HỌC VIỆN CHÍNH TRỊ QUỐC GIA HỒ CHÍ MINH
NGUYỄN ANH TUẤN
NHậN THứC MớI Về DÂN CHủ Xã HộI CHủ NGHĩA
Và XÂY DựNG NềN DÂN CHủ Xã HộI CHủ NGHĩA
ở VIệT NAM THờI Kỳ ĐổI MớI
LUẬN ÁN TIẾN SĨ TRIẾT HỌC
CHUYấN NGÀNH: CHỦ NGHĨA XÃ HỘI KHOA HỌC
HÀ NỘI - 2016
HỌC VIỆN CHÍNH TRỊ QUỐC GIA HỒ CHÍ MINH
NGUYỄN ANH TUẤN
NHậN THứC MớI Về DÂN CHủ Xã HộI CHủ NGHĩA
Và XÂY DựNG NềN DÂN CHủ Xã HộI CHủ NGHĩA
ở VIệT NAM THờI Kỳ ĐổI MớI
LUẬN ÁN TIẾN SĨ TRIẾT HỌC
CHUYấN NGÀNH: CHỦ NGHĨA XÃ HỘI
179 trang |
Chia sẻ: huong20 | Ngày: 15/01/2022 | Lượt xem: 363 | Lượt tải: 0
Tóm tắt tài liệu Luận án Nhận thức mới về dân chủ xã hội chủ nghĩa và xây dựng nền dân chủ xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam thời kỳ đổi mới, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
KHOA HỌC
Mã số: 62 22 03 08
NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC:
PGS.TS. NGUYỄN VIẾT THÔNG
HÀ NỘI - 2016
LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan đây là công trình nghiên cứu của
riêng tôi. Các số liệu, kết quả nêu trong luận án là trung
thực, có nguồn gốc rõ ràng và được trích dẫn đầy đủ theo
quy định.
Tác giả luận án
Nguyễn Anh Tuấn
MỤC LỤC
Trang
MỞ ĐẦU 1
Chương 1: TỔNG QUAN TÌNH HÌNH NGHIÊN CỨU LIÊN QUAN ĐẾN
ĐỀ TÀI 6
1.1. Những công trình nghiên cứu về dân chủ và dân chủ xã hội chủ nghĩa 6
1.2. Những công trình nghiên cứu về xây dựng nền dân chủ và xây dựng nền
dân chủ xã hội chủ nghĩa 12
1.3. Giá trị của những công trình tổng quan và những nội dung luận án tập
trung nghiên cứu 21
Chương 2: CƠ SỞ LÝ LUẬN VÀ THỰC TIỄN CỦA NHẬN THỨC MỚI VỀ
DÂN CHỦ XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VÀ XÂY DỰNG NỀN DÂN CHỦ XÃ HỘI
CHỦ NGHĨA Ở VIỆT NAM THỜI KỲ ĐỔI MỚI 25
2.1. Cơ sở lý luận của nhận thức mới về dân chủ xã hội chủ nghĩa và xây dựng
nền dân chủ xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam thời kỳ đổi mới 25
2.2. Cơ sở thực tiễn của nhận thức mới về dân chủ xã hội chủ nghĩa và xây
dựng nền dân chủ xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam thời kỳ đổi mới 48
Chương 3: NHỮNG NỘI DUNG MỚI VÀ NHỮNG VẤN ĐỀ ĐẶT RA
TRONG NHẬN THỨC VỀ DÂN CHỦ XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VÀ XÂY DỰNG
NỀN DÂN CHỦ XÃ HỘI CHỦ NGHĨA Ở VIỆT NAM THỜI KỲ ĐỔI MỚI 67
3.1. Những nội dung mới trong nhận thức về dân chủ xã hội chủ nghĩa ở Việt
Nam thời kỳ đổi mới 67
3.2. Những nội dung mới trong nhận thức về xây dựng nền dân chủ xã hội chủ
nghĩa ở Việt Nam thời kỳ đổi mới 87
3.3. Những vấn đề đặt ra trong nhận thức lý luận về dân chủ xã hội chủ nghĩa
và xây dựng nền dân chủ xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam thời kỳ đổi mới 101
Chương 4: MỘT SỐ QUAN ĐIỂM VÀ GIẢI PHÁP NHẰM BỔ SUNG, PHÁT
TRIỂN NHẬN THỨC VỀ DÂN CHỦ XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VÀ XÂY DỰNG
NỀN DÂN CHỦ XÃ HỘI CHỦ NGHĨA Ở VIỆT NAM HIỆN NAY 115
4.1. Một số quan điểm nhằm bổ sung, phát triển nhận thức về dân chủ xã hội
chủ nghĩa và xây dựng nền dân chủ xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam hiện nay 115
4.2. Các nhóm giải pháp nhằm bổ sung, phát triển nhận thức về dân chủ xã hội
chủ nghĩa và xây dựng nền dân chủ xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam hiện nay 126
KẾT LUẬN 149
DANH MỤC CÔNG TRÌNH ĐÃ CÔNG BỐ CỦA TÁC GIẢ LIÊN QUAN
ĐẾN LUẬN ÁN 151
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO 152
PHỤ LỤC 169
DANH MỤC CÁC CHỮ VIẾT TẮT
CCVS : Chuyên chính vô sản
CNH, HĐH : Công nghiệp hóa, hiện đại hóa
CNTB : Chủ nghĩa tư bản
CNXH : Chủ nghĩa xã hội
DCTS : Dân chủ tư sản
LLSX : Lực lượng sản xuất
XHCN : Xã hội chủ nghĩa
1
MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Theo quy luật tiến hóa của lịch sử, mọi quốc gia, dân tộc nhất định sẽ đi tới chủ
nghĩa xã hội và chủ nghĩa cộng sản. Cách mạng Tháng Mười Nga thành công, giai cấp
công nhân và nhân dân lao động giành chính quyền đã đánh dấu sự ra đời nền dân chủ
xã hội chủ nghĩa (XHCN). Theo con đường Cách mạng Tháng Mười Nga, dân chủ
XHCN chính thức trở thành mục tiêu, nhiệm vụ lịch sử của cách mạng Việt Nam kể từ
khi có Đảng Cộng sản Việt Nam lãnh đạo.
Khác với các nền dân chủ đã tồn tại trước đó trong lịch sử, nền dân chủ XHCN
không thể ra đời, phát triển một cách tự phát. Nó không thể tự nhiên xuất hiện và hoàn
thiện ngay sau sự kiện giai cấp công nhân và nhân dân lao động giành được chính
quyền. Xây dựng nền dân chủ XHCN là nhiệm vụ lịch sử mới mẻ, chưa có tiền lệ.
Những thăng trầm của chủ nghĩa xã hội (CNXH) hiện thực ở các nước trên thế giới
trong gần 100 năm qua đã cho thấy rõ tính dích dắc, phức tạp của tiến trình xây dựng
nền dân chủ XHCN. Kinh nghiệm lịch sử cho thấy, sức sống thực tế của dân chủ
XHCN trước hết phụ thuộc vào nhận thức và hành động của đảng cộng sản cầm quyền.
Ở nước ta, từ năm 1986, bằng việc khởi xướng và lãnh đạo công cuộc đổi mới,
Đảng Cộng sản Việt Nam tiếp tục thể hiện rõ trí tuệ, bản lĩnh và trách nhiệm của của
mình trước những vấn đề hệ trọng của Tổ quốc, nhân dân. Việc xây dựng nền dân chủ
XHCN trở thành một trong những mối quan tâm thường trực trong nhận thức và hành
động của Đảng. Theo đó, dân chủ hóa các lĩnh vực đời sống xã hội luôn được Đảng ta
khẳng định là một trong những mục tiêu, nhiệm vụ cơ bản, trọng tâm của công cuộc
đổi mới. Tư duy, nhận thức mới của Đảng về dân chủ XHCN chỉ đạo quá trình dân chủ
hóa đời sống xã hội; và thực tiễn dân chủ hóa lại là căn cứ, cơ sở để kiểm nghiệm, bổ
sung nhận thức về dân chủ XHCN và nhận thức về xây dựng nền dân chủ XHCN.
Dưới sự lãnh đạo của Đảng, theo tinh thần dân chủ, đổi mới, 30 năm qua đất
nước ta đã đạt được những thành tựu to lớn, có ý nghĩa lịch sử. Trong đó, thành tựu về
xây dựng và phát huy dân chủ XHCN có giá trị và ý nghĩa đặc biệt. Quyền lực của
nhân dân, lợi ích của nhân dân, vai trò của nhân dân, tính tích cực chính trị của nhân
dân ngày càng được thể hiện và phát huy mạnh mẽ. Thực hành dân chủ, phát huy dân
chủ trở thành nội dung, phương thức tổ chức, hoạt động của cả hệ thống chính trị và
2
của mỗi tổ chức thành viên. Dân chủ XHCN là kết quả của đổi mới vừa là động lực
thúc đẩy đổi mới. Nhận thức lý luận về dân chủ XHCN đã có nhiều điểm mới, thực tiễn
xây dựng dân chủ XHCN đã có những đổi thay có tính bước ngoặt.
Tuy nhiên, những kết quả, thành tựu nói trên của quá trình nhận thức và thực
hiện dân chủ XHCN ở nước ta mới chỉ là bước đầu. Trong 30 năm qua, trên nhiều
khía cạnh, quá trình nhận thức về dân chủ XHCN và xây dựng nền dân chủ XHCN
còn nhiều thiếu sót, hạn chế và nảy sinh không ít vấn đề gai góc, phức tạp. Nhiều khía
cạnh nội dung về dân chủ XHCN và xây dựng nền dân chủ XHCN chưa được nhận
thức đầy đủ, thể hiện sự phiến diện, giáo điều, máy móc dẫn đến thiếu thống nhất
trong hành động, gây lúng túng trong thực thi. Đó là vấn đề thực hiện dân chủ XHCN
trong điều kiện một đảng cộng sản cầm quyền; vấn đề đảm bảo quyền lực của nhân
dân, thực hiện công bằng, bình đẳng xã hội, xây dựng con người và phát triển văn hóa
Việt Nam trong điều kiện phát triển kinh tế thị trường và hội nhập quốc tế; vấn đề xây
dựng Nhà nước pháp quyền XHCN của dân, do dân, vì dân; vấn đề kiểm soát quyền
lực, chống suy thoái, quan liêu, tham nhũng Những vấn đề này nếu không được
nhận thức và giải quyết đúng đắn, kịp thời thì sẽ là lực cản lớn cho sự phát triển đất
nước, sẽ là nguyên nhân trực tiếp gây ra những bất ổn về chính trị - xã hội, đe dọa
đến sự thành bại của công cuộc đổi mới, sự tồn vong của chế độ XHCN và nền dân
chủ XHCN ở nước ta.
Thực tế đang đòi hỏi chúng ta phải có những tổng kết công phu trên phương diện
lý luận và thực tiễn về dân chủ XHCN, từ đó tiếp tục làm sáng tỏ những vấn đề về dân
chủ XHCN và xây dựng nền dân chủ XHCN ở nước ta trong điều kiện mới. Với mong
muốn góp phần từng bước giải quyết những công việc phức tạp và hệ trọng nói trên,
tác giả lựa chọn vấn đề “Nhận thức mới về dân chủ xã hội chủ nghĩa và xây dựng
nền dân chủ xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam thời kỳ đổi mới” làm đề tài luận án Tiến sĩ
Triết học, chuyên ngành Chủ nghĩa xã hội khoa học.
2. Mục đích, nhiệm vụ nghiên cứu của luận án
2.1. Mục đích
Từ việc phân tích cơ sở lý luận, cơ sở thực tiễn; đánh giá, phân tích những nội
dung mới và những vấn đề đặt ra trong nhận thức về dân chủ XHCN và xây dựng nền
dân chủ XHCN ở Việt Nam qua 30 năm đổi mới, luận án đề xuất những quan điểm và
3
giải pháp nhằm tiếp tục bổ sung, phát triển nhận thức về dân chủ XHCN và xây dựng
nền dân chủ XHCN ở nước ta hiện nay.
2.2. Nhiệm vụ
Để thực hiện mục đích trên, luận án có nhiệm vụ:
- Trình bày tổng quan tình hình nghiên cứu trong và ngoài nước về dân chủ, dân
chủ XHCN, xây dựng nền dân chủ, xây dựng nền dân chủ XHCN; từ đó, xác định sự
cần thiết và các nội dung luận án tập trung nghiên cứu.
- Phân tích cơ sở lý luận, thực tiễn của nhận thức về dân chủ XHCN và xây dựng
nền dân chủ XHCN ở Việt Nam trong thời kỳ đổi mới.
- Phân tích, làm rõ những nội dung mới và những vấn đề đặt ra trong nhận thức
về dân chủ XHCN và xây dựng nền dân chủ XHCN ở nước ta trong thời kỳ đổi mới.
- Đề xuất một số quan điểm, giải pháp tiếp tục bổ sung, phát triển nhận thức về
dân chủ XHCN và xây dựng nền dân chủ XHCN ở nước ta hiện nay.
3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu của luận án
3.1. Đối tượng
Nghiên cứu làm rõ những nhận thức mới về dân chủ XHCN và xây dựng nền dân
chủ XHCN ở Việt Nam trong thời kỳ đổi mới.
3.2. Phạm vi nghiên cứu
Nghiên cứu nhận thức mới về dân chủ XHCN và xây dựng nền dân chủ XHCN ở
Việt Nam trong thời kỳ đổi mới. Đây là vấn đề rất rộng lớn, luận án chỉ tập trung
nghiên cứu những nội dung mới trong nhận thức của Đảng về dân chủ XHCN và xây
dựng nền dân chủ XHCN ở nước ta từ năm 1986 đến nay thể hiện qua các văn kiện của
Đảng, trước hết là văn kiện Đại hội Đảng và văn kiện Hội nghị Trung ương Đảng từ
năm 1986 đến nay.
4. Cơ sở lý luận, thực tiễn và phương pháp nghiên cứu của luận án
4.1. Cơ sở lý luận
Luận án được thực hiện dựa trên cơ sở lý luận về dân chủ XHCN của chủ nghĩa
Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, các văn kiện của Đảng, Nhà nước về dân chủ, về
hệ thống chính trị Đồng thời, luận án cũng kế thừa có chọn lọc các công trình và các
bài viết có liên quan của các tác giả khác đã được công bố ở trong và ngoài nước về
dân chủ và dân chủ XHCN.
4
4.2. Cơ sở thực tiễn
Dựa vào kết quả quá trình thực hiện sự nghiệp đổi mới toàn diện của đất nước từ
năm 1986 đến nay. Trong đó, chú trọng thực tiễn hoạt động lãnh đạo của Đảng, sự
quản lý của Nhà nước và sự vận động của thực tiễn dân chủ hóa đời sống xã hội ở nước
ta trong 30 năm qua. Đồng thời, trong chừng mực nhất định, có liên hệ với thực tiễn
dân chủ hóa của các nước trên thế giới cũng như thực tiễn thực thi dân chủ ở nước ta
thời kỳ trước đổi mới.
4.3. Phương pháp nghiên cứu
Trên cơ sở phương pháp luận của chủ nghĩa duy vật biện chứng và duy vật lịch
sử, luận án sử dụng các phương pháp nghiên cứu như: phân tích - tổng hợp, hệ thống -
cấu trúc, logic - lịch sử, nghiên cứu văn bản, so sánh đối chiếu
5. Đóng góp mới về khoa học của luận án
- Luận án làm rõ nội hàm khái niệm dân chủ, nền dân chủ, dân chủ XHCN, xây
dựng nền dân chủ, xây dựng nền dân chủ XHCN; làm rõ cơ sở lý luận, cơ sở thực
tiễn của những nhận thức mới về dân chủ XHCN và xây dựng nền dân chủ XHCN ở
Việt Nam thời kỳ đổi mới.
