HỌC VIỆN CHÍNH TRỊ QUỐC GIA HỒ CHÍ MINH
LÊ THỊ THU MAI
NHỮNG ĐIỂM TƯƠNG ĐỒNG VÀ KHÁC BIỆT GIỮA
DÂN CHỦ XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VÀ DÂN CHỦ TƯ SẢN
Ý NGHĨA ĐỐI VỚI VIỆT NAM HIỆN NAY
LUẬN ÁN TIẾN SĨ
CHUYÊN NGÀNH: CHỦ NGHĨA XÃ HỘI KHOA HỌC
HÀ NỘI - 2018
HỌC VIỆN CHÍNH TRỊ QUỐC GIA HỒ CHÍ MINH
LÊ THỊ THU MAI
NHỮNG ĐIỂM TƯƠNG ĐỒNG VÀ KHÁC BIỆT GIỮA
DÂN CHỦ XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VÀ DÂN CHỦ TƯ SẢN
Ý NGHĨA ĐỐI VỚI VIỆT NAM HIỆN NAY
LUẬN ÁN TIẾN SĨ
CHUYÊN NGÀNH: CHỦ NGHĨA XÃ HỘI KHOA HỌC
162 trang |
Chia sẻ: huong20 | Ngày: 14/01/2022 | Lượt xem: 607 | Lượt tải: 0
Tóm tắt tài liệu Luận án Những điểm tương đồng và khác biệt giữa dân chủ xã hội chủ nghĩa và dân chủ tư sản ý nghĩa đối với Việt Nam hiện nay, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Mã số: 62 22 03 08
NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC: PGS.TS. NGUYỄN ĐỨC BÁCH
HÀ NỘI - 2018
LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan đây là công trình nghiên cứu của
riêng tôi. Các số liệu, kết quả nêu trong luận án là trung
thực, có nguồn gốc rõ ràng và được trích dẫn đầy đủ theo
quy định.
Tác giả luận án
Lê Thị Thu Mai
MỤC LỤC
MỞ ĐẦU 1
Chương 1: TỔNG QUAN TÌNH HÌNH NGHIÊN CỨU LIÊN QUAN ĐẾN ĐỀ
TÀI LUẬN ÁN 6
1.1. Những công trình đã công bố liên quan đến luận án 6
1.2. Giá trị của những công trình tổng quan và những nội dung luận án tập
trung nghiên cứu 21
Chương 2: CƠ SỞ LÝ LUẬN VÀ THỰC TIỄN NGHIÊN CỨU VỀ ĐIỂM
TƯƠNG ĐỒNG VÀ KHÁC BIỆT GIỮA DÂN CHỦ TƯ SẢN VÀ DÂN CHỦ
XÃ HỘI CHỦ NGHĨA Ở VIỆT NAM HIỆN NAY 25
2.1. Quan niệm về dân chủ và các cách tiếp cận dân chủ 25
2.2. Quan niệm và những nội dung tương đồng và khác biệt giữa dân chủ tư
sản và dân chủ xã hội chủ nghĩa 43
2.3. Những yếu tố tác động tới sự tương đồng và khác biệt giữa dân chủ tư
sản và dân chủ xã hội chủ nghĩa 53
Chương 3: THỰC CHẤT NHỮNG ĐIỂM TƯƠNG ĐỒNG, KHÁC BIỆT
GIỮA DÂN CHỦ TƯ SẢN VÀ DÂN CHỦ XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VÀ SỰ
VẬN DỤNG TRONG XÂY DỰNG NỀN DÂN CHỦ XÃ HỘI CHỦ NGHĨA Ở
VIỆT NAM HIỆN NAY 71
3.1. Thực chất những điểm tương đồng và khác biệt giữa dân chủ tư sản và
dân chủ xã hội chủ nghĩa 71
3.2. Thực trạng vận dụng những điểm tương đồng và khác biệt giữa dân chủ
tư sản và dân chủ xã hội chủ nghĩa trong xây dựng nền dân chủ xã hội
chủ nghĩa ở Việt Nam hiện nay 103
Chương 4: YÊU CẦU VÀ GIẢI PHÁP VẬN DỤNG NHỮNG ĐIỂM
TƯƠNG ĐỒNG VÀ KHÁC BIỆT GIỮA DÂN CHỦ TƯ SẢN VÀ DÂN CHỦ
XÃ HỘI CHỦ NGHĨA TRONG XÂY DỰNG NỀN DÂN CHỦ XÃ HỘI CHỦ
NGHĨA Ở VIỆT NAM HIỆN NAY 119
4.1. Yêu cầu đối với việc vận dụng những điểm tương đồng và khác biệt giữa
dân chủ tư sản và dân chủ xã hội chủ nghĩa trong xây dựng nền dân chủ
xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam hiện nay 119
4.2. Giải pháp nhằm tiếp tục vận dụng những điểm tương đồng và khác biệt
giữa dân chủ tư sản và dân chủ xã hội chủ nghĩa trong xây dựng nền dân
chủ xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam hiện nay 127
KẾT LUẬN 144
DANH MỤC CÔNG TRÌNH CỦA TÁC GIẢ LIÊN QUAN ĐẾN LUẬN ÁN 147
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO 148
1
MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Dân chủ vốn là một giá trị phổ biến xuất phát từ thực tiễn sản xuất và
sinh hoạt của nhân loại từ thời nguyên thủy xa xưa - dân chủ nguyên thủy.
Sau đó, dân chủ còn là khát vọng và là mục tiêu đấu tranh không ngừng của
đại đa số nhân dân trong lịch sử hình thành và phát triển tiếp theo của xã hội
loài người. Thực tế cho thấy, vấn đề dân chủ đã và đang được các nhà tư
tưởng, các nhà hoạt động chính trị trong mọi thời đại, từ thời cổ đại đến nay,
tiếp tục quan tâm và bàn luận. Lịch sử xã hội loài người đã trải qua một quá
trình hình thành và phát triển thực tiễn, lý luận và các chế độ dân chủ khác
nhau: dân chủ nguyên thủy (khi chưa có chế độ tư hữu, giai cấp); chế độ dân
chủ chủ nô, chế độ dân chủ tư sản và ngày nay, theo quan điểm mácxít, là chế
độ dân chủ xã hội chủ nghĩa.
Chủ nghĩa cộng sản là đích đến mà dù sớm hay muộn, tất cả nhân loại sẽ
vươn tới; là xã hội tốt đẹp trong đó mọi người đều có cuộc sống ấm no, tự do
và hạnh phúc. Dân chủ là một trong những giá trị, đặc trưng cơ bản thuộc về
bản chất của xã hội cộng sản chủ nghĩa, mà giai đoạn thấp là chủ nghĩa xã hội.
Vận dụng, phát triển sáng tạo chủ nghĩa Mác - Lênin và xuất phát từ điều
kiện, hoàn cảnh thực tế của Việt Nam, trong di sản lý luận của Chủ tịch Hồ
Chí Minh về chủ nghĩa xã hội, tư tưởng về dân chủ và thực hành dân chủ là
một trong những nội dung quan trọng và có ý nghĩa đặc biệt sâu sắc, to lớn.
Chủ tịch Hồ Chí Minh đã khẳng định rằng, dân chủ có nghĩa "dân là chủ" và
"dân làm chủ"; rằng, "dân chủ là của quý báu nhất của nhân dân".
Trong thời đại ngày nay, đối với dân tộc Việt Nam, thực hiện tốt dân chủ
là một trong những mục tiêu và động lực cơ bản để hội nhập và phát triển
theo con đường cách mạng mà Đảng và dân tộc ta đã xác định. Có thể nói,
những thành tựu to lớn, có ý nghĩa lịch sử mà chúng ta đạt được trong công
cuộc đổi mới, xây dựng và phát triển đất nước theo định hướng xã hội chủ
nghĩa bắt nguồn từ nhiều nguyên nhân, trong đó không thể không nói đến nền
2
dân chủ xã hội chủ nghĩa, cho dù vẫn đang trong quá trình từng bước hoàn
thiện, cụ thể hoá, thực thi và đã có nhiều thành tựu to lớn, có ý nghĩa lịch sử.
Tuy nhiên, bên cạnh những kết quả đạt được, như Đại hội XII của Đảng
Cộng sản Việt Nam đã chỉ rõ, nhận thức về dân chủ trong một bộ phận cán
bộ, đảng viên và nhân dân còn hạn chế; tình trạng tách rời, thậm chí đối lập
giữa dân chủ và kỷ cương, pháp luật còn tồn tại ở nhiều nơi; quyền làm chủ
của nhân dân ở nhiều nơi, nhiều lĩnh vực còn bị vi phạm; có lúc, có nơi, việc
thực hiện dân chủ còn hạn chế hoặc mang tính hình thức; có tình trạng lợi
dụng dân chủ gây chia rẽ, làm mất đoàn kết nội bộ, gây rối, ảnh hưởng đến an
ninh quốc gia, trật tự, an toàn xã hội [38, tr.168] Đã xuất hiện không ít
những hoài nghi về nền dân chủ xã hội chủ nghĩa mà chúng ta đang xây dựng,
rằng: Liệu dân chủ xã hội chủ nghĩa có "dân chủ hơn" dân chủ tư sản hay
không? Bản chất nền dân chủ xã hội chủ nghĩa là gì? Và có gì giống, khác với
dân chủ tư sản mà các nước phương Tây đang xây dựng? Tại sao có những
nước thực hiện dân chủ thành công, trong khi các nước khác lại thất bại? Tại
sao việc đánh giá thế nào là dân chủ và không dân chủ lại không giống nhau
giữa các nước? Đâu là mô hình dân chủ chung cho các quốc gia khi mà các
nước trên thế giới đang ngày càng xích lại gần nhau và Việt Nam học hỏi
được kinh nghiệm gì về xây dựng dân chủ ở các quốc gia đó?
Nghiên cứu về dân chủ xã hội chủ nghĩa phải vừa xuất phát từ nguồn cội
của nó là "dân chủ nguyên thủy" với "nội hàm gốc" là "quyền lực của nhân
dân", vừa phải kế thừa những giá trị của chế độ dân chủ tư sản - một chế độ
dân chủ ra đời trước dân chủ xã hội chủ nghĩa hàng thế kỷ, với cả những thành
quả, giá trị lẫn những hạn chế của nó - trên cơ sở làm rõ những điểm tương
đồng và khác biệt giữa dân chủ xã hội chủ nghĩa và dân chủ tư sản sẽ có ý
nghĩa quan trọng cả về lý luận và thực tiễn.
Nghiên cứu những điểm "tương đồng" và những "khác biệt" của dân chủ
xã hội chủ nghĩa so với dân chủ tư sản có ý nghĩa cấp thiết vì sẽ khắc phục
được cả hai xu hướng lệch lạc hiện nay: Một là, xu hướng bảo thủ với tư duy
cũ, thể hiện bệnh ấu trĩ tả khuynh, đối lập và phủ định sạch trơn dân chủ tư sản;
3
Hai là, xu hướng ngày càng mơ hồ, sai lệch, hữu khuynh, "hòa nhập" theo dân
chủ tư sản phương Tây - khi mà Việt Nam ngày càng hội nhập sâu rộng và toàn
diện hơn với thế giới, chủ yếu là với các nước tư bản chủ nghĩa phát triển.
Việc nghiên cứu này không những góp phần nhận thức đầy đủ, đúng
đắn và toàn diện, sâu sắc hơn lý luận về dân chủ của chủ nghĩa Mác - Lênin,
tư tưởng Hồ Chí Minh, mà còn là để vận dụng sáng tạo, đối chiếu với thực
tiễn, giải đáp những vấn đề thực tiễn đất nước đang đặt ra. Mặt khác, nghiên
cứu, so sánh bản chất cũng như thực tiễn nền dân chủ xã hội chủ nghĩa mà
chúng ta đang xây dựng với nền dân chủ tư sản ở nhiều quốc gia tư bản trên
thế giới hiện nay có thể tìm thấy nhiều lời giải cho việc xây dựng và hoàn
thiện nền dân chủ xã hội chủ nghĩa trong điều kiện mới, góp phần đấu tranh
chống chiến lược "diễn biến hòa bình", lợi dụng chiêu bài "dân chủ nhân
quyền" để chống phá nước ta. Đó thực sự là việc làm cấp thiết cả về lý luận
và thực tiễn, trước hết của giới lý luận ở nước ta.
Với những lý do trên, tác giả chọn vấn đề "Những điểm tương đồng
và khác biệt giữa dân chủ xã hội chủ nghĩa và dân chủ tư sản. Ý nghĩa đối
với Việt Nam hiện nay" làm đề tài luận án tiến sĩ chuyên ngành Chủ nghĩa xã
hội khoa học.
2. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu
2.1. Mục đích nghiên cứu của luận án
Trên cơ sở nghiên cứu lý luận và thực tiễn về những điểm tương đồng
và khác biệt giữa chế độ dân chủ tư sản và dân chủ xã hội chủ nghĩa, luận án
đề xuất những yêu cầu cơ bản và những giải pháp chủ yếu những giải pháp
vận dụng những điểm tương đồng và khác biệt giữa dân chủ xã hội chủ nghĩa
và dân chủ tư sản vào xây dựng và hoàn thiện nền dân chủ xã hội chủ nghĩa ở
Việt Nam hiện nay.
2.2. Nhiệm vụ nghiên cứu của luận án
Để đạt được mục đích trên, luận án tập trung giải quyết những nhiệm
vụ cơ bản sau:
4
Một là, tổng quan tình hình nghiên cứu liên quan đến đề tài luận án, từ
đó xác định hướng nghiên cứu của luận án;
Hai là, làm rõ cơ sở lý luận và thực tiễn nghiên cứu về những điểm
tương đồng và khác biệt giữa dân chủ tư sản và dân chủ xã hội chủ nghĩa ở
Việt Nam hiện nay;
Ba là, phân tích thực chất những điểm tương đồng và khác biệt giữa
dân chủ tư sản và dân chủ xã hội chủ nghĩa và sự vận dụng trong xây dựng xã
hội chủ nghĩa ở Việt Nam hiện nay;
Bốn là, đề xuất những yêu cầu cơ bản và những giải pháp chủ yếu
nhằm tiếp tục vận dụng những điểm tương đồng và khác biệt giữa dân chủ xã
hội chủ nghĩa và dân chủ tư sản trong xây dựng và hoàn thiện nền dân chủ xã
hội chủ nghĩa ở Việt Nam hiện nay.
3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
3.1. Đối tượng nghiên cứu của luận án
Sự điểm tương đồng và khác biệt giữa chế độ dân chủ xã hội chủ nghĩa
và chế độ dân chủ tư sản và sự vận dụng ở Việt Nam hiện nay.
3.2. Phạm vi nghiên cứu của luận án
Phạm vi về nội dung:Sự tương đồng và khác biệt giữa chế độ dân chủ
xã hội chủ nghĩa và chế độ dân chủ tư sản.
Phạm vi không gian và thời gian nghiên cứu: So sánh hai nền dân chủ
tư sản và dân chủ xã hội chủ nghĩa trên ba lĩnh vực chủ yếu là chính trị, kinh
tế và văn hóa - xã hội cả về lý luận và thực tiễn.
4. Cơ sở lý luận và phương pháp nghiên cứu
4.1. Cơ sở lý luận: Luận án được thực hiện dựa trên cơ sở lý luận về
dân chủ xã hội chủ nghĩa của chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh,
các văn kiện của Đảng, Nhà nước về dân chủ.
Luận án cũng được thực hiện trên cơ sở tiếp thu kết quả của những
công trình khoa học trong và ngoài nước thời gian qua có liên quan đến đề tài.
