Luận án Nhận thức mới về dân chủ xã hội chủ nghĩa và xây dựng nền dân chủ xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam thời kỳ đổi mới

HỌC VIỆN CHÍNH TRỊ QUỐC GIA HỒ CHÍ MINH NGUYỄN ANH TUẤN NHậN THứC MớI Về DÂN CHủ Xã HộI CHủ NGHĩA Và XÂY DựNG NềN DÂN CHủ Xã HộI CHủ NGHĩA ở VIệT NAM THờI Kỳ ĐổI MớI LUẬN ÁN TIẾN SĨ TRIẾT HỌC CHUYấN NGÀNH: CHỦ NGHĨA XÃ HỘI KHOA HỌC HÀ NỘI - 2016 HỌC VIỆN CHÍNH TRỊ QUỐC GIA HỒ CHÍ MINH NGUYỄN ANH TUẤN NHậN THứC MớI Về DÂN CHủ Xã HộI CHủ NGHĩA Và XÂY DựNG NềN DÂN CHủ Xã HộI CHủ NGHĩA ở VIệT NAM THờI Kỳ ĐổI MớI LUẬN ÁN TIẾN SĨ TRIẾT HỌC CHUYấN NGÀNH: CHỦ NGHĨA XÃ HỘI

pdf179 trang | Chia sẻ: huong20 | Ngày: 15/01/2022 | Lượt xem: 363 | Lượt tải: 0download
Tóm tắt tài liệu Luận án Nhận thức mới về dân chủ xã hội chủ nghĩa và xây dựng nền dân chủ xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam thời kỳ đổi mới, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
KHOA HỌC Mã số: 62 22 03 08 NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC: PGS.TS. NGUYỄN VIẾT THÔNG HÀ NỘI - 2016 LỜI CAM ĐOAN Tôi xin cam đoan đây là công trình nghiên cứu của riêng tôi. Các số liệu, kết quả nêu trong luận án là trung thực, có nguồn gốc rõ ràng và được trích dẫn đầy đủ theo quy định. Tác giả luận án Nguyễn Anh Tuấn MỤC LỤC Trang MỞ ĐẦU 1 Chương 1: TỔNG QUAN TÌNH HÌNH NGHIÊN CỨU LIÊN QUAN ĐẾN ĐỀ TÀI 6 1.1. Những công trình nghiên cứu về dân chủ và dân chủ xã hội chủ nghĩa 6 1.2. Những công trình nghiên cứu về xây dựng nền dân chủ và xây dựng nền dân chủ xã hội chủ nghĩa 12 1.3. Giá trị của những công trình tổng quan và những nội dung luận án tập trung nghiên cứu 21 Chương 2: CƠ SỞ LÝ LUẬN VÀ THỰC TIỄN CỦA NHẬN THỨC MỚI VỀ DÂN CHỦ XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VÀ XÂY DỰNG NỀN DÂN CHỦ XÃ HỘI CHỦ NGHĨA Ở VIỆT NAM THỜI KỲ ĐỔI MỚI 25 2.1. Cơ sở lý luận của nhận thức mới về dân chủ xã hội chủ nghĩa và xây dựng nền dân chủ xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam thời kỳ đổi mới 25 2.2. Cơ sở thực tiễn của nhận thức mới về dân chủ xã hội chủ nghĩa và xây dựng nền dân chủ xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam thời kỳ đổi mới 48 Chương 3: NHỮNG NỘI DUNG MỚI VÀ NHỮNG VẤN ĐỀ ĐẶT RA TRONG NHẬN THỨC VỀ DÂN CHỦ XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VÀ XÂY DỰNG NỀN DÂN CHỦ XÃ HỘI CHỦ NGHĨA Ở VIỆT NAM THỜI KỲ ĐỔI MỚI 67 3.1. Những nội dung mới trong nhận thức về dân chủ xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam thời kỳ đổi mới 67 3.2. Những nội dung mới trong nhận thức về xây dựng nền dân chủ xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam thời kỳ đổi mới 87 3.3. Những vấn đề đặt ra trong nhận thức lý luận về dân chủ xã hội chủ nghĩa và xây dựng nền dân chủ xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam thời kỳ đổi mới 101 Chương 4: MỘT SỐ QUAN ĐIỂM VÀ GIẢI PHÁP NHẰM BỔ SUNG, PHÁT TRIỂN NHẬN THỨC VỀ DÂN CHỦ XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VÀ XÂY DỰNG NỀN DÂN CHỦ XÃ HỘI CHỦ NGHĨA Ở VIỆT NAM HIỆN NAY 115 4.1. Một số quan điểm nhằm bổ sung, phát triển nhận thức về dân chủ xã hội chủ nghĩa và xây dựng nền dân chủ xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam hiện nay 115 4.2. Các nhóm giải pháp nhằm bổ sung, phát triển nhận thức về dân chủ xã hội chủ nghĩa và xây dựng nền dân chủ xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam hiện nay 126 KẾT LUẬN 149 DANH MỤC CÔNG TRÌNH ĐÃ CÔNG BỐ CỦA TÁC GIẢ LIÊN QUAN ĐẾN LUẬN ÁN 151 DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO 152 PHỤ LỤC 169 DANH MỤC CÁC CHỮ VIẾT TẮT CCVS : Chuyên chính vô sản CNH, HĐH : Công nghiệp hóa, hiện đại hóa CNTB : Chủ nghĩa tư bản CNXH : Chủ nghĩa xã hội DCTS : Dân chủ tư sản LLSX : Lực lượng sản xuất XHCN : Xã hội chủ nghĩa 1 MỞ ĐẦU 1. Tính cấp thiết của đề tài Theo quy luật tiến hóa của lịch sử, mọi quốc gia, dân tộc nhất định sẽ đi tới chủ nghĩa xã hội và chủ nghĩa cộng sản. Cách mạng Tháng Mười Nga thành công, giai cấp công nhân và nhân dân lao động giành chính quyền đã đánh dấu sự ra đời nền dân chủ xã hội chủ nghĩa (XHCN). Theo con đường Cách mạng Tháng Mười Nga, dân chủ XHCN chính thức trở thành mục tiêu, nhiệm vụ lịch sử của cách mạng Việt Nam kể từ khi có Đảng Cộng sản Việt Nam lãnh đạo. Khác với các nền dân chủ đã tồn tại trước đó trong lịch sử, nền dân chủ XHCN không thể ra đời, phát triển một cách tự phát. Nó không thể tự nhiên xuất hiện và hoàn thiện ngay sau sự kiện giai cấp công nhân và nhân dân lao động giành được chính quyền. Xây dựng nền dân chủ XHCN là nhiệm vụ lịch sử mới mẻ, chưa có tiền lệ. Những thăng trầm của chủ nghĩa xã hội (CNXH) hiện thực ở các nước trên thế giới trong gần 100 năm qua đã cho thấy rõ tính dích dắc, phức tạp của tiến trình xây dựng nền dân chủ XHCN. Kinh nghiệm lịch sử cho thấy, sức sống thực tế của dân chủ XHCN trước hết phụ thuộc vào nhận thức và hành động của đảng cộng sản cầm quyền. Ở nước ta, từ năm 1986, bằng việc khởi xướng và lãnh đạo công cuộc đổi mới, Đảng Cộng sản Việt Nam tiếp tục thể hiện rõ trí tuệ, bản lĩnh và trách nhiệm của của mình trước những vấn đề hệ trọng của Tổ quốc, nhân dân. Việc xây dựng nền dân chủ XHCN trở thành một trong những mối quan tâm thường trực trong nhận thức và hành động của Đảng. Theo đó, dân chủ hóa các lĩnh vực đời sống xã hội luôn được Đảng ta khẳng định là một trong những mục tiêu, nhiệm vụ cơ bản, trọng tâm của công cuộc đổi mới. Tư duy, nhận thức mới của Đảng về dân chủ XHCN chỉ đạo quá trình dân chủ hóa đời sống xã hội; và thực tiễn dân chủ hóa lại là căn cứ, cơ sở để kiểm nghiệm, bổ sung nhận thức về dân chủ XHCN và nhận thức về xây dựng nền dân chủ XHCN. Dưới sự lãnh đạo của Đảng, theo tinh thần dân chủ, đổi mới, 30 năm qua đất nước ta đã đạt được những thành tựu to lớn, có ý nghĩa lịch sử. Trong đó, thành tựu về xây dựng và phát huy dân chủ XHCN có giá trị và ý nghĩa đặc biệt. Quyền lực của nhân dân, lợi ích của nhân dân, vai trò của nhân dân, tính tích cực chính trị của nhân dân ngày càng được thể hiện và phát huy mạnh mẽ. Thực hành dân chủ, phát huy dân chủ trở thành nội dung, phương thức tổ chức, hoạt động của cả hệ thống chính trị và 2 của mỗi tổ chức thành viên. Dân chủ XHCN là kết quả của đổi mới vừa là động lực thúc đẩy đổi mới. Nhận thức lý luận về dân chủ XHCN đã có nhiều điểm mới, thực tiễn xây dựng dân chủ XHCN đã có những đổi thay có tính bước ngoặt. Tuy nhiên, những kết quả, thành tựu nói trên của quá trình nhận thức và thực hiện dân chủ XHCN ở nước ta mới chỉ là bước đầu. Trong 30 năm qua, trên nhiều khía cạnh, quá trình nhận thức về dân chủ XHCN và xây dựng nền dân chủ XHCN còn nhiều thiếu sót, hạn chế và nảy sinh không ít vấn đề gai góc, phức tạp. Nhiều khía cạnh nội dung về dân chủ XHCN và xây dựng nền dân chủ XHCN chưa được nhận thức đầy đủ, thể hiện sự phiến diện, giáo điều, máy móc dẫn đến thiếu thống nhất trong hành động, gây lúng túng trong thực thi. Đó là vấn đề thực hiện dân chủ XHCN trong điều kiện một đảng cộng sản cầm quyền; vấn đề đảm bảo quyền lực của nhân dân, thực hiện công bằng, bình đẳng xã hội, xây dựng con người và phát triển văn hóa Việt Nam trong điều kiện phát triển kinh tế thị trường và hội nhập quốc tế; vấn đề xây dựng Nhà nước pháp quyền XHCN của dân, do dân, vì dân; vấn đề kiểm soát quyền lực, chống suy thoái, quan liêu, tham nhũng Những vấn đề này nếu không được nhận thức và giải quyết đúng đắn, kịp thời thì sẽ là lực cản lớn cho sự phát triển đất nước, sẽ là nguyên nhân trực tiếp gây ra những bất ổn về chính trị - xã hội, đe dọa đến sự thành bại của công cuộc đổi mới, sự tồn vong của chế độ XHCN và nền dân chủ XHCN ở nước ta. Thực tế đang đòi hỏi chúng ta phải có những tổng kết công phu trên phương diện lý luận và thực tiễn về dân chủ XHCN, từ đó tiếp tục làm sáng tỏ những vấn đề về dân chủ XHCN và xây dựng nền dân chủ XHCN ở nước ta trong điều kiện mới. Với mong muốn góp phần từng bước giải quyết những công việc phức tạp và hệ trọng nói trên, tác giả lựa chọn vấn đề “Nhận thức mới về dân chủ xã hội chủ nghĩa và xây dựng nền dân chủ xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam thời kỳ đổi mới” làm đề tài luận án Tiến sĩ Triết học, chuyên ngành Chủ nghĩa xã hội khoa học. 2. Mục đích, nhiệm vụ nghiên cứu của luận án 2.1. Mục đích Từ việc phân tích cơ sở lý luận, cơ sở thực tiễn; đánh giá, phân tích những nội dung mới và những vấn đề đặt ra trong nhận thức về dân chủ XHCN và xây dựng nền dân chủ XHCN ở Việt Nam qua 30 năm đổi mới, luận án đề xuất những quan điểm và 3 giải pháp nhằm tiếp tục bổ sung, phát triển nhận thức về dân chủ XHCN và xây dựng nền dân chủ XHCN ở nước ta hiện nay. 2.2. Nhiệm vụ Để thực hiện mục đích trên, luận án có nhiệm vụ: - Trình bày tổng quan tình hình nghiên cứu trong và ngoài nước về dân chủ, dân chủ XHCN, xây dựng nền dân chủ, xây dựng nền dân chủ XHCN; từ đó, xác định sự cần thiết và các nội dung luận án tập trung nghiên cứu. - Phân tích cơ sở lý luận, thực tiễn của nhận thức về dân chủ XHCN và xây dựng nền dân chủ XHCN ở Việt Nam trong thời kỳ đổi mới. - Phân tích, làm rõ những nội dung mới và những vấn đề đặt ra trong nhận thức về dân chủ XHCN và xây dựng nền dân chủ XHCN ở nước ta trong thời kỳ đổi mới. - Đề xuất một số quan điểm, giải pháp tiếp tục bổ sung, phát triển nhận thức về dân chủ XHCN và xây dựng nền dân chủ XHCN ở nước ta hiện nay. 3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu của luận án 3.1. Đối tượng Nghiên cứu làm rõ những nhận thức mới về dân chủ XHCN và xây dựng nền dân chủ XHCN ở Việt Nam trong thời kỳ đổi mới. 3.2. Phạm vi nghiên cứu Nghiên cứu nhận thức mới về dân chủ XHCN và xây dựng nền dân chủ XHCN ở Việt Nam trong thời kỳ đổi mới. Đây là vấn đề rất rộng lớn, luận án chỉ tập trung nghiên cứu những nội dung mới trong nhận thức của Đảng về dân chủ XHCN và xây dựng nền dân chủ XHCN ở nước ta từ năm 1986 đến nay thể hiện qua các văn kiện của Đảng, trước hết là văn kiện Đại hội Đảng và văn kiện Hội nghị Trung ương Đảng từ năm 1986 đến nay. 4. Cơ sở lý luận, thực tiễn và phương pháp nghiên cứu của luận án 4.1. Cơ sở lý luận Luận án được thực hiện dựa trên cơ sở lý luận về dân chủ XHCN của chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, các văn kiện của Đảng, Nhà nước về dân chủ, về hệ thống chính trị Đồng thời, luận án cũng kế thừa có chọn lọc các công trình và các bài viết có liên quan của các tác giả khác đã được công bố ở trong và ngoài nước về dân chủ và dân chủ XHCN. 4 4.2. Cơ sở thực tiễn Dựa vào kết quả quá trình thực hiện sự nghiệp đổi mới toàn diện của đất nước từ năm 1986 đến nay. Trong đó, chú trọng thực tiễn hoạt động lãnh đạo của Đảng, sự quản lý của Nhà nước và sự vận động của thực tiễn dân chủ hóa đời sống xã hội ở nước ta trong 30 năm qua. Đồng thời, trong chừng mực nhất định, có liên hệ với thực tiễn dân chủ hóa của các nước trên thế giới cũng như thực tiễn thực thi dân chủ ở nước ta thời kỳ trước đổi mới. 4.3. Phương pháp nghiên cứu Trên cơ sở phương pháp luận của chủ nghĩa duy vật biện chứng và duy vật lịch sử, luận án sử dụng các phương pháp nghiên cứu như: phân tích - tổng hợp, hệ thống - cấu trúc, logic - lịch sử, nghiên cứu văn bản, so sánh đối chiếu 5. Đóng góp mới về khoa học của luận án - Luận án làm rõ nội hàm khái niệm dân chủ, nền dân chủ, dân chủ XHCN, xây dựng nền dân