Luận án Nhân sinh quan phật giáo và ảnh hưởng của nó đến tư tưởng chính trị thời Lý - Trần

VIỆN HÀN LÂM KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM HỌC VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI NGUYỄN LAN ANH NHÂN SINH QUAN PHẬT GIÁO VÀ ẢNH HƯỞNG CỦA NÓ ĐẾN TƯ TƯỞNG CHÍNH TRỊ THỜI LÝ-TRẦN LUẬN ÁN TIẾN SĨ TRIẾT HỌC HÀ NỘI - 2016 1 VIỆN HÀN LÂM KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM HỌC VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI Nguyễn Lan Anh NHÂN SINH QUAN PHẬT GIÁO VÀ ẢNH HƯỞNG CỦA NÓ ĐẾN TƯ TƯỞNG CHÍNH TRỊ THỜI LÝ-TRẦN Chuyên ngành: Triết học Mã số: 62 22 03 01 LUẬN ÁN TIẾN SĨ TRIẾT HỌC NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHO

pdf176 trang | Chia sẻ: huong20 | Ngày: 14/01/2022 | Lượt xem: 511 | Lượt tải: 1download
Tóm tắt tài liệu Luận án Nhân sinh quan phật giáo và ảnh hưởng của nó đến tư tưởng chính trị thời Lý - Trần, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
OA HỌC: PGS.TS HOÀNG THỊ THƠ HÀ NỘI-2016 2 Lời cam đoan Tôi xin cam đoan đây là công trình nghiên cứu của riêng tôi. Các số liệu, kết luận nêu trong luận án là trung thực, có nguồn gốc rõ ràng và chưa từng được ai công bố trong bất cứ một công trình khoa học nào. Người cam đoan Nguyễn Lan Anh 3 MỤC LỤC MỞ ĐẦU............................ 1 NỘI DUNG........................ 7 Chương 1: TỔNG QUAN TÌNH HÌNH NGHIÊN CỨU VÀ NHỮNG VẤN ĐỀ LIÊN QUAN ĐẾN LUẬN ÁN ..................................... 7 1.1. Nhóm tài liệu và công trình về nhân sinh quan Phật giáo, nhân sinh quan Phật giáo Lý-Trần ................................................... 7 1.2. Nhóm công trình nghiên cứu về tư tưởng chính trị thời Lý-Trần............ 15 1.3. Nhóm tư liệu, công trình nghiên cứu về ảnh hưởng của nhân sinh quan Phật giáo đến tư tưởng chính trị thời Lý-Trần............................. 21 1.4. Những vấn đề được kế thừa và phát triển mới trong luận án............... 26 Chương 2: NHÂN SINH QUAN PHẬT GIÁO VÀ NHÂN SINH QUAN PHẬT GIÁO THỜI LÝ-TRẦN ............................................ 30 2.1. Nhân sinh quan Phật giáo......................................... 30 2.2. Nhân sinh quan Phật giáo thời Lý – Trần.......................... 48 Chương 3: TƯ TƯỞNG CHÍNH TRỊ THỜI LÝ-TRẦN VÀ CÁC NHÂN TỐ ẢNH HƯỞNG................................................................ 71 3.1. Tư tưởng chính trị thời Lý – Trần .............. 71 3.2. Những nhân tố cơ bản ảnh hưởng đến tư tưởng chính trị thời Lý-Trần..... 92 Chương 4: ẢNH HƯỞNG CỦA NHÂN SINH QUAN PHẬT GIÁO ĐẾN TƯ TƯỞNG CHÍNH TRỊ THỜI LÝ-TRẦN VÀ Ý NGHĨA CỦA NÓ VỚI VĂN HÓA CHÍNH TRỊ VIỆT NAM HIỆN NAY............................................. 110 4.1. Một số ảnh hưởng của nhân sinh quan Phật giáo đến tư tưởng chính trị thời Lý-Trần............................. 111 4.2. Đánh giá về những ảnh hưởng của nhân sinh quan Phật giáo đến tư tưởng chính trị thời Lý-Trần và ý nghĩ của nó trong việc xây dựng văn hóa chính trị ở Việt Nam hiện nay..... 135 KẾT LUẬN.................................... 152 DANH M C CÁC C NG TR NH ĐÃ C NG Ố ..................... 155 DANH M C TÀI LIỆU THAM KHẢO .......... 156 PH L C............... 166 4 MỞ ĐẦU 1. Lý do chọn đề tài Phật giáo ở hai triều đại Lý-Trần không thuần tuý chỉ là một bộ phận của ý thức xã hội, nó không đứng độc lập bên ngoài chính trị, mà qua tinh thần khoan dung, nhân đạo nó tác động không nhỏ đến nhiều chủ trương, chính sách của triều đình và hoạt động xã hội của các nhà chính trị. Phật giáo thực sự đã góp phần tạo nên một nền chính trị từ bi, nhân văn của thời Lý- Trần. Có lẽ chính điều này đã khởi nguồn cho chính sách thân dân, dân chủ, mà qua đó triều đình có thể tập hợp được sức người, sức của toàn dân phục vụ cho công cuộc bảo vệ, xây dựng và phát triển đất nước. Lập nên những chiến công vang dội và mở ra một thời đại vàng son trong lịch sử. Vì vậy, dù không phải là một học thuyết chính trị, nhưng vượt qua cả Nho giáo – hệ tư tưởng chuyên bàn về chính trị-xã hội, nhân sinh quan Phật giáo ở thời Lý- Trần đã phát huy được những ưu điểm và lợi thế của mình để trở thành sức mạnh tinh thần hỗ trợ tích cựcđối với nền chính trị. Có thể nói, việc chọn lựa tư tưởng nào làm chủ đạo ở mỗi thời kỳ đều có nguyên do nhất định, mà nguyên nhân đầu tiên và cơ bản nhất phải kể đến là do yêu cầu của thực tiễn chính trị, xã hội. Ở Việt Nam giai đoạn thế kỷ X đến XIV, dù Nho giáo đã xuất hiện và bắt đầu được tạo điều kiện phát triển, nhưng nhiều vị vua trị vì thời kỳ này vẫnđề cao Phật giáo, trên cơ sở kết hợp với Nho giáo nhằm nâng cao hiệu quả trị quốc của bộ máy nhà nước trung ương tập quyềntronggiai đoạn lịch sử lúc đó.Tuy nhiên, có nhiều ý kiến cho rằng, thành tích vĩ đại của thời Lý-Trần không phải là của Phật giáo mà là của Nho giáo, bởi trong những hệ tư tưởng xuất hiện ở thời Lý-Trần(Nho- Đạo-Phật) thì Nho giáo mới thực sự là hệ tư tưởng chuyên bàn về chính trị- xã hội. Song lại có kiến khác cho rằng, trong “thời kỳ Đại Việt thứ nhất – thời kỳ Lý-Trần – là thời kỳ tam giáo với tính trội thuộc về Phật giáo, tuy Phật giáo không phải là quốc giáo”[35,9]. Như vậy, cần phải làm r hơn mối 5 quan hệ giữa nhân sinh quan Phật giáo và tư tưởng chính trị, từ đó chỉ ra vai trò của Phật giáo với chính trị ở thời Lý-Trần. Giống như các triều đại phong kiến khác, xã hội thời Lý-Trần cũng có sự phân tầng tương đối rõ nét, tầng lớp cao quý nhất đồng thời nắm giữ quyền lực chính trị, kinh tế, tôn giáo là vua chúa và quý tộc; tầng lớp thứ hai là địa chủ, quan liêu – họ cũng giữ một số chức vụ nhất định trong bộ máy chính quyền; tầng lớp thứ ba là người lao động bình dân và nô tỳ, họ bị coi là tầng lớp thấp hèn nhất trong xã hội. Nhưng khi đất nước bị ngoại xâm đe dọacác tầng lớp trong xã hội đều chung sức một lòng đánh giặc, giữ nước. Phải chăng, do ảnh hưởng của nhân sinh quan Thiền Phật giáo, đã tạo ra một xã hội thuận hòa, đoàn kết nhưng rất dũng mãnh, kiên cường xông pha trận mạc, không nao núng ngay cả quân giặc rất mạnh. Bởi thế đã lần lượt chiến đấu và chiến thắng bao kẻ thù hùng mạnh. Đây là bài học về nghệ thuật phát huy sức mạnh tinh thần nhằm liên kết nhân tâm, thống nhất lực lượng, mà đến nay vẫn còn giá trị đối với nền chính trị Việt Nam. Phật giáo là một tư tưởng phổ biến trong thời Lý-Trần, từ nơi đô thành đến chốn thôn quê, nơi đâu cũng tôn sùng và thực hành theo giáo lý từ bi, hỷ xả, bình đẳng, vị tha của nhân sinh Phật giáo. Giai cấp thống trị cũng yêu mến và tôn sùng tư tưởng mà nhân dân yêu mến, họ không chỉ tận dụng sức mạnh của giáo lý Phật giáo trong việc trị nước, mà bản thân họ đã thực hành đạo lý này và trở thành những phật tử thuần thành. Điều này đã tạo nên lối sống nhân nghĩa, thuần từ, vị tha của vua – quan, hoàng tộc trong triều đình. Triết lý nhân sinh Phật giáo, đã góp phần tạo nên những nhà chính trị lý tưởng, được tôn vinh là Phật, Bồ Tát hay Thượng Sỹ khiến nhân dân hết lòng yêu mến, ngưỡng mộ.Đây là một bài học qu giá để các nhà chính trị, nhà quản lý xã hội đương thời tham khảo, để thấy được vai trò của việc tu dưỡng đạo đức, nhân cách trong việc tạo nên uy tín chính trị trong dân, từ đó, họ sẽ hết lòng ủng hộ các quyết sách của nhà nước, điều này chính là ngọn nguồn cho mọi thắng lợi của nền chính trị và của cả đất nước. 6 Có thể nói, nền chính trị thời Lý-Trần đã kế thừa tư tưởng từ bi, hỷ xả, bác ái, vị tha của Phật giáovà triển khai trong các chủ trương, đường lối chính trị cụ thể của triều đại. Nhân sinh quan Phật giáo đã góp phần xây dựng một nền văn hóa chính trị tích cực trong triều đại Lý-Trần, khiến nhân dân tin tưởng và yêu mến. Đó là l do mà thời Lý-Trần, từ vua chúa, quý tộc đến tầng lớp bình dân đều say mê đạo Phật, nhưng dân tộc đánh giặc vẫn rất giỏi, chính trị vẫn ổn định, kinh tế vẫn phát triển. Đây là bài học có giá trị thực tiễn cho việc xây dựng một nền văn hóa chính trị ở Việt Nam hiện nay và định hướng đúng đắn cho sự phát triển của Phật giáo Việt Nam trong tương lai. Bài học đó cho đến nay vẫn có giá trị lý luận và thực tiễn, nhưng vấn đề này chưa có công trình phân tích chuyên sâu, điều này cũng sẽ cần được luận giải cụ thể. Luận án chọn nghiên cứu cả hai triều đại Lý và Trần, bởi: Thứ nhất, triều Lý và Trần đều là hai triều đại phát triển cực thịnh trong lịch sử phong kiến Việt Nam. Đây cũng là thời đại hào hùng của lịch sử với nhiều lần đánh bại những đội quân xâm lược hùng mạnh nhất; Thứ hai, Tuy có sự chuyển giao quyền lực giữa hai triều đại này, song cũng nhờ đóng góp tích cực của Phật giáo mà nó được thực hiện trong hòa bình và không gây ra nhiều biến động trong xã hội. Cũng vì vậy, chính sách cai trị ở hai triều đại này cũng không có nhiều sự khác biệt; Thứ ba, Phật giáo ở cả hai triều đại này đều được tôn sùng và thực sự có tiếng nói trên vũ đài tư tưởng và có ảnh hưởng lớn trong đời sống chính trị. Chính vì có nhiều điểm tương đồng như vậy, nên trên nhiều phương diện hai triều đại Lý-Trần đều có những điểm chung, đặc biệt là trong các chủ trương, chính sách trị nước cũng có sự kế thừa và thống nhất của triều đại sau với triều đại trước. Ngày nay, Phật giáo vẫn được người Việt yêu mến và vẫn đồng hành với tiến trình phát triển của dân tộc Việt Nam. Vậy, đứng trước những cơ hội và thử thách của thời kỳ mới - thời kỳ phát triển kinh tế thị trường và toàn cầu hóa ngày càng mạnh mẽ, nhân sinh quan Phật giáo có thể đóng góp gì 7 cho nền chính trị trong kỷ nguyên mới? Luận án tiếp cận vấn đề từ việc nghiên cứu những nội dung nhân sinh quan Phật giáo có ảnh hưởng đến tư tưởng của các nhà chính trị thời Lý-Trần, từ đó rút ra nghĩa của nó cho công cuộc xây dựng văn hóa chính trị Việt Nam hiện nay. Với những lý do mang tính lý luận và thực tiễn trên, tác giả đã chọn đề tài Nhân sinh quan Phật giáo và ảnh hưởng của nó đến tư tưởng chính trị thời Lý-Trầnlàm luận án tiến sĩ của mình. 2. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu 2. . c đ ch Luận án làm rõ nội dung của nhân sinh quan Phật giáothời Lý-Trần, sự phát triển của tư tưởng chính trị thời kỳ này và ảnh hưởng của nhân sinh quan Phật giáo đến tư tưởng chính trị Việt Nam thời Lý-Trần. 2. . Nhi m v - Làm r nội dung nhân sinh quan Phật giáo và nhân sinh quan Phật giáo Lý-Trần. - Phân tích sự phát triển của tư tưởng chính trị thời L -Trần và các nhân tố ảnh hưởng đến tư tưởng chính trị, từ đó chỉ rõ thời kỳ này, nhân sinh quan Phật giáo là tư tưởng có ảnh hưởng hơn cả đến chính trị. - Làm r ảnh hưởng của nhân sinh quan Phật giáo đến tư tưởng chính trị thời Lý-Trần và nghĩa nó đối với nền chính trị Việt Nam hiện nay. 3. Đối tượng, phạm vi nghiên cứu 3.1. Đối tượng nghiên cứu Nhân sinh quan Phật giáo Việt Nam thời Lý-Trần và ảnh hưởng của nó đến tư tưởng chính trị thời Lý-Trần. 3.2. Phạm vi nghiên cứu - Về nội dung: trong khuôn khổ của luận án,đề tài chỉ xin tập trung làm r nhân sinh quan Phật giáo ở thời Lý-Trần, qua một số nội dung: quan điểm về con người, đời người; quan điểm về giải thoát; quan điểm về đạo đức, được thể hiện qua tư tưởng của thiền sư, phật tử thời Lý-Trần, mà theo 8 tác giả có ảnh hưởng đến tư tưởng chính trị (Đường lối xây dựng thể chế chính trị, ổn định xã hội; Đường lối bảo vệ thống nhất và toàn vẹn xã hội; Đường lối trấn áp các thế lực chống đối, phát triển đất nước, giải quyết các vấn đề xã hội) của thời Lý-Trần. - Về tư liệu: luận án chủ yếu sử dụng các tư liệu lịch sử, công trình nghiên cứu, sách, bài viết trên các tạp chí khoa học được dịch ra tiếng Việt và đã được công bố rộng rãi. - Về không gian và thời gian: nghiên cứu đời sống chính trị-xã hội Việt Nam thời Lý-Trần, từ năm 1009 đến năm 1400. 