BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƢỜNG ĐẠI HỌC SƢ PHẠM HÀ NỘI
----------
NGUYỄN THỊ THANH HƢƠNG
NHÂN VẬT TRẺ EM TRONG VĂN XUÔI
THIẾU NHI VIỆT NAM
Chuyên ngành : Văn học Việt Nam
Mã số : 62.22.01.21
LUẬN ÁN TIẾN SĨ NGỮ VĂN
NGƢỜI HƢỚNG DẪN KHOA HỌC:
1. PGS.TS. Lã Thị Bắc Lý
2. PGS. Nguyễn Văn Long
HÀ NỘI - 2016
LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan đây là công trình nghiên cứu khoa học của bản thân tôi.
Các số liệu trong luận án và kết quả nghiên cứu đều trung thực, chưa từng
180 trang |
Chia sẻ: huong20 | Ngày: 15/01/2022 | Lượt xem: 652 | Lượt tải: 4
Tóm tắt tài liệu Luận án Nhân vật trẻ em trong văn xuôi thiếu nhi Việt Nam, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
được
công bố trong bất kì công trình khoa học nào khác.
Tác giả
Nguyễn Thị Thanh Hƣơng
MỤC LỤC
Trang
MỞ ĐẦU ......................................................................................................................... 1
1. Lý do chọn đề tài ......................................................................................................... 1
2. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu ............................................................................... 2
3. Mục tiêu và nhiệm vụ nghiên cứu ............................................................................... 2
4. Phương pháp nghiên cứu ............................................................................................. 3
5. Những đóng góp mới của luận án ............................................................................... 4
6. Bố cục của luận án ....................................................................................................... 4
Chƣơng 1. TỔNG QUAN VẤN ĐỀ NGHIÊN CỨU .................................................. 5
1.1. Những vấn đề chung về Văn học thiếu nhi và nhân vật trẻ em ................................ 5
1.1.1. Về cách hiểu Văn học thiếu nhi ............................................................................ 5
1.1.2. Đặc trưng cơ bản của Văn học thiếu nhi ............................................................ 10
1.1.3. Sự hình thành và vận động của truyện thiếu nhi Việt Nam ................................. 11
1.1.4. Về khái niệm “Trẻ em” ........................................................................................ 14
1.1.5. Nhân vật trẻ em ................................................................................................... 16
1.2. Lịch sử nghiên cứu ................................................................................................. 24
1.2.1. Vài nét về nghiên cứu nhân vật trẻ em trong truyện thiếu nhi nước ngoài ......... 24
1.2.2. Tình hình nghiên cứu nhân vật trẻ em trong truyện thiếu nhi Việt Nam ............. 26
Chƣơng 2. NHÂN VẬT TRẺ EM TRONG TRUYỆN THIẾU NHI VIỆT NAM
GIAI ĐOẠN TỪ 1945 ĐẾN 1975 ............................................................................... 33
2.1. Những nhân tố tác động đến việc xây dựng nhân vật trẻ em ................................. 33
2.1.1. Bối cảnh xã hội, văn hóa ..................................................................................... 33
2.1.2. Bối cảnh Văn học thiếu nhi ................................................................................. 36
2.1.3. Nhân vật trẻ em trong truyện trước Cách mạng tháng Tám – tiền đề tạo dựng
hình tượng nhân vật trẻ em trong truyện thiếu nhi 1945-1975 ..................................... 37
2.1.4. Quan niệm của nhà văn về trẻ em ....................................................................... 42
2.2. Các kiểu loại nhân vật trẻ em giai đoạn 1945-1975 ............................................... 44
2.2.1. Nhân vật chiến sĩ nhỏ tuổi trong chiến đấu ......................................................... 44
2.2.2. Nhân vật công dân nhỏ tuổi trong sinh hoạt đời thường .................................... 52
2.2.3. Nhân vật như tấm gương (nhân vật nêu gương) ................................................. 59
2.2.4. Nhân vật trẻ em bị ruồng bỏ ................................................................................ 63
2.2.5. Nhân vật trẻ em hồn nhiên, mơ mộng .................................................................. 70
2.3. Một số đặc điểm nghệ thuật xây dựng nhân vật trẻ em trong truyện
thiếu nhi Việt Nam giai đoạn 1945-1975 ...................................................................... 78
2.3.1. Xây dựng nhân vật trẻ em theo hình mẫu người lớn thu nhỏ .............................. 78
2.3.2. Ngôn ngữ nhân vật trẻ em đậm dấu ấn diễn ngôn thời đại ................................. 83
2.3.3. Cá thể hóa trong xây dựng nhân vật trẻ em ở Văn học thiếu nhi
miền Nam 1954-1975 .................................................................................................... 88
Tiểu kết .......................................................................................................................... 91
Chƣơng 3. NHÂN VẬT TRẺ EM TRONG TRUYỆN THIẾU NHI VIỆT NAM
TỪ SAU 1975 ĐẾN NAY ........................................................................................... 92
3.1. Những yếu tố tác động đến sự thể hiện nhân vật trẻ em ........................................ 92
3.1.1. Những thay đổi về văn hóa, xã hội ...................................................................... 92
3.1.2. Sự gia tăng lực lượng sáng tác cho thiếu nhi và ảnh hưởng của văn học dịch
thời hiện đại ................................................................................................................... 93
3.1.3. Những thành tựu của ngành tâm lý học trẻ em ................................................... 95
3.1.4. Cái nhìn mới của nhà văn về trẻ thơ ................................................................... 96
3.2. Các kiểu loại nhân vật trẻ em sau 1975 .................................................................. 97
3.2.1. Nhân vật nạn nhân ............................................................................................... 97
3.2.2. Nhân vật trẻ em trải nghiệm .............................................................................. 109
3.2.3. Nhân vật trẻ em hồn nhiên nhi nhiên ................................................................ 113
3.2.4. Nhân vật trẻ em với những xúc cảm đầu đời ..................................................... 122
3.2.5. Nhân vật trẻ em anh hùng lãng mạn ................................................................. 126
3.3. Những đặc sắc nghệ thuật xây dựng nhân vật trẻ em trong truyện thiếu nhi
sau 1975 ....................................................................................................................... 130
3.3.1. Miêu tả nhân vật trẻ em trên nhiều bình diện, gắn bó, gần gũi với tuổi thơ ..... 130
3.3.2. Những nỗ lực trong tạo dựng hệ ngôn ngữ trẻ thơ ........................................... 136
Tiểu kết ........................................................................................................................ 147
KẾT LUẬN ................................................................................................................ 148
CÁC CÔNG TRÌNH KHOA HỌC ĐÃ CÔNG BỐ ............................................... 151
TÀI LIỆU THAM KHẢO ......................................................................................... 152
DANH MỤC TÁC PHẨM KHẢO SÁT .................................................................. 168
1
MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài
1.1. Nền văn học của một dân tộc được cấu thành từ nhiều bộ phận, trong đó
Văn học thiếu nhi là mảnh ghép tuy nhỏ bé nhưng không kém phần quan trọng, góp
phần làm nên diện mạo bức tranh văn học. Bắt rễ từ cội nguồn văn hóa dân gian,
sáng tác Văn học thiếu nhi là bầu sữa tinh thần nuôi dưỡng tâm hồn trẻ thơ. Nó giữ
vai trò trọng yếu trong việc hình thành và phát triển nhân cách trẻ trước và ngay sau
tuổi đến trường.
Từ sự ra đời của loạt sách “Livre du petit” ở miền Bắc Việt Nam vào những
năm đầu thập kỉ 40 của thế kỷ XX, đến nay, Văn học thiếu nhi Việt Nam đã có những
bước phát triển mạnh mẽ với đội ngũ tác giả đông đảo và nhiều tác phẩm giá trị. Sự
vận động, phát triển của Văn học thiếu nhi khúc xạ, phản chiếu sự vận động, biến đổi
quan niệm về con người và văn chương qua mỗi giai đoạn lịch sử văn học. Tuy nhiên,
nghiên cứu về bộ phận văn học này vẫn còn nhiều khoảng trống. Thực hiện đề tài
Nhân vật trẻ em trong văn xuôi thiếu nhi Việt Nam, chúng tôi muốn góp phần khẳng
định vai trò của Văn học thiếu nhi cả trên phương diện lí luận và thực tiễn.
1.2. Nói đến văn xuôi, không thể không nhắc đến nhân vật. Dù là thiên nhiên
hay con người, dù vô tri hay hữu tri, nhân vật trong văn xuôi cũng là “vai chính” trên
sân khấu văn học, là nơi kết tinh tư tưởng và tài năng sáng tạo của nhà văn.
Với văn xuôi thiếu nhi, nhân vật trẻ em là “trung tâm điểm” của bộ phận văn
học này. Qua nhân vật trẻ em, có thể nhận diện được diện mạo cũng như đặc trưng tư
duy thẩm mĩ của của từng thời kì văn học đồng thời khai phá được sự vi diệu trong thế
giới trẻ thơ. Vừa tồn tại với những bản tính tự nhiên, đặc thù, sống động của trẻ thơ, lại
vừa ẩn chứa cái nhìn nghệ thuật riêng của tác giả cũng như quan niệm của một giai
đoạn văn học, thế giới nhân vật trẻ em trong văn xuôi thiếu nhi Việt Nam mang trong
mình đặc tính kép. Phục dựng, kiến giải chân dung nhân vật trẻ em trong văn xuôi
thiếu nhi, qua đó phân tích và cắt nghĩa sự vận động, biến đổi của cái nhìn nghệ thuật
cũng như cách tiếp cận trẻ thơ của mỗi giai đoạn văn học bị chế định bởi điều kiện lịch
sử- văn hóa- xã hội đặc thù là một trong những hứng thú và động lực đưa chúng tôi
đến với đề tài Nhân vật trẻ em trong văn xuôi thiếu nhi Việt Nam.
2
1.3. Cuộc sống hiện đại với vô vàn rào cản ngăn cách mối tương giao giữa con
người với con người, đặc biệt là giữa thế hệ trước với thế hệ sau. Trẻ em thời hiện đại
đã không còn giống với cha anh. Cuộc sống của chúng ngày một khác trước, tâm sinh
lí cũng có nhiều thay đổi. Hơn thế, bản thân mỗi đứa trẻ đã là một thế giới luôn luôn
biến động, khó nắm bắt. Trẻ em không phải là một người lớn thu nhỏ. Đề tài Nhân vật
trẻ em trong văn xuôi thiếu nhi Việt Nam, vì thế, còn mang tính thời sự nóng hổi,
hướng tới nhu cầu giải quyết những vấn đề thực tiễn của đời sống đương đại, với hy
vọng là một nhịp cầu dẫn vào thế giới trẻ thơ để hiểu và có ứng xử thích hợp với
những công dân tương lai của đất nước.
2. Đối tƣợng và phạm vi nghiên cứu
2.1. Đối tượng nghiên cứu
Đối tượng nghiên cứu của luận án là nhân vật trẻ em trong văn xuôi thiếu nhi Việt
Nam qua hai giai đoạn lớn của văn học từ năm 1945 đến năm 1975 và sau năm 1975.
2.2. Phạm vi nghiên cứu: Văn xuôi thiếu nhi gồm Truyện thiếu nhi và kí thiếu nhi.
Tuy nhiên, tiểu loại kí thiếu nhi chưa có nhiều thành tựu cho nên, luận án tập trung
khảo sát nhân vật trẻ em trong truyện thiếu nhi Việt Nam.
Do khối lượng tác phẩm nhiều, cho nên chúng tôi lựa chọn tư liệu phục vụ mục
đích nghiên cứu của đề tài là các tiểu thuyết, truyện ngắn và tự truyện viết cho thiếu
nhi từ năm 1945 đến nay, đặc biệt, tập trung vào một số sáng tác tiêu biểu, có giá trị và
chứa đựng nhiều yếu tố mang tính cách tân.
Từ sau năm 1990, Văn học thiếu nhi Việt Nam bắt đầu xuất hiện truyện do
thiếu nhi viết, điển hình như trường hợp Nguyễn Bình hay những cây bút tuổi teen.
Đây cũng là những sáng tác nằm trong phạm vi nghiên cứu của đề tài và đó là lí do vì
sao chúng tôi lựa chọn tên luận án là: “Nhân vật trẻ em trong văn xuôi thiếu nhi Việt
Nam”. Cụm từ “Văn xuôi thiếu nhi” được hiểu theo hai nghĩa: văn xuôi viết cho thiếu
nhi và văn xuôi do thiếu nhi viết.
3. Mục tiêu và nhiệm vụ nghiên cứu
3.1. Mục tiêu nghiên cứu
Thực hiện đề tài Nhân vật trẻ em trong văn xuôi thiếu nhi Việt Nam, chúng tôi
hướng tới mục tiêu nhận diện, lý giải hình tượng nhân vật trẻ em và các phương thức nghệ
3
thuật thể hiện nhân vật qua các giai đoạn phát triển của Văn học thiếu nhi từ đó dựng lên
bức tranh toàn cảnh Văn học thiếu nhi với những góc nhìn khác nhau về trẻ em, góp phần
khẳng định giá trị thẩm mĩ đặc thù của bộ phận văn học này.
3.2. Nhiệm vụ nghiên cứu
3.2.1. Xây dựng cơ sở lí luận của đề tài, cụ thể là xác định khái niệm: Văn học
thiếu nhi, trẻ em, nhân vật trẻ em, sự phân loại nhân vật trẻ em trong văn học.
3.2.2. Tìm hiểu về sự hình thành nền Văn học thiếu nhi Việt Nam và chặng
đường phát triển của nhân vật trẻ em trong tiến trình Văn học thiếu nhi.
3.2.3. Phân tích một số kiểu nhân vật trẻ em trong truyện thiếu nhi giai đoạn
1945-1975.
3.2.4. Phân tích một số kiểu nhân vật trẻ em trong truyện thiếu nhi Việt Nam
giai đoạn sau 1975.
4. Phƣơng pháp nghiên cứu
Để thực hiện đề tài này chúng tôi sử dụng phối hợp các phương pháp sau đây:
- Phương pháp loại hình: Nhân vật trẻ em trong truyện thiếu nhi Việt Nam là
một thực thể nghệ thuật đa dạng, phức tạp, chịu sự chi phối trực tiếp và gián tiếp của
những tiền đề xã hội – lịch sử - văn hóa. Để nhận diện và tìm hiểu đối tượng này,
phương pháp loại hình giúp người nghiên cứu khảo sát, phân loại các dạng thức nhân
vật trong tiến trình Văn học thiếu nhi.
- Phương pháp so sánh: Chúng tôi sử dụng phương pháp này để liên hệ, tìm ra sự
tương đồng và khác biệt giữa các loại hình nhân vật, chỉ ra sự giống và khác nhau trong
cách thể hiện nhân vật ở các nhà văn cũng như ở một nhà văn trong từng thời kì khác
nhau. Nó cũng giúp xem xét sự thể hiện nhân vật trẻ em trong các giai đoạn văn học.
- Phương pháp phân tích tác phẩm theo đặc trưng thể loại: Phạm vi khảo sát của
luận án là tiểu thuyết, truyện ngắn, tự truyện. Do đó, chúng tôi sử dụng phương pháp
này nhằm giúp cho sự phân tích bám sát vào những đặc trưng của thể loại tự sự đồng
thời quan tâm đến đặc điểm riêng của từng thể loại trong việc thể hiện nhân vật trẻ em.
- Phương pháp văn học sử: Bên cạnh việc nhìn nhận nhân vật trẻ em trên bình
diện chung của văn học, chúng tôi cũng nghiên cứu dựa trên những giai đoạn văn học
sử để thấy rõ những nét khác biệt trong cách xây dựng nhân vật trẻ em ở trong tiến
trình văn học.
