BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƯỜNG ĐẠI HỌC VINH
TRỊNH HUỲNH AN
NHÂN VẬT HOÀNG ĐẾ
TRONG VĂN HỌC TRUNG ĐẠI VIỆT NAM
TỪ THẾ KỈ X ĐẾN THẾ KỈ XV
LUẬN ÁN TIẾN SĨ NGỮ VĂN
NGHỆ AN - 2020
BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƯỜNG ĐẠI HỌC VINH
TRỊNH HUỲNH AN
NHÂN VẬT HOÀNG ĐẾ
TRONG VĂN HỌC TRUNG ĐẠI VIỆT NAM
TỪ THẾ KỈ X ĐẾN THẾ KỈ XV
Chuyên ngành: Văn học Việt Nam
Mã số: 9220121
LUẬN ÁN TIẾN SĨ NGỮ VĂN
Người hướng dẫn khoa học: GS.TS. Trần Nho Thìn
TS. Lê Thanh Nga
NGHỆ AN - 2020
L
178 trang |
Chia sẻ: huong20 | Ngày: 18/01/2022 | Lượt xem: 419 | Lượt tải: 0
Tóm tắt tài liệu Luận án Nhân vật Hoàng đế trong văn học trung đại Việt Nam từ thế kỉ X đến thế kỉ XV, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
ỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan luận án là công trình nghiên cứu khoa học của riêng tôi dưới sự
hướng dẫn của GS. TS Trần Nho Thìn và TS. Lê Thanh Nga. Những số liệu sử dụng
trong luận án là trung thực. Các kết quả rút ra từ công trình nghiên cứu chưa từng được
công bố. Tôi xin hoàn toàn chịu trách nhiệm về công trình nghiên cứu này.
Nghệ An, ngày 25 tháng 5 năm 2021
Tác giả
Trịnh Huỳnh An
LỜI CẢM ƠN
Được sự hướng dẫn và giúp đỡ tận tình của các nhà khoa học, tôi đã hoàn thành
luận án. Tôi bày tỏ lòng biết ơn sâu sắc của mình đến GS.TS Trần Nho Thìn - giảng
viên Trường Đại học KHXH & NV ĐHQG Hà Nội và TS. Lê Thanh Nga - giảng viên
trường Đại học Vinh.
Tôi cũng xin gửi lời cảm ơn chân thành tới các nhà khoa học thuộc bộ môn Văn
học Việt Nam, Viện Sư phạm xã hội, Phòng Đào tạo Sau Đại học Trường Đại học Vinh,
Trường Đại học Bình Dương cùng bạn bè, đồng nghiệp và gia đình đã giúp đỡ tôi trong
quá trình hoàn thành luận án.
Xin trân trọng cảm ơn!
Nghệ An, ngày 25 tháng 5 năm 2021
Tác giả luận án
Trịnh Huỳnh An
MỤC LỤC
MỞ ĐẦU ....................................................................................................................................................... 1
1. Lí do chọn đề tài ............................................................................................................. 1
2. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu............................................................................... 2
3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu.............................................................................. 3
4. Phương pháp nghiên cứu ............................................................................................. 3
5. Đóng góp của luận án .................................................................................................... 5
6. Cấu trúc của luận án ..................................................................................................... 5
Chương 1. TỔNG QUAN TÌNH HÌNH NGHIÊN CỨU VÀ CƠ SỞ LÍ THUYẾT
CỦA ĐỀ TÀI .............................................................................................................................................. 6
1.1. Tổng quan tình hình nghiên cứu ......................................................................................6
1.1.1. Nghiên cứu chung về nhân vật hoàng đế trong văn học từ thế kỉ X đến thế kỉ XV..........6
1.1.2. Nghiên cứu về một số nhân vật hoàng đế tiêu biểu trong văn học từ thế kỉ X
đến thế kỉ XV ........................................................................................................................9
1.2. Cơ sở lí thuyết của đề tài ......................................................................................... 16
1.2.1. Lý thuyết loại hình............................................................................................................ 16
1.2.2. Lý thuyết về mối quan hệ giữa văn hoá – tư tưởng và văn học ................................. 18
1.2.3. Lý thuyết liên văn bản...................................................................................................... 19
1.2.4. Lý thuyết diễn ngôn .......................................................................................................... 21
Tiểu kết chương 1 ..................................................................................................................................... 23
Chương 2. CƠ SỞ HÌNH THÀNH NHÂN VẬT HOÀNG ĐẾ TRONG VĂN HỌC
TRUNG ĐẠI VIỆT NAM TỪ THẾ KỈ X ĐẾN THẾ KỈ XV ............................................ 24
2.1. Giới thuyết về nhân vật hoàng đế .......................................................................... 24
2.1.1. Khái niệm nhân vật hoàng đế......................................................................................... 24
2.1.2. Sự khác nhau giữa “Đế” và “Vương” ......................................................................... 26
2.1.3. Mô hình hoàng đế lý tưởng trong tư duy chính trị Việt Nam trung đại ................... 28
2.2. Những tiền đề của sự xuất hiện nhân vật hoàng đế trong văn học Việt Nam
từ thế kỉ X đến thế kỉ XV ................................................................................................ 32
2.2.1. Tiền đề lịch sử, xã hội ...................................................................................................... 32
2.2.2. Tiền đề văn hoá, chính trị ............................................................................................... 35
2.2.3. Tiền đề văn học................................................................................................................. 38
2.3. Vị thế của nhân vật hoàng đế trong văn học trung đại Việt Nam................... 43
2.3.1. Giai đoạn từ thế kỉ X đến thế kỉ XV ............................................................................... 43
2.3.2. Giai đoạn từ sau thế kỉ XV đến thế kỉ XIX .................................................................... 44
Tiểu kết chương 2 ..................................................................................................................................... 46
Chương 3. ĐẶC ĐIỂM NHÂN VẬT HOÀNG ĐẾ TRONG VĂN HỌC TRUNG ĐẠI
VIỆT NAM TỪ THẾ KỈ X ĐẾN THẾ KỈ XV............................................................................... 47
3.1. Nhân vật hoàng đế với tư cách là cái tôi tự biểu hiện ........................................ 47
3.1.1. Nhân vật hoàng đế - thiên tử trong ý thức chính trị .................................................... 47
3.1.2. Nhân vật hoàng đế - thiền nhân trong những suy tư mang màu sắc tôn giáo ........ 63
3.1.3. Nhân vật hoàng đế - thi sĩ trong cảm quan thẩm mĩ ................................................... 70
3.2. Nhân vật hoàng đế với tư cách khách thể phản ánh .......................................... 79
3.2.1. Nhân vật hoàng đế “thập toàn” của đấng “chăn dân” trong cảm hứng ngợi ca ....... 79
3.2.2. Nhân vật hoàng đế “bất toàn” trong cảm hứng phê phán, phúng gián .................. 92
Tiểu kết chương 3 ................................................................................................................................... 107
Chương 4. PHƯƠNG THỨC THỂ HIỆN NHÂN VẬT HOÀNG ĐẾ TRONG VĂN HỌC
TRUNG ĐẠI VIỆT NAM TỪ THẾ KỈ X ĐẾN THẾ KỈ XV .................................................... 108
4.1. Sự thể hiện nhân vật hoàng đế nhìn từ việc lựa chọn thể loại .......................108
4.1.1. Thơ ................................................................................................................................... 108
4.1.2. Phú ................................................................................................................................... 114
4.1.3. Văn chính luận ................................................................................................................ 121
4.2. Sự thể hiện nhân vật hoàng đế và những lựa chọn ngôn từ ...........................127
4.2.1. Hệ thống ngôn từ bộc lộ khẩu khí của đế vương ....................................................... 127
4.2.2. Hệ thống ngôn từ thể hiện nhãn quan chính trị ......................................................... 129
4.2.3. Hệ thống ngôn từ thể hiện quan niệm thẩm mĩ .......................................................... 131
4.3. Sự vận dụng bút pháp ............................................................................................135
4.3.1. Bút pháp sử ký ................................................................................................................ 135
4.3.2. Bút pháp trữ tình ............................................................................................................ 142
4.3.3. Bút pháp khoa trương .................................................................................................... 144
Tiểu kết chương 4 ................................................................................................................................... 146
KẾT LUẬN .............................................................................................................................................. 147
CÁC CÔNG TRÌNH NGHIÊN CỨU LIÊN QUAN ĐẾN ĐỀ TÀI LUẬN ÁN ............... 151
PHỤ LỤC 1 .............................................................................................................................................. 165
PHỤ LỤC 2 .............................................................................................................................................. 170
1
MỞ ĐẦU
1. Lí do chọn đề tài
1.1. Sau hơn một ngàn năm Bắc thuộc, chiến thắng của Ngô Quyền trước quân
Nam Hán trên sông Bạch Đằng đã mở ra kỉ nguyên tự chủ cho dân tộc. Đất nước
bước vào thời kì xây dựng nền quân chủ chuyên chế tồn tại mười thế kỉ. Trên bình
diện chính trị - văn hóa - xã hội, Việt Nam từ thế kỉ X đến thế kỉ XV ở vào giai
đoạn đầu của chế độ quân chủ chuyên chế - mô hình nhà nước mà ở đó hoàng đế
(vua) đứng đầu triều đình, nắm quyền lực điều hành mọi phương diện của đất
nước, chi phối sâu sắc đến sự an nguy, thịnh suy, tồn vong của cả một chế độ, một
triều đại. Hoàng đế, theo đó cũng trở thành đối tượng phản ánh, thể hiện của văn
học. Nghiên cứu văn học giai đoạn đầu thời trung đại từ thế kỉ X đến thế kỉ XV, vì
thế không thể bỏ qua việc nghiên cứu về nhân vật hoàng đế.
1.2. Là một kiểu nhân vật văn học - văn hóa đặc biệt, nhân vật hoàng đế hàm
chứa trong nó nhiều nội dung chính trị, xã hội, văn hóa, văn học rất cần được
nghiên cứu. Về đường lối chính trị, hoàng đế tồn tại và hoạt động trong xã hội
quân chủ chuyên chế chủ yếu theo đức trị. Vậy kiểu hoàng đế như thế đã có vai trò
lịch sử tích cực nào và có những hạn chế nào? Về mặt văn học, điều ngày nay cần
quan tâm là các lý tưởng của người xưa, trước hết của trí thức nho sĩ, về một bậc
quân vương đã được thể hiện như thế nào, bằng những phương tiện nghệ thuật gì,
với những thể loại văn học nào để vừa chuyển tải được những vấn đề đạo đức
chính trị của hoàng đế mà lại vừa an toàn thân mệnh trong một kiểu xã hội mà một
chữ viết nhầm trong bài thi cũng có thể dẫn đến án tử? Thêm nữa, các hoàng đế
thời trung đại trực tiếp sáng tác văn chương không chỉ để khoe tài mà chủ yếu
hướng đến mục đích phục vụ chính trị. Họ dùng văn chương để khẳng định, bảo vệ
tính chính danh của triều đại, của bản thân ngôi vị hoàng đế. Đây là một loại diễn
ngôn quyền lực độc đáo trong văn hóa chính trị thời trung đại. Câu hỏi đặt ra là
mục đích sáng tác văn chương đó đã được thực hiện bằng các phương tiện nghệ
thuật nào, cũng như các vấn đề của hoàn cảnh sáng tác, cảm hứng, tư tưởng, môi
trường xướng họa
1.3. Thế giới nhân vật trong văn học trung đại Việt Nam rất phong phú, đa dạng.
Nổi bật trong văn học từ thế kỉ X đến thế kỉ XV là các loại hình nhân vật: thiền sư,
nho sĩ, hoàng đế, liệt nữ. Tuy nhiên, khi tiến hành nghiên cứu nhân vật trong văn
học trung đại giai đoạn này, cho đến nay, phần lớn các công trình đều tìm hiểu các
2
nhân vật là nhà nho, thiền sư, liệt nữ. Chưa có công trình nghiên cứu nào có cái
nhìn bao quát và mang tính hệ thống về nhân vật hoàng đế trong văn học trung đại
Việt Nam từ thế kỉ X đến thế kỉ XV. Vì thế vấn đề này vẫn còn nhiều khía cạnh
mới, cần được quan tâm nghiên cứu.
1.4. Việc tìm hiểu ngọn nguồn, những đặc điểm của nhân vật hoàng đế, mối
quan hệ giữa nhân vật văn học này với bối cảnh lịch sử - xã hội đương thời sẽ
góp phần mang đến những bài học kinh nghiệm trị quốc an dân đối với hệ thống
chính trị đương đại.
Những vấn đề nêu trên lý giải tính chất cấp thiết của đề tài luận án. Bên cạnh
việc nghiên cứu về hoàng đế ở các góc độ: chính trị, quân sự, ngoại giao thì việc
nghiên cứu hoàng đế dưới góc độ văn học là việc làm cần thiết, vừa có ý nghĩa khoa
học vừa mang giá trị thực tiễn. Vì thế chúng tôi chọn nghiên cứu đề tài: Nhân vật
hoàng đế trong văn học trung đại Việt Nam từ thế kỉ X đến thế kỉ XV.
2. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
2.1. Đối tượng nghiên cứu
Như tên đề tài đã xác định, đối tượng nghiên cứu của luận án là nhân vật
hoàng đế trong văn học trung đại Việt Nam từ thế kỉ X đến thế kỉ XV.
2.2. Phạm vi nghiên cứu
Phạm vi nghiên cứu của luận án tập trung ở các sáng tác văn học giai đoạn từ
thế kỉ X đến thế kỉ XV có xuất hiện nhân vật hoàng đế. Dĩ nhiên, chúng tôi cũng
nhận thức được rằng, luận án chưa hẳn đã tái hiện nhân vật này đến mức chân xác,
chi tiết tuyệt đối như đã được thể hiện trong các sáng tác văn học quá khứ, bởi văn
học giai đoạn này mặc dù đông đảo về lực lượng sáng tác, đồ sộ về số lượng tác
phẩm nhưng vì nhiều lí do mà không còn được lưu trữ đầy đủ.
Tuy nhiên, những công trình biên tuyển văn học trung đại cũng có thể cung cấp
đủ tư liệu để thực hiện đề tài: Hợp tuyển văn học trung đại Việt Nam, Tổng tập văn
học Việt Nam (tập I – V), Nguyễn Trãi toàn tập, Tổng tập văn học Hán – Nôm, Thơ
văn Lí – Trần, và các tuyển tập: Tuyển thơ các vua Trần, Thơ văn Lê Thánh Tông,
Cổ tâm bách vịnh
Khác với văn chương hiện đại, văn chương trung đại mang nặng tư duy nguyên
hợp với tinh thần văn – sử – triết bất phân. Một tác phẩm chức năng hành chính quan
phương có thể được viết bằng một một hình thức nghệ thuật đậm chất văn học như Dụ
chư tỳ tướng hịch văn, Bình Ngô đại cáo; trong một bộ sử như Đại Việt sử ký toàn thư
3
cũng có thể tìm thấy những trang ghi chép có tính chất văn học; một ghi chép có tính
chất sử học như Lam Sơn thực lục cũng có những đoạn đậm chất văn chương. Tam tổ
thực lục tuy có tên gọi thể loại “thực lục” song không hề tương đồng với kiểu “thực lục”
của sử học mà có tính cách như một tập chân dung bằng văn học. Luận án, vì thế, không
chỉ nghiên cứu các thể loại thuần túy văn học mà còn quan sát, phân tích các tài liệu có
tính nguyên hợp: Đại Việt sử kí toàn thư, Tam tổ thực lục, Lam Sơn thực lục.