4. Cơ sở lý thuyết và phương pháp nghiên cứu 4. . Cơ sở lý thuyết Luận án thực hiện trên cơ sở vận dụng quan điểm của chủ nghĩa Mác- Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, đường lối chính sách của Đảng và Nhà nước về tôn giáo, văn hóa, chính trị, đồng thời kế thừa thành tựu của các công trình đi trước về nhân sinh quan, nhân sinh quan Phật giáo, tư tưởng chính trị, lịch sử tư tưởng và lịch sử Phật giáo Việt Nam. 4. . Phương pháp nghiên cứu Luận án chủ yếu sử dụng phương pháp biện chứng duy vật của triết học Mác-Lênin kết hợp với một số phương pháp nghiên cứu khác như phân tích, tổng hợp, so sánh, trừu tượng hóa, khái quát hóa và kết hợp sử dụng phương pháp nghiên cứu liên ngành như: triết học, sử học, văn học, văn hóa học, chính trị học. 5. Những đóng góp mới về khoa học của luận án Đóng góp mới của đề tài là tìm ra được những ảnh hưởng của nhân sinh quan Phật giáo đến tư tưởng của các nhà chính trị thời Lý-Trần, nhằm góp thêm một góc nhìn nhận, đánh giá khách quan về một thực tiễn lịch sử đã từng diễn ra trong xã hội phong kiến Việt Nam, thế kỷ XI-XIV. 6. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn của luận án 6. . Ý nghĩa lý luận 9 Trên cơ sở phân tích một số nội dung cơ bản và rút ra đặc điểm của nhân sinh quan Phật giáo thời Lý-Trần,luận án đã l giải nguyên nhân Phật giáo có mối quan hệ với chính trị, và từ việc phân tích tình hình kinh tế-xã hội, văn hóa-tư tưởng của thời Lý-Trần luận án khẳng định, trong bối cảnh và điều kiện ấy, nhân sinh quan Phật giáo chính là tư tưởng phù hợp hơn cả cho nền chính trị của triều đại. Từ đó, tác giả đưa ra nhiều lập luận, dẫn chứng để chứng minh rằng những tư tưởng chính trị cơ bản của thời kỳ này (xây dựng thể chế chính trị, ổn định xã hội; bảo vệ độc lập dân tộc và toàn vẹn lãnh thổ; trấn áp các thế lực chống đối, phát triển đất nước và giải quyết các vấn đề xã hội) đều có ảnh hưởng của tư tưởng từ bi, hỷ xả, nhân ái, vị tha của nhân sinh quan Phật giáo. Bởi vậy, Phật giáo thực sự đã xây dựng một nền văn hóa chính trị tích cực cho triều đại Lý-Trần. Từ bài học này, luận án đã khẳng định nghĩa của nhân sinh quan Phật giáo trong việc xây dựng văn hóa chính trị ở Việt Nam và đưa ra một số kiến nghị nhằm kế thừa những giá trị tích cực và hạn chế những ảnh hưởng tiêu cực của nhân sinh quan Phật giáo với việc xây dựng văn hóa chính trị thời đại mới. 6. . Ý nghĩa thực tiễn Luận án có thể làm tài liệu tham khảo cho công tác nghiên cứu và giảng dạy về triết học, tôn giáo nói chung; lịch sử triết học, Phật giáo, nhân sinh quan Phật giáo nói riêng; cho việc hoạch định chính sách đối với tôn giáo của Đảng và Nhà nước. 7. Kết cấu của luận án Ngoài phần Mở đầu, Kết luận, Danh mục tài liệu tham khảo, Danh mục công trình đã công bố và Phụ lục, Nội dung chính của Luận án gồm 4 chương, 10 tiết. 10 NỘI DUNG Chương 1 TỔNG QUAN TÌNH HÌNH NGHIÊN CỨU VÀ NHỮNG VẤN ĐỀ LIÊN QUAN ĐẾN LUẬN ÁN Dựa trên cơ sở xác định đối tượng, mục tiêu, nhiệm vụ của đề tài “Nhân sinh quan Phật giáo và ảnh hưởng của nó đến tư tưởng chính trị thời Lý-Trần”, tác giả đã tham khảo các công trình nghiên cứu có liên quan của các nhà khoa học đi trước, kế thừa những thành tựu nghiên cứu từ nhiều tài liệu, tư liệu về chủ đề nhân sinh quan Phật giáo nói chung, nhân sinh quan Phật giáo thời L -Trần nói riêng và tài liệu, tư liệu nghiên cứu về lịch sử, văn hóa, xã hội Việt Nam thời L -Trần trong đó đặc biệt là sự phát triển của tư tưởng chính trị thời L -Trần, để đưa ra những dẫn chứng và phân tích cụ thể về những ảnh hưởng của nhân sinh quan Phật giáo đến tư tưởng chính trị thời L -Trần như thế nào. Vậy xin được tổng quan thành một số nhóm vấn đề như sau: 1.1. Nhóm tài liệu và công trình về nhân sinh quan Phật giáo, nhân sinh quan Phật giáo Lý-Trần Nhóm tư liệu về khái niệm nhân sinh quanvà các khái niệm liên quan: Theo Đại từ điển tiếng Việt của Nguyễn Như Ý (chủ biên, 1999), Nxb. văn hóa thông tin, Hà Nội, quan niệm: Nhân sinh quan là quan niệm về cuộc đời, thành hệ thống bao gồm l tưởng, lẽ sống Trong Từ điển Bách khoa Việt Namdo Hội đồng quốc gia chỉ đạo biên soạn từ điển ách khoa Việt Nam(1995), Nxb. Trung tâm iên soạn Từ điển ách khoa Việt Nam, Hà Nội, thì định nghĩa đầy đủ hơn:Nhân sinh quan là bộ phận của thế giới quan (hiểu theo nghĩa rộng), gồm những quan niệm về cuộc sống của con người: lẽ sống của con người là gì? mục đích, nghĩa, giá trị của cuộc sống con người ra sao và sống như thế nào cho xứng đáng? trả lời những câu hỏi đó là vấn đề nhân sinh quan. 11 Đó là những định nghĩa khá cụ thể về nhân sinh quan, tác giả coi đây là những khái niệm công cụ làm nền tảng, trên cơ sở đó có thể xây dựng quan điểm nhân sinh quan riêng của bản thân và triển khai chi tiết hơn về nội dung của nhân sinh quan Phật giáo nói chung và nhân sinh quan Phật giáo Lý-Trần nói riêng. Tuy nhiên, khi nghiên cứu nhân sinh quan nói chung và nhân sinh quan Phật giáo nói riêng cần phân biệt sự khác nhau giữa quan niệm của triết học Châu Á và Châu Âu. Trong bài viết Bí ẩn Châu Á trong tấm gương triết học Châu Á (2007), của Hồ Sĩ Qu trên trang web vanhoahoc.net, tác giả đã chứng minh có một nền triết học Châu Á rất khác với triết học của Châu Âu. Để luận giải cho vấn đề đó, tác giả có đề cập đến khái niệm nhân sinh quan và cho rằng điểm khác biệt cơ bản của hai hệ thống triết học này là quan điểm về nhân sinh. Triết học Châu Âu thường không nói nhiều về nhân sinh, mà thường đặt nó trong thế giới quan hay bản thể luận, còn trọng tâm của triết học Châu Á là quan điểm về nhân sinh, như Nho giáo, Phật giáo và Lão giáo. Từ đó tác giả phân tích khá rõ khái niệm về nhân sinh quan và các nội dung chủ yếu của nhân sinh quan trong triết học Châu Á. Các tài liệu đi sâu nghiên cứu về Phật giáo thời Lý-Trần gồm có Kỷ yếu Hội thảo khoa học về Tuệ Trung Thượng sĩ với thiền tông Việt Nam, Nguyễn Thị Thanh Xuân (chủ biên, 1993) do trung tâm nghiên cứu Hán Nôm biên soạn và xuất bản; tác phẩm Việt Nam Phật giáo sử luận, tập 1 của Nguyễn Lang(1994), Nxb. Văn học, Hà Nội; cuốn Lược khảo tư tưởng Thiền Trúc Lâm Việt Nam của tác giả Nguyễn Hùng Hậu (1997), Nxb. Khoa học xã hội; Tư tưởng thiền Trúc Lâm Việt Nam của Trương Văn Chung (1998), Nxb. Chính trị Quốc gia; Lịch sử đạo Phật Việt Nam của Nguyễn Duy Hinh (1999), Nxb Tôn giáo và Nxb Từ điển Bắc Khoa; Luận án Tiến sĩ ngữ văn của Nguyễn Công Lý (2000)về Văn học Phật giáo thời Lý-Trần, diện mạo và đặc điểm, Đại học Sư phạm Hà Nội; Lịch sử Phật giáo Việt Nam (2 tập) của Lê Mạnh Thát (2001), Nxb T.p Hồ Chí Minh 12 Trước hết phải kể đến tác phẩm Việt Nam Phật giáo sử luận của Nguyễn Lang (1994)đã kết hợp giữa viết sử và bình luận lịch sử, trên cơ sở những đại diện tiêu biểu và các trường phái Phật giáo chính yếu xuất hiện trong lịch sử, các mốc lịch sử quan trọng của Phật giáo Việt Nam. Tác phẩm đã đưa ra những dữ liệu giá trị về thiên hướng phát triển của Phật giáo qua các thời kỳ tương đối toàn vẹn và đầy đủ. Trong đó, tác giả đã giành nhiều thời lượng để phân tích, làm r đặc điểm cơ bản của Phật giáo thời Lý và Trần hay sự tồn tại và phát triển của các thiền phái giai đoạn nay như thế nào và ảnh hưởng của nó đến các lĩnh vực của đời sống ra sao qua các nhà tư tưởng tiêu biểu. Tác phẩm Lịch sử Phật giáo Việt Nam của Lê Mạnh Thát (2001), dựa trên những cứ liệu lịch sử phong phú, tác giả đã hệ thống về tiến trình hình thành và phát triển của Phật giáo Việt Nam. Đặc biệt, tác giả đã đề cập khá đậm nét về giai đoạn phát triển của Phật giáo Lý-Trần, đồng thời só sánh nó với thời kỳ Phật giáo chấn hưng ở thế kỷ XX. Kỷ yếu Tuệ Trung Thượng sĩ với thiền tông Việt Nam (1993), là tập hợp các bài viết nghiên cứu hành trạng và tư tưởng của Tuệ Trung Thượng sĩ – đại diện tiêu biểu cho tư tưởng và phong cách sống của Thiền sư Đại Việt thời Trần, của Thiền Tông Việt Nam. Các bài viết trong đó đều tập trung phân tích tầm ảnh hưởng quan trọng của tư tưởng Phật giáo đến đời sống xã hội thời Trần, đến các tầng lớp thống trị, tướng sĩ và nhân dân. Chình nhờ ảnh hưởng đó mà tạo nên sức mạnh giúp Đại Việt 3 lần chiến thắng quân Nguyên-Mông. Một số bài viết cũng chỉ ra hướng phát triển của Phật giáo Việt Nam hiện nay và đóng góp của nó trong thời đại mới. Cuốn Lược khảo tư tưởng Thiền Trúc Lâm Việt Nam của Nguyễn Hùng Hậu (1997) đã phân tích khía cạnh bản thể luận,nhân sinh quan của các thiền sư, phật tử thời Trần như Trần Thái Tông, Trần Nhân Tông, Tuệ Trung Thượng sĩ, Pháp Loa, Huyền Quang. Họ là những đại diện tư tưởng Phật giáo ở giai đoạn phát triển đỉnh cao của Phật giáo ở thời kỳ Nhà Trần. 13 Công trình này đã mang lại cái nhìn khái quát về nội dung nhân sinh quan của Phật giáo thời Trần, làm cơ sở quan trọng để tác giả Luận án đưa ra những nhận định, so sánh về tư tưởng nhân sinh của Phật giáo thời Lý và Trần, qua đó rút ra những ảnh hưởng tích cực của Phật giáo đối với chính trị. Tác phẩm Tư tưởng triết học của thiền phái Trúc Lâm đời Trần của Trương Văn Chung (năm 1998) tập trung nghiên cứu những tiền đề về xã hội, tôn giáo và tư tưởng ảnh hưởng đến sự hình thành và phát triển của Thiền phái Trúc Lâm. Trong đó tập trung phân tích ảnh hưởng tư tưởng của Trần Thái Tông, Tuệ Trung Thượng sĩ đến sự ra đời của phái thiền Trúc Lâm mà sau này vua Trần Nhân Tông, là người sáng lập. Nội dung cơ bản của thiền phái Trúc Lâm được khảo sát qua tư tưởng của tam tổ là: Trần Nhân Tông, Pháp Loa, Huyền Quang. Tác phẩm cũng nêu lên những đặc trưng cơ bản của phái Thiền này, trong đó nhấn mạnh tính chất nhập thế nhằm mục đích chính trị và phụng sự dân tộc, bảo vệ quyền lợi quốc gia của Phật giáo Trúc Lâm Yên Tử thời Trần. Đề tài của Nguyễn Công Lý (2000) về Văn học Phật giáo thời Lý- Trần, diện mạo và đặc điểm, dù nghiên cứu ở góc độ văn học nhưng công trình đã có những phân tích khá chính xác về ảnh hưởng của tư tưởng Phật giáo nói chung và nhân sinh quan Phật giáo nói riêng của thời đại Lý-Trần tới các sáng tác văn học, tư duy nghệ thuật và cả đời sống văn hóa xã hội thời kỳ này. Đề tài cũng đã khái quát được những đặc trưng của thời đại Lý- Trần, từ đó phân tích sự tương tác giữa Phật giáo với con người Việt Nam trong bối cảnh đất nước đang xây dựng và bảo vệ nền độc lập và hình thành bản sắc văn hóa dân tộc đặc thù. Đề tài phân tích rất chi tiết về ảnh hưởng của tư tưởng Phật giáo đến ý thức, tinh thần xã hội qua các tác phẩm văn học. Đây là những nội dung quan trọng được luận án này đánh giá cao và tiếp tục kế thừa, phát triển. Nhóm công trình có liên quan tới vấn đề nhân sinh quan Phật giáo nói chung và nhân sinh quan Phật giáo – Thiền, đây là loại hình Phật giáo 14 phổ biến ở Đại Việt thời Lý-Trần, gồm các công trình sau: Thiền học Việt Nam của Nguyễn Đăng Thục (1966), Nxb. Thuận Hóa; Tìm