HỌC VIỆN CHÍNH TRỊ QUỐC GIA HỒ CHÍ MINH
PH NG THỊ AN NA
NHÂN SINH QUAN NGƯờI VIệT
QUA FOLKLORE VIệT NAM
LUẬN ÁN TIẾN SĨ
CHUYấN NGÀNH: CHỦ NGHĨA DUY VẬT BIỆN CHỨNG
VÀ CHỦ NGHĨA DUY VẬT LỊCH SỬ
HÀ NỘI - 2015
HỌC VIỆN CHÍNH TRỊ QUỐC GIA HỒ CHÍ MINH
PH NG THỊ AN NA
NHÂN SINH QUAN NGƯờI VIệT
QUA FOLKLORE VIệT NAM
LUẬN ÁN TIẾN SĨ
CHUYấN NGÀNH: CHỦ NGHĨA DUY VẬT BIỆN CHỨNG
VÀ CHỦ NGHĨA DUY VẬT LỊCH SỬ
Mó số: 62 22 03 02
NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC:
1. PGS.TS. NGUYỄN THỊ
191 trang |
Chia sẻ: huong20 | Ngày: 15/01/2022 | Lượt xem: 542 | Lượt tải: 1
Tóm tắt tài liệu Luận án Nhân sinh quan người Việt qua Folklore Việt Nam, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
NGA
2. PGS.TS. ĐỖ LAN HIỀN
HÀ NỘI - 2015
LỜI CAM ĐOAN
Tơi xin cam đoan đây là cơng trình nghiên cứu của riêng tơi. Các số
liệu, kết quả nêu trọng luận án là trung thực, cĩ nguồn gốc rõ ràng và
được trích dẫn đầy đủ theo quy định.
Tác giả
Phùng Thị An Na
MỤC LỤC
Trang
MỞ ĐẦU 1
Chương 1 TỔNG QUAN TÌNH HÌNH NGHIÊN CỨU LIÊN QUAN
ĐẾN ĐỀ TÀI LUẬN ÁN
6
1.1. Các cơng trình nghiên cứu về nhân sinh quan và folklore 6
1.2. Các cơng trình nghiên cứu về nhân sinh quan người Việt qua lễ
hội dân gian và tín ngưỡng dân gian
15
1.3. Các cơng trình đề cập đến vấn đề kế thừa và giải pháp phát huy
những giá trị tốt đẹp, hạn chế những tiêu cực từ nhân sinh quan
truyền thống người Việt
27
1.4. Một số vấn đề đặt ra để luận án tiếp tục giải quyết 30
Chương 2: NHÂN SINH QUAN NGƯỜI VIỆT VÀ FOLKLORE VIỆT
NAM - MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN
32
2.1. Nhân sinh quan và nhân sinh quan người Việt 32
2.2. Folklore Việt Nam - Khái niệm, đặc trưng, các loại hình 43
2.3. Folklore - Một hình thức thể hiện độc đáo của nhân sinh quan
người Việt
56
Chương 3: NHÂN SINH QUAN NGƯỜI VIỆT QUA MỘT SỐ LỄ HỘI
VÀ TÍN NGƯỠNG DÂN GIAN - GIÁ TRỊ VÀ HẠN CHẾ
65
3.1. Nhân sinh quan người Việt qua một số lễ hội dân gian 65
3.2. Nhân sinh quan người Việt qua một số tín ngưỡng dân gian 81
3.3. Những giá trị tích cực, những hạn chế từ nhân sinh quan truyền
thống người Việt qua một số lễ hội và tín ngưỡng dân gian
100
Chương 4: XU HƯỚNG HOẠT ĐỘNG CỦA LỄ HỘI VÀ TÍN
NGƯỠNG DÂN GIAN VÀ GIẢI PHÁP NHẰM KHẮC
PHỤC YẾU TỐ TIÊU CỰC, PHÁT HUY GIÁ TRỊ TÍCH
CỰC TRONG NHÂN SINH QUAN TRUYỀN THỐNG
NGƯỜI VIỆT QUA CÁC LOẠI HÌNH ĐĨ
115
4.1. Dự báo một số xu hướng hoạt động của lễ hội và tín ngưỡng