4
- Phương pháp liên ngành: Các phương pháp tâm lí học trẻ em, tâm lí học sáng
tạo, nhân học văn hóa, được dùng như những thao tác bổ trợ khi cần thiết.
5. Những đóng góp mới của luận án
Về mặt lí luận, hướng tiếp cận của đề tài góp phần cung cấp một bức tranh khái
quát và toàn diện về nhân vật trẻ em trong văn xuôi thiếu nhi Việt Nam, từ đó làm rõ
thêm những vấn đề lý luận chi phối mỗi giai đoạn văn học.
Ý nghĩa văn học sử của luận án là góp phần nghiên cứu, tổng kết diện mạo nhân vật
trẻ em trong tiến trình Văn học thiếu nhi nước nhà. Qua đó, đưa đến một cách tham chiếu về
sự vận động, những quy luật cơ bản trong nền văn học Việt Nam.
Về mặt thực tiễn, từ việc xác lập hệ thống kiểu loại nhân vật trẻ em trong suốt
quá trình hình thành và phát triển của Văn học thiếu nhi Việt Nam đưa ra những mẫu
hình nhân vật thiếu nhi tiêu biểu tạo thành những hình tượng nhân vật gắn với thực tế
đời sống qua đó góp phần định hướng sự phát triển nhân cách của trẻ em trong thời kì
đổi mới.
Luận án cung cấp một tài liệu tham khảo hữu ích cho việc nghiên cứu và giảng
dạy văn học thiếu nhi Việt Nam trong các trường Cao đẳng, Đại học.
6. Bố cục của luận án
Ngoài phần mở đầu và kết luận, nội dung chính của luận án được triển khai
trong 3 chương:
Chương 1. Tổng quan về tình hình nghiên cứu Văn học thiếu nhi và nhân vật trẻ em
Chương 2. Nhân vật trẻ em trong truyện thiếu nhi Việt Nam từ 1945 đến 1975
Chương 3. Nhân vật trẻ em trong truyện thiếu nhi Việt Nam từ sau 1975 đến nay
5
Chƣơng 1
TỔNG QUAN VẤN ĐỀ NGHIÊN CỨU
1.1. Những vấn đề chung về Văn học thiếu nhi và nhân vật trẻ em
1.1.1. Về cách hiểu Văn học thiếu nhi
Các nhà nghiên cứu nước ngoài đã đưa ra rất nhiều định nghĩa khác nhau về
“Văn học thiếu nhi” (cách gọi khác là: “Văn học trẻ em” - Children’s literature, ở đây,
xin thống nhất gọi là Văn học thiếu nhi). Trong khuôn khổ những tư liệu có được,
chúng tôi nhận thấy, khi nhận diện Văn học thiếu nhi, các học giả quan tâm tới vấn đề:
đối tượng tiếp nhận, nội dung phản ánh, điểm nhìn trần thuật.
Từ góc độ tiếp nhận, nhiều nhà nghiên cứu đã định nghĩa Văn học thiếu nhi
thông qua độ tuổi của người đọc. Margaret R. Marshall viết: “Một số người cho rằng
Văn học thiếu nhi là nhịp cầu nối từ độ tuổi sơ sinh tới 18 tuổi. Tuy nhiên, như tôi biết,
không học sinh trung học hay phổ thông nào cho rằng mình là trẻ em. Vì vậy, tôi định
nghĩa văn học cho lứa tuổi 13 đến 18 tuổi là Văn học thanh niên (Young adult
literature) và văn học cho tuổi từ sơ sinh đến 13 tuổi là Văn học thiếu nhi. Các trường
tiểu học truyền thống nhận trẻ từ 6 tuổi và những đứa trẻ này tới 12 hoặc 13 tuổi sẽ
hoàn thành cấp tiểu học” [240;2-3]. Bà cũng cho rằng: “Rất dễ phân biệt một đứa trẻ
tiểu học và một học sinh trung học hay phổ thông, cũng dễ dàng phân biệt giữa độ tuổi
13 và 14 tuổi, bằng cách đơn giản là hỏi chúng. Nhưng rất khó để phân biệt giữa Văn
học cho thiếu nhi và Văn học cho thanh niên” [240;3]. Cuối cùng, người viết đi đến
kết luận: “Các định nghĩa và sự phân chia rất cực đoan và đôi khi trẻ em sẽ làm bạn
ngạc nhiên khi chúng vượt qua những ranh giới phân loại trong lựa chọn đọc sách”
[240;3]. Margaret đã định nghĩa về Văn học thiếu nhi bằng cách phân định độ tuổi của
độc giả. Tuy nhiên, bà cũng nhận thấy rằng, thực tế việc xác định một tác phẩm văn
học trẻ em viết cho đối tượng nào không đơn giản. Ví dụ tác phẩm Giết con chim nhại
của Harper Lee ban đầu không phải dành cho trẻ em, nhưng truyện lại được kể dưới
góc nhìn của một cô bé tám tuổi, trong sáng, hồn nhiên và đầy cảm xúc. Mặc dù vậy,
cuốn sách cũng đề cập đến những vấn đề gai góc của cuộc sống như: nạn phân biệt
chủng tộc, những định kiến khắt khe, trọng nam khinh nữ, Loạt tác phẩm Harry
6
Portter của J.K. Rowling, ban đầu hướng đến trẻ em nhưng nó đã gây ra tranh cãi về
việc ai sẽ yêu thích những cuốn sách này, đặc biệt khi cuốn sách nói về những vấn đề
có tính phổ quát với tất cả các loại độc giả.
Jan Susina, giáo sư về Văn học thiếu nhi và văn hóa của đại học Illinois State
(Mỹ) trên trang web: (Bách khoa thư) cho rằng: “Giống
như các khái niệm về thời thơ ấu, văn học thiếu nhi là một cấu trúc văn hóa và đang
trong quá trình phát triển. Văn học thiếu nhi bao gồm những văn bản được viết riêng
cho trẻ em và những văn bản được trẻ em lựa chọn, ranh giới giữa văn học trẻ em và
văn học người lớn rất mong manh” [244]. Ông cũng chỉ ra các nhà xuất bản đã khiến
cho sự phân biệt sách dành cho trẻ em và người lớn trở nên khó khăn hơn bởi chính
việc ấn hành của họ. Ví như bộ truyện Harry Potter của J. K. Rowling luôn có phiên
bản cho trẻ em và người lớn mà sự khác nhau chỉ là ở bìa sách. Hay như những truyện
kể dân gian, ban đầu không phải là để dành cho trẻ em nhưng chúng đã trở thành một
bộ phận của Văn học thiếu nhi. Bên cạnh đó, có những cuốn sách viết cho trẻ em ở thế
kỉ XVII, XVIII lại được đọc bởi phần lớn độc giả người lớn. Thực tế là, Văn học thiếu
nhi được viết, minh họa, xuất bản, tiếp thị và mua bởi chính người lớn để dành cho con
cháu nhằm giáo dục hay giải trí.
Cùng chung ý kiến với M.R. Marshall, trong cuốn Sách của trẻ em trong bàn
tay trẻ: Dẫn nhập về văn học của trẻ, Temple, Martinez, Yokota và Naylor nhận định:
“Văn học thiếu nhi là tập hợp những cuốn sách đọc cho trẻ em và được đọc bởi trẻ
em từ sơ sinh tới 15 tuổi” [245;6], các tác giả cũng cho rằng: “rất khó để định nghĩa
một cuốn sách trẻ em” [245;5].
Chú trọng tới nội dung phản ánh trong sáng tác Văn học thiếu nhi, Norton, Norton
và McClure viết: “Khi mà thời thơ ấu trở thành một phần đặc biệt trong cuộc đời của một
con người thì văn học viết riêng cho trẻ trở thành rất quan trọng” [239;42].
Charlotte Huck, một trong những chuyên gia đầu tiên về Văn học thiếu nhi lại
coi trọng điểm nhìn trẻ thơ trong sáng tác, ông cho rằng: “Sách trẻ em là sách mà cái
nhìn trẻ thơ là cái nhìn chủ đạo” [238;5].
Maria Nikolajeva – giáo sư chuyên nghiên cứu về Văn học thiếu nhi của khoa
Văn – Đại học Stockholm, Thụy Điển và là giáo sư danh dự của khoa văn, Đại học
7
Abo Akademi của Phần Lan, một trong số những tác giả cuốn Bách khoa thư Oxford
về văn học thiếu nhi, đã chỉ ra tính đặc thù của Văn học thiếu nhi và cho thấy cần phải
nghiên cứu tính thẩm mĩ riêng của bộ phận văn học này để có thể hiểu được chức năng
và sức ảnh hưởng của nó đối với độc giả trong cuốn sách “Phương pháp tiếp cận mĩ
học cho văn học thiếu nhi: Dẫn nhập”. Bà nhận thấy, các nhà phê bình vẫn thảo luận
về những vấn đề như “Văn học thiếu nhi là gì?, “Trẻ em là gì?”, mà hiếm khi đưa ra
được bất kì kết quả nào đáng chú ý. Và điều này là không cần thiết. Quan trọng là “ta
nên xem Văn học thiếu nhi như một trong nhiều thể loại của văn học nhưng vẫn nỗ lực
chỉ ra các tính chất đặc trưng của văn học thiếu nhi” [241;xii].
Ở Việt Nam, thuật ngữ “Văn học thiếu nhi” được nhắc tới trong Từ điển thuật
ngữ văn học, theo nghĩa hẹp, gồm: “Những tác phẩm văn học hoặc phổ cập khoa học
dành riêng cho thiếu nhi, cũng thường bao gồm một phạm vi rộng rãi những tác phẩm
văn học thông thường (cho người lớn) đã đi vào phạm vi đọc của thiếu nhi” [53;353].
Định nghĩa này khá gần với cách hiểu của Jan Susina, đã nhắc đến ở trên.
Theo Bách khoa thư văn học thiếu nhi Việt Nam: Văn học thiếu nhi là “những
tác phẩm văn học được mọi nhà sáng tạo ra với mục đích giáo dục, bồi dưỡng tâm hồn,
tính cách cho thiếu nhi. Nhân vật trung tâm của nó là thiếu nhi và nhiều khi, cũng là
người lớn, hoặc là một cơn gió, một loài vật, hay một đồ vật, một cái cây, Tác giả
của văn học thiếu nhi không chỉ là chính các em, mà cũng là các nhà văn thuộc mọi
lứa tuổi” [202;6].
“những tác phẩm được thiếu nhi thích thú tìm đọc. Bởi vì các em đã tìm thấy ở
trong đó cách nghĩ, cách cảm cùng những hành động gần gũi với cách nghĩ các cảm và
cách hành động của chính các em, hơn thế, các em còn tìm được ở trong đó một lời nhắc
nhở, một sự răn dạy, với những nguồn động viên, khích lệ, những sự dẫn dắt ý nhị, bổ
ích trong quá trình hoàn thiện tính cách của mình” [202;6].
Quan niệm trên nhấn mạnh đến hai vấn đề: tính giáo dục của Văn học thiếu nhi
và sáng tác nào được cho là Văn học thiếu nhi. Theo đó, Văn học thiếu nhi phải hướng
tới mục đích giáo dục hay bồi dưỡng tâm hồn cho trẻ. Và sách dành cho trẻ em có thể là
những tác phẩm viết riêng cho trẻ hoặc là những tác phẩm mà trẻ em thích đọc. Ý này
cũng trùng với lí giải về Văn học thiếu nhi của một số nhà nghiên cứu trên thế giới.
8
Bùi Thanh Truyền trong cuốn chuyên luận “Thi pháp văn học thiếu nhi”, Bộ
giáo dục và đào tạo, dự án phát triển giáo viên tiểu học, Huế, 2007, cho rằng: “Văn
học thiếu nhi là những tác phẩm văn học mà nhân vật trung tâm là thiếu nhi hoặc được
nhìn bằng “đôi mắt trẻ thơ”, với tất cả những xúc cảm, tình cảm mãnh liệt, tinh tế,
ngây thơ, hồn nhiên, được các em thích thú, say mê và có nội dung hướng đến việc
giáo dục, bồi dưỡng tâm hồn, đặt nền móng cho sự hoàn thiện tính cách của các em
thuộc những lứa tuổi khác nhau từ thuở ấu thơ đến suốt cuộc đời” [220;12]. Ở đây, tác
giả đã thống nhất hai khía cạnh của Văn học thiếu nhi: thẩm mĩ và giáo dục. Một sáng
tác Văn học thiếu nhi, theo ông, phải là sáng tác bằng cái nhìn trẻ thơ và phải hướng
tới việc giáo dục nhân cách trẻ.
Nhà văn Lê Phương Liên quan niệm: Văn học thiếu nhi là một "thể loại văn học
đặc thù” nhằm phục vụ một đối tượng văn học rộng lớn bao gồm: lứa tuổi mầm non
(dưới 6 tuổi), lứa tuổi nhi đồng (từ 6 đến 10 tuổi), lứa tuổi thiếu niên (từ 11 đến 13
tuổi), tuổi mới lớn (từ 13,14 tuổi đến 18, 19 tuổi).
Có thể nói, những nhà nghiên cứu (rất ít ỏi) về Văn học thiếu nhi Việt Nam cũng
bày tỏ băn khoăn trong việc xác định thế nào là tác phẩm dành cho trẻ em, hay tác phẩm
viết cho người lớn mà được trẻ em yêu thích có được coi là Văn học thiếu nhi không?
Tác phẩm có nhân vật trẻ em nhưng không phải là sáng tác dành cho trẻ có nằm trong
danh mục tác phẩm Văn học thiếu nhi không? Điều này xuất phát từ thực tế phức tạp
của người sáng tác, người đọc, nhà xuất bản, người mua, Ví như Ma Văn Kháng viết
Côi cút giữa cảnh đời không hẳn dành cho trẻ em nhưng tác phẩm lại được ra mắt độc
giả thông qua nhà xuất bản Kim Đồng và người tiếp nhận nó vừa là người lớn vừa là trẻ
em. Ở đây cũng xin lưu ý, trẻ em trong cách nhìn của luật pháp, của người lớn và của
chính trẻ em là khác nhau và trẻ em mỗi thời đại cũng không giống nhau. Nguyễn Ngọc
Thuần khi viết Vừa nhắm mắt vừa mở cửa sổ có dụng ý hướng đến độc giả trẻ em
nhưng có vẻ như nó lại chiếm được cảm tình của những người lớn muốn làm trẻ em hơn
là của trẻ em. Vậy có thể coi Côi cút giữa cảnh đời, Vừa nhắm mắt vừa mở cửa sổ, là
sáng tác thuộc Văn học thiếu nhi?
Sáng tác viết về thiếu nhi là tác phẩm mà nhà văn viết về tuổi thơ của chính
mình, tuổi thơ của mọi người và nhiều người, tuổi thơ đã phổ quát. Đó cũng có thể
là tác phẩm viết về trẻ em nhưng lại chiếm được cảm tình của người lớn. Ở đây
9
cũng cần phân biệt sáng tác viết về trẻ em với tác phẩm có nhân vật trẻ em trong
đó. Có thể có những tác phẩm có nhân vật trẻ em (Bài học quét nhà của Nam Cao)
nhưng lại không phải thuộc về Văn học thiếu nhi vì dẫu có sự xuất hiện của nhân
vật trẻ em nhưng sáng tác này không phải dành cho trẻ, không nhằm hướng đến đối
tượng độc giả trẻ em. Tuy nhiên, có những sáng tác có thể không có nhân vật trẻ em
như Robinson Crusoe của Daniel Defoe, Hai vạn dặm dưới đáy biển của Jules
Verne, nhưng lại vẫn được trẻ em đón đọc. Những tác phẩm đó vẫn được coi là
Văn học trẻ em.