chủ, xây dựng nền dân chủ XHCN; làm rõ cơ sở lý luận, cơ sở thực tiễn của những nhận thức mới về dân chủ XHCN và xây dựng nền dân chủ XHCN ở Việt Nam thời kỳ đổi mới. - Luận án hệ thống hóa, phân tích, làm rõ những nhận thức mới của Đảng ta về dân chủ XHCN và xây dựng nền dân chủ XHCN ở Việt Nam thời kỳ đổi mới trong sự so sánh, đối chiếu với quan điểm của Đảng thời kỳ trước đổi mới cũng như quan điểm của chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh về dân chủ XHCN (theo 5 nội dung) và xây dựng nền dân chủ XHCN (theo 4 nội dung). - Luận án phân tích những vấn đề đặt ra và đề xuất các quan điểm, giải pháp chủ yếu nhằm tiếp tục bổ sung, phát triển nhận thức về dân chủ XHCN và xây dựng nền dân chủ XHCN ở Việt Nam trong điều kiện hiện nay. 6. Ý nghĩa thực tiễn của của luận án - Kết quả nghiên cứu góp phần để công tác tư tưởng, lý luận của Đảng “tự ý thức về mình”, không ngừng vươn lên phản ánh đúng đắn, sâu sắc quy luật, tính quy luật của quá trình dân chủ hóa XHCN ở Việt Nam trong thời kỳ quá độ lên CNXH. Qua đó, góp phần để công tác tư tưởng, lý luận của Đảng thực hiện tốt hơn vai trò “mở đường” đối với thực tiễn xây dựng nền dân chủ XHCN ở nước ta trong điều kiện mới. 5 - Kết quả nghiên cứu góp phần tạo sự thống nhất về tư tưởng và hành động để toàn Đảng, toàn dân ta thực hiện tốt hơn việc phát huy dân chủ XHCN cũng như phê phán các quan điểm sai trái về dân chủ và dân chủ XHCN. - Luận án có thể dùng làm tài liệu tham khảo cho việc nghiên cứu, giảng dạy, học tập các nội dung liên quan đến dân chủ và hệ thống chính trị trong Chủ nghĩa xã hội khoa học và các chuyên ngành khoa học khác. 7. Kết cấu của luận án Ngoài phần mở đầu, kết luận, danh mục công trình đã công bố của tác giả liên quan đến luận án, danh mục tài liệu tham khảo và phụ lục, luận án gồm 4 chương, 10 tiết. 6 Chương 1 TỔNG QUAN TÌNH HÌNH NGHIÊN CỨU LIÊN QUAN ĐẾN ĐỀ TÀI 1.1. NHỮNG CÔNG TRÌNH NGHIÊN CỨU VỀ DÂN CHỦ VÀ DÂN CHỦ XÃ HỘI CHỦ NGHĨA 1.1.1. Các nghiên cứu trên thế giới về dân chủ và dân chủ xã hội chủ nghĩa Có thể kể đến một số tác phẩm đã được dịch và lưu hành ở nước ta như: David Held, trong cuốn Các mô hình quản lý nhà nước hiện đại [67] đã trình bày, phân tích các mô hình dân chủ và những biến thể của nó. Qua đó, thấy rằng, dân chủ có một lịch sử phức tạp với nhiều quan niệm khác nhau, thậm chí trái ngược nhau, và mô hình dân chủ là rất đa dạng. Tác giả viết: “Chúng ta không thể hài lòng với những mô hình dân chủ hiện hữu. Xuyên suốt tác phẩm này chúng ta đã nhận thấy lí do vững chắc để không chấp nhận bất cứ mô hình nào, dù đó là mô hình cổ điển hay hiện đại” [67, tr.438]. N.M. Voskresenskaia, N.B. Davletshina trong cuốn Chế độ dân chủ, nhà nước và xã hội [203] trình bày nhiều vấn đề về dân chủ, trong đó có nêu, phân tích các quan niệm khác nhau về dân chủ; giá trị dân chủ; cơ chế dân chủ; thể chế dân chủ, cấu trúc của chế độ dân chủ. Các tác giả cho rằng, dân chủ XHCN theo mô hình Xôviết chỉ là một chế độ toàn trị, xa lạ với nguyên tắc, giá trị dân chủ nên nó đã thành quá khứ của nước Nga. Tác phẩm Dân chủ trực tiếp: sổ tay IDEA quốc tế [200] của Viện quốc tế về dân chủ và hỗ trợ bầu cử trình bày tổng quan về việc vận dụng dân chủ trực tiếp, nhất là trưng cầu ý dân, sáng kiến công dân, sáng kiến chương trình nghị sự và bãi miễn được thực hiện ở các vùng trên thế giới. Ở đây, dân chủ được tiếp cận theo nghĩa là chế độ chính trị, hệ thống tổ chức quyền lực và cơ chế, quy trình vận hành hệ thống dân chủ. Theo đó, dân chủ trực tiếp được xem là một cơ chế độc đáo khuyến khích sự tham gia của công dân và tự do ngôn luận để thúc đẩy xây dựng nền dân chủ trong các xã hội đang phát triển. O.T.Bogomolov trong bài Dân chủ và tiến bộ đối với sự phát triển kinh tế - xã hội [18] đã trình bày các nguyên tắc nền tảng của dân chủ; cuộc khủng hoảng của dân chủ Phương Tây; mối quan hệ giữa dân chủ và phát triển ở các nước trên thế giới và ở Nga. Tác giả cho rằng, chính ảnh hưởng của Liên Xô và những thành tựu 7 mà Liên Xô đạt được trong lĩnh vực xã hội đã thúc đẩy sự ra đời của mô hình nhà nước phúc lợi. Theo đó, ở Nga hiện nay, việc xây dựng nhà nước phúc lợi theo mô hình Bắc Âu là phù hợp với tâm lý của nhiều người và phù hợp với kinh nghiệm lịch sử của thời kỳ XHCN. Bài phát biểu tại lễ kỷ niệm 30 năm cải cách mở cửa của Hồ Cẩm Đào trong Tài liệu tham khảo phục vụ nghiên cứu tổng kết 30 năm đổi mới [131] khẳng định:“Nước Trung Quốc là nhà nước XHCN chuyên chính dân chủ nhân dân, lấy liên minh công nông làm nền tảng, do giai cấp công nhân lãnh đạo. Dân chủ nhân dân là sinh mệnh của XHCN, nhân dân làm chủ là hạt nhân và bản chất của chính trị dân chủ XHCN. Không có dân chủ là không có XHCN, cũng là không có hiện đại hóa XHCN” [131, tr.299-300]. Luận án Tiến sĩ Triết học Vấn đề xây dựng chế độ dân chủ nhân dân ở Lào hiện nay [90] của Khăm Phon Bun Na Di đi sâu luận giải quá trình xây dựng, phát triển chế độ dân chủ nhân dân ở Lào: lịch sử ra đời, phát triển; quan điểm đổi mới của Đảng Nhân dân Cách mạng Lào về nội dung kinh tế, chính trị, văn hóa, xã hội của chế độ dân chủ nhân dân; thực trạng và giải pháp xây dựng chế độ dân chủ nhân dân ở Lào xét trên các nội dung kinh tế, chính trị, văn hóa, xã hội và hoạt động đối ngoại. 1.1.2. Các nghiên cứu ở Việt Nam về dân chủ và dân chủ xã hội chủ nghĩa Thái Ninh, Hoàng Chí Bảo trong cuốn Dân chủ tư sản và dân chủ xã hội chủ nghĩa [132], đã phân tích những quan điểm, tư tưởng cơ bản của chủ nghĩa Mác - Lênin về dân chủ, lịch sử ra đời, phát triển, thực trạng, bản chất, khuyết tật của dân chủ tư sản (DCTS); bản chất, sự hình thành và những thách thức của dân chủ XHCN. Ở đây, dân chủ XHCN được tiếp cận toàn diện, hệ thống với 5 khía cạnh: hình thức tổ chức xã hội, tổ chức nhà nước; giá trị xã hội; điều kiện để hình thành nhân cách trung thực, sáng tạo; cơ chế, nguyên tắc lãnh đạo, quản lý xã hội (tập trung dân chủ); động lực, bản chất tốt đẹp của CNXH. Tác giả Hoàng Chí Bảo trong cuốn Dân chủ và dân chủ cơ sở ở nông thôn trong tiến trình đổi mới [4] cho rằng, nội dung dân chủ và dân chủ XHCN có thể tiếp cận theo những góc độ khác nhau. Ví dụ: tiếp cận theo theo lĩnh vực đời sống xã hội có nội dung chính trị, kinh tế, tư tưởng, văn hóa; tiếp cận từ các lớp quan hệ và cấu trúc xã hội sẽ có dân chủ của cá nhân (lợi ích, quyền hạn gắn với trách nhiệm, nghĩa vụ, sự gắn 8 liền giữa ý thức dân chủ với năng lực dân chủ, thực hành dân chủ) và dân chủ của xã hội (của tập thể, của cộng đồng, tầng lớp, giai cấp đến của toàn thể xã hội, dân tộc); tiếp cận theo các nhóm chủ thể, các quan hệ nghề nghiệp: dân chủ của công nhân, nông dân, trí thức khoa học và sáng tạo văn hóa, của nghệ sĩ...; tiếp cận theo góc độ tổ chức, bộ máy, thể chế hoạt động có dân chủ trong Đảng, trong Nhà nước, trong các tổ chức đoàn thể cấu thành hệ thống chính trị [4, tr.49-50]. Cuốn Dân chủ với phát triển cộng đồng [130] của Trần Quang Nhiếp trình bày, phân tích nhiều vấn đề lý luận, thực tiễn về dân chủ và dân chủ ở cơ sở: tư tưởng Hồ Chí Minh về dân chủ; vai trò của dân chủ đối với phát triển cộng đồng; những thuận lợi, khó khăn, thành tựu, hạn chế trong thực hiện dân chủ cơ sở ở nước ta; vấn đề đặt ra và các giải pháp phát huy quyền làm chủ của nhân dân ở nước ta trong tiến trình đổi mới. Cuốn Dân chủ, độc tài và phát triển [151] của Hồ Sĩ Quý nghiên cứu nhiều vấn đề xung quanh mối quan hệ giữa dân chủ, độc tài và phát triển. Tác giả cho rằng, ngoài quan niệm cơ bản: “Dân chủ là một hình thức tổ chức nhà nước mà trong đó, quyền lực thuộc về nhân dân, phục vụ nhân dân và vì quyền lợi của nhân dân” còn có nhiều quan niệm về những khía cạnh khác nhau của dân chủ nhưng đôi khi người ta cũng xem khía cạnh này là định nghĩa khái niệm dân chủ [151, tr.37-38]. Cuốn sách khẳng định: sự vận động phát triển của các nền dân chủ luôn phải trải qua những bước quanh co và không tránh khỏi những hạn chế, khiếm khuyết, nhưng “dân chủ nếu có khiếm khuyết, nó sẽ được sửa chữa bằng một trình độ dân chủ cao hơn” [151, tr.256]. Cuốn Dân chủ và tập trung dân chủ - Lý luận và thực tiễn [135] của Nguyễn Tiến Phồn và cuốn Nguyên tắc tập trung dân chủ trong công tác xây dựng Đảng hiện nay [181] do Cao Văn Thống sưu tầm và biên soạn bàn những vấn đề lý luận và thực tiễn về dân chủ, dân chủ XHCN, nguyên tắc tập trung dân chủ trong tổ chức, hoạt động của hệ thống chính trị XHCN. Theo đó, tập trung dân chủ là cơ chế, nguyên tắc cốt tử trong tổ chức, vận hành của Đảng, Nhà nước và của nền dân chủ XHCN. Lê Hữu Nghĩa, Hoàng Chí Bảo và Bùi Đình Bôn (đồng chủ biên) trong Đổi mới quan hệ giữa Đảng Nhà nước và các tổ chức chính tri - xã hội trong hệ thống chính trị ở Việt Nam [122] khẳng định: “Đổi mới, hoàn thiện các quan hệ giữa Đảng, Nhà nước và các tổ chức chính trị - xã hội liên quan tới nội tại từng tổ chức và hệ thống các tổ 9 chức; đồng thời liên quan tới quan hệ giữa các tổ chức này với nhân dân và xã hội mà mục tiêu sâu xa là cùng hướng vào phát triển dân chủ, phát huy quyền làm chủ của dân để phục vụ dân” [122, tr.472]. Cuốn Nhìn lại quá trình đổi mới tư duy lý luận của Đảng 1986 - 2005, (2 tập) [156, 157] do Tô Huy Rứa, Hoàng Chí Bảo, Trần Khắc Việt và Lê Ngọc Tòng (Đồng chủ biên) là công trình tổng kết quá trình đổi mới tư duy lý luận của Đảng từ năm 1986 đến năm 2005 trên nhiều lĩnh vực của đời sống xã hội. Trong đó có một số chuyên đề nghiên cứu những nội dung có liên quan đến dân chủ XHCN và xây dựng nền dân chủ XHCN. Ví dụ: nghiên cứu về quá trình đổi mới tư duy, phát triển nhận thức của Đảng ta về hệ thống chính trị; về Nhà nước pháp quyền XHCN; về bản chất giai cấp, tính nhân dân và tính dân tộc của Nhà nước ta; về nguyên tắc tập trung dân chủ; về dân chủ trong Đảng; về quyền con người; về văn hóa; về phát huy dân chủ trong điều kiện xây dựng Nhà nước pháp quyền, một đảng cầm quyền... Cuốn Một số vấn đề lý luận và thực tiễn ở Việt Nam thời kỳ đổi mới [204] của Đức Vượng; bài Nhận thức của Đảng Cộng sản Việt Nam về dân chủ và dân chủ xã hội chủ nghĩa của Nguyễn Quốc Phẩm trong cuốn Nhận thức về chủ nghĩa xã hội và con đường đi lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam [196] đã trình bày, phân tích quá trình đổi mới, phát triển nhận thức lý luận của Đảng ta về dân chủ và dân chủ XHCN. Qua đó, nêu lên những nhận thức mới của Đảng về mục tiêu, đặc trưng và các nội dung của dân chủ XHCN ở Việt Nam. Bài Tổng quan về dân chủ và cơ chế thực hiện dân chủ xã hội chủ nghĩa ở nước ta: quan điểm, lý luận và phương pháp nghiên cứu [5] của Hoàng Chí Bảo; Một cách tiếp cận khái niệm dân chủ [144] của Nguyễn Đăng Quang bàn về dân chủ với những phương pháp tiếp cận khác nhau. Tiếp cận từ những cơ sở hình thành dân chủ có: cơ sở kinh tế của dân chủ và dân chủ trong kinh tế; cơ sở chính trị của dân chủ và dân chủ trong chính trị; cơ sở văn hóa, xã hội và dân chủ trong lĩnh vực văn hóa, xã hội. Tiếp cận từ các nội dung cơ bản của dân chủ: theo nội dung chính trị, dân chủ là một hình thái nhà nước; theo nội dung văn minh, dân chủ là sản phẩm của nền văn minh; theo nội dung nhân đạo, dân chủ là phương thức tổ chức xã hội hiện đại... Các tác giả Lê Minh Quân trong Dân chủ và dân chủ hóa từ một số cách tiếp cận cơ bản [141]; Cao Đức Thái trong Dân chủ trong xu thế thời đại và nền dân chủ của 10 chúng ta [172]; Nguyễn Trọng Chuẩn trong Một số vấn đề về dân chủ [20] phân tích các vấn đề về dân chủ, dân chủ hóa. Các tác giả khẳng định: dân chủ có nhiều cách tiếp cận: từ góc độ giá trị, góc độ thể chế, góc độ phương pháp, phong cách. Dân chủ hóa là xu thế khách quan của thời đại; nền dân chủ của Việt Nam đã và đang phát triển đúng hướng, phù hợp với xu thế chung của thời đại ngày nay. Bài Di chúc Hồ Chí Minh - vấn đề dân chủ và “thực hành dân chủ rộng rãi” với bối cảnh hiện nay [174] và Dân chủ thật sự là vấn đề trung tâm, cốt tử của chủ nghĩa xã hội [175] của Hồ Bá Thâm khẳng định giá trị tư tưởng dân chủ của Hồ Chí Minh thể hiện trong Di chúc; khẳng định dân chủ là vấn đề trung tâm, cốt tử của CNXH; nêu lên nhiều vấn đề gai góc, phức tạp đặt ra cần giải quyết về dân chủ ở Việt Nam cả trên phương diện thực tiễn và lý luận. Tác giả Vũ Văn Viên trong Nhà nước pháp quyền công cụ để thực hiện dân chủ [194]; Lương Đình Hải trong Xây dựng Nhà nước pháp quyền và vấn đề dân chủ hóa xã hội ở nước ta hiện nay [66] phân tích sự gắn bó mật thiết giữa pháp luật và dân chủ trong quá trình phát triển xã hội. Nhà nước pháp quyền tư sản là hình thức tổ chức quyền lực để thực hiện DCTS. Nhà nước pháp quyền XHCN là công cụ quan trọng để thực hiện dân chủ XHCN. Xây dựng, phát huy nền dân chủ XHCN ở Việt Nam gắn liền với việc đẩy mạnh xây dựng, hoàn thiện Nhà nước pháp quyền XHCN. Bài Mô hình tổ chức nền dân chủ [30] của Hà Đăng; Những nội dung mới về nền dân chủ xã hội chủ nghĩa [160] của Phan Xuân Sơn; Dân chủ xã hội chủ nghĩa và thực hiện dân chủ xã hội chủ nghĩa theo tinh thần Đại hội XI của Đảng [187] của Trương Minh Tuấn; Những nhận thức lý luận mới về dân chủ qua 20 năm đổi mới và trong văn kiện Đại hội X của Đảng của Hoàng Chí Bảo trong Kiên định mục tiêu và con đường đi lên chủ nghĩa xã hội ở nước ta [80]; Vấn đề dân chủ trong các văn kiện Đại hội XI của Đảng [26] của Vũ Hoàng Công phân tích các quan điểm mới của Đảng về dân chủ XHCN như: mô hình dân chủ; dân chủ là mục tiêu, động lực phát triển; hệ thống chính trị XHCN với cơ chế Đảng lãnh đạo, Nhà nước quản lý, nhân dân làm chủ; nhận thức về Nhà nước pháp quyền XHCN, thực hành cơ chế kiểm soát quyền lực nhà nước Tác giả Nguyễn Viết Thông trong bài Quan điểm của Đảng Cộng sản Việt Nam về dân chủ và thực hành dân chủ trước và từ khi đổi mới đến nay [180] đã hệ thống hóa quan điểm của Đảng Cộng sản Việt Nam về dân chủ và thực hành dân chủ trong 11 giai đoạn trước và từ khi đổi mới đến nay; đồng thời phân tích và khẳng định rằng, so với thời kỳ trước đổi mới, từ Đại hội VI đến nay, nhận thức của Đảng về dân chủ và thực hành dân chủ ngày càng sâu sắc hơn, đúng đắn hơn và nó được thể chế hóa bằng Hiến pháp, pháp luật. Bài Dân chủ và hệ thống chính trị xã hội chủ nghĩa trong Chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh nền tảng tư tưởng của Đảng ta [76] và bài Dân chủ là bản chất của chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam trong Kiên định mục tiêu và con đường đi lên chủ nghĩa xã hội ở nước ta [80] của Phạm Ngọc Quang bàn về dân chủ XHCN. Từ việc phân tích thành tựu dân chủ trên các lĩnh vực đời sống xã hội ở nước ta trong thời kỳ đổi mới tác giả khẳng định: dân chủ là bản chất của CNXH ở Việt Nam. Tuy nhiên, “bản chất của sự vật nói chung, của một chế độ xã hội nói riêng, không phải nhất thành bất biến, có sự phát triển chín muồi ngay khi chế độ đó mới ra đời. Trái lại, bản chất của sự vật luôn trải qua một quá trình phát triển, nó được chín muồi dần dần tùy thuộc vào sự phát triển và hoàn thiện của các bộ phận cấu trành, các nhân tố thúc đẩy” [80, tr.343]. Ở Việt Nam, đến nay, dân chủ XHCN mới đang đi những bước đầu trên con đường tạo lập nó [76, tr.476]. Kỷ yếu đề tài Những quan điểm cơ bản của C.Mác, Ph.Ăngghen và V.I.Lênin về dân chủ xã hội chủ nghĩa [188] do Nguyễn Thanh Tuấn làm chủ nhiệm trình bày những quan điểm cơ bản của C.Mác, Ph.Ăngghen và V.I.Lênin về dân chủ XHCN; qua đó, theo tinh thần đổi mới, phân tích việc vận dụng những quan điểm đó trong quá trình xây dựng nền dân chủ XHCN ở nước ta. Báo cáo Đẩy mạnh chiều sâu dân chủ và tăng cường sự tham gia của người dân ở Việt Nam [198] của Viện Khoa học xã hội Việt Nam - Chương trình phát triển Liên hợp quốc trình bày kết quả nghiên cứu chiều sâu về dân chủ tham gia, dân chủ đại diện ở Việt Nam, đánh giá kết quả, thành tựu, hạn chế và nêu nhiều gợi ý, khuyến nghị chính sách quý báu. Báo cáo kết luận: Việt Nam cần tận dụng thế mạnh riêng của mình... để xây dựng những cấu trúc mới, không cần phải nhập khẩu một mô hình hoàn toàn xa lạ của nước ngoài [198, tr.44]. Báo cáo đề tài Nghiên cứu, tổng kết làm sáng tỏ những vấn đề lý luận xây dựng dân chủ xã hội chủ nghĩa trong công cuộc đổi mới đất nước [168] do Đỗ Thị Thạch làm chủ nhiệm trình bày cơ sở lý luận, thực tiễn; thực trạng nhận thức, xây 12 dựng dân chủ XHCN trong công cuộc đổi mới; những vấn đề đặt ra; xu hướng phát triển dân chủ và các giải pháp góp phần làm sáng tỏ những vấn đề lý luận xây dựng dân chủ XHCN ở Việt Nam hiện nay. Luận án Tiến sĩ Luật học: Mối quan hệ giữa dân chủ và pháp luật trong điều kiện Việt Nam hiện nay [91] của Đỗ Minh Khôi nghiên cứu dân chủ với tư cách là dân chủ chính trị trong một xã hội chính trị gắn liền với nhà nước và các thể chế của nó, nổi bật ở thể chế pháp luật, các tác giả luận giải về mối quan hệ giữa dân chủ và văn hóa pháp luật, qua đó đưa ra các giải pháp quan trọng nhằm bảo đảm dân chủ và nâng cao văn hóa pháp luật ở nước ta hiện nay. 1.2. NHỮNG CÔNG TRÌNH NGHIÊN CỨU VỀ XÂY DỰNG NỀN DÂN CHỦ VÀ XÂY DỰNG NỀN DÂN CHỦ XÃ HỘI CHỦ NGHĨA 1.2.1. Các nghiên cứu trên thế giới về xây dựng nền dân chủ và xây dựng nền dân chủ xã hội chủ nghĩa Bài Chủ nghĩa xã hội và dân chủ của Alecxei Prigarin trong Những tranh luận mới của các học giả Nga về chủ nghĩa xã hội [166] phân tích nguyên nhân thất bại của dân chủ XHCN ở Liên Xô; khẳng định dân chủ XHCN vẫn là con đường phát triển tất yếu của nhân loại. Xây dựng dân chủ XHCN là xây dựng các điều kiện bảo đảm để quần chúng được biết tất cả, được thông tin đầy đủ về các lĩnh vực đời sống xã hội; điều kiện bảo đảm để từng cá nhân và tổ chức xã hội có thể bày tỏ công khai và tự do ý kiến của mình về mọi việc; điều kiện để mọi người có khả năng tác động đến đời sống của tập thể lao động của họ cũng như đời sống của địa phương và đất nước [166, tr.26]. Bài Thành tựu 30 năm công tác xây dựng Đảng của Tập Cận Bình trong Tài liệu tham khảo phục vụ nghiên cứu tổng kết 30 năm đổi mới [131] khẳng định: dân chủ trong Đảng là tính mạng của Đảng, không có dân chủ là không có chủ nghĩa xã hội, không có hiện đại hóa XHCN phải tăng cường dân chủ trong Đảng để thúc đẩy dân chủ trong toàn xã hội, lấy hài hòa trong nội bộ Đảng để thúc đẩy hài hòa trong toàn xã hội [131, tr.457]. Bài Đảng cộng sản các nước trên thế giới tận dụng như thế nào sự tham dự dân chủ để thắt chặt quan hệ giữa đảng với quần chúng [92] của Thái Thượng Kim bàn về các biện pháp bảo đảm dân chủ. Từ kinh nghiệm của các đảng, nhất là kinh nghiệm của Đảng Cộng sản Trung Quốc, Đảng Cộng sản Cuba, Đảng Cộng sản 13 Việt Nam, tác giả khẳng định giải pháp thực hiện dân chủ trong đảng và thắt chặt quan hệ giữa đảng với quần chúng, đó là: lấy dân chủ trong đảng để thúc đẩy dân chủ trong xã hội, thực hiện nguyên tắc nhân dân làm chủ, tận dụng kênh dân chủ để biểu đạt, lắng nghe nguyện vọng quần chúng và thống nhất lợi ích xã hội. Cuốn Trung Quốc đối mặt với những điểm nóng lý luận [28] của Cục Lý luận - Ban Tuyên truyền Trung ương Đảng Cộng sản Trung Quốc cho rằng, nhận thức về CNXH dân chủ; về dân chủ, tự do, nhân quyền phương Tây; về "dân chủ kiểu Trung Quốc” là một trong những điểm nóng về lý luận. Cuốn sách khẳng định: Phát triển chính trị XHCN đặc sắc Trung Quốc là con đường duy nhất đúng đắn phù hợp với tình hình và thực tế Trung Quốc mà nhân dân Trung Quốc đã chọn dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản Trung Quốc để phát triển nền chính trị dân chủ xã hội chủ nghĩa [28, tr.161]. Cuốn Dân chủ ở cấp địa phương: sổ tay IDEA quốc tế [200] của Viện quốc tế về dân chủ và hỗ trợ bầu cử trình bày các thiết kế hệ thống, các phương thức, quy trình thực tiễn cho việc củng cố, phát triển dân chủ ở cấp địa phương đối với cả hình thức dân chủ đại diện và dân chủ trực tiếp. Dân chủ ở cấp địa phương là cấp gần ...ng xứng đáng, không còn có khả năng thực thi lợi ích cộng đồng thì bị cộng đồng phế bỏ (bãi miễn), thay thế. Ở đây, nguồn gốc quyền lực là từ nhu cầu khách quan của hoạt động sản xuất ngày càng có tính xã hội hoá. Chủ thể quyền lực là mọi thành viên trong cộng đồng xã hội, là toàn thể nhân dân. Quyền lực ấy gọi là quyền lực công, quyền lực của cộng đồng xã hội. 26 Những người nắm quyền lực công, lúc đầu có thể là những người có ưu thế về sức khoẻ, trí tuệ, tuổi tác, kinh nghiệm, đạo đức... Khi xã hội phân hoá giai cấp thì giai cấp nắm tư liệu sản xuất trở thành chủ thể quyền lực công, sử dụng quyền lực ấy chủ yếu và trước hết để bảo đảm lợi ích của giai cấp mình. Đó là lúc giai cấp chủ nô lập ra nhà nước dân chủ chủ nô của mình (nhà nước Aten ở Hy Lạp cổ đại từ thế kỷ VIII đến thế kỷ V trước Công nguyên là một điển hình). Thực chất, mọi lợi ích, quyền lực đã bị giai cấp chủ nô thâu tóm. “Nhân dân” ở đây chỉ là một số ít trong xã hội, gồm những người chủ nô, tăng lữ, thương gia, một số trí thức và những người tự do khác. Còn đa số nhân dân lao động, những người nô lệ, bị mất hết quyền lực, họ chỉ là những “công cụ biết nói”. Quyền lực nhân dân, quyền lực công bị tha hóa thành quyền lực chính trị, thành quyền lực nhà nước của giai cấp chủ nô. Vì thế, đối với chủ nô, dân chủ là quyền lực thực sự của họ và là chiêu bài để lừa mị mọi người; đối với giai cấp nô lệ, dân chủ chỉ là niềm mong đợi, nỗi khát khao và là mục tiêu tranh đấu. Kể từ đó, bao thế hệ những người lao động đã liên tục vùng dậy đấu tranh chống chế độ tư hữu, chống nhà nước của giai cấp bóc lột để đòi lại quyền dân chủ của mình. Trong xã hội có giai cấp, đấu tranh vì dân chủ trở thành một trong những động lực của lịch sử. Dân chủ, do đó, trở thành vấn đề phức tạp cả về lý luận và thực tiễn trong lịch sử nhân loại. Từ nghĩa gốc của khái niệm (dân chủ là quyền lực của nhân dân), trong những điều kiện, hoàn cảnh lịch sử khác nhau, tùy theo sự vận động biến đổi của thực tiễn dân chủ, khái niệm dân chủ được nhận thức cũng đa dạng. Đến nay, mặc dù vẫn còn có nhiều quan điểm khác nhau nhưng hầu như tất cả đều có những nhận thức chung tương đối thống nhất về những nội dung cơ bản của khái niệm dân chủ. Theo đó, dân chủ được hiểu theo 5 khía cạnh cơ bản: Thứ nhất, dân chủ là chế độ chính trị, chế độ nhà nước, trong đó, một mặt, thừa nhận quyền lực chính trị của nhân dân, quyền tự do, bình đẳng của công dân trong việc xác định tổ chức, cơ cấu nhà nước, quản lý nhà nước; mặt khác, thi hành có tổ chức, có hệ thống sự cưỡng chế bằng pháp luật đối với mọi người để bảo đảm dân chủ chung cho toàn xã hội. Đây là hình thức lịch sử tất yếu của việc tổ chức và thực thi quyền dân chủ của nhân dân trong xã hội có giai cấp. Chế độ dân chủ muốn thể hiện ra trong hiện thực, trở thành hiện thực bao giờ cũng phải được biểu hiện ra, trước hết và chủ yếu ở hình thức nhà nước tương ứng, phù hợp. Tuy nhiên, không phải