3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu
3.1. Mục đích nghiên cứu
Mục đích chính của luận án là nghiên cứu, rút ra những khái quát về đặc
điểm nội dung và hình thức biểu hiện nhân vật hoàng đế trong văn học trung đại
Việt Nam giai đoạn này thế kỷ X đến thế kỷ XV. Qua đó, luận án cũng chỉ ra mối
quan hệ giữa văn học và chính trị thời trung đại - thời kì mà các nhà văn đồng thời
là những trí thức nhập thế, hành đạo (nhà nho) hoặc được triều đình coi là quốc sư
(nhiều vị thiền sư). Đồng thời, luận án phác họa một bức tranh các loại hình nhân
vật bên cạnh nhân vật hoàng đế.
3.2. Nhiệm vụ nghiên cứu
Căn cứ mục đích nghiên cứu đã đề ra, luận án giải quyết những nhiệm vụ
nghiên cứu sau:
- Trình bày một cách tổng quan về tình hình nghiên cứu và cơ sở lý thuyết
của đề tài.
- Khảo sát và chỉ ra các cơ sở hình thành nhân vật hoàng đế trong văn học
trung đại Việt Nam từ thế kỉ X đến thế kỉ XV
- Khảo sát và phân tích những đặc điểm nhân vật hoàng đế trong văn học
trung đại Việt Nam từ thế kỉ X đến thế kỉ XV.
- Khảo sát, phân tích và chỉ ra các phương thức thể hiện nhân vật hoàng đế
trong văn học trung đại Việt Nam từ thế kỉ X đến thế kỉ XV.
Cuối cùng rút ra kết luận về nhân vật hoàng đế trong văn học trung đại Việt
Nam từ thế kỉ X đến thế kỉ XV và đề xuất một số vấn đề nghiên cứu có liên quan.
4. Phương pháp nghiên cứu
Để thực hiện được nhiệm vụ đã đề ra của đề tài Nhân vật hoàng đế trong văn
học trung đại Việt Nam từ thế kỉ X đến thế kỉ XV, tác giả luận án vận dụng nhiều
phương pháp nghiên cứu khác nhau, trong đó chủ yếu là các phương pháp sau:
4
4.1. Phương pháp liên ngành: Để có thể lí giải được các vấn đề liên quan đến
nhân vật hoàng đế trong văn học từ thế kỉ X đến thế kỉ XV, luận án đã vận dụng tri
thức của các lĩnh vực khác như: văn hóa học, triết học, luật học, tâm lý học, ngôn
ngữ học... nhằm tham chiếu, soi rõ các nội dung được đề cập trong luận án.
4.2. Phương pháp lịch sử - xã hội: Đây là phương pháp nghiên cứu văn học
quá khứ, gồm quy luật hình thành, phát triển của các hiện tượng và quá trình văn học
diễn ra trong những điều kiện lịch sử – xã hội nhất định như tác phẩm, tác giả, thể
loại, trào lưu, các giai đoạn đã qua của nền văn học dân tộc. Phương pháp này giúp
cho việc tái hiện những nét chính về bối cảnh lịch sử – văn hóa – xã hội có ảnh
hưởng đến việc hình thành nhân vật hoàng đế. Đồng thời phương pháp này cũng
giúp đưa ra những kết luận về sự vận động và phát triển của nhân vật hoàng đế.
4.3. Phương pháp phân loại – thống kê: Phương pháp này vận dụng các thao
tác phân loại – thống kê, xác lập dữ liệu khoa học làm cơ sở để góp phần bổ sung
tính chặt chẽ của các luận điểm. Từ việc vận dụng phương pháp này, luận án đi đến
xác định những đặc điểm cơ bản của các kiểu tác gia tác phẩm, thể loại văn học thể
hiện nhân vật hoàng đế qua góc nhìn tự biểu hiện và là đối tượng được phản ánh.
4.4. Phương pháp phân tích – tổng hợp: Phương pháp này được sử dụng để
phân tích các tác phẩm, các vấn đề, trên cơ sở đó, tổng hợp theo định hướng
nghiên cứu của luận án. Từ những tư liệu tổng hợp được, luận án tiến hành phân
tích các tác phẩm theo khung thể loại, theo nhóm tác giả, theo giai đoạn lịch sử
để làm tiền đề so sánh, đối chiếu về sự vận động và phát triển hệ thống tư tưởng
Nho – Phật – Đạo gắn với sự biến đổi, vận động của mẫu hình nhân vật hoàng đế.
Luận án phân tích khả năng giao thoa, chuyển hóa, tiếp nối và hỗn dung giữa các
tư tưởng trong cùng một loại hình tác gia hoàng đế.
4.5. Phương pháp so sánh – loại hình: Phương pháp loại hình là phương
pháp nghiên cứu những sự việc, hiện tượng có chung những đặc trưng nào đó để có
thể khái quát và phân loại tìm ra quy luật của sự tương đồng. Trong nghiên cứu
văn học, để làm nổi bật bản chất của hiện tượng được đem ra so sánh, có thể so
sánh hiện tượng văn học đó với các hiện tượng cùng loại hoặc có thể so sánh với cả
các hiện tượng đối lập. Phương pháp này được dùng để đối chiếu, so sánh mẫu
hình hoàng đế trong giai đoạn văn học này qua các loại hình tác giả tham gia viết
về hoàng đế. Đồng thời, luận án bước đầu so sánh mẫu hình hoàng đế của giai
đoạn này với các giai đoạn sau trong văn học trung đại Việt Nam; so sánh mẫu
5
hình hoàng đế Việt Nam và các nước Đông Á nói chung, Trung Quốc nói riêng để
thấy được sự tương đồng và khác biệt.
4.6. Phương pháp cấu trúc – hệ thống: Phương pháp này được dùng để liên
kết, xâu chuỗi, hệ thống các vấn đề nghiên cứu trong tính thống nhất chỉnh thể. Nó
giúp luận án đưa ra những góc nhìn đa diện về nhân vật hoàng đế một cách thống
nhất theo hệ thống.
5. Đóng góp của luận án
Luận án là một nỗ lực lần đầu tiên nghiên cứu không phải một nhân vật hoàng
đế của một triều đại xác định mà là kiểu loại hình nhân vật hoàng đế trong văn học
một giai đoạn cụ thể.
Nỗ lực nghiên cứu đó được thực hiện qua thao tác hệ thống hóa tư liệu nghiên
cứu. Luận án đã rà lại hệ thống các sáng tác văn học thể hiện cái nhìn chủ quan, tự
thuật (cái nhìn từ bên trong) của các bậc hoàng đế và cái nhìn khách quan (cái nhìn
từ bên ngoài) của giới trí thức thiền sư và nho gia về một bậc hoàng đế lý tưởng.
Từ hai điểm nhìn với hai bộ phận sáng tác này, luận án góp phần phác họa hình
tượng nhân vật hoàng đế, một loại nhân vật quan trọng bậc nhất của hệ thống chính
trị xã hội Việt Nam trung đại giai đoạn văn học thế kỷ X đến thế kỷ XV.
Luận án trình bày hệ thống các yếu tố, phương diện nghệ thuật liên quan đến
nhân vật hoàng đế, một hệ thống cho đến nay chưa được chú ý đúng mức.
6. Cấu trúc của luận án
Ngoài Mở đầu, Kết luận và Tài liệu tham khảo, nội dung của luận án được
triển khai trong 4 chương:
Chương 1. Tổng quan tình hình nghiên cứu và cơ sở lý thuyết của đề tài
Chương 2. Cơ sở hình thành nhân vật hoàng đế trong văn học trung đại Việt
Nam từ thế kỉ X đến thế kỉ XV
Chương 3. Đặc điểm nhân vật hoàng đế trong văn học trung đại Việt Nam từ
thế kỉ X đến thế kỉ XV
Chương 4. Phương thức thể hiện nhân vật hoàng đế trong văn học trung đại
Việt Nam từ thế kỉ X đến thế kỉ XV
6
Chương 1
TỔNG QUAN TÌNH HÌNH NGHIÊN CỨU VÀ CƠ SỞ LÍ THUYẾT CỦA ĐỀ TÀI
1.1. Tổng quan tình hình nghiên cứu
1.1.1. Nghiên cứu chung về nhân vật hoàng đế trong văn học từ thế kỉ X đến thế kỉ XV
Mặc dù đã có một số bài viết, luận án, luận văn nghiên cứu về nhân vật
hoàng đế trong văn học trung đại Việt Nam nhưng nhìn chung các công trình này
mới chỉ dừng lại ở mức đề cập sơ lược về mẫu hình hoàng đế hoặc khảo sát một
nhân vật hoàng đế trong một tác phẩm cụ thể. Các công trình nghiên cứu về nhân
vật hoàng đế được tập trung vào các vấn đề sau:
Trong công trình Văn học Việt Nam dòng riêng giữa nguồn chung (in lần
đầu 1997), Trần Ngọc Vương đã có bài viết về “Mẫu hình hoàng đế và con đường
tìm kiếm sự thể hiện bản ngã trong triết học và văn học khu vực Đông Á”. Ở bài
viết này, tác giả đã đi sâu tìm hiểu loại hình nhân vật hoàng đế trong triết học và
văn học khu vực Đông Á. Theo tác giả: “Ý niệm đế – như là vị quân chủ độc
nhất, duy nhất và toàn quyền – đã xuất hiện từ rất sớm và có một quá trình hoàn
thiện lâu dài cả về lý thuyết lẫn thực tiễn” [215; 49]. Tác giả đã khái quát về nhân
vật hoàng đế từ mẫu hình hoàng đế Trung Hoa với mô hình “tam vị nhất thể”:
thiên mệnh – thiên hạ – thiên tử. Với vị trí bất khả xâm phạm, hoàng đế đã tồn tại
nhiều thế kỉ, ở nhiều quốc gia trong đó có Việt Nam: “Loại hình nhân cách hoàng
đế là một loại hình nhân cách đặc biệt, có tác động vô cùng to lớn chi phối lịch sử
hình thành và phát triển các loại hình nhân cách khác trong xã hội phương Đông”
[215; 53]. Hoàng đế là thiên tử: “Đã là thiên tử – hoàng đế, kẻ duy nhất có mệnh
(chân mệnh đế vương), tức là kẻ duy nhất đươc Thiên phụ giao cho thay mặt
mình cai trị thiên hạ, thì có thể và phải thâu tóm mọi quyền lực vào tay” [215;
52]. Hoàng đế được trời trao cho thiên mệnh nhưng đòi hỏi người nhận được
mệnh trời phải là người có đức: “Trời giao nước, về nguyên tắc cho người có
đức, có đại đức, mà đại đức là hiếu sinh, là biết thương xót chăm sóc nuôi dưỡng
cho các sinh mệnh khác. Bám vào nguyên lý đó, mà trong suốt lịch sử tồn tại của
mình, Nho giáo luôn nhắc nhở đề cao, nhấn mạnh hay quyết liệt đòi hỏi người
làm vua phải luôn tự thể hiện là người chí đức” [215; 53].
7
Trong bài viết này Trần Ngọc Vương còn đi đến phác họa lại cấu trúc lý
thuyết của mô hình nhân cách hoàng đế. Ông cho rằng “Với một nhân cách nửa
trần gian, nửa thượng giới, hoàng đế – thiên tử khống chế và khống chế có hiệu
quả sự xuất hiện của bất kì một loại nhân cách độc lập nào” [215; 61]. Theo đó,
hoàng đế là con trời và được sở hữu quyền lực tuyệt đối trong trị vì thiên hạ. Mỗi
hoàng đế cần phải có các yếu tố: Chí hiếu, chí nhân, chí minh, chí thành chí kính.
Tuy chưa đề cập đến thi pháp khắc họa nhân vật hoàng đế trong văn học trung đại
Việt Nam nhưng bài viết này là một phần cơ sở lí luận để chúng tôi tham khảo
trong suốt quá trình thực hiện đề tài luận án.
Trong công trình Văn học Việt Nam thế kỉ X – XIX – Những vấn đề lí luận
và lịch sử do Trần Ngọc Vương chủ biên (2006), Đỗ Lai Thuý với bài viết “Loại
hình các nhân vật trong lịch sử văn học Việt Nam thế kỉ X đến thế kỉ XIX” đã
phân ra ba loại hình nhân vật: Loại hình nhân vật mang tính vô ngã, loại hình
nhân vật quân tử và loại hình nhân vật tài tử. Theo đó, tác giả nhận định hoàng đế
thuộc về loại hình nhân vật quân tử: “Trong xã hội quân chủ Nho giáo, chí ít là ở
Việt Nam, nhà vua vẫn thuộc loại hình nhà nho, những dị biệt chỉ ở sắc thái nên
không đáng kể. Bởi lẽ, trước khi anh ta lên ngôi vua, trở thành hoàng đế trị vì thì
anh ta đã là nhà nho rồi” [216; 474].
Lịch sử nghiên cứu về nhân vật hoàng đế còn ghi nhận những đánh giá,
nhận xét mang tính khái quát chung về một vương triều hay giai đoạn nhất định.
Ở Con người nhân văn trong thơ ca Việt Nam sơ kì trung đại, Đoàn Thị Thu Vân
(2007) đã nhận định: “Những đặc điểm nổi bật của giai đoạn sơ kì trung đại
không chỉ ở đường lối chính trị thân dân, sức mạnh đoàn kết toàn dân và những
thành tựu rực rỡ có từ đó, mà còn ở tinh thần rộng mở đặc biệt khó lặp lại ở đời
sau. Chưa có một sự phân chia đẳng cấp khắc nghiệt giữa vua quan, quý tộc và
“trăm họ”. Trong những lễ hội truyền thống, vua quan và thứ dân cùng tham gia
vui chơi” [197; 12 - 13]. Qua nhận định của tác giả có thể thấy được tinh thần
thân dân, trọng dân của các hoàng đế Đại Việt từ thế kỉ X đến thế kỉ XV mà “khó
lặp lại ở đời sau”.
Công trình nghiên cứu của Đoàn Thị Thu Vân không đi tìm kiếm mẫu hình
nhân vật hoàng đế hoặc đưa ra những nhận định về đặc điểm của nhân vật này.
8
Tác giả chỉ hướng đến đối tượng là con người nhân văn trong văn học trung đại
Việt Nam từ thế kỉ X đến thế kỉ XV. Tuy nhiên, những con người nhân văn mà
tác giả khảo sát chính là các hoàng đế Đại Việt từ thế kỉ X đến thế kỉ XV. Khi
nhận xét về vẻ đẹp của sự điềm tĩnh và thông tuệ của các nhà cầm quyền trị nước
thời Lý, tác giả cho rằng: “Vô vi như một triết lí chính trị đơn giản mà ảo diệu,
bài học không chỉ cho một đời mà nhiều thế hệ. Đó là vẻ đẹp của con người trong
hành xử chính trị ở vị trí nắm giữ trọng trách quốc gia” [197; 20]. Về các hoàng
đế triều Trần, tác giả đánh giá: “Chinh chiến là việc không thể không làm, khi
cần thiết bảo vệ cõi bờ, lãnh thổ, dù người cầm vũ khí tha thiết yêu hoà bình. Vua
quan, tướng lĩnh và quân dân thời Trần đã làm như thế, dũng cảm, hết mình,
không tiếc máu xương” [197; 33]. Tác giả đánh giá cao tinh thần phản tỉnh của
các hoàng đế triều Trần: “Dưới thời phong kiến, những lỗi lầm của một vị hoàng
đế trong quá trình cầm quyền không phải là ít nhưng sự nhận ra và quan trọng
hơn, dũng cảm thừa nhận, ăn năn về những lỗi lầm đó lại không phải là nhiều,
nếu muốn nói là rất hiếm” [197; 36]. Thế mà các hoàng đế triều Trần đã làm
được điều đó: “đặt lương tâm con người lên trên lòng tự tôn và quyền lực của một
vị quân vương để tự trói mình trong nỗi đau suốt đời” [197; 36].