Tất nhiên, như các nhà nghiên cứu đã khái quát, ranh giới phân định giữa một
cuốn sách cho trẻ em và người lớn không hoàn toàn tách biệt.
Vậy liệu có cần quá rạch ròi trong việc tạo đường biên giữa Văn học thiếu nhi
và văn học người lớn không, khi mà biên giới đọc là vô tận? Chúng tôi đồng ý với
quan niệm M.Nikolajeva khi cho rằng việc thảo luận về vấn đề định nghĩa Văn học
thiếu nhi mà không cho thấy một đáp án nào xác đáng là không cần thiết. Tuy nhiên,
để xác định một phạm vi nhất định cho những khảo sát của luận án, chúng tôi vẫn nỗ
lực tìm câu trả lời cho câu hỏi thế nào là Văn học thiếu nhi, dù biết rằng, ở một chừng
mực nào đó nó chưa bao quát hết được mọi vấn đề và rất có thể cách hiểu này sẽ có
những điều chỉnh trong tương lai.
Văn học thiếu nhi là những tác phẩm viết về thiếu nhi và viết cho thiếu nhi
do người lớn hoặc trẻ em sáng tác, chủ yếu được nhìn qua lăng kính trẻ thơ, có nội
dung hướng đến giáo dục, bồi dưỡng tâm hồn, nhân cách trẻ em ở mọi lứa tuổi
khác nhau.
Những sáng tác viết cho thiếu nhi bao gồm: 1. Những tác phẩm viết cho trẻ em
tuổi mầm non; 2. Những tác phẩm viết cho thiếu niên; 3. Những tác phẩm viết cho tuổi
mới lớn.
Trong luận án, chúng tôi hướng tới khảo sát nhân vật trẻ em trong những truyện
cho thiếu nhi và viết về thiếu nhi, được thể hiện bằng “cái nhìn trẻ thơ” và có tính giáo
dục trẻ em. Chúng tôi nhận thấy, những truyện viết cho tuổi mầm non, phần lớn là
truyện loài vật, cốt truyện đơn giản, nhân vật chủ yếu là con vật, vì vậy chúng tôi
không đưa vào diện khảo sát của luận án.
10
1.1.2. Đặc trưng cơ bản của Văn học thiếu nhi
Từ cách hiểu Văn học thiếu nhi như trên, chúng tôi đưa ra một số đặc trưng của
bộ phận văn học này trong thế đối sánh với văn học người lớn như sau:
Thứ nhất, mục đích cơ bản của Văn học thiếu nhi là giáo dục. Tất nhiên trong
văn học nói chung, giáo dục là một trong những thuộc tính quan trọng. Song nếu như
văn học người lớn, đặc tính này thuộc về bản chất của hình tượng văn học, là thuộc
tính tự nhiên vốn có của sáng tạo nghệ thuật thì ở Văn học thiếu nhi, giáo dục được coi
là nhiệm vụ then chốt của người viết, là một trong những mục đích chính của tác
phẩm. Sáng tác Văn học thiếu nhi phải chứa đựng ý nghĩa giáo dục nào đó nhằm
hướng tới sự phát triển nhân cách trẻ em. Tất nhiên, bài học giáo dục không thể khô
cứng, giáo điều, sống sượng như một lời dăn dạy. Bài học ấy phải được chuyển tải một
cách nghệ thuật khiến trẻ em thích thú, say mê và hưởng ứng tự nguyện.
Thứ hai, đối tượng phản ánh và tiếp nhận chủ yếu của Văn học thiếu nhi là trẻ
em, với tính cách, tâm lí, xúc cảm tình cảm, nhãn quan khác biệt so với người lớn. Điều
này, chi phối đến nội dung cũng như các phương thức nghệ thuật trong sáng tác. Vì viết
về trẻ em, viết cho trẻ em nên nội dung tác phẩm thiếu nhi thường trong trẻo, tươi sáng,
phù hợp với đặc điểm tư duy, thẩm mĩ của trẻ. Nó giải thích tại sao trong thời hiện đại,
khi văn học người lớn chuyển hướng khai thác những vấn đề về sự phi lí, hiện sinh,
thì Văn học thiếu nhi vẫn gợi mở về một thế giới rộn ràng, tươi nguyên, thuần khiết.
Mặc dù, trong đó không phải không có những xung đột, phức tạp bởi trẻ em cũng là một
phần của đời sống hiện đại song nó luôn được khai thác, xử lí phù hợp với trẻ thơ. Phản
ánh đời sống bằng cái nhìn trẻ thơ nên Văn học thiếu nhi cũng lựa chọn những phương
thức nghệ thuật tương thích với đối tượng độc giả đặc thù của nó. Trong lúc văn học
người lớn đã tìm đến những thủ pháp như siêu hư cấu, phân mảnh, lắp ghép, giễu
nhại,Văn học thiếu nhi vẫn “thủy chung” với lối viết truyền thống, với phương thức
đặc thù: bút pháp kì ảo, cốt truyện phiêu lưu, nhân vật hành động,
Thứ ba, mối quan hệ giữa tác giả và độc giả trong Văn học thiếu nhi là quan hệ
“không cân xứng”. Tác giả, chủ yếu là người lớn đã hầu như không thể nhìn cuộc sống
như trẻ thơ; độc giả, phần lớn là trẻ em với những đặc điểm tâm sinh lí riêng biệt mà
người lớn, dù đã từng là trẻ nhỏ, không thể có (lại) được. Bởi vậy, người viết muốn tác
11
phẩm đến gần với trẻ thơ, được trẻ em đón nhận, buộc phải hóa thân vào thế giới của trẻ
em, mang con mắt và quan năng của trẻ em. Nhưng trên thực tế, không ít người rơi vào
cảnh “cưa sừng làm nghé”. Quan năng trẻ thơ là một ân sủng của tạo hóa, một đi không
trở lại. Trường hợp thành công thường ở những nhà văn đã vượt qua được ranh giới của
người trưởng thành để bước sang địa hạt trẻ thơ nhưng dù vậy, những sáng tác đó cũng
chỉ là các bán thành phẩm. Viết cho trẻ thơ thực ra là xuất phát từ trải nghiệm của một
người lớn sâu sắc, từng trải và từ chính trong những suy nghiệm ấy, nhà văn mới thấy
được cái trong trẻo, đẹp đẽ của tuổi thơ. Đó là một tuổi thơ đã được trục vớt, được phát
hiện lại qua lăng kính của một người trưởng thành. Cho nên, dẫu soi...t trong truyện thiếu nhi.
Khi thực hiện một lệnh tìm kiếm với chủ đề: “nhân vật trong văn học thiếu nhi”
trên trang thư viện trực tuyến: chúng tôi thu được 303 kết quả.
Trong số đó, có đến 50% kết quả là về Văn học thiếu nhi nói chung, 30% số còn lại nói
đến nhân vật trong một vài trường hợp cụ thể như nghiên cứu về Harry Poter, Robison
Crusoe, chú thỏ Peter Rabit, Nhiều tiêu đề sách cũng dễ gây nhầm lần như cuốn Các
nhân vật trong văn học trẻ em của Raymond Jones, thực ra là một cuốn phụ lục chú giải.
Trong đó, tác giả giới thiệu 1700 nhân vật từ 230 truyện thiếu nhi, chủ yếu có nguồn gốc
từ các nước Mỹ, Anh, Úc, Canada, Cuốn sách như một tài liệu hỗ trợ cho các nhà
nghiên cứu, giáo viên về danh sách các nhân vật có mặt trong một số tác phẩm thiếu nhi
tiêu biểu. Hoặc công trình với tên gọi: Phá vỡ cấu trúc người hùng: thể loại văn học và
văn học thiếu nhi của Margery Hourihan, cung cấp một cách nhìn về cấu trúc của những
tác phẩm phiêu lưu, qua đó, xây dựng những giá trị trong việc giáo dục trẻ em.
Trong tính chất “đánh đố” của các tư liệu liên quan tới nhân vật thiếu nhi và sự
ít ỏi của các công trình nghiên cứu về vấn đề này, chúng tôi được tiếp cận với một
cuốn sách, có thể nói đã giải quyết được một số khía cạnh về lí thuyết nhân vật trong
văn học thiếu nhi, như đúng tên gọi của nó: Lý thuyết về nhân vật trong văn học thiếu
nhi của Maria Nikolajeva. Cuốn sách của M. Nikolajeva nghiên cứu các khía cạnh bản
thể học và nhận thức luận của nhân vật trong truyện thiếu nhi và chỉ ra những sự khác
nhau cơ bản giữa xây dựng nhân vật trong truyện thiếu nhi và truyện nói chung, bằng
cấu trúc 13 chương, 2 phần.
Phần 1: Bản thể và phân loại nhân nhân vật
Gồm 7 chương:
Chương 1. Phương pháp tiếp cận nhân vật văn học.
25
Chương 2. Từ anh hùng tới nhân vật
Chương 3. Đi tìm nhân vật trung tâm
Chương 4. Nhân vật tập thể
Chương 5. Từ nhân vật tập thể đến nhân vật cá nhân
Chương 6. Nhân vật thứ cấp và chùm nhân vật
Chương 7. Tính phức tạp và phát triển
Phần 2. Nhận thức luận về nhân vật
Gồm 6 chương (từ chương 8 đến chương 13)
Chương 8. Nhân vật và cốt truyện
Chương 9. Diễn ngôn của người kể chuyện: Miêu tả và tự sự
Chương 10. Diễn ngôn của người kể chuyện: Hành động và sự kiện
Chương 11. Diễn ngôn nhân vật: Hành vi lời nói
Chương 12. Diễn ngôn nhân vật: Ngôn ngữ bên trong
Chương 13. Nhân vật tiềm ẩn
Sau khi phân tích các vấn đề về phân loại nhân vật, các vấn đề về cấu trúc nhân
vật trẻ em cũng như kĩ thuật thể hiện nhân vật trẻ em trong tác phẩm, M.Nikolajeva đã
đưa ra ba kết luận:
Một là, việc hiểu một nhân vật trong Văn học thiếu nhi phụ thuộc vào cách nhìn
nhận tác phẩm như một công cụ giáo dục hay một đối tượng thẩm mĩ. Nikolajeva cho
rằng: “Đối với cá nhân tôi, phương pháp tiếp cận kí hiệu học đối với các nhân vật văn
học có tính chất tự nhiên hơn là phương pháp mô phỏng. Tuy nhiên, tôi không phủ
nhận giá trị tư tưởng, giáo dục của văn học thiếu nhi và tôi ý thức cao về sự áp dụng
thực tế của sách thiếu nhi, vì mục đích của văn học cũng như xã hội hóa” [238;282].
Hai là, mặc dù yêu cầu về nhân vật đối với các nhà nghiên cứu đều là phải:
phức tạp, năng động, toàn vẹn, đầy đủ, nhưng khi đánh giá nhân vật cần phải gắn
nó với từng thể loại truyện thiếu nhi, với mỗi sáng tác cụ thể.
Cuối cùng, Nikolajeva cho rằng, phải luôn luôn đưa nhân vật trở lại văn bản,
nơi mà chúng thuộc về: “Khi chúng tôi đọc và và thưởng thức một cuốn tiểu thuyết,
chúng tôi gặp gỡ các nhân vật theo tuyến tính, bên trong văn bản không phải bên ngoài
văn bản. Chúng tôi không gặp họ như một tổng thế, hoàn thiện, tính cách cá nhân nhất
quán như cách họ xuất hiện trong các bài luận về phê bình văn học. Họ là một phần
26
của văn bản, của không gian và thời gian trong văn bản; họ bị biến dạng bởi phối cảnh
trần thuật, bị che khuất bởi ý đồ của người viết. Bên ngoài truyện, họ là nhân vật chết
nhưng đặt trở lại truyện, họ lại bắt đầu sống và tác động đến chúng ta” [242;284].
Có thể nói, cuốn sách của M.Nikolajeva đã cung cấp một sự phân tích khá toàn
diện ở phương diện lí thuyết về nhân vật trong Văn học thiếu nhi. Nghiên cứu này
cũng đã góp phần khẳng định: “Nhân vật trong Văn học thiếu nhi, ở nhiều khía cạnh,
được xây dựng khác biệt so với nhân vật trong văn học nói chung” [242;x].
1.2.2. Tình hình nghiên cứu nhân vật trẻ em trong truyện thiếu nhi Việt Nam
Nghiên cứu Văn học thiếu nhi Việt Nam nói chung và truyện viết cho thiếu nhi
nói riêng là vấn đề chưa được nhiều người quan tâm sâu sắc. Một mặt, vì chính bản
thân nền Văn học thiếu nhi còn non trẻ, chỉ mới thực sự hình thành từ sau cách mạng
tháng Tám 1945. Mặt khác, các sáng viết cho thiếu nhi ở Việt Nam chưa có nhiều
thành tựu nổi bật. Phần lớn các bài viết về Văn học thiếu nhi cũng như truyện thiếu nhi
đều được tập hợp trong hai tập của cuốn sách: Văn học thiếu nhi Việt Nam do Vân
Thanh sưu tầm – biên soạn, nxb Kim Đồng, năm 2003. Trong đó, chủ yếu mô tả, tóm
tắt về những sáng tác Văn học thiếu nhi hoặc đặt ra một số vấn đề về sáng tác cho
thiếu nhi. Không có nhiều nghiên cứu theo hướng thi pháp học.
Người có công đầu trong việc đưa Văn học thiếu nhi trở thành đối tượng nghiên
cứu một cách quy mô là Vân Thanh với luận án Truyện viết cho thiếu nhi từ sau cách
mạng tháng Tám (sau được in thành sách: Truyện viết cho thiếu nhi dưới chế độ mới)
của tác giả Vân Thanh. Nghiên cứu của Vân Thanh đã chỉ ra những loại đề tài chính
của truyện viết cho thiếu nhi như:
Truyện lịch sử
Truyện về đề tài kháng chiến chống đế quốc xâm lược
Truyện về đề tài lao động, học tập và sinh hoạt
Truyện tranh cho lứa tuổi nhỏ
Truyện khoa học
Truyện đồng thoại
Công trình trên cùng những bài viết của tác giả Vân Thanh đã cho chúng tôi
một cái nhìn tổng quan về diện mạo nền Văn học thiếu nhi Việt Nam cũng như sự vận
động của thể loại truyện viết cho thiếu nhi từ sau cách mạng tháng Tám tới năm 1975.
27
Lã Thị Bắc Lý với luận án Truyện viết cho thiếu nhi sau năm 1975 (sau này
được in thành sách cùng tên) đã làm rõ thêm bức tranh Văn học thiếu nhi (ở thể loại
truyện) sau ngày nước nhà thống nhất. Công trình đã chỉ ra được những tìm tòi và đổi
mới của truyện viết cho thiếu nhi sau năm 1975, đặc biệt trên phương diện nhân vật,
thể loại và giọng điệu.
Hai công trình trên, một nghiên cứu về truyện viết cho thiếu nhi từ sau cách
mạng tháng Tám, một kế tiếp nghiên cứu về truyện viết cho thiếu nhi sau năm 1975,
đã cho thấy những thành tựu và đổi mới trên phương diện nội dung cũng như hình
thức thể loại của truyên viết cho thiếu nhi từ khi ra đời cho đến nay.