5
4.2. Phương pháp nghiên cứu: Luận án được thực hiện trên cơ sở
phương pháp luận của chủ nghĩa duy vật biện chứng và duy vật lịch sử.
- Phương pháp chung: Phân tích - tổng hợp, hệ thống - cấu trúc, so
sánh, đối chiếu, lịch sử - logic, lý luận - thực tiễn.
- Phương pháp cụ thể: Phân tích tài liệu thứ cấp (các công trình nghiên
cứu khoa học về dân chủ, các văn kiện của Đảng các văn bản, số liệu trong các
tài liệu có liên quan đến dân chủ, dân chủ tư sản, dân chủ xã hội chủ nghĩa, xây
dựng nền dân chủ xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam trong thời kỳ đổi mới).
5. Đóng góp mới về khoa học của luận án
- Một là, luận án góp phần làm rõ những điểm tương đồng và khác biệt
giữa hai chế độ dân chủ tư sản và dân chủ xã hội chủ nghĩa, từ đó nêu lên
những giá trị cơ bản của dân chủ tư sản có thể tham khảo, chọn lọc, kế thừa
trong xây dựng nền dân chủ xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam hiện nay.
- Hai là, luận án phân tích những vấn đề đặt ra và đề xuất các yêu cầu
cơ bản, những giải pháp chủ yếu nhằm tiếp tục vận dụng những điểm tương
đồng và khác biệt về dân chủ tư sản và dân chủ xã hội chủ nghĩa trong xây
dựng nền dân chủ xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam trong điều kiện hiện nay.
6. Ý nghĩa khoa học và thực tiễn của đề tài nghiên cứu
6.1. Ý nghĩa khoa học: Luận án góp phần làm sáng tỏ hơn những vấn đề
dân chủ tư sản và dân chủ xã hội chủ nghĩa, những điểm tương đồng và khác biệt
giữa hai chế độ dân chủ này. Từ đó, cung cấp cơ sở lý luận cho việc bổ sung, phát
triển và hoàn thiện nhận thức về dân chủ xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam hiện nay.
6.2. Ý nghĩa thực tiễn: Luận án có thể dùng làm tài liệu tham khảo cho
việc nghiên cứu, giảng dạy, học tập các nội dung liên quan đến dân chủ, nhà
nước và hệ thống chính trị trong chủ nghĩa xã hội khoa học và các chuyên
ngành khoa học khác.
7. Kết cấu của luận án
Ngoài phần mở đầu, kết luận, danh mục các công trình của tác giả liên
quan đến đề tài và danh mục tài liệu tham khảo, luận án gồm 4 chương, 9 tiết.
6
Chương 1
TỔNG QUAN TÌNH HÌNH NGHIÊN CỨU
LIÊN QUAN ĐẾN ĐỀ TÀI LUẬN ÁN
1.1. NHỮNG CÔNG TRÌNH ĐÃ CÔNG BỐ LIÊN QUAN ĐẾN LUẬN ÁN
1.1.1. Những công trình nghiên cứu của các tác giả trong nước
1.1.1.1. Những công trình nghiên cứu về quan niệm, cách tiếp cận,
bản chất của dân chủ, dân chủ tư sản, dân chủ xã hội chủ nghĩa
Hoàng Chí Bảo, Tổng quan về dân chủ và cơ chế thực hiện dân chủ xã
hội chủ nghĩa ở nước ta: quan điểm, lý luận và phương pháp nghiên cứu [9,
tr.7-11]; Nguyễn Đăng Quang, Một cách tiếp cận khái niệm dân chủ [77,
tr.12-15]. Hai bài viết này bàn về dân chủ với những phương pháp tiếp cận
khác nhau: tiếp cận từ những cơ sở hình thành dân chủ, bao gồm: cơ sở kinh
tế của dân chủ và dân chủ trong kinh tế; cơ sở chính trị của dân chủ và dân
chủ trong chính trị; cơ sở văn hóa, xã hội và dân chủ trong lĩnh vực văn hóa,
xã hội; tiếp cận từ các nội dung cơ bản của dân chủ: theo nội dung chính trị,
dân chủ là một hình thái nhà nước; theo nội dung văn minh, dân chủ là sản
phẩm của nền văn minh; theo nội dung nhân đạo, dân chủ là phương thức tổ
chức xã hội hiện đại. Những tài liệu này là những gợi mở để tác giả luận án có
thêm những tiếp cận đa dạng khái niệm, quan niệm về dân chủ trong chương
2 của luận án.
Nguyễn Tiến Phồn, Dân chủ và tập trung dân chủ - Lý luận và thực tiễn
[73]; Cao Văn Thống, Nguyên tắc tập trung dân chủ trong công tác xây dựng
Đảng hiện nay [110]. Các tài liệu trên được sưu tầm và biên soạn về những vấn
đề lý luận và thực tiễn về dân chủ, dân chủ xã hội chủ nghĩa, nguyên tắc tập
trung dân chủ trong tổ chức, hoạt động của hệ thống chính trị xã hội chủ nghĩa.
Theo đó, tập trung dân chủ là cơ chế, nguyên tắc cốt tử trong tổ chức, vận hành
của Đảng, Nhà nước và của nền dân chủ xã hội chủ nghĩa.
7
Vũ Văn Viên, Nhà nước pháp quyền - công cụ để thực hiện dân chủ
[133, tr.35-39]; Lương Đình Hải, Xây dựng Nhà nước pháp quyền và vấn đề
dân chủ hóa xã hội ở nước ta hiện nay [43, tr.5-9] phân tích sự gắn bó mật
thiết giữa pháp luật và dân chủ trong quá trình phát triển xã hội. Nhà nước
pháp quyền tư sản là hình thức tổ chức quyền lực để thực hiện dân chủ tư sản.
Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa là công cụ quan trọng để thực hiện
dân chủ xã hội chủ nghĩa. Xây dựng, phát huy nền dân chủ xã hội chủ nghĩa ở
Việt Nam gắn liền với việc đẩy mạnh xây dựng, hoàn thiện Nhà nước pháp
quyền xã hội chủ nghĩa.
Trần Quang Nhiếp, Dân chủ với phát triển cộng đồng [70]. Đây là
cuốn sách đã trình bày, phân tích nhiều vấn đề lý luận, thực tiễn về dân chủ
và dân chủ ở cơ sở như: tư tưởng Hồ Chí Minh về dân chủ; vai trò của dân
chủ đối với phát triển cộng đồng; những thuận lợi, khó khăn, thành tựu, hạn
chế trong thực hiện dân chủ cơ sở ở nước ta; vấn đề đặt ra và các giải pháp
phát huy quyền làm chủ của nhân dân ở nước ta trong tiến trình đổi mới.
Nguyễn Thanh Tuấn, Những quan điểm cơ bản của C.Mác, Ph.Ăngghen
và V.I.Lênin về dân chủ xã hội chủ nghĩa [114, tr.114]. Cuốn sách này giúp
tác giả luận án có thêm cơ sở lý luận khi phân tích những quan điểm cơ bản
của C.Mác, Ph.Ăngghen và V.I.Lênin về dân chủ xã hội chủ nghĩa. Tác giả
cuốn sách, theo tinh thần đổi mới, đã phân tích việc vận dụng những quan
điểm đó trong quá trình xây dựng nền dân chủ xã hội chủ nghĩa ở nước ta.
Hà Đăng, Mô hình tổ chức nền dân chủ [39]; Phan Xuân Sơn, Những
nội dung mới về nền dân chủ xã hội chủ nghĩa [93]; Trương Minh Tuấn, Dân
chủ xã hội chủ nghĩa và thực hiện dân chủ xã hội chủ nghĩa theo tinh thần
Đại hội XI của Đảng [115, tr.3-8]; Vũ Hoàng Công, Vấn đề dân chủ trong các
văn kiện Đại hội XI của Đảng [29]. Đây là các công trình mà các tác giả đã
phân tích các quan điểm mới của Đảng về dân chủ xã hội chủ nghĩa như: mô
hình dân chủ; dân chủ là mục tiêu, động lực phát triển; hệ thống chính trị xã
hội chủ nghĩa với cơ chế Đảng lãnh đạo, Nhà nước quản lý, nhân dân làm
8
chủ; nhận thức về Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa, thực hành cơ chế
kiểm soát quyền lực nhà nước
Hội đồng Lý luận Trung ương, Dân chủ, nhân quyền - giá trị toàn cầu
và đặc thù quốc gia [48]. Các tác giả của công trình không chỉ nêu lên những
vấn đề chung về dân chủ, về nhân quyền đang được các nhà lý luận ở nhiều
nước trên thế giới sử dụng mà còn đi sâu phân tích, phê phán những luận điệu
sai trái, phản động của các thế lực thù địch.
Lê Minh Quân, Dân chủ và dân chủ hóa từ một số cách tiếp cận cơ bản
[84, tr.13-21]; Cao Đức Thái, Dân chủ trong xu thế thời đại và nền dân chủ
của chúng ta [97, tr.18-20]; Nguyễn Trọng Chuẩn, Một số vấn đề về dân chủ
[26, tr.9-21]. Các tác giả trong các công trình kể trên đã phân tích các vấn đề
về dân chủ, dân chủ hóa và khẳng định: dân chủ có nhiều cách tiếp cận: từ
góc độ giá trị, góc độ thể chế, góc độ phương pháp, phong cách. Dân chủ hóa
là xu thế khách quan của thời đại; nền dân chủ của Việt Nam đã và đang phát
triển đúng hướng, phù hợp với xu thế chung của thời đại ngày nay.
Đức Vượng, Một số vấn đề lý luận và thực tiễn ở Việt Nam thời kỳ đổi
mới [137]. Công trình này đã trình bày, phân tích quá trình đổi mới, phát triển
nhận thức lý luận của Đảng ta về dân chủ và dân chủ xã hội chủ nghĩa. Qua
đó, nêu lên những nhận thức mới của Đảng về mục tiêu, đặc trưng và các nội
dung của dân chủ xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam.
Hồ Sĩ Quý, Một số vấn đề về dân chủ, độc tài và phát triển [85]. Đây là
một công trình trình bày, phân tích nhiều nội dung lý luận, thực tiễn về dân
chủ, độc tài và phát triển ở một số quốc gia và vùng lãnh thổ, trong đó có Liên
Xô thời Stalin. Thông qua việc xử lý một khối lượng tư liệu khổng lồ, Hồ Sĩ
Quý đã phân tích, đối chiếu, xem xét nội hàm và mối quan hệ giữa các vấn đề
dân chủ, độc tài và phát triển. Đặc biệt, trong Phần II của Chương I cuốn
sách, tác giả đã luận bàn rất ngắn gọn, súc tích về khái niệm và một số quan
niệm cơ bản về dân chủ từ nhiều phương diện khác nhau. Ngoài quan niệm cơ
bản "Dân chủ là một hình thức tổ chức nhà nước mà trong đó, quyền lực
9
thuộc về nhân dân, phục vụ nhân dân và vì quyền lợi của nhân dân" [85,
tr.37], ở những khía cạnh khác, trong các quan hệ khác nhau của đời sống xã
hội, tác giả còn nêu ra 11 quan niệm khác nhau về dân chủ. Một số quan niệm
đó là: “Dân chủ là một lối sống dựa trên sự tôn trọng quyền cá nhân”; “Dân
chủ là quyền bình đẳng của mỗi người trong việc nhận thức và hành động xây
dựng xã hội, theo cách mà đa số đều đạt được lợi ích”, “Dân chủ là một tư
tưởng chính trị, mà các giá trị cơ bản của nó là tự do, bình đẳng và thừa nhận
lẫn nhau” hay “Dân chủ là một sự trao đổi và đối thoại được thực hiện một
cách tự do nhất giữa các thành viên xã hội”; hoặc “Dân chủ là một hình thức
tổ chức chính quyền, để tất cả mọi người đều có thể, trực tiếp hoặc gián tiếp,
tham gia vào các quyết định quan trọng trong phân bổ các giá trị”... [85, tr.37-
38]. Đây là những tư tưởng rất quan trọng mà luận án kế thừa và làm rõ trong
chương 2. Cuốn sách còn có nhiều nhận định, đánh giá sâu sắc chứa đựng
nhiều gợi mở. Ví dụ: "Dân chủ nếu có khiếm khuyết, nó sẽ được sửa chữa
bằng một trình độ dân chủ cao hơn. Tuy nhiên, không phải chính thể nào cũng
thừa nhận chân lý này..." [85, tr.39].
1.1.1.2. Những công trình nghiên cứu về thực hành dân chủ tư sản
và dân chủ xã hội chủ nghĩa
Vũ Văn Hiền, Dân chủ cơ sở qua kinh nghiệm của Thụy Điển và Trung
Quốc [45]. Công trình đã phân tích việc thực hiện dân chủ cơ sở qua kinh
nghiệm của Thụy Điển và Trung Quốc về các vấn đề: Nhà nước phúc lợi xã
hội, về hệ thống chính trị; sự tham gia hoạt động quản lý nhà nước một cách
dân chủ; dân chủ điện tử - một công cụ chính trị mới; xây dựng chính phủ của
nhân dân trong thế kỷ mới. Hay xây dựng dân chủ cơ sở với xã hội khá giả,
quan hệ xây dựng dân chủ ở cơ sở với cải cách hệ thống chính trị... Khu dân
cư tự quản là thực tiễn mới của việc xây dựng nền dân chủ cơ sở ở đô thị.
Những phân tích này là tài liệu quý để tác giả luận án có thêm góc nhìn để so
sánh thực tiễn hai chế độ dân chủ ở hai quốc gia đi theo hai con đường phát
triển khác nhau là Trung Quốc và Thuỵ Điển.
10
Lê Văn Toan, Nguyễn Viết Thảo, Thể chế chính trị - Một số kinh
nghiệm của thế giới [111]. Tác giả đã khái quát những nét chính về thể chế
chính trị của các nước trong từng châu lục để có cách nhìn tổng quan hơn, so
sánh đậm nét hơn về những nét giống và khác nhau của thể chế chính trị từng
châu lục trên toàn thế giới, từ đó chỉ ra kinh nghiệm và những gợi mở đối với
việc xây dựng thể chế chính trị Việt Nam.
Phạm Văn Đức, Thực hành dân chủ trong điều kiện một đảng duy nhất
cầm quyền [40]. Cuốn sách này dành hẳn Chương II để phân tích kinh nghiệm
thực hành dân chủ của một số nước và vùng lãnh thổ trên thế giới, trong đó,
các tác giả đã phân tích nội dung thực hành dân chủ ở Cộng hòa Liên bang
Đức, ở Thái Lan, ở Xingapo, ở Đài Loan; từ đó nêu lên một số hạn chế trong
quá trình thực hành dân chủ ở những nước này cũng như những bài học kinh
nghiệm đối với Việt Nam. Viết về thực hành dân chủ ở Cộng hoà Liên bang
Đức và bài học kinh nghiệm cho Việt Nam, Phạm Văn Đức cho rằng:
Kinh nghiệm thực hành dân chủ ở Đức có thể cung cấp cho chúng ta
những bài học bổ ích trong lĩnh vực chính trị và kinh tế. Về chính trị,
trước hết cần xây dựng một thể chế dân chủ, với các quyền và tự do
cơ bản của công dân được bảo đảm bằng những nguyên tắc hiến định.