hiểu nhân sinh quan Phật giáo của Thích Tâm Thiện(1995), Nxb. Tp Hồ Chí Minh, Tp Hồ Chí Minh; Nền tảng của đạo Phật của Peter D. Santina viết năm 1996, Thích Tâm Quang dịch, đăng trên trang budsas.org; Đại cương triết học Phật giáo Việt Nam, Tập 1: Từ khởi nguyên đến thế kỷ XIV, của Nguyễn Hùng Hậu(2002), Nxb. Khoa học xã hội; Nhân sinh của Phật giáo trích từ cuốn Thế giới tái sinh Duy Nguyễn dịch(1999), Nxb. Văn hóa dân tộc, Hà Nội; Nhân sinh quan Phật giáo của Hòa thượng Thích Thanh Từ đăng trên trang web: thuongchieu.net; Nhân sinh quan Phật giáo của Thích Thiện Hoa đăng trên trangweb: tangthuphathoc.net; bài nghiên của Nguyễn Thị Thúy Hằng (2014) Một số đặc trưng của nhân sinh quan Phật giáo Việt Nam đăng trên tạp chí Nghiên cứu tôn giáo số 2 (128), tr 25-34. Tác phẩmThiền học Việt Nam của Nguyễn Đăng Thục (1966), trình bày tư tưởng của một số Thiền sư Việt Nam từ thời Bắc thuộc đến thế kỷ XV thông qua các tác phẩm tiêu biểu của họ. Trong đó có giành nhiều nội dung phân tích sự tương tác giữa chính trị và tư tưởng thiền Phật giáo ở Việt Nam thời kỳ này. Qua việc phân tích những nội dung cơ bản trong triết lý nhân sinh của thiền tác giả đã chỉ ra chính nhờ tính thực tiễn của nó đã làm cho tư tưởng Phật giáo Việt Nam dễ hòa vào các triết l đương thời và có thể tìm thấy ở cả tư tưởng chính trị. Tác phẩm Tìm hiểu nhân sinh quan Phật giáo của Thích Tâm Thiện (1995) đã chỉ ra nguồn gốc của nhân sinh quan Phật giáo, và trình bày thuyết Duyên sinh - Vô ngã qua các bộ kinh Hoa Nghiêm, Pháp Hoa, Lăng già. Đồng thời, dưới góc độ nghiên cứu của triết học, tác giả khái quát những chỉ dẫn của Phật giáo để trở thành con người l tưởng, hạnh phúc ngay trong cõi đời này. Trong cuốn Nền tảng của đạo Phật, tác giả trình bày 12 bài giảng về lịch sử ra đời của đạo Phật và những phần giáo l căn bản nhất của đạo Phật 15 như: tứ diệu đế, l nhân duyên, nghiệp, ngũ uẩn...Tác phẩm đã mang lại những góc nhìn mới,xuất phát từ quan niệm của một Phật tử ở phương Tây và đã cố gắng làm r từng nội dung trong quan niệm nhân sinh của đạo Phật nguyên thủy. Nhân sinh Phật giáo trích từ cuốn Thế giới tái sinh của Chu Sở(1999) đã chứng minh cho tính đúng đắn của các luận đề về nhân sinh của Phật giáo như: thuyết luân hồi, thuyết định mệnh, thuyết nhân-quả, quan niệm về hạnh phúc thực sự của loài người trên cơ sở so sánh, đối chiếu với các học thuyết, các triết lý của các nhà khoa học hay các học giả lỗi lạc trên thế giới như Anhxtanh, Galilê, Côpecnich, Khổng Tử, Tôn Trung Sơn. Đại cương triết học Phật giáo Việt Nam, tập 1: Từ khởi nguyên đến thế kỷ XIV của Nguyễn Hùng Hậu (2002) đã khái quát lịch sử Phật giáo Việt Nam từ khởi nguyên đến thế kỷ XIV (thời Lý-Trần), đồng thời đi vào những vấn đề cơ bản của Phật giáo nói chung và Phật giáo Việt Nam nói riêng. Trong đó, nội dung nhân sinh quan Phật giáo được tác giả khảo sát qua tư tưởng của các thiền phái và các đại diện tiêu biểu của Phật giáo Việt Nam trong mỗi triều đại. Bài viết Một số đặc trưng của nhân sinh quan Phật giáo Việt Nam của tác giả Nguyễn Thị Thúy Hằng (2014), sau khi trình bày khái quát quan niệm nhân sinh Phật giáo về con người và so sánh sự khác nhau giữa nhân sinh quan Phật giáo Việt Nam với Trung Quốc và Ấn Độ, tác giả đã đưa ra ba đặc trưng của nhân sinh quan Phật giáo Việt Nam là: 1. Nhân sinh quan Phật giáo Việt Nam có sự hòa quyện với văn hóa và các hình thức thờ cúng bản địa; 2. Sự tương đồng giữa nhân sinh quan Phật giáo Việt Nam với quan niệm nhân sinh của con người Việt Nam; 3. Tinh thần nhập thế của Phật giáo Việt Nam. Đây là những đánh giá tương đối chính xác góp phần làm một trong những tham khảo có giá trị cho tác giả luận án. Luận án đã có sự kế thừa và phát triển từ những nội dung đã kể trên và đưa ra những đặc điểm cơ bản của nhân sinh quan Phật giáo Lý-Trần, từ đó đi đến khẳng định, nhờ 16 những đặc điểm này mà nhân sinh quan Phật giáo đã có mối liên hệ chặt chẽ với chính trị. Nhóm công trình có liên quan đến những chiều cạnh cụ thể của nhân sinh quan Phật giáo gồm: Bài Giá trị của triết học Phật giáo trong xã hội hiện đại của Phương Lập Thiên (2004) đăng trên Tạp chítiếng Trung Các trào lưu tư tưởng đương đại, số 4/2004 do Nguyễn Hải Hoành dịch trên trang web khaidoan.com; Cuốn Đạo đức Phật giáo với đạo đức con người Việt Nam của Đặng Thị Lan (2006), Nxb. Đại học Quốc gia Hà Nội; Luận án Tiến sĩ triết học với đề tài Giải thoát luận Phật giáo của Nguyễn Thị Toan (2010), trường Đại học Khoa học Xã Hội và Nhân văn Hà Nội; Lý thuyết nhân quả trong triết học Phật giáo và trong học thuyết siêu nghiệm của Kant của Thái Kim Lan đăng trên trang web daophatngaynay.com; Bài nghiên cứu của Hoàng Thị Thơ (2000) Vấn đề con người trong đạo Phật đăng trên Tạp chí Triết học, số 6/2000, trang 41-44; Bài nghiên cứu Từ bi của Phật giáo và đạo đức nhân loại của tác giả Hà Thúc Minh (2014) trên Tạp chí Nghiên cứu Tôn giáo, số 2 (128), 2014, trang 116-125. Trong đó, có thể kể đến những tài liệu, những vấn đề liên quan trực tiếp đến đề tài của tác giả luận án, như: Cuốn Đạo đức Phật giáo với đạo đức con người Việt Nam của Đặng Thị Lan (2006) đã nghiên cứu và đi vào phân tích một số nội dung cơ bản của đạo đức Phật giáo như từ bi, ngũ giới, nhân quả, nghiệp báo, luân hồi và ảnh hưởng của đạo đức Phật giáo đến lối sống của con người Việt Nam trong giai đoạn hiện nay, bao gồm cả những tích cực và hạn chế. Từ đó, tác giả đã đưa ra các giải pháp để phát huy những mặt tích cực và hạn chế những tiêu cực của đạo đức Phật giáo. Luận án tiến sĩ Triết học Giải thoát luận Phật giáo của Nguyễn Thị Toan (2010), trên cơ sở khái quát logic phát triển quan niệm về giải thoát của Phật giáo qua các thời kỳ, đã khảo sát lịch sử quan niệm về giải thoát trong lịch sử Phật giáo trong tư tưởng Việt Nam và đi sâu phân tích một số 17 biến đổi trong quan niệm giải thoát. Từ đó, tác giả đề xuất một số giải pháp nhằm phát huy ảnh hưởng tích cực, hạn chế những ảnh hưởng tiêu cực của quan niệm này đối với đời sống Việt Nam hiện nay. Bài Giá trị của triết học Phật giáo trong xã hội hiện đại (2004) của Phương Lập Thiên, bàn nhiều về giá trị nhân sinh của Phật giáo. Xuất phát trên nền tảng những xung đột, mâu thuẫn cơ bản của xã hội loài người để nói lên sự cần thiết phải quay trở lại với các triết l nhân sinh cơ bản của Phật giáo như: thuyết duyên khởi, thuyết nhân – quả, trung đạo, bình đẳng, từ bi, giải thoát và phân tích cụ thể ảnh hưởng tích cực của các triết lý này trong việc giải quyết những vấn đề phức tạp của xã hội hiện đại. Bài Vấn đề con người trong đạo Phật của tác giả Hoàng Thị Thơ (2010) khẳng định cốt l i trong tư tưởng Phật giáo là nhân sinh quan, thể hiện ngay trong bản thể luận, vũ trụ luận và nhận thức luận, bởi vì mục đích cuối cùng của đạo Phật là “diệt khổ” giải thoát lên c i “niết bàn” của con người. Bài viết đã phân tích nền tảng triết lý nhân sinh cơ bản của Phật giáo và mục đích l tưởng của nó là “giải thoát”, đồng thời đưa ra những đánh giá về những ưu điểm và hạn chế trong triết lý nhân sinh Phật giáo. Bài viết Từ bi của Phật giáo và đạo đức nhân loại của tác giả Hà Thúc Minh (2014 ), trên cơ sở trình bày khái niệm “từ bi”, “từ” và “bi” trong các kinh điển của Phật giáo, tác giả đã đưa ra quan niệm của mình về từ bi và các giá trị liên quan để có được từ bi, như hỷ xả, vô ngã, nhân ái, bố thí, trí Đồng thời, tác giả cũng phân tích điểm giống và khác nhau giữa từ bi của Phật giáo với nhân ái của Nho giáo hay bác ái của Kitô giáo. Tác giả cho rằng điểm giống nhau là đều hướng đến cuộc sống nhân văn, nhân đạo, nhưng với Nho giáo đó là cuộc sống của con người nói chung – thiên nhân hợp nhất, còn Kitô giáo với quan niệm “con người sinh ra để cai quản muôn loài”, còn Phật giáo quan niệm đó phải là lòng nhân ái cho chúng sinh, muôn loài. Tác giả luận án cũng thống nhất với quan điểm này và triển khai nó trong nhiều nội dung của đề tài. 18 1.2. Nhóm công trình nghiên cứu về tư tưởng chính trị thời Lý-Trần Nhóm công trình bàn về các khái niệm tư tưởng chính trị và các khái niệm liên quan: Theo cuốn Lịch sử tư tưởng chính trị do Dương Xuân Ngọc (chủ biên, ...uận án, nhằm góp phần đánh giá r hơn về Phật giáo thời Lý-Trần cũng nhưluận giải về sự phát triển của tư tưởng chính trị thời Lý-Trần từ tiếp cận mối quan hệ nhân sinh quan Phật giáo với tư tưởng chính trị. Tiểu kết chương Như vậy, nhu cầu tìm hiểu lại những giá trị văn hóa tinh thần của dân tộc ngày càng được quan tâm. Trong đó, phải kể đến những nghiên cứu về chủ đề Phật giáo - một trong những thành tố quan trọng góp phần định hình nên bản sắc văn hóa Việt, như, nhân sinh quan Phật giáo; Phật giáo thời Lý-Trần; hay ảnh hưởng của Phật giáo đến đời sống xã hội, đời sống tinh thần đều là vấn đề thu hút nhiều chuyên gia. Tuy nhiên việc nghiên cứu về những ảnh hưởng cụ thể của nhân sinh quan Phật giáo đến tư tưởng chính trị thời Lý-Trần vẫn chưa nhiều công trình đi sâu tìm hiểu. Trên cơ sở ấy, tác giả luận án đã đưa ra một số hướng triển khai mới, nhằm góp phần đánh giá r hơn về Phật giáo ở thời Lý-Trần cũng như luận giải về sự phát triển của tư tưởng chính trị thời Lý-Trần từ những ảnh hưởng của nhân sinh quan Phật giáo. 33 Chương 2 NHÂN SINH QUAN PHẬT GIÁO VÀ NHÂN SINH QUAN PHẬT GIÁO THỜI LÝ-TRẦN 2.1. Nhân sinh quan Phật giáo 2.1.1. Nhân sinh quan Phật giáo và những khái ni m liên quan Nhân sinh quan là: “Bộ phận của thế giới quan (hiểu theo nghĩa rộng), gồm những quan niệm về cuộc sống của con người: Lẽ sống của con người là gì? Mục đích, nghĩa, giá trị cuộc sống của con người ra sao và sống như thế nào cho xứng đáng? Trả lời những câu hỏi đó là vấn đề nhân sinh quan”[38,235].Vậy, nhân sinh quan là quan niệm của con người về bản thân vàcuộc sống của họ: con người là gì, con người từ đâu sinh ra, mẫu hình người l tưởng phải như thế nào, bản chất của cuộc sống con người là gì, mục đích của sống của họ như thế nào và con người phải sống thế nào cho có nghĩa. Quan niệm nhân sinh của con người sẽ có ảnh hưởng đến tâm lý, tình cảm và mọi hoạt động sống của con người. Ngược lại, con người cũng phát huy những nhân sinh quan có giá trị trở lại định hướng sự tương tác của họ với thế giới tự nhiên và với xã hội.Nếu nhân sinh quan mang màu sắc tôn giáo, nghĩa là những quan niệm về đời người, giá trị sống, mục đích sống của con người bị ảnh hưởng bởi những triết lý, quan niệm của một tôn giáo; thì triết lý về cuộc sống của tôn giáo đó sẽảnh hưởng mạnh mẽ đến ý thức, tình cảm và có thể chi phối, dẫn dắt mọi hoạt động sống của họ. ởi những hệ tư tưởng tôn giáo tuy là yếu tố vô hình nhưng lại mang màu sắc thần bí, siêu nhiên, nên nó có sức thu hút và dễ dàng đáp ứng được nhu cầu tâm linh của con người. Việc đáp ứng nhu cầu tâm linh, sự an ủi về tinh thần luôn cần thiết đối với cuộc sống của con người, cả trong thời kỳ khoa học chưa phát triển, kinh tế-chính trị bất ổn và cả khi đời sống vật chất và tinh thần của con người đã được nâng cao và khoa học kỹ thuật đã phát triển thì triết l của tôn 34 giáo vẫn có sức ảnh hưởng lớn đến đời sống của con người, bởi nó giúp con người tự cân bằng tâm l trước mọi biến động của cuộc sống. Trong lịch sử, nhiều nhà