung cấp lý luận chính trị, Cao cấp lý luận chính trị và Cử
nhân chính trị). Đồng thời, đội ngũ này cũng có khả năng góp phần định
hướng trực tiếp cho công tác lý luận của Đảng trong phạm vi hệ thống chính
trị cấp cơ sở.
Thứ ba, ngoài những chuẩn mực đạo đức, nghề nghiệp của nữ trí thức
nói chung, nữ trí thức trong các trường chính trị phải luôn được nhấn mạnh về
bản lĩnh chính trị vững vàng, trung thành với sự nghiệp cách mạng của Đảng,
của nhân dân, có “tâm” với nghề giáo. Bởi lẽ, lực lượng này đang trực tiếp
thực hiện công tác “huấn luyện” cán bộ của Đảng ở cấp cơ sở về lý luận chính
trị - hành chính, đường lối, các nghị quyết, chỉ thị của Đảng, chính sách và
pháp luật của Nhà nước, kiến thức và chuyên môn, nghiệp vụ về công tác xây
dựng Đảng, chính quyền, Mặt trận Tổ quốc và các đoàn thể chính trị - xã hội,
kiến thức về pháp luật và quản lý nhà nước và một số lĩnh vực khác.
Thứ tư, nữ trí thức trong các trường chính trị chủ yếu hoạt động trên
các lĩnh vực: Hoạt động đào tạo (giảng dạy, bồi dưỡng), nghiên cứu khoa học
và lãnh đạo, quản lý. Đối tượng đào tạo của họ là cán bộ lãnh đạo, quản lý của
Đảng, chính quyền, đoàn thể nhân dân cấp cơ sở (xã, phường, thị trấn và các
đơn vị tương đương); trưởng, phó phòng, ban, ngành, đoàn thể cấp huyện và
tương đương; trưởng, phó phòng của sở, ban, ngành, đoàn thể cấp tỉnh và
tương đương; cán bộ dự nguồn các chức danh trên; cán bộ, công chức cấp cơ
sở và một số đối tượng. Trình độ họ tham gia đào tạo là trung cấp lý luận
chính trị - hành chính và bồi dưỡng, cập nhật kiến thức, kỹ năng lãnh đạo,
chuyên môn, nghiệp vụ, cho các đối tượng trên [20].
35
2.2. ĐẶC ĐIỂM VÀ VAI TRÒ CỦA NỮ TRÍ THỨC TRONG CÁC TRƯỜNG
CHÍNH TRỊ Ở VIỆT NAM HIỆN NAY
2.2.1. Chức năng, nhiệm vụ của các trường chính trị
Ngày 05 tháng 09 năm 1994 Ban Bí thư Trung ương Đảng đã ban hành
Quyết định số 88-QĐ/TW về việc thành lập trường chính trị cấp tỉnh, thành
phố trực thuộc Trung ương để tăng cường và thống nhất sự lãnh đạo, quản lý
của các tỉnh, thành ủy và ủy ban nhân dân các tỉnh, thành phố đối với công tác
đào tạo, bồi dưỡng cán bộ. Trường chính trị tỉnh, thành phố trực thuộc Trung
ương được thành lập trên cơ sở hợp nhất trường đảng và trường hành chính
hoặc trường quản lý nhà nước của tỉnh, thành phố, gọi chung là trường chính
trị tỉnh, thành phố.
Căn cứ vào Điều lệ Đảng, căn cứ Quy chế làm việc của Ban Chấp hành
Trung ương, Bộ Chính trị và Ban Bí thư khóa X, Nghị quyết Hội nghị lần thứ
tư Ban Chấp hành Trung ương Đảng (khóa X) về đổi mới, kiện toàn tổ chức
bộ máy các cơ quan Đảng, định hướng về đổi mới tổ chức bộ máy Nhà nước,
Mặt trận Tổ quốc và các đoàn thể chính trị - xã hội, Ban Chấp hành Trung
ương Đảng đã ban hành Quyết định số 184-QĐ/TW ngày 03/9/2008 về “chức
năng, nhiệm vụ, tổ chức bộ máy của trường chính trị tỉnh, thành phố trực
thuộc Trung ương”. Quyết định nêu rõ:
Về vị trí, “Trường chính trị tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương là
đơn vị sự nghiệp trực thuộc tỉnh ủy, thành ủy và ủy ban nhân dân tỉnh, thành
phố, đặt dưới sự lãnh đạo trực tiếp và thường xuyên của ban thường vụ tỉnh
ủy, thành ủy” [20]. Theo đó, trường chính trị có vị trí như một ban, ngành
cấp tỉnh, thành phố, giống như các sở, ban, ngành khác của tỉnh, thành phố.
Nhà trường có con dấu và tài khoản riêng để hoạt động. Tỉnh ủy, thành ủy
quyết định bộ máy biên chế, chính sách đối với cán bộ và học viên của
trường; lãnh đạo, chỉ đạo nội dung, quy hoạch, kế hoạch đào tạo bồi dưỡng
36
cán bộ. Ủy ban nhân dân tỉnh, thành phố quản lý hướng dẫn quy chế đào tạo,
kế hoạch ngân sách, kinh phí đào tạo, cơ sở vật chất và các nhu cầu hoạt
động khác của nhà trường. Về nghiệp vụ, trường chính trị chịu sự chỉ đạo,
hướng dẫn về nghiệp vụ của Học viện Chính trị - Hành chính quốc gia Hồ
Chí Minh (nay là Học viện Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh).
Về chức năng,
Trường chính trị tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương có chức
năng tổ chức đào tạo, bồi dưỡng cán bộ lãnh đạo, quản lý của hệ
thống chính trị cấp cơ sở, cán bộ, công chức ở địa phương về lý
luận chính trị - hành chính; đường lối, các nghị quyết, chỉ thị của
Đảng, chính sách và pháp luật của Nhà nước; kiến thức và chuyên
môn, nghiệp vụ về công tác xây dựng Đảng, chính quyền, Mặt trận
Tổ quốc và các đoàn thể chính trị - xã hội; kiến thức về pháp luật và
quản lý nhà nước và một số lĩnh vực khác [20].
Tại Điều 2 của Quyết định số 184-QĐ/TW đã nêu rõ nhiệm vụ của các
trường chính trị như sau:
Một là, trường có nhiệm vụ đào tạo, bồi dưỡng cán bộ lãnh đạo, quản lý
của Đảng, chính quyền, đoàn thể nhân dân cấp cơ sở (xã, phường, thị trấn và
các đơn vị tương đương); trưởng, phó phòng, ban, ngành, đoàn thể cấp huyện
và tương đương; trưởng, phó phòng của sở, ban, ngành, đoàn thể cấp tỉnh và
tương đương; cán bộ dự nguồn các chức danh trên; cán bộ, công chức cấp cơ
sở và một số đối tượng khác về chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí
Minh; về đường lối của Đảng, chính sách và pháp luật của Nhà nước; về nghị
quyết, chỉ thị của Đảng và Nhà nước và một số lĩnh vực khác.
Hai là, trường có nhiệm vụ đào tạo Trung cấp Lý luận chính trị - Hành
chính cho cán bộ lãnh đạo, quản lý của hệ thống chính trị cấp cơ sở; cán bộ,
công chức, viên chức ở địa phương.
37
Ba là, bồi dưỡng, cập nhật kiến thức, kỹ năng lãnh đạo, chuyên môn,
nghiệp vụ cho các chức danh cán bộ lãnh đạo, quản lý; cán bộ chuyên môn,
nghiệp vụ của các tổ chức đảng, chính quyền, đoàn thể nhân dân cấp cơ sở.
Bốn là, có nhiệm vụ bồi dưỡng, cập nhật kiến thức cho đại biểu hội
đồng nhân dân cấp xã, cấp huyện.
Năm là, đào tạo tiền công vụ đối với công chức dự bị; bồi dưỡng
chuyên viên và các chức danh tương đương.
Sáu là, trường chính trị phối hợp với ban Tuyên giáo tỉnh ủy, thành ủy
trực thuộc Trung ương hướng dẫn và bồi dưỡng nghiệp vụ, phương pháp giảng
dạy cho đội ngũ giảng viên của trung tâm bồi dưỡng chính trị cấp huyện.
Bảy là, tổ chức nghiên cứu khoa học phục vụ giảng dạy, học tập và
tổng kết kinh nghiệm thực tiễn ở địa phương, cơ sở.
Tám là, có nhiệm vụ mở các lớp đào tạo, bồi dưỡng ngoài các đối
tượng đã nêu trên theo chỉ đạo của cấp ủy, chính quyền địa phương.
Theo quy định của Ban Bí thư Trung ương Đảng, trong công tác đào tạo,
bồi dưỡng cán bộ lãnh đạo, quản lý và cán bộ, công chức cấp cơ sở các trường
chính trị cần bám sát chức năng, nhiệm vụ để có thể mở rộng quy mô đào tạo,
quán triệt tốt quan điểm cơ bản của Đảng trong công tác đào tạo cán bộ; thực
hiện hiệu quả việc đa dạng hóa chương trình đào tạo, hình thức đào tạo, bồi
dưỡng, đổi mới nội dung chương trình theo hướng thiết thực.
Cũng tại Điều 3 của Quyết định 184-QĐ/TW ngày 03 tháng 9 năm
2008 của Ban Bí thư Trung ương Đảng khóa X, quy định rõ về cơ cấu tổ chức
bộ máy của các trường chính trị có Ban Giám hiệu (gồm Hiệu trưởng và các
Phó Hiệu trưởng); 04 khoa (Khoa Lý luận Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí
Minh, Khoa Xây dựng Đảng, Khoa Dân vận, Khoa Nhà nước và pháp luật) và
03 phòng chức năng (Phòng Đào tạo, Phòng Nghiên cứu khoa học - Thông tin
- Tư liệu và Phòng Tổ chức - Hành chính - Quản trị) [20].