Nhà nước pháp quyền đóng vai trò hết sức quan trọng trong việc bảo
đảm quyền tự do tư tưởng, tôn giáo, hội họp, lập hội (bao gồm thành
lập các nghiệp đoàn, đảng phái,...), tự do bầu cử, ứng cử, quyền sở
hữu và tự do kinh doanh của công dân. Về kinh tế, tăng cường và mở
rộng việc thực hành dân chủ các quyền kinh tế thông qua việc không
ngừng phát huy lợi thế của nền kinh tế thị trường nhưng trên nền tảng
có sự điều tiết bằng những chiến lược cụ thể [40, tr123-124].
Những nhận định như vậy có ý nghĩa quan trọng để luận án tham khảo
trong việc so sánh về thực tiễn hai nền dân chủ mà chúng tôi triển khai ở
chương 3.
11
Các công trình trên cũng đã chỉ ra những hạn chế, những "bế tắc" của
nền dân chủ phương Tây trước yêu cầu phát triển mới. Đặc biệt, giai cấp công
nhân và nhân dân lao động tiếp tục đấu tranh đòi thực hiện nền dân chủ công
bằng hơn, bảo vệ lợi ích cho họ.
Từ một số công trình nghiên cứu trên có thể thấy, nền dân chủ tư sản
hay "dân chủ phương Tây" không phải là "một mô hình lý tưởng", một
"khuôn mẫu" để các nước học tập hay mô phỏng. Bản thân các học giả
phương Tây cũng thừa nhận điều này. Đây cũng là một bài học cho quá trình
xây dựng và thực thi dân chủ xã hội chủ nghĩa ở nước ta. Chúng ta học hỏi,
tiếp thu các giá trị tiến bộ, tích cực của dân chủ phương Tây nhưng cũng phải
biết loại bỏ những tính chất tiêu cực của nó, đặc biệt đấu tranh phê phán các
quan điểm có tính chất áp đặt mô hình dân chủ phương Tây vào nước ta dưới
chiêu bài dân chủ, nhân quyền của các thế lực thù địch.
Nguyễn Tiến Phồn, Dân chủ và tập trung dân chủ: Lý luận và thực tiễn
[73], là công trình trong đó tập hợp những chuyên luận nghiên cứu của tác giả
về dân chủ và tập trung dân chủ, tư tưởng Hồ Chí Minh về thực hiện dân chủ
và nguyên tắc tập trung dân chủ trong hoạt động quản lý nhà nước.
Đỗ Nguyên Phương, Trần Ngọc Đường, Xây dựng nền dân chủ xã hội
chủ nghĩa và nhà nước pháp quyền [74]. Trong công trình này, tác giả luận
giải nhiều nội dung về xây dựng nền dân chủ xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam
như: cơ cấu tổ chức, cơ chế hoạt động của Nhà nước pháp quyền xã hội chủ
nghĩa, hoàn thiện hệ thống pháp luật, xây dựng văn hóa pháp luật...
Lê Minh Quân, Về quá trình dân chủ hóa xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam
hiện nay [83]. Đây là một tác phẩm bàn về quá trình dân chủ hóa xã hội chủ
nghĩa ở Việt Nam; các giải pháp tiếp tục đẩy mạnh dân chủ hóa, xây dựng,
phát triển nền dân chủ xã hội chủ nghĩa ở nước ta như: hoàn thiện thể chế
kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa; xây dựng Nhà nước pháp
quyền xã hội chủ nghĩa; đổi mới và tăng cường sự lãnh đạo của Đảng theo
12
hướng dân chủ hóa; xây dựng, phát triển xã hội công dân; xây dựng, phát
triển nền văn hóa và con người Việt Nam mới xã hội chủ nghĩa... [83, tr.341].
Nguyễn Ngọc Hà, Luyện Thị Hồng Hạnh, Dân chủ và tính đặc thù của
việc thực hành dân chủ ở Việt Nam [42, tr.70] cho rằng, tùy theo điều kiện cụ
thể về kinh tế, chính trị, xã hội, lịch sử, văn hóa riêng, mỗi nước đều xác định
tiêu chuẩn dân chủ phù hợp với nước mình. Tính đặc thù của dân chủ và thực
hành dân chủ ở Việt Nam thể hiện: dân chủ đang xây dựng là dân chủ xã hội
chủ nghĩa; dân chủ ở Việt Nam không có đối trọng giữa các đảng; không có
tam quyền phân lập; có sự thống nhất giữa Đảng, Nhà nước và các tổ chức
chính trị - xã hội; không có quy định nhân dân trực tiếp bầu ra người đứng
đầu Nhà nước.
Đinh Thế Huynh và các cộng sự, 30 năm đổi mới và phát triển ở Việt
Nam [53]. Trong cuốn sách này, các tác giả đã dành hẳn một chương để phân
tích, tổng kết về xây dựng và phát huy dân chủ xã hội chủ nghĩa, về đổi mới
hệ thống chính trị, xây dựng nhà nước pháp quyền qua 30 năm đổi mới ở Việt
Nam. Đây là những vấn đề mà luận án sẽ tiếp tục làm rõ.
Đỗ Thị Thạch, Nghiên cứu, tổng kết làm sáng tỏ những vấn đề lý luận
xây dựng dân chủ xã hội chủ nghĩa trong công cuộc đổi mới đất nước [96].
Trong báo cáo đề tài cấp bộ này, tác giả đã trình bày cơ sở lý luận, thực tiễn;
thực trạng nhận thức, xây dựng dân chủ xã hội chủ nghĩa trong công cuộc đổi
mới; những vấn đề đặt ra; xu hướng phát triển dân chủ và các giải pháp góp
phần làm sáng tỏ những vấn đề lý luận xây dựng dân chủ xã hội chủ nghĩa ở
Việt Nam hiện nay. Đây là một công trình quan trọng trong việc nêu lên
những giải pháp có tính khả thi trong xây dựng nền dân chủ xã hội chủ nghĩa
ở nước ta - vấn đề mà luận án đặc biệt quan tâm và kế thừa nhiều tư liệu.
1.1.1.3. Những công trình nghiên cứu mang tính so sánh những điểm
tương đồng và khác biệt giữa dân chủ tư sản và dân chủ xã hội chủ nghĩa
Nguyễn Đức Bách, Mấy vấn đề về dân chủ và hệ thống chính trị ở nước
ta hiện nay dưới góc độ quan hệ giữa các lợi ích [3]. Trong bài viết này, tác
13
giả đã phân tích những điểm chung - tương đồng của ba chế độ dân chủ đã có
trong lịch sử: Dân chủ chủ nô, dân chủ tư sản, dân chủ vô sản (hay dân chủ xã
hội chủ nghĩa). Những điểm chung - tương đồng đó là: 1) Đều là một chế độ
chính trị - một hình thức nhà nước khi xã hội còn giai cấp. 2) Đều có bộ máy
nhà nước và quan chức do bầu cử. 3) Đều có hệ thống pháp luật nhà nước để
buộc mọi người phải tuân thủ... 4) Đều chỉ có một giai cấp lãnh đạo nhà nước
và toàn xã hội... Đặc biệt, tác giả chỉ ra những khác biệt căn bản giữa các chế
độ dân chủ khác nhau (dù có kế thừa nhau), suy cho cùng là ở bản chất - mục
tiêu và lợi ích của các giai cấp lãnh đạo xã hội... đã chi phối sự khác nhau về
ý thức hệ, về nội dung cụ thể của các luật pháp và các mối quan hệ về địa vị,
về lợi ích... giữa các giai cấp lãnh đạo xã hội với các giai tầng còn lại trong
mỗi chế độ dân chủ đó.
Thái Ninh, Hoàng Chí Bảo, Dân chủ tư sản và dân chủ xã hội chủ
nghĩa [72]. Trong công trình này, các tác giả đã phân tích những quan điểm,
tư tưởng cơ bản của chủ nghĩa Mác - Lênin về dân chủ, lịch sử ra đời, phát
triển, thực trạng, bản chất, khuyết tật của dân chủ tư sản; bản chất, sự hình
thành và những thách thức của dân chủ xã hội chủ nghĩa. Ở đây, dân chủ xã
hội chủ nghĩa được tiếp cận toàn diện, hệ thống với 5 khía cạnh: hình thức tổ
chức xã hội, tổ chức nhà nước; giá trị xã hội; điều kiện để hình thành nhân
cách trung thực, sáng tạo; cơ chế, nguyên tắc lãnh đạo, quản lý xã hội (tập
trung dân chủ); động lực, bản chất tốt đẹp của chủ nghĩa xã hội. Công trình
này tuy không đặt dân chủ tư sản và dân chủ xã hội chủ nghĩa trong sự so
sánh nhưng cách triển khai vấn đề của các tác giả là cơ sở quan trọng để nhìn
nhận rõ những khác biệt giữa hai nền dân chủ này, từ tiền đề ra đời, bản chất,
vai trò của nó. Luận án sẽ kế thừa và làm rõ hơn vấn đề này.
Trần Thành, Vấn đề dân chủ và dân chủ hóa đời sống xã hội - lịch sử
và hiện đại [101]. Đây là công trình mà tác giả trình bày lịch sử hình thành
phát triển dân chủ từ phương diện lý luận, thực tiễn; phân tích bản chất, thực
14
trạng của dân chủ tư sản, dân chủ xã hội chủ nghĩa; vấn đề xây dựng chế độ
dân chủ ở Việt Nam, thực trạng, nguyên nhân và các giải pháp.
Nguyễn Văn Quyết, Nghiên cứu lý luận chủ nghĩa Mác - Lênin làm
sáng tỏ sự tương đồng và khác biệt về dân chủ tư sản và dân chủ xã hội chủ
nghĩa [87]. Trong báo cáo đề tài khoa học này, tác giả đã trình bày rõ những
luận điểm của chủ nghĩa Mác - Lênin về sự tương đồng, khác biệt giữa dân
chủ tư sản và dân chủ xã hội chủ nghĩa. Từ đó, tác giả của đề tài đã nêu những
gợi mở cho nhận thức và thực hành dân chủ xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam hiện
nay. Đây là phần cơ sở lý luận rất quan trọng mà luận án sẽ tham khảo để so
sánh những điểm tương đồng và khác biệt giữa dân chủ tư sản và dân chủ xã
hội chủ nghĩa ở phạm vi và góc độ rộng hơn, bao quát hơn.
Lô Quốc Toản, Giáo trình lý luận về dân chủ [112]. Trong công trình
này, tác giả đã dành một tiết của Chương IV để so sánh những điểm giống và
khác nhau cơ bản của dân chủ xã hội chủ nghĩa so với dân chủ tư sản. Trong
đó, về những điểm giống nhau, tác giả nêu rõ: Một là, cả dân chủ tư sản và
dân chủ xã hội chủ nghĩa đều phải thực hành dân chủ thông qua hình thức nhà
nước pháp quyền; Hai là, cả dân chủ tư sản và dân chủ xã hội chủ nghĩa đều
đề cao nguyên tắc quyền lực thuộc về nhân dân; Ba là, chế độ dân chủ xã hội
chủ nghĩa cũng như chế độ dân chủ tư sản đều bị quy định bởi trình độ phát
triển của kinh tế, khoa học - kỹ thuật, giáo dục, dân trí và thông tin. Về những
điểm khác nhau, theo tác giả Lô Quốc Toản, một...để chuyển từ đấu tranh đòi cải thiện dân sinh dân chủ sang đấu tranh vì
chủ nghĩa xã hội, tức là vì dân chủ thực sự, triệt để nhất. V.I. Lênin đã chỉ
rõ, chính chủ nghĩa tư bản trong tiến trình phát triển của nó đã dẫn tới các
tiền đề cho sự chín muồi đầy đủ của dân chủ và một khi dân chủ đã phát
triển đầy đủ thì nó không thể dung nạp được trật tự tư sản. Do vậy, chủ
nghĩa xã hội thắng lợi nhất thiết phải thực hiện chế độ dân chủ hoàn toàn.
2.1.1.3. Quan niệm của chủ nghĩa Mác - Lênin về dân chủ tư sản và
dân chủ xã hội chủ nghĩa
Về nền dân chủ tư sản, nghiên cứu vấn đề dân chủ được đặt ra trong
điều kiện phải đấu tranh trực tiếp với những quan điểm tư sản về dân chủ; sự
tuyệt đối hóa những giá trị dân chủ đạt được trong chủ nghĩa tư bản đương
thời cũng như nhu cầu thực tiễn phải vượt qua dân chủ tư sản, C.Mác và
Ph.Ăngghen trước hết vạch trần bản chất giả dối của dân chủ tư sản.
Ph.Ăngghen viết về chế độ dân chủ tư sản như sau:
Chế độ dân chủ, giống như bất kỳ chính thể nào khác, cũng là sự
dối trá, chẳng qua cũng chỉ là sự giả dối... Tự do chính trị là tự do
giả, là chế độ nô lệ tồi nhất; nó chỉ là cái vẻ bề ngoài của tự do, và
vì thế, trên thực tế, nó là chế độ nô lệ. Bình đẳng chính trị cũng như
vậy, vì thế chế độ dân chủ (tức là dân chủ trong chủ nghĩa tư bản -
31
người trích), giống như bất kỳ mọi hình thức quản lý nào khác, cuối
cùng phải tan rã; sự giả dối không thể tồn tại lâu dài, mâu thuẫn che
đậy ở trong đó tất yếu sẽ bộc lộ ra; hoặc là chế độ nô lệ thực sự, tức
là chế độ chuyên chế không che đậy, hoặc là tự do thực sự và bình
đẳng thực sự, tức là chủ nghĩa cộng sản [15, tr.723].
Khi nghiên cứu tư tưởng trên đây của Ph.Ăngghen, cần lưu ý rằng: một
là, chế độ dân chủ mà ông viết ở đây là chế độ dân chủ tư sản; hai là, dân chủ
tư sản chỉ là giả dối, là bức màn che của bản chất nô lệ trong chủ nghĩa tư
bản; ba là, nền dân chủ đó chứa đầy mâu thuẫn mà sự vận động nội tại của
những mâu thuẫn ấy nhất định sẽ dẫn chế độ dân chủ tư sản đến chỗ tiêu
vong; bốn là, tự do, bình đẳng thực sự chỉ đạt được trong chủ nghĩa cộng sản.
Như vậy, việc phân tích tính chất tạm thời, tính chất nhất định sẽ bị vượt qua
của dân chủ tư sản đã đưa các nhà kinh điển mácxít đến tư tưởng về cách
mạng xã hội chủ nghĩa như là bước đi tất yếu để tiến tới một xã hội dân chủ
chân chính mà đỉnh cao nhất trong sự phát triển của nó, dân chủ sẽ tiêu vong
[96, tr.10].
Về bản chất của nền dân chủ xã hội chủ nghĩa, theo các nhà kinh điển
của chủ nghĩa Mác - Lênin, thực chất của dân chủ xã hội chủ nghĩa là quyền
lực chính trị thuộc về giai cấp công nhân: "Trước hết nó tạo ra một chế độ dân
chủ mà nhờ đó trực tiếp hay gián tiếp tạo ra quyền thống trị chính trị của giai
cấp vô sản" [17, tr.469].
Với tư cách đó, dân chủ là bản chất của chủ nghĩa cộng sản: "đối với
giai cấp công nhân, dân chủ và chủ nghĩa cộng sản là những danh từ hoàn
toàn đồng nghĩa" [16, tr.749]. Xã hội còn giai cấp và nhà nước thì tất yếu nền
dân chủ cũng mang tính giai cấp. Tuy nhiên, trong chủ nghĩa xã hội, lợi ích
của giai cấp công nhân thống nhất với lợi ích của đa số nhân dân lao động nên
đây là nền dân chủ giành cho số đông, nó khác về chất so với các kiểu dân
chủ đã có trong lịch sử.