Giáo trình: Văn học thiếu nhi Việt Nam của Trần Đức Ngôn - Dương Thu Hương,
nxb Giáo dục, in năm 1998 và Văn học trẻ em của Lã Thị Bắc Lý, nxb ĐHSPHN, 2007
đã chính thức hóa sự hiện diện của nội dung Văn học thiếu nhi trong các trường đại
học và Cao đẳng. Đây là tư liệu bao quát đời sống Văn học thiếu nhi Việt Nam qua
những tác giả tiêu biểu như: Võ Quảng, Tô Hoài, Phạm Hổ, Trần Đăng Khoa,
Cuốn chuyên đề Thi pháp văn học thiếu nhi do Bùi Thanh Truyền chủ biên,
trong dự án phát triển giáo viên tiểu học, 2007 với sáu vấn đề: Quan niệm nghệ thuật
về con người; Thời gian nghệ thuật; Không gian nghệ thuật; Cốt truyện; Kết cấu và
ngôn từ nghệ thuật trong Văn học thiếu nhi đã trình bày khá rõ những nội dung then
chốt của thi pháp Văn học thiếu nhi. Tuy nhiên, do là công trình được viết dưới dạng
mô đun nhằm trạng bị cho sinh viên những hiểu biết nhất định về thi pháp Văn học nói
chung và thi pháp Văn học thiếu nhi nên nội dung không theo hướng khảo cứu chuyên
sâu mà thiên về hướng dẫn dạy học. Phần “Quan niệm nghệ thuật về con người trong
Văn học thiếu nhi” cũng có đưa ra một số nhận định về đặc điểm nhân vật trong sáng
tác của Phạm Hổ như “mỗi nhân vật là một thiên thần nhỏ góp phần truyền tải thông
điệp của trẻ thơ của người viết” [41;220]. Hoặc “nhân vật phải giàu tính giáo dục để
góp phần hình thành đạo đức, nhân cách trẻ em” [43;220] trong truyện Võ Quảng.
Mặc dù vậy, chuyên luận cũng không dành nhiều quan tâm tới vấn đề nhân vật - một
yếu tố quan trọng để nhận diện thi pháp Văn học thiếu nhi. Về sau, trong bài viết
“Nhân vật trẻ em trong truyện ngắn cho thiếu nhi thời đổi mới” in trên Tạp chí Nghiên
cứu văn học số 2 năm 2010, Bùi Thanh Truyền và Nguyễn Thanh Tâm đã phân tích và
28
chỉ ra bốn kiểu dạng nhân vật trẻ em: nhân vật với những mảnh vỡ tính cách; nhân vật
với những xúc cảm mới mẻ; Nhân vật trải nghiệm; Nhân vật bi kịch. Song bài viết
chưa tạo được cảm giác thuyết phục trong cách luận giải về cấu trúc các loại nhân vật.
Năm 2011, luận án “Thể loại truyện đồng thoại trong văn học Việt Nam hiện đại”
của Lê Nhật Ký đã góp phần làm đầy đặn hơn những nghiên cứu về Văn học thiếu nhi ở
Việt Nam. Công trình này tập trung tìm hiểu về truyện đồng thoại từ phương diện thể
loại. Qua việc xem xét những đặc trưng tiêu biểu của loại truyện này, tác giả luận án
cũng đề cập đến hệ thống nhân vật của truyện đồng thoại mà trọng tâm là nhân vật loài
vật. Ngoài công trình trên (sau này đã được in thành sách), Lê Nhật Ký cũng có những
đóng góp không nhỏ trong việc tạo dựng bức tranh nghiên cứu Văn học thiếu nhi với
nhiều bài viết, chuyên luận được xuất bản và in trên các tạp chí và blog cá nhân.
Trong khuôn khổ đề tài khoa học được tài trợ bởi Quỹ phát triển khoa học và
công nghệ Quốc gia (Nafosted), năm 2016, Lã Thị Bắc Lý tiếp tục xuất bản cuốn sách:
Văn học thiếu nhi Việt Nam thời kì hội nhập trong đó, bức tranh toàn cảnh về Văn học
thiếu nhi thời đổi mới được phác họa, nhận diện trên cả bình diện khái quát và cụ thể ở
từng trường hợp tiêu biểu.
Mặc dù chưa thực sự tạo được bề dày trong lĩnh vực nghiên cứu, song các công
trình chuyên sâu về Văn học thiếu nhi cũng như nhân vật trẻ em trong truyện thiếu nhi
Việt Nam đã cho thấy được chỗ đứng của bộ phận văn học này trong nền văn học dân
tộc cũng như nỗ lực gây dựng nền Văn học thiếu nhi của các nhà nghiên cứu.
Bên cạnh những công trình trên, đây đó trên các báo, tạp chí, có những bài viết
về bộ phận văn học này, trong số đó, có những bài đề cập đến vấn đề nhân vật trẻ em.
Tập hợp các ý kiến đánh giá về nhân vật trẻ em, chúng tôi sắp xếp thành hai nội
dung: 1. Những nhận định chung về nhân vật trẻ em trong truyện thiếu nhi Việt Nam;
2. Những nhận định về nhân vật trẻ em qua một số mảng đề tài trong truyện thiếu nhi
Việt Nam.
1.2.2.1 Những nhận định chung về nhân vật trẻ em trong truyện thiếu nhi Việt Nam
Nhận định về nhân vật trẻ em trong truyện thiếu nhi giai đoạn 1945-1975
Vân Thanh, Truyện viết cho thiếu nhi trong chặng đầu phát triển,(Phác thảo
văn học thiếu nhi Việt Nam, nxb Khoa học xã hội, 1999): “Nhìn chung hình ảnh của
29
các em trong truyện tuy chưa được miêu tả toàn diện nhưng đã có vài nét điển hình,
phản ánh đúng hoàn cảnh thực tế là có rất nhiều thiếu nhi anh dũng trong kháng
chiến”[200;182].
Góp phần khẳng định những đóng góp của các nhà văn trong việc xây dựng
hình tượng nhân vật trẻ em giai đoạn 1945-1975, Vũ Ngọc Bình cho rằng: “Trong văn
học Việt Nam, đã xuất hiện những nhân vật thiếu nhi tuy chưa thật đậm đà sắc sảo
nhưng đã có vóc dáng và vận mệnh riêng gắn bó máu thịt với đời sống của toàn dân
trong sản xuất và chiến đấu” [203;72-73].
Nguyên Ngọc trong bài “35 năm văn học cho thiếu nhi”, trích báo cáo hội nghị
văn thiếu nhi năm 1980, đã viết: Giữa các nhân vật trong truyện viết cho các em, các
quan hệ thường nghèo nàn, đơn giản. Thực ra, trong đời sống, mỗi con người, nhất là ở
lứa tuổi bé mà đồng chí Tố Hữu từng nói là có sức sống gấp đôi hoặc gấp mấy chúng
ta, những quan hệ thật là giàu có: quan hệ giữa người với người, giữa người với sự vật,
nghĩa là giữa kỷ niệm và ước mơ, giữa cái có thực và cái không bao giờ có, giữa cái
xấu và cái tốt, những quan hệ ấy chằng chịt lấy nhau. Và theo như một nhà văn nào
đó đã nói: một chức năng quan trọng của nhà văn là giúp cho bạn đọc thấy được tất cả
những mối quan hệ ấy” [203;104]. Ông kết luận: “Nhân vật là thiếu nhi nhưng đọc thì
thấy không có gì khác mấy so với người lớn” [198;104]. Đây là một nhận định khá
toàn diện, bao quát được khía cạnh nổi bật của nhân vật trẻ em giai đoạn 1945-1975
trong truyện thiếu nhi Việt Nam.
Trong bài Xin chú ý, có trẻ em, Văn Hồng đã nhận xét về chứng bệnh phổ biến
trong các cuốn sách viết cho trẻ em trước thời kì đổi mới: “Tác phẩm thường được
thể hiện bằng những cấu trúc bằng phẳng, giản đơn, với những nhân vật hờ hững tẻ
nhạt, với những triết lý rối rắm và những tình cảm bi đát; thiếu cái đằm thắm, ngộ
nghĩnh, buồn cười, lạc quan vốn gắn liền với tâm lý tuổi thơ” [203;30]. Ở bài viết
Phác họa một chặng đường văn học thiếu nhi , ông đánh giá: “Nhân vật mới chỉ có
nét dáng, chưa có những tính cách đầy đủ. Chưa có những con người mới xã hội chủ
nghĩa, mới cả thế giới quan, nhân sinh quan, mới cả tư tưởng, tầm nhìn, đạo đức, nếp
sống [203;95].
Nhận định về nhân vật trẻ em trong giai đoạn 1945-1975, Lã Thị Bắc Lý cho
rằng: “Nhân vật mang dáng dấp của những người anh hùng, thể hiện rất rõ phẩm chất
30
anh hùng, hành động anh hùng, tư tưởng anh hùng. Hầu hết các nhân vật đều được xây
dựng theo bút pháp lí tưởng hóa và lãng mạn hóa. Tác giả ít chú ý đến quá trình phát
triển, biến đổi của tính cách nhân vật mà chỉ tập trung khắc họa vẻ đẹp của nhân vật
trong hoàn cảnh thử thách quyết liệt của cuộc chiến đấu” [112;86].
Có thể nói, các nhận định khá thống nhất trong đánh giá nhân vật trẻ em trong
truyện thiếu nhi Việt Nam về việc cho rằng: Hình ảnh của trẻ em đã được thể hiện khá
thống nhất trong giai đoạn kháng chiến. Bên cạnh đó, nhân vật trẻ em cũng chưa tạo
được màu sắc riêng, phần lớn “đều được xây dựng theo bút pháp lí tưởng hóa và lãng
mạn hóa”. Nhân vật trẻ em trong giai đoạn 1945-1975 giống một người lớn thu nhỏ
hơn là một đứa trẻ.
Nhận định về nhân vật trẻ em trong truyện thiếu nhi giai đoạn sau 1975
Khi bàn về Văn học thiếu nhi sau 1975, Vân Thanh vẫn nhất quán với quan
niệm cho rằng nhân vật trẻ em phải được tái hiện trên tinh thần cao đẹp, bà khẳng
định: “Trên tất cả sự phong phú của những đề tài và sự mở rộng các phương thức tiếp
cận với hiện thực, thì chủ nghĩa anh hùng, những mặt sống tích cực, những nhân cách
cao thượng vẫn là trung tâm mô tả của văn học thiếu nhi. Nhưng bên cạnh đó, không
bỏ qua các mặt xấu, tiêu cực, với thái độ phê phán rõ ràng, không gợi lên sự mơ hồ,
lẫn lộn, và với mục đích chính là làm nổi lên cái mới, cái đẹp” [200;251].
Trong công trình Truyện viết cho thiếu nhi sau năm 1975, Nxb Đại học Quốc
Gia, 2000, Lã Bắc Lý đã nêu nét mới trong hình tượng nhân vật trẻ em: “Từ nhân vật
chỉ mang một đặc điểm tính cách, phẩm chất định hình đại diện cho một mẫu người
đến nhân vật giàu cá tính, phức hợp, được miêu tả như một nhân cách, một số phận;
nhà văn luôn có ý thức hướng tới những biểu hiện đầy biến động của các quá trình tâm
lí, tính cách để “nắm bắt con người đích thực ở trong con người” [112;63].
Cùng quan điểm với Lã Bắc Lý, Bùi Thanh Truyền, cũng khẳng định về sự mới
mẻ trong hình tượng nhân vật trẻ em sau 1975: “So với giai đoạn trước, con người
trong truyện ngắn cho trẻ em bây giờ được nhìn nhận một cách toàn diện, mới mẻ hơn.
Ngoài những phẩm chất riêng có của thiếu nhi mọi thời đại, người viết còn tô đậm chất
đời thường, phần nhân tính phổ quát ở họ Khoảng cách giữa nhân vật , đặc biệt là
nhân vật thiếu nhi với độc giả nhỏ tuổi ngày càng thu hẹp lại” [221;113].
31
Nhìn chung, nhân vật trẻ em trong truyện thiếu nhi sau 1975, đều được các nhà
nghiên cứu cho rằng, đã có những bước đột phá, thay đổi trên phương diện cấu trúc
nhân vật. Theo đó, nhân vật trẻ em sau 1975, được đánh giá là “trẻ” hơn, gần gũi hơn
với đới sống của các em vì đã tái hiện được chân thực hình ảnh của trẻ em. Cũng bởi thế
mà khoảng cách giữa nhân vật và độc giả, giữa người viết và bạn đọc được rút ngắn.
1.2.2.2 Những nhận định về nhân vật trẻ em qua một số mảng đề tài trong truyện thiếu
nhi Việt Nam
Theo nguồn tư liệu chúng tôi thu thập được, có khá nhiều bài viết về các mảng
đề tài của văn học thiếu nhi, trong đó, các tác giả cũng đưa ra những nhận xét về nhân
vật xuất hiện trong từng mảng đề tài này. Chúng tôi xin dẫn ra đây những ý kiến đó.
Đề tài kháng chiến
Vân Thanh cho biết: “Qua việc tìm hiểu ý kiến của các em, ta có phần chắc là
những truyện viết về đề tài kháng chiến phần lớn đều được các em ưa thích. Đặc biệt
đối với lứa tuổi từ 9 đến 13, những truyện viết về chiến đẫu vẫn hấp dẫn hơn cả. Các
em thiết tha muốn được nghe kể lại đời sống, sinh hoạt của những những người anh
hùng, kể cả những anh hùng thiếu nhi vốn có lòng yêu nước nồng nàn và tình yêu ghét
rõ rệt. Thêm vào đó hoạt động của những nhân vật anh hùng thường phong phú, sôi
nổi, phù hợp với tính ưa hoạt động của các em” [200;187].
Bà cũng đánh giá: “Nói chung, các tác giả không sa vào trình bày tiểu sử một
cách nhạt nhẽo hoặc kê khai thành tích một cách khô khan, mà đã chú ý xây dựng
những hình tượng vừa chân thực vừa sinh động, phản ánh đúng được cuộc đời của
những nhân vật thiếu nhi hồn nhiên, thơ ngây, ngần gũi với các em, nhưng rất gan góc,
ngoan cường” [204; 191].
Đề tài sinh hoạt
Viết về sinh hoạt của các em, tác giả Bùi Thanh Ninh đã cho rằng: “Ở một số
tác phẩm, các tác giả đã chú ý đến việc xây dựng nhân vật của mình một cách khá sinh
động và trên mức độ nhất định có thể gọi nhân vật đó là những nhân vật có nhiều nét
điển hình trong văn học thiếu nhi. Qua những nhân vật ấy, ta thấy nổi bật lên lòng ham
tiến bộ, tinh thần phấn đấu vươn lên để trở thành một em thiếu nhi tốt, tinh thần cố
gắng lao động và học tập” [204;57].
Vũ Ngọc Bình đã đưa ra những ý kiến sau khi điểm bốn tác phẩm thuộc đề tài
sinh hoạt: Hợp tác xã của chúng em – Tô Hoài, Tổ tâm giao – Trần Thanh Địch, Bí mật
32
miếu Ba Cô – Văn Trọng, Danh dự của chúng em - Đào Vũ như sau: “Sáng tác cho
thiếu nhi về đề tài sinh hoạt mới, có thể chỉ hạn chế trong sinh hoạt hàng ngày của bản
thân các em hoặc có thể gắn chặt “thế giới riêng biệt” của trẻ em với cuộc sống xã hội,
để qua đó khơi gợi cho các em hiểu rõ hơn, sâu hơn cuộc sống và cho người lớn – và
người viết – hiểu đúng hơn và kỹ hơn con em mình và nhân vật của mình” [204;22].
Đề tài lịch sử
“Với đề tài lịch sử, các tác giả đã có cố gắng vượt lên khỏi tình trạng miêu tả sự
kiện lịch sử đơn thuần để đem lại cho mỗi nhân vật một đường nét riêng. Có tác phẩm
đã dựng lên được hình ảnh của những nhân vật thiếu nhi sinh động như Nguyễn Chích
lúc thiếu thời (Tướng quân Nguyễn Chích), Bàn A Tốn (Nghĩa quân sông Đà), Rái
Minh (Nhụy Kiều tướng quân)” [200;190]. Bùi Thanh Ninh cho rằng: “Trong việc xây
dựng nhân vật, một vấn đề cần đặt ra là, trong một cuốn truyện lịch sử viết cho các em
có nhất thiết phải mô tả nhân vật thiếu nhi không? Không ai có thể phủ nhận được một
hiện thực hiển nhiên là thiếu nhi Việt Nam ở bất kì thời đại lịch sử nào cũng cùng cha
ông hăng hái đánh đuổi bọn xâm lược. Cho nên vấn đề đặt ra không phải là nên hay
không nên, cần hay không cần” [204;101].