Trịnh Văn Định trong Tự do và quyền lực (2018) đã nhận xét: “thiết chế
chuyên chế mà đại diện hoàng đế là nhân vật có quyền uy tối thượng, chi phối
toàn xã hội ở dưới gầm trời, cả thế quyền và thần quyền” [43; 11].
Luận án tiến sĩ Hệ thống nhân vật và thi pháp thể hiện chúng trong văn
học trung đại Việt Nam giai đoạn từ thế kỉ thứ X đến thế kỉ thứ XV (2014) của
Nguyễn Thị Giang cũng đã khái quát hệ thống nhân vật trong văn học trung đại
Việt Nam dưới góc nhìn thi pháp. Luận án đã hệ thống hoá ba loại nhân vật:
Thiền sư, liệt nữ và hoàng đế. Trong đó, nhân vật hoàng đế cũng đã được tác giả
khai thác và đưa ra những đặc điểm khái quát. Tuy nhiên về cơ bản, luận án chỉ
khái quát đặc điểm nhân vật hoàng đế qua những sáng tác của Lê Thánh Tông.
Có thể nói việc nghiên cứu mẫu hình nhân vật hoàng đế còn nhiều mới mẻ.
Bởi phần lớn các hoàng đế đều được nghiên cứu dưới góc độ khảo cổ học, chính
trị học, văn hoá học mà chưa có công trình nghiên cứu nào có cái nhìn tổng thể
về nhân vật hoàng đế dưới góc nhìn là một nhân vật văn học – nhân vật trữ tình.
9
1.1.2. Nghiên cứu về một số nhân vật hoàng đế tiêu biểu trong văn học từ thế kỉ X
đến thế kỉ XV
Cho đến nay vẫn thiếu những công trình nghiên cứu tổng thể và hệ thống về
nhân vật hoàng đế trong văn học Việt Nam giai đoạn từ thế kỷ X đến thế kỷ XV.
Các công trình chỉ đi vào nghiên cứu văn học Lý – Trần, Lê sơ hoặc phân tích
riêng rẽ một số hoàng đế tiêu biểu. Có thể nói Trần Thái Tông, Trần Nhân Tông,
Lê Thánh Tông là những trường hợp tiêu biểu cho mẫu hình hoàng đế trong giai
đoạn từ thế kỉ X đến thế kỉ XV. Cuộc đời, sự nghiệp chính trị và sự nghiệp văn học
của các hoàng đế này đủ để tạo nên một mẫu hình nhân vật văn hoá chính trị và
văn học. Ngoài sự nghiệp chính trị vẻ vang, những hoàng đế này còn là tác giả của
nhiều áng văn chương đặc sắc. Văn chương của họ không chỉ có tính chức năng
mà còn giàu chất nghệ thuật. Người viết sẽ điểm qua sơ lược những công trình về
ba hoàng đế tiêu biểu này.
Hoàng đế Trần Thái Tông: Đây là hoàng đế đầu tiên của triều Trần. Có
nhiều công trình nghiên cứu liên quan đến vị hoàng đế này nhưng phần lớn đều
gắn liền với cả giai đoạn văn học Lý – Trần. Quốc Chấn trong công trình Những
vua chúa Việt Nam hay chữ (2009) nhận xét: “Thái Tông đã không đi tu ở chùa,
mà làm vua cai trị cả một quốc gia để vừa học hành, nghiền ngẫm triết lí của đạo
Phật, vừa ứng dụng vào cuộc sống của bản thân và cuộc sống xã hội” [11; 16].
Các tác giả Lịch sử tư tưởng Việt Nam văn tuyển (tâp II) (2014) đánh giá về
Trần Thái Tông: “Ông đưa ra nhiều quan điểm mới về vai trò của Phật giáo, chức
năng của Nho giáo, tam giáo đồng nguyên. Đó là quan điểm thân dân, trách nhiệm
của bậc nhân quân, quan niệm về nghĩa và lý theo Nho giáo” [208; 10].
Bài viết “Kiểu tác gia Hoàng đế – Thiền sư – Thi sĩ Trần Thái Tông” (2015)
của Nguyễn Hữu Sơn có nhiều góc độ liên quan đến đề tài luận án. Nguyễn Hữu
Sơn nhận định: “Hoàng đế Trần Thái Tông nằm trong mẫu hình tác gia hoàng đế
phương Đông, đặc biệt tương đồng với mẫu hình hoàng đế vùng Đông Á. Các bậc
hoàng đế này có uy quyền tuyệt đối và thường sử dụng thi ca để nói chí và tuyên
truyền cho vương triều và vị thế của mình” [151]. Trên cơ sở khảo sát các tác
phẩm của Trần Thái Tông, Nguyễn Hữu Sơn coi Trần Thái Tông là người mở đầu
cho loại hình tác gia hoàng đế – thiền sư – thi sĩ của triều Trần: “Mặc dù với số
10
lượng thơ viết về vị thế hoàng đế cũng như thơ thế sự thông qua cách nhìn của bậc
hoàng đế không nhiều song những dấu hiệu tư duy nghệ thuật đã nêu cũng đủ xác
định vị thế mẫu hình tác gia hoàng Trần Thái Tông – người mở đầu cho loại hình
tác gia hoàng đế – thiền sư – thi sĩ triều Trần” [151]. Đưa ra những lập luận thuyết
phục trên cơ sở khảo sát các tác phẩm của Trần Thái Tông, tác giả đã chỉ ra được
sự dung hoà giữa vương quyền và thần quyền của hoàng đế này: “Từ vị thế hoàng...2
CƠ SỞ HÌNH THÀNH NHÂN VẬT HOÀNG ĐẾ
TRONG VĂN HỌC TRUNG ĐẠI VIỆT NAM TỪ THẾ KỈ X ĐẾN THẾ KỈ XV
2.1. Giới thuyết về nhân vật hoàng đế
2.1.1. Khái niệm nhân vật hoàng đế
Hoàng đế là người đứng đầu nhà nước theo thể chế quân chủ chuyên chế.
Theo thể chế này, hoàng đế có vai trò trung tâm và nắm trong tay mọi quyền lực
vận hành xã hội. Lưu Hiệp trong Văn tâm điêu long có viết: “Hoàng đế ngự vũ, kỳ
ngôn dã thần” (Hoàng đế cai trị thiên hạ, lời nói ra rất thiêng) [64; 247]. Chịu ảnh
hưởng từ tư tưởng Khổng giáo Trung Quốc, nền văn hoá chính trị Việt Nam trung
đại quan niệm giai cấp thống trị tồn tại là để phục vụ dân. Hoàng đế do trời sinh ra
không phải trị dân mà là để chăn dân, dưỡng dân.
Từ thế kỉ X đến thế kỉ XIX, hoàng đế được xem là một “nhân vật” đặc biệt
trong xã hội Việt Nam. Đặc biệt là bởi hoàng đế có vai trò quan trọng và được xem
là trung tâm của xã hội quân chủ chuyên chế kéo dài nhiều thế kỉ. Dưới sự biến
động của lịch sử, bằng những cuộc lật đổ, thanh trừng, nổi dậy..., các triều đại lần
lượt thay thế nhau. Tuy nhiên vị trí của hoàng đế vẫn bất biến và là “biểu tượng”
của một hình thái kinh tế - xã hội quân chủ chuyên chế. Kể từ lúc Ngô Quyền
chiến thắng quân Nam Hán trên sông Bạch Đằng (năm 938) cho đến tới thời khắc
Bảo Đại - vị vua cuối cùng của các triều đại quân chủ Việt Nam thoái vị, lịch sử
ghi nhận nhiều vị hoàng đế lần lượt thay thế nhau điều hành đất nước. Hoàng đế có
vai trò rất quan trọng. Mọi suy nghĩ, hành động của hoàng đế có vai trò quyết định
đến thực tế vận hành xã hội.
Theo Hán - Việt từ điển, hoàng đế là “Ông vua một đế quốc. Ở Trung Hoa
từ đời Tần trở về sau, dùng tiếng ấy để gọi vua” [1; 259].
Đỗ Văn Ninh trong Từ điển chức quan Việt Nam cho rằng “Hoàng đế trở
thành chức vị cao nhất của quốc gia” [137; 321]. Tần Thuỷ Hoàng sau khi thống
nhất sáu nước đã tự cho mình là “Đức Kiêm Tam Hoàng, công bao Ngũ Đế”. Và
kể từ đó, danh hiệu hoàng đế đều được dùng để gọi cho những người đứng đầu nhà
nước theo thể chế quân chủ.
25
Theo Hán ngữ đại từ điển (quyển 3): 帝 Đế (có các nghĩa sau): 1) Thượng
đế - thiên thần tối cao, vị chúa tể của vũ trụ vạn vật do người xưa tưởng tượng ra;
2) Chỉ vị thiên thần làm chủ một phương; 3) Thời tam đại gọi bậc quân chủ đã
chết; 4) quân chủ, hoàng đế: thời viễn cổ chỉ lãnh tụ của liên minh bộ tộc; 5) Thiên
tử (con trời): kẻ thống trị tối cao thời cổ đại.
Theo Tìm về cội nguồn chữ Hán: Hoàng: 皇 Phần dưới chữ vốn là chân đèn;
ba nét sổ phía trên là ánh đèn sáng. Đến Tiểu triện thì phần trên viết nhầm thành
“tự”, đến Lệ thư lại biến thành “bạch”, vậy là không sao giải thích nữa. Kinh Thi:
Đồ tế màu hồng thì “hoàng” (tỏa sáng). Mao truyện: “Hoàng” còn có nghĩa là huy
hoàng. Nghĩa mở rộng thành “đại” (to lớn), “đế vương” [120; 280].
Đế: 帝 Là nghi thức cúng tế tổ tông hoặc trời đất một cách long trọng của
người thượng cổ (). Hình dạng chữ giống như là xếp mấy cây gỗ làm thành bàn
thờ. Sau đó, dùng để chỉ chữ Đế trong “Đế vương” [120; 189].
Trần Ngọc Vương cho rằng: “Khái niệm hoàng đế qua một thời gian lịch sử
dài biến động, nội hàm đã dần ổn định: là danh hiệu chỉ địa vị cực tôn quý của
người có được quyền làm chủ” [214; 49].
Kinh Dịch có viết “Thể thiên địa chi đức viết đế” (đế là người thể hiện đức
của trời đất); và “thiên địa chi đại đức viết sinh” (đức lớn của trời đất là sinh). Hai
câu này hàm ý hoàng đế phải có đức hiếu sinh, tức yêu thương sự sống của muôn
vật trong đó có con người. Một quan niệm như thế gián tiếp hạn chế bớt sự chuyên
chế, tàn bạo, bất nhân của giai cấp thống trị. Trần Nho Thìn khái quát trên cơ sở
nghiên cứu quan niệm chính trị cổ đại: “Hoàng đế, thiên tử là người có đầy đủ
những phẩm chất cần thiết nên được trời ủy quyền trị vì thiên hạ” [180; 36]. Tác
giả đã đặt ra câu hỏi đế là ai? Và đưa ra các biện luận “Đế là người có khả năng
liên thông với trời đất, thần minh vì có đức tương đồng với trời đất” [180; 42]. Đức
của trời đất là hiếu sinh, chăm lo cho muôn dân, vạn vật.
Khái niệm “nhân vật” dùng trong luận án có một nét nghĩa tương đối rộng.
Nó được tác giả luận án khái quát từ nhiều nguồn tác phẩm khác nhau mà không
phải là một nhân vật có sẵn trong một tác phẩm văn học xác định. Theo nghĩa
thông thường, trong một tác phẩm văn học, nhân vật hư cấu hay nhân vật ký sự ghi
26
chép sự thực, tự nó có chân dung ngoại hình, có ngôn ngữ, có hành động, có tâm
lý. Còn ở luận án này, người viết phải thông qua nhiều tác phẩm khác nhau dựng
lại, phác họa nhân vật, mỗi tác phẩm cung cấp chất liệu về một phương diện nào
đó. Như theo ghi chép của Đại Việt sử ký toàn thư, Lê Thánh Tông có “tư trời rạng
rỡ, thần sắc anh dị, tuấn tú, sáng suốt, chững chạc, thực là bậc thông minh đáng
làm vua, bậc trí dũng đủ giữ nước” [97; 610]. Đây là cách miêu tả theo thi pháp “tả
thần” chứ không “tả hình” (trọng thần khinh hình) nên ngày nay ta cũng chỉ có thể
biết ngoại hình ngài “tuyệt đẹp”, có “thần sắc khác thường”, vẻ người tuấn tú, nhân
hậu, rạng rỡ, nghiêm trang... Bản thân nhà vua có thơ tự thuật: “Trống dời canh
còn đọc sách/ Chiêng xế bóng chửa thôi chầu”. Đây là lời nói gián tiếp của nhà vua
về “tác phong” làm việc cần cù, chăm chỉ hay là một tự sự về công việc thường
ngày của một hoàng đế không quan liêu mà cần mẫn với công việc trị nước?
Nhưng với hai ví dụ trên, ta có thể thấy, nhân vật hoàng đế như một đối tượng
nghiên cứu sẽ hiện lên qua các ghi chép, sáng tác của người bên ngoài quan sát và
những sáng tác có tính chất tự thuật, tự họa của chính hoàng đế đó.
Có thể đưa ra khái niệm hoàng đế là người đứng đầu của nhà nước theo thể
chế quân chủ chuyên chế. Mỗi khu vực, quốc gia hoàng đế có vị thế khác nhau
trong đời sống xã hội. Trong xã hội phương Đông, hoàng đế là người nắm trong
tay mọi quyền lực, sở hữu đất đai và thần dân trong phạm vi “bốn bể”. Suy nghĩ và
hành động của hoàng đế có sức ảnh hưởng lớn và quyết định sự vận hành của xã
hội. Xã hội phương Đông quan niệm hoàng đế là thiên tử – con trời, mang trong
mình thiên mệnh để thay trời trị vì thiên hạ. Chính vì có một vị thế đặc biệt trong
xã hội quân chủ nên hoàng đế cũng đã trở thành một nhân vật đặc biệt trong sáng
tác văn học. Nhân vật hoàng đế xuất hiện trong văn chương không đơn thuần là
một kiểu nhân vật văn học mà nó còn gắn với nhiều yếu tố văn hoá chính trị, tư
tưởng triết học. Trong suốt hành trình lịch sử văn học, không chỉ xuất hiện trong
các tác phẩm thời trung đại mà đến văn học hậu hiện đại nhân vật hoàng đế này
vẫn còn là đề tài thú vị cho sự tìm tòi, sáng tạo.
2.1.2. Sự khác nhau giữa “Đế” và “Vương”
Kinh Thi có câu: “Phổ thiên chi hạ/ Mạc phi vương thổ/ Suất thổ chi tân/
Mạc phi vương thần” (Khắp cõi dưới trời/ Chẳng có chỗ nào là không phải lãnh
27
thổ của vua/ Noi theo những vùng đất ven bờ/ Dân chúng khắp nơi, chẳng ai là
không phải bề tôi vua) [193; 404]. “Đế” hay “Vương” đều là khái niệm chỉ người
đứng đầu nhà nước quân chủ, là người nắm quyền cai quản thiên hạ. Tuy nhiên
Đế và Vương lại không hề đồng nhất về nội hàm khái niệm. Trần Ngọc Vương
cho rằng: “Trong thực tế thì từ đế tới vương là một quá trình phát triển về danh
hiệu, về quy mô lãnh cách hình dung thiết chế về sau, trong tâm lý nhận thức
và rồi đến thực tiễn chính trị, đế được coi là cao hơn, quan trọng hơn, toàn năng
hơn” [214; 49].