32
C.Mác và Ph.Ăngghen cũng cho rằng, việc thực hiện dân chủ xã hội
chủ nghĩa gắn với bảo đảm các quyền tự do, bình đẳng của công dân. Theo
các ông: " những quyền tự do như tự do báo chí, tự do lập hội và tự do hội
họp, quyền đầu phiếu phổ thông, quyền tự trị của địa phương - những quyền
mà nếu không có thì công nhân sẽ không bao giờ có thể giải phóng được
mình" [20, tr.98-99]. Trong bối cảnh giữa thế kỷ XIX, khi nền dân chủ xã hội
chủ nghĩa mới ở giai đoạn phôi thai về mặt lý luận, các ông đã nhận ra cơ sở
nền tảng để thực hiện nó: "Mặc dầu quần chúng không phải bao giờ cũng hiểu
được rõ ràng cái ý nghĩa duy nhất chính xác đó của dân chủ nhưng đối với họ,
cái khái niệm dân chủ đã bao hàm khát vọng, tuy còn mơ hồ, về bình đẳng xã
hội" [16, tr.791]. Rất nhiều công trình nghiên cứu sau này đều có nhận định,
quyền bình đẳng xã hội của các công dân là tiền đề quan trọng nhất trong thực
hiện dân chủ [2, tr.10-21].
Kế thừa tư tưởng của C.Mác và Ph.Ăngghen, từ thực tiễn của cách
mạng vô sản Nga, V.I.Lênin đã tiếp tục hoàn thiện, phát triển quan niệm về
dân chủ. Trước hết, V.I.Lênin đã đưa ra những đánh giá khách quan, khoa học
về nền dân chủ tư sản. Theo ông, tư tưởng dân chủ tư sản là một nấc thang
trong tiến trình phát triển của tư tưởng dân chủ của nhân loại. Sự vận hành
của chế độ dân chủ tư sản trên thực tế đã tạo ra những thành tựu dân chủ quan
trọng. Tuy nhiên, hạn chế lịch sử của nó là "tính ước lệ, hạn hẹp". Xã hội tư
bản chủ nghĩa, xét trong những điều kiện phát triển thuận lợi nhất của nó, đem
lại một chế độ dân chủ ít nhiều đầy đủ trong chế độ cộng hoà dân chủ. Những
chế độ dân chủ ấy luôn bị bó buộc trong khuôn khổ chật hẹp của sự bóc lột tư
bản chủ nghĩa. Nó luôn là chế độ dân chủ đối với thiểu số, là chế độ dân chủ
của giai cấp có của, giàu có. So sánh nền dân chủ tư sản và nền dân chủ vô
sản, trong tác phẩm Cách mạng vô sản và tên phản bội Cauxky, V.I.Lênin đã
có một luận điểm nổi tiếng khi khẳng định "nền dân chủ vô sản hơn gấp triệu
lần nền dân chủ tư sản". Những luận cứ điển hình mà ông đưa ra để làm sáng
33
tỏ quan điểm của mình là: Sau khi đánh đổ chế độ Nga sa hoàng, giai cấp
công nhân và nhân dân lao động đã xóa bỏ toàn bộ hệ thống chính quyền cũ,
xây dựng hệ thống chính quyền mới gọi là các "xô viết", về thực chất, quyền
lực của các xô viết này là do giai cấp công nhân và nhân dân lao động quyết
định. Cũng tại nước Nga, sau khi cách mạng thành công, các quyền tự do, dân
chủ cơ bản của công dân như tự do hội họp, tự do đi lại, tự do báo chí được
thực hiện trong thực tế cho hầu hết nhân dân lao động: "quyền tự do xuất bản
không còn là một cái gì giả dối nữa, vì các nhà in giấy đã được tước đoạt khỏi
tay giai cấp tư sản. Các lâu đài, các dinh thự, các tư thất, các nhà ở tốt nhất
cũng thế.
Có thể thấy tư tưởng nổi bật của ông về nền dân chủ xã hội chủ nghĩa là
nền dân chủ dựa trên và gắn liền với các quyền tự do cơ bản của con người -
điều mà nhà triết học Anh John Locke đã đưa ra từ thế kỷ XVII. Các quyền ấy
được thực hiện trong thực tế cho hầu hết nhân dân lao động chứ không phải
chỉ là những lời tuyên bố suông [96]. Liên hệ với tình hình thực tế cuộc sống
của giai cấp công nhân và nhân dân lao động trong những năm đầu thế kỷ XX
- khi mà đại bộ phận nhân dân lao động tại các nước Á, Phi, Mỹ Latinh đang
chịu cảnh nô lệ; giai cấp công nhân và nhân dân lao động tại các nước tư bản
đang bị bóc lột sức lao động một cách nặng nề sẽ thấy rõ, V.I.Lênin đã từ
những ví dụ thực tế và sinh động đó mà đi đến kết luận: "Chế độ dân chủ vô
sản so với bất cứ chế độ dân chủ tư sản nào, cũng dân chủ hơn gấp triệu lần,
chính quyền xô viết, so với các cộng hòa tư sản dân chủ nhất, cũng dân chủ
hơn gấp triệu lần" [126, tr.312-313].
2.1.2. Một số cách tiếp cận xung quanh khái niệm dân chủ hiện nay
Từ những nội dung cơ bản ban đầu của khái niệm, trong những điều
kiện, hoàn cảnh lịch sử khác nhau, tùy theo sự vận động, biến đổi phức tạp
của thực tiễn dân chủ, khái niệm dân chủ được người ta hiểu và sử dụng với
nhiều chiều cạnh, ý nghĩa khác nhau. Trên phương diện học thuật, hiện tượng
34
xã hội lịch sử phức tạp này từ lâu đã trở thành đối tượng nghiên cứu lý thú
của nhiều khoa học khác nhau trong hệ thống các khoa học xã hội và nhân
văn. Dân chủ được nghiên cứu dưới góc độ của triết học, chính trị học, luật
học, xã hội học, hành chính học, sử học, tâm lý học, đạo đức học, văn hóa
học... Trên phương diện chính trị thực tiễn, dân chủ được nhìn nhận, đánh giá,
lý giải cũng rất đa dạng, phong phú, thậm chí là trái ngược nhau do sự khác
nhau về lợi ích, lập trường giai cấp, thể chế chính trị, trình độ hiểu biết, đặc
thù văn hóa...
Thực tế đời sống tư tưởng, lý luận ở nước ta hiện nay có nhiều cách
tiếp cận đối với khái niệm dân chủ. Dưới đây, chúng tôi trình bày khái quát
một số cách tiếp cận cơ bản về khái niệm dân chủ nhằm hiểu sâu sắc hơn
nhiều chiều cạnh của khái niệm không đơn giản này [79, tr.28-32].
Thứ nhất, cách tiếp cận xem dân chủ là một phạm trù chính trị, nó chỉ
ra đời, tồn tại trong xã hội có giai cấp.
Theo cách tiếp cận này, dân chủ tuy đã có mầm mống từ trong xã hội
cộng sản nguyên thủy nhưng nó xuất hiện đầy đủ như một chế độ chính trị,
chế độ nhà nước trong xã hội có giai cấp. Dân chủ với tư cách là chế độ nhà
nước, chế độ chính trị, là một hình thức lịch sử tất yếu của việc tổ chức và
thực thi quyền lực của xã hội có giai cấp và đấu tranh giai cấp. Đây là phạm
trù lịch sử. Theo đó, khi nhà nước không còn thì dân chủ cũng tiêu vong; nhà
nước tự tiêu vong thì chế độ dân chủ cũng trở nên thừa. Tiếp cận như thế,
quan niệm như thế về dân chủ là không sai. Đó là lôgíc tất yếu khách quan
của dân chủ với tính cách là chế độ chính trị, chế độ nhà nước.
Tuy nhiên, cách tiếp cận này có ý nghĩa về nhận thức luận cơ bản thì lại
không có nhiều ý nghĩa trực tiếp đối với các nghiên cứu ứng dụng về dân chủ
trong bối cảnh hiện nay. Chính trị là mối quan hệ giữa các giai cấp và lôgíc
khách quan của dân chủ, của chính trị là xóa bỏ giai cấp. Muốn thực hiện
thành công việc đó, trước hết giai cấp công nhân và nhân dân lao động phải
35
giành lấy quyền lực nhà nước (giành lấy dân chủ). Nhưng, khi đã có chính
quyền, một trong những nhiệm vụ cơ bản về mặt chính trị của chủ nghĩa xã
hội là xây dựng nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa, hoàn thiện chế độ dân
chủ xã hội chủ nghĩa mà vẫn tiếp tục thực hành dân chủ theo tinh thần xóa bỏ
giai cấp, dân chủ tiêu vong thì sẽ là không phù hợp.
Tính giai cấp của dân chủ là một thực tế lịch sử. Chừng nào xã hội còn
tồn tại giai cấp và nhà nước thì bản chất giai cấp của dân chủ vẫn còn tồn tại.
Trong hoàn cảnh lịch sử đó, bản chất giai cấp của dân chủ đặc biệt nổi bật
trong dân chủ chính trị. Nhưng trong điều kiện như thế, nếu tuyệt đối hóa tính
giai cấp của dân chủ, đề cao dân chủ về chính trị, xem nhẹ dân chủ trên các
lĩnh vực khác thì cũng tai hại không kém việc phủ nhận, lảng tránh bản chất
giai cấp của dân chủ [79, tr.28-32].
Thứ hai, cách tiếp cận coi nhân quyền là bộ phận cốt lõi của dân chủ,
đồng thời cho rằng nhân quyền cao hơn chủ quyền; và, xem dân chủ là một
giá trị phổ biến, có tính toàn nhân loại, thời gian và không gian không có
giá trị nhiều trong việc làm nó biến đổi.
Ở vế thứ nhất, quan niệm trên có mặt hợp lý nhưng có điểm sai lầm.
Đúng ở chỗ: nhân quyền là một bộ phận của dân chủ và đấu tranh cho quyền
con người là một bộ phận của cuộc đấu tranh cho dân chủ. Sai lầm ở chỗ, đã
nhấn mạnh nhóm quyền dân sự, chính trị và tự do cá nhân, coi đây là "chuẩn
mực quốc tế" về dân chủ, nhân quyền; coi "nhân quyền cao hơn chủ quyền",
nhân quyền không còn là công việc thuộc nội bộ của một nước và cho rằng,
cộng đồng quốc tế có quyền tiến công vào bên trong lãnh thổ của một quốc
gia để can thiệp nhân đạo và bảo vệ nhân quyền...
Quan điểm trên chỉ là một hình thức biến tướng của chủ nghĩa thực dân
mới. Bởi vì trước đây, để mở rộng thuộc địa, các nước đế quốc thường sử
dụng phương thức cổ điển là đánh thành và chiếm đất. Còn ngày nay, họ trắng
trợn can thiệp vào nội bộ các nước có chủ quyền bằng nhiều âm mưu, thủ
36
đoạn và hình thức khác nhau, không hẳn vì mục đích xâm chiếm lãnh thổ mà
vì muốn áp đặt quan niệm “nhân quyền” của mình đối với quốc gia, dân tộc
khác. Cần phải nói ngay rằng, những người đưa ra và cổ súy cho luận thuyết
“nhân quyền cao hơn chủ quyền”, hay “nhân quyền toàn cầu”, “nhân quyền
không biên giới”, ngay từ đầu họ đã cố tình hoặc lảng tránh một lẽ đơn giản
là, trên thế giới không thể có một con người nào sống ngoài cộng đồng quốc
gia, dân tộc; càng không có cái thế giới tồn tại mà không cần rạch ròi biên
giới giữa các quốc gia. Họ cũng bỏ qua một sự thật hiển nhiên là, thời đại mà
chúng ta đang sống có hơn 200 quốc gia và vùng lãnh thổ, hàng nghìn dân tộc
khác nhau, theo những tôn giáo khác nhau và có truyền thống văn hóa khác
nhau. Trong các quốc gia và vùng lãnh thổ đó, con người thuộc các chế độ
chính trị - xã hội khác nhau, cùng một lúc chịu sự tác động của hai mối quan
hệ: quan hệ về nhân quyền và quan hệ về chủ quyền quốc gia. Quan hệ nhân
quyền là quan hệ về cá nhân, còn quan hệ chủ quyền quốc gia là quan hệ cộng
đồng các cá nhân trong quốc gia đó. Hai mối quan hệ cơ bản của con người là
nhân quyền và chủ quyền quốc gia không cùng một bậc, không cùng một
tuyến tiếp cận, và do đó, không thể đem so sánh cái này cao hoặc thấp hơn cái
kia. Việc quy chủ quyền quốc gia về cùng một bậc với nhân quyền, rồi coi
“nhân quyền” cao hơn “chủ quyền” là một việc làm khiên cưỡng, không
lôgíc, phản khoa học và thiếu tính thuyết phục.
Thực tế lịch sử cho thấy, đối với một dân tộc còn đang bị đế quốc đô hộ
thì yêu cầu quan trọng nhất là quyền được sống trong một quốc gia độc lập,
có chủ quyền. Không có độc lập dân tộc, không có chủ quyền quốc gia thì
không thể có quyền công dân, quyền con người theo đúng nghĩa của các từ
đó. Truyền thống dựng nước và giữ nước của cha ông cho chúng ta bài học về
quyền dân chủ, quyền con người. Nước mất thì nhà tan, dân khổ; nước thịnh
thì nhà yên, dân cường. Giành được chủ quyền là điều kiện để có nhân quyền.
Bảo đảm độc lập dân tộc, chủ quyền quốc gia là một bộ phận cốt lõi, là điều
37
kiện khởi đầu trong cuộc đấu tranh cho quyền công dân, quyền con người.
Nhân quyền trước hết là quyền của mỗi người, mỗi dân tộc được tự quyết,
được sống trong độc lập, tự do và được phát triển về mọi mặt; các quyền dân
sự, chính trị phải gắn liền với các quyền kinh tế, xã hội, văn hóa; tự do cá
nhân phải gắn với lợi ích chung của dân tộc và trách nhiệm, nghĩa vụ với cộng
đồng. Bảo đảm và thực hiện quyền con người trước hết là trách nhiệm quốc
gia, không thể có sự áp đặt, can thiệp từ bên ngoài.
Vế thứ hai của quan niệm trên xem dân chủ là một giá trị phổ biến, có
tính toàn nhân loại, phi giai cấp, phi lịch sử. Sai lầm của quan niệm này là đã
tuyệt đối hóa cái chung, cái phổ biến của dân chủ, xem chúng tồn tại độc lập
không phụ thuộc vào cái riêng. Những nước nào không thực hiện theo những
cái chung này thì không được họ xem là dân chủ. Trên thực tế, quan niệm này
tuyệt đối hóa các giá trị dân chủ, nhân quyền đạt được dưới chủ nghĩa tư bản,
nhất là ở phương Tây, đặc biệt là dân chủ, nhân quyền kiểu Mỹ. Họ xem nhân
quyền phương Tây, dân chủ kiểu Mỹ là "khuôn vàng, thước ngọc" buộc mọi
nước phải khuôn theo. Theo đó, dân chủ đồng nghĩa với Mỹ, với phương Tây.
Họ xem nhân quyền phương Tây, dân chủ kiểu Mỹ là chuẩn mực quốc tế mà
các nước tất yếu phải tuân thủ trong quá trình phát triển và hội nhập quốc tế.