- Luận án hệ thống hóa, phân tích, làm rõ những nhận thức mới của Đảng ta về
dân chủ XHCN và xây dựng nền dân chủ XHCN ở Việt Nam thời kỳ đổi mới trong sự
so sánh, đối chiếu với quan điểm của Đảng thời kỳ trước đổi mới cũng như quan điểm
của chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh về dân chủ XHCN (theo 5 nội
dung) và xây dựng nền dân chủ XHCN (theo 4 nội dung).
- Luận án phân tích những vấn đề đặt ra và đề xuất các quan điểm, giải pháp chủ
yếu nhằm tiếp tục bổ sung, phát triển nhận thức về dân chủ XHCN và xây dựng nền
dân chủ XHCN ở Việt Nam trong điều kiện hiện nay.
6. Ý nghĩa thực tiễn của của luận án
- Kết quả nghiên cứu góp phần để công tác tư tưởng, lý luận của Đảng “tự ý thức
về mình”, không ngừng vươn lên phản ánh đúng đắn, sâu sắc quy luật, tính quy luật
của quá trình dân chủ hóa XHCN ở Việt Nam trong thời kỳ quá độ lên CNXH. Qua đó,
góp phần để công tác tư tưởng, lý luận của Đảng thực hiện tốt hơn vai trò “mở đường”
đối với thực tiễn xây dựng nền dân chủ XHCN ở nước ta trong điều kiện mới.
5
- Kết quả nghiên cứu góp phần tạo sự thống nhất về tư tưởng và hành động để
toàn Đảng, toàn dân ta thực hiện tốt hơn việc phát huy dân chủ XHCN cũng như phê
phán các quan điểm sai trái về dân chủ và dân chủ XHCN.
- Luận án có thể dùng làm tài liệu tham khảo cho việc nghiên cứu, giảng dạy, học
tập các nội dung liên quan đến dân chủ và hệ thống chính trị trong Chủ nghĩa xã hội
khoa học và các chuyên ngành khoa học khác.
7. Kết cấu của luận án
Ngoài phần mở đầu, kết luận, danh mục công trình đã công bố của tác giả liên
quan đến luận án, danh mục tài liệu tham khảo và phụ lục, luận án gồm 4 chương,
10 tiết.
6
Chương 1
TỔNG QUAN TÌNH HÌNH NGHIÊN CỨU LIÊN QUAN ĐẾN ĐỀ TÀI
1.1. NHỮNG CÔNG TRÌNH NGHIÊN CỨU VỀ DÂN CHỦ VÀ DÂN CHỦ XÃ
HỘI CHỦ NGHĨA
1.1.1. Các nghiên cứu trên thế giới về dân chủ và dân chủ xã hội chủ nghĩa
Có thể kể đến một số tác phẩm đã được dịch và lưu hành ở nước ta như:
David Held, trong cuốn Các mô hình quản lý nhà nước hiện đại [67] đã trình
bày, phân tích các mô hình dân chủ và những biến thể của nó. Qua đó, thấy rằng, dân
chủ có một lịch sử phức tạp với nhiều quan niệm khác nhau, thậm chí trái ngược
nhau, và mô hình dân chủ là rất đa dạng. Tác giả viết: “Chúng ta không thể hài lòng
với những mô hình dân chủ hiện hữu. Xuyên suốt tác phẩm này chúng ta đã nhận
thấy lí do vững chắc để không chấp nhận bất cứ mô hình nào, dù đó là mô hình cổ
điển hay hiện đại” [67, tr.438].
N.M. Voskresenskaia, N.B. Davletshina trong cuốn Chế độ dân chủ, nhà nước và
xã hội [203] trình bày nhiều vấn đề về dân chủ, trong đó có nêu, phân tích các quan
niệm khác nhau về dân chủ; giá trị dân chủ; cơ chế dân chủ; thể chế dân chủ, cấu trúc
của chế độ dân chủ. Các tác giả cho rằng, dân chủ XHCN theo mô hình Xôviết chỉ là
một chế độ toàn trị, xa lạ với nguyên tắc, giá trị dân chủ nên nó đã thành quá khứ của
nước Nga.
Tác phẩm Dân chủ trực tiếp: sổ tay IDEA quốc tế [200] của Viện quốc tế về dân
chủ và hỗ trợ bầu cử trình bày tổng quan về việc vận dụng dân chủ trực tiếp, nhất là
trưng cầu ý dân, sáng kiến công dân, sáng kiến chương trình nghị sự và bãi miễn được
thực hiện ở các vùng trên thế giới. Ở đây, dân chủ được tiếp cận theo nghĩa là chế độ
chính trị, hệ thống tổ chức quyền lực và cơ chế, quy trình vận hành hệ thống dân chủ.
Theo đó, dân chủ trực tiếp được xem là một cơ chế độc đáo khuyến khích sự tham gia
của công dân và tự do ngôn luận để thúc đẩy xây dựng nền dân chủ trong các xã hội
đang phát triển.
O.T.Bogomolov trong bài Dân chủ và tiến bộ đối với sự phát triển kinh tế - xã
hội [18] đã trình bày các nguyên tắc nền tảng của dân chủ; cuộc khủng hoảng của
dân chủ Phương Tây; mối quan hệ giữa dân chủ và phát triển ở các nước trên thế
giới và ở Nga. Tác giả cho rằng, chính ảnh hưởng của Liên Xô và những thành tựu
7
mà Liên Xô đạt được trong lĩnh vực xã hội đã thúc đẩy sự ra đời của mô hình nhà
nước phúc lợi. Theo đó, ở Nga hiện nay, việc xây dựng nhà nước phúc lợi theo mô
hình Bắc Âu là phù hợp với tâm lý của nhiều người và phù hợp với kinh nghiệm
lịch sử của thời kỳ XHCN.
Bài phát biểu tại lễ kỷ niệm 30 năm cải cách mở cửa của Hồ Cẩm Đào trong Tài
liệu tham khảo phục vụ nghiên cứu tổng kết 30 năm đổi mới [131] khẳng định:“Nước
Trung Quốc là nhà nước XHCN chuyên chính dân chủ nhân dân, lấy liên minh công
nông làm nền tảng, do giai cấp công nhân lãnh đạo. Dân chủ nhân dân là sinh mệnh
của XHCN, nhân dân làm chủ là hạt nhân và bản chất của chính trị dân chủ XHCN.
Không có dân chủ là không có XHCN, cũng là không có hiện đại hóa XHCN” [131,
tr.299-300].
Luận án Tiến sĩ Triết học Vấn đề xây dựng chế độ dân chủ nhân dân ở Lào hiện
nay [90] của Khăm Phon Bun Na Di đi sâu luận giải quá trình xây dựng, phát triển chế
độ dân chủ nhân dân ở Lào: lịch sử ra đời, phát triển; quan điểm đổi mới của Đảng
Nhân dân Cách mạng Lào về nội dung kinh tế, chính trị, văn hóa, xã hội của chế độ dân
chủ nhân dân; thực trạng và giải pháp xây dựng chế độ dân chủ nhân dân ở Lào xét trên
các nội dung kinh tế, chính trị, văn hóa, xã hội và hoạt động đối ngoại.
1.1.2. Các nghiên cứu ở Việt Nam về dân chủ và dân chủ xã hội chủ nghĩa
Thái Ninh, Hoàng Chí Bảo trong cuốn Dân chủ tư sản và dân chủ xã hội chủ
nghĩa [132], đã phân tích những quan điểm, tư tưởng cơ bản của chủ nghĩa Mác -
Lênin về dân chủ, lịch sử ra đời, phát triển, thực trạng, bản chất, khuyết tật của dân chủ
tư sản (DCTS); bản chất, sự hình thành và những thách thức của dân chủ XHCN. Ở
đây, dân chủ XHCN được tiếp cận toàn diện, hệ thống với 5 khía cạnh: hình thức tổ
chức xã hội, tổ chức nhà nước; giá trị xã hội; điều kiện để hình thành nhân cách trung
thực, sáng tạo; cơ chế, nguyên tắc lãnh đạo, quản lý xã hội (tập trung dân chủ); động
lực, bản chất tốt đẹp của CNXH.
Tác giả Hoàng Chí Bảo trong cuốn Dân chủ và dân chủ cơ sở ở nông thôn trong
tiến trình đổi mới [4] cho rằng, nội dung dân chủ và dân chủ XHCN có thể tiếp cận
theo những góc độ khác nhau. Ví dụ: tiếp cận theo theo lĩnh vực đời sống xã hội có nội
dung chính trị, kinh tế, tư tưởng, văn hóa; tiếp cận từ các lớp quan hệ và cấu trúc xã
hội sẽ có dân chủ của cá nhân (lợi ích, quyền hạn gắn với trách nhiệm, nghĩa vụ, sự gắn
8
liền giữa ý thức dân chủ với năng lực dân chủ, thực hành dân chủ) và dân chủ của xã
hội (của tập thể, của cộng đồng, tầng lớp, giai cấp đến của toàn thể xã hội, dân tộc);
tiếp cận theo các nhóm chủ thể, các quan hệ nghề nghiệp: dân chủ của công nhân, nông
dân, trí thức khoa học và sáng tạo văn hóa, của nghệ sĩ...; tiếp cận theo góc độ tổ chức,
bộ máy, thể chế hoạt động có dân chủ trong Đảng, trong Nhà nước, trong các tổ chức
đoàn thể cấu thành hệ thống chính trị [4, tr.49-50].
Cuốn Dân chủ với phát triển cộng đồng [130] của Trần Quang Nhiếp trình
bày, phân tích nhiều vấn đề lý luận, thực tiễn về dân chủ và dân chủ ở cơ sở: tư
tưởng Hồ Chí Minh về dân chủ; vai trò của dân chủ đối với phát triển cộng đồng;
những thuận lợi, khó khăn, thành tựu, hạn chế trong thực hiện dân chủ cơ sở ở nước
ta; vấn đề đặt ra và các giải pháp phát huy quyền làm chủ của nhân dân ở nước ta
trong tiến trình đổi mới.
Cuốn Dân chủ, độc tài và phát triển [151] của Hồ Sĩ Quý nghiên cứu nhiều vấn
đề xung quanh mối quan hệ giữa dân chủ, độc tài và phát triển. Tác giả cho rằng, ngoài
quan niệm cơ bản: “Dân chủ là một hình thức tổ chức nhà nước mà trong đó, quyền lực
thuộc về nhân dân, phục vụ nhân dân và vì quyền lợi của nhân dân” còn có nhiều quan
niệm về những khía cạnh khác nhau của dân chủ nhưng đôi khi người ta cũng xem khía
cạnh này là định nghĩa khái niệm dân chủ [151, tr.37-38]. Cuốn sách khẳng định: sự
vận động phát triển của các nền dân chủ luôn phải trải qua những bước quanh co và
không tránh khỏi những hạn chế, khiếm khuyết, nhưng “dân chủ nếu có khiếm khuyết,
nó sẽ được sửa chữa bằng một trình độ dân chủ cao hơn” [151, tr.256].
Cuốn Dân chủ và tập trung dân chủ - Lý luận và thực tiễn [135] của Nguyễn Tiến
Phồn và cuốn Nguyên tắc tập trung dân chủ trong công tác xây dựng Đảng hiện nay
[181] do Cao Văn Thống sưu tầm và biên soạn bàn những vấn đề lý luận và thực tiễn
về dân chủ, dân chủ XHCN, nguyên tắc tập trung dân chủ trong tổ chức, hoạt động của
hệ thống chính trị XHCN. Theo đó, tập trung dân chủ là cơ chế, nguyên tắc cốt tử trong
tổ chức, vận hành của Đảng, Nhà nước và của nền dân chủ XHCN.
Lê Hữu Nghĩa, Hoàng Chí Bảo và Bùi Đình Bôn (đồng chủ biên) trong Đổi mới
quan hệ giữa Đảng Nhà nước và các tổ chức chính tri - xã hội trong hệ thống chính trị
ở Việt Nam [122] khẳng định: “Đổi mới, hoàn thiện các quan hệ giữa Đảng, Nhà nước
và các tổ chức chính trị - xã hội liên quan tới nội tại từng tổ chức và hệ thống các tổ
9
chức; đồng thời liên quan tới quan hệ giữa các tổ chức này với nhân dân và xã hội mà
mục tiêu sâu xa là cùng hướng vào phát triển dân chủ, phát huy quyền làm chủ của dân
để phục vụ dân” [122, tr.472].
Cuốn Nhìn lại quá trình đổi mới tư duy lý luận của Đảng 1986 - 2005, (2 tập)
[156, 157] do Tô Huy Rứa, Hoàng Chí Bảo, Trần Khắc Việt và Lê Ngọc Tòng (Đồng
chủ biên) là công trình tổng kết quá trình đổi mới tư duy lý luận của Đảng từ năm 1986
đến năm 2005 trên nhiều lĩnh vực của đời sống xã hội. Trong đó có một số chuyên đề
nghiên cứu những nội dung có liên quan đến dân chủ XHCN và xây dựng nền dân chủ
XHCN. Ví dụ: nghiên cứu về quá trình đổi mới tư duy, phát triển nhận thức của Đảng
ta về hệ thống chính trị; về Nhà nước pháp quyền XHCN; về bản chất giai cấp, tính
nhân dân và tính dân tộc của Nhà nước ta; về nguyên tắc tập trung dân chủ; về dân chủ
trong Đảng; về quyền con người; về văn hóa; về phát huy dân chủ trong điều kiện xây
dựng Nhà nước pháp quyền, một đảng cầm quyền...
Cuốn Một số vấn đề lý luận và thực tiễn ở Việt Nam thời kỳ đổi mới [204] của
Đức Vượng; bài Nhận thức của Đảng Cộng sản Việt Nam về dân chủ và dân chủ xã
hội chủ nghĩa của Nguyễn Quốc Phẩm trong cuốn Nhận thức về chủ nghĩa xã hội và
con đường đi lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam [196] đã trình bày, phân tích quá trình
đổi mới, phát triển nhận thức lý luận của Đảng ta về dân chủ và dân chủ XHCN. Qua
đó, nêu lên những nhận thức mới của Đảng về mục tiêu, đặc trưng và các nội dung của
dân chủ XHCN ở Việt Nam.
Bài Tổng quan về dân chủ và cơ chế thực hiện dân chủ xã hội chủ nghĩa ở nước
ta: quan điểm, lý luận và phương pháp nghiên cứu [5] của Hoàng Chí Bảo; Một cách
tiếp cận khái niệm dân chủ [144] của Nguyễn Đăng Quang bàn về dân chủ với những
phương pháp tiếp cận khác nhau. Tiếp cận từ những cơ sở hình thành dân chủ có: cơ sở
kinh tế của dân chủ và dân chủ trong kinh tế; cơ sở chính trị của dân chủ và dân chủ
trong chính trị; cơ sở văn hóa, xã hội và dân chủ trong lĩnh vực văn hóa, xã hội. Tiếp
cận từ các nội dung cơ bản của dân chủ: theo nội dung chính trị, dân chủ là một hình
thái nhà nước; theo nội dung văn minh, dân chủ là sản phẩm của nền văn minh; theo
nội dung nhân đạo, dân chủ là phương thức tổ chức xã hội hiện đại...