Theo Từ điển Hán Việt, chữ “vương” có nghĩa là vua, “được thiên hạ quy
phục” [1; 782]. Trong tiếng Anh, danh từ King chỉ “vua” hay “quốc vương”; với
“hoàng đế”, người Anh dùng chữ Emperor. Tương tự, theo tiếng Pháp: Le Roy
dành cho vua; hoàng đế là L’ Empereur Quốc vương chính là ông vua đứng đầu
một vương quốc hay thuộc quốc (quốc gia phụ thuộc), còn hoàng đế mang “tầm
cỡ” ông vua của một quốc gia hùng mạnh (đế quốc/ đế chế). Như vậy, mặc dù
cùng đứng đầu một thể chế, nhưng “vương” không thể có một “tư thế” ngang hàng
với “đế” khi xét về nấc thang quyền lực.
Từ điển chức quan Việt Nam đã có sự phân biệt rất cụ thể giữa “Đế” và
“Vương”. Đế là khái niệm chỉ người lãnh đạo quốc gia. Nó có nguồn gốc rất lâu
đời từ xưng hiệu của các thủ lĩnh liên minh hoặc các tù trưởng bộ lạc trong truyền
thuyết cổ Trung Quốc: Ngũ Đế, Thần Nông, Nghiêu, Thuấn “Vua, sách Tả
truyện, Hi Công nhị niên có câu: Kim chi vương, cổ chi đế dã. Vua ngày nay là đế
ngày xưa vậy. Những người xưng bá chủ thời Chiến quốc gọi là đế” [137; 196].
Khởi đầu xưng hiệu dành cho các nhà lãnh đạo phương Nam không phải là đế mà
là vương. Từ thời Văn Lang cho đến Âu lạc các nhà lãnh đạo quốc gia đều xưng
vương: Hùng Vương, An Dương Vương. Đỗ Văn Ninh đã chỉ ra rõ sự khác biệt
giữa đế và vương ở nấc thang quyền lực: “Khi người cai trị cao nhất quốc gia xưng
đế thì Vương là một tước phong cho con” [137; 829]. Các hoàng đế không chỉ
phong vương cho con mà cũng tước phong cho những người trong tôn thất có công
lao lớn. Chung quy, Đỗ Văn Ninh cho rằng quốc gia có thể tồn tại nhiều vương,
nhưng đế là duy nhất.
28
Từ thời nhà Tần, theo quan niệm của các hoàng đế Trung Hoa, chỉ có đất
nước Trung Hoa là mẫu quốc còn lại là mọi rợ. Chính vì quan niệm ấy, các hoàng
đế Trung Hoa tự đặt mình ở vị trí là “thiên tử” mẫu quốc và xem người đứng đầu
các nước khác là phiên vương. Họ sẵn sàng đem quân chinh phạt nếu các thuộc
quốc không tuân phục thiên tử mẫu quốc. Bằng đường lối ngoại giao mềm dẻo, các
hoàng đế Việt Nam xưng vương trước vương triều phương Bắc và thực hiện các
chính sách sắc phong triều cống. Tuy nhiên ý thức dân tộc, tinh thần tự cường đã
xuất hiện từ rất sớm ở nước ta. Thế kỉ thứ VI, Lý Bôn đã lập nhà nước Vạn Xuân
và xưng Nam đế. Tổng tập văn học Việt Nam tập I có viết: “Từ Đinh Bộ Lĩnh trở
đi, nhà vua xưng là hoàng đế, với hàm ý là sánh ngang hoàng đế Trung Quốc. Bắc
đế và Nam đế, mỗi đằng làm đế một phương, chẳng có thiên triều, chẳng có thuộc
quốc” [164; 18]. Trong Bình Ngô đại cáo, Nguyễn Trãi đã một lần nữa khẳng định
độc lập dân tộc và niềm tự hào các hoàng đế Đại Việt sánh ngang cùng các hoàng
đế Trung Hoa: “Tự Triệu, Đinh, Lý, Trần chi triệu tạo ngã quốc/ Dữ Hán, Đường,
Tống, Nguyên nhi các đế nhất phương” (Từ Triệu, Đinh, Lý, Trần xây, dựng, kiến
thiết nước ta / Cùng Hán, Đường, Tống, Nguyên (mỗi bên) xưng đế một phương).
Mặc dù Trung Hoa chỉ xem người đứng đầu Đại Việt là phiên vương nhưng
trong tâm thức người Việt luôn có tinh thần yêu nước, lòng tự hào và tự tôn. Dân
tộc ta luôn có ý thức khẳng định vị thế của mình sánh ngang cùng Trung Hoa hùng
mạnh. Có thể thấy đế và vương mặc dù đều là khái niệm để gọi tên người đứng đầu
nhà nước theo chế độ quân chủ. Tuy nhiên, nội hàm của hai khái niệm đã cho thấy
thang độ quyền lực khác nhau của hai tên gọi.
2.1.3. Mô hình hoàng đế lý tưởng trong tư duy chính trị Việt Nam trung đại
Có ba con đường đi đến ngôi vị hoàng đế. Thứ nhất, Nho giáo quan niệm
không phải con vua thì lại làm vua mà phải truyền người hiền. Tiêu biểu cho
trường hợp này là vua Nghiêu và vua Thuấn trong lịch sử Trung Hoa. Thứ hai,
hoàng đế lên ngôi bằng hình thức cha truyền con nối. Hình thức này được xem là
phổ biến. Mặc dù hình thức nối ngôi đi ngược với quan điểm nhân trị của Nho giáo
nhưng trong văn hoá diễn ngôn của các triều đại người nối ngôi đã thuận lòng trời,
hợp ý dân. Thứ ba, hoàng đế lên ngôi bằng con đường bạo lực lật đổ chính quyền
cũ đã hết “mệnh trời” để xác lập nền cai trị mới. Trong trường hợp này, những
29
hoàng đế giành chính quyền bằng bạo lực lí giải hành động của mình là nhân danh
mệnh trời để trừng phạt kẻ đã bị trời rút sự ủy nhiệm.
Hoàng đế được gắn liền với các khái niệm tam vị nhất thể: thiên mệnh –
thiên hạ – thiên tử. Ba khái niệm này chi phối mạnh mẽ đến mô hình nhân cách
hoàng đế. Theo diễn ngôn của chế độ quân chủ, hoàng đế là thiên tử (con trời),
được trời trao cho thiên mệnh để cai quản thiên hạ.
Hoàng đế là con trời - thiên tử được trời uỷ nhiệm để cai quản hạ giới. Đây
được xem là một phương thức diễn ngôn của chế độ quân chủ nhằm khẳng định
quyền lực thống trị. Để củng cố địa vị, chế độ quân chủ đã nhờ sự hỗ trợ của thần
quyền để củng cố đế quyền, hoàng quyền. Sống trong một nền văn minh nông
nghiệp có đời sống tâm linh phong phú thì diễn ngôn về việc tôn xưng thiên tử có
sức thuyết phục và tác động lớn trong xã hội. Niềm tin của con người vào thế giới
tâm linh đã trở thành phương tiện củng cố hữu hiệu cho vương quyền. Chính vì
diễn ngôn này mà từ sự ra đời cho đến con đường lên ngôi của các hoàng đế đều
được thần thánh hoá qua những câu chuyện dân gian, ghi chép trong các bộ sử và
các dữ liệu văn học đậm màu sắc thần kì: xuất thân thần kì, dung mạo và tư chất
khác thường, thường gắn với biểu tượng con rồng – linh vật biểu tượng cho mệnh
đế vương, được các lực lượng thần thiêng hỗ trợ.
Hoàng đế là con trời nên mặc nhiên có quyền lực đối với tất cả thần dân, đất
đai sông núi dưới gầm trời. Mọi hình thức tồn tại dưới trời đều thuộc sở hữu của
hoàng đế trong đó có cả những lực lượng siêu nhiên như thần thánh: “Thần thánh
được thờ trong lãnh thổ được định biên chế rất ngặt nghèo, phân cấp quản lý chặt chẽ”
[215; 54]. Hoàng đế có quyền giám quản bách thần. Từ đời Trần, nhà nước đã tiến
hành sắc phong các thần trên lãnh thổ Đại Việt - điều đã được Lĩnh Nam chích quái và
Việt điện u linh phản ánh. Việc sắc phong thần đã cho thấy hoàng đế muốn tạo lập
một lực lượng siêu nhiên mang tính thần quyền để hỗ trợ cho việc trị vì.
Điều quan trọng nhất của một hoàng đế đó là có được thiên mệnh. Hoàng đế
là người duy nhất được trời ban chân mệnh đế vương. Triết học phương Đông cổ đại
đề cao tư tưởng “thiên nhân hợp nhất”. Hoàng đế là người thay trời trị vì thiên hạ, là
người có khả năng liên thông với thiên địa. Nho giáo với thuyết Chính danh đã đem
đến cho hoàng đế một “siêu quyền lực”: thế thiên hành đạo. Hoàng đế giữ vai trò là
30
gạch nối giữa thượng giới và hạ giới, giữa cõi trời và cõi người. Đây là sự uỷ thác
của trời về quyền lực duy nhất dành cho một người để cai quản thiên hạ. Quan niệm
thần quyền về hoàng đế bắt nguồn từ học thuyết “tôn quân quyền” của Nho giáo:
“Theo tư tưởng Nho giáo thì quân quyền phải để một người giữ cho rõ cái mối thống
nhất. Người giữ quân quyền gọi là đế hay vương, ta thường gọi là vua” [88; 155].
Cốt lõi của lý thuyết tôn quân quyền đó chính là thiên mệnh của hoàng đế. Khi con
người tập hợp với nhau thành xã hội thì người lãnh đạo là hoàng đế phải có quyền
lực tối cao để giữ vững kỷ cương. Hoàng đế được thần quyền bằng tư tưởng thiên
mệnh mà theo Nho giáo thiên mệnh tức là nói đến cái chí của trời.
Hoàng đế chịu “thiên mệnh” trước hết phải là người có đức. Theo quan
điểm Nho giáo, hoàng đế không đơn thuần là người đứng đầu nhà nước quân chủ,
nắm trong tay mọi đất đai và thần dân phải chăm lo lợi ích mà hoàng đế phải
thực hiện nghĩa vụ bảo vệ dân, giáo hoá dân, chịu trách nhiệm về cuộc sống của
dân. Theo Kinh Dịch: “Đức tượng thiên địa viết đế” (Người có đức giống đức của
trời đất là đế). Trời chỉ chọn lựa người có đức để uỷ nhiệm cai trị thiên hạ. Hoàng
đế là con trời và được trời giao thiên mệnh trị vì trăm họ, mọi ý đồ hay hành động
nhằm tranh giành ngôi báu, quyền lực của hoàng đế đều được xếp vào trọng tội
loạn thần tặc tử và làm trái mệnh trời. Trang Tử – Thiên địa cho rằng: “Đế vương
chi đức phối thiên địa” (Đức của bậc đế vương sánh với đức của trời đất). Hoàng
đế nhận được thiên mệnh để cai quản thiên hạ. Nhưng hoàng đế phải đáp ứng được
những chuẩn mực đạo đức sánh với trời đất mới giữ được ngai vàng. Trong các
chuẩn mực về đạo đức thì đức sinh là quan trọng nhất. Chu Dịch – Hệ Từ có viết:
“Thiên địa chi đại đức viết sinh” (Đức lớn của trời đất là sinh). Trang Tử – Thiên
địa: “Vật đắc dĩ sinh vị chi đức” (Cho vật được sự sống gọi là đức). Đức lớn của
trời đất là sinh ra vạn vật, hoàng đế là con trời, có đức sánh ngang trời thì phải biết
yêu quý sự sống.
Nền văn hoá chính trị Á Đông nói chung và Việt Nam nói riêng đều có quan
niệm chung về mẫu hình hoàng đế có trách nhiệm đối với trời, không được quyền
hành động theo ý mình mà phải thi hành những điều thuận lòng trời, hợp ý dân.
Vấn đề đức trị, thân dân là những nội dung chính trong tư tưởng, đường lối trị
nước của Nho giáo. Hoàng đế phải nhận thức được vai trò quan trọng của dân
31
trong con đường đế nghiệp. Kinh Thư có viết dân là gốc (dân vi bản), dân là gốc
của nước (dân vi bang bản). Thực tế cho thấy dân có vai trò quan trọng trong đời
sống xã hội “dân vi quý, xã tắc thứ chi, quân vi khinh” (Mạnh Tử).
Trời trao thiên mệnh cho hoàng đế dựa trên nguyên tắc chọn người có đức.
Theo quan điểm Nho giáo, thiên mệnh không tồn tại vĩnh hằng. Nó chỉ được duy
trì khi hoàng đế biết thi hành đức trị: “Duy mệnh bất vu thường, đạo thiện tắc đắc
chi, bất thiện tắc thất chi” (mệnh trời không nhất định, thiện thì được, bất thiện thì
mất) [88; 156]. Điều này nhắc nhở các hoàng đế phải thi hành điều thiện, nhân
đức, không lạm dụng uy quyền mà làm điều tàn bạo.
Đức của nhà lãnh đạo được thể hiện trên nhiều phương diện nhưng phẩm
chất quan trọng nhất là đức hiếu sinh. Đức hiếu sinh được thể hiện trước tiên là
chọn đức trị hạn chế hình pháp. Khổng Tử cho rằng: “Thánh nhân chi trị, hoá dã, tất
hình chính tương tham yên. Thái thượng dĩ đức giáo dân, nhi dĩ lễ tề chi. Kỳ thứ, dĩ
chính sự đạo dân, dĩ hình cấm chi, hình bất hình dã” [88; 161]. Theo quan niệm của
Khổng Tử thì hoàng đế phải cai trị bằng con đường đạo đức, nhân nghĩa, hình chính
chỉ là điều bất đắc dĩ. Khổng – Mạnh chủ trương hoàng đế theo đường lối đức trị,
thân dân, xem hình phạt chỉ là thứ yếu, là giải pháp tình thế trong việc giáo hoá dân.
Tuy nhiên, theo thực tế vận hành xã hội, các hoàng đế phải có sự kết hợp pháp trị để
mang tính ràng buộc nhằm duy trì trật tự, kỷ cương cũng như bảo vệ quyền lợi cho
giai cấp thống trị.
Sự tồn vong của một quốc gia, thịnh hay suy của một triều đại phụ thuộc vào
ý dân, lòng dân. Vì thế, để duy trì ngai vàng, hoàng đế phải thực hiện chính sách
thân dân. Để thực hiện được điều đó, hoàng đế phải thực hiện được chính sách
“dưỡng dân”. Nghĩa là nhiệm vụ của hoàng đế là phải chăm sóc, nuôi dưỡng và
bảo vệ dân. Khổng Tử quan niệm “Tiết dụng ái nhi nhân” nghĩa là vương triều phải
biết tiết kiệm, tránh hoang phí là thương dân, làm sao để dân no đủ, đánh thuế nhẹ
cho dân: “Bất kỳ chính thể nào, nhà cầm quyền nào cũng cho việc nuôi dưỡng dân
là nhiệm vụ quan trọng nhất: nếu khéo nuôi dân thì nước trị mà nhà cầm quyền
được dân quý, ngược lại thì nước loạn” [24; 176]. Mạnh Tử quan niệm: “Lạc dân
chi lạc giả, dân diệc lạc kỳ lạc; ưu dân chi ưu giả, dân diệc ưu kỳ ưu. Lạc dĩ thiên
hạ, nhiên nhi bất vương giả, vị chi hữu dã” [88; 233]. Theo quan niệm này thì
32
hoàng đế phải là người vui cùng cái vui của dân, lo cùng nỗi lo của dân. Bên cạnh
dưỡng dân, các hoàng đế phải có nhiệm vụ giáo hoá dân. Theo Khổng – Mạnh,
hoàng đế phải có trách nhiệm làm cho dân hiểu được đạo làm người với các chuẩn
mực: nhân, lễ, nghĩa, trí, tín, hiếu, trung. Điều này nhằm hướng đến bảo vệ vương
quyền bằng việc hướng nhân dân đến các thứ tự, tôn ti và không xâm hại đến các
lợi ích của giai cấp thống trị.