38
Trên cơ sở về tổ chức bộ máy, nhiệm vụ chính trị thực hiện, Ban
thường vụ các tỉnh ủy, thành ủy xem xét, quyết định cụ thể số biên chế cho
trường với định khung biên chế chung không quá 60 cán bộ, công chức, viên
chức, người lao động. Riêng thành phố Hà Nội, thành phố Hồ Chí Minh, tỉnh
Thanh Hoá, tỉnh Nghệ An, tuỳ theo quy mô có thể nhiều hơn nhưng không
quá 90 người. Trong tổng số biên chế, cán bộ giảng dạy và nghiên cứu phải
chiếm từ 2/3 trở lên.
Ngoài số biên chế theo quy định, trường chính trị được thực hiện chế
độ giảng viên kiêm nhiệm.
Các trường chính trị ở Việt Nam hiện nay đều là những đơn vị có
truyền thống bề dày lịch sử; nơi đào tạo, bồi dưỡng nâng cao trình độ lý luận
chính trị cho nhiều thế hệ cán bộ lãnh đạo, quản lý các cấp ở cơ sở. Cùng với
quá trình trưởng thành và phát triển của nhà trường, đội ngũ trí thức của 63
trường chính trị cũng không ngừng lớn mạnh cả về số lượng và chất lượng,
ngày càng đáp ứng được yêu cầu của sự nghiệp giáo dục, đào tạo, trong đó nữ
trí thức là lực lượng nòng cốt không thể thiếu.
2.2.2. Đặc điểm của nữ trí thức trong các trường chính trị
2.2.2.1. Về nguồn đào tạo
Trong hệ thống các trường chính trị hiện nay, theo thống kê chưa đầy
đủ, đội ngũ nữ trí thức chiếm khoảng 43% tổng số trí thức của cả hệ thống.
Trong đó, có khoảng 13% nữ trí thức được đào tạo, trưởng thành trước thời
kỳ đổi mới và 87% nữ trí thức được đào tạo, trưởng thành trong thời kỳ đổi
mới đất nước [120].
Thực tiễn nguồn đào tạo của đội ngũ nữ trí thức ở các trường chính
trị đã góp phần khẳng định tính đúng đắn, phù hợp trong tư duy của Đảng
về giải phóng và phát huy vai trò của phụ nữ trong sự nghiệp cách mạng.
Hiện nay, nữ trí thức Việt Nam nói chung, nữ trí thức trong các trường
39
chính trị nói riêng đã có những điều kiện thuận lợi nhiều hơn so với thời kỳ
trước. Họ ngày càng được bình đẳng so với nam giới trong thực hiện nhiệm
vụ đào tạo, nghiên cứu khoa học, lãnh đạo, quản lý và các hoạt động khác.
Về cơ bản họ đã được công bằng so với nam giới trong đóng góp và hưởng
thụ. Họ ngày càng được Đảng và Nhà nước, lãnh đạo các địa phương quan
tâm hơn, được đào tạo chính quy, cơ bản và có hệ thống, được bồi dưỡng
về chuyên môn, nghiệp vụ, đáp ứng ngày càng cao yêu cầu thực tiễn của
công việc chuyên môn.
Qua khảo sát cho thấy, nữ trí thức trong các trường chính trị được đào
tạo trong nước là chủ yếu và chiếm số lượng lớn. Chẳng hạn, Trường Chính
trị tỉnh Nghệ An có 34 nữ trí thức (từ đại học trở lên) đều đào tạo ở trong
nước [56]. Trường Chính trị tỉnh Phú Thọ hiện nay có 48 nữ trí thức, trong đó
trình độ đại học: 09, thạc sỹ: 39 (trong đó có 01 nghiên cứu sinh) đều đào tạo
trong nước [103].
Ở các trường chính trị, nữ trí thức được đào tạo trong nước chiếm phần
đông cũng đang là một lợi thế lớn, góp phần thực hiện tốt nhiệm vụ chính trị
mà Học viện Chính trị quốc Gia Hồ Chí Minh và các tỉnh ủy, ủy ban nhân dân
tỉnh, thành ủy, ủy ban nhân dân thành phố giao. Vì, ưu thế nổi bật của bộ
phận này là được trang bị lập trường tư tưởng chính trị vững vàng, có kiến
thức nhất định về lý luận chủ nghĩa Mác - Lênin; được đào tạo chuyên sâu
trong lĩnh vực chuyên môn làm việc, hiểu sâu, rõ hơn tình hình thực tiễn của
đất nước, địa phương,... những phẩm chất này rất cần đối với môi trường công
tác đặc thù tính đảng ở các trường chính trị hiện nay.
Ngoài ra, có một bộ phận nhỏ nữ trí thức trong các trường chính trị
được đào tạo ở nước ngoài (trình độ đại học, trên đại học). Ưu thế của bộ
phận này là họ có năng lực thực hành khá; được tiếp xúc với nền khoa học
tiên tiến, nền văn hóa, giá trị truyền thống của nhiều quốc gia, dân tộc; có
40
trình độ ngoại ngữ tốt; phương pháp, tác phong làm việc khá khoa học; tiếp
cận và sử dụng thành thạo công nghệ thông tin, mức độ vận dụng các
phương pháp giảng dạy tích cực có tính hiệu quả cao,... điều này là rất cần
thiết với yêu cầu sự nghiệp đào tạo, nghiên cứu khoa học, tham gia lãnh đạo,
quản lý trong bối cảnh toàn cầu hóa, hội nhập quốc tế hiện nay. Tuy nhiên, ở
các trường chính trị, số lượng nữ trí thức được đào tạo ở nước ngoài chiếm tỷ
lệ thấp (khoảng 2,7% trong tổng số nữ trí thức của 63 trường), thấp hơn nhiều
so với các đơn vị hành chính sự nghiệp, các sở, ban, ngành, các trường cao
đẳng, đại học đặt trên địa bàn tỉnh, thành phố. Hầu hết các trường chính trị
chưa có nữ trí thức được đào tạo ở nước ngoài. Hiện nay, ở Trường Chính trị
Tô Hiệu thành phố Hải Phòng, có 02 tiến sĩ trong tổng số 32 nữ trí thức,
trong đó có 01 tiến sĩ được đào tạo ở nước ngoài (Trung Quốc) [109]. Đây
cũng là vấn đề cần được quan tâm trong tạo nguồn nữ trí thức ở các trường
chính trị trong thời gian tới.
Nhìn chung, nữ trí thức trong các trường chính trị dù được đào tạo từ
nguồn nào, đều có những điểm mạnh, yếu khác nhau về tác phong, phong
cách làm việc, về tư duy, về trình độ ngoại ngữ, khả năng sử dụng công nghệ
thông tin, về năng lực giảng dạy, khả năng giải quyết công việc, khả năng
nghiên cứu khoa học, lãnh đạo, quản lý,... Trong quá trình phát triển của các
trường chính trị, đòi hỏi đội ngũ này cần có sự hợp tác, giúp đỡ nhau để phát
huy những điểm mạnh, khắc phục những hạn chế, cùng nhau phát huy sức
mạnh tổng hợp của giới nữ, nữ trí thức trong sự nghiệp đào tạo, bồi dưỡng
cán bộ lãnh đạo, quản lý của Đảng, chính quyền và đoàn thể cấp cơ sở.
2.2.2.2. Về số lượng và nhóm tuổi
Một là: Theo số liệu thống kê chưa đầy đủ, trong tất cả 63 trường chính trị
trong cả nước, tỷ lệ nữ trí thức so với nam trí thức cũng không thấp hơn nhiều,
chiếm khoảng 43% trong tổng số đội ngũ trí thức của các trường chính trị.
41
Riêng đối với 08 trường chính trị chúng tôi lựa chọn khảo sát, với
tổng số 425 khách thể là trí thức (diện lấy phiếu), trong đó nữ trí thức là
220, chiếm 51,8% và nam trí thức là 205, chiếm 48,2% [56]. Đồng thời, ở
các vùng miền khác nhau, tỷ lệ nữ trí thức trong tổng số đội ngũ trí thức
của các trường chính trị khác nhau, về cơ bản có thể chia thành 02 nhóm
như sau:
(1) Nhóm các trường chính trị có số lượng nữ trí thức chiếm tỷ lệ thấp
trong tổng số đội ngũ trí thức của nhà trường.
Bảng 2.1: Một số trường chính trị có tỷ lệ nữ trí thức thấp trong tổng số
đội ngũ trí thức của nhà trường
STT Trường chính trị
Tổng số
trí thức
Số lượng nữ trí
thức (người)
Tỷ lệ (%)
1 Tỉnh Quảng Ngãi 43 21 48,8
2 Tỉnh Đăk Lăk 49 19 38,8
3 Tỉnh Tây Ninh 50 17 34,0
4 Thành phố Cần Thơ 63 21 33,3
5 Tổng số 205 78 38,0
Nguồn: Báo cáo tổng kết năm học 2015 - 2016 của các trường chính trị, Vụ Các
trường chính trị - Học viện Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh [96; 106; 107; 111].
Nhìn vào kết quả khảo sát cho biết, 04 trường chính trị có số lượng nữ
trí thức chiếm tỷ lệ thấp hơn so với nam trí thức, trong đó 3/4 nhà trường, có
tỷ lệ nữ trí thức thấp hơn nam trí thức (dưới 40%). Tuy nhiên, so với tỷ lệ
nữ/nam ở một số lĩnh vực khác (lãnh đạo, quản lý, kinh doanh...), sự chênh
lệch giữa nữ trí thức và nam trí thức trong các trường chính trị chưa quá lớn.
Điều này góp phần phản ánh tình hình chung về bình đẳng giới của Việt Nam
trong lĩnh vực giáo dục và đào tạo. Đây cũng là thuận lợi để cả hai giới phấn
42
đấu đóng góp và phát huy vai trò, vị thế của giới mình cho sự trưởng thành
của các nhà trường.