Các tác giả Lê Minh Quân trong Dân chủ và dân chủ hóa từ một số cách tiếp cận
cơ bản [141]; Cao Đức Thái trong Dân chủ trong xu thế thời đại và nền dân chủ của
10
chúng ta [172]; Nguyễn Trọng Chuẩn trong Một số vấn đề về dân chủ [20] phân tích
các vấn đề về dân chủ, dân chủ hóa. Các tác giả khẳng định: dân chủ có nhiều cách tiếp
cận: từ góc độ giá trị, góc độ thể chế, góc độ phương pháp, phong cách. Dân chủ hóa là
xu thế khách quan của thời đại; nền dân chủ của Việt Nam đã và đang phát triển đúng
hướng, phù hợp với xu thế chung của thời đại ngày nay.
Bài Di chúc Hồ Chí Minh - vấn đề dân chủ và “thực hành dân chủ rộng rãi” với
bối cảnh hiện nay [174] và Dân chủ thật sự là vấn đề trung tâm, cốt tử của chủ nghĩa
xã hội [175] của Hồ Bá Thâm khẳng định giá trị tư tưởng dân chủ của Hồ Chí Minh thể
hiện trong Di chúc; khẳng định dân chủ là vấn đề trung tâm, cốt tử của CNXH; nêu lên
nhiều vấn đề gai góc, phức tạp đặt ra cần giải quyết về dân chủ ở Việt Nam cả trên
phương diện thực tiễn và lý luận.
Tác giả Vũ Văn Viên trong Nhà nước pháp quyền công cụ để thực hiện dân chủ
[194]; Lương Đình Hải trong Xây dựng Nhà nước pháp quyền và vấn đề dân chủ hóa
xã hội ở nước ta hiện nay [66] phân tích sự gắn bó mật thiết giữa pháp luật và dân chủ
trong quá trình phát triển xã hội. Nhà nước pháp quyền tư sản là hình thức tổ chức
quyền lực để thực hiện DCTS. Nhà nước pháp quyền XHCN là công cụ quan trọng để
thực hiện dân chủ XHCN. Xây dựng, phát huy nền dân chủ XHCN ở Việt Nam gắn
liền với việc đẩy mạnh xây dựng, hoàn thiện Nhà nước pháp quyền XHCN.
Bài Mô hình tổ chức nền dân chủ [30] của Hà Đăng; Những nội dung mới về nền
dân chủ xã hội chủ nghĩa [160] của Phan Xuân Sơn; Dân chủ xã hội chủ nghĩa và thực
hiện dân chủ xã hội chủ nghĩa theo tinh thần Đại hội XI của Đảng [187] của Trương
Minh Tuấn; Những nhận thức lý luận mới về dân chủ qua 20 năm đổi mới và trong văn
kiện Đại hội X của Đảng của Hoàng Chí Bảo trong Kiên định mục tiêu và con đường đi
lên chủ nghĩa xã hội ở nước ta [80]; Vấn đề dân chủ trong các văn kiện Đại hội XI của
Đảng [26] của Vũ Hoàng Công phân tích các quan điểm mới của Đảng về dân chủ
XHCN như: mô hình dân chủ; dân chủ là mục tiêu, động lực phát triển; hệ thống chính
trị XHCN với cơ chế Đảng lãnh đạo, Nhà nước quản lý, nhân dân làm chủ; nhận thức
về Nhà nước pháp quyền XHCN, thực hành cơ chế kiểm soát quyền lực nhà nước
Tác giả Nguyễn Viết Thông trong bài Quan điểm của Đảng Cộng sản Việt Nam
về dân chủ và thực hành dân chủ trước và từ khi đổi mới đến nay [180] đã hệ thống
hóa quan điểm của Đảng Cộng sản Việt Nam về dân chủ và thực hành dân chủ trong
11
giai đoạn trước và từ khi đổi mới đến nay; đồng thời phân tích và khẳng định rằng, so
với thời kỳ trước đổi mới, từ Đại hội VI đến nay, nhận thức của Đảng về dân chủ và
thực hành dân chủ ngày càng sâu sắc hơn, đúng đắn hơn và nó được thể chế hóa bằng
Hiến pháp, pháp luật.
Bài Dân chủ và hệ thống chính trị xã hội chủ nghĩa trong Chủ nghĩa Mác - Lênin,
tư tưởng Hồ Chí Minh nền tảng tư tưởng của Đảng ta [76] và bài Dân chủ là bản chất
của chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam trong Kiên định mục tiêu và con đường đi lên chủ
nghĩa xã hội ở nước ta [80] của Phạm Ngọc Quang bàn về dân chủ XHCN. Từ việc
phân tích thành tựu dân chủ trên các lĩnh vực đời sống xã hội ở nước ta trong thời kỳ
đổi mới tác giả khẳng định: dân chủ là bản chất của CNXH ở Việt Nam. Tuy nhiên,
“bản chất của sự vật nói chung, của một chế độ xã hội nói riêng, không phải nhất thành
bất biến, có sự phát triển chín muồi ngay khi chế độ đó mới ra đời. Trái lại, bản chất
của sự vật luôn trải qua một quá trình phát triển, nó được chín muồi dần dần tùy thuộc
vào sự phát triển và hoàn thiện của các bộ phận cấu trành, các nhân tố thúc đẩy” [80,
tr.343]. Ở Việt Nam, đến nay, dân chủ XHCN mới đang đi những bước đầu trên con
đường tạo lập nó [76, tr.476].
Kỷ yếu đề tài Những quan điểm cơ bản của C.Mác, Ph.Ăngghen và V.I.Lênin về
dân chủ xã hội chủ nghĩa [188] do Nguyễn Thanh Tuấn làm chủ nhiệm trình bày
những quan điểm cơ bản của C.Mác, Ph.Ăngghen và V.I.Lênin về dân chủ XHCN; qua
đó, theo tinh thần đổi mới, phân tích việc vận dụng những quan điểm đó trong quá trình
xây dựng nền dân chủ XHCN ở nước ta.
Báo cáo Đẩy mạnh chiều sâu dân chủ và tăng cường sự tham gia của người dân
ở Việt Nam [198] của Viện Khoa học xã hội Việt Nam - Chương trình phát triển Liên
hợp quốc trình bày kết quả nghiên cứu chiều sâu về dân chủ tham gia, dân chủ đại diện
ở Việt Nam, đánh giá kết quả, thành tựu, hạn chế và nêu nhiều gợi ý, khuyến nghị
chính sách quý báu. Báo cáo kết luận: Việt Nam cần tận dụng thế mạnh riêng của
mình... để xây dựng những cấu trúc mới, không cần phải nhập khẩu một mô hình hoàn
toàn xa lạ của nước ngoài [198, tr.44].
Báo cáo đề tài Nghiên cứu, tổng kết làm sáng tỏ những vấn đề lý luận xây
dựng dân chủ xã hội chủ nghĩa trong công cuộc đổi mới đất nước [168] do Đỗ Thị
Thạch làm chủ nhiệm trình bày cơ sở lý luận, thực tiễn; thực trạng nhận thức, xây
12
dựng dân chủ XHCN trong công cuộc đổi mới; những vấn đề đặt ra; xu hướng phát
triển dân chủ và các giải pháp góp phần làm sáng tỏ những vấn đề lý luận xây dựng
dân chủ XHCN ở Việt Nam hiện nay.
Luận án Tiến sĩ Luật học: Mối quan hệ giữa dân chủ và pháp luật trong điều kiện
Việt Nam hiện nay [91] của Đỗ Minh Khôi nghiên cứu dân chủ với tư cách là dân chủ
chính trị trong một xã hội chính trị gắn liền với nhà nước và các thể chế của nó, nổi bật
ở thể chế pháp luật, các tác giả luận giải về mối quan hệ giữa dân chủ và văn hóa pháp
luật, qua đó đưa ra các giải pháp quan trọng nhằm bảo đảm dân chủ và nâng cao văn
hóa pháp luật ở nước ta hiện nay.
1.2. NHỮNG CÔNG TRÌNH NGHIÊN CỨU VỀ XÂY DỰNG NỀN DÂN CHỦ
VÀ XÂY DỰNG NỀN DÂN CHỦ XÃ HỘI CHỦ NGHĨA
1.2.1. Các nghiên cứu trên thế giới về xây dựng nền dân chủ và xây dựng
nền dân chủ xã hội chủ nghĩa
Bài Chủ nghĩa xã hội và dân chủ của Alecxei Prigarin trong Những tranh luận
mới của các học giả Nga về chủ nghĩa xã hội [166] phân tích nguyên nhân thất bại của
dân chủ XHCN ở Liên Xô; khẳng định dân chủ XHCN vẫn là con đường phát triển tất
yếu của nhân loại. Xây dựng dân chủ XHCN là xây dựng các điều kiện bảo đảm để
quần chúng được biết tất cả, được thông tin đầy đủ về các lĩnh vực đời sống xã hội;
điều kiện bảo đảm để từng cá nhân và tổ chức xã hội có thể bày tỏ công khai và tự do ý
kiến của mình về mọi việc; điều kiện để mọi người có khả năng tác động đến đời sống
của tập thể lao động của họ cũng như đời sống của địa phương và đất nước [166, tr.26].
Bài Thành tựu 30 năm công tác xây dựng Đảng của Tập Cận Bình trong Tài liệu
tham khảo phục vụ nghiên cứu tổng kết 30 năm đổi mới [131] khẳng định: dân chủ trong
Đảng là tính mạng của Đảng, không có dân chủ là không có chủ nghĩa xã hội, không có
hiện đại hóa XHCN phải tăng cường dân chủ trong Đảng để thúc đẩy dân chủ trong
toàn xã hội, lấy hài hòa trong nội bộ Đảng để thúc đẩy hài hòa trong toàn xã hội
[131, tr.457].
Bài Đảng cộng sản các nước trên thế giới tận dụng như thế nào sự tham dự
dân chủ để thắt chặt quan hệ giữa đảng với quần chúng [92] của Thái Thượng Kim
bàn về các biện pháp bảo đảm dân chủ. Từ kinh nghiệm của các đảng, nhất là kinh
nghiệm của Đảng Cộng sản Trung Quốc, Đảng Cộng sản Cuba, Đảng Cộng sản
13
Việt Nam, tác giả khẳng định giải pháp thực hiện dân chủ trong đảng và thắt chặt
quan hệ giữa đảng với quần chúng, đó là: lấy dân chủ trong đảng để thúc đẩy dân
chủ trong xã hội, thực hiện nguyên tắc nhân dân làm chủ, tận dụng kênh dân chủ để
biểu đạt, lắng nghe nguyện vọng quần chúng và thống nhất lợi ích xã hội.
Cuốn Trung Quốc đối mặt với những điểm nóng lý luận [28] của Cục Lý luận -
Ban Tuyên truyền Trung ương Đảng Cộng sản Trung Quốc cho rằng, nhận thức về
CNXH dân chủ; về dân chủ, tự do, nhân quyền phương Tây; về "dân chủ kiểu Trung
Quốc” là một trong những điểm nóng về lý luận. Cuốn sách khẳng định: Phát triển chính
trị XHCN đặc sắc Trung Quốc là con đường duy nhất đúng đắn phù hợp với tình hình
và thực tế Trung Quốc mà nhân dân Trung Quốc đã chọn dưới sự lãnh đạo của Đảng
Cộng sản Trung Quốc để phát triển nền chính trị dân chủ xã hội chủ nghĩa [28, tr.161].
Cuốn Dân chủ ở cấp địa phương: sổ tay IDEA quốc tế [200] của Viện quốc tế
về dân chủ và hỗ trợ bầu cử trình bày các thiết kế hệ thống, các phương thức, quy
trình thực tiễn cho việc củng cố, phát triển dân chủ ở cấp địa phương đối với cả hình
thức dân chủ đại diện và dân chủ trực tiếp. Dân chủ ở cấp địa phương là cấp gần ...ng xứng đáng, không còn có khả năng
thực thi lợi ích cộng đồng thì bị cộng đồng phế bỏ (bãi miễn), thay thế. Ở đây, nguồn
gốc quyền lực là từ nhu cầu khách quan của hoạt động sản xuất ngày càng có tính xã
hội hoá. Chủ thể quyền lực là mọi thành viên trong cộng đồng xã hội, là toàn thể nhân
dân. Quyền lực ấy gọi là quyền lực công, quyền lực của cộng đồng xã hội.
26
Những người nắm quyền lực công, lúc đầu có thể là những người có ưu thế về
sức khoẻ, trí tuệ, tuổi tác, kinh nghiệm, đạo đức... Khi xã hội phân hoá giai cấp thì giai
cấp nắm tư liệu sản xuất trở thành chủ thể quyền lực công, sử dụng quyền lực ấy chủ
yếu và trước hết để bảo đảm lợi ích của giai cấp mình. Đó là lúc giai cấp chủ nô lập ra
nhà nước dân chủ chủ nô của mình (nhà nước Aten ở Hy Lạp cổ đại từ thế kỷ VIII đến
thế kỷ V trước Công nguyên là một điển hình). Thực chất, mọi lợi ích, quyền lực đã bị
giai cấp chủ nô thâu tóm. “Nhân dân” ở đây chỉ là một số ít trong xã hội, gồm những
người chủ nô, tăng lữ, thương gia, một số trí thức và những người tự do khác. Còn đa
số nhân dân lao động, những người nô lệ, bị mất hết quyền lực, họ chỉ là những “công
cụ biết nói”. Quyền lực nhân dân, quyền lực công bị tha hóa thành quyền lực chính trị,
thành quyền lực nhà nước của giai cấp chủ nô. Vì thế, đối với chủ nô, dân chủ là quyền
lực thực sự của họ và là chiêu bài để lừa mị mọi người; đối với giai cấp nô lệ, dân chủ
chỉ là niềm mong đợi, nỗi khát khao và là mục tiêu tranh đấu. Kể từ đó, bao thế hệ
những người lao động đã liên tục vùng dậy đấu tranh chống chế độ tư hữu, chống nhà
nước của giai cấp bóc lột để đòi lại quyền dân chủ của mình. Trong xã hội có giai cấp,
đấu tranh vì dân chủ trở thành một trong những động lực của lịch sử. Dân chủ, do đó,
trở thành vấn đề phức tạp cả về lý luận và thực tiễn trong lịch sử nhân loại.
Từ nghĩa gốc của khái niệm (dân chủ là quyền lực của nhân dân), trong những
điều kiện, hoàn cảnh lịch sử khác nhau, tùy theo sự vận động biến đổi của thực tiễn dân
chủ, khái niệm dân chủ được nhận thức cũng đa dạng. Đến nay, mặc dù vẫn còn có
nhiều quan điểm khác nhau nhưng hầu như tất cả đều có những nhận thức chung tương
đối thống nhất về những nội dung cơ bản của khái niệm dân chủ. Theo đó, dân chủ
được hiểu theo 5 khía cạnh cơ bản:
Thứ nhất, dân chủ là chế độ chính trị, chế độ nhà nước, trong đó, một mặt, thừa
nhận quyền lực chính trị của nhân dân, quyền tự do, bình đẳng của công dân trong việc
xác định tổ chức, cơ cấu nhà nước, quản lý nhà nước; mặt khác, thi hành có tổ chức, có
hệ thống sự cưỡng chế bằng pháp luật đối với mọi người để bảo đảm dân chủ chung
cho toàn xã hội. Đây là hình thức lịch sử tất yếu của việc tổ chức và thực thi quyền dân
chủ của nhân dân trong xã hội có giai cấp. Chế độ dân chủ muốn thể hiện ra trong hiện
thực, trở thành hiện thực bao giờ cũng phải được biểu hiện ra, trước hết và chủ yếu ở
hình thức nhà nước tương ứng, phù hợp. Tuy nhiên, không phải chế độ chính trị, chế
27
độ nhà nước nào cũng đồng thời và đương nhiên, tự nhiên là chế độ dân chủ. Một nhà
nước và chế độ dân chủ tiến bộ ở một giai đoạn nào đó thì cũng không phải mãi mãi là
như thế ở những giai đoạn, thời kỳ tồn tại khác nhau. Chỉ những nhà nước và chế độ
chính trị nào bảo đảm quyền lực nhà nước là quyền lực của nhân dân thì đó mới là chế
độ chính trị và chế độ nhà nước dân chủ.