chế độ chính trị, chế 27 độ nhà nước nào cũng đồng thời và đương nhiên, tự nhiên là chế độ dân chủ. Một nhà nước và chế độ dân chủ tiến bộ ở một giai đoạn nào đó thì cũng không phải mãi mãi là như thế ở những giai đoạn, thời kỳ tồn tại khác nhau. Chỉ những nhà nước và chế độ chính trị nào bảo đảm quyền lực nhà nước là quyền lực của nhân dân thì đó mới là chế độ chính trị và chế độ nhà nước dân chủ. Thứ hai, dân chủ là quyền lực thuộc về giai cấp thống trị. Trong xã hội có giai cấp, mỗi giai cấp nhận thức, triển khai và thực thi dân chủ tuỳ theo lập trường, quan điểm và lợi ích của giai cấp mình. Trong điều kiện đó, dân chủ trước hết và chủ yếu là dân chủ của giai cấp thống trị. Dân chủ của giai cấp thống trị gắn liền và bao hàm sự hạn chế, thậm chí tước đoạt dân chủ của các giai cấp, tầng lớp xã hội khác. Tuy nhiên, dân chủ của giai cấp thống trị muốn được thực thi và bảo đảm thì nó, dù muốn hay không cũng phải thể hiện ra dưới những hình thức, mức độ ít nhiều rộng rãi, nghĩa là, không chỉ bảo đảm dân chủ của giai cấp thống trị mà còn bảo đảm dân chủ chung cho toàn xã hội. Hơn nữa, bất kỳ nền dân chủ nào cũng ra đời, tồn tại, biểu hiện ra và phát triển trong khung cảnh một xã hội, nhà nước, dân tộc, quốc gia; trong sự tác động, ảnh hưởng của cả các yếu tố khu vực, quốc tế nên dân chủ bên cạnh bản chất giai cấp, ở những mức độ khác nhau, còn mang tính dân tộc, tính nhân dân và tính nhân loại. Trong xã hội có giai cấp, bản chất giai cấp và tính dân tộc, tính nhân dân, tính nhân loại của dân chủ luôn chứa đựng sự thống nhất trong mâu thuẫn. Do đó, trong nhận thức và thực tiễn, nếu tuyệt đối hóa bản chất giai cấp để phủ nhận tính dân tộc, tính nhân dân, tính nhân loại thì cũng tai hại không kém việc đề cao quá mức tính dân tộc, tính nhân dân, tính nhân loại để lảng tránh, phủ nhận bản chất giai cấp của dân chủ. Thứ ba, dân chủ là sự biểu thị thành quả đấu tranh của nhân dân lao động chống lại các giai cấp, lực lượng áp bức, bóc lột. Trong các xã hội có giai cấp đối kháng, do nắm giữ những tư liệu sản xuất chủ yếu của xã hội, giai cấp thống trị đã tìm mọi cách áp bức về chính trị, bóc lột về kinh tế, nô dịch về tư tưởng, tinh thần đối với đông đảo nhân dân lao động. Do đó, những người lao động bị áp bức, bóc lột từ thế hệ này đến thế hệ khác đã bền bỉ tranh đấu để làm nên công trình bi tráng của lịch sử dân chủ. Vì thế, dân chủ không chỉ đơn thuần là quyền lực, lợi ích thuộc về giai cấp thống trị mà nó còn là phần quyền lực, lợi ích của đông đảo nhân dân do chính họ giành được trong đấu tranh xã hội. Những bước tiến về dân chủ có được trong lịch sử nhân loại không chỉ bị 28 chi phối bởi ý chí của các lực lượng thống trị mà còn được tạo ra từ áp lực đấu tranh lâu dài, những hy sinh xương máu của biết bao thế hệ những người cần lao. Dân chủ là mục tiêu, là thành quả đấu tranh của nhân dân lao động. Đấu tranh cho dân chủ, vì dân chủ trở thành mục tiêu, nội dung đấu tranh giai cấp - một trong những động lực cơ bản thúc đẩy sự phát triển của xã hội có giai cấp. Thứ tư, dân chủ là nguyên tắc tổ chức, sinh hoạt của các cộng đồng và các tổ chức chính trị - xã hội trên cơ sở sự tự do, bình đẳng giữa các thành viên, thiểu số phục tùng đa số và tôn trọng, bảo vệ thiểu số. Dân chủ không chỉ là phạm trù chính trị ra đời, tồn tại, phát triển và sẽ tiêu vong cùng với giai cấp và nhà nước mà nó là vấn đề muôn thuở của con người và xã hội loài người. Trong chế độ cộng sản nguyên thủy, thông qua “Đại hội nhân dân”, nhân dân bầu ra hoặc phế bỏ thủ lĩnh quân sự và quyết định mọi vấn đề quan trọng của thị tộc, bộ lạc. Cùng với sự phát triển đa dạng, phức tạp của các hình thức tổ chức, sinh hoạt cộng đồng, các tổ chức chính trị - xã hội, nguyên tắc dân chủ nguyên thủy nói trên không những được duy trì mà còn được bổ sung, phát triển. Từ các thị tộc, bộ lạc xa xưa cho đến các hình thức cộng đồng thôn, buôn, làng, bản và các dân tộc, quốc gia, những tổ chức khu vực, quốc tế hiện đại; từ cộng đồng gia đình, trường học, các tổ chức tôn giáo đến các tổ chức chính trị, xã hội, đâu đâu cũng sử dụng các nguyên tắc, cơ chế dân chủ. Theo đó, ngay cả trong chế độ chính trị và nhà nước xa lạ với dân chủ, thậm chí đối lập với dân chủ (chế độ độc tài, quân chủ chuyên chế) thì những nhu cầu dân chủ và những nguyên tắc dân chủ vẫn sinh thành, hiện hữu cùng với sự bền bỉ, sáng tạo của các hình thức cộng đồng người. Thứ năm, dân chủ là giá trị xã hội, giá trị nhân văn, văn minh phản ánh trạng thái, mức độ giải phóng con người trong tiến trình phát triển xã hội. Giá trị xã hội của dân chủ là kết quả của quá trình lịch sử mà con người và các cộng đồng người đạt được thông qua đấu tranh chinh phục tự nhiên và cải tạo xã hội để tự biểu hiện vai trò là chủ, làm chủ của mình trong cuộc sống hiện thực. Dân chủ phản ánh trình độ đạt được về bảo đảm các quyền, nghĩa vụ, tự do của con người, của công dân và sự tham gia của họ vào các lĩnh vực của đời sống xã hội. Dân chủ là biểu hiện, là kết quả sự phát triển tự thân, tiến bộ của các quan hệ xã hội, các hoạt động xã hội và các giá trị dân chủ đến lượt mình cũng thâm nhập, tác động làm lành mạnh hóa, dân chủ hóa và nhân văn hóa các quan hệ xã hội, các hoạt động xã hội của con người trên các cấp độ tồn tại của nó. 29 Theo đó, dân chủ có giá trị lịch sử và có giá trị vĩnh viễn, trường tồn; có giá trị riêng, đặc thù và có giá trị chung, phổ biến; có giá trị giai cấp, giá trị dân tộc và giá trị toàn nhân loại; có giá trị cá nhân, có giá trị cộng đồng, tổ chức; có giá trị là thiết chế, vật chất và có giá trị là tư tưởng, thể chế; có giá trị thuộc về chính trị, có giá trị kinh tế và có giá trị văn hóa, văn minh, công nghệ, kỹ thuật... Tất cả các giá trị đó đều phản ánh trạng thái, mức độ giải phóng con người trong tiến trình phát triển xã hội. Các giá trị đó không chỉ được tạo ra từ quyền lực chính trị, từ yếu tố nhà nước mà nó còn phụ thuộc vào nhiều yếu tố khác, đó là sự tiến bộ của LLSX, cơ cấu sản xuất, trình độ quản lý kinh tế, quản lý xã hội, trình độ dân trí, đặc trưng văn hóa, phong tục... Trong đó, suy đến cùng, quyết định nhất là trình độ phát triển của LLSX xã hội. Vì nguồn gốc sâu xa của sự vận động, phát triển xã hội là ở sự phát triển của LLSX. Trong tiến trình lịch sử - tự nhiên của sự phát triển các hình thái kinh tế - xã hội, các giá trị xã hội, giá trị nhân văn, văn minh của dân chủ được tích lũy sẽ ngày càng phong phú, toàn diện và sâu sắc cả về nội dung và các hình thức biểu hiện. Từ những nội dung phân tích ở trên cho thấy, dân chủ là khái niệm có nội dung phong phú. Dân chủ không chỉ là hình thức nhà nước, chế độ chính trị bảo đảm quyền lực thuộc về nhân dân; là quyền làm chủ của giai cấp thống trị; là kết quả đấu tranh của nhân dân lao động chống lại các giai cấp, lực lượng áp bức, bóc lột; là nguyên tắc tổ chức, sinh hoạt của các cộng đồng và các tổ chức chính trị, xã hội mà còn là giá trị xã hội, giá trị nhân văn, văn minh phản ánh trạng thái, mức độ giải phóng con người trong tiến trình phát triển xã hội... Theo đó, với nghĩa rộng nhất của khái niệm, dân chủ được hiểu là phương thức quan hệ giữa người với người trên tất cả các lĩnh vực xã hội, giữa các thiết chế xã hội, giữa các con người trong tất cả mọi cấp độ tồn tại khác nhau của nó; là một hình thức tổ chức quan hệ xã hội thừa nhận quyền tự do, bình đẳng của mỗi thành viên, thừa nhận nhân dân là chủ thể của quyền lực [146, tr.31]. 2.1.1.2. Quan niệm chung về nền dân chủ và xây dựng nền dân chủ - Quan niệm chung về nền dân chủ Trong các nghiên cứu khoa học xung quanh vấn đề dân chủ, nền dân chủ (chế độ dân chủ) là khái niệm phản ánh dân chủ trong tính chỉnh thể hiện thực của nó. Tác giả Thái Ninh và Hoàng Chí Bảo cho rằng: “Trong mối tương quan với quyền lực nhà nước và chế độ nhà nước, dân chủ được hiểu ở đây là chế độ dân chủ, là nền dân chủ”; 30 “Nền dân chủ, chế độ dân chủ, không có gì khác, chính là Nhà nước và chế độ nhà nước tồn tại trong một xã hội nhất định” [132, tr.45; 14]. Tác giả Nguyễn Đăng Quang giải thích: chế độ dân chủ chính trị (thường gọi là chế độ dân chủ) chỉ là một trong những nội dung của nền dân chủ xã hội. Nền dân chủ là khái niệm có nhiều nội dung, trong đó có 3 nội dung cơ bản: nội dung chính trị - dân chủ là một hình thái nhà nước; nội dung văn minh - dân chủ là sản phẩm của nền văn minh; nội dung nhân đạo - dân chủ là phương thức tổ chức xã hội hiện đại. Ba nội dung đó (cũng là ba mặt cơ bản) quan hệ chặt chẽ và bổ sung cho nhau tạo thành nền dân chủ [144]. Tác giả Đỗ Trung Hiếu cho rằng, với tư cách là một chỉnh thể hiện thực, dân chủ được định danh bằng thuật ngữ nền dân chủ. Đây là lĩnh vực thâu tóm mọi khía cạnh vật chất và tinh thần của dân chủ, từ kinh tế, chính trị, xã hội cho đến văn hóa. Như vậy, nhà nước chỉ là một bộ phận (mặc dù rất quan trọng) trong đó [72, tr. 13]. Tác giả Phạm Ngọc Quang thì khẳng định: “Những yêu cầu dân chủ của nhân dân được thể chế hóa thành các chuẩn mực, thành nguyên tắc tổ chức và vận hành của Nhà nước và xã hội nói chung tạo thành chế độ dân chủ” [78, tr.258]. Với tư cách là một chỉnh thể hiện thực, nền dân chủ được cấu thành bởi nhiều yếu tố, bộ phận: cả khía cạnh vật chất, tinh thần; yếu tố kinh tế, chính trị, xã hội, văn hóa, pháp luật dân chủ; yếu tố thể chế và thiết chế dân chủ; cơ chế, nguyên tắc và các giá trị, chuẩn mực dân chủ... Trong xã hội có giai cấp, nền dân chủ là một chỉnh thể hiện thực trong đó có chế độ chính trị, nhà nước, pháp luật dân chủ; sự làm chủ và chi phối giá trị dân chủ của giai cấp thống trị; sự đấu tranh, vươn lên không ngừng của nhân dân lao động chống lại các biểu hiện phản tiến bộ, phi dân chủ; sự tồn tại, hoạt động tự chủ, tự quản của các tổ chức chính trị, xã hội; sự hiện hữu của các nguyên tắc, giá trị, chuẩn mực dân chủ phản ánh trạng thái, mức độ giải phóng con người. Với cách tiếp cận này, nền dân chủ được hiểu là một chỉnh thể xã hội trong đó các giá trị, chuẩn mực, yêu cầu, các nguyên tắc dân chủ được ghi nhận và thực thi trên các lĩnh vực cơ bản của đời sống xã hội. Trên lĩnh vực chính trị, bảo đảm các nguyên tắc: tất cả quyền lực thuộc về nhân dân, mọi quyền lực mà nhà nước có đều do nhân dân ủy quyền; bầu cử tự do, công bằng; hạn chế quyền năng của nhà nước bằng hiến pháp; dân chủ gắn với pháp luật, được bảo đảm bằng nhà nước pháp quyền; nhà nước và mọi hoạt động của nhà nước phải đặt dưới sự kiểm soát của nhân dân và các tổ chức đại 31 diện; bảo đảm quyền tham gia vào công việc nhà nước, xã hội của người dân; mọi người đều bình đẳng trước pháp luật; không hình thành các thiết chế tổ chức làm nguy hại tới lợi ích của nhân dân, cản trở sự phát triển lành mạnh của đất nước... Trên lĩnh vực kinh tế, xây dựng, hoàn thiện thể chế kinh tế, đặt nền kinh tế dưới sự kiểm soát của nhân dân, phục vụ cho nhu cầu, lợi ích chính đáng của nhân dân; có cơ chế kinh tế trong đó, mọi người được làm tất cả những gì pháp luật không cấm, người lao động có việc làm hữu ích, được tham gia vào sở hữu, quản lý dưới những hình thức khác nhau và được thụ hưởng thành quả lao động xứng đáng; kết hợp kế hoạch của nhà nước với phát huy mọi tiềm năng kinh tế của người dân, bảo đảm quyền tự chủ, làm chủ của doanh nghiệp và người lao động. Trên lĩnh vực xã hội, thiểu số phục tùng đa số nhưng tôn trọng