Kết quả khảo sát cũng cho thấy, tỷ lệ nữ trí thức thấp hơn nam trí thức
đều thuộc về các trường chính trị ở phía Nam và khu vực Tây Nguyên. Xét ở
một góc độ nào đó, sự chênh lệch này phản ánh mức độ đóng góp, vai trò, vị
thế của nữ trí thức ở các trường chính trị khu vực phía Bắc và Bắc Trung Bộ
sẽ khác với nữ trí thức của các trường chính trị thuộc khu vực phía Nam, Tây
Nguyên. Đây cũng là vấn đề cần chú ý đối với các tỉnh ủy, ủy ban nhân dân
các tỉnh trong chiến lược phát triển nữ trí thức trong các trường chính trị đối
với các vùng miền khác nhau.
(2) Nhóm các trường có số lượng nữ trí thức chiếm tỷ lệ cao trong
đội ngũ trí thức.
Bảng 2.2: Một số trường chính trị có số lượng nữ trí thức chiếm tỷ lệ cao
trong tổng số đội ngũ trí thức nhà trường
STT Trường Chính trị
Tổng số
trí thức
Số lượng nữ trí
thức (người)
Tỷ lệ
%
1 Tỉnh Lào Cai 45 28 62,2
2 Tỉnh Phú Thọ 59 48 81,4
3 Tô Hiệu thành phố Hải Phòng 55 32 58,2
4 Tỉnh Nghệ An 61 34 55,7
5 Tổng số 220 142 64,5
Nguồn: Báo cáo tổng kết năm học 2015 - 2016 của các trường chính trị, Vụ Các
trường chính trị - Học viện Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh [99; 102; 103; 109].
Qua số liệu cho thấy, hiện nay, Trường Chính trị tỉnh Phú Thọ, số
lượng nữ trí thức chiếm tỷ lệ rất cao (81,4%) trong tổng số đội ngũ trí thức
của nhà trường. Với tỷ lệ áp đảo, một mặt, là ưu thế khi vai trò, vị thế và năng
43
lực của họ được khai thác, sử dụng và phát huy có hiệu quả trong thực hiện
nhiệm vụ chính trị của nhà trường. Mặt khác, tình trạng mất cân đối khá rõ về
số lượng giữa nam/nữ trí thức đã và đang tạo ra những khó khăn không nhỏ
đối với cấp lãnh đạo, quản lý của nhà trường. Ở những đơn vị có đông nữ trí
thức, do đặc thù giới tính, nữ trí thức gặp không ít khó khăn khi tham gia
những nhiệm vụ cần phải đi sớm, về muộn, hoặc đi công tác xa nhà liên
tục,.... Ngoài ra, “bản tính” hay đố kỵ, níu kéo, soi xét lẫn nhau,... giữa nữ trí
thức cũng ảnh hưởng không nhỏ đến không khí đoàn kết của đơn vị và sự
phấn đấu của mỗi cá nhân.
Khác với nhóm thứ nhất, xu hướng nữ trí thức chiếm áp đảo so với
nam trí thức, thường diễn ra có tính chất phổ biến hơn ở một số trường thuộc
khu vực phía Bắc và Bắc Trung Bộ. Qua ý kiến khảo sát, nguyên nhân chủ
yếu là ở khu vực này, phụ nữ được thụ hưởng thành quả của tư tưởng giải
phóng phụ nữ khá sớm, ngay khi nước nhà giành độc lập, nhất là từ sau khi
miền bắc tiến hành xây dựng chủ nghĩa xã hội (1954). Nhờ đó, điều kiện học
tập lên trình độ cao, tham gia công tác xã hội của họ thuận lợi hơn so với
một số vùng, miền khác. Mặt khác, các trường chính trị ở các tỉnh phía Bắc
đều có thời gian ra đời, phát triển lâu hơn so với các trường thuộc khu vực
khác, nhất là khu vực phía Nam, do vậy, việc xây dựng đội ngũ trí thức cũng
thuận lợi hơn.
Hai là: Về nhóm tuổi của nữ trí thức trong các trường chính trị
Đối tượng người học của các trường chính trị là những cán bộ, công
chức, cán bộ lãnh đạo, quản lý trong các cơ quan Đảng, Nhà nước, Mặt trận
và các tổ chức chính trị - xã hội từ tỉnh, thành phố xuống đến xã/phường/thị
trấn. Trong đó, một bộ phận không nhỏ có trình độ học vấn tương đối cao, am
hiểu kiến thức thực tiễn, có khả năng đánh giá, phân tích, tổng kết thực tiễn
cơ sở. Do đó, để đáp ứng được khả năng đào tạo (giảng dạy, bồi dưỡng) lý
44
luận chính trị cho đối tượng này, ngoài trình độ chuyên môn, đội ngũ trí thức,
nữ trí thức trong các trường chính trị cần phải có kiến thức thực tiễn đa dạng,
phong phú; khả năng ứng xử, xử lý tình huống nảy sinh ở cơ sở và phải có
nghiệp vụ sư phạm tốt. Những điều này không chỉ học trong các nhà trường,
qua sách vở mà phải học trong cuộc sống, phải trải nghiệm thực tiễn, do đó,
nhất định phải có thời gian (thâm niên), kinh nghiệm công tác không phải
ngắn đối với trí thức, nữ trí thức.
Đội ngũ nữ trí thức trong các trường chính trị, theo khảo sát, hiện nay
số có tuổi đời trung bình dưới 35 chiếm tỷ lệ cao nhất; sau đó từ 35 đến 45
tuổi; từ 45 tuổi trở lên chiếm tỷ lệ thấp nhất. Sự phân bố trong tháp tuổi
trung bình của nữ trí thức trong các trường chính trị là rất thuận lợi trong
việc thực hiện nhiệm vụ chính trị của nhà trường. Lợi thế của nữ trí thức trẻ
là được đào tạo bài bản, khả năng tiếp cận phương tiện giảng dạy, nghiên
cứu hiện đại và nắm bắt thông tin trong nước, quốc tế nhanh. Tuy nhiên, nữ
trí thức trẻ do thâm niên công tác còn ít, kinh nghiệm thực tiễn chưa nhiều,
đang trong độ tuổi sinh nở, tác động trực tiếp đến hiệu quả thực hiện nhiệm
vụ của họ, đồng thời là những thách thức lớn cho những nhà quản lý, lãnh
đạo các nhà trường trong phân công chuyên môn, đào tạo, bồi dưỡng. Đối
với đội ngũ nữ trí thức ở nhóm tuổi từ 45 trở lên, có ưu thế về kinh nghiệm
công tác, kiến thức thực tiễn trải nghiệm khá phong phú, việc thực hiện chức
năng làm vợ, làm mẹ đã đi vào ổn định,... Họ có điều kiện hơn trong thực
hiện chuyên môn của mình, cũng như giúp đỡ, chia sẻ kinh nghiệm cho thế
hệ trẻ. Tuy nhiên, theo quy định về độ tuổi lao động thì nhóm này sẽ về hưu
trong thời gian gần nhất. Đây cũng là khó khăn đặt ra cho các trường chính
trị trong việc đào tạo đội ngũ nữ trí thức kế cận có đủ chiều sâu kiến thức
chuyên môn và kiến thức thực tiễn phong phú để thực hiện nhiệm vụ của
nhà trường.
45
2.2.2.3. Về trình độ của nữ trí thức
Thứ nhất: Về chuyên môn, nghiệp vụ
Hiện nay, trình độ chuyên môn, nghiệp vụ và trình độ lý luận chính
trị của nữ trí thức trong các trường chính trị có xu hướng ngày càng được
nâng cao, số người có trình độ đại học, sau đại học tăng liên tục qua các
năm, từng bước đáp ứng yêu cầu trong việc thực hiện chức năng, nhiệm vụ
của các nhà trường.
Được sự quan tâm của các cấp lãnh đạo tỉnh, thành phố, ở nhiều trường
chính trị hiện nay nữ trí thức được khuyến khích và tạo điều kiện (vật chất lẫn
tinh thần) khi tham gia học tập, nâng cao trình độ tại các trường đại học và
các Học viện lớn trong và ngoài nước. Sự nhất quán trong chủ trương, chính
sách của lãnh đạo các tỉnh, thành phố và Ban Giám hiệu các trường trong
công tác cán bộ kết hợp với sự nỗ lực của bản thân nữ trí thức đã góp phần
làm thay đổi căn bản về cơ cấu trình độ của nữ trí thức trong các trường chính
trị trong những năm qua.
Bảng 2.3: Trình độ học vấn của nữ trí thức
ở một số trường chính trị trong cả nước
Đơn vị: Người
Tên trường chính trị Đại học Thạc sĩ Tiến sĩ GS, PGS Tổng
Tỉnh Lào Cai 16 11 1 - 28
Tỉnh Phú Thọ 9 39 - - 48
Tô Hiệu (TP.Hải Phòng) 9 21 2 - 32
Tỉnh Nghệ An 12 22 - - 34
Tỉnh Quảng Ngãi 12 8 1 - 21
Tỉnh Đăk Lăk 14 5 - - 19
Tỉnh Tây Ninh 11 6 - - 17
Thành phố Cần Thơ 8 12 1 - 21
Tổng số 91 124 5 220
Nguồn: Tổng hợp kết quả cơ cấu tổ chức của các trường chính trị, Phòng Tổ
chức Quản trị - Hành chính, năm 2015 [100; 101; 104; 105; 97; 108; 110; 112].