Thứ hai, dân chủ là quyền lực thuộc về giai cấp thống trị. Trong xã hội có giai
cấp, mỗi giai cấp nhận thức, triển khai và thực thi dân chủ tuỳ theo lập trường, quan
điểm và lợi ích của giai cấp mình. Trong điều kiện đó, dân chủ trước hết và chủ yếu là
dân chủ của giai cấp thống trị. Dân chủ của giai cấp thống trị gắn liền và bao hàm sự
hạn chế, thậm chí tước đoạt dân chủ của các giai cấp, tầng lớp xã hội khác. Tuy nhiên,
dân chủ của giai cấp thống trị muốn được thực thi và bảo đảm thì nó, dù muốn hay
không cũng phải thể hiện ra dưới những hình thức, mức độ ít nhiều rộng rãi, nghĩa là,
không chỉ bảo đảm dân chủ của giai cấp thống trị mà còn bảo đảm dân chủ chung cho
toàn xã hội. Hơn nữa, bất kỳ nền dân chủ nào cũng ra đời, tồn tại, biểu hiện ra và phát
triển trong khung cảnh một xã hội, nhà nước, dân tộc, quốc gia; trong sự tác động, ảnh
hưởng của cả các yếu tố khu vực, quốc tế nên dân chủ bên cạnh bản chất giai cấp, ở
những mức độ khác nhau, còn mang tính dân tộc, tính nhân dân và tính nhân loại.
Trong xã hội có giai cấp, bản chất giai cấp và tính dân tộc, tính nhân dân, tính nhân loại
của dân chủ luôn chứa đựng sự thống nhất trong mâu thuẫn. Do đó, trong nhận thức và
thực tiễn, nếu tuyệt đối hóa bản chất giai cấp để phủ nhận tính dân tộc, tính nhân dân,
tính nhân loại thì cũng tai hại không kém việc đề cao quá mức tính dân tộc, tính nhân
dân, tính nhân loại để lảng tránh, phủ nhận bản chất giai cấp của dân chủ.
Thứ ba, dân chủ là sự biểu thị thành quả đấu tranh của nhân dân lao động chống
lại các giai cấp, lực lượng áp bức, bóc lột. Trong các xã hội có giai cấp đối kháng, do
nắm giữ những tư liệu sản xuất chủ yếu của xã hội, giai cấp thống trị đã tìm mọi cách
áp bức về chính trị, bóc lột về kinh tế, nô dịch về tư tưởng, tinh thần đối với đông đảo
nhân dân lao động. Do đó, những người lao động bị áp bức, bóc lột từ thế hệ này đến
thế hệ khác đã bền bỉ tranh đấu để làm nên công trình bi tráng của lịch sử dân chủ. Vì
thế, dân chủ không chỉ đơn thuần là quyền lực, lợi ích thuộc về giai cấp thống trị mà nó
còn là phần quyền lực, lợi ích của đông đảo nhân dân do chính họ giành được trong đấu
tranh xã hội. Những bước tiến về dân chủ có được trong lịch sử nhân loại không chỉ bị
28
chi phối bởi ý chí của các lực lượng thống trị mà còn được tạo ra từ áp lực đấu tranh
lâu dài, những hy sinh xương máu của biết bao thế hệ những người cần lao. Dân chủ là
mục tiêu, là thành quả đấu tranh của nhân dân lao động. Đấu tranh cho dân chủ, vì dân
chủ trở thành mục tiêu, nội dung đấu tranh giai cấp - một trong những động lực cơ bản
thúc đẩy sự phát triển của xã hội có giai cấp.
Thứ tư, dân chủ là nguyên tắc tổ chức, sinh hoạt của các cộng đồng và các tổ
chức chính trị - xã hội trên cơ sở sự tự do, bình đẳng giữa các thành viên, thiểu số
phục tùng đa số và tôn trọng, bảo vệ thiểu số. Dân chủ không chỉ là phạm trù chính trị
ra đời, tồn tại, phát triển và sẽ tiêu vong cùng với giai cấp và nhà nước mà nó là vấn đề
muôn thuở của con người và xã hội loài người. Trong chế độ cộng sản nguyên thủy,
thông qua “Đại hội nhân dân”, nhân dân bầu ra hoặc phế bỏ thủ lĩnh quân sự và quyết
định mọi vấn đề quan trọng của thị tộc, bộ lạc. Cùng với sự phát triển đa dạng, phức
tạp của các hình thức tổ chức, sinh hoạt cộng đồng, các tổ chức chính trị - xã hội,
nguyên tắc dân chủ nguyên thủy nói trên không những được duy trì mà còn được bổ
sung, phát triển. Từ các thị tộc, bộ lạc xa xưa cho đến các hình thức cộng đồng thôn,
buôn, làng, bản và các dân tộc, quốc gia, những tổ chức khu vực, quốc tế hiện đại; từ
cộng đồng gia đình, trường học, các tổ chức tôn giáo đến các tổ chức chính trị, xã hội,
đâu đâu cũng sử dụng các nguyên tắc, cơ chế dân chủ. Theo đó, ngay cả trong chế độ
chính trị và nhà nước xa lạ với dân chủ, thậm chí đối lập với dân chủ (chế độ độc tài,
quân chủ chuyên chế) thì những nhu cầu dân chủ và những nguyên tắc dân chủ vẫn
sinh thành, hiện hữu cùng với sự bền bỉ, sáng tạo của các hình thức cộng đồng người.
Thứ năm, dân chủ là giá trị xã hội, giá trị nhân văn, văn minh phản ánh trạng
thái, mức độ giải phóng con người trong tiến trình phát triển xã hội. Giá trị xã hội của
dân chủ là kết quả của quá trình lịch sử mà con người và các cộng đồng người đạt được
thông qua đấu tranh chinh phục tự nhiên và cải tạo xã hội để tự biểu hiện vai trò là chủ,
làm chủ của mình trong cuộc sống hiện thực. Dân chủ phản ánh trình độ đạt được về
bảo đảm các quyền, nghĩa vụ, tự do của con người, của công dân và sự tham gia của họ
vào các lĩnh vực của đời sống xã hội. Dân chủ là biểu hiện, là kết quả sự phát triển tự
thân, tiến bộ của các quan hệ xã hội, các hoạt động xã hội và các giá trị dân chủ đến
lượt mình cũng thâm nhập, tác động làm lành mạnh hóa, dân chủ hóa và nhân văn hóa
các quan hệ xã hội, các hoạt động xã hội của con người trên các cấp độ tồn tại của nó.
29
Theo đó, dân chủ có giá trị lịch sử và có giá trị vĩnh viễn, trường tồn; có giá trị riêng,
đặc thù và có giá trị chung, phổ biến; có giá trị giai cấp, giá trị dân tộc và giá trị toàn
nhân loại; có giá trị cá nhân, có giá trị cộng đồng, tổ chức; có giá trị là thiết chế, vật
chất và có giá trị là tư tưởng, thể chế; có giá trị thuộc về chính trị, có giá trị kinh tế và
có giá trị văn hóa, văn minh, công nghệ, kỹ thuật... Tất cả các giá trị đó đều phản ánh
trạng thái, mức độ giải phóng con người trong tiến trình phát triển xã hội. Các giá trị đó
không chỉ được tạo ra từ quyền lực chính trị, từ yếu tố nhà nước mà nó còn phụ thuộc
vào nhiều yếu tố khác, đó là sự tiến bộ của LLSX, cơ cấu sản xuất, trình độ quản lý
kinh tế, quản lý xã hội, trình độ dân trí, đặc trưng văn hóa, phong tục... Trong đó, suy
đến cùng, quyết định nhất là trình độ phát triển của LLSX xã hội. Vì nguồn gốc sâu xa
của sự vận động, phát triển xã hội là ở sự phát triển của LLSX. Trong tiến trình lịch sử
- tự nhiên của sự phát triển các hình thái kinh tế - xã hội, các giá trị xã hội, giá trị nhân
văn, văn minh của dân chủ được tích lũy sẽ ngày càng phong phú, toàn diện và sâu sắc
cả về nội dung và các hình thức biểu hiện.
Từ những nội dung phân tích ở trên cho thấy, dân chủ là khái niệm có nội dung
phong phú. Dân chủ không chỉ là hình thức nhà nước, chế độ chính trị bảo đảm quyền
lực thuộc về nhân dân; là quyền làm chủ của giai cấp thống trị; là kết quả đấu tranh của
nhân dân lao động chống lại các giai cấp, lực lượng áp bức, bóc lột; là nguyên tắc tổ
chức, sinh hoạt của các cộng đồng và các tổ chức chính trị, xã hội mà còn là giá trị xã
hội, giá trị nhân văn, văn minh phản ánh trạng thái, mức độ giải phóng con người trong
tiến trình phát triển xã hội... Theo đó, với nghĩa rộng nhất của khái niệm, dân chủ được
hiểu là phương thức quan hệ giữa người với người trên tất cả các lĩnh vực xã hội, giữa
các thiết chế xã hội, giữa các con người trong tất cả mọi cấp độ tồn tại khác nhau của
nó; là một hình thức tổ chức quan hệ xã hội thừa nhận quyền tự do, bình đẳng của mỗi
thành viên, thừa nhận nhân dân là chủ thể của quyền lực [146, tr.31].
2.1.1.2. Quan niệm chung về nền dân chủ và xây dựng nền dân chủ
- Quan niệm chung về nền dân chủ
Trong các nghiên cứu khoa học xung quanh vấn đề dân chủ, nền dân chủ (chế độ
dân chủ) là khái niệm phản ánh dân chủ trong tính chỉnh thể hiện thực của nó. Tác giả
Thái Ninh và Hoàng Chí Bảo cho rằng: “Trong mối tương quan với quyền lực nhà
nước và chế độ nhà nước, dân chủ được hiểu ở đây là chế độ dân chủ, là nền dân chủ”;
30
“Nền dân chủ, chế độ dân chủ, không có gì khác, chính là Nhà nước và chế độ nhà
nước tồn tại trong một xã hội nhất định” [132, tr.45; 14]. Tác giả Nguyễn Đăng Quang
giải thích: chế độ dân chủ chính trị (thường gọi là chế độ dân chủ) chỉ là một trong
những nội dung của nền dân chủ xã hội. Nền dân chủ là khái niệm có nhiều nội dung,
trong đó có 3 nội dung cơ bản: nội dung chính trị - dân chủ là một hình thái nhà nước;
nội dung văn minh - dân chủ là sản phẩm của nền văn minh; nội dung nhân đạo - dân
chủ là phương thức tổ chức xã hội hiện đại. Ba nội dung đó (cũng là ba mặt cơ bản)
quan hệ chặt chẽ và bổ sung cho nhau tạo thành nền dân chủ [144]. Tác giả Đỗ Trung
Hiếu cho rằng, với tư cách là một chỉnh thể hiện thực, dân chủ được định danh bằng
thuật ngữ nền dân chủ. Đây là lĩnh vực thâu tóm mọi khía cạnh vật chất và tinh thần
của dân chủ, từ kinh tế, chính trị, xã hội cho đến văn hóa. Như vậy, nhà nước chỉ là một
bộ phận (mặc dù rất quan trọng) trong đó [72, tr. 13]. Tác giả Phạm Ngọc Quang thì
khẳng định: “Những yêu cầu dân chủ của nhân dân được thể chế hóa thành các chuẩn
mực, thành nguyên tắc tổ chức và vận hành của Nhà nước và xã hội nói chung tạo
thành chế độ dân chủ” [78, tr.258].
Với tư cách là một chỉnh thể hiện thực, nền dân chủ được cấu thành bởi nhiều yếu
tố, bộ phận: cả khía cạnh vật chất, tinh thần; yếu tố kinh tế, chính trị, xã hội, văn hóa,
pháp luật dân chủ; yếu tố thể chế và thiết chế dân chủ; cơ chế, nguyên tắc và các giá trị,
chuẩn mực dân chủ... Trong xã hội có giai cấp, nền dân chủ là một chỉnh thể hiện thực
trong đó có chế độ chính trị, nhà nước, pháp luật dân chủ; sự làm chủ và chi phối giá trị
dân chủ của giai cấp thống trị; sự đấu tranh, vươn lên không ngừng của nhân dân lao
động chống lại các biểu hiện phản tiến bộ, phi dân chủ; sự tồn tại, hoạt động tự chủ, tự
quản của các tổ chức chính trị, xã hội; sự hiện hữu của các nguyên tắc, giá trị, chuẩn
mực dân chủ phản ánh trạng thái, mức độ giải phóng con người.
Với cách tiếp cận này, nền dân chủ được hiểu là một chỉnh thể xã hội trong đó các
giá trị, chuẩn mực, yêu cầu, các nguyên tắc dân chủ được ghi nhận và thực thi trên các
lĩnh vực cơ bản của đời sống xã hội. Trên lĩnh vực chính trị, bảo đảm các nguyên tắc:
tất cả quyền lực thuộc về nhân dân, mọi quyền lực mà nhà nước có đều do nhân dân ủy
quyền; bầu cử tự do, công bằng; hạn chế quyền năng của nhà nước bằng hiến pháp; dân
chủ gắn với pháp luật, được bảo đảm bằng nhà nước pháp quyền; nhà nước và mọi
hoạt động của nhà nước phải đặt dưới sự kiểm soát của nhân dân và các tổ chức đại
31
diện; bảo đảm quyền tham gia vào công việc nhà nước, xã hội của người dân; mọi
người đều bình đẳng trước pháp luật; không hình thành các thiết chế tổ chức làm nguy
hại tới lợi ích của nhân dân, cản trở sự phát triển lành mạnh của đất nước... Trên lĩnh
vực kinh tế, xây dựng, hoàn thiện thể chế kinh tế, đặt nền kinh tế dưới sự kiểm soát của
nhân dân, phục vụ cho nhu cầu, lợi ích chính đáng của nhân dân; có cơ chế kinh tế
trong đó, mọi người được làm tất cả những gì pháp luật không cấm, người lao động có
việc làm hữu ích, được tham gia vào sở hữu, quản lý dưới những hình thức khác nhau
và được thụ hưởng thành quả lao động xứng đáng; kết hợp kế hoạch của nhà nước với
phát huy mọi tiềm năng kinh tế của người dân, bảo đảm quyền tự chủ, làm chủ của
doanh nghiệp và người lao động. Trên lĩnh vực xã hội, thiểu số phục tùng đa số nhưng
tôn trọng quyền của thiểu số; thống nhất trong tính đa dạng các khuynh hướng xã hội,
bảo đảm quyền được bảo vệ về mặt xã hội của mọi công dân; khắc phục sự khác biệt
giữa các tầng lớp xã hội, giữa các vùng miền của đất nước; quyền công dân, quyền con
người được bảo đảm bằng pháp lý và được thực thi trên thực tế... Trên lĩnh vực văn
hóa, bảo đảm quyền tự do ngôn luận, báo chí, tự do suy nghĩ, tự do tư tưởng trong hoạt
động khoa học, sáng tạo nghệ thuật và đời sống tinh thần nói chung trên cơ sở đường
lối chính trị chủ đạo và pháp luật của nhà nước; hòa giải, hợp tác, khoan dung, đối
thoại trong giải quyết các mâu thuẫn, xung đột xã hội... dân chủ trong các quan hệ xã
hội, trong ứng xử, lối sống giữa con người với con người, dân chủ trong mọi thiết chế
xã hội, từ gia đình, nhà trường, các tổ chức chính trị, xã hội, dân sự, nghề nghiệp...
ngày một sâu sắc và phổ quát...