quyền của thiểu số; thống nhất trong tính đa dạng các khuynh hướng xã hội, bảo đảm quyền được bảo vệ về mặt xã hội của mọi công dân; khắc phục sự khác biệt giữa các tầng lớp xã hội, giữa các vùng miền của đất nước; quyền công dân, quyền con người được bảo đảm bằng pháp lý và được thực thi trên thực tế... Trên lĩnh vực văn hóa, bảo đảm quyền tự do ngôn luận, báo chí, tự do suy nghĩ, tự do tư tưởng trong hoạt động khoa học, sáng tạo nghệ thuật và đời sống tinh thần nói chung trên cơ sở đường lối chính trị chủ đạo và pháp luật của nhà nước; hòa giải, hợp tác, khoan dung, đối thoại trong giải quyết các mâu thuẫn, xung đột xã hội... dân chủ trong các quan hệ xã hội, trong ứng xử, lối sống giữa con người với con người, dân chủ trong mọi thiết chế xã hội, từ gia đình, nhà trường, các tổ chức chính trị, xã hội, dân sự, nghề nghiệp... ngày một sâu sắc và phổ quát... Từ những phân tích trên đây có thể khái quát lại, nền dân chủ là khái niệm phản ánh chỉnh thể xã hội được tổ chức, vận hành theo các nguyên tắc, yêu cầu và chuẩn mực dân chủ nhằm thực thi quyền lực và bảo đảm lợi ích của giai cấp cầm quyền. Biện chứng của lịch sử dân chủ trên phạm vi toàn nhân loại đã, đang và sẽ đi từ nền dân chủ tự quản cộng sản nguyên thủy đến dân chủ chủ nô, DCTS và tiến tới dân chủ tự quản văn minh trong xã hội cộng sản văn minh, mà bước quá độ lên hình thức dân chủ này là nền dân chủ XHCN. Theo đó, nền dân chủ XHCN được hiểu là chỉnh thể xã hội được tổ chức, vận hành theo các nguyên tắc, yêu cầu và chuẩn mực dân chủ nhằm thực thi quyền lực, bảo đảm lợi ích của giai cấp công nhân và nhân dân lao động. Tất nhiên, nền dân chủ (kể cả nền dân chủ XHCN) được thiết lập ở mỗi quốc gia, dân tộc 32 trong mỗi thời đại lịch sử vừa có tính chất, đặc điểm chung, phổ biến, đồng thời có những đặc điểm riêng, đặc thù do điều kiện hoàn cảnh lịch sử cụ thể quy định. Trong điều kiện xã hội có giai cấp và nhà nước, nền dân chủ ở mỗi quốc gia, dân tộc được thiết lập với mức độ, tính chất như thế nào, điều đó lệ thuộc vào tính chất, trạng thái của thể chế chính trị; trình độ phát triển kinh tế; trình độ học vấn, ý thức, năng lực thực hành dân chủ của nhân dân; năng lực, phẩm chất của giới cầm quyền; truyền thống văn hóa chính trị của mỗi quốc gia, dân tộc và cả những nhân tố khách quan của thời đại. - Quan niệm chung về xây dựng nền dân chủ Thực tế cho thấy, sự ra đời, phát triển của các nền dân chủ là quá trình vận động, phát triển theo logic lịch sử - tự nhiên của nó. Mỗi nền dân chủ có nội dung, bản chất, trình độ và hình thức, sắc thái cụ thể vì nó được hình thành, tồn tại và phát triển trong những điều kiện hoàn cảnh lịch sử cụ thể nhất định. Xây dựng nền dân chủ là việc con người (các cá nhân và tổ chức, trong đó có đảng cầm quyền) trên cơ sở nhận thức các điều kiện khách quan, chủ quan cụ thể để tiến hành các hoạt động cần thiết nhằm thúc đẩy sự ra đời và phát triển của nền dân chủ trên thực tế. Đó là việc tạo dựng, thiết lập những cơ sở, điều kiện lịch sử cần thiết để thực thi những nguyên tắc, yêu cầu, chuẩn mực dân chủ trong các lĩnh vực đời sống xã hội nhằm bảo đảm quyền lực và lợi ích của giai cấp cầm quyền. Theo logic đó, xây dựng nền dân chủ XHCN là việc tạo dựng, thiết lập những cơ sở, điều kiện lịch sử cần thiết để thực thi những nguyên tắc, yêu cầu, chuẩn mực dân chủ trong các lĩnh vực đời sống xã hội nhằm bảo đảm quyền lực và lợi ích của giai cấp công nhân và nhân dân lao động. Cần chú ý rằng, không có các cơ sở, điều kiện này thì không thể có nền dân chủ; nhưng bản thân nó không đồng nhất với nền dân chủ, không phải cứ có nó là đã có nền dân chủ theo đúng nghĩa của từ này. Tạo lập cơ sở, điều kiện cho nền dân chủ đòi hỏi nhiều công phu, nhìn xa trông rộng nhưng cũng rất cụ thể, tỉ mỉ vì như thực tế đã chứng minh, mặc dù dân chủ có sức hấp dẫn lớn đối với nhân loại nhưng thiết lập, tổ chức, vận hành nền dân chủ vẫn phức tạp và khó khăn hơn rất nhiều so với nền chuyên chế, độc tài. Việc xây dựng nền dân chủ ở các quốc gia, dân tộc trong những thời đại lịch sử khác nhau với những nội dung, tính chất khác nhau nhưng cũng đòi hỏi cần có những cơ sở, điều kiện chung nhất định. Trong xã hội có giai cấp và nhà nước, nhất là trong lịch sử hiện đại, xây dựng nền dân chủ thường bao gồm: 33 Thứ nhất, xây dựng điều kiện kinh tế của nền dân chủ và thực hiện dân chủ trong lĩnh vực kinh tế. Trong đó, cốt lõi là xây dựng, phát triển kinh tế thị trường. Thứ hai, xây dựng điều kiện chính trị của nền dân chủ và thực hiện dân chủ trong lĩnh vực chính trị. Trong đó, cơ bản là xây dựng nhà nước pháp quyền. Thứ ba, xây dựng điều kiện văn hóa của nền dân chủ và thực hiện dân chủ trong lĩnh vực văn hóa. Trong đó, cốt lõi là phát triển dân trí, tự do tư tưởng, tự do ngôn luận và đa dạng văn hóa. Thứ tư, xây dựng điều kiện xã hội của nền dân chủ và thực hiện dân chủ trong lĩnh vực xã hội. Trong đó, cơ bản là xây dựng, phát triển xã hội công dân, xã hội dân sự, bảo đảm an sinh xã hội. Tất nhiên, những điều kiện nói trên không phải xây dựng một lần là đủ và nền dân chủ không phải xây dựng một lần là xong. Nền dân chủ hình thành, phát triển là sản phẩm tổng hòa giữa các yếu tố, điều kiện kinh tế, chính trị, văn hóa, xã hội mà trong đó, chủ yếu và trước hết là những điều kiện lịch sử tự thân, nội tại. Thực tế lịch sử cho thấy, việc xây dựng nền dân chủ nói chung và việc tạo lập các cơ sở, điều kiện cho nền dân chủ nói riêng thường do một giai cấp, lực lượng chính trị - xã hội nhất định dẫn dắt, định hướng. Do đó, công việc ấy được tiến hành với tốc độ, quy mô, tính chất, lộ trình... và hiệu quả như thế nào lệ thuộc nhiều vào nhận thức, hành động và mức độ tiêu biểu cho xu hướng tiến bộ của giai cấp và lực lượng cầm quyền. Từ quan niệm chung về dân chủ, nền dân chủ, nền dân chủ XHCN và xây dựng nền dân chủ, xây dựng nền dân chủ XHCN đã phân tích ở trên, trong luận án, tác giả sử dụng cách tiếp cận toàn diện, chỉnh thể về dân chủ, dân chủ XHCN, xây dựng nền dân chủ và xây dựng nền dân chủ XHCN. Khái niệm dân chủ XHCN được hiểu theo nghĩa rộng với 5 nội dung và khái niệm xây dựng nền dân chủ XHCN được hiểu với 4 nội dung cơ bản. Trên cơ sở đó, với vị trí, vai trò là cơ sở, nền tảng tưởng lý luận của công cuộc xây dựng, phát triển nền dân chủ XHCN ở Việt Nam, chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh về dân chủ XHCN và xây dựng nền dân chủ XHCN cũng sẽ được khái quát, trình bày theo 9 nội dung cơ bản. Đây chính là khung khổ lý thuyết, là những tiêu chí nội dung để thực hiện các nhiệm vụ đề ra, trong đó có nhiệm vụ phân tích, làm rõ những nhận thức mới hay những nội dung mới trong nhận thức của Đảng về dân chủ XHCN và xây dựng nền dân chủ XHCN ở Việt Nam thời kỳ đổi mới. 34 2.1.2. Chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh về dân chủ xã hội chủ nghĩa Có thể khái quát quan điểm của chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh về dân chủ XHCN theo các nội dung cơ bản sau: 2.1.2.1. Dân chủ xã hội chủ nghĩa là hệ thống chuyên chính vô sản, nhà nước chuyên chính vô sản kiểu dân chủ cộng hòa C.Mác, Ph. Ăngghen và V.I.Lênin cho rằng, với tính cách là chế độ chính trị, chế độ nhà nước, dân chủ XHCN có thể có sự đa dạng về hình thức nhưng bản chất của nó là chuyên chính vô sản (CCVS). V.I.Lênin viết: “Bước chuyển từ chủ nghĩa tư bản lên chủ nghĩa cộng sản, cố nhiên không thể không đem lại rất nhiều hình thức chính trị khác nhau, nhưng thực chất của những hình thức ấy tất nhiên sẽ chỉ là một, tức là: chuyên chính vô sản” [98, tr.44]. Hệ thống CCVS được V.I.Lênin hình dung như một hệ thống những bánh xe răng cưa của cỗ máy, phức tạp và có quan hệ chặt chẽ với nhau bao gồm Đảng Cộng sản, Nhà nước Xôviết (hay nhà nước CCVS) và công đoàn “ở giữa Đảng và chính quyền nhà nước” [105, tr.250], trong đó, mỗi “bánh xe răng” có vị trí và vai trò xác định. V.I.Lênin khẳng định: CCVS “là một nhà nước thuộc một kiểu khác, nhà nước vô sản, một bộ máy để giai cấp vô sản trấn áp giai cấp tư sản”; “là chế độ dân chủ cho những người bị bóc lột và phải trấn áp bọn bóc lột” [101, tr.122, 316]. Dân chủ vô sản là CCVS và CCVS chính là nhà nước của giai cấp vô sản. Từ mô hình lịch sử kiểu dân chủ cộng hòa của Công xã Pari và Xôviết Nga, C.Mác, Ph. Ăngghen và V.I.Lênin đã dùng nhiều thuật ngữ khác nhau để diễn đạt về CCVS. Đó là: dân chủ vô sản, CCVS, dân chủ Xôviết, nhà nước Xôviết, nhà nước CCVS, hệ thống CCVS, nhà nước kiểu mới, nhà nước nửa nhà nước, nhà nước tự tiêu vong... V.I.Lênin còn viết: “Chế độ dân chủ vô sản so với bất cứ chế độ dân chủ tư sản nào, cũng dân chủ hơn gấp triệu lần, chính quyền Xôviết so với nước cộng hoà tư sản dân chủ nhất thì cũng dân chủ hơn gấp triệu lần” [98, tr.312-313]. Vận dụng chủ nghĩa Mác - Lênin vào điều kiện cụ thể của Việt Nam, Hồ Chí Minh cũng nhấn mạnh nội dung chính trị của dân chủ: dân chủ là chế độ chính trị, hình thức nhà nước do nhân dân lập nên và nhân dân kiểm soát. Dân chủ XHCN ở Việt Nam là nền dân chủ cộng hòa, trong đó, “dân là chủ”, “dân làm chủ”, “tất cả mọi quyền lực đều là của nhân dân”. Hồ Chí Minh viết: 35 Nước ta là nước dân chủ. Bao nhiêu lợi ích đều vì dân. Bao nhiêu quyền hạn đều của dân. Công việc đổi mới, xây dựng là trách nhiệm của dân. Sự nghiệp kháng chiến, kiến quốc là công việc của dân. Chính quyền từ xã đến Chính phủ do dân cử ra. Đoàn thể từ Trung ương đến xã do dân tổ chức nên. Nói tóm lại, quyền hành và lực lượng đều ở nơi dân [115, tr.698]. Như vậy, dân chủ XHCN ở Việt Nam là chế độ chính trị, nhà nước của nhân dân, do nhân dân lập ra và phục vụ lợi ích của nhân dân. 2.1.2.2. Dân chủ xã hội chủ nghĩa thể hiện sâu sắc bản chất giai cấp công nhân và tính nhân dân rộng rãi Với nghĩa là quyền làm chủ hay bản chất giai cấp thống trị của dân chủ, nền dân chủ XHCN thể hiện sâu sắc bản chất giai cấp công nhân. Trong Những nguyên lý của chủ nghĩa cộng sản (1847), trả lời câu hỏi rằng cuộc cách mạng vô sản sẽ diễn biến như thế nào, Ph.