46
Số liệu trên đã cho thấy, trình độ của nữ trí thức trong các trường
chính trị có xu hướng ngày càng được nâng lên. Trong đó, tỷ lệ nữ trí thức
có trình độ thạc sỹ có tỷ lệ cao hơn cả trình độ đại học (56,4% so với
41,4%). Có những trường chính trị, tỷ lệ nữ trí thức có trình độ thạc sỹ rất
cao, như Trường Chính trị tỉnh Phú Thọ với 39/48 nữ trí thức, chiếm 81,3%,
gấp 4,3 lần so với nữ trí thức có trình độ đại học. Mặt khác, qua kết quả
khảo sát bước đầu cũng cho thấy, càng lên trình độ cao, tỷ lệ nữ trí thức
càng giảm, thậm chí không có. Theo thống kê chưa đầy đủ năm 2015, trong
tổng số nữ trí thức của 63 trường chính trị, nữ trí thức có trình độ tiến sỹ chỉ
chiếm khoảng 6,7%. Riêng ở 08 trường chính trị thực hiện khảo sát, chỉ có
04/08 trường là có nữ tiến sĩ, với số lượng khá khiêm tốn (05 nữ tiến sĩ),
chiếm 2,2 % tổng số nữ trí thức của 08 trường chính trị. 08/08 trường chưa
có nữ trí thức đạt học hàm giáo sư, phó giáo sư. Trên phạm vi toàn quốc,
trong suốt nhiều năm, 62/63 trường chính trị chưa từng có nữ giáo sư hay
phó giáo sư nào. Duy nhất, Học viện Cán bộ Thành phố Hồ Chí Minh, trước
năm 2014, có một nữ phó giáo sư (PGS,TS Trương Thị Hiền, nguyên Giám
đốc Học viện Cán bộ Thành phố Hồ Chí Minh. Nay chị đã nghỉ quản lý). Sự
thiếu vắng của nữ trí thức có trình độ cao đang phổ biến trong các trường
chính trị trên cả nước, cũng là một trong những rào cản lớn tới chất lượng
của đội ngũ nữ trí thức ở các tỉnh, thành phố hiện nay.
Kết quả khảo sát cũng cho biết, đang có sự khác biệt khá rõ về trình
độ chuyên môn của nữ trí thức ở các trường chính trị theo vùng miền khác
nhau. Nữ trí thức có trình độ thạc sỹ, tiến sĩ chủ yếu tập trung ở các trường
chính trị thuộc vùng Đông Bắc bộ (Trường Chính trị tỉnh Phú Thọ), Bắc
Trung bộ (Trường Chính trị tỉnh Nghệ An) và ở thành phố có tốc độ phát
triển kinh tế khá (Trường Chính trị Tô Hiệu thành phố Hải Phòng). Ở khu
vực phía nam, nhất là khu vực Tây Nguyên, hầu như không có nữ trí thức
47
đạt học vị tiến sĩ, số lượng nữ trí thức có trình độ thạc sĩ cũng còn ít.
Trường Chính trị tỉnh Đăk Lăk có 05/19 nữ thạc sĩ, chiếm 26,3% [97];
Trường Chính trị tỉnh Đắk Nông, chỉ có 2 nữ thạc sĩ, chiếm 25% trong đội
ngũ trí thức [98].
Nhìn chung, trình độ của nữ trí thức trong các trường chính trị đang
được nâng cao, nhưng tốc độ còn chậm; phát triển theo kiểu hình tháp xuôi
mà chưa có đỉnh, nhất là đỉnh cao. Điều này ảnh hưởng không nhỏ tới sự
phát triển của nữ trí thức các trường chính trị, hạn chế việc phát huy vai trò
của đội ngũ này trong việc thực hiện nhiệm vụ chuyên môn, ảnh hưởng đến
công tác đào tạo, bồi dưỡng cán bộ lãnh đạo, quản lý cho hệ thống chính trị
cấp cơ sở. Sự khác biệt này cũng cho thấy có nguyên nhân khách quan, chủ
quan liên quan đến số lượng nữ trí thức trong các trường chính trị mà chúng
tôi đã phân tích ở đặc điểm trên.
Thứ hai: Về lý luận chính trị
Nhằm đáp ứng yêu cầu nhiệm vụ chính trị của nhà trường trong tình
hình mới, những năm qua đội ngũ nữ trí thức các trường chính trị đã tham gia
tích cực trong đào tạo nâng cao trình độ lý luận chính trị, nghiên cứu, nắm bắt
kịp thời chủ trương, đường lối, chính sách, pháp luật của Đảng và Nhà nước;
cập nhật thông tin, bổ sung kiến thức thực tiễn. Về cơ bản nữ trí thức các
trường chính trị đều có trình độ lý luận chính trị từ trung cấp và tương đương
trở lên; nữ trí thức có trình độ cao cấp lý luận chính trị ngày nhiều đáp ứng
yêu cầu về chuẩn hóa cán bộ theo quy định hiện nay. “Trường Chính trị tỉnh
Phú Thọ, xét về trình độ lý luận chính trị, có 01 nữ cử nhân, chiếm 2,3%;
13 nữ có trình độ cao cấp, chiếm 30,2%; 33 nữ có trình độ trung cấp, chiếm
65,2% và có 01 nữ sơ cấp, chiếm 2,3%” [104].
Đa số lãnh đạo của các trường chính trị cho rằng, về cơ bản, trình độ
chuyên môn và trình độ lý luận chính trị của nữ trí thức trong các trường
48
chính trị đã và đang được phát huy trong công tác giảng dạy, nghiên cứu khoa
học, lãnh đạo, quản lý. Tỷ lệ nữ trí thức có trình độ cao cấp lý luận chính trị
khá cao đã được đào tạo khá bài bản về lý luận chính trị, đây là điều kiện rất
cần thiết để nữ trí thức tham gia công tác đào tạo đội ngũ cán bộ trong hệ
thống chính trị cấp cơ sở hiện nay.
Thứ ba: Về trình độ ngoại ngữ, tin học
Ngoại ngữ và tin học là những công cụ cần thiết để nữ trí thức trong
các trường chính trị tiếp cận với tri thức khoa học tiên tiến của thế giới, nâng
cao trình độ, năng lực giảng dạy và nghiên cứu khoa học trong thời kỳ hội
nhập quốc tế, góp phần nâng cao chất lượng và hiệu quả trong công tác đào
tạo cán bộ tron...p ngày 12/12].
47. Jennifer Lewington (2011), “Biết trọng dụng người tài, Canada vượt lên
trước bầy sói”, Tạp chí Thông tin những vấn đề lý luận (phụ nữ lãnh
đạo), (6), tr.9-12.
48. Nguyễn Văn Khánh (2010), Xây dựng và phát huy nguồn lực trí tuệ Việt
Nam phục vụ sự nghiệp chấn hưng đất nước, Nxb Chính trị quốc gia,
Hà Nội.
49. Nguyễn Văn Khánh (2012), Nguồn lực trí tuệ Việt Nam - Lịch sử, hiện
trạng và triển vọng, Nxb Chính trị Quốc gia - Sự thật, Hà Nội.
50. Phan Thanh Khôi (1995), “Đội ngũ trí thức trong sự nghiệp công nghiệp
hóa, hiện đại hóa đất nước”, Tạp chí Nghiên cứu lý luận, Học viện
Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh, (4), tr.31-32.
51. Phan Thanh Khôi (1996), “Những bài học từ quan điểm của Lênin bàn về
trí thức”, Tạp chí Thông tin khoa học xã hội, (4), tr.20-23.
157
52. Phan Thanh Khôi (2002), “Nhà khoa học và sự sáng tạo trong khoa học xã
hội”, Tạp chí Khoa học chính trị, (1), tr.25-28.
53. Phan Thanh Khôi, Đỗ Thị Thạch (đồng chủ biên) (2007), Những vấn đề
giới - từ lịch sử đến hiện đại, Nxb Lý luận chính trị, Hà Nội.
54. Phan Thanh Khôi (2016), "Đội ngũ nữ trí thức trong phát triển bền vững đất
nước", Kết quả nghiên cứu của đề tài độc lập cấp Nhà nước: Vai trò, vị
thế của nữ trí thức Việt Nam trong phát triển bền vững (2014-2016),
Hội Nữ trí thức Việt Nam chủ trì, Tạp chí lý luận, (9), tr.11-15.
55. Trần Thị Lan (2014), Chất lượng lao động của đội ngũ trí thức giáo dục đại
học Việt Nam, Luận án tiến sĩ triết học, Học viện Chính trị quốc gia Hồ
Chí Minh, Hà Nội.
56. Nguyễn Ngọc Lâm (2013), “Phát huy năng lực, trí tuệ của đội ngũ cán bộ
nữ”, Tạp chí Xây dựng Đảng, (10), tr.22-24.
57. Liên Hiệp các hội khoa học kỹ thuật Việt Nam (2014), “Giải pháp nâng cao
vai trò của nữ trí thức trong hoạt động khoa học và công nghệ giai đoạn
2015-2020”. Hội thảo trong nước, Hà Nội.
58. Đinh Thị Tuyết Mai (2013), “Vai trò của nữ trí thức và vấn đề bình đẳng giới
trong giáo dục ở Việt Nam”. Hội thảo nữ trí thức Hà Nội trong sự
nghiệp phát triển thủ đô, Đại học quốc gia, Hà Nội.
59. Hồ Chí Minh (1995), Toàn tập, tập 5, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.
60. Hồ Chí Minh (2002), Toàn tập, tập 6, Nxb Chính trị quốc gia Hà Nội.
61. Nguyễn Hữu Minh (2012), Nhóm giải pháp nâng cao vai trò, vị thế của nữ
trí thức trong phát triển bền vững, chuyên đề độc lập: Jean Munro,
2012. Sự tham gia của phụ nữ trong vai trò lãnh đạo quản lý ở Việt
Nam - Hà Nội, UNDP, tr.25.
62. Nguyễn Hữu Minh (2016), Nữ trí thức với gia đình và sự nghiệp, tại trang
http:www.tapchicongsan.org.vn, [truy cập ngày 16/10].