Từ những phân tích trên đây có thể khái quát lại, nền dân chủ là khái niệm phản
ánh chỉnh thể xã hội được tổ chức, vận hành theo các nguyên tắc, yêu cầu và chuẩn
mực dân chủ nhằm thực thi quyền lực và bảo đảm lợi ích của giai cấp cầm quyền. Biện
chứng của lịch sử dân chủ trên phạm vi toàn nhân loại đã, đang và sẽ đi từ nền dân chủ
tự quản cộng sản nguyên thủy đến dân chủ chủ nô, DCTS và tiến tới dân chủ tự quản
văn minh trong xã hội cộng sản văn minh, mà bước quá độ lên hình thức dân chủ này
là nền dân chủ XHCN. Theo đó, nền dân chủ XHCN được hiểu là chỉnh thể xã hội
được tổ chức, vận hành theo các nguyên tắc, yêu cầu và chuẩn mực dân chủ nhằm thực
thi quyền lực, bảo đảm lợi ích của giai cấp công nhân và nhân dân lao động. Tất
nhiên, nền dân chủ (kể cả nền dân chủ XHCN) được thiết lập ở mỗi quốc gia, dân tộc
32
trong mỗi thời đại lịch sử vừa có tính chất, đặc điểm chung, phổ biến, đồng thời có
những đặc điểm riêng, đặc thù do điều kiện hoàn cảnh lịch sử cụ thể quy định. Trong
điều kiện xã hội có giai cấp và nhà nước, nền dân chủ ở mỗi quốc gia, dân tộc được
thiết lập với mức độ, tính chất như thế nào, điều đó lệ thuộc vào tính chất, trạng thái
của thể chế chính trị; trình độ phát triển kinh tế; trình độ học vấn, ý thức, năng lực thực
hành dân chủ của nhân dân; năng lực, phẩm chất của giới cầm quyền; truyền thống văn
hóa chính trị của mỗi quốc gia, dân tộc và cả những nhân tố khách quan của thời đại.
- Quan niệm chung về xây dựng nền dân chủ
Thực tế cho thấy, sự ra đời, phát triển của các nền dân chủ là quá trình vận động,
phát triển theo logic lịch sử - tự nhiên của nó. Mỗi nền dân chủ có nội dung, bản chất,
trình độ và hình thức, sắc thái cụ thể vì nó được hình thành, tồn tại và phát triển trong
những điều kiện hoàn cảnh lịch sử cụ thể nhất định. Xây dựng nền dân chủ là việc con
người (các cá nhân và tổ chức, trong đó có đảng cầm quyền) trên cơ sở nhận thức các
điều kiện khách quan, chủ quan cụ thể để tiến hành các hoạt động cần thiết nhằm thúc
đẩy sự ra đời và phát triển của nền dân chủ trên thực tế. Đó là việc tạo dựng, thiết lập
những cơ sở, điều kiện lịch sử cần thiết để thực thi những nguyên tắc, yêu cầu, chuẩn
mực dân chủ trong các lĩnh vực đời sống xã hội nhằm bảo đảm quyền lực và lợi ích
của giai cấp cầm quyền. Theo logic đó, xây dựng nền dân chủ XHCN là việc tạo dựng,
thiết lập những cơ sở, điều kiện lịch sử cần thiết để thực thi những nguyên tắc, yêu cầu,
chuẩn mực dân chủ trong các lĩnh vực đời sống xã hội nhằm bảo đảm quyền lực và lợi
ích của giai cấp công nhân và nhân dân lao động.
Cần chú ý rằng, không có các cơ sở, điều kiện này thì không thể có nền dân chủ;
nhưng bản thân nó không đồng nhất với nền dân chủ, không phải cứ có nó là đã có nền
dân chủ theo đúng nghĩa của từ này. Tạo lập cơ sở, điều kiện cho nền dân chủ đòi hỏi
nhiều công phu, nhìn xa trông rộng nhưng cũng rất cụ thể, tỉ mỉ vì như thực tế đã chứng
minh, mặc dù dân chủ có sức hấp dẫn lớn đối với nhân loại nhưng thiết lập, tổ chức,
vận hành nền dân chủ vẫn phức tạp và khó khăn hơn rất nhiều so với nền chuyên chế,
độc tài. Việc xây dựng nền dân chủ ở các quốc gia, dân tộc trong những thời đại lịch sử
khác nhau với những nội dung, tính chất khác nhau nhưng cũng đòi hỏi cần có những
cơ sở, điều kiện chung nhất định. Trong xã hội có giai cấp và nhà nước, nhất là trong
lịch sử hiện đại, xây dựng nền dân chủ thường bao gồm:
33
Thứ nhất, xây dựng điều kiện kinh tế của nền dân chủ và thực hiện dân chủ trong
lĩnh vực kinh tế. Trong đó, cốt lõi là xây dựng, phát triển kinh tế thị trường.
Thứ hai, xây dựng điều kiện chính trị của nền dân chủ và thực hiện dân chủ trong
lĩnh vực chính trị. Trong đó, cơ bản là xây dựng nhà nước pháp quyền.
Thứ ba, xây dựng điều kiện văn hóa của nền dân chủ và thực hiện dân chủ trong
lĩnh vực văn hóa. Trong đó, cốt lõi là phát triển dân trí, tự do tư tưởng, tự do ngôn luận
và đa dạng văn hóa.
Thứ tư, xây dựng điều kiện xã hội của nền dân chủ và thực hiện dân chủ trong
lĩnh vực xã hội. Trong đó, cơ bản là xây dựng, phát triển xã hội công dân, xã hội dân
sự, bảo đảm an sinh xã hội.
Tất nhiên, những điều kiện nói trên không phải xây dựng một lần là đủ và nền dân
chủ không phải xây dựng một lần là xong. Nền dân chủ hình thành, phát triển là sản
phẩm tổng hòa giữa các yếu tố, điều kiện kinh tế, chính trị, văn hóa, xã hội mà trong
đó, chủ yếu và trước hết là những điều kiện lịch sử tự thân, nội tại. Thực tế lịch sử cho
thấy, việc xây dựng nền dân chủ nói chung và việc tạo lập các cơ sở, điều kiện cho nền
dân chủ nói riêng thường do một giai cấp, lực lượng chính trị - xã hội nhất định dẫn
dắt, định hướng. Do đó, công việc ấy được tiến hành với tốc độ, quy mô, tính chất, lộ
trình... và hiệu quả như thế nào lệ thuộc nhiều vào nhận thức, hành động và mức độ
tiêu biểu cho xu hướng tiến bộ của giai cấp và lực lượng cầm quyền.
Từ quan niệm chung về dân chủ, nền dân chủ, nền dân chủ XHCN và xây dựng
nền dân chủ, xây dựng nền dân chủ XHCN đã phân tích ở trên, trong luận án, tác giả sử
dụng cách tiếp cận toàn diện, chỉnh thể về dân chủ, dân chủ XHCN, xây dựng nền dân
chủ và xây dựng nền dân chủ XHCN. Khái niệm dân chủ XHCN được hiểu theo nghĩa
rộng với 5 nội dung và khái niệm xây dựng nền dân chủ XHCN được hiểu với 4 nội
dung cơ bản. Trên cơ sở đó, với vị trí, vai trò là cơ sở, nền tảng tưởng lý luận của công
cuộc xây dựng, phát triển nền dân chủ XHCN ở Việt Nam, chủ nghĩa Mác - Lênin, tư
tưởng Hồ Chí Minh về dân chủ XHCN và xây dựng nền dân chủ XHCN cũng sẽ được
khái quát, trình bày theo 9 nội dung cơ bản. Đây chính là khung khổ lý thuyết, là những
tiêu chí nội dung để thực hiện các nhiệm vụ đề ra, trong đó có nhiệm vụ phân tích, làm
rõ những nhận thức mới hay những nội dung mới trong nhận thức của Đảng về dân chủ
XHCN và xây dựng nền dân chủ XHCN ở Việt Nam thời kỳ đổi mới.
34
2.1.2. Chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh về dân chủ xã hội
chủ nghĩa
Có thể khái quát quan điểm của chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh về
dân chủ XHCN theo các nội dung cơ bản sau:
2.1.2.1. Dân chủ xã hội chủ nghĩa là hệ thống chuyên chính vô sản, nhà nước
chuyên chính vô sản kiểu dân chủ cộng hòa
C.Mác, Ph. Ăngghen và V.I.Lênin cho rằng, với tính cách là chế độ chính trị, chế
độ nhà nước, dân chủ XHCN có thể có sự đa dạng về hình thức nhưng bản chất của nó
là chuyên chính vô sản (CCVS). V.I.Lênin viết: “Bước chuyển từ chủ nghĩa tư bản lên
chủ nghĩa cộng sản, cố nhiên không thể không đem lại rất nhiều hình thức chính trị
khác nhau, nhưng thực chất của những hình thức ấy tất nhiên sẽ chỉ là một, tức là:
chuyên chính vô sản” [98, tr.44]. Hệ thống CCVS được V.I.Lênin hình dung như một
hệ thống những bánh xe răng cưa của cỗ máy, phức tạp và có quan hệ chặt chẽ với
nhau bao gồm Đảng Cộng sản, Nhà nước Xôviết (hay nhà nước CCVS) và công đoàn
“ở giữa Đảng và chính quyền nhà nước” [105, tr.250], trong đó, mỗi “bánh xe răng” có
vị trí và vai trò xác định. V.I.Lênin khẳng định: CCVS “là một nhà nước thuộc một
kiểu khác, nhà nước vô sản, một bộ máy để giai cấp vô sản trấn áp giai cấp tư sản”; “là
chế độ dân chủ cho những người bị bóc lột và phải trấn áp bọn bóc lột” [101, tr.122,
316]. Dân chủ vô sản là CCVS và CCVS chính là nhà nước của giai cấp vô sản. Từ mô
hình lịch sử kiểu dân chủ cộng hòa của Công xã Pari và Xôviết Nga, C.Mác, Ph.
Ăngghen và V.I.Lênin đã dùng nhiều thuật ngữ khác nhau để diễn đạt về CCVS. Đó là:
dân chủ vô sản, CCVS, dân chủ Xôviết, nhà nước Xôviết, nhà nước CCVS, hệ thống
CCVS, nhà nước kiểu mới, nhà nước nửa nhà nước, nhà nước tự tiêu vong... V.I.Lênin
còn viết: “Chế độ dân chủ vô sản so với bất cứ chế độ dân chủ tư sản nào, cũng dân chủ
hơn gấp triệu lần, chính quyền Xôviết so với nước cộng hoà tư sản dân chủ nhất thì
cũng dân chủ hơn gấp triệu lần” [98, tr.312-313].
Vận dụng chủ nghĩa Mác - Lênin vào điều kiện cụ thể của Việt Nam, Hồ Chí
Minh cũng nhấn mạnh nội dung chính trị của dân chủ: dân chủ là chế độ chính trị, hình
thức nhà nước do nhân dân lập nên và nhân dân kiểm soát. Dân chủ XHCN ở Việt
Nam là nền dân chủ cộng hòa, trong đó, “dân là chủ”, “dân làm chủ”, “tất cả mọi
quyền lực đều là của nhân dân”. Hồ Chí Minh viết:
35
Nước ta là nước dân chủ. Bao nhiêu lợi ích đều vì dân. Bao nhiêu quyền
hạn đều của dân. Công việc đổi mới, xây dựng là trách nhiệm của dân. Sự
nghiệp kháng chiến, kiến quốc là công việc của dân. Chính quyền từ xã đến
Chính phủ do dân cử ra. Đoàn thể từ Trung ương đến xã do dân tổ chức
nên. Nói tóm lại, quyền hành và lực lượng đều ở nơi dân [115, tr.698].
Như vậy, dân chủ XHCN ở Việt Nam là chế độ chính trị, nhà nước của nhân dân,
do nhân dân lập ra và phục vụ lợi ích của nhân dân.
2.1.2.2. Dân chủ xã hội chủ nghĩa thể hiện sâu sắc bản chất giai cấp công
nhân và tính nhân dân rộng rãi
Với nghĩa là quyền làm chủ hay bản chất giai cấp thống trị của dân chủ, nền dân
chủ XHCN thể hiện sâu sắc bản chất giai cấp công nhân. Trong Những nguyên lý của
chủ nghĩa cộng sản (1847), trả lời câu hỏi rằng cuộc cách mạng vô sản sẽ diễn biến
như thế nào, Ph.Ăngghen viết: Trước hết, nó tạo ra một chế độ dân chủ và nhờ đó mà
trực tiếp hay gián tiếp tạo ra quyền thống trị chính trị của giai cấp vô sản [111, tr.469-
470]. Theo tinh thần đó, dân chủ vô sản, dân chủ XHCN trước hết là sự thống trị, làm
chủ của giai cấp công nhân. Tuy nhiên, là sản phẩm của cách mạng XHCN - cuộc cách
mạng của số đông, vì lợi ích của số đông nhân dân nên trong nền dân chủ XHCN sự
thống trị, làm chủ của giai cấp công nhân đồng thời cũng là sự thống trị, làm chủ của
đông đảo nhân dân lao động vốn là những người nghèo khổ và bị áp bức trước kia.
V.I.Lênin viết: “dân chủ vô sản là sự thống trị của đa số đối với thiểu số” [97, tr.164];
“chuyên chính vô sản là một hình thức đặc biệt của liên minh giai cấp giữa giai cấp vô
sản, đội tiền phong của những người lao động, với đông đảo những tầng lớp lao động
không phải vô sản (tiểu tư sản, tiểu chủ, nông dân, trí thức...)” [102, tr.452].
Mặt khác, giống như các nền dân chủ khác, dân chủ XHCN cũng bao hàm dân
chủ và chuyên chính. Chỉ có điều, đó là một nền dân chủ kiểu mới và chuyên chính
kiểu mới. Chuyên chính kiểu mới, dân chủ kiểu mới là “chế độ dân chủ cho nhân dân;
cho số đông, đi đôi với trấn áp tất yếu đối với số ít, đối với bọn bóc lột” [98, tr.109-
110]. Trong nền dân chủ XHCN, tính nhân dân rộng rãi không tách rời bản chất giai
cấp công nhân; việc thực hiện dân chủ đối với giai cấp công nhân và đông đảo nhân
dân lao động không tách rời việc hạn chế dân chủ, thậm chí tước đoạt dân chủ đối với
bọn bóc lột.
36
Trong điều kiện thực tiễn của Việt Nam, Hồ Chí Minh khẳng định: Nước ta là
nước dân chủ, mọi quyền hành và lực lượng đều ở nơi dân. Dân là chủ và dân làm chủ.
Nhân dân ở đây bao gồm cả cộng đồng người, đồng bào, quần chúng nhân dân, công
nhân, nông dân, trí thức, phụ nữ, thanh thiếu niên, học sinh, sinh viên, các bậc phụ lão,
đồng bào các dân tộc, tôn giáo, kiều bào ta ở nước ngoài, trong đó trước hết là công
nhân, nông dân, trí thức, những người lao động. Bọn tay sai cho đế quốc, thực dân,
bọn phản bội lợi ích của Tổ quốc thì không thuộc nhân dân, đó là bọn phản nhân dân.