nước, nhiều triều đại đã sử dụng tôn giáo (Thiên chúa giáo, Bà La Môn giáo, Hồi giáo, Nho giáo. Lão giáo) làm công cụ tinh thần để thống trị, duy trì ách áp bức, bóc lột của giai cấp thống trị. Nếu nhân sinh quan tôn giáo tiêu cực sẽ kìm hãm sự phát triển của bản thân con người và xã hội. Ngược lại, nhân sinh quan tôn giáo mang tính nhân văn, nhân đạo và tiến bộ thì đem lại những đổi thay có tính cách mạng, cải cách trong tư tưởng xã hội. Chẳng hạn, tính bình đẳng, vô thần trong nhân sinh quan Phật giáo có tác dụng chống lại bất bình đẳng khắc nghiệt của Bà La Môn giáo thần quyền ở Ấn Độ (thế kỷ 6-5 TCN) và nó đã đem đến sự lạc quan trong tâm lý, ý thức và hoạt động sống của con người trong xã hội đương thời. Phật giáo là một sản phẩm tiêu biểu của tư tưởng tôn giáo - triết học phương Đông- với đặc trưng luôn lấy con người là trung tâm. Nhân sinh quan là nội dung cơ bản và quan trọng trong hệ thống tư tưởng của Phật giáo và nó có sức ảnh hưởng rất rộng lớn và linh hoạt đến các lĩnh vực của đời sống xã hội trong đó phải kể đến cả ảnh hưởng đối với chính trị và tư tưởng chính trị. Phật giáo ra đời khi Ấn Độ đã có một nền tảng triết học và tôn giáo bề thế với lịch sử hơn 1500 năm trước CN, trải qua hai giai đoạn lớn là Veda và Upanishad. Phật giáo đại diện cho giai đoạn thứ ba, giai đoạn chuyển từ tư duy thần quyền sang tư duy nhân bản, bàn nhiều về chủ đề nhân sinh, coi trọng con người và vấn đề giải thoát cho con người là mục tiêu cao nhất của các giáo l . “Đạo Phật lấy trọng tâm là vấn đề “diệt khổ”, “giải thoát”, mô hình l tưởng là “Niết bàn” và phương pháp là “diệt dục” Tất cả các hệ phạm trù, nguyên lý thể hiện trong giáo l đều nhằm một mục đích “diệt khổ”, “giải thoát” con người với tinh thần bác ái, phi bạo lực”[101,41]. Nhân sinh quan Phật giáo cho rằng cuộc đời của con người là “bể khổ”, từ đó đưa ra những cách thức nhằm giúp con người “diệt khổ” và “giải 35 thoát” nhằm đạt được trạng thái l tưởng, siêu thoát là “Niết bàn”. Phương pháp cơ bản để lên được cõi Niết bàn của Phật giáo là “diệt dục”, quan điểm này được hệ thống chủ yếu trong thuyết “Tứ diệu đế”, “ át chính đạo”, “Thập nhị nhân duyên”...Những triết l nhân sinh của Phật giáo mang tính nhân văn và biện chứng sâu sắc, trong đó nội dung cốt lõi là bàn về nỗi khổ (Khổ Đế), phân tích nguyên nhân của nỗi khổ (Tập Đế), khả năng có thể giải thoát (Diệt Đế), từ đó chỉ ra con đường thoát khổ (Đạo Đế). Ngoài ra nhân sinh quan Phật giáo còn đưa ra quan niệm về con đường cách thức để giải thoát bằng kết hợp tu dưỡng đạo đức (Giới), trí tuệ (Tuệ) và niềm tin (Định) để có nhân tâm trong sạch, kết hợp rèn luyện tâm thức không vọng động, không nhị kiến (còn gọi là át Chính Đạo). Tâm trong sáng, từ đó tuệ giác sẽ nảy sinh. Như vậy, tu tâm dưỡng tính để đạt được nhân cáchthanh cao, đạo đức sáng ngời cũng là cách thức và con đường đạt đến sự giải thoát. Toàn bộ nhân sinh quan này của Phật giáo được tóm gọn trong Tứ Diệu Đế. Giải thoát là một trong những nội dung của nhân sinh quan được Phật giáo kế thừa từ truyền thống Veda, Upanishad. Song điểm mới và tiến bộ là Phật giáo quan niệm tất cả chúng sinh đều có khả năng giải thoát. Quan niệm này đã đáp ứng đúng khát vọng tự do, bình đẳng của người Ấn Độ đương thời dưới chế độ thần quyền của Bà La Môn giáo với sự phân biệt đẳng cấp hà khắc và bất bình đẳng về quyền tự do tín ngưỡng lúc đó. Tứ diệu đế đã được đức Phật giảng ngay từ những buổi đầu mới sáng lập Phật giáo (khoảng thế kỷ V TCN), đó cũng chính là tư tưởng nhân sinh quan cơ bản của Phật giáo từ thời cổ đại, mà đến nay vẫn còn giá trị. Trong điều kiện lịch sử xã hội Ấn Độ cổ đại, chủ trương về sự “bình đẳng giữa chúng sinh”, chống lại sự hà khắc của thần quyền của à La Môn giáo, mở đường “giải thoát” cho tất cả mọi người đã là một bước tiến bộ nếu so với các tôn giáo thần quyền ở Ấn Độ. Tuy vậy, nhân sinh quan Phật giáo thời đó không phải là một học thuyết đấu tranh cải tạo xã hội triệt để. Phật giáo không chỉ ra nguyên nhân bất bình đẳng trong xã hội từ mâu thuẫn về lợi ích 36 giữa các giai cấp, mà chỉ dừng lại ở việc kêu gọi con người hãy diệt bỏ lòng tham, sống trì giới, nhẫn nhục để đạt tới giải thoát. 2.1.2. Nhân sinh quan Phật giáo kế thừa và phát triển từ các tư tưởng của Ấn Độ c đại Khi Phật giáo hình thành, ở Ấn Độ đã xuất hiện nhiều trường phái tôn giáo - triết học, chúng đều dựa vào uy quyền của kinh Vê đa-Upanisad, đồng thời kế thừa nội dung của nó. Trong bối cảnh đó, Phật giáo nói chung và nhân sinh quan Phật giáo nói riêng cũng chịu ảnh hưởng của Vê đa- Upanisad. Thời kỳ này, các lĩnh vực trong xã hội đang bị chi phối và ảnh hưởng bởi sự thống trị của Bàlamôn giáo. Theo tư tưởng của Bàlamôn giáo sự phân chia đẳng cấp trong xã hộiẤn Độ lúc đó tồn tại bốn đẳng cấp: 1. Tăng lữ Bàlamôn (Barahmin) chuyên lo việc tôn giáo, tế tự, truyền bá kinh Vêda; 2. Đẳng cấp vua chúa, quý tộc, tướng lĩnh, v sĩ (K’shatriya); 3. Đẳng cấp thương nhân, điền chủ và thường dân hay những người bình dân, tự do (Vaishya) lao động sản xuất, buôn bán, chăn nuôi tạo ra của cải vật chất nuôi sống xã hội; 4. Đẳng cấp tiện dân, nô lệ (Shudra) có bổn phận phục dịch ba đẳng cấp trên. Ngoài bốn đẳng cấp trên, còn có đẳng cấp Chiên đà la bị coi là ngoài lề xã hội (untouchable). Đó là những người làm các nghề bị coi là hạ cấp, thấp hèn (giặt quần áo, đồ tể). Sự phân biệt đẳng cấp khắc nghiệt thể hiện trong bộ luật Manu thành những nguyên tắc xã hội: không được ăn cùng người khác đẳng cấp; không được kết hôn với người thuộc đẳng cấp khác; người thuộc đẳng cấp dưới phải tôn kính và phục tùng vô điều kiện đối với những người thuộc đẳng cấp trên. Trong đó, đẳng cấp àlamôn được coi là đẳng cấp cao nhất, đẳng cấp thần thánh, luôn được tôn trọng như một vị thần bởi họ được thượng đế ban cho “tinh thần thiêng”, có thể làm chủ cả thế giới. Đẳng cấp nô lệ không phải là lực lượng sản xuất chính trong xã hội, họ thường làm đầy tớ cho các gia đình giàu có thuộc đẳng cấp trên, và chỉ được coi như là một loại tài sản, và lệ thuộc hoàn toàn vào người chủ, họ có thể bị đuổi, bị đánh đập hoặc bị giết 37 bất cứ lúc nào. Sự bất bình đẳng giữa các đẳng cấp trong xã hội là một trong những nguyên nhân giải thích tại sao các tư tưởng tôn giáo triết học Ấn Độ cổ đại lại trội về nhân sinh quan với các quan niệm về con người, đời người; về sự hình thành, tồn tại, phát triển của con người; về lẽ sống-chết; về quan niệm sống và mục đích sống của mỗi người. Tiếp nối truyền thống đó,Phật giáo cũng bàn nhiều về triết lý nhân sinh, với đặc trưng, luôn lấy vấn đề khổ và thoát khổ của con người là trung tâm. Nhưng khác với triết thuyết trước đó, Phật giáo đưa ra quan điểm nhân sinh tiến bộ hơn về sự giải thoát, đã phần nào khắc phục những bất bình đẳng khắc nghiệt trong tư tưởng thần quyền của đạo à la môn đang chi phối đời sống chính trị - xã hội Ấn Độ đương thời.Tư tưởng nhân sinh bình đẳng của Phật giáo đã hướng đến sự bình đẳng, góp phần khắc phục và loại bỏ áp bức, bất công trong xã hội. Vì vậy, dù giáo lý của Phật giáo không trực tiếp đề cập đến mục đích chính trị - xã hội nhưng l tưởng từ bi bình đẳng vị tha lại mở cánh cửa cho thái độ “nhập thế” vào đời sống chính trị - xã hội. Tiếp thu từ các trường phái tôn giáo-triết học khác của Ấn Độ trong thời kỳ cổ đại, nhân sinh quan của Phật giáo tập trung vào vấn đề giải thoát cho con người. Trước Phật giáo, tư tưởng giải thoát vốn có từ kinh Veda - bộ kinh cổ nhất của người Ấn Độ. Tuy nhiên, kinh Veda vẫn là thần quyền, số phận con người hoàn toàn lệ thuộc vào sự ban phát của đăng cấp Bà La Môn, đẳng cấp này được coi làthần thánh, trên cả đẳng cấp vua chúa. Tư tưởng giải thoát thần quyền được hoàn thiện hơn trên cơ sở triết họcUpanisad cho rằng linh hồn vũ trụ tối cao ( rahman) có trước, tồn tại vĩnh viễn và từ đó mà sinh ra vạn vật, sinh ra linh hồn cá nhân (Atman) tồn tại trong mỗi con người, nhưng con người không nhận thấy được giải thoát là sự trở về của Atman/Tiểu ngã (tương đối) hòa nhập với Brahman/Đại ngã (tuyệt đối). Upanisad còn cho rằng, linh hồn cá nhân tồn tại trong vỏ bọc thể xác, mà thể xác lại chứa đựng những ham muốn, dục vọng, nên đã gây đau khổ cho linh hồn cá nhân. Linh hồn con người bị giam hãm và các kiếp sống khác nhau, 38 gánh chịu hậu quả của kiếp sống trước, bị ràng buộc bởi thế giới ảo ảnh nên không trở về với linh hồn vũ trụ. Giải thoát chính là giúp linh hồn cá nhân vượt qua khỏi thế giới ảo ảnh, thoát khỏi vòng nghiệp báo luân hồi nhập vào bản thể tuyệt đối của linh hồn vũ trụ. Tư tưởng giải thoát trong Upanisad chỉ là sự vươn lên của linh hồn cá nhân để hợp nhất với linh hồn vũ trụ tối cao. Các trường phái triết học (dasanas) của Ấn Độ cổ đã phát triển tiếp vấn đề giải thoát theo nhiều hướng.Chẳng hạn: Phái Samkhuya đề cập tới nỗi đau vĩnh cửu của các cá thể sinh ra từ sự phối kết hợp giữa tự nhiên (prakriti) và linh hồn (purusha) và đưa ra con đường giải thoát bằng tu luyện để thoát khỏi vòng luân hồi, nhờ đó đưa cái tôi tâm l và cái tôi xã hội thoát khỏi thế giới sinh tử, hòa nhập với Đại ngã; Phái oga tìm con đường giải thoát bằng cách thực hành yoga - nguồn cội của thiền Phật giáo - để hủy bỏ đam mê và mọi quan tâm tới thế giới bên ngoài, từ đó đi sâu vào thực thể bên trong để đạt tới trạng thái tinh thần trong sáng, hòa nhập với Đại ngã; Phái Mimansa cho rằng phải thực hiện nghiêm ngặt mọi luật lệ, quy tắc, nghi thức của thánh kinh Vêda và luật lệ của xã hội đẳng cấp mới đạt tới giải thoát; Phái Vedanta thì đặc biệt chú trọng đến việc phát triển trí tuệ, coi đó là phương tiện hữu hiệu để đạt tới giác ngộ, giải thoát[tham khảo 137]. Phật giáo đã kế thừa có chọn lọc các tư tưởng giải thoát đương thời trên tinh thần cách tân, phủ nhận Atman và rahman bằng thuyết “vô ngã”, nhưng lại tiếp thu tư tưởng nhân quả, nghiệp báo luân hồi và cách tu dưỡng hướng nội, đề cao đạo đức, niềm tin. Phật giáo cho rằng, Thế giới nằm trong dòng chảy không ngừng (vô thường), nên không có bản chất cố định (vô ngã). Song do mê muội (vô minh) không thấu hiểu điều này nên con người tin rằng có một cái Ngã cố định (mắc vào hữu ngã), từ đó đắm chìm trong dục vọng, để rồi phải gánh chịu những nghiệp quả ở kiếp sau trong vòng luân hồi[31,269]. Vì vậy, Phật giáo chọn hướng giải thoát mới là diệt bỏ những u mê, lầm lẫn đó qua việc tu luyện kết hợp niềm tin, trí tuệ và đạo đức. 39 Phật đã kế thừa các tư tưởng truyền thống của Ấn Độ cổ đại (kinh Vêda, kinh Upanisad, kinh Yoga của đạo Bà La Môn) của các trường phái triết học chính thống lúc bấy giờ (Samkhya, Yoga, Mimansa, Vedanta, Vaisesika) để sáng lập một dòng tư tưởng mới, bình đẳng về niềm tin tôn giáo, về con đường đến với sự giải thoát, khuyên con người hãy nhìn thẳng vào nỗi khổ và tìm ra con đường tự giải thoát khỏi nỗi khổ từ sự nỗ lực của chính bản thân mỗi người. Tư tưởng giải thoát (nhân sinh quan) tiến bộ của Phật giáo đã ảnh hưởng lớn đến vua A Dục (Asoka, 304-232 TCN), vị vua vĩ đại nhất lịch sử Ấn Độ và ông đã cải đạo từ à La Môn giáo sang Phật giáo và lấy Phật giáo làm quốc giáo, từ đó làm thay đổi hoàn toàn đế chế Ấn Độ. Vua A Dục là một thí dụ điển hình vận dụng thành công nhân sinh quan