Đề tài nông thôn
Nhân vật trẻ em được Văn Trọng nhìn nhận: “Nông thôn nước ta đang chuyển
biến theo yêu cầu của nhiệm vụ cách mạng mới. Thiếu niên ở nông thôn nước ta đang
trưởng thành nhanh chóng trong nhiệm vụ sẵn sàng chiến đấu và chiến đấu bảo vệ Tổ
quốc, và lao động xây dựng chủ nghĩa xã hội.” [203;321].
Đề tài phiêu lưu
Về đề tài phiêu lưu, Văn Hồng có nhận xét: “Đặc điểm chung của truyện phiêu
lưu là các nhân vật luôn thay đổi môi trường sống, thường xuyên phải đối phó với
những cảnh ngộ bất ngờ, những tình huống hiểm nghèo, đòi hỏi phải bình tĩnh, thông
minh, dũng cảm” [70;40].
Tóm lại, phần lớn các ý kiến về nhân vật trẻ em trong các mảng đề tài đều dừng
lại ở việc nhận xét một vài đặc điểm nổi bật của nhân vật qua một số sáng tác cùng đề
tài. Những nhận định này, tuy mới ở mức độ khái quát, nhưng đã phần nào chỉ ra được
nét nổi bật của nhân vật trẻ em trên bình diện rộng. Đó cũng là cơ sở giúp chúng tôi có
thêm tư liệu cho những đánh giá và phân tích trong luận án về các kiểu loại nhân vật
trẻ em ở truyện thiếu nhi Việt Nam.
33
Chƣơng 2
NHÂN VẬT TRẺ EM TRONG TRUYỆN THIẾU NHI VIỆT NAM
GIAI ĐOẠN TỪ 1945 ĐẾN 1975
2.1. Những nhân tố tác động đến việc xây dựng nhân vật trẻ em
2.1.1. Bối cảnh xã hội, văn hóa
Cách mạng tháng Tám (1945) thành công, mở ra một kỷ nguyên mới cho đất
nước - kỷ nguyên độc lập, tự chủ. Ngày 2-9-1945, tại quảng trường Ba Ðình, Hồ Chủ
Tịch đọc bản Tuyên ngôn độc lập, khai sinh nước Việt Nam dân chủ cộng hòa. Ách
nô lệ bị đập tan, con người Việt Nam được giải phóng; bừng lên một niềm hạnh phúc
lớn lao đến thiêng liêng, như kết quả tất yếu từ khát vọng tự do và quyết tâm cứu nước
của cả dân tộc. Nếu như dưới chế độ phong kiến, người lao động và con em họ bị rẻ
rúng, vùi dập, thì sau thắng lợi của Cách mạng vai trò và vị thế của họ được coi trọng
hơn. Trong lá thư gửi học sinh tháng 9 năm 1945, Bác Hồ đã viết: “Non sông Việt
Nam có trở nên tươi đẹp hay không, dân tộc Việt Nam có bước tới đài vinh quang để
sánh vai với các cường quốc năm châu được hay không, chính là nhờ một phần lớn ở
công học tập của các cháu” [91;19-20]. Xác định được trách nhiệm trọng đại của thế
hệ trẻ với vận mệnh của dân tộc, Đảng và Bác đã thể hiện rất rõ sự quan tâm tới thiếu
nhi trong công cuộc dựng nước và giữ nước.
Chính quyền cách mạng non trẻ, ngay lúc đó, đã phải đương đầu với muôn vàn
khó khăn trên tất cả các phương diện của đời sống. Nền kinh tế hầu như kiệt quệ với
hệ thống kho tàng trống rỗng, nông nghiệp lạc hậu, mất mùa vì lũ lụt ; các ngành công
thương nghiệp, thủ công nghiệp bị đình đốn hoặc phá sản. (Hậu quả thảm khốc là nạn
đói xảy ra, làm chết hơn hai triệu người, ngót 1/10 dân số nước ta bấy giờ). Trình độ
dân trí, văn hóa giáo dục thấp kém với hơn 80% dân số mù chữ. Đại đa số con em của
những người nông dân không được đến trường. Trước tình hình đó, Đảng và chủ tịch
Hồ Chí Minh đã đưa ra những chính sách nhằm nâng cao trình độ tri thức cho nhân
dân, đặc biệt là trẻ em. Trong phong trào Bình dân học vụ, trẻ em vừa đóng vai trò là
đối tượng đi học vừa tham gia cổ vũ, động viên người dân đi xóa mù.
Sự lãnh đạo của Đảng với đường lối văn nghệ xuyên suốt (Bản đề cương văn hóa
năm 1943) là yếu tố trọng yếu chấm dứt sự phân hóa phức tạp của văn hóa văn học nước
ta dưới ách thực dân, tạo nên một nền văn nghệ thống nhất sau 1945.
34
Nước Việt Nam dân chủ vừa mới ra đời đã phải đối mặt với những thử thách
cam go. Chỉ ba tuần sau cách mạng tháng Tám, chính quyền non trẻ của chúng ta đã
phải lâm vào cuộc kháng chiến chống thực dân xâm lược với tương quan lực lượng
còn quá chênh lệch so với kẻ địch.. Để đối phó với tình hình đó, Đảng và chủ tịch Hồ
Chí Minh đã kêu gọi toàn dân kháng chiến. Các tầng lớp, giai cấp, các thế hệ đều được
tập hợp trong mặt trận Việt Minh dưới sự lãnh đạo của Đảng và Bác Hồ. Trong tình
thế đó, trẻ em, bên cạnh việc học hành, cũng được huy động như một lực lượng phục
vụ kháng chiến. Trong những bức thư của Bác Hồ gửi nhi đồng toàn quốc nhân dịp kỷ
niệm Quốc khánh năm 1947, đã thể hiện chủ trương này: “Bác khuyên các cháu gắng
sức thêm. Việc gì có ích cho kháng chiến, có ích cho Tổ Quốc thì các cháu nên gắng
sức làm. Làm được bao nhiêu tốt bấy nhiêu” [91;29].
Trong kháng chiến chống Pháp, có bao người đã ngã xuống, bao đứa trẻ phải mồ
côi cha mẹ từ khi còn rất nhỏ. Chính hoàn cảnh đó đã hun đúc ý chí chiến đấu của các
em, khiến các em sớm phải già trước tuổi và đảm đương những công việc của người lớn.
Những đứa trẻ lớn lên trong bom đạn, trong những tổn thương không gì bù đắp nổi của
chiến tranh hiểu hơn ai hết giá trị của cuộc sống. Vì thế, chúng đã sớm trở thành những
chiến sĩ nhỏ tuổi, tham gia kháng chiến và sẵn sàng xả thân vì cuộc chiến chống ngoại
xâm. Chúng trở thành những em bé liên lạc, những chiến sĩ đưa đường, những cô giao
liên, đầy hăng hái và trách nhiệm. Hoàn cảnh lịch sử đặc biệt ấy đã tạo nên những anh
hùng nhỏ tuổi, mà người lớn, dù không muốn cũng phải buộc lòng chấp nhận.
Sau hiệp định Genève 1954, đất nước bị phân thành hai nửa. Miền Bắc bắt đầu
xây dựng xã hội chủ nghĩa, với hai nhiệm vụ: một mặt vừa xây dựng nền kinh tế, văn
hóa xã hội theo định hướng xã hội chủ nghĩa mặt khác phải chi viện cho miền Nam
đấu tranh dành độc lập cho dân tộc. Một lần nữa, toàn thể dân tộc, không ngoại trừ trẻ
em, lại dốc sức tham gia xây dựng xã hội chủ nghĩa và giải phóng miền Nam. Trẻ em
vừa học tập vừa tham gia những công việc của xã hội như làm kế hoạch nhỏ, vào hợp
tác xã măng non. Khi còn nhỏ, các em thi đua học tốt, lao động tốt, lúc lớn lên, 17, 18
tuổi, các em xung phong ra trận, tham dự đoàn quân giải phóng miền Nam. Những đứa
trẻ của một dân tộc mà lịch sử phải đối mặt với hàng loạt cuộc xâm lược đã gắn tuổi
thơ mình với vận mệnh Tổ Quốc.
Cùng lúc đó, trên một nửa đất nước tính từ vĩ tuyến 17 đến mũi Cà Mau, với sự
trợ giúp tích cực của Hoa Kì, chính quyền Ngô Đình Diệm đã nhanh chóng ổn định
35
được tình hình. Nhưng từ năm 1960, tình hình xã hội miền Nam ngày càng bất ổn.
Trong những năm 1959 - 1960, dưới ách đô hộ, kìm kẹp của chính quyền Ngô Đình
Diệm, phong trào Đồng Khởi của nhân dân miền Nam phát triển mạnh mẽ dẫn đến sự
ra đời của mặt trận dân tộc giải phóng miền Nam năm 1960. Cuộc đấu tranh giải
phóng của lực lượng cách mạng ở miền Nam được sự chi viện lớn lao của miền Bắc
ngày càng phát triển mạnh mẽ khiến chính quyền Sài Gòn có nguy cơ sụp đổ. Đảo
chính ngày 11-11-1960, rồi hai phi công Phạm Phú Quốc, Nguyễn Văn Cử thả bom
dinh Độc lập 2-1962, nếp thanh bình tương đối của thời ngưng chiến sau 1954 dần
mất. Bạo loạn xảy ra liên miên, người dân không còn tin tưởng vào chính quyền. Để
cứu vãn tình hình, Mỹ đã ồ ạt đổ quân vào miền Nam và bao vây, bắn phá miền Bắc.
Về mặt văn hóa, sau cách mạng tháng Tám, Đảng vẫn tiếp tục chủ trương xây dựng
nền văn hóa mới Việt Nam với ba tiêu chí: dân tộc, khoa học, đại chúng. Các giá trị văn
hóa quần chúng được khơi dậy, trở thành nguồn lực tinh thần trong đời sống nhân dân.
Cuộc cách mạng giải phóng dân tộc và nhân dân cùng hai cuộc chiến tranh yêu
nước vĩ đại đã khơi dậy và phát huy cao độ tinh thần yêu nước và chủ nghĩa anh hùng
trong truyền thống dân tộc. Ý thức giai cấp cũng được đề cao, chi phối mọi mặt của
đời sống và quan hệ con người. Chủ nghĩa yêu nước, tinh thần cộng đồng, lí tưởng xã
hội chủ nghĩa không chỉ là nền tảng tinh thần của dân tộc trong chiến tranh mà còn là
nền tảng tư tưởng của văn học giai đoạn này. Nó khúc xạ vào mỗi sáng tác hình ảnh
người anh hùng cách mạng tràn đầy lí tưởng với đầy đủ những phẩm chất tốt đẹp, sẵn
sàng xả thân vì cộng đồng. Hình mẫu này cũng được dịch chuyển sang Văn học thiếu
nhi, tạo thành các kiểu nhân vật trẻ em giống như mô hình nhân vật người lớn thu nhỏ.
Ở miền Nam, những biến động trong đời sống xã hội sau năm 1960 đã tạo nên
trạng thái âu lo về chiến tranh, hoang mang trước thực tại. Thuyết hiện sinh, vì thế được
giới trí thức đón nhận như một cứu cánh cho đời sống. Theo đó, con người tự do, cô đơn
cuộc đời phi lí, vô thường, được xem là biểu hiện của trạng thái hiện sinh. Bên cạnh
đó, sự du nhập các luồng tư tưởng mới từ Mỹ, châu Âu cũng tạo những tiếng nói khác.
Có thể nói, hai cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp và đế quốc Mĩ trường kì
suốt 30 năm đã tác động sâu sắc, toàn diện tới đời sống vật chất và tinh thần của dân tộc,
trong đó có Văn học thiếu nhi, tạo nên những đặc điểm riêng biệt của một nền văn học
hình thành và phát triển trong hoàn cảnh chiến tranh gian khổ, ác liệt. Biến động của
tình hình xã hội, văn hóa đã ảnh hưởng không nhỏ tới sự hình thành và phát triển của
những kiểu loại nhân vật trẻ em trong Văn học thiếu nhi giai đoạn 1945-1975.
36
2.1.2. Bối cảnh văn học thiếu nhi
Cách mạng tháng Tám thành công, xây dựng và phát triển nền văn học thiếu nhi là
một trong những hình thức mà Đảng và Bác luôn chú ý. Bộ phận văn học thiếu nhi của Hội
văn nghệ được thành lập trong kháng chiến do Tô Hoài phụ trách với sự tham gia của nhà
văn: Nam Cao, Nguyễn Huy Tưởng, Nguyên Hồng, Nguyễn Xuân Sanh, Nguyễn Tuân,
Lưu Hữu Phước, Năm 1946, tờ Thiếu sinh ra đời với lời căn dặn của chủ tịch Hồ Chí
Minh: “Báo trẻ em ra đời – Báo đó là báo của trẻ em, vậy các trẻ em nên giúp cho báo, gửi
tin tức tranh vẽ và viết bài cho báo. Nên đọc cho các em chưa biết chữ nghe, nên làm cho
báo phát triển” [203;43]. Ngoài tờ Thiếu sinh còn có thêm các báo Xung phong, Măng
non, Tuổi trẻ, Nhiệm vụ của những tờ báo này là giáo dục các em trở thành những
người thật thà, dũng cảm, tích cực xây dựng đất nước. So với báo của Tự lực văn đoàn
giai đoạn trước, những sách Kim Đồng, Hoa kháng chiến đã có những thay đổi trong việc
tạo dựng nhân vật thiếu nhi. Hình ảnh của các em tuy chưa được miêu tả toàn diện, nhưng
đã có nét điển hình và phản ánh phần nào tình hình thực tế là có rất nhiều thiếu nhi anh
dũng trong kháng chiến. Những sáng tác này đã mở ra cho Văn học thiếu nhi Việt Nam
con đường đi đầy triển vọng và có tác dụng bồi dưỡng tư tưởng tình cảm cho các em.
Trong kháng chiến chống Pháp, Trung ương Đoàn thanh niên đã xuất bản nhiều
tác phẩm gương chiến đấu như: Lê Văn Tám, Đội thiếu nhi sông Lô, Đội thiếu niên
thành Huế, Những ngày đi lưu động nhằm thay thế những loại sách kiếm hiệp, trinh
thám (lúc bấy giờ, được coi là phản động, lạc hậu) của nền văn học vùng Pháp tạm
chiếm thời Kháng chiến. Tháng 7 năm 1957, nhà xuất bản Kim Đồng ra đời dưới sự
lãnh đạo của Trung ương Đoàn. Việc thành lập một nhà xuất bản sách cho thiếu nhi đã
tạo điều kiện đẩy mạnh phong trào sáng tác cho trẻ em. Cuộc vận động sáng tác cho
thiếu nhi do Bộ giáo dục và Trung ương Đoàn thanh niên phối hợp tổ chức...ài Nam (2010), Bài giảng văn học thiếu nhi Việt Nam (in lần thứ 2),
Nxb Đại học Sư phạm Hà Nội, Hà Nội.
127. Vũ Tú Nam (03/01/1981), “Từ quan sát cụ thể đến hình tượng văn học”, Văn
nghệ (1).
128. Mai Quỳnh Nga (13/08/2015), “Vực dậy văn học thiếu nhi: chuyện không chỉ
của các nhà văn”, Nguồn:
129. Nguyễn Thị Việt Nga (2012), Vấn đề thân phận con người trong tiểu thuyết đô
thị miền Nam 1954-1975, Luận án tiến sĩ văn học, Học viên khoa học xã hội, Hà
Nội.