Do đó, trong nền dân chủ XHCN ở Việt Nam, “Đảng lãnh đạo, công nông liên minh,
nhân dân lao động làm chủ nước nhà, xây dựng nhân dân dân chủ chuyên chính, nghĩa
là dân chủ với nhân dân, chuyên chính (trừng trị) bọn phản động” [117, tr.246]. Đó là
sự thống nhất biện chứng giữa bản chất giai cấp công nhân và tính nhân dân rộng rãi
của nền dân chủ XHCN trong điều kiện hoàn cảnh của dân tộc Việt Nam.
2.1.2.3. Dân chủ xã hội chủ nghĩa là thành quả đấu tranh cách mạng của giai
cấp công nhân và nhân dân lao động dưới sự lãnh đạo của đảng cộng sản
Dân chủ XHCN là thành quả đấu tranh cách mạng của giai cấp công nhân và
nhân dân lao động dưới sự lãnh đạo của đảng cộng sản. Nhưng cuộc đấu tranh này
khác hẳn những cuộc đấu tranh giai cấp trước kia: không phải do thiểu số thực hiện,
hoặc mưu cầu lợi ích cho thiểu số; phong trào vô sản là của khối đại đa số, mưu cầu lợi
ích cho khối đại đa số. C.Mác, Ph.Ăngghen khẳng định, cuộc đấu tranh này trước hết
nó tạo ra một chế độ dân chủ, tạo ra quyền thống trị chính trị của giai cấp công nhân
và nhân dân lao động nhưng đó mới là mục tiêu trước mắt, là điều kiện bước đầu của
tiến trình cách mạng. Tiếp đó, để chế độ dân chủ không trở nên hoàn toàn vô ích, giai
cấp vô sản và nhân dân lao động phải sử dụng chế độ dân chủ ấy tiến hành hàng loạt
các biện pháp cách mạng nhằm cải tạo xã hội cũ, xây dựng xã hội mới trên mọi lĩnh
vực đời sống để thiết lập một liên hợp, trong đó sự phát triển tự do của mỗi người là
điều kiện cho sự phát triển tự do của tất cả mọi người [111, tr.628].
Từ thực tiễn xây dựng CNXH ở Liên Xô, V.I.Lênin cho rằng, để xây dựng hoàn
thiện nền dân chủ XHCN - một nền dân chủ đầy đủ, thực chất và rộng rãi cho đại đa
số nhân dân lao động, trong điều kiện mới (đã có chính quyền), giai cấp công nhân và
nhân dân lao động vẫn tiếp tục cuộc đấu tranh giai cấp với những nội dung, hình thức
mới và với tính chất, mức độ phức tạp, gay go, dai dẳng, quyết liệt hơn nhiều so với
37
những cuộc đấu tranh giai cấp trước đây... Đối tượng đấu tranh không chỉ là sự phản
kháng, chống đối điên cuồng của giai cấp tư sản và đồng minh của chúng hòng đòi lại
“thiên đường” đã mất; không chỉ là thói ba hoa, quan liêu, hối lộ trong bộ máy đảng,
nhà nước mà còn là những tâm lý, thói quen lạc hậu của chính giai cấp công nhân và
nhân dân lao động. V.I.Lênin nhấn mạnh, thực chất của CCVS không phải chỉ là bạo
lực và không phải chủ yếu là bạo lực; nội dung chủ yếu của đấu tranh giai cấp trong
điều kiện CCVS là giai cấp công nhân và nhân dân lao động phải “đưa ra và thực
hiện được một kiểu tổ chức lao động xã hội cao hơn so với chủ nghĩa tư bản” [103,
tr.15-16] vì “xét đến cùng, năng suất lao động là cái quan trọng nhất, chủ yếu nhất
cho thắng lợi của chế độ mới” [103, tr.18, 25]. Đó là quá trình đấu tranh giai cấp đi
đến xóa bỏ giai cấp. Trong điều kiện đó, tính giai cấp, tính chính trị của dân chủ sẽ
dần tiêu vong và trong điều kiện đó, nhân dân mới thực sự trở thành người chủ xã
hội, toàn bộ quyền lực thuộc về nhân dân, nhân dân tự quản lý và tự quyết định mọi
vấn đề của bản thân mình. Theo ý nghĩa đó, dân chủ XHCN là thành quả đấu tranh
lâu dài với trình độ tự giác và sức sáng tạo cao độ của giai cấp công nhân và đông đảo
nhân dân lao động.
Hồ Chí Minh cho rằng, dân chủ XHCN ở Việt Nam không chỉ là thành quả của
đấu tranh giai cấp mà...ống chính trị ở nước ta,
Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.
110. C.Mác - Ph.Ăngghen (1995), Toàn tập, tập 3, Nxb Chính trị quốc gia Sự thật,
Hà Nội.
111. C.Mác - Ph.Ăngghen (1995), Toàn tập, tập 4, Nxb Chính trị quốc gia Sự thật,
Hà Nội.
112. Mẫn Văn Mai (1994), Nâng cao trình độ văn hóa dân chủ của nhân dân trong quá
trình xây dựng nền dân chủ xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam hiện nay, Luận án Tiến
sĩ Triết học, Học viện Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh, Hà Nội.
113. Nguyễn Văn Mạnh - Tào Thị Quyên (đồng chủ biên) (2010), Dân chủ trực tiếp ở
Việt Nam lý luận và thực tiễn, Nxb Chính trị - Hành chính, Hà Nội.
114. Nguyễn Đình Minh (2015), “Vấn đề phát huy dân chủ xã hội chủ nghĩa”, tại trang:
chu-xa-hoi-chu-nghia/7792.html, [truy cập 27-3-2016].
115. Hồ Chí Minh (1995), Toàn tập, tập 5, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.
116. Hồ Chí Minh (1995), Toàn tập, tập 6, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.
117. Hồ Chí Minh (1996), Toàn tập, tập 7, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.
118. Hồ Chí Minh (1996), Toàn tập, tập 8, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.
119. Hồ Chí Minh (1996), Toàn tập, tập 9, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.
120. Hồ Chí Minh (1996), Toàn tập, tập 10, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.
121. Hồ Chí Minh (1996), Toàn tập, tập 12, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.
162
122. Lê Hữu Nghĩa, Hoàng Chí Bảo, Bùi Đình Bôn (đồng chủ biên) (2008), Đổi mới
quan hệ giữa Đảng Nhà nước và các tổ chức chính tri - xã hội trong hệ thống
chính trị ở Việt Nam, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.
123. Lê Hữu Nghĩa (2013), “Tiếp tục đổi mới và hoàn thiện hệ thống chính trị ở nước ta
hiện nay: một số vấn đề lý luận và thực tiễn”, tại trang:
chinhtri.vn/home/index.php/thuc-tien/item/253-tiep-tuc-doi-moi-va-hoan-
thien-he-thong-chinh-tri-o-nuoc-ta-hien-nay-mot-so-van-de-ly-luan-va-thuc-
tien.html, [truy cập ngày 17-8-2015].
124. Lê Hữu Nghĩa (2013), “Thực hành và phát huy dân chủ qua 30 năm đổi mới”, Tạp
chí Cộng sản, (880), tr. 68-74.
125. Dương Xuân Ngọc (Chủ biên) (2000), Quy chế thực hiện dân chủ ở cấp xã, một số
vấn đề lý luận và thực tiễn, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.
126. Dương Xuân Ngọc (Chủ biên) (2012), Quan hệ giữa đổi mới kinh tế và đổi mới
chính trị ở Việt Nam, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.
127. Dương Xuân Ngọc – Dương Ngọc Anh (2015), “Giá trị đặc sắc, bền vững trong tư
tưởng của V.I.Lênin về dân chủ”, Tạp chí Lý luận chính trị, (11), tr. 27-32.
128. Phạm Xuân Nam (2009), “Quan điểm của chủ nghĩa Mác về xã hội dân sự trong
chế độ dân chủ và những tư tưởng gần gũi của Hồ Chí Minh”, Tạp chí Triết
học (7), tr.32-41.
129. Phạm Văn Nhuận (2010), “Để Đảng thực sự là hạt nhân lãnh đạo xây dựng nền
dân chủ xã hội chủ nghĩa ở nước ta hiện nay”, Tạp chí Lý luận chính trị, (8),
tr.43-47.
130. Trần Quang Nhiếp (2006), Dân chủ với phát triển cộng đồng, Nxb, Công an
nhân dân, Hà Nội.
131. Nhiều tác giả (2013), Tài liệu tham khảo phục vụ nghiên cứu tổng kết 30 năm đổi
mới, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.
132. Thái Ninh, Hoàng Chí Bảo (1991), Dân chủ tư sản và dân chủ xã hội chủ nghĩa,
Nxb Sự thật, Hà Nội.
133. Vũ Dương Ninh (1992), “Nền dân chủ tư sản và những kinh nghiệm thực tiễn”,
Tạp chí Thông tin lý luận, (9), tr16-19.
163
134. Nguyễn Quốc Phẩm (2015), “Xây dựng nền dân chủ xã hội chủ nghĩa ở Việt
Nam: những vấn đề lý luận, thực tiễn cần làm sáng tỏ trong điều kiện hiện
nay”, Thông tin Chủ nghĩa xã hội - lý luận và thực tiễn của Viện Chủ nghĩa
xã hội khoa học, (46), tr.1-4; (47), tr.1-6.
135. Nguyễn Tiến Phồn (2001), Dân chủ và tập trung dân chủ - Lý luận và thực tiễn,
Nxb Khoa học xã hội, Hà Nội.
136. Nguyễn Văn Phúc (2014), “Phương hướng và giải pháp thực hành dân chủ trong
lĩnh vực văn hóa ở nước ta hiện nay”, Tạp chí Triết học, (3), tr.3-11.
137. Nguyễn Trọng Phúc (2011), “Thực hiện dân chủ xã hội chủ nghĩa trong công cuộc
đổi mới”, tại trang:
xa-hoi-chu-nghia-trong-cong-cuoc-doi-moi/3484.html, [truy cập ngày 4-4-2014].
138. Đỗ Nguyên Phương - Trần Ngọc Đường (1992), Xây dựng nền dân chủ xã hội chủ
nghĩa và nhà nước pháp quyền, Nxb Sự thật, Hà Nội.
139. Nguyễn Minh Phương (2006), “Vai trò của xã hội dân sự ở Việt Nam hiện nay”,
Tạp chí Triết học, (2), tr.10-15.
140. Lê Minh Quân (2011), Về quá trình dân chủ hóa xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam hiện
nay, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.
141. Lê Minh Quân (2012), “Dân chủ và dân chủ hóa từ một số cách tiếp cận cơ bản”,
Tạp chí Thông tin khoa học xã hội, (10), tr.13-21.
142. Lê Minh Quân (2012), “Về quá trình xây dựng và phát triển nền dân chủ xã hội
chủ nghĩa trong thời kỳ đổi mới”, Tạp chí Cộng sản, (11), tr.76-81.
143. Lê Minh Quân (2014), “Những phát triển nhận thức của Đảng ta về đổi mới hệ
thống chính trị qua gần 30 năm đổi mới và một số vấn đề đặt ra cần tiếp tục
nghiên cứu”, Tạp chí Cộng sản, (7), tr.50-56.
144. Nguyễn Đăng Quang (1992), “Một cách tiếp cận khái niệm dân chủ”, Tạp chí
Thông tin lý luận, (9), tr.12-15.
145. Phạm Ngọc Quang (2010), “Một số đề xuất rút ra từ đổi mới nhận thức về vai trò
của Dân” trong cơ chế Đảng lãnh đạo, Nhà nước quản lý, Nhân dân làm chủ”,
Tạp chí Triết học, (9), tr.37-42.
146. Phạm Ngọc Quang (2013), “Tiếp cận dân chủ từ giác độ rộng nhất của khái niệm”,
Tạp chí Báo cáo viên, (8), tr.28-32.
164
147. Lê Văn Quang (2004), “Quan hệ giữa nhà nước xã hội chủ nghĩa và đời sống xã
hội dân sự”, tại trang:
de/Nghi-quyet-Dang-va-cuoc-song/Quan-he-giua-nha-nuoc-xa-hoi-chu-nghia-
va-doi-song-xa-hoi-dan-su-50.html, [truy cập ngày 11-3-2015].
148. Ủy ban Thường Vụ Quốc hội khóa 11: Pháp lệnh thực hiện dân chủ ở xã,
phường, thị trấn, tại trang:
VanBan.aspx?vID=3482, [truy cập ngày 6 – 9 - 2015].
149. Nguyễn Duy Quý - Nguyễn Tất Viễn (2010), Nhà nước pháp quyền xã hội chủ
nghĩa của dân, do dân, vì dân - Lý luận và thực tiễn, Nxb Chính trị quốc gia,
Hà Nội.
150. Nguyễn Duy Quý (2007), “Dân chủ, nhân quyền - chiêu bài đã lỗi thời của các thế
lực thù địch với cách mạng Việt Nam”, tại trang:
org.vn/Home/Binh-luan/2007/2006/Dan-chu-nhan-quyen-chieu-bai-da-loi-
thoi-cua-cac.aspx, [truy cập ngày 18-6-2014].
151. Hồ Sĩ Quý (2014), Dân chủ, độc tài và phát triển, Nxb Lý luận chính trị, Hà Nội.
152. Hồ Sĩ Quý (2015), “Di sản truyền thống: dân chủ hay thiếu dân chủ”, Tạp chí
thông tin khoa học xã hội, (3), tr.3-11.
153. Hồ Sĩ Quý (2015), “Để dân chủ thực sự là phương thức hữu hiệu quản lý và
điều tiết sự phát triển”, Tạp chí Mặt trận, (12), tr.60-65.
154. Tào Thị Quyên (2012), Cơ chế bảo vệ Hiến pháp trong Nhà nước pháp quyền xã
hội chủ nghĩa Việt Nam, Nxb Chính trị - Hành chính, Hà Nội.
155. Nguyễn Văn Quyết (2015), “Một số luận điểm của C.Mác và Ph.Ăngghen về
dân chủ xã hội chủ nghĩa và sự vận dụng ở Việt Nam hiện nay”, Thông tin
khoa học lý luận chính trị, Học viện Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh (3),
tr.98-102.
156. Tô Huy Rứa, Hoàng Chí Bảo, Trần Khắc Việt, Lê Ngọc Tòng (Đồng chủ biên)
(2005), Nhìn lại quá trình đổi mới tư duy lý luận của Đảng 1986 - 2005, tập 1,
Nxb Lý luận chính trị, Hà Nội.
157. Tô Huy Rứa, Hoàng Chí Bảo, Trần Khắc Việt, Lê Ngọc Tòng (Đồng chủ biên)
(2005), Nhìn lại quá trình đổi mới tư duy lý luận của Đảng 1986 - 2005, tập 2,
Nxb Lý luận chính trị, Hà Nội.
165
158. Nguyễn Văn Sáu, Hồ Văn Thông (Đồng chủ biên) (2005), Thế chế dân chủ và
phát triển nông thôn Việt Nam hiện nay, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.
159. Nguyễn Văn Sơn (2014), “Văn hóa chính trị trong sự hình thành thể chế dân chủ
thời kỳ công nghiệp hóa, hiện đại hóa”, Tạp chí Triết học, số (8), tr.3-10.
160. Phan Xuân Sơn (2011), “Những nội dung mới về nền dân chủ xã hội chủ nghĩa”,
tại trang:
hoi-chu-nghia/122/6356209.epi, [truy cập ngày 22-3-2014].
161. Phan Xuân Sơn (2010), “Đảng Cộng sản Việt Nam với việc giải quyết vấn đề dân
chủ trong tiến trình cách mạng nước ta”, in trong Đảng Cộng sản Việt Nam 80
năm xây dựng và phát triển, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, tr.968-982.