Phật giáo vào đường lối trị quốc. ng đã: ... sống và thực hành tư tưởng nhân sinh Phật giáo cho tất cả mọi người dân trong triều đại của ông. Ông còn quảng bá chính sách bất bạo động đến các vương quốc lân cận và gửi sứ giả đi khắp nơi để truyền bá thông điệp hòa bình và bất bạo động. Ông cổ vũ sự ứng dụng các nguyên tắc đạo đức trong xã hội, như chân thật, từ bi, bác ái, bất bạo động, nhân từ, không hoang phí, không chiếm đoạt, và không gây sát hại cho mọi loài vật[149]. Tư tưởng nhân sinh tích cực này khi thay thế tư tưởng bất bình đẳng của Bà La Môn giáo đã giúp cho Ấn Độ, thời vua A Dục đạt những bước phát triển mạnh mẽ trên mọi lĩnh vực kinh tế, chính trị, văn hóa, giáo dục, ngoại giao, và theo đó Phật giáo với tư cách quốc giáo cũng phát triển nhanh chóng ra ngoài Ấn Độ, trở thành một tôn giáo của châu Á. Sau khi Phật nhập diệt, những nội dung cơ bản do Phật thuyết giảng lúc tại thế được tổng hợp và truyền tụng lại ngay trong cuộc kết tập lần thứ nhất thành văn tự trongKinh tạng và Luật tạng: Trường A hàm, Trung A hàm, Tạp A hàm và Tăng nhất A hàm. Khoảng 100 năm sau, trong cuộc kết tập lần thứ hai, một bộ phận tỳ kheo trẻ thuộc Đại chúng bộ (Mahasanghika) đã đưa ra 10 điều luật mới, nhưng các vị tỳ kheo lớn tuổi thuộc Thượng tọa 40 bộ (Sthaviravada) không chấp nhận, và coi đó là 10 điều phi pháp. Cuộc tranh luận này đã dẫn tới sự phân hóa giáo đoàn Phật giáo thành hai phái: Thượng tọa bộ với chủ trương giữ y giới luật như ngày Phật còn tại thế: tự độ, tự tha; Đại chúng bộ với chủ trương hành đạo theo tinh thần “khế lý, khế cơ” với chủ trương: kết hợp cả tự độ, tự giác và cả độ tha, giác tha. Tới đầu công nguyên, Phật giáo Đại thừa (Mahayana) phát triển từ tư tưởng Đại chúng bộ - phương tiện lớn - ra đời và từ đó Thượng tọa bộ bị một số đại biểu của phái Đại thừa gọi là Phật giáo Tiểu thừa (Hinayana) - nghĩa là phương tiện nhỏ. Nhưng từ Đại Hội Phật giáo thế giới năm 1956, Phật giáo Tiểu thừa được gọi là Phật giáo Nguyên thủy. Phật giáo Nguyên thủy chủ trương bảo tồn nguyên xi giáo lý và phương pháp tu đạo mà Đức Thích Ca lúc đương thời thường thuyết giảng, với mục đích giác ngộ và giải thoát cho riêng bản thân mình. Phật giáo Nguyên thủy chấp nhận về mặt lý thuyết có nhiều vị Phật, nhưng thờ riêng một đức Thích ca. Phật giáo Đại thừa chủ trương tự độ, tự giác (tự mình tu tập để đạt giải thoát) và cả độ tha, giác tha (giác ngộ cho mình đồng thời giác ngộ cho người khác), không cố chấp vào kinh điển. Phật giáo Đại thừa không những thờ Đức Thích Ca mà còn thờ cả các Đức Phật khác: Đức A- di-đà, ồ tát Di Lặc và nhiều vị Bồ tát. Sự phân hóa thành các nhánh phái, bộ phái này diễn ra ngay trong nội bộ Phật giáo, song nhân sinh quan Phật giáo vẫn là tư tưởng căn bản cho mọi tông phái, chi phái Phật giáo dù thuộc Đại thừa hay nguyên thủy. Tuy nhiên, trong quá trình du nhập, phương tiện để đạt tới giải thoát sẽ được bổ sung tùy theo phong tục, tập quán mỗi nơi mà Phật giáo truyền bá tới. Do vậy cả Phật giáo nguyên thủy và Đại thừa đều được phát triển ở nhiều nước và ngày nay Phật giáo đang trở thành một trong ba tôn giáo lớn nhất của thế giới. 2.1.3. Một số nội ung cơ ản của nhân sinh quan Phật giáo Mục đích cuối cùng của Phật giáo là tìm ra con đường đưa chúng sinh thoát ra khỏi vòng luân hồi bất tận. Để thoát khổ, Phật giáo xây dựng con 41 đường tu luyện tâm bằng thiền định, trì giới, tích thiện... và xây dựng mô hình Niết bàn l tưởng. 2.1.3.1. Quan niệm về con người và đời người Phật giáo cho rằng, con người là loài hữu tình cao cấp, được tạo ra bởi sự kết hợp tạm thời của hai thành phần chính vật chất (Sắc) và tinh thần (Danh). Mỗi thành phần lại là sự kết hợp tạm thời của nhiều yếu tố nhỏ hơn. 1. Sắc gồm: đất, nước, lửa, khí, gọi là Tứ đại. 2. Danh gồm: Thụ (cảm giác), Tưởng (ấn tượng), Hành (tư duy nói chung), Thức (ý thức). Cách phân chia các yếu tố tạo thành con người nhìn theo cách khác thì gọi là Ngũ uẩn, tức năm yếu tố: 1. Sắc, 2. Thụ, 3. Tưởng, 4. Hành, 5. Thức [tham khảo 31]. Ngoài ra còn có quan niệm chia sáu yếu tố, gọi là Lục đại: 1. Địa (đất, các chất khoáng), 2. Thủy (nước, các chất lỏng), 3. Hỏa (lửa, nhiệt độ trong người), 4. Phong (gió, không khí, hơi trong cơ thể), 5. Không (khoảng trống trong cơ thế), 6. Thức (yếu tố tinh thức, tinh thần của con người). Năm yếu tố đầu chính là Sắc, yếu tố thứ 6 chính là Danh. Phật giáo tiếp thu thuyết Vô thường từ Veda-Upanishad, nhìn sự vật luôn biến dịch, không có gì là thường trụ, là bất biến, nên khi nhìn vào cuộc đời thì thấy bản chất của con người là vô ngã. Mọi thứ trên thế gian cũng chỉ là phù du, ảo ảnh, nằm trong quy luật biến đổi không cùng của vũ trụ. Vạn vật đều tuân theo quy luật: Sinh-trụ-dị-hoại-diệt và con người cũng không phải là ngoại lệ, phải tuân theo quy luật: Sinh-lão-bệnh-tử. Sự kết hợp của ngũ uẩn ở con người chỉ là tương đối, sắc thân (thể xác) tồn tại một thời gian cũng sẽ bị hủy diệt, khi đó tinh thần (tâm) cũng bị hủy diệt. “Thân thể ta luôn biến chuyển (vô thường) trong từng satna và có vô thường mới có sự chuyển biến từ sơ sinh qua thời kỳ thiến niên, thanh niên, trung niên và già lão”[4,75]. Do vậy, chết không phải là hết, mà đó là điều kiện cho một cái sinh sắp tới, trong sự sống đã có sự chết, và trong sự chết đã có sự sống. Con người tu hành luôn vươn tới, vượt ra khỏi vòng luân hồi sinh tử, đến cõi Niết bàn chính là cái đích cuối cùng của người tu Phật. 42 Con người sinh ra được là do sự tích hợp của nhân duyên với dòng nghiệp thức cộng thêm tinh cha, huyết mẹ. Nếu có đầy đủ các nhân duyên mà thiếu vắng dòng nghiệp thức thì con người không thể hình thành như một con người biết tư duy, có tri giác, biết sáng tạo và có tình cảm. Nghiệp chính là cái phận riêng của mỗi người do chính mỗi người tự tạo nên, nhưng vẫn có thể thay đổi chứ không bất biến theo kiểu quyết định luận. Nghiệp gắn liền với Kiếp, kiếp là quãng thời gian tồn tại của mỗi đời người, mang theo cái nghiệp đó. Con người sống trên trần thế, đã tạo nghiệp – nhân thì phải gánh chịu nghiệp – quả. Thuyết nhân quả này chỉ ra rằng, cuộc đời con người là do chính nghiệp nhân của mình tạo thành. Con người có thể cải tạo cuộc đời, thoát khỏi vòng sinh-tử bằng cách tu dưỡng, tạo những nghiệp thiện, mang lại lợi ích cho quần sinh. Phật giáo cho rằng Niết bàn là đích giải thoát, song để tới đó mỗi người cần phải tự giác vượt qua Thất tình, Lục dục. Thất tình là bẩy khía cạnh tình cảmthuộc thức, tâm l khẳng định cái Tôi (hữu ngã) của bản thân: ái (yêu), ố (ghét), hỷ (vui sướng), nộ (phẫn nộ, tức giận), cụ (sợ sệt), mạn (ngạo mạn), tập (thói quen xấu). Lục dục là sáu ham muốn, gồm: sắc (sắc đẹp), thanh (đàn hát), hương (mùi thơm), vị (ăn ngon), xúc (tiếp xúc da thịt), thức (ý muốn). Nếu không dứt khỏi Thất tình, Lục dục tức vẫn còn ham muốn và đau khổ sẽ nảy sinh chính từ mâu thuẫn của lòng khao khát về cái Tôi vô hạn, trường cửu trong khi đời người lại hữu hạn. Để con người dứt khỏi những ham muốn của ý thức và tâm sinh lý, từ đó chấm dứt đau khổ, Phật giáo đưa ra thuyết Tứ diệu đế - tức Bốn chân l cao qu . 1. Khổ đế (Dukkha Satya): Chân l về nỗi khổ của con người. Có thể chia cái khổ của con người thành tám loại (Bát khổ): Sinh, Lão, Bệnh, Tử là bốn nỗi khổ vì sinh ra, thì già đi theo thời gian, nẩy sinh bệnh tật và phải tất yếu phải chết; Ái biệt ly khổ: khổ vì xa cách người (vật) thân yêu; Cầu bất 43 đắc khổ: khổ vì muốn mà không được; Oán tăng hội khổ: khổ vì gặp phải vật (người) oán gh t; Ngũ thụ uẩn khổ: khổ vì tồn tại thân xác và tinh thần. Chữ “Khổ” (Dukhha) trong Tứ Diệu Đế còn có nghĩa là: vô thường, hư giả”[3,118] chứ không chỉ theo nghĩa thông thường. Con người bị quy định, ràng buộc tất yếu bởi ngũ uẩn (sắc, thụ, tưởng, hành và thức). Đó là sự kết hợp tạm thời của các yếu tố tạm thời. Sự kết hợp tạm thời giữa những cái vô thường lại càng vô thường. Bởi vậy, Phật giáo nhìn ngũ uẩn là khổ; con người, cuộc đời con người là khổ. Sự hình thành con người là giả hợp của ngũ uẩn, như ảo ảnh. Nếu con người cứ bám víu vào những khoái lạc, nhục dục giả tạm thì con người sẽ càng dấn sâu trong vòng luân hồi khổ. Con người chỉ tìm thấy hạnh phúc khi đạt được cái vui chân thật, thường còn, thanh tịnh. Khi đó con người sẽ đạt được hạnh phúc thực sự, được tự do vĩnh cửu nơi nội tâm chứ không phải ở tiền bạc, của cải hay danh vọng. 2. Tập đế (Sammudaya Satya): Chân l về nguồn gốc, nguyên nhân sâu xa của khổ. Phật giáo cho rằng nguyên nhân của khổ nằm ngay trong bản thân ta. Trước hết, là do Vô minh (avidyà), tức là không sáng suốt, không nhận thức được thế giới, sự vật, hiện tượng vả cả cái tôi đều là ảo giả mà cứ cho là thực. Vô minh đầu tiên là do có tưởng sai lạc về sự tồn tại của “ngã”. Theo đó, sự vật trong thế giới chỉ là ảo giả nhưng cứ tưởng là thật rồi từ đó mà nảy sinh dục vọng (tham, sân, si) nên tạo nghiệp và triền miên trôi trong cảnh luân hồi. Vậy, dục vọng là nguyên nhân trực tiếp dẫn đến đau khổ, còn nguyên nhân sâu sa là do vô minh. Phật giáo mô hình hóa nỗi khổ của chúng sinh trong quan hệ nhân-quả của 12vòng khâu và thường gọi là Thập nhị nhân duyên (mười hai nhân duyên), mô tả cuộc sống qua những thời kỳ, kế tiếp nhau của cuộc đời (kiếp), trong quan hệ thời gian luân hồi. Hệ thống mười hai nhân duyên đó là: 1. Vô minh: tức là không sáng suốt, không nhận thức được rằng thế giới, sự vật, hiện tượng đều là giả, là ảo mà cứ cho đó là thực; 2. Hành: hành là hoạt động của ý thức, sự dao động của tâm, của khuynh hướng, đã có manh 44 nha của nghiệp; 3. Thức: tâm thức từ chỗ trong sáng, cân bằng trở nên ô nhiễm, mất cân bằng. Cái tâm thức đó tùy theo nghiệp mà tìm đến các nhân duyên khác để hiện hình, thành một cuộc đời khác; 4. Danh-Sắc: là sự hội họp của các yếu tố vật chất và tinh thần. Đối với loài hữu hình, sự phối hợp của Danh và Sắc sinh ra Lục căn, tức cơ quan cảm giác (mắt, mũi, tai, lưỡi, thân thể và ý thức); 5. Lục nhập: là quá trình tiếp xúc với thế giới khách quan xung quanh. Lục căn tiếp xúc với Lục trần (thanh, sắc, hương, vị, xúc, pháp); 6. Xúc: là sự tiếp xúc, phối hợp giữa lục căn, lục trần và thức; 7. Thụ: thụ là cảm giác, cảm giác do tiếp xúc mà nảy sinh ra yêu – ghét, buồn – vui; 8. Ái: ái là yêu thích, ở đây chỉ sự nảy sinh dục vọng; 9. Thủ: có “ái” rồi thì có thủ, tức là đã yêu thích rồi thì muốn giữ lấy, chiếm lấy; 10. Hữu: tiến tới xác định chủ thể chiếm hữu (cái ta) thì phải tồn tại (hữu), tức đã có hành động tạo nghiệp; 11. Sinh: đã có tạo nghiệp - nghiệp nhân thì ắt có nghiệp quả, tức phải có sự sinh sôi; 12. Lão-Tử: đã có sinh ắt có già và chết. Mười hai nhân duyên, đó là sự sinh sinh, hóa hóa liên tục của nhiều cái khổ. Mười hai nhân duyên này cũng chính là một vòng tròn luân hồi, và như vậy sẽ không còn cái gì là nguyên nhân đầu tiên. Quan niệm này mang tính biện chứng, phản ánh quá trình vận động của cuộc đời theo quan hệ nhân-quả. Theo đó, mọi hành động (thân, khẩu, ý) của con người gây ra sẽ tạo thành kết quả về sau, đó gọi là nghiệp. Nếu tạo nghiệp thiện, con người sẽ được hưởng hạnh phúc và ngược lại. 3. Diệt đế (Nirodha Satya): Chân l về con đường khả thi để thoát khỏi đau khổ, khỏi tính liên tục của khổ nghiệp bằng cách