158
63. Nguyễn Hữu Minh (2016), Vấn đề công bằng và bình đẳng giới đối với nữ trí
thức, Hà Nội, Trung tâm nghiên cứu Giới và phát triển, Hội thảo trong
nước, Học viện Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh, Hà Nội.
64. Ngân hàng Phát triển thế giới (2012), Báo cáo phát triển toàn cầu: Bình
đẳng giới và phát triển.
65. Trần Thị Minh Ngọc (2014), “Phát huy vai trò của nữ trí thức trong công
tác nghiên cứu, giảng dạy lý luận chính trị tại các trường chính trị nước
ta và một số vấn đề đặt ra”. Hội thảo khoa học nữ trí thức Hà Nội trong
sự nghiệp phát triển thủ đô, Đại học quốc gia Hà Nội, Hà Nội.
66. Nhiều tác giả Nga (2009), Về trí thức Nga, La Thành và Phạm Nguyên
Trường dịch. Nxb Trí thức, Hà Nội
67. Nguyễn An Ninh (2008), Phát huy tiềm năng của trí thức khoa học xã hội
và nhân văn trong công cuộc đổi mới đất nước, Nxb Chính trị quốc
gia, Hà Nội.
68. Hoàng Phê (2002), Từ điển tiếng Việt, Nxb Viện Ngôn ngữ học, Hà Nội.
69. Dương Trung Quốc (2008), “Đảng và Trí thức - một thoáng nhìn lịch sử”,
Tạp chí Tia Sáng, (6), tr.9-10.
70. Lê Thị Quý (2006), “Phụ nữ trong đổi mới: Thành tựu và thách thức”, Tạp
chí Khoa học về phụ nữ, (74), tr.15-18.
71. Nguyễn Văn Sách (chủ biên) (2012), Trường Chính trị tỉnh Phú Thọ - 55 năm
xây dựng và phát triển (1957-2012). Đề tài khoa học cấp tỉnh, Phú Thọ.
72. Ngụ Quý Tăng (2001), Kinh tế tri thức xu thế mới của xã hội thế kỷ XXI,
Nxb Đại học quốc gia, Hà Nội.
73. Nguyễn Đình Tấn (2007), “Vai trò của nữ trí thức trong quá trình công
nghiệp hóa, hiện đại hóa”, Tạp chí gia đình và giới, (2), tr.8-12.
74. Đỗ Thị Thạch (2005), Phát huy nguồn lực nữ trí thức Việt Nam trong sự
nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.
159
75. Đỗ Thị Thạch (2010), Tác động của toàn cầu hóa đối với thực hiện bình
đẳng giới ở Việt Nam hiện nay, Đề tài khoa học cấp cơ sở của Viện Chủ
nghĩa xã hội khoa học, Học viện Chính trị - Hành chính quốc gia Hồ
Chí Minh, Hà Nội.
76. Đỗ Thị Thạch (2010), “Trí thức nữ Việt Nam trước yêu cầu đẩy mạnh công
nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước”, Hội thảo nữ trí thức Việt Nam đối
với sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước, Học viện Chính
trị quốc gia Hồ Chí Minh, Hà Nội.
77. Đỗ Thị Thạch (2012), “Đặc điểm của đội ngũ nữ trí thức Việt Nam trong
sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước”, Hội thảo khoa
học, Hà Nội.
78. Đỗ Thị Thạch (2013), “Nữ trí thức Việt Nam trước yêu cầu công nghiệp
hóa, hiện đại hóa và hội nhập quốc tế”, Tạp chí Thông tin Khoa học
chính trị - Hành chính, (1), tr.22-24.
79. Đỗ Thị Thạch (2013), “Tăng cường tham gia của phụ nữ vào lãnh đạo,
quản lý ở nước ta hiện nay”, Tạp chí Cộng sản, (77), tr.13-15.
80. Đỗ Thị Thạch (2016), "Vai trò, vị trí của nữ trí thức Việt Nam trong phát
triển bền vững", Kết quả nghiên cứu của đề tài độc lập cấp Nhà nước:
Vai trò, vị thế của nữ trí thức Việt Nam trong phát triển bền vững (2014-
2016), Hội Nữ trí thức Việt Nam chủ trì, Tạp chí lý luận, (8), tr.10-12.
81. Nguyễn Thị Việt Thanh, Bùi Văn Tuấn (2013), “Quyền phụ nữ qua quy
định pháp luật và chính sách của Đảng, Nhà nước Việt Nam”, Hội
thảo nữ trí thức Hà Nội trong sự nghiệp phát triển thủ đô, Đại học quốc
gia, Hà Nội.
82. Nguyễn Thị Việt Thanh (2013), "Phát huy năng lực, trí tuệ của đội ngũ cán
bộ nữ", Tạp chí Xây dựng Đảng, (10), tr.22-25.
83. Nguyễn Thị Việt Thanh (chủ biên) (2015), Nữ trí thức với sự nghiệp phát
triển đất nước, Nxb Đại học quốc gia, Hà Nội.
160
84. Nguyễn Thị Việt Thanh (2015), Phát huy nguồn nhân lực nữ trí thức trong
sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước và hội nhập quốc tế -
Báo cáo tổng hợp kết quả khoa học công nghệ đề tài KX.03.07/11-15,
Viện Việt Nam học và Khoa học phát triển, Hà Nội.
85. Lê Thi (1998), Phụ nữ và bình đẳng giới trong đổi mới ở Việt Nam, Nxb
Phụ nữ, Hà Nội.
86. Hoàng Bá Thịnh (2010), “Đặc điểm đội ngũ nữ trí thức Việt Nam hiện
nay”, Hội thảo nữ trí thức Việt Nam đối với sự nghiệp công nghiệp hóa,
hiện đại hóa đất nước, Hà Nội.
87. Trương Thị Thông (2013), “Từng bước đổi mới, nâng cao chất lượng đào
tạo, bồi dưỡng cán bộ của các trường chính trị”, Thông tin công tác các
trường chính trị, Vụ các trường chính trị - Học viện Chính trị quốc gia
Hồ Chí Minh, tr.8.
88. Nguyễn Thanh Thủy (2010), “Tăng cường vai trò của nữ trí thức trong vị
trí người lãnh đạo”, Hội thảo nữ trí thức Việt Nam đối với sự nghiệp
công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước, Viện nghiên cứu gia đình và
giới, Hà Nội.
89. Lộc Phương Thủy (2013), “Vài suy nghĩ về nữ trí thức trong lĩnh vực
nghiên cứu khoa học”, Hội thảo nữ trí thức Hà Nội trong sự nghiệp
phát triển thủ đô, Đại học quốc gia, Hà Nội.
90. Võ Thị Bích Thủy (2016), “Một số suy nghĩ về công tác đào tạo bồi dưỡng
đội ngũ giảng viên ở trường Chính trị tỉnh Lâm Đồng”, tại trang http:
//www.truongchinhtrilamdong.vn, [truy cập ngày 22/06].
91. Nguyễn Thanh Thuyên (2016), “Xây dựng đội ngũ giảng viên trường chính
trị đáp ứng yêu cầu của nhiệm vụ mới”, tại trang www.truongchinhtri
bacgiang.vn, [truy cập ngày 22/06].
92. Nguyễn Công Trí (2011), Trí thức Việt Nam trong phát triển kinh tế tri
thức, Luận án tiến sĩ Triết học, Học viện Chính trị - Hành chính quốc
gia Hồ Chí Minh, Hà Nội.
161
93. Phạm Quốc Trụ (2011), “Hội nhập quốc tế: Một số vấn đề lý luận và
thực tiễn”, tại trang nghiencuubiendong.vn, [truy cập ngày 31/8].
94. Trung tâm Hợp tác Nghiên cứu Phát triển Công nghệ Định vị Sử dụng Vệ tinh
(Navis), (2015), “Thống kê giới tính, độ tuổi, vùng miền của các giáo sư,
phó giáo sư từ năm 2011 đến 2015”, tại trang
[truy cập ngày 12/01].
95. Trung tâm Nghiên cứu phụ nữ (2011), Vai trò, vị thế của nữ trí thức trong
quá trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa ở Việt Nam, Đề tài nghiên cứu
khoa học cơ sở, Trường cán bộ phụ nữ Trung ương, Hà Nội.
96. Trường Chính trị tỉnh Đăk Lăk (2015), Báo cáo tổng kết năm học 2014 -
2015 và phương hướng nhiệm vụ 2016-2017, Đăk Lăk.
97. Trường Chính trị tỉnh Đăk Lăk (2015), Cơ cấu tổ chức bộ máy, tại trang
tctdaklak.gov.vn, [truy cập ngày 22/06].
98. Trường Chính trị tỉnh Đăk Nông (2015), Cơ cấu tổ chức bộ máy, tại trang
www.daknong.gov.vn, [truy cập ngày 28/6].
99. Trường Chính trị tỉnh Nghệ An (2015), Báo cáo tổng kết năm học 2014 -
2015 và phương hướng nhiệm vụ 2016-2017, Nghệ An.
100. Trường Chính trị tỉnh Nghệ An (2015), Cơ cấu tổ chức bộ máy, tại trang
truongchinhtrina.gov.vn, [truy cập 22/06].
101. Trường Chính trị tỉnh Lào Cai (2014), Cơ cấu tổ chức bộ máy, Lào Cai.
102. Trường Chính trị tỉnh Lào Cai (2015), Báo cáo tổng kết năm học 2014 -
2015 và phương hướng nhiệm vụ 2016-2017, Lào Cai.
103. Trường Chính trị tỉnh Phú Thọ (2015), Báo cáo tổng kết năm học 2014 -
2015 và phương hướng nhiệm vụ 2016-2017, Phú Thọ.
104. Trường Chính trị tỉnh Phú Thọ (2015), Cơ cấu tổ chức bộ máy, tại trang
[truy cập ngày 22/06].