Chúng ta không phủ nhận, giữa các loại hình dân chủ, nhân quyền khác
nhau đều có những giá trị chung, mang tính phổ biến. Nhưng thực tế lịch sử
chứng minh rằng, những cái chung, phổ biến ấy bao giờ cũng biểu hiện sự tồn
tại của nó bằng nhiều sắc thái, mức độ phong phú khác nhau thông qua những
nền dân chủ cụ thể. Các giá trị dân chủ, nhân quyền đó được thể hiện dưới
những hình thức khác nhau tùy theo điều kiện kinh tế, chính trị, xã hội, lịch sử
và văn hóa. Mô hình dân chủ của phương Tây và Mỹ chỉ là một trong những
kiểu phát triển, một trong những phương án phát triển dân chủ của chủ nghĩa
tư bản. Mặc dù nó tạo ra không ít giá trị dân chủ có tính phổ biến nhưng thực
chất đó chỉ là dân chủ của giai cấp tư sản, dân chủ của một số ít người trong
38
xã hội. Mô hình này ra đời, tồn tại trong điều kiện kinh tế, xã hội, văn hóa cụ
thể của nó. Mỹ và phương Tây không phải toàn nhân loại; và phần lớn nhân
loại không cư trú ở Mỹ và phương Tây. Do đó, nếu đồng nhất mô hình dân
chủ của phương Tây và Mỹ với dân chủ như chính bản thân nó thì sẽ là một
sai lầm nghiêm trọng cả về nhận thức và thực tiễn [79, tr.29-30].
Thứ ba, cách tiếp cận cho rằng, dân chủ và lãnh đạo là hai khái niệm
không thể tương dung; và muốn có dân chủ phải đa nguyên về chính trị
Quan niệm này cho rằng, đã có lãnh đạo là có định hướng. Có lãnh đạo
tức là buộc con người phải suy nghĩ và hành động theo một khuôn khổ nhất
định, và như thế là mất dân chủ (!). Những người có quan niệm này không
hiểu hoặc cố tình không hiểu rằng, trong đời sống tự nhiên bầy đàn của động
vật bao giờ cũng có chỉ huy, lãnh đạo theo nghĩa sơ giản nhất của từ này. Con
người là động vật - xã hội. Tính xã hội, tính cộng đồng là thuộc tính vốn có
của con người. Cộng đồng xã hội là cộng đồng có tổ chức cao và phức tạp. Để
tồn tại và phát triển, cộng đồng xã hội trong những điều kiện, hoàn cảnh khác
nhau không thể không có sự chỉ huy, điều khiển, lãnh đạo với những cá nhân,
tổ chức, những cách thức, tính chất nhất định. Vấn đề quan trọng là lãnh đạo,
chỉ huy như thế nào thì tạo ra dân chủ, thúc đẩy dân chủ phát triển và lãnh đạo
thế nào là cản trở, hủy hoại dân chủ.
Vai trò lãnh đạo có thể được thực hiện thông qua hoạt động của một cá
nhân, một tổ chức, thiết chế hoặc cả hai. Trong xã hội hiện đại, tổ chức thiết
chế có tác động định hướng, lãnh đạo hiệu quả nhất là đảng chính trị, nhất là
đảng chính trị (hoặc liên minh một số đảng) cầm quyền. Tuy nhiên, dân chủ
và phát triển không tùy thuộc một cách máy móc vào một công thức chung
duy nhất nào đó về cách thức tổ chức thực thi quyền lực hay số lượng đảng
tham chính. Có nước, nhờ đa đảng mà có dân chủ và phát triển. Có nước, đi
vào con đường ấy lại rơi vào bất ổn, huynh đệ tương tàn. Lịch sử chính trị thế
giới đương đại cũng cho thấy rằng, trình độ dân chủ và phát triển của một
39
quốc gia không tỷ lệ thuận với sự gia tăng của số lượng đảng chính trị. Hơn
nữa, trên thực tế, cái gọi là đa nguyên chính trị chỉ là đa nguyên đường lối
chính trị tư sản; đa đảng đối lập cũng chỉ là đa đảng tư sản tranh cử cầm
quyền. Về hình thức, các đảng chính trị đều "tự do", "bình đẳng" trong cuộc
cạnh tranh nghị trường và đều có khả năng thành đảng cầm quyền nhưng thực
tế chỉ có các đảng lớn, có thế lực (thực chất đều là đảng tư sản), có sự hậu
thuẫn của các tập đoàn tư bản độc quyền mới có khả năng chiến thắng. Nói
cách khác, đó vẫn là nhất nguyên hệ tư tưởng tư sản, độc đường lối chính trị
tư sản và độc đảng tư sản cầm quyền [79, tr.30-31].
Thực tiễn ở các nước xã hội chủ nghĩa Đông Âu, nhất là ở Liên Xô
trước đây cũng cho thấy, từ khi chấp nhận bỏ Ðiều 6 trong Hiến pháp của
Liên bang Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Xô viết, đã dẫn đến tình trạng xuất hiện
đa đảng và hậu quả là, Ðảng Cộng sản Liên Xô đã dần dần đánh mất quyền
lãnh đạo xã hội. Những sự thỏa hiệp về “dân chủ hóa”, về “công khai hóa”
hay “đa nguyên chính trị”, không những không làm cho người dân được dân
chủ hơn, không làm cho xã hội phát triển hơn, mà còn là mảnh đất rất màu mỡ
cho các thế lực thù địch đẩy mạnh các hoạt động chống phá, làm cho chế độ
xã hội chủ nghĩa theo mô hình Xô viết ở Liên Xô nhanh chóng sụp đổ.
Một số nước khác tuy có hệ thống chính trị đa nguyên, đa đảng nhưng
vẫn thường xuyên xảy ra khủng hoảng chính trị, đảo chính làm cho xã hội bất
ổn. Những bất ổn chính trị ở Ucraina hay ở Thái Lan diễn ra trong thời gian
gần đây là do nhiều nguyên nhân, nhưng nguyên nhân chủ yếu là do đảng cầm
quyền và đảng đối lập mâu thuẫn với nhau về lợi ích, dẫn đến đảng đối lập đã
kích động quần chúng biểu tình, đưa yêu sách lật đổ chính phủ hợp pháp đang
điều hành đất nước. Hậu quả là, quyền dân chủ của người dân bị lợi dụng
phục vụ cho mục đích riêng của từng đảng; xã hội gặp phải những khó khăn,
trở ngại trong quá trình phát triển. Như vậy, rõ ràng là, đâu phải cứ có đa đảng
mới có dân chủ, mới bảo đảm cho xã hội phát triển!
40
Thứ tư, quan niệm cho rằng, đi tới dân chủ phải bằng khoan dung, đối
thoại hòa bình và xem dân chủ đối lập với cách mạng, đối lập dân chủ với
chuyên chính.
Theo quan niệm này, lịch sử dân chủ chỉ là quá trình vận động êm đềm,
tuần tự, bởi dân chủ mang trong mình những giá trị nhân văn, đạo đức, bác ái.
Việc giải quyết các mâu thuẫn, xung đột trong nền dân chủ và trong quá trình
dân chủ hóa phải tuân thủ nguyên tắc khoan dung, đối thoại hòa bình. Theo
đó, đã có chuyên chính thì không có dân chủ, đã có dân chủ thì không có
chuyên chính. Quan niệm này phủ nhận tính tất yếu khách quan của sự ra đời
và phát triển nền dân chủ xã hội chủ nghĩa thông qua cách mạng vô sản, nhất
là bằng các biện pháp bạo lực, trấn áp. Theo họ, nền dân chủ tư sản phát triển
sẽ tự nó vượt khỏi giới hạn và tự thay đổi bản chất (!).
Lịch sử nhân loại nói chung và lịch sử dân chủ nói riêng đã chứng minh
rằng, quá trình lịch sử - tự nhiên là quá trình có sự thống nhất biện chứng giữa
liên tục và đứt đoạn, giữa tuần tự, dần dần và nhảy vọt, đột biến. Thực tế lịch
sử cho thấy, trên nhiều phương diện, đi tới dân chủ bằng khoan dung, đối
thoại hòa bình vẫn là một điều quý hiếm. Để có nền dân chủ như hiện nay,
người Pháp, người Anh, người Mỹ... đã phải làm cách mạng và không chỉ làm
cách mạng một lần; và để bảo vệ chế độ dân chủ tư sản của mình, hàng trăm
năm qua họ đã phải không ngừng tăng cường quân đội, cảnh sát, cả về nhân
lực, vũ khí tối tân, kể cả những nhà tù không cần xét xử.
Đúng như V.I.Lênin đã khái quát, dân chủ, với tư cách là một hình
thức nhà nước, một trong những hình thái của nhà nước, một mặt, là việc
"thi hành có tổ chức, có hệ thống sự cưỡng bức đối với người ta", "mặt khác
chế độ dân chủ có nghĩa là chính thức thừa nhận quyền bình đẳng giữa
những công dân, thừa nhận cho mọi người được quyền ngang nhau trong
việc xác định cơ cấu nhà nước và quản lý nhà nước" [123, tr.123]. Khi xã
hội còn tồn tại tình trạng phân chia giai cấp thì còn cần đến nhà nước với
tính cách là một công cụ của một giai cấp dùng để trấn áp sự đấu tranh của
các giai cấp khác, bảo vệ lợi ích của giai cấp mình, do vậy bất cứ nhà nước
41
nào cũng vừa có dân chủ, vừa có chuyên chính. Theo đó, trong thực tế,
không ở đâu, không ở nước nào cho phép tồn tại sự tự do vô tổ chức; bao
giờ dân chủ cũng gắn liền với kỷ cương, phép nước. Tự do, dân chủ phải
được thực hiện trong khuôn khổ Hiến pháp và pháp luật. Không như thế, thì
không có một chế độ chính trị, một nhà nước nào có thể đứng vững, dù chỉ
trong thời gian ngắn; đồng thời, quyền tự do, dân chủ của mỗi người dân
khó có thể bảo đảm [79, tr.31-32].
Dân chủ và chuyên chính đều là những tồn tại khách quan của mỗi nền
dân chủ. Dân chủ và chuyên chính là hai mặt đối lập nhưng thống nhất biện
chứng với nhau. Chế độ dân chủ không phải chỉ là chuyên chính, chuyên
chính không hoàn toàn đối lập và loại trừ dân chủ, chuyên chính là một mặt
của chế độ dân chủ, là cái bảo đảm thực tế cho dân chủ. Chủ tịch Hồ Chí
Minh đã từng khẳng định rất đúng rằng: Dân chủ và chuyên chính đi đôi với
nhau. Muốn dân chủ thực sự phải chuyên chính thực sự. Vì không chuyên
chính thực sự, bọn thù địch sẽ làm hại dân chủ của nhân dân. Dân chủ là cái
quý báu nhất của nhân dân, chuyên chính là cái khóa, cái cửa để phòng kẻ phá
hoại. Tất nhiên, mức độ, phạm vi, đối tượng dân chủ, chuyên chính ở các nhà
nước, các chế độ dân chủ sẽ không như nhau, do điều kiện lịch sử cụ thể quy
định. Chỉ thấy mặt này mà không thấy mặt kia, nhấn mạnh mặt này mà xem
nhẹ mặt khác sẽ ảnh hưởng đến sự tồn vong của nền dân chủ. Chính vì thế,
quan niệm cho rằng, đi tới dân chủ phải bằng khoan dung, đối thoại hòa bình
và xem dân chủ đối lập với cách mạng, đối lập dân chủ với chuyên chính
không những sai lầm cả về mặt lý luận, thực tiễn mà còn phản động về mặt
chính trị.
Thứ năm, xem dân chủ là sợi chỉ đỏ xuyên suốt chiều dài lịch sử; lịch
sử xã hội loài người là lịch sử vươn lên của dân chủ với nghĩa rộng nhất của
khái niệm đó.
Đây là cách tiếp cận hệ thống - cấu trúc theo phương pháp tổng hợp,
liên ngành về dân chủ. Phù hợp với quan điểm này, dân chủ là hiện tượng lịch
42
sử xã hội phức tạp gắn liền với sự tồn tại và phát triển của đời sống con
người. Theo đó, biện chứng của lịch sử dân chủ trên phạm vi toàn nhân loại
đã, đang và sẽ đi từ dân chủ tự quản cộng sản nguyên thủy đến dân chủ chủ
nô, dân chủ phong kiến, dân chủ tư sản và tiến tới dân chủ tự quản văn minh
trong xã hội cộng sản văn minh, mà bước quá độ lên hình thức dân chủ này là
dân chủ xã hội chủ nghĩa.
Ở đây, cần lưu ý, lịch sử dích dắc phức tạp của dân chủ cũng vận động
khách quan theo quy luật phủ định của phủ định, từ dân chủ tiền chính trị qua
dân chủ chính trị và đến dân chủ phi chính trị. Dân chủ, có những giá trị lịch
sử nhưng cũng có những giá trị vĩnh viễn, trường tồn. Theo cách hiểu này,
dân chủ, yêu cầu dân chủ bao quát mọi lĩnh vực của đời sống xã hội với các
đòi hỏi ngày một cao [79, tr.32].
Từ việc phân tích những cách tiếp cận khác nhau về dân chủ trên đây
có thể nhận thấy rằng, mỗi cách tiếp cận có mặt mạnh và mặt yếu của nó. Cần
phải biết chắt lọc, kết hợp một cách biện chứng những nhân tố hợp lý từ các
cách tiếp cận đó để có một quan niệm đúng đắn, khoa học về dân chủ.
Xét về nhiều mặt, cách tiếp cận thứ năm về dân chủ bảo đảm tính cấu
trúc - hệ thống và tính liên ngành trong tiếp cận nên đây là cách tiếp cận có
nhiều nhân tố hợp lý hơn cả. Phù hợp với cách tiếp cận này, dân chủ được
hiểu là phương thức quan hệ giữa người với người trên tất cả các lĩnh vực xã
hội, giữa các thiết chế xã hội, giữa các con người trong tất cả mọi cấp độ tồn
tại khác nhau của nó; là một hình thức tổ chức quan hệ xã hội thừa nhận
quyền tự do, bình đẳng của mỗi thành viên, thừa nhận nhân dân là chủ thể của
quyền lực. Theo đó, với tư cách là một chỉnh thể hiện thực bao gồm các khía
cạnh vật chất và tinh thần của dân chủ, từ kinh tế, chính trị, xã hội đến văn
hóa, dân chủ được định danh bằng thuật ngữ nền dân chủ hay chế độ dân chủ.
Như vậy, nền dân chủ hay chế độ dân chủ là một chỉnh thể xã hội được tổ
chức, vận hành theo các nguyên tắc, yêu cầu và chuẩn mực dân chủ. Với cách
43
tiếp cận toàn diện này, dù là cốt lõi và rất quan trọng nhưng nhà nước dân chủ
cũng chỉ là một trong những bộ phận cấu thành của nền dân chủ trong xã hội
có giai cấp mà thôi.
2.2. QUAN NIỆM VÀ NHỮNG NỘI DUNG TƯƠNG ĐỒNG VÀ KHÁC BIỆT
GIỮA DÂN CHỦ TƯ SẢN VÀ DÂN CHỦ XÃ HỘI CHỦ NGHĨA
2.2.1. Quan niệm về "tương đồng" và "khác biệt", "tương đồng
giữa dân chủ tư sản và dân chủ xã hội chủ nghĩa", "khác biệt giữa dân
chủ tư sản và dân chủ xã hội chủ nghĩa"
Theo Đại từ điển Tiếng Việt, khái niệm "tương đồng" được hiểu là "như
nhau, giống nhau" [139, tr.1768]. Trong ngôn ngữ tiếng Việt hiện nay, có các
từ tương tự như: sự giống nhau, sự tương đồng, sự thống nhất Những từ
này đều dùng để chỉ những mặt, thuộc tính, đặc điểm, mối liên hệ có ở
nhiều sự vật, hiện tượng khác nhau.