130. Nguyễn Thị Việt Nga (01/07/2015), Văn học đô thị miền Nam: một bộ phận văn
học dân tộc cần được tiếp tục nghiên cứu, Nguồn:
161
131. Hương Ngàn (2011), Trẻ em hôm nay - Thế giới ngày mai, Nxb Đại học Sư phạm
thành phố Hồ Chí Minh, tp Hồ Chí Minh.
132. Diệu Ngân (21/09/2013), “Trẻ em Việt thời chiến đôi mắt sáng dưới vành mũ
rơm”, Nguồn:
133. Nguyên Ngọc (1987), “Cần phát huy đầy đủ chức năng xã hội của văn học thiếu
nhi”, Báo văn nghệ (44).
134. Nguyên Ngọc (1993), “Viết cho các em hôm nay càng khó khăn hơn”, Tạp chí
văn học (5), tr.4-5.
135. Trần Đức Ngôn, Dương Thu Hương (2004), Giáo trình Văn học thiếu nhi Việt
Nam, Nxb Đại học Sư phạm Hà Nội, Hà Nội.
136. Đào Thủy Nguyên (2000), “Thế giới nhân vật Nguyễn Khải theo dòng thời gian”,
Tạp chí văn học (12), tr.74-79.
137. Đào Thủy Nguyên (2001), “Thế giới nhân vật Nguyễn Khải trong cảm hứng
nghiên cứu phân tích”, Tạp chí văn học (11), tr.53-63.
138. Lã Nguyên (1999). "Khi nhà văn đào bới bản thể ở chiều sâu tâm hồn", Nghiên
cứu văn học (9), tr.63.72.
139. Lã Nguyên (2009), “Chủ nghĩa hậu hiện đại như một hệ hình thế giới quan”,
Nguồn:
140. Lã Nguyên (2014), “Văn xuôi hậu hiện đại Việt Nam: quốc tế và bản địa, cách
tân và truyền thống”, Nguồn:
141. Phạm Xuân Nguyên (2012), Đi tìm Nguyễn Huy Thiệp, Nxb Văn hóa thông tin,
Hà Nội.
142. Nguyễn Vĩnh Nguyên (02/05/2013), “Sách Những mảnh đời được ban tặng”,
Nguồn:
143. Trần Thị Mai Nhân (2011), “Đổi mới nghệ thuật kết cấu tác phẩm trong tiểu
thuyết Việt Nam cuối thế kỷ XX”, Tuyển tập Việt Nam học, tr.295-314.
144. Nguyễn Thị Nhất , Nguyễn Khắc Viện (1997), Tâm lí trẻ em, Nxb Trẻ, Tp Hồ
Chí Minh.
145. Nhiều tác giả (2003), Văn học hậu hiện đại thế giới, những vấn đề lý thuyết, Nxb
Hội Nhà văn - Trung tâm văn hóa ngôn ngữ Đông Tây, Hà Nội.
162
146. Nhiều tác giả (2009), Kỉ yếu hội thảo Những ảnh hưởng của văn học thiếu nhi
đến sự phát triển nhân cách trẻ em trong thời kì đổi mới và hội nhập, Nxb Đại
học Sư phạm Hà Nội, Hà Nội.
147. Nhiều tác giả (1940), Tết của trẻ em, Nxb Rạng Đông, Hà Nội.
148. Nhiều tác giả (1960), Kinh nghiệm viết cho các em (Vũ Ngọc Quỳnh, Xuân Tửu
dịch), Nxb Văn học, Hà Nội.
149. Nhiều tác giả (1982), Văn học và trẻ em (Xuân Tửu, Phương Thảo, Vũ Ngọc
Bình dịch), Nxb Kim Đồng, Hà Nội.
150. Nhiều tác giả (1982), Vì tuổi thơ, Nxb Tác phẩm mới, Hội nhà văn, Hà Nội.
151. Nhiều tác giả (1983), Bàn về văn học thiếu nhi, Nxb Kim đồng, Hà Nội.
152. Nhiều tác giả (2008), Văn học Việt Nam từ sau Cách mạng tháng 8 năm 1945,
Nxb Đại học Sư phạm Hà Nội, Hà Nội.
153. Nhiều tác giả (2009), “Những ảnh hưởng của văn học thiếu nhi đến sự phát triển
nhân cách trẻ em trong thời kì đổi mới và hội nhập quốc tế”, Nxb Đại học Sư
phạm Hà Nội, Hà Nội.
154. Nhiều tác giả (2013), Trẻ em thời chiến (sách ảnh), Nxb Kim Đồng, Hà Nội.
155. Nhiều tác giả (2015), Nguyễn Nhật Ánh hiệp sĩ của tuổi thơ, Nxb Đại học sư
phạm Hà Nội, Trung tâm ngôn ngữ và văn học nghệ thuật trẻ em, Hà Nội.
156. Vũ Nho (25/05/2015), “Tô Hoài - cây đại thụ của văn học thiếu nhi”, Nguồn:
157. Lê Thiếu Nhơn (13/08/2015), “Văn học bỏ thiếu nhi, hay thiếu nhi bỏ văn học?”,
Nguồn:
158. Mai Thị Nhung (2005), “Đặc điểm thế giới nhân vật Tô Hoài”, Nghiên cứu văn
học (4), tr121-125.
159. Nguyễn Thị Tuyết Nhung (2015), Văn xuôi tiếng Việt ở nước ngoài từ 1975 đến
nay, Luận án tiến sĩ Ngữ văn, Đại học Sư phạm Hà Nội, Hà Nội.
160. Đỗ Hải Ninh (2012), Tiểu thuyết có khuynh hướng tự truyện trong văn học Việt
Nam đương đại, Luận án tiến sĩ Văn học, Học viện khoa học xã hội, Hà Nội.
161. Noxop. (1982). Những em bé giàu trí tưởng tượng (Hoàng Anh dịch), Nxb Măng
Non, tp Hồ Chí Minh.
163
162. Mai Hải Oanh (2009), Những cách tân nghệ thuật trong tiểu thuyết Việt Nam
đương đại, Nxb Hội nhà văn, Hà Nội.
163. L. Odelte (2001), Trẻ em, văn hóa, giáo dục, Kỉ yếu hội thảo Việt - Pháp về tâm
lí học (Nguyễn Minh Đức, Văn Thị Kim Cúc dịch), Nxb Thế giới, Hà Nội.
164. Lê Phát (01/04/1989), “Đọc Miền thơ ấu của Vũ Thư Hiên”, Văn nghệ (3).
165. Nguyễn Phúc (1995), Khảo sát sự du nhập của phân tâm học và chủ nghĩa hiện
sinh vào văn học đô thị miền Nam trước năm 1975, LA PTS KH Ngữ văn, Đại
học Tổng hợp thành phố Hồ Chí Minh, Tp Hồ Chí Minh.
166. Huỳnh Như Phương (1991). "Văn xuôi những năm 80 và vấn đề dân chủ hóa nền
văn học", Tạp chí văn học (4), tr.14-17.
167. Huỳnh Như Phương (2009). "Một số biểu hiện của sự đổi mới nhân vật người kể
chuyện trong tiểu thuyết Việt Nam từ 1985 đến nay", Tạp chí khoa học (2), tr.64-71.
168. Nguyễn Thị Hải Phương (2009), “Một số biểu hiện của sự đổi mới nhân vật
người kể chuyện trong tiểu thuyết Việt Nam từ 1985 đến nay”, Tạp chí khoa học
(2), Trường Đại học Sư phạm Hà Nội, tr.64-71.
169. Jean Piaget (2013), Sự ra đời trí khôn ở trẻ em (Hoàng Hưng dịch), Nxb Tri thức,
Hà Nội.
170. Jean Piaget (2016), Sự hình thành biểu tượng ở trẻ em (Nguyễn Xuân Khánh,
Hoàng Hưng dịch), Nxb Tri thức, Hà Nội.
171. G.N.Pospelov ( 1985), Dẫn luận nghiên cứu văn học (Trần Đình Sử, Lại Nguyên
Ân, Lê Ngọc Trà, Nguyễn Nghĩa Trọng dịch). Nxb Giáo dục, Hà Nội.
172. V.Ia. Propp (2003). Tuyển tập V.IA.Propp (Nhiều người dịch), Nxb Văn hóa dân
tộc, Tạp chí văn hóa nghệ thuật, Hà Nội.
173. Phan Quế (7/1999), “Đừng bắt trẻ con làm đồng niên với mình quá sớm”, Tạp
chí Vì trẻ thơ (1022), tr.17.
174. Lê Minh Quốc (2014), Nguyễn Nhật Ánh, hoàng thử bé trong thế giới tuổi thơ,
Nxb Kim Đồng, Hà Nội.
175. Nguyễn Quỳnh (1993), “Viết và vẽ cho thiếu nhi”, Tạp chí văn học (5) tr32-33.
176. Nguyễn Quang Sáng (1985), “Viết về một dòng sông”, Báo Văn nghệ (1).
177. Chu Văn Sơn (1993), “Trở lại tuổi thơ của chính mình”, Tạp chí Sông Hương
(3), tr62-63.
164
178. Nguyễn Hữu Sơn (2005), Văn học trung đại Việt Nam, quan niệm con người và
tiến trình phát triển, Nxb Khoa học xã hội, Hà Nội.
179. Nguyễn Hữu Sơn (2011), “Du ký của người Việt Nam viết về các nước và và
những đóng góp vào quá trình hiện đại hóa văn xuôi tiếng Việt giai đoạn thế kỷ
XIX – đầu thế kỷ XX”, Văn học cận đại Đông Á từ góc nhìn so sánh (Đoàn Lê
Giang chủ biên), NXB TP Hồ Chí Minh. tr.632-645.
180. Trần Đình Sử (1986), "Mấy ghi nhận về sự đổi mới tư duy nghệ thuật và hình
tượng con người trong văn học ta thập kỉ qua", Tạp chí văn học (6), tr.12-17.
181. Trần Đình Sử (1995), "Con người trong văn học Việt Nam sau 1945", Một thời
đại trong văn học, Nxb Văn học, tr.43-95.
182. Trần Đình Sử (1998), Dẫn luận thi pháp học, Nxb Giáo dục, Hà Nội.
183. Trần Đình Sử (2001), "Mấy vấn đề trong quan niệm con người của Văn học Việt
Nam thế kỉ XX", Tạp chí văn học (8), tr.6-13.
184. Trần Đình Sử (2007), Tự sự học, phần 1, Nxb Đại học Sư phạm Hà Nội, Hà Nội.
185. Trần Đình Sử (2008), Tự sự học, phần 2, Nxb Đại học Sư phạm Hà Nội, Hà Nội.
186. Trần Đăng Suyền (2002), Chủ nghĩa hiện thực Nam Cao, Nxb Khoa học xã hội,
Hà Nội.
187. Trần Đăng Suyền (2003), Nhà văn hiện thực đời sống và cá tính sáng tạo, Nxb
Văn học, Hà Nội.
188. Trần Đăng Suyền (2013), Chủ nghĩa hiện thực trong văn học Việt Nam nửa đầu
thế kỉ XX, Nxb Giáo dục, Hà Nội.
189. Trần Đăng Suyền (2014), Phương pháp nghiên cứu và phân tích tác phẩm văn
học, Nxb Giáo dục, Hà Nội.
190. Trần Đăng Suyền, Nguyễn Văn Long (2014), Giáo trình văn học Việt Nam hiện
đại (Tập 1), Nxb Đại học Sư phạm Hà Nội, Hà Nội.
191. Phạm Bá Tân (2004), “Đóng góp của Phạm Hổ cho một thể loại văn học thiếu
nhi”, Tạp chí Nghiên cứu văn học (9), tr.123-130.
192. Nguyễn Quang Thân (1993), “Văn học – Hành trang đường đời của trẻ thơ”, Tạp
chí Văn học (5), tr.6-7.
193. Bùi Việt Thắng (1991), "Văn xuôi gần đây và quan niệm con người", Tạp chí
Văn học (6), tr.16-20.
165
194. Bùi Việt Thắng (2000), Bàn về tiểu thuyết, Nxb Văn hóa- thông tin, Hà Nội.
195. Nguyễn Thành ( 2012), “Khuynh hướng lạ hóa trong tiểu thuyết Việt Nam đương
đại- một số bình diện tiêu biểu”, Nghiên cứu Văn học (4), tr.5.
196. Nguyễn Thị Thanh (2011), Tiểu thuyết về chiến tranh trong văn học Việt Nam
sau 1975- những khuynh hướng và sự đổi mới nghệ thuật, Luận án Tiến sĩ Ngữ
văn, Trường Đại học Sư phạm Hà Nội, Hà Nội.
197. Phạm Trung Thanh (Chủ biên) (1984), Vấn đề giáo dục trẻ em hiện nay, Trường
Đại học Sư phạm Vinh, Vinh.
198. Phạm Thị Thành (1996), Nghệ thuật sân khấu dành cho trẻ em Việt Nam, Luận
án PTSKH Nghệ thuật, Viện Văn hóa nghệ thuật Việt Nam, Hà Nội.
199. Vân Thanh (1975), "Bước đi lên của văn học thiếu nhi Việt Nam". Tạp chí Văn
học (5), tr.35-48.
200. Vân Thanh (1999), Phác thảo văn học thiếu nhi Việt Nam, Nxb Khoa học xã hội,
Hà Nội.
201. Vân Thanh (2000), Văn học thiếu nhi như tôi từng biết , Nxb Kim Đồng, Hà Nội.
202. Vân Thanh, Nguyên An (2002), Bách khoa thư văn học thiếu nhi Việt Nam, Từ
điển bách khoa, Hà Nội.
203. Vân Thanh (2003), Văn học thiếu nhi Việt Nam tập 1, Nxb Kim Đồng, Hà Nội.
204. Vân Thanh (2003), Văn học thiếu nhi Việt Nam tập 2, Nxb Kim Đồng, Hà Nội.
205. Vân Thanh (2006), Tác giả văn học thiếu nhi Việt Nam, Nxb Từ điển bách khoa,
Hà Nội.
206. Bích Thu (1995), "Những dấu hiệu đổi mới của văn xuôi từ sau 1975 qua hệ
thống mô típ chủ đề", Tạp chí văn học (4), tr.24-28.
207. Nguyễn Thị Bích Thu (2006), "Nhận dạng nhân vật trong truyện ngắn 1945-
1975", Nghiên cứu văn học (6), tr.109-118.
208. Nguyễn Thị Bích Thu (2006), "Ý thức cách tân trong tiểu thuyết Việt Nam sau
1975", Văn học Việt Nam sau 1975, những vấn đề nghiên cứu và giảng dạy , Nxb
Giáo dục, tr.225-235.
209. Nguyễn Thị Bích Thu (2007), Truyện ngắn Việt Nam giai đoạn 1945-1975 (nhìn
từ góc độ thi pháp thể loại), Luận án tiến sĩ Ngữ văn, Viện văn học, Hà Nội.
166
210. Đỗ Lai Thúy (Biên soạn) (2001), Nghệ thuật như là thủ pháp (Lý thuyết chủ
nghĩa hình thức Nga), Nxb Hội Nhà văn, Hà Nội.
211. Đỗ Lai Thúy (2005), Văn hóa Việt Nam nhìn từ mẫu người văn hóa, Nxb Văn
hóa thông tin, Tạp chí văn hóa nghệ thuật, Hà Nội.
212. Nguyễn Thị Thúy (2004), Nhân vật anh hùng trong sáng tác của Nguyễn Huy
Tưởng, Luận văn thạc sĩ, Trường Đại học Sư phạm Hà Nội, Hà Nội.