Nho giáo hướng đến hình mẫu hoàng đế là một thánh nhân vừa mang một
nhân cách của con người phàm trần vừa có những đặc điểm của thượng giới. Giữa
mô hình nhân cách hoàng đế trong lý thuyết và thực tế, qua lịch sử có thể thấy sự
vênh lệch khá lớn. Rất hiếm vị hoàng đề có thể đáp ứng được đầy đủ các chuẩn
mực nhân cách thánh nhân mang những đặc điểm huyền thoại.
2.2. Những tiền đề của sự xuất hiện nhân vật hoàng đế trong văn học Việt Nam
từ thế kỉ X đến thế kỉ XV
2.2.1. Tiền đề lịch sử, xã hội
Trong giai đoạn từ thế kỉ X đến thế kỉ XV, Việt Nam đang từng bước thiết
lập và ổn định xã hội theo chế độ quân chủ chuyên chế. Dựa vào bối cảnh lịch sử,
văn hóa xã hội Việt Nam có thể chia giai đoạn này thành ba cột mốc quan trọng:
Đất nước mới giành được độc lập, xây dựng quốc gia quân chủ và phục hưng nền
văn hóa dưới hai triều đại Lý – Trần, đấu tranh chống quân Minh xâm lược và xây
dựng Nhà nước quân chủ đạt cực thịnh ở triều đại Lê sơ. Thực tiễn xây dựng chế độ
đòi hỏi phải cấp thiết xác lập nền văn hóa chính trị tương ứng. Theo đó, lựa chọn
mẫu hình hoàng đế được xem là nhiệm vụ hàng đầu. Bởi trong xã hội chuyên chế,
hoàng đế là người đứng đầu triều đại, mọi suy nghĩ, hành động của hoàng đế có vai
trò quyết định đến thực tế vận hành xã hội.
Ở giai đoạn đầu mới giành được độc lập: Từ thế kỉ X, người Việt giành
được độc lập sau một ngàn năm Bắc thuộc. Đất nước độc lập đã mở ra trang sử
mới cho dân tộc. Vấn đề đặt ra lúc này là phải cấp thiết xây dựng chính quyền tự
trị của người Việt Nam. Mô hình chế độ quân chủ chuyên chế được xem là lựa
chọn tất yếu trong bối cảnh lịch sử xã hội Đại Việt đương thời. Tuy nhiên trong
giai đoạn đầu sau khi độc lập, bộ máy chính quyền nước ta chỉ mới được hình
thành và dần từng bước đi vào ổn định qua các triều Ngô, Đinh và Tiền Lê. Sau
33
chiến thắng của Ngô Quyền, chế độ quân chủ Việt Nam từng bước đẩy lùi thù
trong, giặc ngoài. Năm 967, Đinh Bộ Lĩnh dẹp loạn 12 sứ quân, thống nhất đất
nước. Năm 981 Lê Hoàn lãnh đạo quân dân đánh tan quân Tống xâm lược. Từ đó
đất nước bước vào công cuộc ổn định và ngày càng lớn mạnh dưới các triều đại Lý
– Trần. Từ một nhà nước cơ bản dựa vào bộ máy quân sự nước ta đã chuyển dần
sang bộ máy nửa quân sự – nửa quan lại. Trong bối cảnh văn hoá chính trị mới
được hình thành thì mẫu hình hoàng đế giai đoạn này chưa đưa đến những nét đặc
trưng riêng. Phải đến thời Lý – Trần, mẫu hình nhân vật hoàng đế mới mang những
đặc điểm riêng tương ứng với sự phát triển của nền văn hoá chính trị Đại Việt.
Giai đoạn xây dựng quốc gia quân chủ và phục hưng nền văn hóa dưới hai
triều đại Lý – Trần: Từ thời Lý, công cuộc xây dựng nền văn hoá chính trị được
chú trọng hơn. Đất nước về cơ bản không còn nặng nề tính quân sự mà hình thành
một chế độ quân chủ đứng đầu là hoàng đế. Năm 1010 Lý Công Uẩn quyết định
dời kinh đô Hoa Lư ra thành Đại La. Năm 1054, Lý Thánh Tông đổi tên nước
thành Đại Việt. Hai sự kiện này có ý nghĩa rất quan trọng trong lịch sử dân tộc. Nó
khẳng định những bước tiến vượt bậc của Đại Việt trong công cuộc xây dựng nền
văn hóa chính trị, ý thức tự chủ và niềm tin vào tương lai đất nước.
Dưới các triều đại Lý – Trần, lịch sử dân tộc chứng kiến một giai đoạn huy
hoàng sau Bắc thuộc. Đất nước bước vào công cuộc phục hưng nền văn hóa. Nho –
Phật – Đạo cùng tồn tại trong đời sống xã hội. Tính đến thời Lý, Phật giáo chiếm
vị thế chủ đạo và chi phối mạnh mẽ nền văn hóa, chính trị Đại Việt. Tăng lữ và
hoàng tộc có mối quan hệ chặt chẽ, cùng với đó là mối quan hệ mật thiết giữa thần
quyền và vương quyền. Tuy nhiên, Nho giáo ngày càng bộc lộ được khả năng là
công cụ vững chắc để chế độ quân chủ bảo vệ vương quyền. Vì thế, từ cuối triều
Lý nước ta đã quan tâm đến việc phát triển giáo dục và khoa cử tuyển chọn nhân
tài phục vụ cho triều đình theo mô hình nhà nước Nho giáo. Năm 1070, Lý Thánh
Tông lập Văn Miếu. Năm 1075 Lý Nhân Tông mở khoa thi Nho học đầu tiên. Đến
thời Trần, Nho học tiếp tục phát triển và tạo ra lực lượng trí thức đông đảo, từng
bước đẩy lùi sự chi phối vốn rất mạnh mẽ của Phật giáo. Từ cuối đời Trần, Nho
giáo với tư tưởng đức trị đã đạt được một nền tảng vững chắc để có địa vị như
quốc giáo.
34
Kinh tế và văn hóa có sự phục hưng và phát triển mạnh mẽ. Việc lần lượt đánh
tan các thế lực xâm lược hùng mạnh đã cổ vũ và phát huy tinh thần đoàn kết toàn dân
tộc, tạo nên khí thế hào hùng của một dân tộc đang vươn lên một cách mạnh mẽ, mà
trung tâm là “hào khí Đông A”. Trong bối cảnh xã hội chịu nhiều ảnh hưởng của Phật
giáo, các hoàng đế Lý – Trần đã tích cực hoằng dương Phật pháp để giáo huấn và điều
hành xã hội. Tuy nhiên, với vai trò là người đứng đầu quốc gia, chịu trách nhiệm chăn
dân, giáo dân, nên tất yếu các hoàng đế không hoàn toàn xuất thế mà tích cực nhập
thế. Nho giáo đã ngày càng thể hiện được là nền tảng tư tưởng trong đường lối trị
nước của các hoàng đế. Trên cơ sở trọng dân của Nho giáo, các hoàng đế Lý – Trần
đã nhận thức được tầm quan trọng của dân và thực hiện nhiều chính sách thương dân
như con và khoan thư sức dân.
Giai đoạn đấu tranh chống quân Minh xâm lược và xây dựng Nhà nước quân
chủ đạt cực thịnh dưới vương triều Lê sơ: Sau hơn bốn thế kỉ sống trong nền chính trị
tự chủ, nước ta một lần nữa rơi vào tay quân xâm lược ở đầu thế kỉ XV. Cuộc xâm
lược và cai trị tàn bạo của nhà Minh gây biết bao cảnh tang thương cho Đại Việt. Để
thực hiện chính sách đồng hóa, ngu dân, giặc Minh thi hành chính sách đốt sạch, phá
sạch nhằm tận diệt nền văn hóa Đại Việt. Hai mươi năm ấy đã chứng kiến một dân tộc
Đại Việt ngoan cường không ngừng đấu tranh để giữ gìn nền độc lập dân tộc.
Năm 1418, Lê Lợi khởi nghĩa Lam Sơn và giành thắng lợi, khôi phục đất
nước vào năm 1428. Trang sử mới được lập, đất nước được hồi sinh. Sau khi lên
ngôi Lê Lợi tiếp tục xây dựng bộ máy Nhà nước theo mô hình có từ thời Trần. Nho
giáo tiếp tục giữ vai trò chủ đạo trong việc củng cố quyền lực thống trị. Cơ cấu xã
hội có nhiều thay đổi, tầng lớp quý tộc không còn giữ địa vị như trước. Thành phần
xã hội thời Lê sơ gồm quan và tứ dân: sĩ, nông, công, binh. Các vua Lê trong quá
trình điều hành Nhà nước luôn thực hiện chính sách quốc dĩ dân vi bản, quan tâm
chăm lo đến đời sống nhân dân. Nhờ đó, triều đình luôn nhận được sự ủng hộ của
nhân dân, đất nước không phải đối mặt với các cuộc nội chiến, bạo loạn.
Nhà nước Đại Việt đạt được đến đỉnh cao của sự phát triển trong giai đoạn
trị vì của Lê Thánh Tông. Nếu thời Lý – Trần quyền lực được phân tán cho các
vương hầu thì đến các hoàng đế thời Lê sơ quyền lực đã được tập trung vào tay
người đứng đầu nhà nước. Các triều đại thời Lê sơ đã từng bước tiến tới hoàn
35
chỉnh chế độ quân chủ tập quyền về mọi mặt: kinh tế, chính trị, văn hóa và xã hội...
Đến thời Lê Thánh Tông, nước ta đang dần tiến đến hoàn thiện cơ chế quản lí Nhà
nước qua các quy chế và luật pháp. Đời sống xã hội được nâng lên rõ rệt, cảm thụ
và sáng tác văn học, nghệ thuật được quan tâm sâu sát với sự thành lập các ban
Đồng văn, Nhã nhạc.
2.2.2. Tiền đề văn hoá, chính trị
Từ thế kỉ X đến thế kỉ XV, các triều đại quân chủ nước ta đã từng bước đi
vào ổn định. Lịch sử giai đoạn này chứng kiến những cuộc đổi họ lớn. Để bảo vệ
ngai vàng, các hoàng đế đã thẳng tay thanh trừng các thế lực có khả năng đe doạ
ngôi vị thiên tử. Sau khi lật đổ nhà Lý, để củng cố ngai vàng cho nhà Trần, Trần
Thủ Độ đã tìm mọi cách để tiêu diệt con cháu nhà Lý và buộc phải đổi thành họ
Nguyễn. Lê Thánh Tông sau khi lên ngôi cũng đã ra lệnh cho dân chúng khắp cả
nước đổi họ Trần thành họ Trình. Có thể thấy đây là đặc trưng của nền quân chủ
chuyên chế do hoàng đế là người đứng đầu đại diện bảo vệ cho lợi ích cho dòng họ.
Xã hội Đại Việt từ thế kỉ X đến thế kỉ XV tìm thấy sự tương đồng giữa
truyền thống, phong tục, tư tưởng tình cảm của con người Việt Nam với tư tưởng
thân dân trong Nho giáo. Mặc dù đều có tinh thần dân tộc cao, kiên quyết chống lại
sự bành trướng của chính quyền phương Bắc, nhưng các triều đại nước ta vẫn tìm
thấy được trong văn hoá chính trị Trung Hoa nhưng diễn ngôn phù hợp để bảo vệ
vương triều. Tiếp thu nền văn hoá chính trị phương Bắc, các Hoàng đế Đại Việt
không ngừng diễn ngôn về thiên tử – thiên hạ – thiên mệnh.
Phật giáo có sức ảnh hưởng mạnh mẽ đến đời sống văn hoá chính trị - xã hội
Đại Việt, nhất là ở thời Lý. Mặc dù trước đó, nhân dân Đại Việt đã tôn sùng đạo
Phật nhưng từ thời Lý địa vị của Phật giáo đã được đề cao bởi hoàng đế, quý tộc,
tăng lữ đều hướng về con đường Phật giáo. Niềm tin vào Phật giáo đã thấm sâu vào
nhận thức của triều đình nên các hoàng đế thời Lý có tình thần bao dung, độ lượng
và quan tâm đến đời sống nhân dân lao động. Các hoàng đế là thiền sư, thi sĩ hướng
thơ ca đến những nội dung của Phật giáo, niềm vui của người dân lao động trong
cuộc sống làng quê Ở thời Lý hiếm khi gặp những vần thơ bày tỏ niềm thương
cảm với nỗi đau khổ của người dân. Điều này một phần có thể do phần lớn lực
lượng sáng tác đều tham chính, nên khi tham gia sáng tác cần có sự cân nhắc tế nhị
36
để bảo toàn sinh mệnh với minh triết bảo thân. Tuy nhiên không thể phủ nhận rằng
thời Lý, dưới nền chính trị Phật giáo, xã hội Đại Việt được cai trị bởi những hoàng
đế nhân đức, thiện lành, thương dân. Đến thời Trần, Phật giáo tiếp tục được tôn
sùng và được dân tộc hoá bằng sự ra đời của Thiền phái Trúc Lâm Yên Tử. Phật
giáo là tư tưởng chủ đạo của giai đoạn Lý – Trần bởi tinh thần nhập thế tuỳ duyên.
Phật giáo Đại Việt có sự dung hoà giữa Nho – Phật – Đạo và tín ngưỡng truyền
thống của dân tộc. Nó không mang tinh thần yểm thế, xuất thế như Phật giáo Ấn Độ
hoặc tinh thần bay bổng của Phật giáo Trung Quốc mà mang tinh thần nhập thế của
thời đại. Tuy nhiên, Phật giáo không thể áp dụng trong việc điều hành chính trị mà
chỉ hướng đến giải quyết các vấn đề xã hội bằng con đường giác ngộ lối sống tích
cực, từ bi, hỉ xả.
Nho giáo đã du nhập vào Việt Nam từ thời Bắc thuộc nhưng gặp sự phản
kháng quyết liệt của người Việt. Tuy nhiên, từ thế kỉ X, khi đất nước bước vào công
cuộc kiến thiết, bộ máy cai trị được hình thành thì Nho giáo đã từng bước xâm nhập
và chi phối đời sống chính trị Đại Việt. Dưới các triều Ngô, Đinh, Tiền Lê, Nho
giáo chưa thực sự ảnh hưởng nhiều đến nước ta. Đến thời Lý – Trần, Nho – Phật –
Đạo đã cùng tồn tại và thể hiện được vai trò riêng của mình trong đời sống xã hội.
Tuy nhiên, Phật giáo và Đạo giáo không thể đảm đương vai trò tổ chức và duy trì
bộ máy nhà nước theo thể chế quân chủ chuyên chế. Thêm nữa, cuối đời Trần, khi
Phật giáo được đề cao quá mức, nhà chùa giữ nhiều ruộng đất đã khiến một bộ phận
nhân dân hướng về Phật giáo...uận Hoá, Huế.
154
38. Biện Minh Điền (2002), Vấn đề tác giả và phong cách cá nhân nhà văn trong văn học
Việt Nam trung đại, Đề tài nghiên cứu khoa học cấp Bộ, Mã số: B2002 – 42 – 33,
Trường Đại học Vinh.
39. Biện Minh Điền (2005), “Loại hình tác giả văn học trung đại Việt Nam”, Nghiên cứu
văn học (4), tr.81 – 90.
40. Biện Minh Điền (2008), Phong cách nghệ thuật Nguyễn Khuyến, Nxb Đại học Quốc
gia Hà Nội, Hà Nội.
41. Biện Minh Điền (2009), “Sự thống nhất những đối cực trong phong cách nghệ thuật
Nguyễn Công Trứ”, Nghiên cứu văn học (3), tr.28 - 41.