Trên phương diện triết học, cơ sở hình thành sự tương đồng giữa các sự
vật, hiện tượng có thể xuất phát từ bản thân các yếu tố cấu thành sự vật
(khách quan), có thể do nhu cầu của con người (chủ quan); ví dụ sắt, nhôm,
đồng đều có chung thuộc tính có thể dẫn nhiệt, dẫn điện, dát mỏng, kéo dài...
đây là thuộc tính tự nhiên của sự vật làm nên tính tương đồng của kim loại.
Trong xã hội, điểm tương đồng vừa có thể có nguồn gốc khách quan nhưng
cũng có thể do yếu tố chủ quan. Ví dụ, mọi dân tộc đều phải sản xuất ra của
cải để duy trì cuộc sống là điểm tương đồng khách quan; nhưng các dân tộc
khi bị áp bức, đều đấu tranh để giành lại quyền tự do thì đó là điểm tương
đồng có tính chủ quan (mong muốn của con người).
Từ đó, "tương đồng giữa dân chủ tư sản và dân chủ xã hội chủ nghĩa"
được hiểu là so sánh để tìm ra những nhận thức hay giá trị chung, phổ quát
của nhân loại giữa hai chế độ dân chủ này.
Theo Đại từ điển Tiếng Việt, khái niệm "khác biệt" được hiểu là:
"không giống hay những nét riêng biệt" [139, tr.883]. Trong ngôn ngữ tiếng
44
Việt hiện nay, có nhiều từ để chỉ nội dung này như: "khác nhau", "riêng biệt",
"khác biệt" Các khái niệm này đều dùng để chỉ những mặt, thuộc tính, mối
liên hệ, yếu tố cấu thành khác nhau trong cùng một sự vật, hiện tượng hay
giữa các sự vật, hiện tượng khác nhau.
Trên phương diện triết học, cơ sở hình thành sự khác nhau giữa các sự
vật, hiện tượng cũng có thể do yếu tố khách quan hoặc chủ quan. Ví dụ, yếu
tố cấu thành của nước và sắt là khác nhau (H,O và Fe) nên thuộc tính của hai
chất này khác nhau (khách quan); còn các dân tộc khi bị áp bức đều đấu tranh
chống áp bức nhưng mỗi dân tộc có phương pháp, cách thức khác nhau - đó là
sự khác biệt có tính chủ quan.
Từ đó, "khác biệt giữa dân chủ tư sản và dân chủ xã hội chủ nghĩa"
được hiểu là so sánh để tìm ra những sự khác nhau mang tính bản chất giữa
hai chế độ dân chủ này.
Khái niệm "tương đồng" và "khác biệt" trong luận án này rất gần với
cặp phạm trù "cái phổ biến" và "cái đặc thù"; cặp phạm trù "cái chung" và
"cái riêng". Những cặp phạm trù này đều là những phạm trù triết học thể
hiện những mối quan hệ khác nhau của thế giới cũng như trình độ nhận thức
những quan hệ ấy. Nó là những cặp phạm trù được hình thành trong tiến
trình phát triển của hoạt động nhận thức và thực tiễn của con người. Bởi thế,
để làm rõ khái niệm "tương đồng" và "khác biệt", cần làm rõ cặp phạm trù
có liên quan này.
Theo quan điểm mácxít, "cái riêng" là phạm trù "được dùng để chỉ một
sự vật, một hiện tượng, một quá trình riêng lẻ nhất định" [47, tr.237]. Cái
riêng tồn tại với tư cách là một chỉnh thể trong mối quan hệ độc lập tương đối
với những cái khác, nó bao gồm nhiều mặt, nhiều thuộc tính cấu thành nên.
Tuy nhiên, những mặt, thuộc tính tạo nên cái riêng lại có mức độ phổ biến
khác nhau: có những mặt, thuộc tính chỉ tồn tại ở một cái riêng mà không lặp
lại ở bất kỳ cái riêng nào khác... thực tiễn
vào các cơ quan tham mưu cho Đảng trong các cơ quan nhà nước và tổ chức
chính trị - xã hội. Tập hợp những đảng viên tiêu biểu về phẩm chất, năng lực
141
và kinh nghiệm thực tiễn vào các cơ quan tham mưu của Đảng, thúc đẩy quá
trình xây dựng và hoàn thiện thể chế Đảng lãnh đạo Nhà nước và xã hội.
Có làm được những đều nói trên thì mới thực hành được dân chủ trong
điều kiện một đảng duy nhất cầm quyền
Mặt khác, rất cần thiết phải nghiên cứu, xây dựng quy chế thực hiện
dân chủ trong Đảng; tiếp tục thể chế hóa, cụ thể hóa và thực hiện tốt nguyên
tắc tập trung dân chủ; thực hiện nghiêm túc quy chế chất vấn trong sinh hoạt
Đảng; thường xuyên tự phê bình và phê bình, đấu tranh chống chủ nghĩa cá
nhân, chủ nghĩa cơ hội và mọi hành động chia rẽ, bè phái; xây dựng đội ngũ
cán bộ đảng viên trong sạch, có phẩm chất, năng lực, có sức chiến đấu cao;
tăng cường công tác kiểm tra, kỷ luật của Đảng; có cơ chế bảo vệ người dám
đấu tranh với những tiêu cực trong bộ máy Đảng, Nhà nước; kiên quyết đưa
ra khỏi Đảng những kẻ thoái hoá, hư hỏng.
Một công việc đã xuất hiện nhưng chưa nghiêm túc và thường xuyên là
Đảng phải thực hiện nghiêm việc công khai hoá tài sản của cán bộ khi ứng cử,
bổ nhiệm cũng như khi họ rời cương vị đó. Cần phải có cơ chế công khai,
minh bạch về tài chính công, tài sản riêng, công khai về công tác tổ chức cán
bộ để mọi cán bộ, đảng viên dù muốn cũng không thể lộng quyền.
Mở rộng và phát huy dân chủ phải thực sự đi đôi với giữ vững kỷ
cương, xây dựng, bổ sung quy định về đề bạt, bổ nhiệm, quyền hạn và trách
nhiệm của người đứng đầu và quan hệ giữa người đứng đầu với tập thể lãnh
đạo; khen thưởng, bảo vệ những người dám đấu tranh, tố cáo những khuyết
điểm, sai phạm ngay trong tổ chức mình; đồng thời đấu tranh, xử lý những
người lợi dụng dân chủ để vu cáo, gây rối nội bộ. Dân chủ trong Đảng là bảo
đảm quyền được cung cấp thông tin của đảng viên, quyền được chất vấn cấp
uỷ và cán bộ lãnh đạo của mình về những chủ trương, chính sách, về công tác
tổ chức, quản lý các mặt của tổ chức đảng và cơ quan có liên quan đến từng
cấp uỷ viên và phải được trả lời của cấp ủy trong thời hạn quy định. Cán bộ,
142
đảng viên, ai cản trở thực hiện dân chủ, vi phạm quyền dân chủ của đảng viên
cần phải được xử lý nghiêm minh.
Thực hiện tốt dân chủ trong Đảng thì Đảng mới thống nhất được ý chí
và hành động, đấu tranh chống quan liêu, chống nguy cơ suy thoái về tư
tưởng chính trị, đạo đức lối sống của đảng viên. Thực hiện tốt dân chủ trong
Đảng sẽ tăng cường đoàn kết nội bộ, tạo không khí tích cực và tin cậy trong
đội ngũ cán bộ, đảng viên, tăng cường sức mạnh của tổ chức cơ sở đảng và
toàn Đảng. Bảo đảm dân chủ trong Đảng là cơ sở, điều kiện để mở rộng, phát
triển dân chủ trong xã hội. Tất nhiên, Đảng phải tạo điều kiện thuận lợi để
nhân dân tự giác, tích cực tham gia xây dựng, giám sát, bảo vệ Đảng. Làm
được như thế thì việc xây dựng, đổi mới, chỉnh đốn Đảng mới thành công,
việc thực hành dân chủ, mở rộng dân chủ trong Đảng mới thực sự có kết quả
và kéo theo là dân chủ trong hệ thống chính trị, trong toàn xã hội sẽ được thực
hiện một cách thực chất và đầy đủ.
TIỂU KẾT CHƯƠNG 4
Trên cơ sở phân tích thực chất những điểm tương đồng và khác biệt
giữa dân chủ tư sản và dân chủ xã hội chủ nghĩa, phân tích thực trạng vận
dụng và những vấn đề đặt ra trong quá trình vận dụng những điểm tương
đồng và khác biệt giữa dân chủ tư sản và dân chủ xã hội chủ nghĩa ở Việt
Nam hiện nay, ở chương này, luận án đã đưa ra một số gợi mở. Đó là: khi
đánh giá bản chất, sự tương đồng và khác biệt giữa dân chủ tư sản và dân
chủ xã hội chủ nghĩa phải nắm chắc phép biện chứng duy vật, cần nghiên
cứu có hệ thống nền dân chủ tư sản, tìm ra những điểm hợp lý, giá trị tích
cực để kế thừa vào thực tiễn Việt Nam.
Yêu cầu đặt ra đối với việc vận dụng những điểm tương đồng và
khác biệt giữa dân chủ tư sản và dân chủ xã hội chủ nghĩa trong xây dựng
nền dân chủ xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam hiện nay là cần vận dụng trên cơ
143
sở nhận thức đúng, phát triển sáng tạo chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ
Chí Minh về dân chủ; hai là phải gắn với việc chủ động đấu tranh chống
quan điểm, hành động sai trái, thù địch; ba là phải gắn với điều kiện cụ thể
của đất nước và xu thế khách quan của thời đại.
Về các giải pháp cơ bản nhằm tiếp tục vận dụng những điểm tương
đồng và khác biệt giữa dân chủ tư sản và dân chủ xã hội chủ nghĩa trong
xây dựng nền dân chủ xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam hiện nay, luận án đã
đưa ra 5 giải pháp chủ yếu:
Thứ nhất, nghiên cứu lý luận, tổng kết thực tiễn để làm rõ những nội
dung cần vận dụng từ kinh nghiệm xây dựng các nền dân chủ của các quốc
gia trên thế giới;
Thứ hai, xây dựng và hoàn thiện thể chế kinh tế thị trường định
hướng xã hội chủ nghĩa tạo ra cơ sở kinh tế vững chắc cho xây dựng dân
chủ xã hội chủ nghĩa;
Thứ ba, xây dựng và hoàn thiện nhà nước pháp quyền xã hội chủ
nghĩa của Nhân dân, do Nhân dân, vì Nhân dân;
Thứ tư, củng cố, phát triên cơ sở xã hội của nền dân chủ xã hội chủ
nghĩa ở Việt Nam và không ngừng nâng cao năng lực thực hành dân chủ
của người dân;
Thứ năm, tiếp tục nghiên cứu lý luận và tổng kết thực tiễn để xây
dựng, chỉnh đốn Đảng Cộng sản Việt Nam, thực hành dân chủ trong Đảng
nhằm tăng cường sự lãnh đạo của Đảng đối với xã hội.
Nghiên cứu những điểm gợi mở và thực hiện đồng bộ các yêu cầu,
các nhóm giải pháp nêu trên là con đường đúng đắn để công tác lý luận tiếp
tục làm tròn sứ mệnh dẫn đường đối với công cuộc đổi mới xây dựng chủ
nghĩa xã hội và phát triển nền dân chủ xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam trong
điều kiện mới.
144
KẾT LUẬN
1. Trên cơ sở tổng quan các tài liệu, các công trình nghiên cứu của các
tác giả trong và ngoài nước có liên quan đến vấn đề dân chủ, dân chủ xã hội
chủ nghĩa, dân chủ tư sản, luận án đã luận giải về thuật ngữ "dân chủ", quan
niệm của chủ nghĩa Mác - Lênin về dân chủ, dân chủ tư sản, dân chủ xã hội
chủ nghĩa. Mặt khác, luận án cũng đã phân tích hai khái niệm cơ bản là khái
niệm "tương đồng" và khái niệm "khác biệt", so sánh cặp khái niệm này trong
mối quan hệ với cặp phạm trù "cái chung" và "cái riêng" để thấy tính biện
chứng của sự "tương đồng" và "khác biệt"; từ đó rút ra khẳng định rằng: giữa
dân chủ tư sản và dân chủ xã hội chủ nghĩa có những điểm tương đồng và
những điểm khác biệt. Sự tương đồng và khác biệt giữa chúng có khi là bản
chất, có lúc chỉ mang tính tương đồng, chuyển hóa lẫn nhau, trong tương đồng
có khác biệt và ngược lại.
Từ đó, luận án đã nêu lên cơ sở lý luận và cơ sở thực tiễn chủ yếu để
phân tích, đánh giá thực chất những nội dung tương đồng và khác biệt giữa dân
chủ tư sản và dân chủ xã hội chủ nghĩa, luận giải những vấn đề đặt ra trong
nhận thức và vận dụng những điểm tương đồng và khác biệt giữa hai nền dân
chủ này trong xây dựng nền dân chủ xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam hiện nay.
2. Nghiên cứu thực chất những nội dung kinh tế, chính trị, văn hóa - xã
hội về sự tương đồng và khác biệt giữa dân chủ dân chủ tư sản và dân chủ xã
hội chủ nghĩa cho thấy: giữa dân chủ tư sản và dân chủ xã hội chủ nghĩa có
những điểm tương đồng vì chúng đều phản ánh khía cạnh, nội dung của chế
độ chính trị, những phạm trù của đời sống xã hội; giữa dân chủ tư sản và dân
chủ xã hội chủ nghĩa có những điểm khác biệt căn bản trên các lĩnh vực:
chính trị, kinh tế, văn hóa - xã hội.
Trên lập trường của chủ nghĩa duy vật lịch sử, nền dân chủ xã hội chủ
nghĩa ra đời sau, kế thừa các giá trị tích cực của các nền dân chủ trước đó,
trong đó có dân chủ tư sản.
145
Việt Nam đã vận dụng những điểm tương đồng và khác biệt giữa dân
chủ tư sản và dân chủ xã hội chủ nghĩa trong xây dựng nền dân chủ xã hội
chủ nghĩa trong hơn 30 năm đổi mới vừa qua và đạt được nhiều thành tựu
quan trọng. Tuy nhiên, những hạn chế cũng còn tồn tại rất lớn mà nguyên
nhân chính được chỉ ra là do Việt Nam thực hiện nền dân chủ xã hội chủ
nghĩa từ một xã hội tiền tư bản; thực hành dân chủ trong Đảng và trong Nhà
nước chưa đạt hiệu quả cao nên ảnh hưởng đến thực hành dân chủ trong xã
hội; trình độ dân trí chưa cao, các điều kiện để thực hành dân chủ còn rất
thiếu và yếu, chưa có ý thức pháp luật cũng có ảnh hưởng quan trọng đến thực
hành dân chủ.
Yêu cầu đặt ra đối với việc vận dụng những điểm tương đồng và khác
biệt giữa dân chủ tư sản và dân chủ xã hội chủ nghĩa trong xây dựng nền dân
chủ xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam hiện nay là cần vận dụng trên cơ sở nhận
thức đúng, phát triển sáng tạo chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh
về dân chủ; hai là phải gắn với việc chủ động đấu tranh chống quan điểm,
hành động sai trái, thù địch; ba là phải gắn với điều kiện cụ thể của đất nước
và xu thế khách quan của thời đại.