dân gian ở Việt Nam hiện nay
115
4.2. Một số nhĩm giải pháp nhằm phát huy giá trị tích cực, hạn chế
yếu tố tiêu cực trong nhân sinh quan truyền thống người Việt
qua lễ hội và tín ngưỡng dân gian
127
KẾT LUẬN 145
DANH MỤC CƠNG TRÌNH CỦA TÁC GIẢ ĐÃ CƠNG BỐ LIÊN QUAN
ĐẾN LUẬN ÁN
148
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO 149
PHỤ LỤC 159
1
MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Folklore Việt Nam, hay văn hĩa dân gian Việt Nam là kho tư liệu ít
được khai thác về mặt triết học, vì người ta thường coi nĩ là thứ văn hĩa
truyền miệng, khơng bác học, cĩ nhiều hạn chế, lạc hậu. Nĩi là dân gian
nhưng khơng cĩ nghĩa đấy là sản phẩm của những người nơng dân thất học,
mà dân gian ở đây cĩ thể là khuyết danh, “nĩ” cũng là sản phẩm của các bậc
đại trí trong xã hội thời kỳ trước, chỉ cĩ điều, họ chưa khái quát được thành hệ
thống mà chỉ đúc kết ra từ những trải nghiệm cuộc sống, nhưng đĩ lại là cơ
sở, nền tảng để sau này xây dựng thành các lý thuyết, hệ thống tư tưởng. Bởi,
trong thứ văn hĩa bình dân ấy đã ẩn chứa những khái niệm trừu tượng, ẩn
chứa minh triết của cha ơng chúng ta. Ở đĩ, chúng ta cũng cĩ thể thấy được
năng lực tư duy, những phán đốn, phân tích và sự nhận thức của người Việt,
hay nĩi khác đi, văn hĩa dân gian Việt Nam cho thấy giá trị bản nhiên của tư
duy người Việt, khơng hịan tồn vay mượn tư tưởng của Nho, Phật, Lão.
Nghiên cứu tư tưởng triết học trong các di sản tinh thần thuộc lĩnh vực
văn hĩa dân gian vốn được đặt ra từ lâu, song cho đến nay vẫn chưa được
thực hiện. Đã cĩ khơng ít các cơng trình và tác giả nghiên cứu Folklore Việt
Nam dưới các gĩc nhìn văn hĩa học, dân tộc học hay nhân học, giúp chúng
ta biết được vơ số điều thú vị, đặc sắc về cuộc sống, sinh hoạt, lao động sản
xuất, văn hĩa, tín ngưỡng của tổ tiên chúng ta trên mảnh đất Việt Nam.
Những nghiên cứu phong phú đĩ là cần thiết nhưng chưa đủ, con cháu hơm
nay cần biết cha ơng ngày xưa đã nghĩ gì qua những hoạt động và những
biểu tượng vẫn được gìn giữ và lưu truyền cho đến ngày nay. Do vậy, cần
phải tiếp cận vấn đề này dưới gĩc độ triết học, liên ngành triết học - văn hĩa,
nhằm soi tỏ những nội dung chủ yếu trong tư tưởng của người xưa. Việc
nghiên cứu này cịn cần thiết vì nằm trong khuơn khổ một nhiệm vụ lớn hơn
2
là luận chứng cho sự tồn tại hệ thống các tư tưởng triết học của Việt Nam
trong lịch sử.