Ăngghen viết: Trước hết, nó tạo ra một chế độ dân chủ và nhờ đó mà trực tiếp hay gián tiếp tạo ra quyền thống trị chính trị của giai cấp vô sản [111, tr.469- 470]. Theo tinh thần đó, dân chủ vô sản, dân chủ XHCN trước hết là sự thống trị, làm chủ của giai cấp công nhân. Tuy nhiên, là sản phẩm của cách mạng XHCN - cuộc cách mạng của số đông, vì lợi ích của số đông nhân dân nên trong nền dân chủ XHCN sự thống trị, làm chủ của giai cấp công nhân đồng thời cũng là sự thống trị, làm chủ của đông đảo nhân dân lao động vốn là những người nghèo khổ và bị áp bức trước kia. V.I.Lênin viết: “dân chủ vô sản là sự thống trị của đa số đối với thiểu số” [97, tr.164]; “chuyên chính vô sản là một hình thức đặc biệt của liên minh giai cấp giữa giai cấp vô sản, đội tiền phong của những người lao động, với đông đảo những tầng lớp lao động không phải vô sản (tiểu tư sản, tiểu chủ, nông dân, trí thức...)” [102, tr.452]. Mặt khác, giống như các nền dân chủ khác, dân chủ XHCN cũng bao hàm dân chủ và chuyên chính. Chỉ có điều, đó là một nền dân chủ kiểu mới và chuyên chính kiểu mới. Chuyên chính kiểu mới, dân chủ kiểu mới là “chế độ dân chủ cho nhân dân; cho số đông, đi đôi với trấn áp tất yếu đối với số ít, đối với bọn bóc lột” [98, tr.109- 110]. Trong nền dân chủ XHCN, tính nhân dân rộng rãi không tách rời bản chất giai cấp công nhân; việc thực hiện dân chủ đối với giai cấp công nhân và đông đảo nhân dân lao động không tách rời việc hạn chế dân chủ, thậm chí tước đoạt dân chủ đối với bọn bóc lột. 36 Trong điều kiện thực tiễn của Việt Nam, Hồ Chí Minh khẳng định: Nước ta là nước dân chủ, mọi quyền hành và lực lượng đều ở nơi dân. Dân là chủ và dân làm chủ. Nhân dân ở đây bao gồm cả cộng đồng người, đồng bào, quần chúng nhân dân, công nhân, nông dân, trí thức, phụ nữ, thanh thiếu niên, học sinh, sinh viên, các bậc phụ lão, đồng bào các dân tộc, tôn giáo, kiều bào ta ở nước ngoài, trong đó trước hết là công nhân, nông dân, trí thức, những người lao động. Bọn tay sai cho đế quốc, thực dân, bọn phản bội lợi ích của Tổ quốc thì không thuộc nhân dân, đó là bọn phản nhân dân. Do đó, trong nền dân chủ XHCN ở Việt Nam, “Đảng lãnh đạo, công nông liên minh, nhân dân lao động làm chủ nước nhà, xây dựng nhân dân dân chủ chuyên chính, nghĩa là dân chủ với nhân dân, chuyên chính (trừng trị) bọn phản động” [117, tr.246]. Đó là sự thống nhất biện chứng giữa bản chất giai cấp công nhân và tính nhân dân rộng rãi của nền dân chủ XHCN trong điều kiện hoàn cảnh của dân tộc Việt Nam. 2.1.2.3. Dân chủ xã hội chủ nghĩa là thành quả đấu tranh cách mạng của giai cấp công nhân và nhân dân lao động dưới sự lãnh đạo của đảng cộng sản Dân chủ XHCN là thành quả đấu tranh cách mạng của giai cấp công nhân và nhân dân lao động dưới sự lãnh đạo của đảng cộng sản. Nhưng cuộc đấu tranh này khác hẳn những cuộc đấu tranh giai cấp trước kia: không phải do thiểu số thực hiện, hoặc mưu cầu lợi ích cho thiểu số; phong trào vô sản là của khối đại đa số, mưu cầu lợi ích cho khối đại đa số. C.Mác, Ph.Ăngghen khẳng định, cuộc đấu tranh này trước hết nó tạo ra một chế độ dân chủ, tạo ra quyền thống trị chính trị của giai cấp công nhân và nhân dân lao động nhưng đó mới là mục tiêu trước mắt, là điều kiện bước đầu của tiến trình cách mạng. Tiếp đó, để chế độ dân chủ không trở nên hoàn toàn vô ích, giai cấp vô sản và nhân dân lao động phải sử dụng chế độ dân chủ ấy tiến hành hàng loạt các biện pháp cách mạng nhằm cải tạo xã hội cũ, xây dựng xã hội mới trên mọi lĩnh vực đời sống để thiết lập một liên hợp, trong đó sự phát triển tự do của mỗi người là điều kiện cho sự phát triển tự do của tất cả mọi người [111, tr.628]. Từ thực tiễn xây dựng CNXH ở Liên Xô, V.I.Lênin cho rằng, để xây dựng hoàn thiện nền dân chủ XHCN - một nền dân chủ đầy đủ, thực chất và rộng rãi cho đại đa số nhân dân lao động, trong điều kiện mới (đã có chính quyền), giai cấp công nhân và nhân dân lao động vẫn tiếp tục cuộc đấu tranh giai cấp với những nội dung, hình thức mới và với tính chất, mức độ phức tạp, gay go, dai dẳng, quyết liệt hơn nhiều so với 37 những cuộc đấu tranh giai cấp trước đây... Đối tượng đấu tranh không chỉ là sự phản kháng, chống đối điên cuồng của giai cấp tư sản và đồng minh của chúng hòng đòi lại “thiên đường” đã mất; không chỉ là thói ba hoa, quan liêu, hối lộ trong bộ máy đảng, nhà nước mà còn là những tâm lý, thói quen lạc hậu của chính giai cấp công nhân và nhân dân lao động. V.I.Lênin nhấn mạnh, thực chất của CCVS không phải chỉ là bạo lực và không phải chủ yếu là bạo lực; nội dung chủ yếu của đấu tranh giai cấp trong điều kiện CCVS là giai cấp công nhân và nhân dân lao động phải “đưa ra và thực hiện được một kiểu tổ chức lao động xã hội cao hơn so với chủ nghĩa tư bản” [103, tr.15-16] vì “xét đến cùng, năng suất lao động là cái quan trọng nhất, chủ yếu nhất cho thắng lợi của chế độ mới” [103, tr.18, 25]. Đó là quá trình đấu tranh giai cấp đi đến xóa bỏ giai cấp. Trong điều kiện đó, tính giai cấp, tính chính trị của dân chủ sẽ dần tiêu vong và trong điều kiện đó, nhân dân mới thực sự trở thành người chủ xã hội, toàn bộ quyền lực thuộc về nhân dân, nhân dân tự quản lý và tự quyết định mọi vấn đề của bản thân mình. Theo ý nghĩa đó, dân chủ XHCN là thành quả đấu tranh lâu dài với trình độ tự giác và sức sáng tạo cao độ của giai cấp công nhân và đông đảo nhân dân lao động. Hồ Chí Minh cho rằng, dân chủ XHCN ở Việt Nam không chỉ là thành quả của đấu tranh giai cấp mà...ống chính trị ở nước ta, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội. 110. C.Mác - Ph.Ăngghen (1995), Toàn tập, tập 3, Nxb Chính trị quốc gia Sự thật, Hà Nội. 111. C.Mác - Ph.Ăngghen (1995), Toàn tập, tập 4, Nxb Chính trị quốc gia Sự thật, Hà Nội. 112. Mẫn Văn Mai (1994), Nâng cao trình độ văn hóa dân chủ của nhân dân trong quá trình xây dựng nền dân chủ xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam hiện nay, Luận án Tiến sĩ Triết học, Học viện Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh, Hà Nội. 113. Nguyễn Văn Mạnh - Tào Thị Quyên (đồng chủ biên) (2010), Dân chủ trực tiếp ở Việt Nam lý luận và thực tiễn, Nxb Chính trị - Hành chính, Hà Nội. 114. Nguyễn Đình Minh (2015), “Vấn đề phát huy dân chủ xã hội chủ nghĩa”, tại trang: chu-xa-hoi-chu-nghia/7792.html, [truy cập 27-3-2016]. 115. Hồ Chí Minh (1995), Toàn tập, tập 5, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội. 116. Hồ Chí Minh (1995), Toàn tập, tập 6, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội. 117. Hồ Chí Minh (1996), Toàn tập, tập 7, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội. 118. Hồ Chí Minh (1996), Toàn tập, tập 8, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội. 119. Hồ Chí Minh (1996), Toàn tập, tập 9, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội. 120. Hồ Chí Minh (1996), Toàn tập, tập 10, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội. 121. Hồ Chí Minh (1996), Toàn tập, tập 12, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội. 162 122. Lê Hữu Nghĩa, Hoàng Chí Bảo, Bùi Đình Bôn (đồng chủ biên) (2008), Đổi mới quan hệ giữa Đảng Nhà nước và các tổ chức chính tri - xã hội trong hệ thống chính trị ở Việt Nam, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội. 123. Lê Hữu Nghĩa (2013), “Tiếp tục đổi mới và hoàn thiện hệ thống chính trị ở nước ta hiện nay: một số vấn đề lý luận và thực tiễn”, tại trang: chinhtri.vn/home/index.php/thuc-tien/item/253-tiep-tuc-doi-moi-va-hoan- thien-he-thong-chinh-tri-o-nuoc-ta-hien-nay-mot-so-van-de-ly-luan-va-thuc- tien.html, [truy cập ngày 17-8-2015]. 124. Lê Hữu Nghĩa (2013), “Thực hành và phát huy dân chủ qua 30 năm đổi mới”, Tạp chí Cộng sản, (880), tr. 68-74. 125. Dương Xuân Ngọc (Chủ biên) (2000), Quy chế thực hiện dân chủ ở cấp xã, một số vấn đề lý luận và thực tiễn, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội. 126. Dương Xuân Ngọc (Chủ biên) (2012), Quan hệ giữa đổi mới kinh tế và đổi mới chính trị ở Việt Nam, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội. 127. Dương Xuân Ngọc – Dương Ngọc Anh (2015), “Giá trị đặc sắc, bền vững trong tư tưởng của V.I.Lênin về dân chủ”, Tạp chí Lý luận chính trị, (11), tr. 27-32. 128. Phạm Xuân Nam (2009), “Quan điểm của chủ nghĩa Mác về xã hội dân sự trong chế độ dân chủ và những tư tưởng gần gũi của Hồ Chí Minh”, Tạp chí Triết học (7), tr.32-41. 129. Phạm Văn Nhuận (2010), “Để Đảng thực sự là hạt nhân lãnh đạo xây dựng nền dân chủ xã hội chủ nghĩa ở nước ta hiện nay”, Tạp chí Lý luận chính trị, (8), tr.43-47. 130. Trần Quang Nhiếp (2006), Dân chủ với phát triển cộng đồng, Nxb, Công an nhân dân, Hà Nội. 131. Nhiều tác giả (2013), Tài liệu tham khảo phục vụ nghiên cứu tổng kết 30 năm đổi mới, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội. 132. Thái Ninh, Hoàng Chí Bảo (1991), Dân chủ tư sản và dân chủ xã hội chủ nghĩa, Nxb Sự thật, Hà Nội. 133. Vũ Dương Ninh (1992), “Nền dân chủ tư sản và những kinh nghiệm thực tiễn”, Tạp chí Thông tin lý luận, (9), tr16-19. 163 134. Nguyễn Quốc Phẩm (2015), “Xây dựng nền dân chủ xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam: những vấn đề lý luận, thực tiễn cần làm sáng tỏ trong điều kiện hiện nay”, Thông tin Chủ nghĩa xã hội - lý luận và thực tiễn của Viện Chủ nghĩa xã hội khoa học, (46), tr.1-4; (47), tr.1-6. 135. Nguyễn Tiến Phồn (2001), Dân chủ và tập trung dân chủ - Lý luận và thực tiễn, Nxb Khoa học xã hội, Hà Nội. 136. Nguyễn Văn Phúc (2014), “Phương hướng và giải pháp thực hành dân chủ trong lĩnh vực văn hóa ở nước ta hiện nay”, Tạp chí Triết học, (3), tr.3-11. 137. Nguyễn Trọng Phúc (2011), “Thực hiện dân chủ xã hội chủ nghĩa trong công cuộc đổi mới”, tại trang: xa-hoi-chu-nghia-trong-cong-cuoc-doi-moi/3484.html, [truy cập ngày 4-4-2014]. 138. Đỗ Nguyên Phương - Trần Ngọc Đường (1992), Xây dựng nền dân chủ xã hội chủ nghĩa và nhà nước pháp quyền, Nxb Sự thật, Hà Nội. 139. Nguyễn Minh Phương (2006), “Vai trò của xã hội dân sự ở Việt Nam hiện nay”, Tạp chí Triết học, (2), tr.10-15. 140. Lê Minh Quân (2011), Về quá trình dân chủ hóa xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam hiện nay, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội. 141. Lê Minh Quân (2012), “Dân chủ và dân chủ hóa từ một số cách tiếp cận cơ bản”, Tạp chí Thông tin khoa học xã hội, (10), tr.13-21. 142. Lê Minh Quân (2012), “Về quá trình xây dựng và phát triển nền dân chủ xã hội chủ nghĩa trong thời kỳ đổi mới”, Tạp chí Cộng sản, (11), tr.76-81. 143. Lê Minh Quân (2014), “Những phát triển nhận thức của Đảng ta về đổi mới hệ thống chính trị qua gần 30 năm đổi mới và một số vấn đề đặt ra cần tiếp tục nghiên cứu”, Tạp chí Cộng sản, (7), tr.50-56. 144. Nguyễn Đăng Quang (1992), “Một cách tiếp cận khái niệm dân chủ”, Tạp chí Thông tin lý luận, (9), tr.12-15. 145. Phạm Ngọc Quang (2010), “Một số đề xuất rút ra từ đổi mới nhận thức về vai trò của Dân” trong cơ chế Đảng lãnh đạo, Nhà nước quản lý, Nhân dân làm chủ”, Tạp chí Triết học, (9), tr.37-42. 146. Phạm Ngọc Quang (2013), “Tiếp cận dân chủ từ giác độ rộng nhất của khái niệm”, Tạp chí Báo cáo viên, (8), tr.28-32. 164 147. Lê Văn Quang (2004), “Quan hệ giữa nhà nước xã hội chủ nghĩa và đời sống xã hội dân sự”, tại trang: de/Nghi-quyet-Dang-va-cuoc-song/Quan-he-giua-nha-nuoc-xa-hoi-chu-nghia- va-doi-song-xa-hoi-dan-su-50.html, [truy cập ngày 11-3-2015]. 148. Ủy ban Thường Vụ Quốc hội khóa 11: Pháp lệnh thực hiện dân chủ ở xã, phường, thị trấn, tại trang: VanBan.aspx?vID=3482, [truy cập ngày 6 – 9 - 2015]. 149. Nguyễn Duy Quý - Nguyễn Tất Viễn (2010), Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa của dân, do dân, vì dân - Lý luận và thực tiễn, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội. 150. Nguyễn Duy Quý (2007), “Dân chủ, nhân quyền - chiêu bài đã lỗi thời của các thế lực thù địch với cách mạng Việt Nam”, tại trang: org.vn/Home/Binh-luan/2007/2006/Dan-chu-nhan-quyen-chieu-bai-da-loi- thoi-cua-cac.aspx, [truy cập ngày 18-6-2014]. 151. Hồ Sĩ Quý (2014), Dân chủ, độc tài và phát triển, Nxb Lý luận chính trị, Hà Nội. 152. Hồ Sĩ Quý (2015), “Di sản truyền thống: dân chủ hay thiếu dân chủ”, Tạp chí thông tin khoa học xã hội, (3), tr.3-11. 153. Hồ Sĩ Quý (2015), “Để dân chủ thực sự là phương thức hữu hiệu quản lý và điều tiết sự phát triển”, Tạp chí Mặt trận, (12), tr.60-65. 154. Tào Thị Quyên (2012), Cơ chế bảo vệ Hiến pháp trong Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam, Nxb Chính trị - Hành chính, Hà Nội. 155. Nguyễn Văn Quyết (2015), “Một số luận điểm của C.Mác và Ph.Ăngghen về dân chủ xã hội chủ nghĩa và sự vận dụng ở Việt Nam hiện nay”, Thông tin khoa học lý luận chính trị, Học viện Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh (3), tr.98-102. 