162. Phan Xuân Sơn (Chủ nhiệm đề tài) (2005), Mở rộng và phát huy dân chủ trong nội
bộ Đảng Cộng sản, vấn đề và giải pháp, Tổng quan khoa học đề tài cấp Bộ
năm 2003-2004, Học viện Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh, Hà Nội.
163. Lưu Văn Sùng (2015), “Hoàn thiện thể chế bảo đảm việc thực hiện dân chủ ở
Việt Nam hiện nay”, Thông tin những vấn đề lý luận (phục vụ lãnh đạo) của
Học viện Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh, (1), tr.59-63.
164. Phan Tân (2013), “Chuyển biến tư duy về dân chủ và một số thành quả thực hiện
qua đánh giá từ thực tiễn sau hơn 20 năm đổi mới”, Tạp chí Thông tin khoa học
xã hội, (4), tr.1-7.
165. Tạ Ngọc Tấn (2013), “Đổi mới công tác lý luận của Đảng”, tại trang:
cong-tac-ly-luan-cua-dang.html, [truy cập ngày 25-8-2015].
166. Tạ Ngọc Tấn chỉ đạo biên soạn (2013), Những tranh luận mới của các học giả
Nga về chủ nghĩa xã hội, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.
167. Đỗ Thị Thạch - Nguyễn Văn Quyết (2014), “Xây dựng nền dân chủ xã hội chủ
nghĩa ở Việt Nam qua gần 30 năm đổi mới”, Tạp chí Triết học, (4), tr.3-9.
168. Đỗ Thị Thạch (Chủ nhiệm đề tài) (2015), Nghiên cứu, tổng kết làm sáng tỏ
những vấn đề lý luận xây dựng dân chủ xã hội chủ nghĩa trong công cuộc
đổi mới đất nước”, Báo cáo đề tài trọng điểm năm 2013-2014, Học viện
Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh, Hà Nội.
169. Trần Thành (2015), Vấn đề dân chủ và dân chủ hóa đời sống xã hội - lịch sử và
hiện đại, Nxb Lý luận chính trị, Hà Nội.
166
170. Nguyễn Tiến Thành (2014), “Năng lực cán bộ xã, phường trong thực hiện Pháp
lệnh dân chủ ở cơ sở”, Tạp chí Lý luận chính trị, (10), tr. 66-71.
171. Mai Thị Thanh (2012), Hình thức nhà nước và vấn đề xây dựng dựng Nhà nước
pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.
172. Cao Đức Thái (2014), “Dân chủ trong xu thế thời đại và nền dân chủ của chúng
ta”, Tạp chí Báo cáo viên, (11), tr.18-20.
173. Hồ Bá Thâm (2007), Dân chủ hóa và phát huy nội lực, Nxb Phương Đông, Bến Tre.
174. Hồ Bá Thâm (2010), “Di chúc Hồ Chí Minh - vấn đề dân chủ và “thực hành dân
chủ rộng rãi” với bối cảnh hiện nay”, tại trang: nd/tu-
lieu-tra-cuu/di_chuc_ho_chi_minh_ van_de_dan_chu_hien_nay-e.html, [truy
cập ngày 11-6-2014].
175. Hồ Bá Thâm (2010), “Dân chủ thật sự là vấn đề trung tâm, cốt tử của chủ nghĩa
xã hội”, tại trang:
cottucuachunghiaxahoi-e.html, [truy cập ngày 11-6-2014].
176. Hồ Bá Thâm (2010), “Vấn đề xây dựng nền dân chủ nhân dân ở Việt Nam và cải cách
thiết chế dân chủ”, tại trang:
nen_dan_chu_nhan_dan_va_cai_cach-e.html, [truy cập ngày 11-6-2014].
177. Hồ Bá Thâm (2012), “Nhận thức và thực hiện dân chủ trong nhà nước pháp quyền
ở nước ta hiện nay”, Tạp chí Nghiên cứu lập pháp, (22), tr.26-30.
178. Mạch Quang Thắng (2011), “Một số vấn đề đặt ra về cơ chế "Đảng lãnh đạo, Nhà
nước quản lý, Nhân dân làm chủ" ở nước ta”, tại trang: -
pham-tap-chi-in/mot-so-van-de-dat-ra-ve-co-che-dang-lanh-dao-nha-nuoc-quan-ly-
nhan-dan-lam-chu-o-nuoc-ta/3520.html?pageindex=657, [truy cập ngày 23-11-2014].
179. Mạch Quang Thắng (Chủ nhiệm đề tài) (2000), Bảo đảm và phát huy dân chủ
trong chế độ một đảng cầm quyền ở nước ta hiện nay, Kỷ yếu đề tài cấp Bộ
năm 1999, Học viện Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh, Hà Nội.
180. Nguyễn Viết Thông (2013), “Quan điểm của Đảng Cộng sản Việt Nam về dân chủ
và thực hành dân chủ trước và từ khi đổi mới đến nay”, Tạp chí Triết học, (10),
tr.3-10.
181. Cao Văn Thống (sưu tầm và biên soạn) (2014), Nguyên tắc tập trung dân chủ
trong công tác xây dựng Đảng hiện nay, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.
167
182. Nguyễn Trung Tín (Chủ nhiệm đề tài) (2011), Vai trò và quyền của nhân dân với
tư cách là chủ thể xây dựng và hoàn thiện nhà nước pháp quyền xã hội chủ
nghĩa Việt Nam giai đoạn 2011-2020, Báo tóm tắt đề tài cấp bộ, Viện Khoa
học xã hội Việt Nam, Hà Nội.
183. Phạm Ngọc Trâm (2011), Quá trình đổi mới hệ thống chính trị ở Việt Nam 1986-
2011, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.
184. Phạm Thị Ngọc Trầm (2006), “Nhà nước pháp quyền, xã hội dân sự với vấn đề
quyền và nghĩa vụ công dân”, tại trang:
cuu-theo-chuyen-de/Nghi-quyet-Dang-va-cuoc-song/Nha-nuoc-phap-quyen-
xa-hoi-dan-su-voi-van-de-quyen-va-nghia-vu-cong-dan-283.html, [truy cập
ngày 5-3-2016].
185. Trương Thành Trung (Chủ biên) (2011), Sự thật vấn đề dân chủ và nhân quyền
trong chiến lược “diễn biến hòa bình” ở Việt Nam, Nxb Chính trị quốc gia,
Hà Nội.
186. Trung tâm Nghiên cứu Phát triển và Hỗ trợ Cộng đồng, Trung tâm Bồi dưỡng cán
bộ và Nghiên cứu khoa học Mặt trận Tổ quốc Việt Nam, Chương trình phát triển
Liên Hợp quốc tại Việt Nam (2015): Báo cáo chỉ số PAPI năm 2014.
187. Trương Minh Tuấn (2012), “Dân chủ xã hội chủ nghĩa và thực hiện dân chủ xã hội
chủ nghĩa theo tinh thần Đại hội XI của Đảng”, Tạp chí Triết học, (1), tr.3-8.
188. Nguyễn Thanh Tuấn (1999), Những quan điểm cơ bản của C.Mác, Ph.Ăngghen và
V.I.Lênin về dân chủ xã hội chủ nghĩa, Kỷ yếu đề tài tiềm lực, Viện Chủ nghĩa
xã hội khoa học, Học viện Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh, Hà Nội.
189. Trịnh Quốc Tuấn (2004), “Tương quan giữa chế độ dân chủ xã hội chủ nghĩa và
kinh tế thị trường xã hội chủ nghĩa”, Thông tin Chủ nghĩa xã hội - Lý luận và
thực tiễn, (3), tr.6-8.
190. Trịnh Quốc Tuấn (2007), “Từ kinh nghiệm của V.I.Lênin về xây dựng nền dân
chủ xã hội chủ nghĩa suy nghĩ đến tiến trình xây dựng nền dân chủ xã hội chủ
nghĩa ở nước ta hiện nay”, Thông tin Chủ nghĩa xã hội - Lý luận và thực tiễn,
(13), tr.20-23.
191. Đàm Anh Tuấn (2012), Xây dựng và phát triển dân chủ phục vụ quá trình công
nghiệp hóa, hiện đại hóa ở Việt Nam hiện nay, Luận án Tiến sĩ Triết học, Học
viện Khoa học xã hội, Hà Nội.
168
192. Đinh Quang Ty (2010), “Nhìn lại quá trình nhận thức của Đảng ta về mối quan hệ
Đảng lãnh đạo, Nhân dân làm chủ, Nhà nước quản lý” và kết quả thực hiện
trong hơn 20 năm đổi mới vừa qua”, Tạp chí Thông tin khoa học xã hội, (2),
tr.3-12.
193. Đào Trí Úc (chủ biên) (2009), Cơ chế giám sát của nhân dân đối với hoạt động
của bộ máy Đảng và Nhà nước, một số vấn đề lý luận và thực tiễn, Nxb Chính
trị quốc gia, Hà Nội.
194. Vũ Văn Viên (2005), “Nhà nước pháp quyền công cụ để thực hiện dân chủ”, Tạp
chí Triết học, (11), tr.35-39.
195. Vũ Văn Viên (2015), “Vấn đề dân chủ hóa trong kinh tế ở nước ta hiện nay”, Tạp
chí Triết học, (1), tr.25-31.
196. Viện Chủ nghĩa xã hội khoa học (2014), Nhận thức về chủ nghĩa xã hội và con
đường đi lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam, Nxb Lý luận Chính trị.
197. Viện Triết học Viện Hàn lâm khoa học Nga (Hội thảo bàn tròn) (2009), “Dân chủ:
Giá trị phổ quát và những kinh nghiệm lịch sử”, tại trang:
hean.com.vn/chuyen-muc-goc-nhin-van-hoa/nhin-ra-the-gioi/dan-chu-gia-tri-pho-
quat-va-nhung-kinh-nghiem-lich-su, [truy cập ngày 9-10-2014].
198. Viện Khoa học xã hội Việt Nam - Chương trình phát triển Liên Hợp Quốc (2006),
Đẩy mạnh chiều sâu dân chủ và tăng cường sự tham gia của người dân ở Việt
Nam, Văn kiện đối thoại chính sách, Hà Nội.
199. Viện Chính sách công và pháp luật, Viện Nhà nước và pháp luật (2014), Một số
vấn đề lý luận, thực tiễn về dân chủ trực tiếp, dân chủ cơ sở trên thế giới và ở
Việt Nam (Kỷ yếu hội thảo), Nxb Đại học Quốc gia Hà Nội.
200. Viện quốc tế về dân chủ và hỗ trợ bầu cử (2014), Dân chủ trực tiếp: sổ tay IDEA
quốc tế, Nxb Đại học Quốc gia Hà Nội.
201. Viện quốc tế về dân chủ và hỗ trợ bầu cử (2014), Dân chủ ở cấp địa phương: sổ
tay IDEA quốc tế, Nxb Đại học Quốc gia Hà Nội.
202. Hồ Sĩ Vịnh (2011), “Dân chủ - một giá trị văn hóa”, tại trang:
Details.aspx?NewID=596&cate=117, [truy cập ngày 21-8-2014].
203. N.M. Voskresenskaia, N.B. Davletshina (2008), Chế độ dân chủ, nhà nước và xã
hội, Nxb Tri Thức, Hà Nội.
204. Đức Vượng (2013), Một số vấn đề lý luận và thực tiễn ở Việt Nam thời kỳ đổi mới,
Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.
169
PHỤ LỤC
BẢNG SO SÁNH NHẬN THỨC VỀ DÂN CHỦ XÃ HỘI CHỦ NGHĨA
Chủ thể nhận
thức/Nội dung
nhận thức
C.Mác và Ph.Ăngghen
V.I.Lênin
Hồ Chí Minh
Đảng Cộng sản Việt
Nam trước đổi mới
Đảng Cộng sản Việt
Nam trong đổi mới
Dân chủ
XHCN với
tính cách là
chế độ chính
trị, nhà nước
Chuyên chính vô sản
- Nhà nước chuyên chính
vô sản kiểu dân chủ cộng
hòa
- Hệ thống chuyên chính
vô sản
- Nhà nước dân chủ cộng hòa
- Chế độ chính trị dân chủ mới
(Dân chủ nhân dân)
- Nhà nước chuyên chính
vô sản
- Hệ thống chuyên chính
vô sản
- Nhà nước pháp quyền
XHCN
- Hệ thống chính trị
XHCN
Dân chủ
XHCN với
tính cách là
quyền làm chủ
của giai cấp
thống trị
- Dân chủ vô sản - sự thống
trị chính trị của giai cấp vô
sản
- Liên minh công nông: tính
nhân dân rộng rãi
- Dân chủ vô sản - sự
thống trị của đa số; hạn
chế dân chủ đối với thiểu
số bóc lột
- Liên minh công, nông và
các tầng lớp lao động khác
- Dân chủ mới, nhân dân là
chủ, làm chủ; dân chủ với
nhân dân, trừng trị kẻ địch của
nhân dân
- Đoàn kết dân tộc trên nền
tảng liên minh công, nông, lao
động trí óc
- Dân chủ XHCN: công
nhân, nông dân tập thể, trí
thức XHCN
- Trừng trị bọn thù địch;
hạn chế dân chủ đối tư
sản, tiểu tư sản
- Dân chủ XHCN:bản chất
giai cấp công nhân, tính
nhân dân, tính nhân loại,
tính dân tộc sâu sắc
- Trừng trị, hạn chế dân
chủ đối với những tổ
chức, cá nhân phạm pháp.