chặt đứt để gỡ các nhân duyên khác. Khi tìm ra được nguyên nhân của đau khổ, người ta sẽ tìm ra con đường để diệt trừ nó. Con đường đó chính là đạo đế, giúp con người đi ngược vòng thập nhị nhân duyên để diệt được vô minh, thoát được hữu ngã. 4. Đạo đế (Marga Satya): Chân l về con đường dẫn đến sự chấm dứt của khổ. Phật giáo quan niệm, vượt qua vòng luân hồi sinh tử, lên cõi Niết bàn mới đạt được hạnh phúc thực sự. Tuy nhiên, con đường để đạt được sự 45 giải thoát theo các trường phái triết học đương thời, thường chọn một trong hai cách: 1. Tu hành khổ hạnh (tiêu biểu là đạo Jaina), 2. Hưởng thụ mọi khoái lạc (tiêu biểu là phái Lokayata). Phật giáo chọn con đường trung đạo- nghĩa là vượt qua hai thái cực đó. 2.1.3.2. Quan niệm về giải thoát Trong Tứ diệu đế: hai đế cuối chỉ cho con người khả năng có thể thoát khỏi “khổ” là Di t đế, và cách thức để có thể thoát khổ bằng việc tu luyện là Đạo đế để tới c i “Niết bàn”. Trong mười hai nhân duyên của Phật giáo, cái sau là kết quả của cái trước nhưng lại là nguyên nhân của cái tiếp theo, có cái này nên có cái kia, cái này hết nên cái kia cũng hết. Mắt xích quan trọng nhất để loại trừ Khổ là xóa bỏ vô minh (hiểu được lẽ vô thường, vô ngã, xóa bỏ nhị kiến), từ đó sẽ buông bỏ tất cả những dục vọng, những ham muốn, theo đó, các nguyên nhân dẫn đến khổ (ái, thủ, hữu) cũng sẽ bị diệt bỏ. Đạo đế cho rằngđể được giải thoát thì con ngườiphải thực hành Bát chính đạo (Tám con đường chân chính) gồm: 1. Chính kiến: hiểu biết đúng đắn, am tường Tứ Diệu đế; 2. Chính tư duy: tư duy đúng đắn, không tham, sân si, nhằm đạt tới chân lý và giác ngộ; 3. Chính ngữ: lời nói chân chính, không nói những điều giả dối, ác độc, xấu xa, vu khống, không nói lời thêu dệt, nhục mạ người khác; 4. Chính nghiệp: hành động đúng đắn, không làm việc gian ác; 5. Chính mệnh: sống trung thực. nhân nghĩa, chính trực, không tham lam, vụ lợi; 6. Chính tinh tiến: nỗ lực, sáng suốt, vươn lên một cách đúng đắn; 7. Chính niệm: luôn tâm niệm về đạo l chân chính, đến điều tốt, không nghĩ về những điều xấu xa; 8. Chính định: kiên định, tập trung tư tưởng vào chân l , đạo l chân chính, đạt tới giác ngộ - Niết bàn. Niết bàn là một trạng thái hoàn toàn sáng suốt, yên tĩnh, thoát khỏi vòng sinh - tử, luân hồi. Giải thoát theo đạo Phật khẳng định để thoát ra khỏi mọi đau khổ là bắt đầu ngay trong chính mỗi người, đó là diệt bỏ tham, sân, si, ái, ố, hỉ, nộ. Tư tưởng giải thoát của Phật giáo có mặt tích cực, bởi nó đặt căn cứ trên bản chất bình đẳng giữa người với người. Phật giáo là tôn giáo đầu tiên 46 của Ấn Độ thuyết giảng về sự bình đẳng giữa con người. Phật giáo khẳng định: Không có đẳng cấp trong dòng máu cùng đỏ như nhau, không có đẳng cấp trong giọt nước mắt cùng mặn: “Phật giáo đã khởi đầu một phong trào vị nhân sinh, đưa tôn giáo trở về với con người phi thần thánh khi cho rằng mọi người đều bình đẳng như nhau về nỗi khổ (bát khổ) và bình đẳng như nhau về khả năng giải thoát khỏi khổ, không loại trừ, kể cả giai cấp Bà La Môn tự cho là thần thánh”[104,43-51]. Triết lý của đạo Phật không phân biệt sang hèn, kẻ trí, người ngu, cho rằng tất cả chúng sinh đều có thể tu tập và có khả năng tự giải thoát khỏi khổ đau. Phật giáo không đặt niềm tin vào cầu nguyện, van xin, tế lễ để được cứu vớt, mà tin ở chính con người tự giác hướng thiện. Mọi khổ đau và hạnh phúc của con người đều do con người tự gây ra và cũng có thể tự giải quyết. Luật nhân quả trong Phật giáo chỉ r : con người là kết quả của chính sự tạo nghiệp bởi bản thân mình chứ không phảido đấng sáng tạo nào ban phát. Bát chính đạo mà Phật giáo đưa ra là con đường tự lực, không dựa cầu tha lực. Tuy nhiên, với tư cách một tôn giáo khi đi vào giới bình dân, nhiều yếu tố tâm linh đã được phát triển nhanh chóng thành các hình thức thờ cúng lễ bái như ta thấy nhiều hiện tượng cầu nguyện, van xin, tế lễ ở ngay các địa điểm Phật giáo (chùa chiền), nên không còn giữ được tinh thần vô thần, bình đẳng của Phật giáo nguyên thủy. Giải thoát của đạo Phật có điểm khác biệt là hướng nội phá bỏ vọng tâm, diệt trừ dục vọng. Phật giáo cho rằng, sự thỏa mãn khoái lạ... Triết lý nhân sinh của Phật giáo thời Lý- Trần cũng đã tạo nên những nhà chính trị tài ba, trí tuệ và đầy bản lĩnh góp phần tạo nên những thắng lợi quân sự vĩ đại của dân tộc thời kỳ này. 3. Nhân sinh quan Phật giáo tác động cả trong tư tưởng, ý thức, thái độ, lối sống của nhân dân trước các vấn đề chính trị. Điều đó giúp nhân sinh quan Phật giáo dù chỉ tác động ở phương diện tinh thần, tư tưởng nhưng lại có sức ảnh hưởng lớn không chỉ trên phương diện chính trị, mà cho cả sự phồn thịnh của triều đại Lý-Trần. 2. Phật giáo thời L -Trần được cả triều đình và nhân dân yêu mến, nhưng không vì thế mà Phật giáo lấn át chính trị, nó chỉ thể hiện sự hiện diện trong chính trị thông qua đường lối, chủ trương của các nhà chính trị: xây dựng thể chế chính trị, ổng định đất nước; Bảo vệ và củng cố nền độc lập, giữ toàn vẹn lãnh thổ; Trấn áp các thế lực chống đối, phát triển đất nước, giải quyết các vấn đề xã hội.Tuy nhân sinh quan Phật giáo có những ảnh hưởng nhất định đối với triều đại nói chung và các nhà chính trị nói riêng, nhưng trong thời Lý-Trần, nó không được coi là Quốc giáo, mà chỉ giữ vị trị là tôn giáo truyền thống hay tôn giáo dân tộc. Bản thân Phật giáo lại không 154 là học thuyết chính trị vì vậy nó cần phải bổ sung học thuyết Nho và Đạo, để trở nên phù hợp với nền chính trị hơn. Nhưng, nhân sinh quan Phật giáo cũng đã có những ảnh hưởng tích cực đến nền chính trị qua việc trang bị cho triều đại một đội ngũ lãnh đạo l tưởng và một nên đường lối “đức trị”, mang đậm màu sắc từ bi, hỷ xả, nhân ái, vị tha của Phật giáo. 3. Có thể thấy nhân sinh quan Phật giáo đã góp phần xây dựng văn hóa chính trị tích cực thời Lý-Trần. Bài học rút ra cho việc xây dựng văn hóa chính trị hiện nay là vận dụng, phát triển những tư tưởng nhân văn, nhân đạo - hiện vẫn còn phù hợp với văn hóa chính trị Việt Nam và hạn chế những ảnh hưởng tiêu cực của nó. Ngoài ra, trong điều kiện thực tiễn hiện nay, nhân sinh quan Phật giáo không còn là tư tưởng duy nhất phù hợp với nền chính trị, các nhà chính trị có thể lựa chọn những tư tưởng khác theo tiêu chí,phù hợp với thực tiễn chính trị và đáp ứng với nguyện vọng và chí của người dân (hiện nay là chủ nghĩa Mác-Lênin). Quan trọng hơn cả là bản thân giai cấp thống trị cũng cần phải hiểu đúng đắn để rồi có thể thực hành,vận dụng tư tưởng ấy một cách hiệu quả, như thếmới phát huy tối đa khả năng và ưu điểm của nó trong nền chính trị. Đó là những nghĩa phương pháp luận có thể rút ra sau khi nghiên cứu về những ảnh hưởng của nhân sinh quan Phật giáo đến tư tưởng chính trị thời Lý-Trần và cách thức vận dụng nhân sinh quan Phật giáo vào việc trị nước của nhà chính trị thời Lý-Trần. 155 KẾT LUẬN Có thể nhận thấy, thời Lý-Trần tồn tại cả Nho, Đạo và Phật giáo, nhưng chỉ có Phật giáo là tư tưởng gắn bó chặt chẽ với với đời sốngtinh thần của người dân, góp phần hình thành nên nhiều giá trị văn hóa truyền thống, tiếp thêm sức mạnh, nuôi dưỡng tâm hồn dân tộc vượt qua bao biến cố của thời đại. Triết lý từ bi, hỷ xả, vô ngã, vị tha, tinh thần bình đẳng của nhân sinh quan Phật giáo đã bổ sung thêm cho người dân những quan niệm về cuộc sống, tự do, hạnh phúc, giải thoát mà Nho và Đạo chưa đáp ứng được, khiến người Việt yêu mến và đề cao giáo l Phật giáo, vì thế mà, nó dần xâm nhập vào đời sống chính trị của triều đình. Thêm nữa, để phù hợp với thực tiễn đất nước và nhân sinh quan của con người Việt Nam, Phật giáo đã ngày càng mang tinh thần nhập thế tích cực. Đặc biệt thời Lý-Trần, nhân sinh quan Phật giáo được phát triển lên một bước mới, bởixu hướng dung hợp với các hệ tư tưởng đương thời, trên nền tảng văn hóa dân tộc,giúp nó ngày càngđáp ứng đượcnhu cầu của thực tiễn chính trị. Cụ thể, tư tưởng về con người, đời người; tư tưởng về đạo đức; và tư tưởng về giải thoát đã có ảnh hưởng mạnh mẽ đến nền chính trị thời Lý-Trần, thông qua đại diện của mình là các thiền sư giữ vai trò cố vấn (thời Lý) hay thẩm thấu trong chính tư tưởng của những nhà chính trị mộ đạo (thời Trần). Tuy nhiên, để xây dựng, củng cố và hoàn thiện nhà nước phong kiến Đại Việt, các nhà chính trị Lý-Trần vẫn sử dụng học thuyết chính trị-xã hội của Nho giáo trên cơ sở kết hợp với Phật giáo, nhằm bổ sung chỗ khiếm khuyết của nhân sinh quan Phật giáo. Mặc dù, Nho giáo là tư tưởng bàn nhiều đến vấn đề chính trị, trong triều đình, Nho giáo đã có ảnh hưởng ở việc xây dựng thể chế chính trị, mô hình quan lại và thiết chế nhà nước phong kiến tập quyền. Song, do đặc thù lịch sử du nhập Nho giáo ở Việt Nam nên, thiện cảm dành cho Phật giáo vẫn rất lớn và việc sử dụng Nho giáo vẫn bị hạn chế. Vì thế, trong nhân dân vẫn đang phổ biến tư tưởng nhân 156 sinh Phật giáo, trong triều các nhà Nho còn rất hiếm, tư tưởng Nho thường được sử dụng qua các đại diện của Phật giáo. Các triều cũng đã tận dụng đội ngũ các nhà sư trí thức giàu đạo hạnh với trình độ học vấn uyên bác, Phật giáo vì vậy đã có mối quan hệ mật thiết với nền chính trị. Sang thời Lý-Trần, các vua đã kế thừa truyền thống đó và phát triển nhân sinh quan Phật giáo lên một trình độ cao hơn, để tận dụng tối đa sức mạnh của nó cho mục đích chính trị. Bản thân Phật giáo nói chung và nhân sinh quan Phật giáo nói riêng không có mục đích tự thân là làm chính trị. Mục đích cao cả nhất của Phật giáo là giải thoát cho hết thảy chúng sinh, không phân biệt đẳng cấp, giới tính Tuy nhiên, trong quá trình dựng nước và giữ nước, trong công cuộc mưu sinh đầy gian khó của dân tộc, đã khiến Phật giáo Việt Nam muốn tồn tại và phát triển phải “nhập thế”, dù cũng nhằm hướng tới mục tiêu giải thoát nhưng không xa rời cuộc sống, tu thiền những vẫn hướng đến những vấn đề thiết thực của cuộc sống, phải “nhập thế hành đạo”. Bởi vậy, nhân sinh quan Phật giáo thời Lý-Trần, luôn gắn với khát vọng độc lập dân tộc, tự do và hạnh phúc của nhân dân trong tiến trình dựng nước, giữ nước và phát triển đất nước. Do đó, những nhiệm vụ chính trị của triều đình đều có ảnh hưởng hoặc bị chi phối bởi những triết lý của nhân sinh quan Phật giáo. Nhân sinh quan Phật giáo đã góp phần xây dựng một nền chính trị có văn hóa. Một số đường lối chính trị cơ bản như, xây dựng thể chế nhà nước, ổn định xã hội; bảo vệ độc lập dân tộc và toàn vẹn lãnh thổ; trấn áp các thế lực chống đối, phát triển kinh tế, giải quyết các vấn đề xã hộiđều có ảnh hưởng bởi triết lý nhân sinh mang tính nhân văn, nhân đạo của Phật giáo.Có thể nói, nhờ những ảnh hưởng của nhân sinh quan Phật giáo,triều đình đã thiết kế lên một nền đức trị mang màu sắc Phật giáo, và một đội ngũ lãnh đạo có lối sống giản dị, gần gũi, chừng mực trong hưởng thụ, gây ảnh hưởng tích cực trong dân. Chính vì vậy, nhân dân luôn mến mộ các nhà chính trị và hết lòng ủng hộ các chính sách của triều đình. Điều này đã tạo ra cuộc chiến 157 “toàn dân, toàn diện”, góp phần quan trọng vào những thắng lợi liên tiếp trước các kẻ xâm lược hùng mạnh ở cả triều Lý và Trần. Có thể khẳng định, sự kết hợp tư tưởng của Nho và Đạo trong nhân sinh quan Phật giáo, đã tạo nên sức mạnh và thành công của các nhà chính