156. Tô Huy Rứa, Hoàng Chí Bảo, Trần Khắc Việt, Lê Ngọc Tòng (Đồng chủ biên) (2005), Nhìn lại quá trình đổi mới tư duy lý luận của Đảng 1986 - 2005, tập 1, Nxb Lý luận chính trị, Hà Nội. 157. Tô Huy Rứa, Hoàng Chí Bảo, Trần Khắc Việt, Lê Ngọc Tòng (Đồng chủ biên) (2005), Nhìn lại quá trình đổi mới tư duy lý luận của Đảng 1986 - 2005, tập 2, Nxb Lý luận chính trị, Hà Nội. 165 158. Nguyễn Văn Sáu, Hồ Văn Thông (Đồng chủ biên) (2005), Thế chế dân chủ và phát triển nông thôn Việt Nam hiện nay, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội. 159. Nguyễn Văn Sơn (2014), “Văn hóa chính trị trong sự hình thành thể chế dân chủ thời kỳ công nghiệp hóa, hiện đại hóa”, Tạp chí Triết học, số (8), tr.3-10. 160. Phan Xuân Sơn (2011), “Những nội dung mới về nền dân chủ xã hội chủ nghĩa”, tại trang: hoi-chu-nghia/122/6356209.epi, [truy cập ngày 22-3-2014]. 161. Phan Xuân Sơn (2010), “Đảng Cộng sản Việt Nam với việc giải quyết vấn đề dân chủ trong tiến trình cách mạng nước ta”, in trong Đảng Cộng sản Việt Nam 80 năm xây dựng và phát triển, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, tr.968-982. 162. Phan Xuân Sơn (Chủ nhiệm đề tài) (2005), Mở rộng và phát huy dân chủ trong nội bộ Đảng Cộng sản, vấn đề và giải pháp, Tổng quan khoa học đề tài cấp Bộ năm 2003-2004, Học viện Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh, Hà Nội. 163. Lưu Văn Sùng (2015), “Hoàn thiện thể chế bảo đảm việc thực hiện dân chủ ở Việt Nam hiện nay”, Thông tin những vấn đề lý luận (phục vụ lãnh đạo) của Học viện Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh, (1), tr.59-63. 164. Phan Tân (2013), “Chuyển biến tư duy về dân chủ và một số thành quả thực hiện qua đánh giá từ thực tiễn sau hơn 20 năm đổi mới”, Tạp chí Thông tin khoa học xã hội, (4), tr.1-7. 165. Tạ Ngọc Tấn (2013), “Đổi mới công tác lý luận của Đảng”, tại trang: cong-tac-ly-luan-cua-dang.html, [truy cập ngày 25-8-2015]. 166. Tạ Ngọc Tấn chỉ đạo biên soạn (2013), Những tranh luận mới của các học giả Nga về chủ nghĩa xã hội, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội. 167. Đỗ Thị Thạch - Nguyễn Văn Quyết (2014), “Xây dựng nền dân chủ xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam qua gần 30 năm đổi mới”, Tạp chí Triết học, (4), tr.3-9. 168. Đỗ Thị Thạch (Chủ nhiệm đề tài) (2015), Nghiên cứu, tổng kết làm sáng tỏ những vấn đề lý luận xây dựng dân chủ xã hội chủ nghĩa trong công cuộc đổi mới đất nước”, Báo cáo đề tài trọng điểm năm 2013-2014, Học viện Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh, Hà Nội. 169. Trần Thành (2015), Vấn đề dân chủ và dân chủ hóa đời sống xã hội - lịch sử và hiện đại, Nxb Lý luận chính trị, Hà Nội. 166 170. Nguyễn Tiến Thành (2014), “Năng lực cán bộ xã, phường trong thực hiện Pháp lệnh dân chủ ở cơ sở”, Tạp chí Lý luận chính trị, (10), tr. 66-71. 171. Mai Thị Thanh (2012), Hình thức nhà nước và vấn đề xây dựng dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội. 172. Cao Đức Thái (2014), “Dân chủ trong xu thế thời đại và nền dân chủ của chúng ta”, Tạp chí Báo cáo viên, (11), tr.18-20. 173. Hồ Bá Thâm (2007), Dân chủ hóa và phát huy nội lực, Nxb Phương Đông, Bến Tre. 174. Hồ Bá Thâm (2010), “Di chúc Hồ Chí Minh - vấn đề dân chủ và “thực hành dân chủ rộng rãi” với bối cảnh hiện nay”, tại trang: nd/tu- lieu-tra-cuu/di_chuc_ho_chi_minh_ van_de_dan_chu_hien_nay-e.html, [truy cập ngày 11-6-2014]. 175. Hồ Bá Thâm (2010), “Dân chủ thật sự là vấn đề trung tâm, cốt tử của chủ nghĩa xã hội”, tại trang: cottucuachunghiaxahoi-e.html, [truy cập ngày 11-6-2014]. 176. Hồ Bá Thâm (2010), “Vấn đề xây dựng nền dân chủ nhân dân ở Việt Nam và cải cách thiết chế dân chủ”, tại trang: nen_dan_chu_nhan_dan_va_cai_cach-e.html, [truy cập ngày 11-6-2014]. 177. Hồ Bá Thâm (2012), “Nhận thức và thực hiện dân chủ trong nhà nước pháp quyền ở nước ta hiện nay”, Tạp chí Nghiên cứu lập pháp, (22), tr.26-30. 178. Mạch Quang Thắng (2011), “Một số vấn đề đặt ra về cơ chế "Đảng lãnh đạo, Nhà nước quản lý, Nhân dân làm chủ" ở nước ta”, tại trang: - pham-tap-chi-in/mot-so-van-de-dat-ra-ve-co-che-dang-lanh-dao-nha-nuoc-quan-ly- nhan-dan-lam-chu-o-nuoc-ta/3520.html?pageindex=657, [truy cập ngày 23-11-2014]. 179. Mạch Quang Thắng (Chủ nhiệm đề tài) (2000), Bảo đảm và phát huy dân chủ trong chế độ một đảng cầm quyền ở nước ta hiện nay, Kỷ yếu đề tài cấp Bộ năm 1999, Học viện Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh, Hà Nội. 180. Nguyễn Viết Thông (2013), “Quan điểm của Đảng Cộng sản Việt Nam về dân chủ và thực hành dân chủ trước và từ khi đổi mới đến nay”, Tạp chí Triết học, (10), tr.3-10. 181. Cao Văn Thống (sưu tầm và biên soạn) (2014), Nguyên tắc tập trung dân chủ trong công tác xây dựng Đảng hiện nay, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội. 167 182. Nguyễn Trung Tín (Chủ nhiệm đề tài) (2011), Vai trò và quyền của nhân dân với tư cách là chủ thể xây dựng và hoàn thiện nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam giai đoạn 2011-2020, Báo tóm tắt đề tài cấp bộ, Viện Khoa học xã hội Việt Nam, Hà Nội. 183. Phạm Ngọc Trâm (2011), Quá trình đổi mới hệ thống chính trị ở Việt Nam 1986- 2011, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội. 184. Phạm Thị Ngọc Trầm (2006), “Nhà nước pháp quyền, xã hội dân sự với vấn đề quyền và nghĩa vụ công dân”, tại trang: cuu-theo-chuyen-de/Nghi-quyet-Dang-va-cuoc-song/Nha-nuoc-phap-quyen- xa-hoi-dan-su-voi-van-de-quyen-va-nghia-vu-cong-dan-283.html, [truy cập ngày 5-3-2016]. 185. Trương Thành Trung (Chủ biên) (2011), Sự thật vấn đề dân chủ và nhân quyền trong chiến lược “diễn biến hòa bình” ở Việt Nam, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội. 186. Trung tâm Nghiên cứu Phát triển và Hỗ trợ Cộng đồng, Trung tâm Bồi dưỡng cán bộ và Nghiên cứu khoa học Mặt trận Tổ quốc Việt Nam, Chương trình phát triển Liên Hợp quốc tại Việt Nam (2015): Báo cáo chỉ số PAPI năm 2014. 187. Trương Minh Tuấn (2012), “Dân chủ xã hội chủ nghĩa và thực hiện dân chủ xã hội chủ nghĩa theo tinh thần Đại hội XI của Đảng”, Tạp chí Triết học, (1), tr.3-8. 188. Nguyễn Thanh Tuấn (1999), Những quan điểm cơ bản của C.Mác, Ph.Ăngghen và V.I.Lênin về dân chủ xã hội chủ nghĩa, Kỷ yếu đề tài tiềm lực, Viện Chủ nghĩa xã hội khoa học, Học viện Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh, Hà Nội. 189. Trịnh Quốc Tuấn (2004), “Tương quan giữa chế độ dân chủ xã hội chủ nghĩa và kinh tế thị trường xã hội chủ nghĩa”, Thông tin Chủ nghĩa xã hội - Lý luận và thực tiễn, (3), tr.6-8. 190. Trịnh Quốc Tuấn (2007), “Từ kinh nghiệm của V.I.Lênin về xây dựng nền dân chủ xã hội chủ nghĩa suy nghĩ đến tiến trình xây dựng nền dân chủ xã hội chủ nghĩa ở nước ta hiện nay”, Thông tin Chủ nghĩa xã hội - Lý luận và thực tiễn, (13), tr.20-23. 191. Đàm Anh Tuấn (2012), Xây dựng và phát triển dân chủ phục vụ quá trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa ở Việt Nam hiện nay, Luận án Tiến sĩ Triết học, Học viện Khoa học xã hội, Hà Nội. 168 192. Đinh Quang Ty (2010), “Nhìn lại quá trình nhận thức của Đảng ta về mối quan hệ Đảng lãnh đạo, Nhân dân làm chủ, Nhà nước quản lý” và kết quả thực hiện trong hơn 20 năm đổi mới vừa qua”, Tạp chí Thông tin khoa học xã hội, (2), tr.3-12. 193. Đào Trí Úc (chủ biên) (2009), Cơ chế giám sát của nhân dân đối với hoạt động của bộ máy Đảng và Nhà nước, một số vấn đề lý luận và thực tiễn, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội. 194. Vũ Văn Viên (2005), “Nhà nước pháp quyền công cụ để thực hiện dân chủ”, Tạp chí Triết học, (11), tr.35-39. 195. Vũ Văn Viên (2015), “Vấn đề dân chủ hóa trong kinh tế ở nước ta hiện nay”, Tạp chí Triết học, (1), tr.25-31. 196. Viện Chủ nghĩa xã hội khoa học (2014), Nhận thức về chủ nghĩa xã hội và con đường đi lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam, Nxb Lý luận Chính trị. 197. Viện Triết học Viện Hàn lâm khoa học Nga (Hội thảo bàn tròn) (2009), “Dân chủ: Giá trị phổ quát và những kinh nghiệm lịch sử”, tại trang: hean.com.vn/chuyen-muc-goc-nhin-van-hoa/nhin-ra-the-gioi/dan-chu-gia-tri-pho- quat-va-nhung-kinh-nghiem-lich-su, [truy cập ngày 9-10-2014]. 198. Viện Khoa học xã hội Việt Nam - Chương trình phát triển Liên Hợp Quốc (2006), Đẩy mạnh chiều sâu dân chủ và tăng cường sự tham gia của người dân ở Việt Nam, Văn kiện đối thoại chính sách, Hà Nội. 199. Viện Chính sách công và pháp luật, Viện Nhà nước và pháp luật (2014), Một số vấn đề lý luận, thực tiễn về dân chủ trực tiếp, dân chủ cơ sở trên thế giới và ở Việt Nam (Kỷ yếu hội thảo), Nxb Đại học Quốc gia Hà Nội. 200. Viện quốc tế về dân chủ và hỗ trợ bầu cử (2014), Dân chủ trực tiếp: sổ tay IDEA quốc tế, Nxb Đại học Quốc gia Hà Nội. 201. Viện quốc tế về dân chủ và hỗ trợ bầu cử (2014), Dân chủ ở cấp địa phương: sổ tay IDEA quốc tế, Nxb Đại học Quốc gia Hà Nội. 202. Hồ Sĩ Vịnh (2011), “Dân chủ - một giá trị văn hóa”, tại trang: Details.aspx?NewID=596&cate=117, [truy cập ngày 21-8-2014]. 203. N.M. Voskresenskaia, N.B. Davletshina (2008), Chế độ dân chủ, nhà nước và xã hội, Nxb Tri Thức, Hà Nội. 204. Đức Vượng (2013), Một số vấn đề lý luận và thực tiễn ở Việt Nam thời kỳ đổi mới, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội. 169 PHỤ LỤC BẢNG SO SÁNH NHẬN THỨC VỀ DÂN CHỦ XÃ HỘI CHỦ NGHĨA Chủ thể nhận thức/Nội dung nhận thức C.Mác và Ph.Ăngghen V.I.Lênin Hồ Chí Minh Đảng Cộng sản Việt Nam trước đổi mới Đảng Cộng sản Việt Nam trong đổi mới Dân chủ XHCN với tính cách là chế độ chính trị, nhà nước Chuyên chính vô sản - Nhà nước chuyên chính vô sản kiểu dân chủ cộng hòa - Hệ thống chuyên chính vô sản - Nhà nước dân chủ cộng hòa - Chế độ chính trị dân chủ mới (Dân chủ nhân dân) - Nhà nước chuyên chính vô sản - Hệ thống chuyên chính vô sản - Nhà nước pháp quyền XHCN - Hệ thống chính trị XHCN Dân chủ XHCN với tính cách là quyền làm chủ của giai cấp thống trị - Dân chủ vô sản - sự thống trị chính trị của giai cấp vô sản - Liên minh công nông: tính nhân dân rộng rãi - Dân chủ vô sản - sự thống trị của đa số; hạn chế dân chủ đối với thiểu số bóc lột - Liên minh công, nông và các tầng lớp lao động khác - Dân chủ mới, nhân dân là chủ, làm chủ; dân chủ với nhân dân, trừng trị kẻ địch của nhân dân - Đoàn kết dân tộc trên nền tảng liên minh công, nông, lao động trí óc - Dân chủ XHCN: công nhân, nông dân tập thể, trí thức XHCN - Trừng trị bọn thù địch; hạn chế dân chủ đối tư sản, tiểu tư sản - Dân chủ XHCN:bản chất giai cấp công nhân, tính nhân dân, tính nhân loại, tính dân tộc sâu sắc - Trừng trị, hạn chế dân chủ đối với những tổ chức, cá nhân phạm pháp. Dân chủ XHCN với tính cách là thành quả đấu tranh của nhân dân chống áp bức bóc lột - Kết quả của cách mạng XHCN: phong trào của đa số vì lợi ích của đa số, do giai cấp công nhân và đảng của nó lãnh đạo - Giành chính quyền, giành dân chủ, tước đoạt kẻ đi tước đoạt, công hữu hóa tư liệu sản xuất - Kết quả đấu tranh từ cách mạng DCTS kiểu mới lên cách mạng XHCN do giai cấp công nhân và đảng của nó lãnh đạo - Chống sự phản kháng của bọn bóc lột; chống thù trong, giặc ngoài, quan liêu, hối lộ, kiêu ngạo, thói quen, tâm lý lạc hậu - Kết quả đấu tranh từ cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân lên cách mạng XHCN do giai cấp công nhân và Đảng Cộng sản lãnh đạo - Chống kẻ địch của nhân dân; chống tất cả những gì cũ kỹ, hư hỏng; chống bần cùng, lạc hậu, chủ nghĩa cá nhân, quan liêu, hối lộ - Kết quả của cách mạng XHCN về QHSX, khoa học kỹ thuật và tư tưởng, văn hóa; trọng tâm là quốc hữu hóa, hợp tác hóa - Chống sự phá hoại của các thế lực thù địch; xóa bỏ sở hữu tư nhân, kinh tế hàng hóa - Mục tiêu, động lực của đổi mới, phát triển; bản chất của chế độ XHCN - Chống tập trung quan liêu, bảo thủ, dân chủ hình thức, tham ô, tham nhũng, lợi ích nhóm; chống “diễn biến hòa bình” 170 Chủ thể nhận thức/Nội dung nhận thức C.Mác và Ph.