105. Trường Chính trị tỉnh Quảng Ngãi (2014), Cơ cấu tổ chức bộ máy,
Quảng Ngãi.
106. Trường Chính trị tỉnh Quảng Ngãi (2015), Báo cáo tổng kết năm học 2014 -
2015 và phương hướng nhiệm vụ 2016-2017, Quảng Ngãi.
162
107. Trường Chính trị tỉnh Tây Ninh (2015), Báo cáo tổng kết năm học 2014 -
2015 và phương hướng nhiệm vụ 2016-2017 , Tây Ninh.
108. Trường Chính trị tỉnh Tây Ninh (2015), Cơ cấu tổ chức bộ máy, tại trang
https://truongchinhtri.tayninh.gov.vn, [truy cập ngày 22/06].
109. Trường Chính trị Tô Hiệu thành phố Hải Phòng (2015), Báo cáo tổng kết
năm học 2014 - 2015 và phương hướng nhiệm vụ 2016-2017, Hải Phòng.
110. Trường Chính trị Tô Hiệu thành phố Hải Phòng (2015), Cơ cấu tổ chức bộ
máy, tại trang [truy cập 22/06].
111. Trường Chính trị thành phố Cần Thơ (2015), Báo cáo tổng kết năm học 2014
- 2015 và phương hướng nhiệm vụ 2016-2017, Cần Thơ.
112. Trường Chính trị thành phố Cần Thơ (2015), Cơ cấu tổ chức bộ máy, tại
trang cantho.gov.vn/wps/portal/truongchinhtri/, [truy cập ngày 2/8].
113. Trịnh Quốc Tuấn, Đỗ Thị Thạch (đồng chủ biên) (2008), Khoa học giới -
Những vấn đề lý luận và thực tiễn, Nxb Lý luận - Hành chính, Hà Nội.
114. Trịnh Quốc Tuấn (chủ nhiệm) (2010), Sự bình đẳng giới trong đội ngũ cán
bộ, công chức và viên chức ở Việt Nam. Đề tài khoa học cấp cơ sở,
Viện chủ nghĩa xã hội - Học viện Chính trị - Hành chính quốc gia Hồ
Chí Minh, Hà Nội.
115. Lê Tuấn (2011), "Gỡ bỏ những rào cản để nữ trí thức phát triển", Tạp chí
Cộng sản online, tại trang [truy
cập ngày 20/7].
116. UNIFEM (United Nations Development Fun Women) (2008) (Quỹ Phát
triển Phụ nữ của Liên Hợp quốc), Giới và Trách nhiệm giải trình, Nxb
Chính trị quốc gia, Hà Nội.
117. UNIFEM (United Nations Development Fun Women) (2008) (Quỹ Phát
triển Phụ nữ của Liên Hợp quốc), "Đảm bảo các mục tiêu phát triển
thiên nhiên kỷ phụ vụ toàn thể nhân dân: Các phương pháp tiếp cận đáp
ứng Giới dựa trên các quyền con người", Hội thảo quốc tế, Đại học
quốc gia Hà Nội, Hà Nội.
163
118. UN Women (2010), (United Nations Entity for Gender Equality and the
Empowerment of Women), Pháp luật của chúng ta có thể thúc đẩy bình
đẳng giới, Sổ tay nghiên cứu rà soát pháp luật dựa trên công ước CEDEW,
Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.
119. UN Women (2012), Báo cáo Suy nghĩ về bình đẳng giới và quyền con
người trong công tác đánh giá, Đỗ Thị Vinh dịch, Nxb Chính trị quốc
gia, Hà Nội.
120. Vụ các Trường Chính trị (Học viện Chính trị - Hành chính quốc gia Hồ Chí
Minh) (2011), Khảo sát, đánh giá kết quả triển khai thực hiện chương
trình, giáo trình trung cấp lý luận chính trị-hành chính và quy chế, quy
định quản lý đào tạo ở các trường chính trị tỉnh, thành phố khu vực
miền núi phía bắc, Báo cáo kết quả đề tài khoa học cơ sở, Học viện
Chính trị Hà chính quốc gia Hà Nội, Hà Nội.
121. Vụ các Trường Chính trị (Học viện Chính trị - Hành chính quốc gia Hồ Chí
Minh) (2013), Khảo sát, đánh giá kết quả triển khai thực hiện chương
trình, giáo trình trung cấp lý luận chính trị-hành chính và quy chế, quy
định quản lý đào tạo ở các trường chính trị tỉnh, thành phố khu vực
miền Tây Nam Bộ, Báo cáo kết quả đề tài khoa học cơ sở, Học viện
Chính trị Hà chính quốc gia Hà Nội, Hà Nội.
122. Đàm Đức Vượng, Nguyễn Viết Thông (2010), Xây dựng đội ngũ trí thức
Việt Nam giai đoạn 2011- 2020, Báo cáo tổng hợp kết quả nghiên
cứu của đề tài KX04.16/06-10, Hà Nội.
123. Đức Vượng (2014), Thực trạng và giải pháp xây dựng đội ngũ nữ trí thức
Việt Nam trong sự nghiệp đổi mới, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.
124. V.I. Lênin (1997), Toàn tập, tập 8, Nxb Tiến bộ, Matxcova
125. V.I.Lênin (1997), Toàn tập, tập 36, Nxb Tiến bộ, Matxcova.
164
PHỤ LỤC
Phụ lục 1
Số lượng nữ trí thức của một số trường chính trị tham gia các hoạt động
nghiên cứu khoa học khác trong năm học 2014 - 2015
Trí thức tham gia Nữ trí thức tham gia Tên hoạt động nghiên cứu
khoa học Người Tỷ lệ % Người Tỷ lệ %
Viết sách tình hình nhiệm vụ địa
phương
70 17,9 8 11,1
Viết lịch sử trường, địa phương 20 5,1 4 20,0
Viết bài tham gia Hội thảo khoa
học cấp tỉnh và các bài phản biện
các đề tài nghiên cứu khoa học
173 44,1 71 41,0
Viết bài cho báo, tạp chí TW, địa
phương, nội san
209 53,3 134 64,1
Nguồn: Kết quả xử lý số liệu khảo sát đề tài luận án: Nữ trí thức trong các
trường chính trị ở Việt Nam hiện nay, năm 2015 [56].
Phụ lục 2
Những lý do nữ trí thức nên tham gia vào công tác lãnh đạo, quản lý
các cấp ở trường chính trị
Đơn vị: %
STT Lý do Đồng ý Không đồng ý
1 Đảm bảo bình đẳng giới trong lãnh
đạo, quản lý
84,0 16,0
2 Các quan điểm sẽ đảm bảo quyền
lợi và lợi ích cho phụ nữ hiệu quả
hơn
71,7 28,3
3 Phát huy được sức mạnh tổng hợp
của cả hai giới
72,7 27,3
4 Lý do khác (ghi rõ) Nữ tham gia sẽ tạo động lực tốt
hơn trong thực hiện nhiệm vụ
chung của nhà trường,
Nguồn: Kết quả xử lý số liệu khảo sát đề tài luận án: Nữ trí thức trong các
trường chính trị ở Việt Nam hiện nay, năm 2015 [56].
165
Phụ lục 3
Những điểm mạnh của nữ trí thức khi tham gia công tác lãnh đạo,
quản lý các cấp ở trường chính trị
Đơn vị: %
STT Điểm mạnh Đồng ý Không đồng ý
1 Quyết đoán 17,2 82,8
2 Chuyên môn cao 23,4 76,6
3 Có nhiều thời gian cho quản lý 18,8 81,2
4 Cầu thị, biết lắng nghe 42,0 58,0
5 Năng động 31,0 69,0
6 Nhẹ nhàng, gần gũi mọi người 74,6 25,4
7 Cẩn thận, tỷ mỉ, kiên trì 58,1 41,9
8 Có trách nhiệm cao 37,5 62,5
Nguồn: Kết quả xử lý số liệu khảo sát đề tài luận án: Nữ trí thức trong các
trường chính trị ở Việt Nam hiện nay, năm 2015 [56].
Phụ lục 4
Kết quả học tập của học viên Trường Chính trị tỉnh Phú Thọ
(Chỉ tính riêng với các lớp đào tạo)
2010-2011 2011-2012 2012-2013 2013-2014 2014-2015 Năm học
Kết quả XL
học tập của HV
(%) (%) (%) (%) (%)
Giỏi 32.97 13.03 13.52 18.07 12.57
Khá 59.30 75.96 78.88 68.88 63.91
Trung bình 7.73 11.01 7.60 13.05 23.52
Nguồn: Phòng Đào tạo, Trường Chính trị tỉnh Phú Thọ
166
Phụ lục 5
Nguyên nhân nữ trí thức ít có cơ hội tham gia
nghiên cứu khoa học hơn nam giới
Nữ Nam Tổng số
Nguyên nhân
Người % Người % Người %
Thiếu chính sách ưu tiên,
khuyến khích nữ giới trong
nghiên cứu khoa học
56
77,8
16
22,2
72
100
Năng lực nghiên cứu khoa
học của nữ giới thấp hơn nam
giới
16
66,7 8
33,3 24
100
Nữ giới thiếu tự tin 40 71,4 16 28,6 56 100
Nữ giới ít người có học vị,
chức danh khoa học cao so
với nam giới
15
15,0
03
11,7
18
100
Nữ giới muốn giành thời gian
cho gia đình
81
59,1 56
40,9 137
100
Nữ giới chưa thực sự vươn
lên
24
24 16
40,0 40
100
Nguyên nhân khác 19
54,3 16
45,7 35
100
Nguồn: Kết quả xử lý số liệu khảo sát đề tài luận án: Nữ trí thức
trong các trường chính trị ở Việt Nam hiện nay, 2015 [56].