42. Biện Minh Điền (2015), Loại hình văn học trung đại Việt Nam, Nxb Đại học Vinh,
Nghệ An.
43. Trịnh Văn Định (2018), Tự do và quyền lực, Nxb Tri thức, TP. Hồ Chí Minh.
44. Lê Quí Đôn (1961), Vân đài loại ngữ (bản dịch), Nxb Văn hoá – Thông tin,
TP. Hồ Chí Minh.
45. Lê Quí Đôn (1993), Kinh thư diễn nghĩa (bản dịch), Nxb Thành phố Hồ Chí Minh,
TP. Hồ Chí Minh.
46. Thạch Trung Giả (1999), Văn học phân tích toàn thư (tái bản), Nxb Văn học, Hà Nội.
47. Đoàn Lê Giang (2001), Ý thức văn học cổ trung đại Việt Nam, Luận án tiến sĩ Ngữ văn,
Trường Đại học KHXH & NV, Đai học Quốc gia Hồ Chí Minh, TP. Hồ Chí Minh.
48. Nguyễn Thị Giang (2014), Hệ thống nhân vật và thi pháp thể hiện chúng trong văn
học trung đại Việt Nam giai đoạn từ thế kỉ X đến thế kỉ XV, Luận án tiến sĩ Văn học,
Đại học KHXH & NV, Đại học Quốc gia Hà Nội, Hà Nội.
49. Lê Giảng, Ngô Viết Dinh (2001), Đến với tinh hoa thơ Đường, Nxb Thanh Niên, Hà Nội.
50. Lê Giảng (2013), Các triều đại Trung Hoa, Nxb Thanh niên, Hà Nội.
51. A. Ja Gurevich (1996), Các phạm trù văn hóa trung cổ (Hoàng Ngọc Hiến dịch), Nxb
Giáo dục, Hà Nội.
52. Nguyễn Thị Bích Hải (1995), Thi pháp thơ Đường, Nxb Thuận Hoá, Huế.
53. Lý Tường Hải (2002), Khổng Tử, Nxb Văn hóa – Thông tin, Hà Nội.
54. Mai Xuân Hải (tuyển chọn, biên soạn) (1998), Lê Thánh Tông thơ văn và cuộc đời,
Nxb Hội Nhà văn, Hà Nội.
55. Mai Xuân Hải (1999), Cổ tâm bách vịnh, Nxb Văn học, Hà Nội.
155
56. Dương Quảng Hàm (1968), Việt Nam văn học sử yếu, in lần thứ 10, Nxb Trung tâm
học liệu - Bộ Giáo dục, Sài Gòn.
57. Dương Quảng Hàm (1993), Việt Nam thi văn hợp tuyển (tái bản), Nxb Tổng hợp Đồng Tháp,
Đồng Tháp.
58. Dương Quảng Hàm (2000), Việt Nam sử lược, Tập II, Nxb TP. Hồ Chí Minh, TP. Hồ
Chí Minh.
59. Hoàng Xuân Hãn (2010), Lý Thường Kiệt lịch sử ngoại giao và Tông giáo triều Lý (tái bản),
Nxb Hà Nội, Hà Nội.
60. Lê Bá Hán, Trần Đình Sử, Nguyễn Khắc Phi (đồng chủ biên) (2011), Từ điển thuật
ngữ văn học (tái bản), Nxb Giáo dục Việt Nam, Hà Nội.
61. Nguyễn Văn Hạnh, Huỳnh Như Phương (2002), Lý luận văn học - Vấn đề suy nghĩ,
Nxb Giáo dục, Hà Nội.
62. Hoàng Ngọc Hiến (1997), Văn học và học văn, Nxb Văn học, Hà Nội.
63. Hoàng Ngọc Hiến (1999), Phương pháp luận nghiên cứu văn học, Nxb Thuận Hóa, Huế.
64. Lưu Hiệp (2007), Văn tâm điêu long (Trần Thanh Đạm, Phạm Thị Hảo dịch), Nxb
Văn học, TP. Hồ Chí Minh.
65. Đỗ Đức Hiểu, Nguyễn Huệ Chi, Phùng Văn Tửu, Trần Hữu Tá (đồng chủ biên)
(2004), Từ điển văn học (Bộ mới), Nxb Thế giới, Hà Nội.
66. Nguyễn Duy Hinh (1999), Tư tưởng Phật giáo Việt Nam, Nxb Khoa học xã hội, Hà Nội.
67. Trần Thị Giáng Hoa (2013), Nghiên cứu thơ Nôm Lê Thánh Tông trong Hồng Đức quốc
âm thi tập, Luận án tiến sĩ Ngữ văn, Học viện Khoa học Xã hội Việt Nam, Hà Nội.
68. Nguyễn Hoà (2003), Phân tích diễn ngôn: một số vấn đề lí luận và phuơng pháp, Nxb
Đại học Quốc gia Hà Nội, Hà Nội.
69. Nguyễn Thái Hòa (2000), Những vấn đề thi pháp của truyện, Nxb Giáo dục, Hà Nội.
70. Kiều Thu Hoạch (1992), Truyện Nôm nguồn gốc, bản chất và thể loại, Nxb Khoa học
Xã hội, Hà Nội.
71. Nguyễn Mạnh Hoàng (2015), Thơ Nôm các chúa Trịnh, Luận án tiến sĩ, Viện Hàn lâm
khoa học xã hội Việt Nam, Hà Nội.
72. Phạm Đình Hổ (1972), Vũ trung tùy bút (Đông Châu Nguyễn Hữu Tiến dịch), (tái bản),
Nxb Văn nghệ Thành phố Hồ Chí Minh, TP. Hồ Chí Minh.
73. Phạm Đình Hổ, Nguyễn Án (2012), Tang thương ngẫu lục (Trúc Khê Ngô Văn Triện
dịch, Trương Chính giới thiệu và chú thích), (tái bản), Nxb Hồng Bàng, Hà Nội.
156
74. Nguyễn Phạm Hùng (1996), Văn học Lý – Trần nhìn từ thể loại, Nxb Giáo dục, Hà Nội.
75. Nguyễn Phạm Hùng (1998), Thơ thiền Việt Nam – những vấn đề lịch sử và tư tưởng
nghệ thuật, Nxb Đại học Quốc gia Hà Nội, Hà Nội.
76. Nguyễn Phạm Hùng (2001), Trên hành trình văn học trung đại, Nxb Đại học Quốc
gia, Hà Nội.
77. Nguyễn Phạm Hùng (2008), Các khuynh hướng văn học thời Lý – Trần, Nxb Đại học
Quốc gia Hà Nội, Hà Nội.
78. Phạm Văn Hưng (2016), Tự sự của trinh tiết, Nxb Đại học Quốc gia Hà Nội, Hà Nội.
79. Trần Đình Hượu (1999), Nho giáo và văn học Việt Nam trung cận đại, Nxb Giáo dục,
Hà Nội.
80. Trần Đình Hượu (2001), Các bài giảng về tư tưởng phương Đông, Nxb Đại học Quốc
gia Hà Nội, Hà Nội.
81. Đinh Thị Khang (2010), Văn học trung đại Việt Nam thể loại, con người, ngôn ngữ,
Nxb Đại học Quốc gia Hà Nội, Hà Nội.
82. Nguyễn Thị Dư Khánh (2005), Phân tích tác phẩm văn học từ góc độ thi pháp, Nxb
Giáo dục, Hà Nội.
83. Đinh Gia Khánh (1976), Hợp tuyển thơ văn Việt Nam thế kỷ X – thế kỷ XVII, Nxb Văn
học, Hà Nội.
84. Đinh Gia Khánh – Bùi Duy Tân – Mai Cao Chương (1979), Văn học Việt Nam thế kỷ
X – nửa đầu thế kỷ XVIII, tập II, Nxb Đại học và Trung học chuyên nghiệp, Hà Nội.
85. Đinh Gia Khánh (2000), Văn học Việt Nam thế kỷ X – nửa đầu thế kỷ XVIII, (tái bản),
Nxb Giáo dục, Hà Nội.
86. Đinh Gia Khánh (2001), Điển cố văn học, Nxb Văn học, Hà Nội.
87. Vũ Khiêu (1995), Đức trị và pháp trị trong Nho giáo, Nxb Khoa học Xã hội, Hà Nội.
88. Trần Trọng Kim (1992), Nho giáo, Nxb TP. Hồ Chí Minh (tái bản), TP Hồ Chí Minh.
89. Trần Trọng Kim (2000), Việt Nam sử lược, tập II (tái bản), Nxb TP. Hồ Chí Minh,
TP Hồ Chí Minh.
90. N. Konrat (1997), Phương Đông và phương Tây (Trịnh Bá Đĩnh dịch), Nxb Giáo dục, Hà Nội.
91. Đinh Trọng Lạc (1999), Phong cách học, Nxb Giáo dục, Hà Nội.
92. Ngô Cao Lãng (1995), Lịch triều tạp kỷ (bản dịch), Nxb Khoa học Xã hội, Hà Nội.
93. Nguyễn Lân (2007), Từ điển từ và ngữ Hán – Việt, (tái bản), Nxb Văn học, Hà Nội.
94. Nguyễn Hiến Lê (1996), Mạnh Tử, (tái bản), Nxb Văn hóa, TP. Hồ Chí Minh.
157
95. Nguyễn Hiến Lê (2003), Khổng Tử và Luận ngữ, (tái bản), Nxb Văn học, Hà Nội.
96. Phan Huy Lê (1959), Lịch sử chế độ phong kiến Việt Nam, tập II, Nxb Giáo dục, Hà Nội.
97. Ngô Sĩ Liên (2013), Đại Việt sử ký toàn thư (Cao Huy Giu dịch), (tái bản), Nxb Thời Đại,
Hà Nội.
98. D.X. Likhachev (2010), Thi pháp văn học Nga cổ (Phan Ngọc dịch), Nxb Văn học, Hà Nội.
99. I.S. Lisevich (1994), Tư tưởng văn học cổ Trung Quốc (Trần Đình Sử dịch), Nxb
Giáo dục, Hà Nội.
100. Đoàn Ánh Loan (2003), Điển cố và nghệ thuật sử dụng điển cố, Nxb Đại học Quốc gia
Thành phố Hồ Chí Minh, Tp. Hồ Chí Minh.
101. Ngô Thế Long – Trần Văn Quyền (dịch) (1993), Kinh thư diễn nghĩa, Nxb Thành phố
Hồ Chí Minh, TP. Hồ Chí Minh.
102. Nguyễn Thế Long (1995), Nho học ở Việt Nam giáo dục và thi cử, Nxb Giáo dục, Hà Nội.
103. Phương Lựu (1985), Về quan niệm văn chương cổ Việt Nam, Nxb Giáo dục, Hà Nội.
104. Phương Lựu (chủ biên) (2004), Lý luận văn học, Nxb Giáo dục, Hà Nội.
105. Nguyễn Công Lý (1997), Bản sắc dân tộc trong văn học Thiền tông thời Lý - Trần,
Nxb Văn hóa thông tin, TP. Hồ Chí Minh.
106. Nguyễn Công Lý (2002), Văn học Phật giáo thời Lý – Trần: diện mạo và đặc điểm,
Nxb Giáo dục, Hà Nội.
107. Huỳnh Lý (1984), Hợp tuyển thơ văn Việt Nam, Nxb Văn học, Hà Nội.
108. Viên Mai (1999), Tuỳ Viên thi thoại (Nguyễn Đức Vân dịch), Nxb Giáo dục, Hà Nội.
109. Nguyễn Đăng Mạnh (1983), Nhà văn, tư tưởng và phong cách, Nxb Văn học, Hà Nội.
110. Nguyễn Đăng Mạnh (2001), Con đường đi vào thế giới nghệ thuật của nhà văn, Nxb
Giáo dục, Hà Nội.
111. Nguyễn Đăng Na (Soạn, dịch, sưu tầm) (1997), Văn xuôi tự sự Việt Nam thời trung
đại, tập I – Truyện ngắn, Nxb Giáo dục, Hà Nội.
112. Nguyễn Đăng Na (Soạn, dịch, sưu tầm) (2000), Văn xuôi tự sự Việt Nam thời trung
đại, tập III – Tiểu thuyết chương hồi, Nxb Giáo dục, Hà Nội.
113. Nguyễn Đăng Na (Soạn, dịch, sưu tầm) (2001), Đặc điểm văn học trung đại Việt Nam
- Những vấn đề văn xuôi tự sự, Nxb Giáo dục, Hà Nội.
114. Nguyễn Đăng Na (2001), Văn xuôi tự sự Việt Nam thời trung đại, tập II (tái bản), Nxb
Giáo dục, Hà Nội.
158
115. Nguyễn Đăng Na (2006), Con đường giải mã văn học trung đại Việt Nam, Nxb Giáo
dục, Hà Nội.
116. Nguyễn Đăng Na (chủ biên) (2014), Văn học trung đại Việt Nam, Nxb Đại học Sư
phạm, Hà Nội.
117. Lạc Nam (1993), Tìm hiểu các thể thơ (từ Cổ phong đến thơ luật), Nxb Văn học, Hà Nội.
118. Đặng Hồng Nam (1995), Tuyển thơ các vua Trần, Hội Văn học nghệ thuật Nam Hà,
Nam Định.
119. Lê Kim Ngân (1963), Tổ chức chính quyền trung ương dưới triều Lê Thánh Tông, Bộ
Quốc gia Giáo dục, Sài Gòn.
120. Lý Lạc Nghị (1997), Tìm về cội nguồn chữ Hán, Nxb Thế giới, Hà Nội.
121. Phan Ngọc (dịch) (1992), Hàn Phi Tử, Nxb Văn học, Hà Nội.
122. Phan Ngọc (2015), Sử kí Tư Mã Thiên (tái bản), Nxb Văn học, Hà Nội.
123. Ngô gia văn phái (2014), Hoàng Lê nhất thống chí (tái bản), Nxb Văn học, Hà Nội.
124. Phạm Thế Ngũ (1997), Việt Nam văn học sử giản ước tân biên, tập I, Nxb Đồng Tháp,
Đồng Tháp.
125. Phạm Thế Ngũ (1997), Việt Nam văn học sử giản ước tân biên, tập II, (tái bản), Nxb
Đồng Tháp, Đồng Tháp.
126. Bùi Văn Nguyên (chủ biên) (1995), Tổng tập văn học Việt Nam, tập IV, Nxb Khoa học
xã hội, Hà Nội.
127. Bùi Văn Nguyên (chủ biên) (1995), Tổng tập văn học Việt Nam, tập V, Nxb Khoa học
xã hội, Hà Nội.
128. Bùi Văn Nguyên (2000), Văn chương Nguyễn Trãi rực ánh sao Khuê, Nxb Văn học, Hà Nội.
129. Bùi Văn Nguyên, Hà Minh Đức (2006), Thơ ca Việt Nam – hình thức và thể loại, (tái
bản), Nxb Đại học Quốc gia, Hà Nội.
130. Nguyễn Tôn Nhan (2005), Nho giáo Trung Quốc, Nxb Văn hóa – Thông tin, Hà Nội.
131. Nguyễn Tá Nhí (chủ biên) (2008), Tổng tập văn học Nôm, tập I, Nxb Khoa học xã hội,
Hà Nội.
132. Nguyễn Tá Nhí (chủ biên) (2008), Tổng tập văn học Nôm, tập II, Nxb Khoa học xã
hội, Hà Nội.
133. Nhiều tác giả (1998), Lịch sử văn học Trung Quốc, tập I, Nxb Giáo dục, Hà Nội.
134. Nhiều tác giả (2000), Tổng tập văn học Việt Nam thời cổ - cận đại, bộ I, Nxb Khoa
học xã hội, Hà Nội.