Ăngghen V.I.Lênin Hồ Chí Minh Đảng Cộng sản Việt Nam trước đổi mới Đảng Cộng sản Việt Nam trong đổi mới Dân chủ XHCN với tính cách là cơ chế, nguyên tắc tổ chức hoạt động cộng đồng Tập trung dân chủ - Tập trung dân chủ - Tự phê bình, phê bình; kiểm kê, kiểm soát, tự trị, tự quản - Dân chủ tập trung - Tự phê bình, phê bình; đoàn kết, khoan dung, thương lượng dân chủ, thống nhất hành động - Tập trung dân chủ (thành tập trung quan liêu, bao cấp) - Đảng lãnh đạo, Nhà nước quản lý, Nhân dân làm chủ (Đảng bao biện làm thay; Nhân dân làm chủ tập thể) - Tập trung dân chủ: Đảng lãnh đạo, Nhà nước quản lý, Nhân dân làm chủ - Dân chủ pháp quyền: thể chế hóa thành hệ thống quy chế, quy định pháp lý Dân chủ XHCN với tính cách là giá trị xã hội, giá trị nhân văn, văn minh phản ánh mức độ giải phóng con người - Liên hợp xã hội trong đó sự phát triển tự do của mỗi người là điều kiện cho sự phát triển tự do của tất cả mọi người - Nhà nước chuyên chính vô sản theo hình thức dân chủ cộng hòa vừa lập pháp, hành pháp, do dân bầu và có thể bị bãi miễn - Nhân dân làm chủ tư liệu sản xuất; xóa bỏ khác biệt giai cấp, bảo đảm công bằng, bình đẳng xã hội, tự do sáng tạo, phát triển toàn diện - Giai đoạn đầu còn dấu vết pháp quyền tư sản - Toàn dân quản lý nhà nước, xã hội; nhân dân tự do bầu cử, bãi miễn đại biểu của mình - Mọi người lao động cho mình; xóa bỏ cơ sở kinh tế, chính trị, xã hội của áp bức, bóc lột, sự bất bình đẳng, thù địch dân tộc - Dân chủ gắn pháp luật, được thực hiện trên thực tế - Kế thừa, phát triển giá trị dân chủ tư sản và dân chủ gấp triệu lần dân chủ tư sản - Dân là chủ, dân làm chủ, mọi quyền hành, lực lượng đều ở nơi dân; quyền gắn liền nghĩa vụ; dân chủ thật sự, rộng rãi, triệt để - Nhà nước pháp quyền của dân, do dân, vì dân - Kinh tế nhiều thành phần, công tư đều chiếu cố, chủ và thợ đều có lợi; người lao động làm chủ TLSX, quản lý, phân phối bằng nhiều hình thức - Nhân dân có đời sống vật chất đầy đủ, tinh thần vui mạnh; văn hóa dân tộc, khoa học, đại chúng; văn hóa soi đường cho quốc dân đi; cộng đồng xã hội, giai cấp, dân tộc bình đẳng, đoàn kết, giúp nhau cùng phát triển - Nhân dân làm chủ tập thể, làm chủ toàn diện: kinh tế, chính trị, xã hội, văn hóa; làm chủ thiên nhiên, xã hội, làm chủ bản thân; làm chủ trong phạm vi cả nước, trong mỗi địa phương, mỗi cơ sở - Hợp tác hóa, tập thể hóa, đề cao giá trị xã hội, lợi ích xã hội (Ở mức lý tưởng, hoàn hảo nhưng không có sức sống thực tế) - Dân chủ XHCN - bản chất của chế độ, là mục tiêu, động lực của đổi mới, phát triển - Dân là chủ, làm chủ; dân chủ hóa các lĩnh vực đời sống xã hội, ở tất cả các cấp, các ngành, trong đó chú trọng dân chủ trong kinh tế, dân chủ từ cơ sở - Dân chủ hóa gắn liền pháp quyền hóa, thể chế hóa, hiện đại hóa - Bảo đảm quyền con người, quyền công dân; quyền đi liền nghĩa vụ; hài hòa giá trị giai cấp, dân tộc, nhân loại của dân chủ 171 BẢNG SO SÁNH NHẬN THỨC VỀ XÂY DỰNG NỀN DÂN CHỦ XÃ HỘI CHỦ NGHĨA Chủ thể nhận thức/Nội dung nhận thức C.Mác và Ph.Ăngghen V.I.Lênin Hồ Chí Minh Đảng Cộng sản Việt Nam trước đổi mới Đảng Cộng sản Việt Nam trong đổi mới Cơ sở, điều kiện chính trị và thực hiện dân chủ trong chính trị - Giành chính quyền (giành dân chủ) - Xây dựng nhà nước CCVS kiểu dân chủ cộng hòa do đảng của giai cấp công nhân lãnh đạo theo nguyên tắc tập trung dân chủ - Bảo đảm thực hiện dân chủ đối với nhân dân lao động và trấn áp bọn áp bức, bóc lột - Giành chính quyền, xây dựng nhà nước CCVS kiểu dân chủ cộng hòa - Xây dựng hệ thống CCVS do đảng cộng sản lãnh đạo theo nguyên tắc tập trung dân chủ - Bảo đảm thực hiện dân chủ với đa số nhân dân và chuyên chính, trấn áp bọn áp bức, bóc lột - Giành chính quyền, xây dựng nhà nước dân chủ cộng hòa (nhà nước pháp quyền) - Xây dựng chế độ chính trị dân chủ mới, dân chủ nhân dân do Đảng lãnh đạo, Nhà nước quản lý theo nguyên tắc dân chủ tập trung - Bảo đảm thực hiện dân chủ rộng rãi với nhân dân và chuyên chính, trấn áp kẻ địch của nhân dân - Xây dựng nhà nước CCVS kiểu cộng hòa XHCN - Xây dựng hệ thống CCVS tổ chức, hoạt động theo nguyên tắc tập trung dân chủ; Đảng lãnh đạo, nhân dân làm chủ, Nhà nước quản lý - Bảo đảm thực hiện quyền làm chủ tập thể của nhân dân lao động và trừng trị những lực lượng thù địch, áp bức, bóc lột - Xây dựng nhà nước Cộng hòa XHCN Việt Nam thành nhà nước pháp quyền XHCN - Đổi mới, dân chủ hóa tổ chức, hoạt động của hệ thống chính trị XHCN trên nguyên tắc tập trung dân chủ; cơ chế Đảng lãnh đạo, Nhà nước quản lý, nhân dân làm chủ - Bảo đảm quyền làm chủ của nhân dân và trừng trị những tổ chức, cá nhân phạm pháp 172 Chủ thể nhận thức/Nội dung nhận thức C.Mác và Ph.Ăngghen V.I.Lênin Hồ Chí Minh Đảng Cộng sản Việt Nam trước đổi mới Đảng Cộng sản Việt Nam trong đổi mới Cơ sở, điều kiện kinh tế và thực hiện dân chủ trong kinh tế - Lực lượng sản xuất công nghiệp hiện đại trình độ xã hội hóa cao - Xóa bỏ tư hữu tư sản về tư liệu sản xuất, thực hiện công hữu hóa tư liệu sản xuất - Trong điều kiện có chiến tranh: công nghiệp hóa, công hữu hóa, hợp tác hóa; quản lý tập trung thống nhất - Trong điều kiện hòa bình: công nghiệp hóa, phát triển kinh tế hàng hóa nhiều thành phần trên nền tảng chế độ công hữu đối với những tư liệu sản xuất chủ yếu - Phát triển kinh tế nhiều thành phần, nòng cốt là kinh tế quốc doanh và kinh tế hợp tác - Phát triển công nghiệp, nông nghiệp hiện đại - Mọi chủ trương, kế hoạch sản xuất, tiêu dùng phải dân chủ - Phân phối theo lao động là chủ yếu, giải quyết hài hòa các quan hệ lợi ích - Xây dựng nền sản xuất lớn XHCN, có kế hoạch (phi thị trường), tập trung, thống nhất với cơ cấu hợp lý, ưu tiên phát triển công nghiệp nặng - Thực hiện công nghiệp hóa XHCN (nhiệm vụ trung tâm của cả thời kỳ quá độ lên CNXH) - Phát triển quan hệ sản xuất XHCN (tập thể, quốc doanh); phân phối bình quân, chú trọng lợi ích tập thể, lợi ích xã hội - Xây dựng, phát triển nền kinh tế thị trường định hướng XHCN (nền kinh tế hàng hóa nhiều thành phần vận hành theo cơ chế thị trường có sự quản lý của Nhà nước dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản) - Các thành phần kinh tế bình đẳng; kinh tế nhà nước giữ vai trò chủ đạo - Công nghiệp hóa, hiện đại hóa gắn với kinh tế tri thức, bảo vệ tài nguyên, môi trường - Phân phối theo lao động là chủ yếu; giải quyết hài hòa các quan hệ lợi ích 173 Chủ thể nhận thức/Nội dung nhận thức C.Mác và Ph.Ăngghen V.I.Lênin Hồ Chí Minh Đảng Cộng sản Việt Nam trước đổi mới Đảng Cộng sản Việt Nam trong đổi mới Cơ sở, điều kiện văn hóa và thực hiện dân chủ trong văn hóa Thực hiện cách mạng tư tưởng, văn hóa: - Giải phóng tư tưởng, tinh thần, bảo đảm tự do tự do báo chí, tự do sáng tạo - “Đoạn tuyệt triệt để với tư tưởng cổ truyền” Xây dựng, phát triển nền văn hóa vô sản: - Thâu thái tất cả tri thức văn hóa của nhân loại, nhất là giá trị văn hóa tư sản - Xóa mù chữ, nâng cao dân trí; giáo dục chủ nghĩa cộng sản - Bảo đảm tự do sáng tạo Xây dựng nền văn hóa mới: - Văn hóa với tính chất dân tộc, khoa học, đại chúng; văn hóa soi đường cho quốc dân đi - Xây dựng đời sống mới; giáo dục đạo đức công bộc và đạo đức công dân - Giáo dục chủ nghĩa Mác-Lênin, phát huy tinh hoa dân tộc, tiếp thu tinh hoa nhân loại - Bảo đảm tự do tư tưởng, ngôn luận, sáng tạo - Xây dựng con người mới XHCN Đẩy mạnh cách mạng tư tưởng văn hóa, xây dựng nền văn hóa mới XHCN: - Văn hóa với nội dung XHCN và tính chất dân tộc, tính đảng và tính nhân dân; phát huy giá trị văn hóa Việt Nam, tiếp thu văn minh nhân loại - Bảo đảm nền tảng chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng làm chủ tập thể; - Xây dựng con người mới XHCN phát triển toàn diện có cuộc sống tập thể và cá nhân hài hòa, phong phú Xây dựng nền văn hóa tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc: - Văn hóa thống nhất trong đa dạng, thấm nhuần tinh thần dân tộc, nhân văn, dân chủ, khoa học - Bảo đảm nền tảng chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, giá trị tốt đẹp của dân tộc và tinh hoa văn hóa nhân loại - Tự do tư tưởng, ngôn luận sáng tạo, tiếp cận, hưởng thụ giá trị văn hóa - Xây dựng đồng bộ môi trường văn hóa, thị trường văn hóa lành mạnh - Văn hóa nền tảng tinh thần của xã hội, vừa là mục tiêu, động lực của đổi mới, phát triển bền vững 174 Chủ thể nhận thức/Nội dung nhận thức C.Mác và Ph.Ăngghen V.I.Lênin Hồ Chí Minh Đảng Cộng sản Việt Nam trước đổi mới Đảng Cộng sản Việt Nam trong đổi mới Cơ sở, điều kiện xã hội và thực hiện dân chủ trong xã hội - Xóa bỏ áp bức bóc lột, nô dịch dân tộc - Thực hiện công bằng, bình đẳng xã hội, tự do lập hội - Thực hiện nghĩa vụ lao động đối với mọi người - Xóa bỏ dần sự khác biệt giữa thành thị và nông thôn - Thực hiện giáo dục công cộng và không mất tiền cho tất cả trẻ em - Đoàn kết, bình đẳng dân tộc; bình đẳng nam nữ - Củng cố liên minh công nông và các tầng lớp lao động khác; phát triển các tổ chức chính trị - xã hội, nhất là công đoàn - Bảo đảm việc làm, bảo hộ lao động, chế độ nghỉ ngơi, bảo hiểm xã hội, bảo đảm nhà ở cho người lao động - Bảo đảm chế độ chăm sóc sức khỏe toàn dân; giáo dục phổ thông, bách khoa không mất tiền cho trẻ em dưới 16 tuổi và bảo đảm giáo dục thường xuyên cho nhân dân - Đoàn kết toàn dân tộc, củng cố liên minh công nông và lao động trí óc - Chính sách phù hợp với mỗi giai cấp, tầng lớp xã hội, nhất là trẻ em, phụ nữ, thương bệnh binh, gia đình liệt sĩ, người có công với cách mạng - Bảo đảm ai cũng có công ăn, việc làm, cơm ăn, áo mặc, học hành, ốm đau có thuốc - Xây dựng nền giáo dục mới tiến bộ, dân tộc, dân chủ, khoa học, đại chúng - Đoàn kết, liên minh chặt chẽ công nông trí thức XHCN - Chăm sóc chu đáo thương bệnh binh, gia đình liệt sĩ, người có công với cách mạng; thực hiện các chính sách xã hội bảo đảm nhân dân có đời sống văn minh, hạnh phúc - Bảo vệ bà mẹ, chăm sóc trẻ em; thực hiện bình đẳng nam nữ - Phát triển y tế, đưa công tác y tế đến tận cơ sở - Cải cách giáo dục, phát triển nền giáo dục XHCN toàn dân, toàn diện - Đoàn kết toàn dân tộc, bảo đảm đồng thuận trên nền tảng công nông trí thức - Chính sách xã hội phải đặt ngang hàng, đồng bộ với chính sách kinh tế; tăng trưởng kinh tế gắn với tiến bộ, công bằng xã hội trong từng bước phát triển - Chính sách xã hội vì con người phù hợp từng giai cấp, tầng lớp, thành phần xã hội và phù hợp với biến đổi của cơ cấu kinh tế, cơ cấu xã hội - Đề cao vai trò tự lực, tự chủ của mỗi người; chú trọng xã hội hóa, cộng đồng trách nhiệm, Nhà nước và nhân dân cùng làm, bảo đảm an sinh xã hội, an toàn xã hội cho mọi người

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • pdfluan_an_nhan_thuc_moi_ve_dan_chu_xa_hoi_chu_nghia_va_xay_dun.pdf
  • pdfTom tat _ Nguyen Anh Tuan (T.Viet)_da tham dinh.pdf
  • pdfTrang thong tin Viet-Anh.pdf
Tài liệu liên quan