167
Phụ lục 6
HỌC VIỆN CHÍNH TRỊ QUỐC GIA HỒ CHÍ MINH
PHIẾU TRƯNG CẦU Ý KIẾN
Nữ trí thức trong các trường chính trị tỉnh, thành phố đã và đang đóng vai trò
quan trọng trong công tác đào tạo, bồi dưỡng cán bộ cho hệ thống chính trị cấp cơ
sở ở Việt Nam. Với mong muốn tìm hiểu về nữ trí thức, vai trò của nữ trí thức trong
các trường chính trị tỉnh, thành phố, nghiên cứu sinh Nguyễn Thị Lan đã lựa chọn đề
tài: Nữ trí thức trong các trường chính trị tỉnh, thành phố ở Việt Nam hiện nay để
nghiên cứu.
Để góp phần thực hiện tốt đề tài luận án, nghiên cứu sinh kính mong nhận được
sự cộng tác và ủng hộ nhiệt tình của các Anh/Chị. Ý kiến của Anh/Chị sẽ đóng góp và
đặt cơ sở quan trọng cho việc thực hiện thành công luận án của nghiên cứu sinh.
Xin Anh/Chị cho biết ý kiến của mình thông qua việc trả lời các câu hỏi đã
được chuẩn bị sẵn. Tất cả thông tin về ý kiến của Anh/Chị chỉ nhằm mục đích
nghiên cứu.
Xin trân trọng cảm ơn Anh/Chị.
A. THÔNG TIN CHUNG
1. Giới tính:Nam .Nữ
2. Đơn vị công tác:.
3. Chức vụ:
+ Đảng:
+ Chính quyền:
+ Đoàn thể:.
4. Trình độ chuyên môn và chức danh khoa học của Anh/Chị hiện này là:
+ Cử nhân:
+ Thạc sĩ:
+ Tiến sỹ:
+ Phó giáo sư:
+ Giáo sư:
5. Trình độ lý luận chính trị của Anh/Chị hiện nay là:
+ Cử nhân chính trị:
+ Cao cấp:
+ Trung cấp:
+ Sơ cấp:
6. Xin Anh/Chị hãy cho biết quốc gia mà Anh/Chị đã được đào tạo các
chương trình học sau:
+ Đào tạo Đại học: .......
+ Đào tạo Cao học:...
+ Đào tạo Nghiên cứu sinh:
+ Được Phong hàm:.
168
7. Mức độ sử dụng ngoại ngữ của Anh/Chị hiện nay như thế nào?
(Đánh dấu (x) vào ô mức độ
Mức độ sử dụng
Các ngoại ngữ Thành thạo Chưa thành thạo Không sử dụng
Tiếng Anh
Tiếng Pháp
Tiếng Trung
Tiếng Nga
Ngoại ngữ khác
(ghi rõ)
B. NỘI DUNG
1. Với chức danh giảng viên, Anh/Chị vui lòng cho biết chức danh giảng dạy
hiện nay?
STT Chức danh giảng dạy
1 Giảng viên tập sự
2 Giảng viên
3 Giảng viên chính
4 Giảng viên cao cấp
2. Anh/Chị đã và đang tham gia giảng dạy các chương trình đào tạo, bồi dưỡng
nào sau đây?
STT Chương trình đào tạo, bồi dưỡng
1 Đào tạo, bồi dưỡng cán bộ lãnh đạo, quản lý của hệ thống
chính trị cơ sở
2 Đào tạo Trung cấp Lý luận chính trị - Hành chính cho cán
bộ lãnh đạo, quản lý của hệ thống chính trị cơ sở
3 Bồi dưỡng, cập nhật kiến thức cho Đại biểu Hội đồng nhân
dân cấp xã, huyện
4 Bồi dưỡng, cập nhật kiến thức, kỹ năng lãnh đạo quản lý
chuyên môn, nghiệp vụ cho các chức danh cán bộ lãnh đạo
của hệ thống chính trị cơ sở
5 Đào tạo tiền công vụ đối với công chức dự bị; bồi dưỡng
chuyên viên và các chức danh tương đương
6 Bồi dưỡng nghiệp vụ, phương pháp giảng dạy cho giảng
viên Trung tâm bồi dưỡng chính trị cấp huyện
7 Tất cả các chương trình trên
169
3. Anh/Chị vui lòng cho biết về thời gian giảng dạy tại trường chính trị tỉnh,
thành phố trực thuộc Trung ương?
STT Số năm công tác
1 Dưới 05 năm
2 Từ 05 năm đến 10 năm
3 Trên 10 năm
4. Anh/Chị hãy cho biết số lượng tiểu luận tốt nghiệp cuối khóa mà Anh/Chị) đã
hướng dẫn cho học viên trong năm học 2014 - 2015?
5. Anh/Chị hãy cho biết những hoạt động khoa học nào dưới đây Anh/Chị đã
tham gia từ năm 2008 đến 2015?
STT Hoạt động khoa học
1 Đề tài nghiên cứu khoa học cấp cơ sở
2 Đề tài nghiên cứu khoa học cấp tỉnh
3 Viết giáo trình các bài thuộc phần tình hình nhiệm vụ
địa phương
4 Viết lịch sử trường, địa phương
5 Viết bài tham gia Hội thảo khoa học các cấp và các bài phản
biện các đề tài nghiên cứu khoa học
6 Viết bài cho báo, tạp chí ở Trung ương, địa phương, nội san
của trường chính trị
7 Tất cả các phương án trên
6. Anh/Chị tham gia các đề tài nghiên cứu khoa học cấp cơ sở từ 2008 đến 2015
với tư cách nào dưới đây?
STT Năm Chủ nhiệm ĐT Thư ký ĐT Thành viên
1 2008
2 2009
3 2010
4 2011
5 2012
6 2013
7 2014
8 2015
170
7. Anh/Chị tham gia các đề tài nghiên cứu khoa học cấp tỉnh từ năm 2008 đến
2015 với tư cách nào dưới đây?
STT Năm Chủ nhiệm ĐT Thư ký ĐT Thành viên
1 2008
2 2009
3 2010
4 2011
5 2012
6 2013
7 2014
8 2015
8. Theo Anh/Chị cơ hội tham gia nghiên cứu khoa học của nữ trí thức so với
nam trí thức của nhà trường:
1. Ít hơn 2. Bằng nhau 3. Cao hơn
9. Nếu nữ trí thức có cơ hội tham gia ít hơn so với nam giới, theo Anh/Chị vì
những nguyên nhân nào dưới đây:
STT Nguyên nhân
1 Thiếu chính sách ưu tiên, khuyến khích nữ giới trong nghiên cứu
khoa học
2 Năng lực nghiên cứu khoa học của nữ giới thấp hơn nam giới
3 Nữ giới thiếu tự tin
4 Nữ giới ít người có học vị, chức danh khoa học cao so với nam giới
5 Nữ giới muốn giành thời gian cho gia đình
6 Nữ giới chưa thực sự vươn lên
10. Theo Anh/chị trong công tác lãnh đạo, quản lý các cấp của nhà trường nên
có sự tham gia của phụ nữ không?
1. Có 2. Không
Nếu có, xin Anh/chị hãy cho biết lý do vì sao?
STT Lý do Đồng ý Không đồng ý
1 Đảm bảo bình đẳng giới trong lãnh đạo, quản lý
2 Các quan điểm sẽ đảm bảo quyền lợi và lợi ích
cho phụ nữ hiệu quả hơn
3 Phát huy được sức mạnh tổng hợp của cả hai giới
4 Lý do khác (ghi rõ)
171
11. Xin Anh/Chị hãy cho biết những điểm mạnh của nữ trí thức khi tham gia
công tác lãnh đạo, quản lý các cấp của nhà trường?
STT Điểm mạnh Đồng ý Không đồng ý
1 Quyết đoán
2 Chuyên môn cao
3 Có nhiều thời gian cho quản lý
4 Cầu thị, biết lắng nghe
5 Năng động
6 Nhẹ nhàng, gần gũi mọi người
7 Cẩn thận, tỷ mỉ, kiên trì
8 Có trách nhiệm cao
12. Trong gia đình của Anh/chị hiện nay, xin Anh/chị hãy cho biết những
công việc sau đây do vợ hay chồng đảm nhận chính?
STT Công việc gia đình
Vợ đảm nhận
chính
Chồng đảm
nhận chính
Như nhau
1 Công việc nội trợ:
- Chợ búa
- Dọn dẹp nhà cửa
- Rửa bát
- Nấu ăn
- Giặt giũ
2 Chăm sóc con cái:
- Cho con ăn uống
- Đưa con đi học
- Giúp con học
3 Chăm sóc sức khỏe
người già/ốm
13. Anh/chị hãy cho biết việc đảm bảo yếu tố đời sống vật chất và đời sống tinh
thần khi công tác tại trường chính trị có ảnh hưởng trực tiếp đến chất lượng lao
động của Anh/chị không?