Folklore thực sự là nơi quy tụ và kết tinh những triết lý nhân sinh sâu
sắc của các bậc tiền nhân về con người, về hành vi, ứng xử và lẽ sống ở đời
của con người. Những năm gần đây, cĩ khá nhiều triết gia đi vào nghiên cứu
vấn đề nhân sinh quan, nhưng tìm hiểu về mối liên hệ giữa những tư tưởng,
triết lý nhân sinh trong kho tàng Folklore thì lại ít được quan tâm. Cũng cĩ
một vài nhà khoa học từng đặt vấn đề nghiên cứu tư tưởng triết học của
người Việt qua những văn hĩa bất thành văn, chỉ cĩ điều, những tác phẩm
này chưa đi vào phân tích nhân sinh quan triết học qua Folklore một cách
đầy đủ, mà chỉ nghiên cứu tư tưởng dân tộc qua phong tục tập quán hay di
chỉ khảo cổ của văn hĩa vật thể (như trống đồng, mộ táng) mà thơi. Thực
chất, chưa cĩ cơng trình nào đặt vấn đề nghiên cứu một cách cụ thể nhân
sinh quan của người Việt qua Folklore. Đây chính là nhiệm vụ của luận án,
nhằm gĩp phần tìm hiểu sâu hơn về minh triết của người Việt qua một số
loại hình Folklore, gĩp phần bổ sung thêm cho tư tưởng triết Việt, để lịch sử
tư tưởng Việt Nam được tồn diện và hệ thống hơn.
Thêm nữa, nghiên cứu nhân sinh quan người Việt qua Folklore Việt
Nam, nghĩa là chúng ta một lần nữa tìm về bản sắc văn hĩa dân tộc, đề cao
“tính dân tộc” của mình, bởi Folklore chính là văn hĩa truyền thống của
người Việt. Văn hĩa dân gian Việt Nam rất phong phú, đa dạng, do vậy, việc
tìm hiểu những biểu hiện triết học trong văn hĩa dân gian giúp chúng ta thấy
được tính độc đáo, đặc sắc của nền văn hĩa truyền thống Việt Nam. Khảo cứu
nhân sinh quan người Việt qua Folklore khơng chỉ giúp củng cố giá trị, bản
sắc văn hĩa dân tộc mà cịn là việc làm phát huy tinh thần yêu nước - yêu
những giá trị văn hĩa của dân tộc.
Với những lý do trên, tác giả chọn đề tài “Nhân sinh quan người Việt
qua Folklore Việt Nam” làm đề tài luận án tiến sĩ triết học.
3
2. Mục đích và nhiệm vụ của luận án
2.1. Mục đích
Luận án tập trung làm rõ nhân sinh quan người Việt thể hiện qua
Folklore Việt Nam, cụ thể là qua lễ hội và tín ngưỡng dân gian, từ đĩ, đề xuất
một số giải pháp nhằm phát huy những giá trị tích cực, khắc phục những hạn
chế trong nhân sinh quan đĩ.
2.2. Nhiệm vụ
- Làm rõ khái niệm nhân sinh quan và đặc thù nhân sinh quan của
người Việt; khái niệm, đặc trưng của Folklore Việt Nam.
- Phân tích nhân sinh quan người Việt qua một số lễ hội và tín ngưỡng
dân gian điển hình; chỉ ra những giá trị tích cực và những hạn chế trong nhân
sinh quan đĩ.
- Dự báo xu hướng hoạt động của các lễ hội và tín ngưỡng dân gian ở
Việt Nam, từ đĩ, đề xuất một số giải pháp nhằm phát huy những giá trị tích
cực, khắc phục những hạn chế trong nhân sinh quan truyền thống người Việt
qua các loại hình đĩ.
3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu:
3.1. Đối tượng nghiên cứu
Nhân sinh quan người Việt qua một số lễ hội và tín ngưỡng dân gian
Việt Nam.
3.2. Phạm vi nghiên cứu
- Khái niệm “người Việt” trong luận án này dùng để chỉ người Việt
truyền thống.
- Trong phạm vi của một luận án Tiến sĩ, chúng tơi chỉ cĩ thể khảo cứu
nhân sinh quan của người Việt qua 2 loại hình của Folklore là: lễ hội dân gian
và tín ngưỡng dân gian. Đối với lễ hội, chúng tơi lựa chọn 3 lễ hội: lễ hội đền
Giĩng, lễ hội đền Tống Trân và lễ hội Chử Đồng Tử; với loại hình tín ngưỡng
4
dân gian, chúng tơi chọn 3 tín ngưỡng: tín ngưỡng thờ Mẫu, tín ngưỡng Phồn
thực và tín ngưỡng Thờ nhiên thần làm khách thể khảo sát và nghiên cứu.