159
135. Nhiều tác giả (2010), Các thể văn chữ Hán Việt Nam, Nxb Khoa học xã hội, Hà Nội.
136. Nhiều tác giả (2011), Tài liệu tập huấn phát triển chuyên môn giáo viên trường THPT
chuyên môn Ngữ văn, Vụ giáo viên Trung học, Hà Nội.
137. Đỗ Văn Ninh (2002), Từ điển chức quan Việt Nam, Nxb Thanh Niên, Hà Nội.
138. Võ Hồng Phi (chủ biên), (2007), Những bút tích Hán Nôm hiện còn ở các hang động,
vách núi xứ Thanh, Nxb Giáo dục, Hà Nội.
139. Nguyễn Khắc Phi, Trần Đình Sử (1997), Về thi pháp thơ Đường, Nxb Đà Nẵng, Đà Nẵng.
140. Nguyễn Khắc Phi (chủ biên) (2014), Lịch sử văn học Trung Quốc, Nxb Đại học Sư
phạm, Hà Nội.
141. Nguyễn Thị Hải Phương (2012), Tiểu thuyết Việt Nam đương đại – nhìn từ góc độ
diễn ngôn, Luận án tiến sĩ Ngữ văn, Trường Đại học Sư phạm Hà Nội, Hà Nội.
142. G. N. Pospelov (chủ biên) (1998), Dẫn luận nghiên cứu văn học (Trần Đình Sử - Lại
Nguyên Ân - Lê Ngọc Trà dịch), Nxb Giáo dục, Hà Nội.
143. Trần Lê Sáng (chủ biên) (1997), Tổng tập văn học Việt Nam, tập II, Nxb Khoa học
xã hội, Hà Nội.
144. Trần Lê Sáng (chủ biên) (2000), Tổng tập văn học Việt Nam, tập III, Nxb Khoa học
xã hội, Hà Nội.
145. Lê Văn Siêu (2004), Văn minh đời Hồng Đức đến đời Nguyễn, (tái bản), Nxb
Thanh Niên, Hà Nội.
146. Lê Văn Siêu (2006), Văn học sử Việt Nam, (tái bản), Nxb Văn học, Hà Nội.
147. Nguyễn Hữu Sơn – Trần Đình Sử - Huyền Giang – Trần Ngọc Vương – Trần Nho
Thìn – Đoàn Thị Thu Vân (1997), Về con người cá nhân trong văn học cổ Việt Nam,
Nxb Giáo dục, Hà Nội.
148. Nguyễn Hữu Sơn (1998), Khảo sát loại hình tiểu truyện thiền sư trong Thiền uyển tập
anh, Luận án Tiến sĩ Văn học, Viện văn học, Hà Nội.
149. Nguyễn Hữu Sơn (2002), Loại hình tác phẩm Thiền uyển tập anh (Chuyên luận), Nxb
Khoa học Xã hội, Hà Nội.
150. Nguyễn Hữu Sơn (2005), Văn học trung đại Việt Nam – Quan niệm con người và tiến
trình phát triển, Nxb Khoa học xã hội, Hà Nội.
151. Nguyễn Hữu Sơn (2015), “Kiểu tác gia Hoàng đế - Thiền sư - Thi sĩ Trần Thái Tông
(1218-1277)”, tạp chí Khoa học Đại học Văn hiến, số 2-2015, TP Hồ Chí Minh, tr.61-70.
152. Trần Đình Sử (1995), Những thế giới nghệ thuật thơ, Nxb Giáo dục, Hà Nội.
160
153. Trần Đình Sử (1996), Lý luận và phê bình văn học, Nxb Hội Nhà văn, Hà Nội.
154. Trần Đình Sử (1997), Một số vấn đề thi pháp học hiện đại, Bộ Giáo dục và đào tạo, Vụ
Giáo dục, Hà Nội.
155. Trần Đình Sử (1998), Giáo trình dẫn luận thi pháp học, Nxb Giáo dục, Hà Nội.
156. Trần Đình Sử (2005), Thi pháp văn học trung đại Việt Nam, Nxb Đại học Quốc gia Hà
Nội, Hà Nội.
157. Trần Đình Sử (2013), “Khái niệm diễn ngôn trong nghiên cứu văn học hôm nay”,
(https://phebinhvanhoc.com.vn/khai-niem-dien-ngon-trong-nghien-cuu-van-hoc-hom-
nay/). (Truy cập ngày 19/7/2020).
158. Bùi Duy Tân (1999), Khảo và luận một số tác gia tác phẩm văn học trung đại Việt
Nam, tập I, Nxb Giáo dục, Hà Nội.
159. Bùi Duy Tân (2001), Khảo và luận một số tác gia tác phẩm văn học trung đại Việt
Nam, tập II, Nxb Đại học Quốc gia, Hà Nội.
160. Bùi Duy Tân - Lại Văn Hùng (2001), Lê Thánh Tông - về tác gia và tác phẩm, Nxb
Giáo dục, Hà Nội.
161. Bùi Duy Tân (chủ biên) (2006), Hợp tuyển văn học trung đại Việt Nam thế kỷ X –
XIX, tập I, Nxb Giáo dục, Hà Nội.
162. Bùi Duy Tân (chủ biên) (2006), Hợp tuyển văn học trung đại Việt Nam thế kỷ X – XIX,
tập II, Nxb Giáo dục, Hà Nội.
163. Bùi Duy Tân (chủ biên) (2009), Hợp tuyển văn học trung đại Việt Nam thế kỷ X – XIX,
tập III, Nxb Giáo dục, Đà Nẵng.
164. Văn Tân (Chủ biên) (1997), Tổng tập văn học Việt Nam, tập I, Nxb Khoa học xã hội,
Hà Nội.
165. Quách Tấn (1998), Thi pháp thơ Đường, Nxb Trẻ, TP Hồ Chí Minh.
166. Lê Văn Tấn (2012), Nhận diện loại hình tác giả nhà nho ẩn dật và vai trò của họ trong
văn học trung đại Việt Nam, Luận án Tiến sĩ Văn học, Trường Đại học Sư Phạm Hà Nội,
Hà Nội.
167. Trần Thị Băng Thanh (1999), Những suy nghĩ từ văn học trung đại, Nxb Khoa học Xã
hội, Hà Nội.
168. Khâu Chấn Thanh (1994), Lý luận văn học nghệ thuật cổ điển Trung Quốc, (Mai Xuân
Hải dịch), Nxb Giáo dục, Hà Nội.
161
169. Lê Mạnh Thát (1999), Trần Nhân Tông con người và tác phẩm, Nxb Thành phố Hồ
Chí Minh, TP Hồ Chí Minh.
170. Lê Mạnh Thát (2000), Toàn tập Trần Nhân Tông, Nxb Thành phố Hồ Chí Minh, TP
Hồ Chí Minh.
171. Lê Mạnh Thát (2005), Nghiên cứu Thiền uyển tập anh, Nxb Phương Đông, Hà Nội.
172. Nguyễn Quyết Thắng, Nguyễn Bá Thế (2006), Từ điển nhân vật lịch sử Việt Nam (Bộ
mới) (tái bản), Nxb Tổng hợp, TP. Hồ Chí Minh.
173. Lã Nhâm Thìn (1997), Thơ Nôm Đường luật, Nxb Giáo dục, Hà Nội.
174. Lã Nhâm Thìn (2002), Bài giảng thơ Nôm Đường luật, Nxb Giáo dục, Hà Nội.
175. Lã Nhâm Thìn (2009), Phân tích tác phẩm văn học trung đại Việt Nam từ góc nhìn -
thể loại, Nxb Giáo dục Việt Nam, Hà Nội.
176. Trần Nho Thìn (2001), “Bi kịch tinh thần của nhà Nho Việt Nam với tính cách một nhân
vật văn hóa (khảo sát qua trường hợp Nguyễn Trãi)”, Tạp chí văn học (7), tr.49 – 59.
177. Trần Nho Thìn (2008), Văn học trung đại Việt Nam dưới góc nhìn văn hóa, Nxb Giáo
dục, Hà Nội.
178. Trần Nho Thìn (2010), “Một vài vấn đề đặt ra từ việc nghiên cứu so sánh văn học Việt
Nam và văn học Trung Quốc”, Nghiên cứu văn học (1), tr.3 - 27.
179. Trần Nho Thìn (2010), “Văn học cung đình và văn học thành thị ở Thăng long”,
Nghiên cứu văn học (10), tr.55 - 71.
180. Trần Nho Thìn (2012), Văn học Việt Nam từ thế kỷ X đến hết thế kỷ XIX, Nxb Giáo
dục Việt Nam, Đà Nẵng.
181. Trần Nho Thìn (2018), Phương pháp tiếp cận văn hóa trong nghiên cứu, giảng dạy
văn học, Nxb Giáo dục Việt Nam, Hà Nội.
182. Nguyễn Văn Thuấn (2018), Giáo trình Lý thuyết liên văn bản, Nxb Đại học Huế, Huế.
183. Đỗ Lai Thúy (2005), Văn hóa Việt Nam nhìn từ mẫu người văn hóa, Nxb Văn hóa
thông tin, tạp chí Văn hóa nghệ thuật, Hà Nội.
184. Nguyễn Tài Thư (1997), Nho học và Nho học ở Việt Nam một số vấn đề lí luận và thực
tiễn, Nxb Khoa học Xã hội, Hà Nội.
185. Lê Thước, Trương Chính (2012), Thơ chữ Hán Nguyễn Du (in lại theo bản 1965), Nxb
Văn học, Hà Nội.
186. Lê Huy Tiêu (chủ biên) (2007), Lịch sử văn học Trung Quốc, tập II, Nxb Giáo dục, Hà Nội.
162
187. Thích Giác Toàn, Trần Hữu Tá (chủ biên) (2010), Văn học, Phật giáo với 1000 năm
Thăng Long – Hà Nội, Nxb Văn hóa – Thông tin, TP. Hồ Chí Minh.
188. Trần Văn Toàn (2015), “Dẫn nhập lí thuyết diễn ngôn của M. Foucault và nghiên cứu văn
học”,(
75/Default.aspx). (Truy cập 18/7/2020).
189. Nghiêm Toản (1949), Việt Nam văn học sử, tập I, Nhà in Vĩnh Bảo, Sài Gòn.
190. Lê Thánh Tông (1963), Thánh Tông di thảo (bản dịch), Nxb Văn hóa, Viện văn học,
Hà Nội.
191. Lê Ngọc Trà (1990), Lý luận và văn học, Nxb Trẻ, TP. Hồ Chí Minh.
192. Khổng Tử (2003), Kinh Thi, tập I (Tạ Quang Phát dịch), Nxb Đà Nẵng, Đà Nẵng.
193. Khổng Tử (2003), Kinh Thi, tập II (Tạ Quang Phát dịch), Nxb Đà Nẵng, Đà Nẵng.
194. Khổng Tử (2003), Kinh Thi, tập III (Tạ Quang Phát dịch), Nxb Đà Nẵng, Đà Nẵng.
195. Nguyễn Hoài Văn (2002), Tìm hiểu tư tưởng chính trị nho giáo Việt Nam từ Lê Thánh
Tông đến Minh Mệnh, Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội.
196. Đoàn Thị Thu Vân (1996), Khảo sát đặc trưng nghệ thuật của thơ Thiền Việt Nam từ
thế kỷ X đến thế kỷ thứ XIV, Trung tâm Nghiên cứu Quốc học, Nxb Văn học, Hà Nội.
197. Đoàn Thị Thu Vân (2007), Con người nhân văn trong thơ ca Việt Nam sơ kì trung đại,
Nxb Giáo dục, Hà Nội.
198. Đoàn Thị Thu Vân chủ biên (2008), Văn học trung đại Việt Nam thế kỷ X – cuối thế kỷ
XIX, Nxb Giáo dục, TP. Hồ Chí Minh.
199. Lê Trí Viễn (1987), Đặc điểm lịch sử văn học Việt Nam, Nxb Đại học và Trung học
chuyên nghiệp, Hà Nội.
200. Lê Trí Viễn (1998), Quy luật phát triển lịch sử văn học Việt Nam, Nxb Giáo dục, TP.
Hồ Chí Minh.
201. Lê Trí Viễn (2001), Đặc trưng văn học trung đại Việt Nam, Nxb Văn nghệ, TP. Hồ Chí Minh.
202. Viện Khoa học Xã hội Trung Quốc (1998), Lịch sử văn học Trung Quốc, tập I, (Lê
Huy Tiêu hiệu đính), Nxb Giáo dục, Hà Nội.
203. Viện Nghiên cứu Hán Nôm (1986), Thơ văn Lê Thánh Tông, Nxb Khoa học xã hội,
Hà Nội.
204. Viện Ngôn ngữ học (2003), Từ điển tiếng Việt, Nxb Đà Nẵng, Hà Nội.
205. Viện Sử học (1976), Nguyễn Trãi toàn tập, Nxb Khoa học xã hội, Hà Nội.
206. Viện Sử học Việt Nam (2017), Quốc triều hình luật, Nxb Chính trị Quốc gia sự thật, Hà Nội.
163
207. Viện Triết học (2002), Đại cương Triết học Phật giáo Việt Nam tập I từ khởi nguyên
đến thế kỉ XIV, Nxb Khoa học Xã hội, Hà Nội.
208. Viện Triết học (2004), Lịch sử tư tưởng Việt Nam văn tuyển, tập II, Nxb Chính trị
Quốc gia, Hà Nội.
209. Viện Văn học (1977), Thơ văn Lý – Trần, tập I, Nxb Khoa học xã hội, Hà Nội.
210. Viện Văn học (1978), Thơ văn Lý – Trần, tập III, Nxb Khoa học xã hội, Hà Nội.
211. Viện Văn học (1988), Thơ văn Lý – Trần, tập II (Quyển thượng), Nxb Khoa học xã
hội, Hà Nội.
212. Phạm Tuấn Vũ (2011), Về một số vấn đề tác giả, tác phẩm văn chương, Nxb Văn học, Hà Nội.
213. Phạm Tuấn Vũ (2015), Góp phần nghiên cứu văn chương Việt Nam trung đại, Nxb
Đại học Vinh, TP. Vinh.
214. Trần Ngọc Vương (1995), Loại hình học tác giả văn học – Nhà nho tài tử và văn học
Việt Nam, Nxb Giáo dục, Hà Nội.
215. Trần Ngọc Vương (1997), Văn học Việt Nam dòng riêng giữa nguồn chung, Nxb Giáo dục,
Hà Nội.
216. Trần Ngọc Vương (chủ biên) (2006), Văn học Việt Nam thế kỉ X – XIX - Những vấn đề
lí luận và lịch sử, Nxb Giáo dục, Hà Nội.
217. Như Ý, Nguyễn Văn Khang, Nguyễn Xuân Thành (1997), Từ điển giải thích thành
ngữ gốc Hán, Nxb Văn hóa, Hà Nội.
218. Hoàng Hữu Yên - Nguyễn Minh Hùng (1980), Văn tuyển văn học Việt Nam (Thế kỉ XI
- Nửa đầu thế kỉ XIX), Nxb Giáo dục, Hà Nội.
219. Lê Thu Yến (chủ biên) (2003), Văn học Việt Nam – Văn học trung đại những công
trình nghiên cứu, Nxb Giáo dục, Hà Nội.
Tiếng Anh
220. Aie Wang (2006), Vũ trụ luận và văn hóa chính trị ở Trung Quốc cổ đại, Cosmology
and Political Culture in Early China, Cambridge University Press.
221. Chad Hansen (1992), Lý thuyết Đạo gia trong tư tưởng Trung Quốc - Giải thích về
triết học, A Daoist Theory of Chinese Thought - A Philosophical Interpretation,
Oxford University Press.