1. Có 2. Không
172
Phụ lục 7
KẾT QUẢ XỬ LÝ SỐ LIỆU KHẢO SÁT
A. THÔNG TIN CHUNG
TT Nội dung Số lượng Tỷ lệ %
1 Giới tính:
1, Nam
2, Nữ
205
220
48,2
51,8
2 Đơn vị công tác:
1, Trường chính trị tỉnh Lào Cai
2, Trường Chính trị tỉnh Phú Thọ
3, Trường Chính trị Tô Hiệu thành phố Hải Phòng
4, Trường Chính trị tỉnh Nghệ An
5, Trường Chính trị tỉnh Quảng Ngãi
6, Trường Chính trị tỉnh Đăk Lăk
7, Trường Chính trị tỉnh Tây Ninh
8, Trường Chính trị thành phố Cần Thơ
45
59
55
61
43
49
50
63
10,6
13,9
13,0
14,4
10,1
11,5
11,8
14,8
3 Chức vụ:
1, Đảng (Bí thư/Phó bí thư Chi bộ, Bí thư/Phó bí thư
Đảng bộ)
2, Chính quyền (Trưởng/Phó khoa, phòng, Hiệu
trưởng/Hiệu phó)
3, Đoàn thể (Chủ tịch/Phó chủ tịch Công đoàn, Cựu
chiến binh, Bí thư/phó bí thư Đoàn TNCS Hồ Chí Minh)
128
189
48
35,1
51,8
13,1
4. Trình độ chuyên môn và chức danh khoa học:
1, Cử nhân
2, Thạc sĩ
3, Tiến sỹ
4, PGS, GS
175
242
8
-
41,2
56,9
1,4
-
5
Trình độ lý luận chính trị:
1, Cử nhân chính trị
2, Cao cấp
3, Trung cấp
4, Sơ cấp
32
152
148
93
7,5
35,8
34,8
21,9
6. Nước được đào tạo:
1, Việt Nam
- Đại học và cao học
- Tiến sĩ, PGS và GS
2, Nước ngoài
- Đại học và cao học
- Tiến sĩ, PGS và GS
415
7
2
1
97,7
1,7
0,4
0,2
7. Mức độ sử dụng ngoại ngữ:
1, Thành thạo
2, Chưa thành thạo
3, Không sử dụng
14
394
17
3,3
92,7
4,0
173
B. NỘI DUNG
1. Với chức danh giảng viên, Anh/Chị vui lòng cho biết chức danh giảng dạy
hiện nay?
STT Chức danh giảng dạy Số lượng Tỷ lệ
1 Giảng viên tập sự 9 3,1
2 Giảng viên 168 57,9
3 Giảng viên chính 111 38,3
4 Giảng viên cao cấp 2 0,7
2. Anh/Chị đã và đang tham gia giảng dạy những chương trình đào tạo, bồi
dưỡng nào sau đây?
STT Chương trình đào tạo, bồi dưỡng Số lượng Tỷ lệ
1 Đào tạo, bồi dưỡng cán bộ lãnh đạo, quản lý
của hệ thống chính trị cơ sở
64 11,1
2 Đào tạo Trung cấp Lý luận chính trị - Hành
chính cho cán bộ lãnh đạo, quản lý của hệ
thống chính trị cơ sở
281 48,7
3 Bồi dưỡng, cập nhật kiến thức cho Đại biểu
Hội đồng nhân dân cấp xã, huyện
68 11,8
4 Bồi dưỡng, cập nhật kiến thức, kỹ năng lãnh
đạo quản lý chuyên môn, nghiệp vụ cho các
chức danh cán bộ lãnh đạo của hệ thống chính
trị cơ sở
47 8,1
5 Đào tạo tiền công vụ đối với công chức dự bị;
bồi dưỡng chuyên viên và các chức danh
tương đương
64 11,2
6 Bồi dưỡng nghiệp vụ, phương pháp giảng dạy
cho giảng viên Trung tâm bồi dưỡng chính trị
cấp huyện
53 9,1
3. Anh/Chị vui lòng cho biết về thời gian giảng dạy tại trường chính trị tỉnh,
thành phố trực thuộc Trung ương?
STT Số năm công tác Số lượng Tỷ lệ
1 Dưới 05 năm 73 25,1
2 Từ 05 năm đến 10 năm 107 36,9
3 Trên 10 năm 110 38,0
174
4. Anh/Chị hãy cho biết số lượng tiểu luận tốt nghiệp cuối khóa mà Anh/Chị) đã
hướng dẫn cho học viên trong năm học 2014 - 2015?
STT Số tiểu luận Số lượng Tỷ lệ
1 Nam 112 51,4
2 Nữ 106 48,6
5. Anh/Chị hãy cho biết những hoạt động khoa học nào dưới đây Anh/Chị đã
tham gia từ năm 2008 đến 2015?
STT Hoạt động khoa học Số lượng Tỷ lệ
1 Đề tài nghiên cứu khoa học cấp cơ sở 386 28,7
2 Đề tài nghiên cứu khoa học cấp tỉnh 54 4,0
3 Viết giáo trình các bài thuộc phần tình hình
nhiệm vụ địa phương
142 10,5
4 Viết lịch sử trường, địa phương 49 3,6
5 Viết bài tham gia Hội thảo khoa học các cấp
và các bài phản biện các đề tài nghiên cứu
khoa học
345 25,6
6 Viết bài cho báo, tạp chí ở Trung ương, địa
phương, nội san của trường chính trị
370 27,6
6. Anh/Chị tham gia các đề tài nghiên cứu khoa học cấp cơ sở từ 2008 đến 2015
với tư cách nào dưới đây?
Chủ nhiệm đề tài Thư ký đề tài Thành viên
Năm
Số lượng Tỷ lệ Số lượng Tỷ lệ Số lượng Tỷ lệ
2008 48 12,8 48 12,8 280 74,5
2009 46 12,3 46 12,3 284 75,4
2010 48 12,9 48 12,9 276 74,2
2011 51 13,7 51 13,7 272 72,6
2012 49 13,0 49 13,0 281 74,0
2013 49 13,0 49 13,0 281 74,0
2014 51 13,3 51 13,3 283 73,4
2015 52 13,5 52 13,5 282 73,0
175
7. Anh/Chị tham gia các đề tài nghiên cứu khoa học cấp tỉnh từ năm 2008 đến
2015 với tư cách nào dưới đây?
Chủ nhiệm đề tài Thư ký đề tài Thành viên
Năm
Số lượng Tỷ lệ Số lượng Tỷ lệ Số lượng Tỷ lệ
2008 8 15,1 8 15,1 37 69,8
2009 8 14,8 8 14,8 38 70,4
2010 8 15,1 8 15,1 37 69,8
2011 7 13,0 7 13,0 40 74,0
2012 7 12,5 7 12,5 42 75,0
2013 7 12,7 7 12,7 41 74,6
2014 8 15,1 8 15,1 39 69,8
2015 8 14,8 8 14,8 38 70,4
8. Theo Anh/Chị cơ hội tham gia nghiên cứu khoa học của nữ trí thức so với
nam trí thức của nhà trường:
Cơ hội tham gia Ít hơn Bằng nhau Cao hơn
Số lượng 138 151 76
9. Nếu nữ trí thức có cơ hội tham gia ít hơn so với nam giới, theo Anh/Chị vì
những nguyên nhân nào dưới đây:
Nữ Nam Tổng số
Nguyên nhân
Người % Người % Người %
Thiếu chính sách ưu tiên,
khuyến khích nữ giới trong
nghiên cứu khoa học
56
77,8
16
22,2
72
100
Năng lực nghiên cứu khoa học
của nữ giới thấp hơn nam giới
16
66,7 8
33,3 24
100
Nữ giới thiếu tự tin 40 71,4 16
28,6 56
100
Nữ giới ít người có học vị, chức
danh khoa học cao so với nam
giới
15
15,0
03
11,7
18
100
Nữ giới muốn giành thời gian
cho gia đình
81
59,1 56
40,9 137
100
Nữ giới chưa thực sự vươn lên 24
24 16
40,0 40
100
Nguyên nhân khác 19
54,3 16
45,7 35
100
176
10. Theo Anh/chị trong công tác lãnh đạo, quản lý các cấp của nhà trường nên
có sự tham gia của phụ nữ không?
Phương án Tỷ lệ (%) Phương án Tỷ lệ (%)
1. Có 99 2. Không 1,0
Nếu có, xin Anh/chị hãy cho biết lý do vì sao?
STT Lý do Đồng ý Không đồng ý
1 Đảm bảo bình đẳng giới trong lãnh
đạo, quản lý
84,0 16,0
2 Các quan điểm sẽ đảm bảo quyền
lợi và lợi ích cho phụ nữ hiệu quả
hơn
71,7 28,3
3 Phát huy được sức mạnh tổng hợp
của cả hai giới
72,7 27,3
4 Lý do khác (ghi rõ) Nữ tham gia sẽ tạo động lực tốt
hơn trong thực hiện nhiệm vụ
chung của nhà trường,
11. Xin Anh/Chị hãy cho biết những điểm mạnh của nữ trí thức khi tham gia
công tác lãnh đạo, quản lý các cấp của nhà trường?
STT Điểm mạnh Đồng ý Không đồng ý
1 Quyết đoán 17,2 82,8
2 Chuyên môn cao 23,4 76,6
3 Có nhiều thời gian cho quản lý 18,8 81,2
4 Cầu thị, biết lắng nghe 42,0 58,0
5 Năng động 31,0 69,0
6 Nhẹ nhàng, gần gũi mọi người 74,6 25,4
7 Cẩn thận, tỷ mỉ, kiên trì 58,1 41,9
8 Có trách nhiệm cao 37,5 62,5
177
12. Trong gia đình của Anh/chị hiện nay, xin Anh/chị hãy cho biết những
công việc sau đây do vợ hay chồng đảm nhận chính?
STT Công việc gia đình
Vợ đảm nhận
chính (%)
Chồng đảm
nhận chính
(%)
Như nhau
(%)
1 Công việc nội trợ:
- Chợ búa
- Dọn dẹp nhà cửa
- Rửa bát
- Nấu ăn
- Giặt giũ
92,0 0,2 7,8
2 Chăm sóc con cái:
- Cho con ăn uống
- Đưa con đi học
- Giúp con học
64,7 11,2 24,1
3 Chăm sóc sức khỏe
người già/ốm
87,2 5,4 7,4
13. Anh/chị hãy cho biết việc đảm bảo yếu tố đời sống vật chất và đời sống tinh
thần khi công tác tại trường chính trị có ảnh hưởng trực tiếp đến chất lượng lao
động của Anh/chị không?
Phương án Tỷ lệ (%) Phương án Tỷ lệ (%)
1. Có 74,5 2. Không 25,5
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- luan_an_nu_tri_thuc_trong_cac_truong_chinh_tri_tinh_thanh_ph.pdf