3. Dân chủ là một giá trị phổ biến của toàn nhân loại. Lịch sử phát triển
của các nước trên thế giới cho thấy, quốc gia nào cũng cố gắng hướng tới thực
hiện dân chủ theo quan niệm, cách thức, phương pháp của mình trên cơ sở
phù hợp với điều kiện lịch sử cụ thể. Không có mô hình chung về dân chủ cho
tất cả các nước. Tuy nhiên, có thể khẳng định rằng việc thực hành dân chủ ở
mỗi nước đều có những điểm hợp lý cũng như những hạn chế nhất định.
Nghiên cứu những điểm tương đồng và khác biệt giữa dân chủ tư sản
và dân chủ xã hội chủ nghĩa, từ đó có những đánh giá khách quan thành tựu
dân chủ tư sản, tính chất, trình độ dân chủ xã hội chủ nghĩa trong thời kỳ quá
độ lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam là cơ sở khoa học để tiếp thu có chọn lọc
các giá trị dân chủ của nhân loại được biểu hiện ở chủ nghĩa tư bản. Có thể
khẳng định rằng đó là sự phát triển trình độ dân chủ của văn minh nhân loại
146
được biểu hiện ở chủ nghĩa tư bản chứ không phải là sản phẩm riêng của chủ
nghĩa tư bản. Việt Nam không tiếp thu bản chất giai cấp của dân chủ tư sản,
nhưng tiếp thu, học tập các hình thức thực hiện để đảm bảo quyền lực nhà
nước thực sự thuộc về nhân dân. Chỉ khi nhận thức dân chủ trong thời kỳ quá
độ khác với dân chủ trong xã hội xã hội chủ nghĩa, mới cho phép học tập, vận
dụng, thực hiện đa dạng các hình thức dân chủ khác nhau. Đó cũng là sự phù
hợp của kiến trúc thượng tầng với cơ sở hạ tầng thời kỳ quá độ.
Trong khi chưa tìm ra những hình thức đặc thù để thực hiện dân chủ xã
hội chủ nghĩa, cần mạnh dạn nghiên cứu, áp dụng những hình thức dân chủ
mà nhân loại đã trải qua, được thực tiễn kiểm nghiệm là hiệu quả để vận
dụng, ví như: nhân dân trực tiếp thể hiện ý kiến của mình trước các vấn đề lớn
của đất nước thông qua trưng cầu dân ý; cơ chế cụ thể để nhân dân bãi miễn
đại biểu của mình khi không còn phù hợp, hoặc trực tiếp lựa chọn người lãnh
đạo của mình thông qua bầu cử...
4. Trong điều kiện mới, để tiếp tục đổi mới tư duy, phát triển nhận thức
lý luận về dân chủ xã hội chủ nghĩa và xây dựng nền dân chủ xã hội chủ nghĩa
ở Việt Nam cần tập trung giải quyết đúng đắn những mâu thuẫn đặt ra trên cơ
sở tuân thủ những nhóm giải pháp cơ bản với giải pháp cụ thể.
147
DANH MỤC CÔNG TRÌNH CỦA TÁC GIẢ
LIÊN QUAN ĐẾN LUẬN ÁN
1. Đỗ Thị Thạch, Lê Thị Thu Mai (2014), Nền dân chủ ở Cộng hòa Ấn Độ và
tham chiếu ở Việt Nam, tại trang ngày 12/8.
2. Lê Thị Thu Mai (2015), "Những điểm tương đồng và khác biệt giữa dân chủ
tư sản và dân chủ xã hội chủ nghĩa", Kỷ yếu Hội thảo khoa học Nhận
thức mới về chủ nghĩa xã hội Việt Nam - Những vấn đề lý luận và thực
tiễn, Học viện Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh, Hà Nội.
3. Lê Thị Thu Mai (2017), "Tư tưởng của V.I. Lênin về chuyên chính vô sản
và sự vận dụng sáng tạo của Đảng Cộng sản Việt Nam trong bối cảnh
hiện nay", Tạp chí Giáo dục và xã hội, (139) , tr.54-58.
4. Lê Thị Thu Mai (2017), "Góp phần tìm hiểu tư tưởng Hồ Chí Minh về dân
chủ", Tạp chí Dạy và học ngày nay, (9), tr.13-14.
148
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Alexis De Tocqueville (Phạm Toàn dịch, Bùi Văn Nam Sơn hiệu đính)
(2008), Nền dân trị Mỹ, NXB Tri thức, Hà Nội.
2. Angelo Serrillo (2014), "Chủ nghĩa tự do, chủ nghĩa Mác và xem xét lại lý
thuyết dân chủ", Thông tin những vấn đề lý luận, (7).
3. Nguyễn Đức Bách (1991), "Mấy vấn đề về dân chủ và hệ thống chính trị ở
nước ta hiện nay dưới góc độ quan hệ giữa các lợi ích", Tạp chí
Nghiên cứu lý luận, (5).
4. Nguyễn Đức Bách (2007), "Về nhận thức, bổ sung, phát triển các luận điểm
trong chủ nghĩa xã hội khoa học", Tạp chí Lý luận chính trị, (3).
5. Nguyễn Đức Bách (2008),"Dân chủ là điều kiện, động lực và mục tiêu của
hoạt động khoa học xã hội - nhân văn ở nước ta, Dân chủ trong nghiên
cứu về khoa học xã hội - nhân văn, NXB Chính trị quốc gia, Hà Nội.
6. Nguyễn Đức Bách (2009), "Về một số biểu hiện "tự diễn biến trong nội bộ
ta" cần phòng ngừa và khắc phục", Tạp chí Tuyên giáo, (11).
7. Nguyễn Đức Bách (2016), Tập bài giảng Phương pháp nghiên cứu chủ nghĩa
xã hội (cho đào tạo sau đại học - Đại học Quốc gia Hà Nội, Chương
III: Phương pháp nghiên cứu về dân chủ và dân chủ xã hội chủ nghĩa,
Hà Nội.
8. Hoàng Chí Bảo, Nguyễn Thanh Tuấn và Nguyễn Lam Sơn (1991), Chủ
nghĩa xã hội - dân chủ, huyền thoại và bi kịch, NXB Sự thật, Hà Nội.
9. Hoàng Chí Bảo (1992), "Tổng quan về dân chủ và cơ chế thực hiện dân chủ
xã hội chủ nghĩa ở nước ta: quan điểm, lý luận và phương pháp nghiên
cứu", Tạp chí Thông tin lý luận, (9), tr.7-11.
10. Hoàng Chí Bảo (2006), "Thành tựu hai mươi năm đổi mới - thành tựu của
dân chủ", Tạp chí Lịch sử Đảng, (9).
11. Phạm Văn Bính (2007), Phương pháp dân chủ Hồ Chí Minh, NXB Chính trị
quốc gia, Hà Nội.
149
12. C.Mác (1962), Bản thảo kinh tế - triết học năm 1844, NXB Sự thật, Hà Nội.
13. C.Mác, Ph.Ănghen (1983), Tuyển tập, tập I, NXB Sự thật, Hà Nội.
14. C.Mác, Ph.Ănghen (1984), Tuyển tập, tập VI, NXB Sự thật, Hà Nội.
15. C.Mác, Ph.Ăngghen (1995), Toàn tập, tập 1, NXB Chính trị quốc gia,
Hà Nội.
16. C.Mác, Ph.Ăngghen (1995), Toàn tập, tập 2, NXB Chính trị quốc gia,
Hà Nội.
17. C.Mác, Ph.Ăngghen (1995), Toàn tập, tập 4, NXB Chính trị quốc gia,
Hà Nội.
18. C.Mác, Ph.Ăngghen (1993), Toàn tập, tập 7, NXB Chính trị quốc gia,
Hà Nội.
19. C.Mác, Ph.Ăngghen (1995), Toàn tập, tập 8, NXB Chính trị quốc gia,
Hà Nội.
20. C.Mác, Ph.Ăngghen (1994), Toàn tập, tập 16, NXB Chính trị quốc gia,
Hà Nội.
21. C.Mác, Ph.Ăngghen (1995), Toàn tập, tập 17, NXB Chính trị quốc gia,
Hà Nội.
22. C.Mác, Ph.Ăngghen (1995), Toàn tập, tập 19, NXB Chính trị quốc gia,
Hà Nội.
23. C.Mác, Ph.Ăngghen (1995), Toàn tập, tập 36, NXB Chính trị quốc gia,
Hà Nội.
24. Quang Cận (1997), "Một cách tiếp cận về sở hữu xã hội chủ nghĩa và nền
dân chủ xã hội chủ nghĩa", Tạp chí Cộng sản, (21).
25. Nguyễn Trọng Chuẩn (2006), "Toàn cầu hóa hiện nay và quá trình dân chủ
hóa đời sống xã hội", Tạp chí Triết học, (1).
26. Nguyễn Trọng Chuẩn (2014), "Một số vấn đề về dân chủ", Tạp chí Triết
học, (1), tr.9-21.
150
27. Nguyễn Hồng Chuyên (2014), Thực hiện pháp luật về dân chủ ở cấp xã
theo yêu cầu xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt
Nam, Luận án Tiến sĩ Luật học, Học viện Chính trị quốc gia Hồ Chí
Minh, Hà Nội.
28. Vũ Hoàng Công (2009), Xây dựng và phát triển nền dân chủ xã hội chủ
nghĩa trong điều kiện kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa,
NXB Chính trị - Hành chính, Hà Nội.
29. Vũ Hoàng Công (2013), Vấn đề dân chủ trong các văn kiện Đại hội XI của
Đảng, tại trang [truy cập ngày 23-5-2015].
30. Cục Lý luận - Ban Tuyên truyền Trung ương Đảng Cộng sản Trung Quốc
(2013), Trung Quốc đối mặt với những điểm nóng lý luận, NXB Chính
trị quốc gia, Hà Nội
31. Ngô Huy Cương (2006), Dân chủ và pháp luật dân chủ, NXB Tư pháp, Hà Nội.
32. David Held (2013), Các mô hình quản lý nhà nước hiện đại (bản dịch của
Phạm Nguyên Trường; Đinh Tuấn Minh hiệu đính), NXB Tri Thức,
Hà Nội.
33. Trần Hữu Dũng (2007), "Dân chủ và phát triển: Lý thuyết và chứng cớ",
Tạp chí Thời đại, (10).
34. Đại học Quốc gia Thành phố Hồ Chí Minh - Đại học Khoa học xã hội và
Nhân văn, Khoa Triết học (2004), Tư tưởng của V.I.Lênin về dân chủ,
NXB Chính trị quốc gia, Hà Nội.
35. Đài Tiếng nói quốc tế nước Nga (2012), Những vấn đề của nền dân chủ
Mỹ, tại trang [truy cập ngày 20/8/2017].
36. Đảng Cộng sản Việt Nam (2005), Văn kiện Đại hội Đảng thời kỳ đổi mới
(Đại hội VI, VII, VIII, IX), NXB Chính trị quốc gia, Hà Nội.
37. Đảng Cộng sản Việt Nam (2015), Báo cáo tổng kết một số vấn đề lý luận -
thực tiễn qua 30 năm đổi mới (1986-2016), NXB Chính trị quốc gia,
Hà Nội.
151
38. Đảng Cộng sản Việt Nam (2016), Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần
thứ XII, NXB Chính trị quốc gia Sự thật, Hà Nội.
39. Hà Đăng (2010), Mô hình tổ chức nền dân chủ, tại trang tapchi
congsan.org.vn, [truy cập ngày 6/4/2016].
40. Phạm Văn Đức (2017), Thực hành dân chủ trong điều kiện một đảng duy
nhất cầm quyền, NXB Chính trị quốc gia Sự thật, Hà Nội.
41. Farrukh Iqbal - Jong-II You (2002), Dân chủ kinh tế thị trường và phát
triển từ góc nhìn châu Á, NXB Thế giới, Hà Nội.
42. Nguyễn Ngọc Hà, Luyện Thị Hồng Hạnh (2014), "Dân chủ và tính đặc thù
của việc thực hành dân chủ ở Việt Nam", Tạp chí Triết học, (7), tr.70
43. Lương Đình Hải (2006), "Xây dựng Nhà nước pháp quyền và vấn đề dân
chủ hóa xã hội ở nước ta hiện nay", Tạp chí Triết học, (1), tr.5-9
44. Hoàng Thị Hạnh (2016), Xây dựng nhà nước pháp quyền trong điều kiện
đặc thù ở Việt Nam, NXB Chính trị quốc gia Sự thật, Hà Nội.
45. Vũ Văn Hiền (2004), Dân chủ ở cơ sở qua kinh nghiệm của Thụy Điển và
Trung Quốc, NXB Chính trị quốc gia, Hà Nội.
46. Dương Phú Hiệp (1996), Con đường phát triển của một số nước châu Á -
Thái Bình Dương, NXB Chính trị quốc gia, Hà Nội.
47. Đỗ Trung Hiếu (2004), Một số suy nghĩ về xây dựng nền dân chủ ở Việt
Nam hiện nay, NXB Chính trị quốc gia, Hà Nội.
48. Hội đồng Lý luận Trung ương (2011), Dân chủ nhân quyền - giá trị toàn
cầu và đặc thù quốc gia, NXB Chính trị quốc gia, Hà Nội.
49. Hội đồng Lý luận Trung ương (2015), Phê phán các quan điểm sai trái,
bảo vệ nền tảng tư tưởng, cương lĩnh, đường lối của Đảng Cộng sản
Việt Nam, NXB Chính trị quốc gia Sự thật, Hà Nội.
50. Hội đồng Trung ương chỉ đạo biên soạn giáo trình quốc gia các môn khoa
học Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh (1999), Giáo trình triết học
Mác - Lênin, NXB Chính trị quốc gia, Hà Nội.
152
51. Trần Quốc Hùng (2006), "Dân chủ và phát triển: Kinh nghiệm Ấn Độ và
Trung Quốc", Tạp chí Thời đại mới, (7).
52. Đinh Sơn Hùng (2009), Một số mô hình kinh tế thị trường và bài học rút
ra, tại trang https://thongtinphapluatdansu.edu.vn, [truy cập ngày
25/10/2018].
53. Đinh Thế Huynh và các cộng sự (2015), 30 năm đổi mới và phát triển ở
Việt Nam, NXB Chính trị quốc gia, Hà Nội.
54. John Stuart Mill (do Bùi Văn Nam Sơn dịch) (2008), Chính thể đại diện,
NXB Tri thức, Hà Nội.
55. Cốc Văn Khang (1994), Cuộc đọ sức giữa hai chế độ, NXB Chính trị quốc
gia, Tổng cục II Bộ Quốc phòng, Hà Nội.
56. Khăm Phon Bun Na Di (2014), Vấn đề xây dựng chế độ dân chủ nhân dân
ở Lào hiện nay, Luận án Tiến sĩ Triết học, Học viện khoa học xã hội,
Hà Nội
57. Nguyễn Hữu Khiển (1998), "Những vấn đề lý luận và thực tiễn của hình
thức dân chủ trực tiếp", Tạp chí Thông tin Lý luận, (1).
58. Không rõ tên (1986), Từ điển triết học, NXB Tiến bộ, Mátxcơva.
59. Thái Thượng Kim (2015), "Đảng cộng sản các nước trên thế giới tận dụng
như thế nào sự tham dự dân chủ để thắt chặt quan hệ giữa đảng với
quần chúng", Thông tin những vấn đề lý luận (phục vụ lãnh đạo), (5),
Học viện Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh.