Cĩ thể nĩi, đây là những lễ hội và tín ngưỡng dân gian phản ánh một
cách tương đối điển hình các triết lý nhân sinh truyền thống của người Việt
trên ba mối quan hệ: gia đình, xã hội và mơi trường tự nhiên mà đề tài cĩ
tham vọng phân tích.
4. Cơ sở lý luận và phương pháp nghiên cứu
4.1. Cơ sở lý luận
Luận án được thực hiện dựa trên cơ sở lý luận của chủ nghĩa Mác -
Lênin về mối quan hệ giữa tồn tại xã hội và ý thức xã hội, mối quan hệ giữa
các hình thái ý thức xã hội; quan điểm, đường lối, chính sách của Đảng Cộng
sản Việt Nam về tơn giáo, tín ngưỡng. Luận án cũng kế thừa các cơng trình
nghiên cứu khoa học, các bài viết cĩ liên quan đã được cơng bố.
4.2. Phương pháp nghiên cứu
Luận án dựa trên phương pháp luận duy vật biện chứng và duy vật
lịch sử, kết hợp với các phương pháp cụ thể như: phương pháp thống nhất
lịch sử - lơgic, phân tích - tổng hợp, kết hợp giữa lý luận và thực tiễn
Luận án cũng sử dụng phương pháp nghiên cứu liên ngành, quan sát thực
địa, khảo cứu văn bản
5. Đĩng gĩp mới về khoa học của luận án
- Gĩp phần bổ sung lý luận cho cơng tác nghiên cứu triết học Việt Nam
trên loại hình văn hĩa dân gian/Folklore. Chứng minh cho những giá trị bản
nhiên của tư duy người Việt từ khi chịu tiếp biến, ảnh hưởng của văn hĩa -
triết học ngoại lai.
- Gĩp phần làm sáng tỏ một số vấn đề nhận thức luận triết học và các
vấn đề liên quan đến Folklore Việt Nam, nhân sinh quan người Việt.
- Nghiên cứu nhân sinh quan người Việt qua Folklore từ gĩc nhìn triết
học, luận án đã gĩp phần chỉ ra những xu hướng biến đổi của các hoạt động lễ
5
hội, tín ngưỡng ở Việt Nam hiện nay và đề xuất các giải pháp nhằm bảo tồn
và phát huy truyền thống, bản sắc văn hĩa của dân tộc, gĩp phần phát triển tư
duy lý luận cho người Việt Nam hiện nay.
6. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn của luận án
- Kết quả nghiên cứu của luận án cĩ thể làm tài liệu tham khảo cho sinh
viên, học viên chuyên ngành Triết học, Văn hĩa học, Tơn giáo học.
- Kết quả nghiên cứu của luận án cĩ thể sử dụng làm tài liệu tham
khảo cho việc nghiên cứu về triết học Việt Nam, văn hĩa Việt Nam, tơn giáo
ở Việt Nam.
- Kết quả nghiên cứu của luận án là sự thể nghiệm hố chủ trương của
Đảng và Nhà nước về việc giữ gìn, phát huy các bản sắc và giá trị văn hĩa,
tinh thần truyền thống của dân tộc.
- Kết quả nghiên cứu của luận án gĩp phần nâng cao năng lực nghiên
cứu khoa học cho đội ngũ cán bộ của Học viện.
7. Kết cấu của luận án
Ngồi phần mở đầu, kết luận, danh mục tài liệu tham khảo, luận án
được kết cấu làm 4 chương, 12 tiết.
6
Chương 1
TỔNG QUAN TÌNH HÌNH NGHIÊN CỨU
LIÊN QUAN ĐẾN ĐỀ TÀI LUẬN ÁN
1.1. CÁC CƠNG TRÌNH NGHIÊN CỨU VỀ NHÂN SINH QUAN VÀ FOLKLORE
1.1.1. Nhĩm cơng trình nghiên cứu về nhân sinh quan
Cĩ thể nĩi, khơng cĩ nhiều cơng trình bàn trực tiếp vấn đề nhân sinh
quan hay lý luận về nhân sinh quan. Trong hầu hết các cơng trình mà chúng
tơi khảo cứu về vấn đề này, các tác giả mới chỉ dừng lại ở việc đưa ra những
nhận định hoặc những khía cạnh khác nhau thuộc phạm trù nhân sinh quan.