213. Nguyễn Thị Bích Thủy (2006), "Nhận dạng nhân vật trong truyện ngắn 1945-
1975", Nghiên cứu văn học (7), tr.109-118.
214. Nguyễn Thị Kim Tiến (2012), Con người trong tiểu thuyết Việt Nam thời kì đổi
mới, Luận án tiến sĩ văn học, Trường Đại học KHXH và Nhân văn, Hà Nội.
215. T. Todorov (2004), Thi pháp văn xuôi, (Đặng Anh Đào, Lê Hồng Sâm dịch), Nxb
Đại học Sư phạm, Hà Nội.
216. T. Todorov (2008), Dẫn luận về văn chương kì ảo, (Đặng Anh Đào, Lê Hồng
Sâm dịch), Nxb Đại học Sư phạm Hà Nội, Hà Nội.
217. Nguyễn Thị Thu Trang (2007), “Vài nét về văn xuôi đô thị miền Nam giai đoạn
1954-1975”, Nghiên cứu văn học (5), tr.94-107.
218. Nguyễn Thị Thu Trang (2015), Văn xuôi đô thị miền Nam giai đoạn 1954 - 1975
nhìn từ các giá trị văn hoá truyền thống, Nxb Đại học Quốc gia thành phố Hồ
Chí Minh, Tp Hồ Chí Minh.
219. Đỗ Bình Trị (2006), Truyện cổ tích thần kì Việt đọc theo hình thái học của truyện
cổ tích của V.Ja.Propp, Nxb Đại học Quốc gia thành phố Hồ Chí Minh, Tp Hồ
Chí Minh.
220. Bùi Thanh Truyền (2007), Thi pháp văn học thiếu nhi, Bộ giáo dục đào tạo, dự
án phát triển giáo viên, Huế.
221. Bùi Thanh Truyền (2015), Nẻo vào văn học thiếu nhi, Nxb Văn học, Hà Nội.
222. Bùi Thanh Truyền (2015), “Văn học thiếu nhi sau 1986 từ cái nhìn toàn cảnh”,
Tạp chí Sông Hương , tr.6 -15.
223. Mai Anh Tuấn (27/01/2013),“Tìm lại những tiếng nói”,
Nguồn: https://maianhtuan.wordpress.com.
224. Nguyễn Văn Tùng (09/06/2011), “Văn học thiếu nhi với việc hình thành văn hóa
đọc”, Nguồn:
167
225. Nguyễn Văn Tùng (2012), Một lần và mãi mãi, Nxb Kim Đồng, Hà Nội.
226. Dương Thị Ánh Tuyết (2008), Nghệ thuật xây dựng nhân vật trong tiểu thuyết
của Mart Twain, Luận án tiến sĩ Ngữ văn, Viện văn học, Hà Nội.
227. Nguyễn Ánh Tuyết (1998), Tâm lí học trẻ em, Nxb Giáo dục, Hà Nội.
228. Nguyễn Ánh Tuyết (2000), Đôi điều cần biết về sự phát triển của trẻ thơ, Nxb
Đại học Quốc gia Hà Nội, Hà Nội.
229. Nguyễn Ánh Tuyết (2014), Tâm lí học trẻ em lứa tuổi mầm non, Nxb ĐH Sư
phạm Hà Nội, Hà Nội.
230. Nguyễn Khắc Viện (1986), Tìm hiểu trẻ em, Nxb Phụ nữ, Hà Nội.
231. Nguyễn Khắc Viện (1991), Từ điển tâm lí, Nxb Ngoại văn, Hà Nội.
232. Phan Thị Việt, Lê Ánh Tuyết, Cao Đức Phát (2002), Văn học và phương pháp
cho trẻ em tiếp xúc với văn học, Giáo trình đào tạo giáo viên THSP mầm non hệ
12+2 (Tái bản lần 3), Nxb Giáo dục, Hà Nội.
233. Vũ Tú Nam, Phạm Hổ (1996), Văn miêu tả và văn kể chuyện, Nxb Giáo dục, Hà
Nội.
234. Vưgốtxki (2002), Trí tưởng tượng sáng tạo ở tuổi thiếu nhi, (Duy Lập dịch, Nxb
Văn hóa dân tộc, Hà Nội.
235. Nguyễn Thị Vượng (2006), Thi pháp nhân vật trong "Sông đông êm đềm của
Sôlôkhốp, Luận án tiến sĩ Ngữ văn, Đại học sư phạm Hà Nội, Hà Nội.
236. H. Wallon (2014), Quá trình phát triển tâm lí của trẻ em, (Tạ Thị Phương Thúy
dịch), Nxb Thế giới, Hà Nội.
237. Xli-kha-chốp (1989), “Thời gian nghệ thuật của tác phẩm văn học”, (La Khắc
Hòa dịch), Tạp chí Văn học (3), tr.60-65.
Tiếng Anh, tiếng Pháp
238. Charlotte S.Huck, Susan Hepler, Janet Hickman, Barbara Z. Kiefer (2004),
Children's Literature in the Elementary School, McGraw – Hill, New York.
239. Donna E. Norton, Saundra E. Norton and Amy McClure (2003), Through the
eyes of a child : an introduction to children's literature, Upper Saddle River,
N.J.: Merrill/Prentice Hall.
168
240. Margaret. R.Marshall (1988), An introduction to the world of children’s books,
Gower, Hardcover.
241. Maria Nikolajeva (2005), Aesthetic appoaches to children’s literature: An
introduction, Scarecrow Press, Maryland.
242. Maria Nikolajeva (2003), The rhetoric of character in children’s literature,
Scarecrow Press, Lanham, Maryland and Oxford.
243. Philippe Lejeune (1975), Le pacte autobiographique, Seuil, Paris.
244. Jan Susina (2004), “Children’s literature”,
245. Temple, Martinez, Yokota and Naylor, Children’s books in children’s hands: An
introduction to their literature, Allyn and Bacon, Boston.
DANH MỤC TÁC PHẨM KHẢO SÁT
246. Edmondo de Amicis (2014), Những tấm lòng cao cả, (In lần thứ 7), Nxb Kim
Đồng, Hà Nội.
247. Hà Ân (2006), Trăng nước Chương Dương, (In lần thứ 6), Nxb Kim Đồng, Hà
Nội.
248. Tạ Duy Anh (2013), Đối thủ còi cọc, Nxb Kim Đồng, Hà Nội.
249. Duyên Anh (1960), Con sáo của em tôi, Nguồn: vietnamthuquan.net.
250. Duyên Anh (1960), Dũng Đakao, Nxb Đời mới, Sài Gòn.
251. Duyên Anh (1963), Điệu ru nước mắt, Nxb Đời mới, Sài Gòn.
252. Duyên Anh (1964), Ảo vọng tuổi trẻ, Thứ tư tạp chí số đặc biệt tháng mười.
253. Duyên Anh (1967), Châu Kool, Nxb Đời mới, Sài Gòn.
254. Duyên Anh (1967), Thằng Vũ (In lần thứ 3), Búp bê, Gia Định.
255. Duyên Anh (1968), Giấc mơ một loài cỏ, Nxb Đời mới, Sài Gòn.
256. Duyên Anh (1968), Mây mùa thu, Búp bê, Phú Nhuận.
257. Duyên Anh (1969), Ánh mắt trông theo, Tuổi Ngọc, Sài Gòn.
258. Duyên Anh (1969), Thằng Côn, Tuổi Ngọc, Gia Định.
259. Duyên Anh (1969), Mơ thành người Quang Trung, Vàng Son, Sài Gòn.
260. Duyên Anh (1970), Chương Còm, Tuổi Ngọc, Sài Gòn.
169
261. Duyên Anh (1970), Mặt trời nhỏ, Tuổi Ngọc, Sài Gòn.
262. Duyên Anh (1971), Lứa tuổi thích ô mai, Nxb Đồng Nai.
263. Duyên Anh (1971), Tuổi mười ba, Đồng Nai.
264. Duyên Anh (1971), Áo tiểu thư, Nguyễn Đình Vượng, Biên Hòa.
265. Duyên Anh (1971), Giặc Ô kê, Tuổi Ngọc, Đồng Nai.
266. Duyên Anh (1972), Thằng Khoa, Tuổi Ngọc, Biên Hòa.
267. Duyên Anh (1972), Phượng vĩ, Tuổi Ngọc, Biên Hòa.
268. Duyên Anh (1972), Ngựa chứng sân trường, Vàng Son.
269. Duyên Anh (1975), Dấu chân sỏi đá, Thứ tư tuần san xuất bản, MCMLXVII.
270. Nguyễn Nhật Ánh (2002), Kính vạn hoa, Nguồn:
271. Nguyễn Nhật Ánh (2008), Chuyện xứ Langbiang, (Trọn bộ), Nxb Kim Đồng, Hà
Nội.
272. Nguyễn Nhật Ánh (2010), Người bạn lạ lùng, Nguồn:
273. Nguyễn Nhật Ánh (2010), Hoa hồng xứ khác, (In lần thứ 19), Nxb Trẻ, Tp Hồ
Chí Minh.
274. Nguyễn Nhật Ánh (2010), Chuyện cổ tích dành cho người lớn, (In lần thứ 22),
Nxb Trẻ, Tp Hồ Chí Minh.
275. Nguyễn Nhật Ánh (2010), Buổi chiều windows, (In lần thứ 16), Nxb Trẻ, Tp Hồ
Chí Minh.
276. Nguyễn Nhật Ánh (2010), Thiên thần nhỏ của tuổi, (In lần thứ 20), Nxb Trẻ, Tp
Hồ Chí Minh.
277. Nguyễn Nhật Ánh (2010), Chú bé rắc rối, (In lần thứ 21), Nxb Trẻ, Tp Hồ Chí
Minh.
278. Nguyễn Nhật Ánh (2010), Hạ đỏ, (In lần thứ 22), Nxb Trẻ, Tp Hồ Chí Minh.
279. Nguyễn Nhật Ánh (2010), Phòng trọ ba người, (In lần thứ 21), Nxb Trẻ, Tp Hồ
Chí Minh.
280. Nguyễn Nhật Ánh (2010), Út Quyên và tôi, (In lần thứ 19), Nxb Trẻ, Tp Hồ Chí
Minh.
281. Nguyễn Nhật Ánh (2010), Tôi thấy hoa vàng trên cỏ xanh, Nxb Trẻ, Tp Hồ Chí
Minh.
170
282. Nguyễn Nhật Ánh (2011), Lá nằm trong lá, Nxb Trẻ, Tp Hồ Chí Minh.
283. Nguyễn Nhật Ánh (2011), Đi qua hoa cúc, (In lần thứ 17), Nxb Trẻ, Tp Hồ Chí
Minh.
284. Nguyễn Nhật Ánh (2010), Cho tôi xin một vé đi tuổi thơ, (Tái bản lần thứ 12)
Nxb Trẻ, Tp Hồ Chí Minh.
285. Nguyễn Nhật Ánh (2012), Có hai con mèo ngồi bên cửa sổ, Nxb Trẻ, Tp Hồ Chí
Minh.
286. Nguyễn Nhật Ánh (2013), Ngồi khóc trên cây, Nxb Trẻ, Tp Hồ Chí Minh.
287. Nguyễn Nhật Ánh (2014), Những cô em gái, (In lần thứ 24), Nxb Trẻ, Tp Hồ Chí
Minh.
288. Nguyễn Nhật Ánh (2015), Bảy bước tới mùa hè, Nxb Trẻ, Tp Hồ Chí Minh.
289. Nguyễn Nhật Ánh (2015), Đảo mộng mơ, (Tái bản lần thứ 13), Nxb Trẻ, Tp Hồ
Chí Minh.
290. Astrid Lindgren (2008), Lại thằng nhóc Emil, Nhã Nam, Nxb Hội nhà văn, Hà
Nội.
291. Astrid Lindgren (2007), Pippi tất dài, Nhã Nam, Nxb Văn học.
292. Astrid Lingren (2014), Mio, con trai ta, Nhã Nam, Nxb Hội nhà văn.
293. Lê Bầu (2014), Tuổi thơ Hà Nội ngày xưa, Nxb Kim Đồng, Hà Nội.
294. Nguyễn Bình (2011), Cuộc chiến với hành tinh Fantom, tập 1, Nxb Trẻ, Tp Hồ
Chí Minh.
295. Nguyễn Bình (2012), Cuộc chiến với hành tinh Fantom, tập 2, Nxb Trẻ, Tp Hồ
Chí Minh.
296. Nguyễn Bình (2012), Cuộc chiến với hành tinh Fantom, tập 3, Nxb Trẻ, Tp Hồ
Chí Minh.
297. Thu Bồn (1978), Cơn giông tuổi thơ, Nxb Hà Nội, Hà Nội.
298. Hoàng Văn Bổn (1984), Tuổi thơ trong làng, Nxb Đồng Nai, Đồng Nai.
299. Nam Cao (2004), Truyện ngắn Nam Cao, Tủ sách vàng, (In lần thứ 4 theo bản in
năm 1998), Nxb Kim Đồng, Hà Nội.
300. Nguyễn Minh Châu (2002), Giã từ tuổi thơ, Nxb Kim Đồng, Hà Nội.
301. Trần Thanh Địch (1993), Một cần câu, Nxb Trẻ, Tp Hồ Chí Minh.
171
302. Trần Thanh Địch (2002), Tổ tâm giao (tập truyện và ký), Nxb Kim Đồng, Hà
Nội.
303. Trần Hoài Dương (2010), Miền xanh thẳm, Nxb Văn học, Trung tâm ngôn ngữ
Đông Tây, Hà Nội.
304. Hoàng Anh Đường (1962), Những cô tiên áo nâu, Nxb Kim Đồng, Hà Nội.
305. Hodgson Burnett Frances (2015), Công chúa nhỏ (Nguyên Tâm dịch), Nhã Nam,
Nxb Hội nhà văn, Hà Nội.
306. Minh Giang (1969), Năm thứ nhất,(In lần thứ 2 có sửa chữa), Nxb Kim Đồng,
Hà Nội.
307. Minh Giang (1971), Xã viên mới, (In lần thứ hai, có sửa chữa), Nxb Kim Đồng,
Hà Nội Minh.
308. Nguyễn Thị Châu Giang (1999), Tóc ngắn, Nxb Kim Đồng, Hà Nội.
309. Trần Thanh Giao (1985), Một vùng sông nước, Sở Văn hóa thông tin Hậu Giang.
310. Đoàn Giỏi (2007), Đất rừng phương Nam, Nxb Văn học, Hà Nội.
311. Kim Hài (2007), Ngày khai trường trong mơ, Nxb Trẻ, Tp Hồ Chí Minh.
312. Mai Hanh (1963), Nghĩa quân sông Đà, Nxb Kim Đồng, Hà Nội.
313. Đặng Thị Hạnh (1994), Bà và cháu, Nxb Phụ nữ, Hà Nội.
314. Harriet Beecher Stowe (2014), Túp lều bác Tom (Đỗ Đức Hiểu dịch), (In lần thứ 5),
Nxb Kim Đồng, Hà Nội.
315. Vũ Thư Hiên (1988), Miền thơ ấu, Nxb Văn nghệ thành phố Hồ Chí Minh, tp Hồ
Chí Minh.
316. Bùi Hiển (1965), Quỳnh xóm cháy, Nxb Kim Đồng, Hà Nội.
317. Bùi Hiển (1958), Ngày công đầu tiên của cu Tý, Nguồn: vntim.blogspot.com.
318. Hải Hồ (1971), Chú bé sợ toán, Nxb Kim Đồng, Hà Nội.
319. Trần Ninh Hồ (1985), Đường đến trường, Nxb Kim Đồng, Hà Nội.
320. Phạm Hổ (2013), Chuyện hoa chuyện quả, Nxb Kim Đồng, Hà Nội.
321. Khánh Hoài (1975), Trận chung kết, Nxb Kim Đồng, Hà Nội.
322. Tô Hoài (1959), Hợp tác xã của chúng em, Trung ương đoàn thanh niên lao động
Việt Nam, Nxb Kim Đồng, Hà Nội.