trị và triều đại Lý-Trần. Tuy vậy, trong khuôn khổ của luận án, tác giả mới chỉ dừng lại ở việc nghiên cứu những đường lối, chính sách của triều đại bị ảnh hưởng chủ yếu bởi nhân sinh quan Phật giáo. Nhưng để chỉ ra hay phân biệt một cách chính xác trong đường lối, chủ trương nhất định nào đó, đâu là ảnh hưởng của Nho, đâu là ảnh hưởng của Đạo và ảnh hưởng của Phật chiếm liều lượng bao nhiêu thì luận án chưa có điều kiện phân tích. Thêm nữa, trong mỗi giai đoạn lịch sử hay trong tư tưởng của từng nhà chính trị cũng có sự ảnh hưởng và cách thức vận dụng khác nhau đối với tư tưởng Nho, Đạo hay Phật trong nền chính trị. Việc chỉ ra sự ưu ái Nho, Đạo hay Phật trong tư tưởng của từng nhà chính trị và trong từng giai đoạn của triều đại Lý-Trần cũng chưa được làm rõ trong luận án, hy vọng vấn đề này sẽ được làm rõ trong các nghiên cứu tiếp theo. Ngày nay, xã hội Việt Nam hiện đại đã khác xa so với xã hội thời Lý- Trần, tuy nhiên, ảnh hưởng của Phật giáo trên lĩnh vực tư tưởng vẫn còn khá r n t. Đồng thời,tư tưởng từ bi, hỷ xả, vị tha, nhân văn của Phật giáo vẫn ảnh hưởng nhất định trong suy nghĩ, tình cảm và lối ứng xử nhân dân, trước những diễn biến chính trị đất nước. Điều này, cũng góp phần không nhỏ tạo nên sức mạnh trên mặt trận quân sự - ngoại giao của Việt Nam. Đó là l do ta nên tìm hiểu những ảnh hưởng của nhân sinh quan Phật giáo đối với chính trị thời Lý-Trần, để kế thừa và đồng thời cũng để loại bỏ những yếu tố không còn phù hợp, nhằm đưa nhân sinh quan Phật giáo góp phần tích cực vào việc xây dựng văn hóa chính trị của Việt Nam trong thời kỳ mới. 158 ANH MỤC CÁC C NG TR NH ĐÃ C NG Ố 1. Nguyễn Lan Anh (2012), Phật giáo và tính cách con người Việt Nam, Tạp chí Khoa học công nghệ và môi trường công an, số 21, trang 80-81. 2. Nguyễn Lan Anh (2012), Phật giáo thời Lý-Trần, Tạp chí Khoa học công nghệ và môi trường công an, số 22, trang 77-78. 3. Nguyễn Lan Anh (2013), Sự phát triển của Phật giáo Việt Namthời Lý- Trần, Tạp chí Nhân lực Khoa học xã hội, số 3, trang 44-52. 4. Nguyễn Lan Anh (2013), Giáo dục khoa cử thời Lý-Trần, Tạp chí Khoa học giáo dục, số 89, trang 36-38. 5. Nguyễn Lan Anh (2015), Phật giáo với sự phát triển tư tưởng chính trị từ khởi nguyên đến thời Lý-Trần, Tạp chí Giáo dục l luận, số 231, trang 76-81. 6. Nguyễn Lan Anh (2015), Triết lý nhân sinh của thiền Đại thừa thời Lý- Trần, Tạp chí Khoa học ã hội Việt Nam, số 8(93), trang 41-49. 159 DANH MỤC TÀI LIỆU THAMKHẢO 1. Đào Duy Anh (2004), Việt Nam văn hóa sử cương, Nxb. Chính trị Quốc gia, Hà Nội. 2. Huỳnh Công Bắc (2008), Lịch sử Văn hóa Việt Nam, Nxb. Thuận Hóa, Huế. 3. Nguyễn Thị Bảy (1997), Văn hóa Phật giáo và lối sống của người Việt ở Hà Nội và Châu thổ Bắc Bộ, Nxb. Thông tin, Hà Nội. 4. Nguyễn Thanh ình (2007), Học thuyết chính trị Nho giáo và ảnh hưởng của nó ở Việt Nam (từ đầu thế kỷ XI đến nửa đầu thể kỷ XIX), Nxb. Chính trị quốc gia Hà Nội, Hà Nội. 5. Thích Đồng Bổn(2006), Vai trò chính trị của các tăng sĩ Phật giáo ở thời đại Lý - Trần, Nxb. Tôn giáo, Hà Nội. 6. Đoàn Trung Còn (1967), Phật học từ điển, tập 2, Nxb. Phật học tòng thơ, Sài Gòn. 7. Thích Minh Châu (chủ biên, 1995), Đạo đức Phật giáo, Viện nghiên cứu Phật học Việt Nam ấn hành. 8. Thích Minh Châu (1999), Hãy tự mình thắp đuốc lên mà đi, Nxb. Thành phố Hồ Chí Minh. 9. Minh Chi (1984), Về những dòng tư tưởng cơ bản ảnh hưởng tới sự hình thành nền văn hóa Việt Nam, con người Việt Nam, Một số vấn đề lý luận về lịch sử tư tưởng Việt Nam, Viện Triết học, Hà Nội. 10. Minh Chi (2003), Truyền thống văn hóa và Phật giáo Việt Nam, Nxb. Tôn giáo, Hà Nội. 11. Doãn Chính (1997), Tư tưởng giải thoát trong triết học Ấn Độ, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội 12. Phan Huy Chú (1961), Lịch triều hiến chương loại chí, tập 1, Nxb. Sử học, Hà Nội. 13. Phan Huy Chú (1962), Lịch triều hiến chương loại chí, tập 2, Nxb. Khoa học xã hội, Hà Nội. 160 14. Nguyễn Trọng Chuẩn (chủ biên, 2006) Lịch sử tư tưởng triết học Việt Nam, tập 1, Nxb. Khoa học xã hội, Hà Nội. 15. Trương Văn Chung (1998), Tư tưởng triết học của thiền phái Trúc Lâm đời Trần, Nxb. Chính trị Quốc gia, Hà Nội. 16. Trương Văn Chung, Doãn Chính (Đồng chủ biên, 2008), Tư tưởng Việt Nam thời Lý-Trần, Nxb. Chính trị Quốc gia, Hà Nội. 17. Đại học Oxford, Từ điển chính trị diễn nghĩa (bản tiếng Nga, 2001), Nxb. Toàn thế giới, Matxcơva. 18. Đại Việt sử k toàn thư (2011, tái bản), Nxb. Thời Đại, Hà Nội. 19. Đỗ Công Định (2003), Nét tương đồng giữa hạn từ bi của đạo Phật và tư tưởng nhân đạo ở Hồ Chí Minh, Tạp chí Triết học (số 7), tr.45-51. 20. Nguyễn Đăng Duy (1999), Phật giáo với văn hoá Việt Nam, Nxb. Hà Nội. 21. Giáo hội Phật giáo ViệtNam (1990), Thiền Uyển tập anh (Ngô Đức Thọ và Nguyễn Thúy Nga dịch), Phân viện nghiên cứu Phật học, Nxb. Văn học, Hà Nội. 22. Giáo hội Phật giáo Việt Nam (2012), Đạo pháp-dân tộc-chủ nghĩa ã hội và hòa bình, Nxb. Tổng hợp, T.p Hồ Chí Minh. 23. Trần Văn Giàu (1993), Sự phát triển của tư tưởng Việt nam từ thế kỷ XIX đến cách mạng tháng Tám, tập 1, Nxb. T.p Hồ Chí Minh. 24. Trần Văn Giàu (1993), Hệ ý thức phong kiến và sự thất bại của nó trước các nhiệm vụ lịch sử, Nxb. T.p Hồ Chí Minh. 25. Hoàng Xuân Hãn (1941), Lý Thường Kiệt – Lịch sử ngoại giao và tông giáo triều Lý, Nxb. Chính trị Quốc gia Hà Nội. 26. Lê mậu Hãn (2008), Đại cương lịch sử Việt Nam, tập 1, Nxb. Giáo dục, Hà Nội. 27. Nguyễn Thị Thúy Hằng (2014), Một số đặc trưng của nhân sinh quan Phật giáo Việt Nam, Tạp chí Nghiên cứu Tôn giáo, số 2 (128), Tr. 25-34. 28. Nguyễn Hùng Hậu (1996), Góp phần tìm hiểu tư tưởng triết học Phật giáo Trần Thái Tông, Nxb. Khoa học xã hội, Hà Nội. 161 29. Nguyễn Hùng Hậu (1997), Lược khảo tư tưởng thiền Trúc Lâm Việt Nam thời Lý-Trần, Viện nghiên cứu tôn giáo Hà Nội. 30. Nguyễn Hùng Hậu (2002), Tinh thần nhập thế của Phật giáo Việt Nam thời Lý – Trần, Viện nghiên cứu tôn giáo Hà Nội. 31. Nguyễn Hùng Hậu (2002), Đại cương triết học Phật giáo Việt Nam, tập 1, Nxb. Khoa học xã hội, Hà Nội. 32. Phạm Thị Thu Hiền (2010), Triết lý nhân sinh Phật giáo và ảnh hưởngcủa nó đến đời sống tinh thần người Việt Nam, Kỷ yếu: Hội nghị Sinh viên Nghiên cứu Khoa học lần thứ 7, Đại học Đà Nẵng. 33. Nguyễn Duy Hinh (2005), Tuệ Trung, nhân sĩ, thượng sĩ, thi sĩ, Nxb. Khoa học xã hội, Hà Nội. 34. Nguyễn Duy Hinh (2005), Triết học Phật giáoViệt Nam, Nxb. Văn hóa thông tin, Hà Nội. 35. Nguyễn Duy Hinh (2005), Văn minh Đại Việt, Nxb. Văn hóa Thông tin và Viện Văn hóa, Hà Nội. 36. Nguyễn Duy Hinh (2009), Lịch sử đạo Phật Việt Nam, Nxb. Tôn giáo và Nxb. Từ điển bách khoa, Hà Nội. 37. Thích Thiện Hoa (1994), Phật học Lý – Trần, Giáo hội Phật giáo Việt Nam. 38. Hội đồng quốc gia chỉ đạo biên soạn từ điển BKVN (1995), Từ điển Bách khoa Việt Nam, Trung tâm Biên soạn Từ điển Bách khoa Việt Nam, Hà Nội. 39. Nguyễn Mạnh Hùng (1993), Văn học Lý – Trần, Nxb. Giáo dục, Hà Nội. 40. Phan Văn Hùm (1958), Phật giáo Triết học, Nxb. Tân Việt, Sài Gòn. 41. Trần Đình Hượu (1984), Về đặc điểm tư tưởng Việt Nam, Một số vấn đề lý luận về lịch sử tư tưởng Việt Nam, Viện triết học, Hà Nội. 42. Nguyễn Hải Kế (chủ biên, 2010), Ngàn năm lịch sử văn hóa Thăng Long – Hà Nội, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội. 43. Trần Trọng Kim (tái bản 2010), Việt Nam sử lược, Nxb. Thời đại, Hà Nội. 44. Vũ Ngọc Khánh (1986), Phật giáo và văn hóa dân gian, Mấy vấn đề Phật giáo và lịch sử tư tưởng Việt Nam, Viện triết học, Hà Nội. 162 45. Đinh Gia Khánh (1978), Lịch sử văn học Việt Nam, tập 1, Nxb. Đại học và Trung học chuyên nghiệp, Hà Nội. 46. Phùng Văn Khai (2010), Danh tướng triều Trần, Nxb. Lao động, Hà Nội. 47. Phạm Trường Khang (2010), Các vua và Hoàng tộc triều Lý, Nxb. Hồng Đức, Hà Nội. 48. Phạm Trường Khang (2010), Kể chuyện các vua và Hoàng tộc triều Trần, Nxb. Hồng Đức, Hà Nội. 49. Vũ Khiêu (chủ biên, 1974), Đạo đức học, Nxb. Khoa học xã hội, Hà Nội. 50. Khoa Triết học (2008), Tư tưởng Việt Nam thời Lý- Trần, Nxb. Chính trị Quốc gia, Hà Nội. 51. Nguyễn Khương (biên tập 1993), Tuệ Trung Thượng sĩ với thiền tông Việt Nam, Kỷ yếu hội thảo khoa học, Trung tâm nghiên cứu Hán nôm, Tp Hồ Chí Minh. 52. Đặng Thị Lan (2003), Đạo đức Phật giáo với đạo đức con người Việt Nam, Nxb. Đại học Quốc gia, Hà Nội. 53. Nguyễn Lang (1992), Việt Nam Phật giáo sử luận, tập 1, Nxb. Văn học, Hà Nội. 54. LêninToàn tập (1976), tập 23, Nxb. Tiến bộ, Mátxcơva. 55. Phan Ngọc Liên (2006), Giáo dục và thi cử ở Việt Nam, Nxb. Từ điển bách khoa, Hà Nội. 56. Lưu Văn Lợi (2000), Ngoại giao Đại Việt, Nxb. Công an Nhân dân, Hà Nội. 57. Lịch sử Việt Nam (1971), tập 1, Nxb. Khoa học xã hội, Hà Nội. 58. Nguyễn Công Lý (2014), Từ Phật giáo nhất tông đời Trần suy nghĩ về Phật giáo Việt Nam hiện nay, Tạp chí nghiên cứu tôn giáo, số 08, tr. 116-125. 59. Hà Thúc Minh (2014), Từ bi của đạo Phật và đạo đức nhân loại, Nghiên cứu tôn giáo, số 2 (128), tr. 116-125. 60. Dương Xuân Ngọc (chủ biên, 2001), Lịch sử tư tưởng chính trị, Nxb. Chính trị Quốc gia, Hà Nội. 61. Phan Ngọc (2004), Bản sắc văn hóa Việt Nam, Nxb. Văn hóa thông tin, Hà Nội. 163 62. Nguyễn Quang Ngọc (chủ biên, 2003), Tiến trình lịch sử Việt Nam, Nxb. Giáo dục, Hà Nội. 63. Ngô Thì Nhậm (1978), Trúc Lâm tông chỉ Nguyên Thanh, Nxb. Khoa học xã hội, Hà Nội. 64. Đức Nhuận (tái bản 2002), Phật học tinh hoa, Viện triết lý Việt Nam và triết học thế giới, California. 65. Đức Nhuận (2009), Đạo Phật và dòng sử Việt, Nxb. Phương Đông, Đà Lạt. 66. ùi Thanh Phương (2000), Về mối quan hệ tam giáo trong lịch sử tư tưởng Việt Nam từ thời Bắc thuộc đến thời Lý-Trần, Luận văn thạc sĩ Triết học, Đại học Quốc gia Hà Nội. 67. Thích Thông Phương (2003), Thiền phái Trúc Lâm Yên Tử, Nxb. Tôn giáo, Hà Nội. 68. Lê Văn Quán (2008), Lịch sử tư tưởng chính trị-xã hội Việt Nam từ Bắc thuộc đến thời kỳ Lý-Trần, Nxb. Chính trị Quốc gia, Hà Nội. 69. Hồ Sỹ Quý (2007), Con người và phát triển con người, Nxb. Giáo dục, Hà Nội. 70. Phạm Văn Sinh (1995), Về vai trò của Phật giáo Việt Nam (qua triều đại Lý), Luận án tiến sĩ Triết học, ĐH Khoa học Xã hội và Nhân văn Hà Nội. 71. Lê Văn Siêu (2004), Văn minh Đại Việt, Nxb. Thanh Niên, Bến tre. 72. Sogyal Rinpoche (2009), Đạo Phật trong văn hóa (Thanh Long và Trường Tâm dịch),Nxb. Phương Đông, Hà Nội. 73. Thích Phước Sơn (dịch và trú, 1995), Tam tổ thực lục, Nxb. Viện nghiên cứu Phật học, Hà Nội. 74. Suzuki (2008), Tâm thiền nhập môn, Nxb. Tổng hợp, Tp Hồ Chí Minh. 75. Suzuki (1971), Cốt tủy của Đạo Phật, Trúc Thiên dịch, Nxb. An Tiêm, Hà Nội. 76. Lê Đình Sỹ, Nguyễn Danh Phiệt (1994), Kế sách giữ nước thời Lý – Trần, Nxb. Chính trị Quốc gia, Hà Nội. 77. Vũ Minh Tâm (1996), Tư tưởng triết học về con người, Nxb. Giáo dục, Hà Nội . 