Vì đề tài nghiên cứu nhân sinh quan theo quan điểm của chủ nghĩa Mác
- Lênin, nên chúng tơi đã khảo cứu khá nhiều cơng trình về nhân sinh quan
dưới gĩc nhìn triết học mácxít:
Trong hai tác phẩm Quan niệm của C. Mác, Ph. Ăngghen về con người
và sự nghiệp giải phĩng con người của Bùi Bá Linh [73] và “Vấn đề con
người trong học thuyết Mác và phương hướng, giải pháp phát triển con người
cho sự nghiệp cơng nghiệp hố, hiện đại hố ở Việt Nam hiện nay” của
Hịang Đình Cúc [13], học thuyết Mác về con người được các tác giả luận giải
trên cơ sở làm rõ quan niệm về “cơ sở hiện thực” cho sự tồn tại của con người
với tư cách thực thể sinh học - xã hội, về lao động với tư cách là điều kiện
quyết định của sự hình thành con người, về sự thống nhất biện chứng giữa
yếu tố sinh học và yếu tố xã hội trong con người, về mối liên hệ giữa cá nhân
và xã hội, về sự giải phĩng con người, giải phĩng xã hội... Từ đĩ, các tác giả
phân tích, làm rõ phương hướng chung về phát triển con người mà Đảng
Cộng sản Việt Nam đã xác định trong cơng cuộc đổi mới đất nước và đề xuất
một số giải pháp để thực hiện phương hướng đĩ.
Hai tác giả Phạm Thị Ngọc Trầm và Vũ Trọng Dung đã nhận định qua
các bài viết “Những tư tưởng cơ bản của C.Mác, Ph.Ăngghen, V.I.Lênin về
7
mối quan hệ giữa con người, xã hội và tự nhiên” [111] và “Hiểu quan điểm
của C.Mác về bản chất con người như thế nào?” [17] rằng: chỉ cĩ trên cơ sở
xuất phát từ quan điểm duy vật biện chứng về con người mới thấy được bản
chất con người khơng phải là trừu tượng mà là hiện thực, khơng phải là cái
vốn cĩ trong cơ thể riêng lẻ mà là tổng hịa các quan hệ xã hội; khơng chỉ là
các quan hệ hiện tại trong đĩ con người đang sống mà cịn là những quan hệ
xã hội trước kia, những quan hệ cổ truyền của quá khứ cịn in đậm trong con
người hiện thời, những di sản của thế hệ đi trước mà con người kế thừa trong
lịch sử của mình [17, tr. 61].
Nhĩm tác phẩm “Về triết lý con người chinh phục tự nhiên” của Hồ Sỹ
Quý [84] , và “Xây dựng đạo đức sinh thái - một trách nhiệm xã hội của con
người đối với tự nhiên” của Phạm Thị Ngọc Trầm [112] chủ yếu bàn về mối
quan hệ biện chứng giữa con người với giới tự nhiên. Các tác giả phân tích
vai trị của tự nhiên đối với con người, xã hội cùng với sự tác động của con
người lên tự nhiên thơng qua hoạt động thực tiễn của mình. Trong quan hệ
đạo đức sinh thái, con người bao giờ cũng là chủ thể, cịn tự nhiên là khách
thể; sự tác động giữa chúng chỉ đi theo một chiều là mang lại lợi ích cho con
người và xã hội, bỏ quên lợi ích và giá trị nội tại của khách thể tự nhiên. Vì
vậy, con người đã gây ra những hậu quả khơn lường cho mơi trường sống.
Cuối cùng, các tác giả kết luận, vấn đề xây dựng đạo đức sinh thái phải được
tiến hành ở mỗi thành phần cấu trúc của nĩ: ý thức đạo đức, quan hệ đạo đức,
ở sự kết hợp hành vi đạo đức với trách nhiệm xã hội của con người trong ứng
xử với tự nhiên, nhằm đảm bảo cho sự phát triển bền vững của tự nhiên và
con người.