60. Nhị Lê, Lê Khả Thọ (2005), "Một Đảng lãnh đạo và thực thi dân chủ", Tạp
chí Cộng sản, (1).
61. Lilia Sevtsova, Người Nga bàn về các giá trị phương Tây, tại trang
www.vietnamnet.vn, [truy cập ngày 22/5/2016].
62. Trang Phúc Linh (chủ biên) (2004), Lịch sử chủ nghĩa Mác, tập IV, NXB
Chính trị quốc gia, Hà Nội.
63. Đặng Đình Lựu (2008), "Phát triển chế độ chính trị dân chủ và dân chủ trong
Đảng Cộng sản Trung Quốc", Tạp chí Xây dựng Đảng, (7), tr 57- 60.
153
64. Nguyễn Văn Mạnh, Tào Thị Quyên (2010), Dân chủ trực tiếp ở Việt Nam lý
luận và thực tiễn, NXB Chính trị - Hành chính, Hà Nội.
65. Maridon Tuareno (1996), Sự đảo lộn của thế giới địa chính trị thế kỷ XXI,
NXB Chính trị quốc gia, Hà Nội.
66. Hồ Chí Minh (2011), Toàn tập, tập 11, NXB Chính trị quốc gia, Hà Nội.
67. Đỗ Mười (1998), Phát huy dân chủ xã hội chủ nghĩa xây dựng Nhà nước
của dân, do dân, vì dân trong sạch vững mạnh, NXB Chính trị quốc
gia, Hà Nội.
68. N.M. Voskresenskaia, N.B. Davletshina (2008), Chế độ dân chủ, nhà nước
và xã hội, NXB Tri thức, Hà Nội.
69. Phạm Thành Nam, Đỗ Ngọc Thanh (2005), Phát huy dân chủ trong đấu
tranh chống tham nhũng ở nước ta hiện nay, NXB Lý luận chính trị,
Hà Nội.
70. Trần Quang Nhiếp (2006), Dân chủ với phát triển cộng đồng, NXB Công
an nhân dân, Hà Nội.
71. Nhiều tác giả (2013), Tài liệu tham khảo phục vụ nghiên cứu tổng kết 30
năm đổi mới, NXB Chính trị quốc gia, Hà Nội.
72. Thái Ninh, Hoàng Chí Bảo (1991), Dân chủ tư sản và dân chủ xã hội chủ
nghĩa, NXB Sự thật, Hà Nội.
73. Nguyễn Tiến Phồn (2001), Dân chủ và tập trung dân chủ: Lý luận và thực
tiễn, NXB Khoa học xã hội, Hà Nội.
74. Đỗ Nguyên Phương, Trần Ngọc Đường (1992), Xây dựng nền dân chủ xã
hội chủ nghĩa và nhà nước pháp quyền, NXB Sự thật, Hà Nội.
75. Ngô Thị Phượng (2015), “Thực hành dân chủ trong Đảng hiện nay”, Tạp
chí Khoa học xã hội Việt Nam, (94).
76. Ngô Thị Phượng, Mẫn Văn Mai (2017), Tập bài giảng dân chủ và dân chủ
hóa đời sống xã hội - Lịch sử và hiện tại (Dùng cho đào tạo sau đại
học), Đại học Quốc gia Hà Nội, Hà Nội, [Tài liệu chưa xuất bản].
154
77. Nguyễn Đăng Quang (1992), "Một cách tiếp cận khái niệm dân chủ", Tạp
chí Thông tin lý luận, (9), tr.12-15.
78. Nguyễn Văn Quang (2012), "Tư tưởng Hồ Chí Minh về dân chủ trong chính
trị", Tạp chí Xây dựng Đảng,.
79. Phạm Ngọc Quang (2010), Quan điểm, định hướng và giải pháp thực hành
dân chủ, đại đoàn kết dân tộc, đồng thuận xã hội, Đề tài cấp nhà nước,
mã số KX. 04-27/06-10, Học viện Chính trị - Hành chính quốc gia Hồ
Chí Minh, Hà Nội.
80. Phạm Ngọc Quang (2013), "Tiếp cận dân chủ từ giác độ rộng nhất của khái
niệm", Tạp chí Báo cáo viên, (8), tr.31.
81. Phạm Ngọc Quang (2014), “Một quan niệm mới về dân chủ”, Tạp chí Khoa
học xã hội Việt Nam, (74).
82. Lê Minh Quân (2011), Dân chủ xã hội chủ nghĩa - bản chất của chế độ,
mục tiêu và động lực phát triển đất nước, tại trang
[truy cập ngày 15/6/2016].
83. Lê Minh Quân (2011), Về quá trình dân chủ hóa xã hội chủ nghĩa ở Việt
Nam hiện nay, NXB Chính trị quốc gia, Hà Nội.
84. Lê Minh Quân (2012), "Dân chủ và dân chủ hóa từ một số cách tiếp cận cơ
bản", Tạp chí Thông tin khoa học xã hội, (10), tr.13-21.
85. Hồ Sĩ Quý (2014), Một số vấn đề về dân chủ, độc tài và phát triển, NXB Lý
luận chính trị, Hà Nội.
86. Nguyễn Duy Quý, Nguyễn Tất Viễn (2010), Nhà nước pháp quyền xã
hội chủ nghĩa Việt Nam của dân, do dân, vì dân - Lý luận và thực
tiễn, NXB Chính trị quốc gia, Hà Nội.
87. Nguyễn Văn Quyết (Chủ nhiệm đề tài) (2015), Nghiên cứu lý luận chủ
nghĩa Mác - Lênin làm sáng tỏ sự tương đồng và khác biệt về dân chủ
tư sản và dân chủ xã hội chủ nghĩa, Báo cáo đề tài tiềm lực năm 2014-
2015, Học viện Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh, Hà Nội.
155
88. Tô Huy Rứa và các cộng sự (2005), Nhìn lại quá trình đổi mới tư duy lý
luận của Đảng 1986 - 2005, NXB Lý luận chính trị, Hà Nội.
89. Tô Huy Rứa (2005), Ở nước ta, dân chủ là mục tiêu, động lực phát triển, tại trang
[truy cập ngày 15/6/2016].
90. Đỗ Tiến Sâm (2005), "Trung Quốc với việc thực hiện dân chủ cơ sở ở nông
thôn", Tạp chí Nghiên cứu Trung Quốc, (3), tr.8-18 .
91. Phan Xuân Sơn, Lưu Văn Sùng và Vũ Hoàng Công (2002), Các đoàn thể
nhân dân với việc bảo đảm dân chủ ở cơ sở hiện nay, NXB Chính trị
quốc gia, Hà Nội.
92. Phan Xuân Sơn (Chủ nhiệm đề tài) (2005), Mở rộng và phát huy dân chủ
trong nội bộ Đảng Cộng sản, vấn đề và giải pháp, Tổng quan khoa
học đề tài cấp Bộ năm 2003-2004, Học viện Chính trị quốc gia Hồ Chí
Minh, Hà Nội.
93. Phan Xuân Sơn (2011), "Những nội dung mới về nền dân chủ xã hội chủ
nghĩa", Tạp chí Tuyên giáo, (1).
94. O.T.Bogomolov (2012), "Dân chủ và tiến bộ đối với sự phát triển kinh tế -
xã hội", Thông tin những vấn đề lý luận (phục vụ lãnh đạo), Học viện
Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh (4), tr.3-14
95. Nguyễn Văn Tài (2011), Quan điểm của Đại hội Đảng XI về phát huy dân
chủ, tại trang [truy cập ngày 12/6/2016].
96. Đỗ Thị Thạch (Chủ nhiệm đề tài) (2015), Nghiên cứu, tổng kết làm sáng tỏ
những vấn đề lý luận xây dựng dân chủ xã hội chủ nghĩa trong công
cuộc đổi mới đất nước, Báo cáo đề tài trọng điểm năm 2013-2014,
Học viện Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh, Hà Nội.
97. Cao Đức Thái (2014), "Dân chủ trong xu thế thời đại và nền dân chủ của
chúng ta", Tạp chí Báo cáo viên, (11), tr.18-20.
98. Phạm Hồng Thái (2006), "Nhà nước pháp quyền từ nhận thức đến hiện
thực", Tạp chí Quản lý nhà nước, (6).
156
99. Nguyễn Văn Thanh (2003), OrtoAlegre bình minh của một toàn cầu hóa
khác: tiếng nói bè bạn, NXB Chính trị quốc gia, Hà Nội.
100. Phạm Thành (1991), Tư tưởng dân chủ của Hồ Chí Minh, NXB Sự thật,
Hà Nội.
101. Trần Thành (2015), Vấn đề dân chủ và dân chủ hóa đời sống xã hội - lịch
sử và hiện đại, NXB Lý luận chính trị, Hà Nội.
102. Trần Hậu Thành (2000), "Dân chủ và mối quan hệ giữa nhà nước pháp
quyền với dân chủ", Tạp chí Dân chủ và Pháp luật, (10).
103. Mạch Quang Thắng (1999), Bảo đảm và phát huy dân chủ trong chế độ một
Đảng cầm quyền ở nước ta hiện nay, Đề tài cấp bộ, Học viện Chính trị
quốc gia Hồ Chí Minh, Hà Nội.
104. Nguyễn Thế Thắng (2012), Tư tưởng Hồ Chí Minh về thực hành dân chủ
trong Đảng, tại trang [truy cập ngày
2/8/2017].
105. Tống Đức Thảo, Bùi Việt Hương (2011), Trào lưu xã hội dân chủ ở một số
nước phương Tây hiện đại, NXB Chính trị quốc gia, Hà Nội.
106. Hồ Bá Thâm, Nguyễn Tôn Thị Tường Vân (Chủ biên) (2009), Phản
biện xã hội và phát huy dân chủ pháp quyền, NXB Chính trị quốc
gia, Hà Nội.
107. Nguyễn Trọng Thóc (2005), Xây dựng nhà nước pháp quyền của dân, do
dân, vì dân, NXB Chính trị quốc gia, Hà Nội.
108. Thomas Meyer, Nicole Breyer (2007), Tương lai của nền dân chủ xã hội,
NXB Lý luận chính trị, Hà Nội.
109. Thông tấn xã Việt Nam (2006), Đảng Cộng sản Trung Quốc với vấn đề cải
cách dân chủ, Thông tấn xã Việt Nam.
110. Cao Văn Thống (sưu tầm và biên soạn) (2014), Nguyên tắc tập trung dân
chủ trong công tác xây dựng Đảng hiện nay, NXB Chính trị quốc gia,
Hà Nội.
157
111. Lê Văn Toan, Nguyễn Viết Thảo (2013), Thể chế chính trị - Một số kinh
nghiệm của thế giới, NXB Lý luận chính trị, Hà Nội.
112. Lô Quốc Toản (Chủ biên) (2017), Giáo trình lý luận về dân chủ (dành cho
chương trình đại học chính trị), NXB Chính trị quốc gia Sự thật,
Hà Nội.
113. Nguyễn Phú Trọng (2011), Phát huy dân chủ, tiếp tục xây dựng Nhà nước
pháp quyền xã hội chủ nghĩa của nhân dân, do nhân dân, vì nhân dân,
NXB Chính trị quốc gia, Hà Nội.
114. Nguyễn Thanh Tuấn (1999), "Những quan điểm cơ bản của C.Mác,
Ph.Ăngghen và V.I.Lênin về dân chủ xã hội chủ nghĩa", Kỷ yếu đề tài
tiềm lực, Viện Chủ nghĩa xã hội khoa học, Học viện Chính trị quốc gia
Hồ Chí Minh, Hà Nội.
115. Trương Minh Tuấn (2012), "Dân chủ xã hội chủ nghĩa và thực hiện dân chủ
xã hội chủ nghĩa theo tinh thần Đại hội XI của Đảng", Tạp chí Triết
học, (1), tr.3-8
116. Nguyễn Anh Tuấn (chủ biên) (2018), Nhận thức mới về dân chủ xã hội chủ
nghĩa ở Việt Nam thời kỳ đổi mới, NXB Chính trị quốc gia, Hà Nội.
117. Nguyễn Xuân Tùng (2011), Xây dựng nhà nước pháp quyền xã hội chủ
nghĩa trong tiến trình dân chủ hóa tại Việt Nam, tại trang
[truy cập ngày 20/10/207].
118. Đào Trí Úc, Phạm Hữu Nghị (Chủ biên) (2009), Xây dựng nhà nước pháp
quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam trong giai đoạn hiện nay một số vấn
đề lý luận và thực tiễn, NXB Từ điển Bách khoa, Hà Nội.
119. V.I.Lênin (1979), Toàn tập, tập 11, NXB Tiến bộ, Mátxcơva.
120. V.I.Lênin (1976), Toàn tập, tập 30, NXB b Tiến bộ, Mátxcơva.
121. V.I.Lênin (1981), Toàn tập, tập 31, NXB Tiến bộ, Mátxcơva .
122. V.I.Lênin (1981), Toàn tập, tập 32, NXB Tiến bộ, Mátxcơva.
123. V.I.Lênin (1976), Toàn tập, tập 33, NXB Tiến bộ, Mátxcơva.
158
124. V.I.Lênin (1977), Toàn tập, tập 35, NXB Tiến bộ, Mátxcơva.
125. V.I.Lênin (1977), Toàn tập, tập 36, NXBTiến bộ, Mátxcơva
126. V.I.Lênin (1977), Toàn tập, tập 37, NXB Tiến bộ, Mátxcơva.
127. V.I.Lênin (1977), Toàn tập, tập 38, NXB Tiến bộ, Mátxcơva.
128. V.I.Lênin (1977), Toàn tập, tập 39, NXB Tiến bộ, Mátxcơva.
129. V.I.Lênin (1978), Toàn tập, tập 41, NXB Tiến bộ Mátxcơva
130. V.I.Lênin (1978), Toàn tập, tập 43, NXB Tiến bộ, Mátxcơva.
131. V.I.Lênin (1978), Toàn tập, tập 44, NXB Tiến bộ, Mátxcơva.
132. V.I.Lênin (2003), Bàn về dân chủ trong quản lý xã hội, NXB Chính trị
quốc gia, Hà Nội.
133. Vũ Văn Viên (2005), "Nhà nước pháp quyền - công cụ để thực hiện dân
chủ", Tạp chí Triết học, (11), tr.35-39.
134. Viện Chủ nghĩa xã hội khoa học (2014), Nhận thức về chủ nghĩa xã hội và
con đường đi lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam, NXB Lý luận Chính
trị, Hà Nội.
135. Viện Quốc tế về dân chủ và hỗ trợ bầu cử (2014), Dân chủ trực tiếp: sổ tay
IDEA quốc tế, NXB Đại học Quốc gia Hà Nội.
136. Viện Triết học Viện Hàn lâm khoa học Nga (Hội thảo bàn tròn) (2009),
Dân chủ: Giá trị phổ quát và những kinh nghiệm lịch sử, tại trang
[truy cập nhật ngày 18/11/2009].
137. Đức Vượng (2013), Một số vấn đề lý luận và thực tiễn ở Việt Nam thời kỳ
đổi mới, NXB Chính trị quốc gia, Hà Nội.
138. Nguyễn Viết Vượng (chủ biên) (2008), Vận dụng tư tưởng Hồ Chí Minh về
dân chủ trong sự nghiệp xây dựng tổ chức Công đoàn Việt Nam hiện
nay, NXB Lao động, Hà Nội.
139. Nguyễn Như Ý (chủ biên) (1998), Đại từ điển tiếng Việt, NXB Văn hóa
thông tin, Hà Nội.