222. Crystal. D, (1992), Introducing of language and Power, Oxford: Blackwell.
164
223. Jean Blondel, Takashi Inoguchi (2006), Văn hóa chính trị ở châu Á và châu Âu: Công
dân, nhà nước và giá trị xã hội, Political Cultures in Asia and Europe: Citizens, States
and Societal Values, Routledge
224. James F. McGlew (1993), Nền chuyên chế và văn hóa chính trị ở Hy Lạp cổ đại,
Tyranny and Political Culture in Ancient Greece, Cornell University Press.
225. Jan Eric- Lane, Svante Erson (2005), Văn hóa và chính trị, Culture and Politics,
Ashgate Publishing Company.
226. Martin Cohen (2001), Triết học chính trị từ Plato đến Mao Trạch Đông, Political
Philosophy from Plato to Mao, Pluto Press.
227. Oliver H. Woshinsky (2008), Giải thích chính trị -văn hóa, các thiết chế và hành vi
chính trị, Explaining Politics - Culture, Institutions and Political Behavior, Routledge.
228. Richard Ellis (1993), Văn hóa chính trị Mỹ, American Political Culture, Oxford
University Press.
229. Roges T. Armes (1994), Nghệ thuật cai trị - nghiên cứu tư tưởng chính trị Trung Quốc
cổ đại, The Art of Rulership: A Study of Ancient Chinese Political Thought, State
University Press of New York.
230. Vilho Harle (1998), Các tư tưởng về trật tự xã hội trong thế giới cổ đại, Ideas of Social
Order in the Ancient World, Greenwood Press.
231. Widdowson, H. G (1984), Exlorations in applied linguistics 2, Oxford: OUP.
Tiếng Trung
232. Độ Biên Tín Nhất Lang (2008), Vương quyền ở Trung Quốc cổ đại và trật tự thiên hạ
(từ góc nhìn so sánh Trung - Nhật), Trung Hoa thư cục, Bắc Kinh.
233. Lưu Trạch Hoa, Uông Mậu Hòa, Vương Lan Trọng (1988), Quyền lực chuyên chế và
xã hội Trung Quốc, 专制权力与中国社会, Cát lâm văn sử xuất bản xã.
234. Nhiều tác giả (1974), Nho Pháp đấu tranh trong lịch sử, 历史上的儒法斗争, Vân
Nam nhân dân xuất bản xã.
235. Tào Đức Bản chủ biên (1999), Trung Quốc chính trị tư tưởng sử, 中国政治思想史,
Cao đẳng giáo dục xuất bản xã, Bắc Kinh.
236. Tát Mạnh Vũ (2008), Trung Quốc chính trị tư tưởng sử, 中国政治思想史, Đông
phương xuất bản xã, Bắc Kinh.
165
237. Lưu Nguyên Ngạn (1992), Tạp gia đế vương học - Lã Thị Xuân Thu, 杂家帝王学,
Tam liên thư điếm xuất bản.
238. Tiền Tông Phạm (2004) Lưu dân hoàng đế - từ Lưu Bang đến Chu Nguyên Chương,
流 民皇帝从刘邦到朱元璋, Tế Nam xuất bản xã.
PHỤ LỤC 1
THỐNG KÊ SỐ LƯỢNG TÁC GIẢ, TÁC PHẨM VIẾT VỀ NHÂN VẬT
HOÀNG ĐẾ VÀ PHÂN CHIA THỂ LOẠI
TT
Tác giả
Số
lượng
tác
phẩm
Thơ Văn
Hán
Đường
luật
Nôm
Đường
luật
Cổ
phong
Phú
Hịch,
Cáo,
Chiếu,
Biểu
TL
khác
1 Lý Thái Tổ 3 1 2
2 Lý Thái Tông 6 2 2 2
3 Lý Thánh Tông 2 2
4 Lý Nhân Tông 6 3 3
5 Lý Thiên Tộ 1 1
6 Lý Cao Tông 1 1
7 Lý Huệ Tông 2 1 1
8 Trần Thái Tông 6 2 4
9 Trần Thánh Tông 15 10 4 1
10 Trần Nhân Tông 34 26 6 1 1
11 Trần Anh Tông 14 12 2
12 Trần Minh Tông 29 25 2 2
13 Trần Nghệ Tông 6 5 1
14 Trần Dụ Tông 1 1
15 Trần Duệ Tông 2 1 1
16 Hồ Qúy Ly 5 5
17 Trần Qúy Khoáng 2 2
18 Lê Thái Tổ 2 2
19 Lê Thái Tông 1 1
20 Lê Thánh Tông 319 282 20 1 16
21 Lê Hiến Tông 4 4
22 Lý Thường Kiệt 2 1 1
23 Đỗ Pháp Thuận 1 1
24 Ngô Chân Lưu 3 2 1
25 Vạn Hạnh 6 4 1 1
26 Lã Định Hương 1 1
27 Thiền Lão 1 1
28 Đàm Cứu Chi 2 1 1
29 Lâm Khu 3 3
30 Đàm Khí 2 2
166
31 Mai Trực 3 2 1
32 Lê Văn Thịnh 1 1
33 Lý Trường 1 1
34 Vương Hải Thiềm 2 1 1
35 Chu Văn Thường 1 1
36 Đào Thuần Chân 2 2
37 Lý Thừa Ân 1 1
38 Đoàn Văn Khâm 3 3
39 Lý Ngọc Kiều 1 1
40 Kiều Trí Huyền 3 3
41 Từ Lộ 4 4
42 Vạn Trì Bát 1 1
43 Lê Thị Ỷ Lan 1 1
44 Pháp Bảo 2 2
45 Dương Không Lộ 2 2
46 Nguyễn Công Bật 1 1
47 Nguyễn Giác Hải 2 2
48 Nguyễn Tuân 1 1
49 Hoàng Viên Ngọc 1 1
50 Dĩnh Đạt 1 1
51 Nguyễn Khánh
Hỷ
1
1
52 Nguyễn Nguyên
Ức
1
1
53 Phan Trường
Nguyên
2
1 1
54 Ngô Tịnh Không 1 1
55 Kiều Phù 1 1
56 Bảo Giác 1 1
57 Âu Đạo Huệ 1 1
58 Nguyễn Nguyên
Học
2
2
59 Kiều Bản Tịnh 4 2 2
60 Lê Thước 3 2 1
61 Hứa Đại Xả 2 2
62 Nguyễn Trí Bảo 3 1 1 1
63 Nguyễn Quãng
Nghiêm
2
2
64 Tô Minh Trí 2 2
65 Đàm Dĩ Mông 1 1
66 Nguyễn Thường 1 1
67 Phạm Thường
Chiếu
2
2
68 Vũ Cao 1 1
69 Chu Khải Ngung 1 1
70 Ngụy Tư Hiền 1 1
167
71 Nguyễn Y Sơn 3 2 1
72 Lê Thuần 2 2
73 Trần Tự Khánh 1 1
74 Trần Tung 49 40 8 1
75 Thượng Sĩ Ngữ
Lục
2
2
76 Lê Văn Hưu 1 1
77 Trần Quốc Tuấn 1 1
78 Trần Quốc Toại 3 3
79 Trần Quang Khải 8 8
80 Đinh Củng Viên 1 1
81 Lê Củng Viên 1 1
82 Trần Thì Kiến 1 1
83 Trần Đạo Tái 1 1
84 Nguyễn Sĩ Cố 2 2
85 Vương Thụ
Thành
1
1
86 Phạm Ngũ Lão 2 2
87 Bùi Tông Quán 4 4
88 Nguyễn Chế
Nghĩa
1
1
89 Trần Khắc Chung 1 1
90 Hứa Tông Đạo 1 1
91 Đồng Kiên Cương 4 3 1
92 Lý Đạo Tái 21 20 1
93 Nguyễn Thị Điểm
Bích
1
1
94 Mạc Ký 1 1
95 Đoàn Nhữ Hài 1 1
96 Trương Hán Siêu 7 4 1 2
97 Trần Hiệu Khả 1 1
98 Phạm Mại 6 5 1
99 Phạm Ngộ 6 5 1
100 Mạc Đỉnh Chi 6 4 2
101 Nguyễn Trung
Ngạn
21
21
102 Trần Quang Triều 11 11
103 Nguyễn Sưởng 15 15
104 Nguyễn Ức 20 19 1
105 Chu Văn An 12 11 1
106 Trần Nguyên Đán 51 51
107 Phạm Sư Mạnh 31 28 2 1
108 Lê Quát 7 6 1
109 Đỗ Tử Vi 2 2
110 Hồ Tông Thốc 3 2 1
111 Đào Sư Tích 1 1
168
112 Sử Hy Nhan 1 1
113 Nguyễn Bá Thông 1 1
114 Nguyễn Nhữ Bật 1 1
115 Nguyễn Pháp 1 1
116 Nguyễn Tử Thành 11 11
117 Phạm Nhân
Khanh
12
12
118 Doãn Án Phủ 1 1
119 Nguyễn Cố Phu 1 1
120 Trần Thiên Trạch 1 1
121 Trần Đình Thâm 2 2
122 Trần Công Cẩn 2 1 1
123 Nguyễn Quy Ưng 2 2
124 Vũ Thế Trung 1 1
125 Trần Quan 1 1
126 Chu Khắc
Nhượng
1
1
127 Tạ Thúc Ngao 1 1
128 Chu Đường Anh 2 1 1
129 Lưu Thường 1 1
130 Trần Ngạc 1 1
131 Lê Liêm 1 1
132 Trần Lôi 1 1
133 Đoàn Xuân Lôi 1 1
134 Đoàn Thuấn Du 2 2
135 Nguyễn Mộng
Trang
1
1
136 Lê Cảnh Tuân 12 12
137 Phạm Nhữ Dực 31 31
138 Nguyễn Phi
Khanh
58
56 1 1
139 Đặng Dung 1 1
140 Nguyễn Biểu 2 2
141 Đồng Ngạn
Hoằng
1
1
142 Tạ Thiên Huân 3 3
143 Nguyễn Bích
Châu
1
1
144 Nguyễn Bá Tĩnh 2 1 1
145 Bùi Bá Kỳ 2 1 1
146 Nguyễn Cần 1 1
147 Lý Tế Xuyên 1 1
148 Hồ Nguyên Trừng 1 1
149 Trần Thế Pháp 1 1
150 Nguyễn Trãi 392 91 258 2 1 15 25
151 Nguyễn Mông 16 12 4
169
Tuân
152 Lý Tử Tấn 14 7 2 4 1
153 Lê Thiếu Dĩnh 8 8
154 Vũ Mộng Nguyên 5 5
155 Trần Thuấn Du 2 1 1
156 Đào Công Soạn 2 2
157 Nguyễn Húc 8 7 1
158 Lý Tử Cấu 2 1 1
159 Nguyễn Phu Tiên 5 2 2 1
160 Nguyễn Thiên
Túng
4
3 1
161 Nguyễn Thiên
Tích
4
4
162 Phan Phu Tiên 2 2
163 Trình Thanh 3 3
164 Lê Thúc Hiển 1 1
165 Nguyễn Thì
Trung
2
2
166 Doãn Hành 4 4
167 Trần Khản 3 3
168 Trần Sư Mạnh 1 1
169 Nguyễn Khắc
Hiếu
1
1
170 Chu Tam Tỉnh 1 1
171 Vũ Vĩnh Trinh 1 1
172 Nguyễn Đình Mỹ 2 2
173 Nguyễn Bành 1 1
174 Chu xa 1 1
175 Nguyễn Trực 4 3 1
176 Lương Như Hộc 4 3 1
177 Nguyễn Như Đố 3 3
178 Vũ Lãm 2 2
179 Đặng Tuyên 2 2
180 Nguyễn Bá Kỷ 2 1 1
181 Phù Thúc Hoành 2 2
182 Ngô Chi Lan 6 2 4
183 Đàm Văn Lễ 8 8
184 Vương Sư Bá 5 5
185 Nguyễn Bảo 17 15 2
186 Thái Thuận 31 31
187 Vũ Quỳnh 11 3 8
188 Hoàng Đức
Lương
5
5
189 Đỗ Cận 2 2
190 Đặng Minh Bích 4 4
191 Trần Cảnh 6 6
170
192 Lê Tô 1 1
193 Nguyễn Tắc Dĩnh 1 1
194 Lê Hoằng Dục 3 3
195 Lê Đức Tông 1 1
196 Lê Tranh 3 3
197 Lê Kinh 1 1
198 Thân Nhân Trung 11 11
199 Đỗ Nhuận 7 7
200 Lương Thế Vinh 1 1
201 Ngô Hoán 1 1
202 Trình Chí Sum 1 1
203 Ngô Luân 1 1
204 Nguyễn Ích Tốn 1 1
205 Ngô Thẩm 1 1
206 Nguyễn Quang
Bật
1
1
207 Nguyễn Tôn Mậu 1 1
208 Chu Huyến 1 1
209 Khuyết danh 134 117 2 3 12
Số tác giả
được khảo sát
Số tác phẩm
khảo sát
Thơ Văn
Hán
Đường
luật
Nôm
Đường
luật
Cổ
phong
Phú
Hịch,
Cáo,
Chiếu,
Biểu
Thể
loại
khác
209 1800 1281 278 61 38 28 114
PHỤ LỤC 2
THỐNG KÊ CÁC BÀI PHÚ
TT Tác giả Tác phẩm
Chữ
Nôm
Chữ
Hán
Ghi
chú
1 Trần Nhân Tông Cư trần lạc đạo phú X
2 Lê Thánh Tông Lam Sơn Lương thuỷ phú X
3 Lý Đạo Tái Vinh Hoa Yên tự phú X
4 Trương Hán Siêu Bạch Đằng Giang phú X
171
5 Phạm Mại Thiên thu giám phú X
6 Mạc Đỉnh chi Giáo tử phú X
Ngọc tỉnh liên phú X
7 Đào Sư Tích Cảnh tinh phú X
8 Sử Hy Nhan Trảm xà kiếm phú X
9 Nguyễn Bá Thông Thiên Hưng trấn phú X
10 Nguyễn Nhữ Bật Quan Chu nhạc phú X
11 Nguyễn Pháp Cần chính lâu phú X
12 Trần Công Cẩn Bàn Khê điếu huỳnh phú X
13 Đoàn Xuân Lôi Diệp mã nhi phú X
14 Nguyễn Phi Khanh Diệp mã nhi phú X
15 Nguyễn Bá Tĩnh Nam dược quốc ngữ phú X
16 Nguyễn Trãi Chí Linh sơn phú X
17 Nguyễn Mộng Tuân Lam Sơn phú X
Nghĩa kỳ phú X
Chí Linh sơn phú X
Tổng giáp binh phú X
18 Lý Tử Tấn Chí Linh sơn phú X
Xương Giang phú X
Thọ vực phú X
Quảng cư phú X
19 Trần Thuấn Du Chí Linh sơn phú X
20 Lý Tử Cấu Tam ích hiện phú X
21 Nguyễn Phu Tiên Mỹ ngọc đãi giá phú X
22 Nguyễn Thiên Túng Kê minh phú X
23 Nguyễn Trực Xuân đài phú X
24 Lương Như Hộc Bác lãng chuỳ phú X
25 Đặng Tuyên Gương phương chư X
Tùng bách hậu điêu phú X
26 Nguyễn Bá Kỷ Tứ truyện đồ phú X
27 Nguyễn Tắc Dĩnh Lượng như long phú X
28 Khuyết danh Thang bàn phú X
Đổng hồ bút phú X
Hoàng Chung vi vạn sự
căn bản phú
X
172
* Các phụ lục này dựa trên thống kê các công trình: Thơ văn Lý – Trần, Tổng tập văn
học Việt Nam, Nguyễn Trãi toàn tập, Hợp tuyển văn học trung đại Việt Nam, Cổ tâm
bách vịnh, Tuyển thơ các vua Trần.
Số tác giả
sáng tác phú
Số tác phẩm
khảo sát
Số bài phú chữ
Nôm
Số bài phú chữ
Hán
28 38 5 33