Trong các cơng trình nêu trên, người đọc cĩ thể hiểu được những vấn
đề cơ bản về nhân sinh quan triết học mácxít như: bản chất con người là gì?,
mối quan hệ của con người với con người trong xã hội, mối quan hệ của con
người với giới tự nhiên, vấn đề giải phĩng và phát triển tồn diện con người...
8
Một số cơng trình đi vào nghiên cứu vấn đề nhân sinh quan trong các
học thuyết chính trị - xã hội và tơn giáo cũng là nguồn tư liệu quý cho chúng
tơi khi triển khai thực hiện đề tài.
Tác giả Hồng Tăng Cường trong bài viết “Mối quan hệ giữa con
người và tự nhiên trong quan niệm của Nho giáo” [15] cung cấp cho người
đọc các lập trường khác nhau của Nho giáo khi bàn về vấn đề này. Tuy nhiên,
chúng đều cĩ chung một điểm là khẳng định con người cĩ mối quan hệ mật
thiết với “Trời”, con người phải hiểu được “Mệnh trời” và khơng thể làm trái
với “Mệnh trời” [15, tr. 28]. Từ đĩ, tác giả khẳng định một lần nữa tư tưởng
của Nho giáo khi xem xét mối quan hệ giữa con người với thiên nhiên, đĩ là
sự phục tùng, phụ thuộc của con người vào giới tự nhiên. Cĩ thể nĩi, quan
điểm của Hịang Tăng Cường tỏ ra khá phiến diện, chỉ tiếp cận phương diện
đạo đức siêu hình của Nho giáo mà khơng thấy được những đĩng gĩp của
Nho giáo trong việc nhìn nhận vai trị của giới tự nhiên với cuộc sống con
người. Tiêu biểu như quan điểm của Mạnh Tử về khơng giết mổ vật nuơi vào
mùa sinh sản, khơng dùng lưới mắt nhỏ để bắt cá thì mới đảm bảo được cuộc
sống đầy đủ cho con người... Như vậy, quan điểm của Mạnh Tử cĩ ý nghĩa
vượt thời gian khi ơng nhìn nhận sự khai thác tự nhiên phải theo và phù hợp
với quy luật của nĩ.
Tác giả Nguyễn Văn Bình với bài “Cách xem xét, đánh giá con người
thơng qua các mối quan hệ xã hội cơ bản của Nho giáo - một giá trị cần kế
thừa và phát triển” [6] đã nhận định:
... ứng với mỗi quan hệ xã hội của con người, Nho giáo lại đưa ra
những yêu cầu rất chi tiết, thiết thực, sao cho thái độ ứng xử của
con người đạt tới “tận thiện, tận mỹ”, là khuơn vàng thước ngọc để
mọi người noi theo và đánh giá lẫn nhau. Từ đĩ, Nho giáo đề cao
những con người cĩ giáo dục, biết tu dưỡng theo những người quân
9
tử suốt đời “chính tâm tu thân” để vươn lên làm chủ bản thân, ứng
xử mẫu mực trong tất cả các mối quan hệ xã hội [6, tr. 23].
Từ nhận định trên, tác giả nhấn mạnh đến ý nghĩa và giá trị của đạo đức
Nho giáo trong việc giáo dục con người để trở thành mẫu “người quân tử”.
Bài viết “Vấn đề con người trong đạo Phật” của tác giả Hồng Thơ
[103] khẳng định đạo Phật là một triết lý về con người hướng nội. Tác giả đã
nêu rõ điểm tích cực của triết lý nhân sinh Phật giáo là con người nội tâm, vơ
thần, bình đẳng về đạo đức. Đạo Phật tập trung phân tích con người nhận
thức, tâm lý hướng nội nên đã đạt được một số nhận định độc đáo về trực
giác, về làm chủ tâm thức. Tiếp cận hướng nội của đạo Phật là chỗ làm cho
các triết học hướng ngoại tự thấy thiếu hịan chỉnh khi sự khát khao hiểu biết
bản chất con người trở thành một nhu cầu cĩ tính triết học [103, tr. 44].