164 78. Nguyễn Thị Tâm (2012), Vai trò của Phật giáo trong đời sống chính trị ở Việt Nam thời Lý-Trần, Luận văn Thạc sĩ Chính trị học, ĐH Khoa học Xã hội và Nhân văn Hà Nội. 79. Hà Văn Tấn (1978), Cuộc kháng chiến chống âm lược Nguyên Mông thế kỷ XIII, Nxb. Khoa học xã hội, Hà Nội. 80. Hà Văn Tấn (1998), Phật giáo đời Trần, Lịch sử Phật giáo Việt Nam, Nxb. Khoa học xã hội, Hà Nội. 81. Nguyễn Khánh Toàn (1992), Một số vấn đề của khoa học nhân văn, Nxb. Khoa học xã hội, Hà Nội. 82. Nguyễn Thị Toan (2010),“Giải thoát luận Phật giáo”, Luận án tiến sĩ Triết học, ĐH Khoa học Xã hội và Nhân văn Hà Nội. 83. Trần Thái Tông (1972), Khóa hư lục, Nxb. Khuông Việt, Sài Gòn. 84. Lê Hữu Tuấn (2000), Ảnh hưởng của những tư tưởng triết học Phật giáo trong đời sống văn hoá tinh thần ở Việt Nam, Luận án tiến sĩ Triết học. Học viện Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh. 85. Thích Minh Tuệ (1993), Lịch sử Phật giáo Việt Nam, Thành Hội Phật giáo Tp. Hồ Chí Minh. 86. Thích Thanh Từ (1992), Phật giáo với dân tộc, Thành hội Phật giáo Tp Hồ Chí Minh xuất bản. 87. Thích Thanh Từ (2001), Tại sao tôi lại chủ trương khôi phục Phật giáo thời Trần, Nxb. Tôn giáo, Hà Nội. 88. Thích Thanh Từ (2004), Thiền sư Việt Nam, Nxb. Tôn giáo, Hà Nội. 89. Thích Thanh Từ (2007), Phật giáo trong lòng dân tộc, Nxb. Văn hóa-Thông tin, Hà Nội. 90. Từ điển triết học (1978), Dịch từ bản tiềng Nga, Nxb. Sự thật, Hà Nội. 91. Phùng Lô Tường (2010), Triết lý sinh tư Đông – Tây, Thích Hoằng Trí dịch, Nxb. Phương Đông, Đà Lạt. 92. Nguyễn TrãiToàn tập (1976), Nxb. Khoa học xã hội, Hà Nội. 165 93. Lê Mạnh Thát (1999), Nghiên cứu Thiền uyển tập anh, Nxb. Tp Hồ Chí Minh. 94. Lê Mạnh Thát (tuyển chọn, 2000), Toàn tập Trần Nhân Tông, Nxb. Tp Hồ Chí Minh. 95. Lê Mạnh Thát (2001), Lịch sử Phật giáo Việt Nam từ Lý Nam Đế (544) đến Lý Thái Tông (1054), tập 2, Nxb. Tp Hồ Chí Minh. 96. Hoàng Đức Thắng (Thích Minh Trí, 2012), Quan hệ giữa nhà nước quân chủ Lý-Trần với Phật giáo, Luận án Tiến sĩ sử học, ĐH Khoa học Xã hội và Nhân văn Hà Nội. 97. Thích Mật Thể (2004), Việt Nam Phật giáo sử lược, Nxb. Tôn giáo, Hà Nội. 98. Trần Ngọc Thêm (1999), Cơ sở văn hóa Việt Nam, Nxb. Giáo dục, Hà Nội. 99. Thích Đức Thiện & Nguyễn Quốc Tuấn (đồng chủ biên, 2011), Kỷ yếu: Phật giáo thời Lý với 1.000 năm Thăng Long – Hà Nội, Nxb. Chính trị Quốc gia, Hà Nội. 100. Thích Tâm Thiện (1998), Tìm hiểu nhân sinh quan Phật giáo, Nxb. TP Hồ Chí Minh. 101. Hoàng Thị Thơ (2000), Vấn đề con người trong Đạo Phật,Tạp chí Triết học, số 6, tr.41-44. 102. Hoàng Thị Thơ (2004), Sự hình thành tư tưởng Thiền Phật giáo, Luận án Tiến sĩ Triết học, Viện Triết học, Hà Nội. 103. Hoàng Thị Thơ (2005), Lịch sử tư tưởng thiền từ Vê đa Ấn Độ tới Thiền Tông Trung Quốc, Nxb. Khoa học xã hội, Hà Nội. 104. Hoàng Thị Thơ (2014), Triết lý nhập thế của Phật giáo và “Cư trần lạc đạo” của Trần Nhân Tông, Tạp chí Triết học, số 3, 43-51. 105. Nguyễn Đăng Thục (1996), Thiền học Trần Thái Tông, Nxb. Văn hóa thông tin, Hà Nội. 106. Nguyễn Đăng Thục (1997), Thiền học Việt Nam, Nxb. Thuận Hóa, Long An. 107. Nguyễn Khắc Thuần (2002), Nước Đại Việt thời Lý – Trần, Nxb. Hà Nội. 166 108. Nguyễn Khắc Thuần (2007), Tiến trình văn hóa Việt Nam từ khởi nguyên đến thế kỷ XIX, Nxb. Giáo dục, Hà Nội. 109. Lê Thị Thủy (1997), Tìm hiểu tư tưởng triết học Phật giáo của Trần Nhân Tông, Luận văn Thạc sĩ Triết học, Hà Nội. 110. Nguyễn Văn Trung (1993), Một số hiểu biết về tôn giáo ở Việt Nam, Nxb. Quân đội nhân dân, Hà Nội. 111. Thượng sĩ Tuệ TrungNgữ lục (Trúc Thiên phiên dịch,1969), Nxb. Sài Gòn. 112. Nguyễn Tài Thư (tập hợp, 1986), Mấy vấn đề Phật giáo và lịch sử tư tưởng Việt Nam, Nxb. Khoa học xã hội, Hà Nội. 113. Nguyễn Tài Thư (chủ biên, 1992), Lịch sử tư tưởng Việt Nam, tập 1, Nxb. Khoa học xã hội, Hà Nội. 114. Nguyễn Tài Thư (1997), Ảnh hưởng của các hệ tư tưởng và tôn giáo đối với con người Việt Nam hiện nay, Nxb. Chính trị Quốc gia, Hà Nội. 115. Chu Quang Trứ (2001), Di sản văn hóa dân tộc trong tín ngưỡng, tôn giáo ở Việt Nam, Nxb. Mỹ thuật, Hà Nội. 116. Trần Trương (2010), Phật Hoàng Trần Nhân Tông, Nxb. Văn hóa-Thông tin, Hà Nội. 117. Trần Trương (2011), Chùa Yên Tử, Nxb. Văn hóa-Thông Tin, Hà Nội. 118. Trần Trương (2011), Danh nhân Yên Tử, Nxb. Văn hóa-Thông Tin, Hà Nội. 119. Uỷ ban Khoa học xã hội Việt Nam (biên soạn, 1971), Lịch sử Việt Nam, tập 1, Nxb.Khoa học xã hội, Hà Nội. 120. Ủy ban Khoa học xã hội Việt Nam, Viện Văn học (1977), Thơ văn Lý – Trần, tập 1, Nxb. Khoa học xã hội, Hà Nội. 121. Ủy ban Khoa học xã hội Việt Nam, Viện Văn học (1988), Thơ văn Lý – Trần, tập 2, Nxb. Khoa học xã hội, Hà Nội. 122. Ủy ban Khoa học xã hội Việt Nam, Viện Văn học (1978), Thơ văn Lý – Trần, tập 3, Nxb. Khoa học xã hội, Hà Nội. 123. Đặng nghiêm Vạn (1998), Về tín ngưỡng tôn giáo Việt Nam hiện nay, Nxb. Khoa học xã hội, Hà Nội. 167 124. Đặng nghiêm Vạn (2001), Lý luận về tôn giáo và tình hình tôn giáo ở Việt Nam, Nxb. Chính trị Quốc gia, Hà Nội. 125. Viện khoa học xã hội (1993), Kỷ yếu hội thảo khoa học: Tuệ Trung Thượng Sĩ với thiền tông Việt Nam, Trung Tâm nghiên cứu Hán Nôm, Tp Hồ Chí Minh. 126. Viện Triết học (1986), Mấy vấn đề về Phật giáo và lịch sử tư tưởngViệt Nam, Ủy ban Khoa học xã hội Việt Nam. 127. Viện Triết học (2002), Lịch sử tư tưởng Việt Nam, văn tuyển tập 1, Nxb. Chính trị Quốc gia Hà Nội. 128. Viện Nghiên cứu Phật học (chủ biên, 1990), Thiền uyển tập anh, Nxb. Văn học, Hà Nội. 129. Viện nghiên cứu Phật học Việt Nam (2010), Phật giáo đời Lý, Tủ sách Phật giáo Dân tộc, Nxb. Tôn giáo, Hà Nội. 130. Viện lịch sử Quân sự Việt Nam (1994), Kế sách giữ nước thời Lý-Trần, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội. 131. Viện nghiên cứu Lịch sử (1980), Tìm hiểu xã hội Việt Nam thời Lý – Trần, Nxb. Khoa học xã hội, Hà Nội. 132. Viện sử học (1996), Phương thức sản xuất ở châu Á: Lý luận Mác - Lênin và thực tiễn Việt Nam, Nxb. Khoa học xã hội, Hà Nội. 133. Việt sử thông giám cương mục (1957), tập 3, Nxb Văn – Sử - Địa, Hà Nội. 134. Việt sử lược (1960), Nxb. Văn - Sử - Địa , Hà Nội. 135. Trần Thị Vinh(2010), Thể chế chính trị ở Việt Nam Thế kỷ XI-XIII thời Lý, Kỷ yếu Hội thảo Quốc tế Việt Nam học lần thứ III, chủ đề: “Việt Nam: Hội nhập và Phát triển”. 136. Nguyễn Hữu Vui (1996), Mấy ý kiến góp phần tìm hiểu vai trò của đạo Phật Việt Nam trong Mấy vấn đề Phật giáo và lịch sử tư tưởng Việt Nam, Viện Triết học, Hà Nội. 137. Nguyễn Hữu Vui (chủ biên, 2002), Lịch sử triết học, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội. 168 138. Trần Quốc Vượng (dịch và chú giải, 1960), Việt Nam sử lược, Nxb. Văn – Sử - Địa, Hà Nội. 139. Trần Quốc Vượng (2005), Môi trường, con người và văn hóa, Nxb. Văn hóa thông tin, Hà Nội. 140. Nguyễn Như Ý (chủ biên, 1999), Đại từ điển tiếng Việt, Nxb. Văn hóa Thông tin, Hà Nội. 141. Walpola Rahula (1994),Lời Phật dạy, Nxb. Tp Hồ Chí Minh. Trang Web: 142. Trọng Giáp, Báo Philippines ca ngợi Việt Nam truyền cảm hứng cho ASEAN, trang web: vnexpress.net. 143. Nguyễn Thị Thu Hoan và Phạm Thị Huyền, Tìm hiểu thêm về anh hùng dân tộc Lý Thường Kiệt qua hai tấm bia triều Lý trưng bày ở Bảo tàng lịch sử quốc gia, trang web: baotanglichsu.vn. 144. Thái Kim Lan, Lý thuyết nhân quả trong triết học Phật giáo và trong học thuyết siêu nghiệm của Kant, trang web: daophatngaynay.com. 145. Lịch sử Phật giáo, trang web: Wikipedia.ogr. 146. Huệ Minh, Phật giáo với văn hóa Việt Nam, trang web: thienlybuutoa. 147. Peter D. Santina, Nền tảng của đạo Phật (Thích Tâm Quang dịch), trang web: budsas.org. 148. Hồ Sĩ Qu , Bí ẩn Châu Á trong tấm gương triết học Châu Á, trang web: vanhoahoc.net. 149. Sri Dhammananda, Đạo Phật và chính trị, trang web: chuacaolinh.com.vn. 150. Nguyễn Tài Thư, Một số đặc trưng cơ bản của Nho giáo Việ Nam, đăng trên trang web: tamnhin.net. 151. Nguyễn Khắc Thuần, Tăng ban trong bộ máy nhà nước thời Lý-Trần, trang web: khoavanhoc-ngonngu.edu.vn. 152. Thích Thanh Từ, Tại sao tôi chủ trương khôi phục Phật giáo đời Trần, trang web: thuong-chieu.org. 169 PHỤ LỤC Sơ đồ 3.1: Các đời vua thời Lý-Trần L Thái Tổ (1010-1028) Lý Thái Tông (1028-1054) Lý Thánh Tông (1054-1072)- - - -Ỷ Lan Sùng Hiền Hầu Lý Nhân Tông (1072-1127) L Thần Tông (1128-1138) Lý Anh Tông (1138-1175) Lý Cao Tông (1176-1210) L Huệ Tông (1211-1224)- - - - - - Trần Thị Dung- - - - - Trần Thủ Độ Trần Thái Tông (1225-1258)- - - - - - Lý Chiêu Hoàng Trần Thánh Tông (1258-1278) Trần Nhân Tông (1279-1293) Trần Anh Tông (1293-1314) Trần Minh Tông (1314-1329) Trần Nghệ Tông Trần Dụ Tông Trần Hiến TôngTrần Duệ Tông Trần Nguyên (1370-1372) (1341-1369) (1329-1341)(1372-1377) Dục Trần Thuận Tông Trần Ngạc Giả Định Đế Trần Phế Đế Dương Nhật Lễ (1388-1398) (1407-1409) (1377-1388) Trần Thiếu Đế Trùng Quang Đế (1398-1400) (1409-1413) 170 Sơ đồ 2.2: Dòng Thiền Tỳ Ny Đa Lưu Chi Tỳ Ni Đa Lưu Chi Pháp Hiền Pháp Đăng, Huệ Nghiêm Nam Dương Thanh Biện Định Không Thông Thiện Phù Trì Bối Đa La Quý Án Pháp Thuận Ma Ha Vô Ngai Thiên Ông Sùng Phạm Kiêu Trí Huyền Pháp Bảo Vạn Hạnh Định Huệ Đạo Hạnh Trì Bát Thuần Chân Pháp Y Tịnh Hạnh, Pháp Nhãn Huệ Sinh Thiên Nham Minh Không Bản Tịnh (cùng Hạc Lâm Pháp Thống) Quảng Phúc Khánh Hỷ Giới Không Pháp Dung Thảo Nhất Trí Thiền Chân Không Đạo Lâm Diện Nhân Ni Sư Viên Học Tịnh Thiền (cùng Tịnh Không) Viên Thông Pháp Ký Sơn 171 Sơ đồ 2.3: òng Thiền Vô Ngôn Thông Vô Ngôn Thông Cảm Thành Thiện Hội Vân Phong Đa ảo Đinh Hương Thiên Lão Viên Chiếu Cứu Chỉ ảo Tích Minh Tâm Quảng Trí Lý Thái Tông (999-1090) (?-1034) (?-1034) Thông iện Ngộ Ấn Mãn Giác (?-1134) (1020-1088) (1052-1096) Hà Trạch Đạo Huệ iệt Tài Không Lộ ảo Giác ản Tịnh (?-1173) (?-1119) (1100-1176) Trường Đại Minh Tín Tịnh Tịnh Trí Tịnh Giác Nguyện Nguyên Xả(11 Trí Học Không Lực ảo Giới Hải Học (?- (1110- 20- (?- (?- (1091- (1112- (?- (?- 1181) 1165) 1180) 1196) 1190) 1170) 1175) 1190) 1207) Quảng Nghiêm (1122-1190) Thường Chiếu (?-1203) Thần Nghi Cư sĩ Thông Sư (?-1228) (cùng Quách Thần Nghi) Trí Thông Hiện Quang Tức Lự Cư sĩ Ứng Vương 172 Sơ đồ 2.4: òng Thiền Thảo Đường Thảo Đường Lý Thánh Tông Bát Nhã Ngộ Xá Ngô Tham Chính Ích Hoằng Minh Không Lộ Giác Hải Thái phó Đỗ Anh Vũ Phạm Âm Lý Anh Tông Đỗ Đô Trương Tam Tạng Chân Huyền Thái phó Đỗ Thường Hải Tịnh Lý Cao Tông Nguyễn Thức Phạm Phụng Ngự Sơ đồ 2.5: Sự thống nhất của các thiền phái đầu thời Trần Vô Ngôn Thông Lâm Tế Thường Chiếu Hiện Quang Thông Thiền Thần Nghi Đạo Viên Tức Lự Ẩn Không Thái Tông Đại Đăng Ứng Thuận Thiên Phong Thánh Tông Tiêu Diêu Nhất Tông Giới Minh Tuệ Trung Huệ Tuệ Tông Cảnh Trúc Lâm Pháp Loa ảo Phác Huyền Quang 173 Hình 3.1: Cổng tam quan chùa Nhất trụ Hình 3. Cột kinh c nhất Vi t Nam nằm trong lầu tứ giác Chùa Nhất Trụ (còn gọi là Chùa Một Cột) là ngôi chùa cổ có từ thế kỉ X, nằm trong quần thể Khu di tích Cố đô Hoa Lư (Ninh Bình).Chùa Nhất Trụ được tạo lập năm 995, vua Lê Đại Hành đã cho dựng cột kinh (trụ đá) để khắc kinh dâng nhà Phật. Chùa nằm ở vị trí trung tâm, là di tích quan trọng nhất, là nơi tu hành và họp bàn việc nước của các nhà sư thế kỉ X như Pháp Thuận, Khuông Việt và Vạn Hạnh. 174 Hình 3.3: Chiếu ời đô- ản dịch của Viện Khoa học Xã hội Việt Nam Hình 3.4: Bài Cư Trần Lạc Đạo phú bản chữ Nôm của Trần Nhân Tông 175 Hình 4.5: ia chùa Linh Xứng Trong bia Linh Xứng, thiền sư Hải Chiếu đã ca ngợi L Thường Kiệt: “Tuy thân vướng việc đời, mà lòng vẫn hướng về đạo Phật”, chính vì có tấm lòng và tư tưởng hướng Phật ấy mà đã thôi thúc ông chuyên làm những điều thiện đối với dân, với nước. Hình 4.6: Hịch tướng sỹ 176

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • pdfluan_an_nhan_sinh_quan_phat_giao_va_anh_huong_cua_no_den_tu.pdf
Tài liệu liên quan