323. Tô Hoài (1959), Hoa Sơn, Nxb Kim Đồng, Hà Nội.
172
324. Tô Hoài (2001), Kim Đồng, Nxb Kim Đồng, Hà Nội.
325. Tô Hoài (2007), Dế Mèn, Chim Gáy, Bồ Nông, truyện loài vật, (In lần thứ 22),
Nxb Kim Đồng, Hà Nội.
326. Tô Hoài (2010), Chuyện nỏ thần, Đảo Hoang, Nhà Chử, (In lần thứ 8) Nxb Kim
Đồng, Hà Nội.
327. Tô Hoài (2014), Nói về cái đầu tôi (Những truyện ngắn sáng tác trước năm
1945), (in lần thứ 2), Nxb Kim Đồng, Hà Nội.
328. Phạm Thị Hoài (1989), Thiên sứ, Nxb Trẻ, Tp Hồ Chí Minh.
329. Lê Khắc Hoan (1981), Mái trường thân yêu, Nxb Kim Đồng, Hà Nội.
330. Nguyễn Công Hoan (1994), Tấm lòng vàng, tái bản, Nxb Văn học, Hà Nội.
331. Nguyên Hồng (1951), Dưới chân cầu mây, Nxb Văn nghệ, Hà Nội.
332. Nguyên Hồng (1973), Một tuổi thơ văn, Nxb Kim Đồng, Hà Nội.
333. Nguyên Hồng (2010), Những ngày thơ ấu, Nxb Văn hóa thông tin, Hà Nội.
334. Nguyên Hồng (2014), Những truyện hay viết cho thiếu nhi, Nguyên Hồng (In lần
thứ 2), Nxb Kim Đồng, Hà Nội.
335. Trần Minh Hợp (2014), Đường chạy mùa xuân, Nxb Kim Đồng, Hà Nội.
336. Khái Hưng (1998), Truyện viết cho thiếu nhi, (Vương Trí Nhàn sưu tầm và biên
soạn) Nxb Hải Phòng, Hải Phòng.
337. Nguyên Hương (2014), Những truyện hay viết cho thiếu nhi, Nxb Kim Đồng, Hà
Nội.
338. Dương Thu Hương (1985), Hành trình ngày thơ ấu, Nxb Kim Đồng, Hà Nội.
339. Trần Thiên Hương (1989), Những quả duối vàng, tập truyện ngắn, Nxb Kim
Đồng, Hà Nội.
340. Trần Thiên Hương (2006), Cỏ may ngày xưa, Nxb Kim Đồng, Hà Nội.
341. Quang Huy (2001), Hoa Xuân Tứ, (In lần thứ 4), Nxb Kim Đồng, Hà Nội.
342. Ken Kesey (2015), Bay trên tổ chim cúc cu (Nguyễn Anh Tuấn – Lê Đình Trung
dịch), Nhã Nam, Nxb Văn học.
343. Duy Khán (2010), Tuổi thơ im lặng, (In lần thứ 3), Nxb Kim Đồng, Hà Nội.
344. Ma Văn Kháng (2012), Côi cút giữa cảnh đời, Nxb Hội nhà văn.
173
345. Ma Văn Kháng (2013), Những truyện hay viết cho thiếu nhi, (In lần thứ 2), Nxb
Kim Đồng, Hà Nội.
346. Minh Khoa (1967), Chú bé Cả Xên, Nxb Kim Đồng, Hà Nội.
347. Nguyễn Kiên (1966), Kể chuyện nông thôn, Nxb Kim Đồng, Hà Nội.
348. Nguyễn Kiên (1987), Năm tôi mười ba tuổi, (In lần thứ 2), Nxb Kim Đồng, Hà Nội.
349. Tét-Su-Ko KuroYanagi (2006), Tottochan cô bé bên cửa sổ (Phí Văn Gừng,
Phạm Huy Trọng dịch), (Tái bản lần thứ nhất), Nxb Văn hóa thông tin, Hà Nội.
350. Nguyễn Ngọc Ký (2001), Tôi đi học,(In lần thứ 4 theo bản in năm 1997) Nxb
Kim Đồng, Hà Nội.
351. Thạch Lam (2000) (Xuân Tùng sưu tầm, biên soạn), Thạch Lam và văn chương,
Nxb Hải Phòng, Hải Phòng.
352. Lê Phương Liên (1979), (In lần thứ 2), Những tia nắng đầu tiên – Khi mùa xuân
đến, Nxb Kim Đồng, Hà Nội.
353. Quách Liêu (1991), Chú bé thổi khèn, Nxb Kim Đồng, Hà Nội.
354. Phong Linh (2014), Thành phố ngày ta yêu nhau, Nxb Kim Đồng, Hà Nội.
355. Đinh Tiến Luyện (1974), Anh Chi yêu dấu, Nguồn:
356. Mark Twain (2012), Những cuộc phiêu lưu của Tom Sawyer, (Tái bản) Đông A,
Nxb Văn học.
357. Lê Minh (2013), Khúc hát vườn trầu, (In lần thứ 4), Nxb Kim Đồng, Hà Nội.
358. Dạ Ngân (2013), Miệt vườn xa lắm, (In lần thứ 4), Nxb Kim Đồng, Hà Nội.
359. Nguyễn Thị Minh Ngọc (1996), Năm đêm với bé Su, Nxb Kim Đồng, Hà Nội.
360. Thy Ngọc (2012), Lớp học của anh Bồ Câu Trắng, (In lần thứ 6), Nxb Kim
Đồng, Hà Nội.
361. Nguyễn Vĩnh Nguyên (2010), Đi tìm hoang dã, Nxb Hội nhà văn, Hà Nội.
362. Lê Cảnh Nhạc (1997), Tuyển tập truyện ngắn hay dành cho thiếu nhi, tập 3, Nxb
Trẻ, Tp Hồ Chí Minh.
363. Phan Thị Thanh Nhàn (2012), Tuyển tập, Nxb Hội nhà văn, Hà Nội.
364. Nhiều tác giả (1970), Hai bàn tay chiến sĩ,(Tập truyện và ký lọn lọc về đề tài
kháng chiến chống Pháp 1945-1954), Nxb Kim Đồng, Hà Nội.
174
365. Nhiều tác giả (1997), Cái ấm đất,Tuyển những truyện hay viết cho thiếu nhi
(1940-1950), Băng Thanh – Hải Yến sưu tầm, tuyển chọn, Nxb Trẻ, Tp Hồ Chí
Minh.
366. Nhiều tác giả (2013), Cái tết của mèo con, Tập truyện thiếu nhi, Nxb Văn học,
Hà Nội.
367. Nhiều tác giả (1989), Văn xuôi Lãng mạn Việt Nam 1930-1945, Nxb Khoa học
xã hội, Hà Nội.
368. Nhiều tác giả (2011), Chuyến xe buýt thứ 5, tuyển tập truyện ngắn, Nxb Kim
Đồng, Hà Nội.
369. Nhiều tác giả (2011), Tên trộm mơ màng, Tuyển tập truyện ngắn, Nxb Kim
Đồng, Hà Nội.
370. Paven Vezhinov (1985), Những dấu vết còn lại (Dương Linh dịch), (In lần thứ
4), Nxb Kim Đồng, Hà Nội.
371. Trịnh Thanh Phong (2014), Ngày thơ dại, Nxb Kim Đồng, Hà Nội.
372. Phùng Quán (2006), Tuổi thơ dữ dội, Nxb Văn học, Hà Nội.
373. Võ Quảng (2001), Cái Thăng, Nxb Kim Đồng, Hà Nội.
374. Võ Quảng (2013), Những truyện hay viết cho thiếu nhi, Nxb Kim Đồng, Hà Nội
Thanh.
375. Võ Quảng (2014), Quê nội, (In lần thứ 14), Nxb Kim Đồng, Hà Nội.
376. Quế (2003), Cát cháy, Nxb Kim Đồng, Hà Nội.
377. Bùi Minh Quốc (1959), Bé Ly và chú công nhân chữa điện, Nxb Kim Đồng, Hà Nội.
378. Bùi Minh Quốc (2006), Hồi đó ở Sa Kỳ, Nxb Kim Đồng, Hà Nội.
379. Nguyễn Quỳnh (1973), Cơn bão số 4, Nxb Kim Đồng, Hà Nội.
380. Nguyễn Quỳnh (1987), Chuyện làng tôi, Nxb Kim Đồng, Hà Nội.
381. Nguyễn Quỳnh (1988), Người đi săn và con sói lửa, Nxb Hà Nội, Hà Nội.
382. Nguyễn Quỳnh (2011), Cậu bé người rừng, Nxb Kim Đồng, Hà Nội.
383. Nguyễn Quỳnh (2003), Rừng đêm, Nxb Kim Đồng, Hà Nội.
384. Nguyễn Quỳnh (2013), Chú sếu vương miện, Nxb Kim Đồng, Hà Nội.
385. Xuân Quỳnh (2014), Những truyện hay viết cho thiếu nhi, Nxb Kim Đồng, Hà Nội.
175
386. Xuân Sách (2011), (In lần thứ 11), Đội thiếu niên du kích Đình Bảng, Nxb Kim
Đồng, Hà Nội.
387. Saint - Exupéry (2014), Hoàng tử bé (Nguyễn Thành Long dịch), (In lần thứ 6),
Nxb Kim Đồng, Hà Nội.
388. J.D Salinger (2015), Bắt trẻ đồng xanh (Phùng Khánh dịch), Nhã Nam, Nxb Văn học.
389. Nguyễn Quang Sáng (2002), Dòng sông thơ ấu, Nxb Kim Đồng, Hà Nội.
390. Sempé, Goscinny (2009), Những kì nghỉ của nhóc Nicolas (Tố Châu dịch), Nhã
Nam, Nxb Hội nhà văn, Hà Nội.
391. Sempé, Goscinny (2009), Nhóc Nicolas (Trác Phong dịch), Nhã Nam, Nxb Hội
nhà văn, Hà Nội.
392. Sempé, Goscinny (2010), Nhóc Nicolas: Những chuyện chưa kể (Trác Phong,
Hương Lan dịch), (Tái bản có sửa chữa), Nhã Nam, Nxb Hội nhà văn, Hà Nội.
393. Kao Sơn (2002), Khúc đồng dao lấm láp, Nxb Kim Đồng, Hà Nội.
394. Nguyễn Quang Thân (2010), Chú bé có tài mở khóa, Nxb Văn học, Trung tâm
văn hóa ngôn ngữ Đông Tây, Hà Nội.
395. Phạm Thắng (2011), (In lần thứ 6), Đội thiếu niên tình báo Bát Sắt, Nxb Kim
Đồng, Hà Nội.
396. Hoàng Dạ Thi (1994), Pê lê trắng, Nxb Kim Đồng, Hà Nội.
397. Nguyễn Thi (2014), Người mẹ cầm súng, (In lần thứ 9), Nxb Kim Đồng, Hà Nội.
398. Nguyễn Thi (1996), Truyện ngắn chọn lọc, Nxb Hội nhà văn, Hà Nội.
399. Nguyễn Huy Thiệp (2003), Truyện ngắn, Nxb Trẻ, Tp Hồ Chí Minh.
400. Bắc Thôn (1958), Hai làng Tà Pình và Động Hía, Nxb Kim Đồng, Hà Nội.
401. Phong Thu (2014), Cây bàng không rụng lá, (In lần thứ 3), Nxb Kim Đồng, Hà Nội.
402. Phong Thu (2003), (Tuyển chọn và viết lời bình), Tuyển tập truyện viết cho thiếu
nhi từ sau cách mạng tháng Tám, (Tái bản lần thứ 4), Nxb Giáo dục, Hà Nội.
403. Nguyễn Ngọc Thuần (2008), Vừa nhắm mắt vừa mở cửa sổ, Một thiên nằm
mộng, Nxb Kim Đồng, Hà Nội.
404. Nguyễn Ngọc Thuần (2014), Cơ bản là buồn, Nxb Trẻ, Tp Hồ Chí Minh.
405. Phạm Thị Bích Thủy (2014), Đồi cát bay, Nxb Hội nhà văn, Hà Nội.
406. Phạm Ngọc Tiến (2012), Đợi mặt trời, (In lần thứ 8), Nxb Kim Đồng, Hà Nội.
176
407. Nhật Tiến (1960), Những vì sao lạc, Phượng Giang xuất bản.
408. Nhật Tiến (1968), Tay ngọc, (In lần thứ 2), Đông Phương.
409. Nhật Tiến (1969), Những người áo trắng (In lần thứ 3), Huyền Trân.
410. Nhật Tiến (1972), Đường lên núi thiên mã, Huyền Trân.
411. Nhật Tiến (1984), Chim hót trong lồng, Ngàn Lau, San Jose.
412. Trần Đức Tiến (2015), Trên đôi cánh chuồn chuồn, Nxb Kim Đồng, Hà Nội.
413. Thanh Tịnh (2006), Quê mẹ, (In lần thứ 3), Nxb Kim Đồng, Hà Nội.
414. Lê Toán (2007), San hô màu hạt lựu, Nxb Thế giới, Hà Nội.
415. Lê Toán (2008), Bầu trời vẩy tê tê, Nxb Văn hóa thông tin, Hà Nội.
416. Lê Toán (2009), Trái đất thần tiên, Nxb Văn hóa thông tin, Hà Nội.
417. Lê Toán (2012), Trái đất tò he, Nxb Văn học, Hà Nội.
418. Lê Toán (2013), Quẩy những trái đất về nhà, Nxb Hội nhà văn, Hà Nội.
419. Phương Trinh (2013) (tuyển chọn), Người đứng bên kia đường, Truyện ngắn 9x,
Nxb Kim Đồng, Hà Nội.
420. Văn Trọng (1986), Bí mật ở miếu Ba Cô, (In lần thứ 2), Nxb Kim Đồng, Hà Nội.
421. Nguyễn Tuân (1953), Chú Giao làng Seo, S.I: Ngành văn nghệ trung ương.
422. Sơn Tùng (1984), Búp sen xanh, (In lần 2), Nxb Kim Đồng, Hà Nội.
423. Văn Tùng (2012), (In lần thứ 8), Đội thiếu niên du kích thành Huế, Nxb Kim
Đồng, Hà Nội.
424. Cát Tường (2014), Quý cô Horoscope, Nxb Kim Đồng, Hà Nội.
425. Từ Kế Tường (1974), Đường phượng bay, Nguồn:
426. Nguyễn Huy Tưởng (2014), Lá cờ thêu sáu chữ vàng, (In lần thứ 23), Nxb Kim
Đồng, Hà Nội.
427. Nguyễn Huy Tưởng (2014), Những truyện hay viết cho thiếu nhi, (In lần thứ 2),
Nxb Kim Đồng, Hà Nội.
428. Nghiêm Đa Văn (2012), Sùng rượu thề, (In lần thứ 6), Nxb Kim Đồng, Hà Nội.
429. Wiliam Golding (2010), Chúa ruồi (Lê Chu Cầu dịch) Nhã Nam, Nxb Hội nhà
văn, Hà Nội.
430. R.L. Xtivenxon (2014), Đảo giấu vàng (Hoàng Lan Châu lược dịch và phóng
tác), (In lần thứ 5), Nxb Kim Đồng, Hà Nội.
431. Martel Yanna (2012), Cuộc đời của Pi, (Tái bản), Nxb Văn học, Hà Nội.
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- luan_an_nhan_vat_tre_em_trong_van_xuoi_thieu_nhi_viet_nam.pdf