Dân chủ
XHCN với
tính cách là
thành quả đấu
tranh của
nhân dân
chống áp bức
bóc lột
- Kết quả của cách mạng
XHCN: phong trào của đa
số vì lợi ích của đa số, do
giai cấp công nhân và đảng
của nó lãnh đạo
- Giành chính quyền, giành
dân chủ, tước đoạt kẻ đi
tước đoạt, công hữu hóa tư
liệu sản xuất
- Kết quả đấu tranh từ cách
mạng DCTS kiểu mới lên
cách mạng XHCN do giai
cấp công nhân và đảng của
nó lãnh đạo
- Chống sự phản kháng
của bọn bóc lột; chống thù
trong, giặc ngoài, quan
liêu, hối lộ, kiêu ngạo, thói
quen, tâm lý lạc hậu
- Kết quả đấu tranh từ cách
mạng dân tộc dân chủ nhân
dân lên cách mạng XHCN do
giai cấp công nhân và Đảng
Cộng sản lãnh đạo
- Chống kẻ địch của nhân dân;
chống tất cả những gì cũ kỹ,
hư hỏng; chống bần cùng, lạc
hậu, chủ nghĩa cá nhân, quan
liêu, hối lộ
- Kết quả của cách mạng
XHCN về QHSX, khoa
học kỹ thuật và tư tưởng,
văn hóa; trọng tâm là
quốc hữu hóa, hợp tác hóa
- Chống sự phá hoại của
các thế lực thù địch; xóa
bỏ sở hữu tư nhân, kinh tế
hàng hóa
- Mục tiêu, động lực của
đổi mới, phát triển; bản
chất của chế độ XHCN
- Chống tập trung quan
liêu, bảo thủ, dân chủ hình
thức, tham ô, tham nhũng,
lợi ích nhóm; chống “diễn
biến hòa bình”
170
Chủ thể nhận
thức/Nội dung
nhận thức
C.Mác và Ph.Ăngghen
V.I.Lênin
Hồ Chí Minh
Đảng Cộng sản Việt
Nam trước đổi mới
Đảng Cộng sản Việt
Nam trong đổi mới
Dân chủ
XHCN với
tính cách là cơ
chế, nguyên
tắc tổ chức
hoạt động
cộng đồng
Tập trung dân chủ
- Tập trung dân chủ
- Tự phê bình, phê bình;
kiểm kê, kiểm soát, tự trị,
tự quản
- Dân chủ tập trung
- Tự phê bình, phê bình; đoàn
kết, khoan dung, thương lượng
dân chủ, thống nhất hành động
- Tập trung dân chủ
(thành tập trung quan liêu,
bao cấp)
- Đảng lãnh đạo, Nhà
nước quản lý, Nhân dân
làm chủ (Đảng bao biện
làm thay; Nhân dân làm
chủ tập thể)
- Tập trung dân chủ: Đảng
lãnh đạo, Nhà nước quản
lý, Nhân dân làm chủ
- Dân chủ pháp quyền: thể
chế hóa thành hệ thống
quy chế, quy định pháp lý
Dân chủ
XHCN với
tính cách là
giá trị xã hội,
giá trị nhân
văn, văn minh
phản ánh mức
độ giải phóng
con người
- Liên hợp xã hội trong đó
sự phát triển tự do của mỗi
người là điều kiện cho sự
phát triển tự do của tất cả
mọi người
- Nhà nước chuyên chính
vô sản theo hình thức dân
chủ cộng hòa vừa lập pháp,
hành pháp, do dân bầu và
có thể bị bãi miễn
- Nhân dân làm chủ tư liệu
sản xuất; xóa bỏ khác biệt
giai cấp, bảo đảm công
bằng, bình đẳng xã hội, tự
do sáng tạo, phát triển toàn
diện
- Giai đoạn đầu còn dấu vết
pháp quyền tư sản
- Toàn dân quản lý nhà
nước, xã hội; nhân dân tự
do bầu cử, bãi miễn đại
biểu của mình
- Mọi người lao động cho
mình; xóa bỏ cơ sở kinh
tế, chính trị, xã hội của áp
bức, bóc lột, sự bất bình
đẳng, thù địch dân tộc
- Dân chủ gắn pháp luật,
được thực hiện trên thực tế
- Kế thừa, phát triển giá trị
dân chủ tư sản và dân chủ
gấp triệu lần dân chủ tư
sản
- Dân là chủ, dân làm chủ, mọi
quyền hành, lực lượng đều ở
nơi dân; quyền gắn liền nghĩa
vụ; dân chủ thật sự, rộng rãi,
triệt để
- Nhà nước pháp quyền của
dân, do dân, vì dân
- Kinh tế nhiều thành phần,
công tư đều chiếu cố, chủ và
thợ đều có lợi; người lao động
làm chủ TLSX, quản lý, phân
phối bằng nhiều hình thức
- Nhân dân có đời sống vật
chất đầy đủ, tinh thần vui
mạnh; văn hóa dân tộc, khoa
học, đại chúng; văn hóa soi
đường cho quốc dân đi; cộng
đồng xã hội, giai cấp, dân tộc
bình đẳng, đoàn kết, giúp nhau
cùng phát triển
- Nhân dân làm chủ tập
thể, làm chủ toàn diện:
kinh tế, chính trị, xã hội,
văn hóa; làm chủ thiên
nhiên, xã hội, làm chủ bản
thân; làm chủ trong phạm
vi cả nước, trong mỗi địa
phương, mỗi cơ sở
- Hợp tác hóa, tập thể hóa,
đề cao giá trị xã hội, lợi
ích xã hội
(Ở mức lý tưởng, hoàn
hảo nhưng không có sức
sống thực tế)
- Dân chủ XHCN - bản
chất của chế độ, là mục
tiêu, động lực của đổi
mới, phát triển
- Dân là chủ, làm chủ; dân
chủ hóa các lĩnh vực đời
sống xã hội, ở tất cả các
cấp, các ngành, trong đó
chú trọng dân chủ trong
kinh tế, dân chủ từ cơ sở
- Dân chủ hóa gắn liền
pháp quyền hóa, thể chế
hóa, hiện đại hóa
- Bảo đảm quyền con
người, quyền công dân;
quyền đi liền nghĩa vụ; hài
hòa giá trị giai cấp, dân
tộc, nhân loại của dân chủ
171
BẢNG SO SÁNH NHẬN THỨC VỀ XÂY DỰNG NỀN DÂN CHỦ XÃ HỘI CHỦ NGHĨA
Chủ thể
nhận
thức/Nội
dung nhận
thức
C.Mác và
Ph.Ăngghen
V.I.Lênin Hồ Chí Minh
Đảng Cộng sản Việt
Nam trước đổi mới
Đảng Cộng sản Việt Nam
trong đổi mới
Cơ sở, điều
kiện chính
trị và thực
hiện dân chủ
trong chính
trị
- Giành chính
quyền (giành dân
chủ)
- Xây dựng nhà
nước CCVS kiểu
dân chủ cộng hòa
do đảng của giai
cấp công nhân
lãnh đạo theo
nguyên tắc tập
trung dân chủ
- Bảo đảm thực
hiện dân chủ đối
với nhân dân lao
động và trấn áp
bọn áp bức, bóc lột
- Giành chính quyền, xây
dựng nhà nước CCVS
kiểu dân chủ cộng hòa
- Xây dựng hệ thống
CCVS do đảng cộng sản
lãnh đạo theo nguyên tắc
tập trung dân chủ
- Bảo đảm thực hiện dân
chủ với đa số nhân dân và
chuyên chính, trấn áp bọn
áp bức, bóc lột
- Giành chính quyền,
xây dựng nhà nước dân
chủ cộng hòa (nhà nước
pháp quyền)
- Xây dựng chế độ chính
trị dân chủ mới, dân chủ
nhân dân do Đảng lãnh
đạo, Nhà nước quản lý
theo nguyên tắc dân chủ
tập trung
- Bảo đảm thực hiện dân
chủ rộng rãi với nhân
dân và chuyên chính,
trấn áp kẻ địch của nhân
dân
- Xây dựng nhà nước
CCVS kiểu cộng hòa
XHCN
- Xây dựng hệ thống
CCVS tổ chức, hoạt động
theo nguyên tắc tập trung
dân chủ; Đảng lãnh đạo,
nhân dân làm chủ, Nhà
nước quản lý
- Bảo đảm thực hiện
quyền làm chủ tập thể của
nhân dân lao động và
trừng trị những lực lượng
thù địch, áp bức, bóc lột
- Xây dựng nhà nước Cộng hòa
XHCN Việt Nam thành nhà
nước pháp quyền XHCN
- Đổi mới, dân chủ hóa tổ chức,
hoạt động của hệ thống chính trị
XHCN trên nguyên tắc tập
trung dân chủ; cơ chế Đảng
lãnh đạo, Nhà nước quản lý,
nhân dân làm chủ
- Bảo đảm quyền làm chủ của
nhân dân và trừng trị những tổ
chức, cá nhân phạm pháp
172
Chủ thể
nhận
thức/Nội
dung nhận
thức
C.Mác và
Ph.Ăngghen
V.I.Lênin Hồ Chí Minh
Đảng Cộng sản Việt
Nam trước đổi mới
Đảng Cộng sản Việt Nam
trong đổi mới
Cơ sở, điều
kiện kinh tế
và thực hiện
dân chủ
trong kinh tế
- Lực lượng sản
xuất công nghiệp
hiện đại trình độ
xã hội hóa cao
- Xóa bỏ tư hữu tư
sản về tư liệu sản
xuất, thực hiện
công hữu hóa tư
liệu sản xuất
- Trong điều kiện có
chiến tranh: công nghiệp
hóa, công hữu hóa, hợp
tác hóa; quản lý tập trung
thống nhất
- Trong điều kiện hòa
bình: công nghiệp hóa,
phát triển kinh tế hàng
hóa nhiều thành phần trên
nền tảng chế độ công hữu
đối với những tư liệu sản
xuất chủ yếu
- Phát triển kinh tế nhiều
thành phần, nòng cốt là
kinh tế quốc doanh và
kinh tế hợp tác
- Phát triển công nghiệp,
nông nghiệp hiện đại
- Mọi chủ trương, kế
hoạch sản xuất, tiêu
dùng phải dân chủ
- Phân phối theo lao
động là chủ yếu, giải
quyết hài hòa các quan
hệ lợi ích
- Xây dựng nền sản xuất
lớn XHCN, có kế hoạch
(phi thị trường), tập trung,
thống nhất với cơ cấu hợp
lý, ưu tiên phát triển công
nghiệp nặng
- Thực hiện công nghiệp
hóa XHCN (nhiệm vụ
trung tâm của cả thời kỳ
quá độ lên CNXH)
- Phát triển quan hệ sản
xuất XHCN (tập thể, quốc
doanh); phân phối bình
quân, chú trọng lợi ích tập
thể, lợi ích xã hội
- Xây dựng, phát triển nền kinh
tế thị trường định hướng XHCN
(nền kinh tế hàng hóa nhiều
thành phần vận hành theo cơ
chế thị trường có sự quản lý của
Nhà nước dưới sự lãnh đạo của
Đảng Cộng sản)
- Các thành phần kinh tế bình
đẳng; kinh tế nhà nước giữ vai
trò chủ đạo
- Công nghiệp hóa, hiện đại hóa
gắn với kinh tế tri thức, bảo vệ
tài nguyên, môi trường
- Phân phối theo lao động là chủ
yếu; giải quyết hài hòa các quan
hệ lợi ích
173
Chủ thể
nhận
thức/Nội
dung nhận
thức
C.Mác và
Ph.Ăngghen
V.I.Lênin Hồ Chí Minh
Đảng Cộng sản Việt
Nam trước đổi mới
Đảng Cộng sản Việt Nam
trong đổi mới
Cơ sở, điều
kiện văn hóa
và thực hiện
dân chủ
trong văn
hóa
Thực hiện cách
mạng tư tưởng,
văn hóa:
- Giải phóng tư
tưởng, tinh thần,
bảo đảm tự do tự
do báo chí, tự do
sáng tạo
- “Đoạn tuyệt triệt
để với tư tưởng cổ
truyền”
Xây dựng, phát triển nền
văn hóa vô sản:
- Thâu thái tất cả tri thức
văn hóa của nhân loại,
nhất là giá trị văn hóa tư
sản
- Xóa mù chữ, nâng cao
dân trí; giáo dục chủ
nghĩa cộng sản
- Bảo đảm tự do sáng tạo
Xây dựng nền văn hóa
mới:
- Văn hóa với tính chất
dân tộc, khoa học, đại
chúng; văn hóa soi
đường cho quốc dân đi
- Xây dựng đời sống
mới; giáo dục đạo đức
công bộc và đạo đức
công dân
- Giáo dục chủ nghĩa
Mác-Lênin, phát huy
tinh hoa dân tộc, tiếp thu
tinh hoa nhân loại
- Bảo đảm tự do tư
tưởng, ngôn luận, sáng
tạo
- Xây dựng con người
mới XHCN
Đẩy mạnh cách mạng tư
tưởng văn hóa, xây dựng
nền văn hóa mới XHCN:
- Văn hóa với nội dung
XHCN và tính chất dân
tộc, tính đảng và tính
nhân dân; phát huy giá trị
văn hóa Việt Nam, tiếp
thu văn minh nhân loại
- Bảo đảm nền tảng chủ
nghĩa Mác - Lênin, tư
tưởng làm chủ tập thể;
- Xây dựng con người
mới XHCN phát triển
toàn diện có cuộc sống
tập thể và cá nhân hài
hòa, phong phú
Xây dựng nền văn hóa tiên tiến,
đậm đà bản sắc dân tộc:
- Văn hóa thống nhất trong đa
dạng, thấm nhuần tinh thần dân
tộc, nhân văn, dân chủ, khoa
học
- Bảo đảm nền tảng chủ nghĩa
Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí
Minh, giá trị tốt đẹp của dân tộc
và tinh hoa văn hóa nhân loại
- Tự do tư tưởng, ngôn luận
sáng tạo, tiếp cận, hưởng thụ
giá trị văn hóa
- Xây dựng đồng bộ môi trường
văn hóa, thị trường văn hóa
lành mạnh
- Văn hóa nền tảng tinh thần
của xã hội, vừa là mục tiêu,
động lực của đổi mới, phát triển
bền vững
174
Chủ thể
nhận
thức/Nội
dung nhận
thức
C.Mác và
Ph.Ăngghen
V.I.Lênin Hồ Chí Minh
Đảng Cộng sản Việt
Nam trước đổi mới
Đảng Cộng sản Việt Nam
trong đổi mới
Cơ sở, điều
kiện xã hội
và thực hiện
dân chủ
trong xã hội
- Xóa bỏ áp bức
bóc lột, nô dịch
dân tộc
- Thực hiện công
bằng, bình đẳng xã
hội, tự do lập hội
- Thực hiện nghĩa
vụ lao động đối
với mọi người
- Xóa bỏ dần sự
khác biệt giữa
thành thị và nông
thôn
- Thực hiện giáo
dục công cộng và
không mất tiền cho
tất cả trẻ em
- Đoàn kết, bình đẳng dân
tộc; bình đẳng nam nữ
- Củng cố liên minh công
nông và các tầng lớp lao
động khác; phát triển các
tổ chức chính trị - xã hội,
nhất là công đoàn
- Bảo đảm việc làm, bảo
hộ lao động, chế độ nghỉ
ngơi, bảo hiểm xã hội,
bảo đảm nhà ở cho người
lao động
- Bảo đảm chế độ chăm
sóc sức khỏe toàn dân;
giáo dục phổ thông, bách
khoa không mất tiền cho
trẻ em dưới 16 tuổi và
bảo đảm giáo dục thường
xuyên cho nhân dân
- Đoàn kết toàn dân tộc,
củng cố liên minh công
nông và lao động trí óc
- Chính sách phù hợp
với mỗi giai cấp, tầng
lớp xã hội, nhất là trẻ
em, phụ nữ, thương
bệnh binh, gia đình liệt
sĩ, người có công với
cách mạng
- Bảo đảm ai cũng có
công ăn, việc làm, cơm
ăn, áo mặc, học hành,
ốm đau có thuốc
- Xây dựng nền giáo dục
mới tiến bộ, dân tộc, dân
chủ, khoa học, đại
chúng
- Đoàn kết, liên minh chặt
chẽ công nông trí thức
XHCN
- Chăm sóc chu đáo
thương bệnh binh, gia
đình liệt sĩ, người có công
với cách mạng; thực hiện
các chính sách xã hội bảo
đảm nhân dân có đời sống
văn minh, hạnh phúc
- Bảo vệ bà mẹ, chăm sóc
trẻ em; thực hiện bình
đẳng nam nữ
- Phát triển y tế, đưa công
tác y tế đến tận cơ sở
- Cải cách giáo dục, phát
triển nền giáo dục XHCN
toàn dân, toàn diện
- Đoàn kết toàn dân tộc, bảo
đảm đồng thuận trên nền tảng
công nông trí thức
- Chính sách xã hội phải đặt
ngang hàng, đồng bộ với chính
sách kinh tế; tăng trưởng kinh tế
gắn với tiến bộ, công bằng xã
hội trong từng bước phát triển
- Chính sách xã hội vì con
người phù hợp từng giai cấp,
tầng lớp, thành phần xã hội và
phù hợp với biến đổi của cơ cấu
kinh tế, cơ cấu xã hội
- Đề cao vai trò tự lực, tự chủ
của mỗi người; chú trọng xã hội
hóa, cộng đồng trách nhiệm,
Nhà nước và nhân dân cùng
làm, bảo đảm an sinh xã hội, an
toàn xã hội cho mọi người