Tác giả Đỗ Hương Giang trong bài “Vấn đề nhân sinh quan trong triết
học Phật giáo thời Trần” [27] đã khái quát một số nội dung chính của các đại
biểu tư tưởng triết học Phật giáo thời Trần.
Về nguồn gốc và bản chất con người: trên quan điểm duyên sinh,
các ơng cho rằng con người do tứ đại, ngũ uẩn hợp thành nên bản
chất con người là “Khơng”; vì nguồn gốc con người là khơng thực
cho nên con người khơng thể thốt khỏi vịng sinh tử; quan niệm về
cuộc sống: đời là khổ, ngắn ngủi, mong manh và luơn thay đổi;
cuối cùng, các ơng cho rằng tự do và giải thốt là tiêu chuẩn cho
một cuộc sống lý tưởng [27, tr. 3].
Cĩ thể nĩi, quan điểm của các đại biểu Phật giáo thời Trần thể hiện tinh thần
nhập thế của Phật giáo Việt Nam. Các ơng đã đưa đạo Phật đi vào cuộc đời,
hành động và áp dụng giáo lý Phật giáo vì con người và cho con người.
Nhìn chung, vấn đề nhân sinh quan trong các học thuyết tơn giáo chủ
yếu nghiên cứu con người từ gĩc độ bản ngã, cái tơi, chủ thể, từ phương diện
tâm lý học, đạo đức học, luân lý học.
10
Một trong những nhiệm vụ của luận án là khảo cứu đặc điểm nhân sinh
quan thần thoại, vì thế chúng tơi thử đi tìm các tác phẩm bàn về vấn đề này,
song, rất tiếc đây dường như là mảng nghiên cứu cịn bỏ trống.
Tìm hiểu qua các cơng trình viết về nhân sinh quan nĩi chung, chúng
tơi cũng ít nhiều thu nhận được những tài liệu cho quá trình triển khai luận án.
Trong cuốn sách Mạn đàm nhân sinh của tác giả Nguyễn Thế Trắc
[109], những vấn đề về nhân sinh quan như: mối quan hệ Thiên - Địa - Nhân
với kiếp người; Quan niệm về hoạ, phúc với đời người; Quan niệm tu thân
tích đức, hịan thiện nhân cách... đã được trình bày khá rõ nét. Tác giả Nguyễn
Thế Trắc rất tâm huyết khi phân tích và bình luận một cách sâu sắc những
triết lý sống cần thiết cho con người hiện nay, cũng như hướng con người tới
những chân giá trị của cuộc đời.
Cuốn Hành trình nhân sinh quan: Phản tỉnh trên đường trải nghiệm
của tác giả Nguyễn Tất Thịnh [94] đề cập đến nhiều vấn đề của cuộc sống
nhằm chia sẻ những trải nghiệm sống, giúp người đọc tự tìm cho mình những
bài học quý giá của nhân sinh, những kỹ năng sống, cách ứng xử chân - thiện -
mỹ để hướng đến một cuộc sống tốt đẹp hơn, luơn cĩ cái nhìn lạc quan vào
cuộc sống.
Hai nhà nghiên cứu Trịnh Hiểu Giang, Nguyễn An trong cuốn Những
hiểu biết về cuộc đời [28] đã cung cấp cho người đọc trí tuệ phong phú của
các nhà hiền triết trong lịch sử nhân loại về bản chất sinh mệnh, nội dung của
đời người, trạng thái sinh tồn, các kỹ xảo cần thiết để cĩ cuộc sống hạnh
phúc. Đặc biệt, các tác giả đã đi sâu phân tích cuộc đời của các nhà hiền triết
Trung Quốc thời xưa, từ đĩ, liên hệ đến các trạng thái đời người hiện đại,
đồng thời, giới thiệu cho chúng ta về một mơn khoa học tương đối phát triển
ở Trung Quốc - khoa học nhân sinh.
Cĩ thể thấy rằng, nhân sinh quan là một đề tài lớn, đã được nghiên cứu,
tìm hiểu từ lâu bởi nhiều học giả. Trong các cơng trình đĩ, mặc dù chưa đưa
11
ra được một khái niệm hay một hệ thống lý luận về nhân sinh quan, song các
vấn đề liên quan đến nhân sinh quan được đề cập khá đầy đủ, tồn diện. Đây
chính là nguồn tài liệu hết sức phong phú giúp chúng tơi hiểu rõ nhân sinh
quan là gì, và gồm những nội dung gì?
1.1.2. Nhĩm cơng trình nghiên cứu về Folklore Việt Nam
Nghiên cứu về Folklore/văn hĩa dân gian của người Việt Nam, chúng
ta khơng thể bỏ qua những cơng trình viết về lịch sử văn hĩa của dân tộc.
Là một trong những cơng trình quan trọng nhất của học giả Đào Duy
Anh, Việt Nam văn hĩa sử cương [1] đã bao quát tất cả các mảng sinh hoạt
kinh tế, sinh hoạt chính trị và sinh hoạt tri thức, do đĩ, đã tĩm tắt, phác hoạ và
minh định được ở chừng mực nào đĩ lược sử văn hĩa của người Việt. Hơn thế
nữa, Đào Duy Anh chỉ ra cả những biến đổi của văn hĩa Việt Nam ở thời đại
Âu hố, với sự rạn vỡ hoặc biến đổi của những giá trị cũ, sự lên ngơi của
những giá trị mới.
Tác giả Nguyễn Duy Hinh trong cuốn Văn minh Đại Việt [43] đã trình
bày cuộc đại hội nhập văn hĩa Việt - Trung - Ấn để hình thành văn minh Đại
Việt. Tác giả chọn xuất phát điểm là thời kỳ trước Hán (năm 111 Tr.CN làm
mốc) để định ra vị trí của văn minh Đại Việt trên thang bậc văn minh nhân
loại nĩi chung, trong quan hệ so sánh với văn minh Hán Đường đồng đại nĩi
riêng. Tác giả cũng chú trọng nghiên cứu văn hĩa Việt Nam trước khi tiếp xúc
với văn hĩa Hán qua chính quyền đơ hộ và qua con đường giao lưu văn hĩa,
xác định vốn văn hĩa trước Hán của dân tộc ta, coi đĩ là bản sắc, bản lĩnh, cơ
sở, động lực tồn tại của dân tộc Việt Nam.
Cuốn sách Việt Nam phong tục [5] của nhà nghiên cứu Phan Kế Bính là
nguồn tài liệu phong phú cung cấp cho độc giả nhiều kiến thức quý báu để tìm
hiểu về văn hĩa dân tộc, từ tục lệ trong gia đình tới thĩi quen ngồi xã hội, kể
cả thuần phong mỹ tục lẫn hủ tục. Quan điểm của tác giả tỏ ra tiến bộ khi đề
12
cập tới tục lệ cũ và ý muốn dần dần canh tân hủ tục, đồng thời, duy trì những
mỹ tục quốc tuý của nước nhà.
Tác giả Vũ Ngọc Khánh, trong suốt cuộc đời nghiên cứu của mình,
ơng đã dành thời gian tìm hiểu về Folklore Việt Nam. Cĩ thể kể đến các
cơng trình:
Cuốn sách Dẫn luận nghiên cứu Folklore Việt Nam [60] cĩ thể coi là
cơng trình đầu tiên giới thiệu diện mạo Folklore Việt Nam. Tinh thần nổi bật
của tác phẩm là khẳng định sự tồn tại của Folklore Việt Nam. Folklore Việt
Nam đã được phác hoạ rõ nét, từ mơi trường xuất phát, nội hàm, quá trình vận
động, quá trình nhận thức, nghiên cứu và giới thiệu..., gĩp phần tơ đượm sức
sống và nguồn sống của dân tộc [60, tr. 15].
Trong cuốn Tiếp cận kho tàng Folklore Việt Nam [61], Vũ Ngọc Khánh
bước đầu giới thiệu sự tồn tại của Folklore và vị trí của nĩ trong nền văn hĩa
dân tộc. Sau khi chứng minh sự hiện hữu của Folklore ở Việt Nam, tác giả đi
vào phân tích một số thành tố của Folklore như Folklore ngơn từ, Folklore tạo
hình, Folklore biểu diễn... Đặc biệt, Vũ Ngọc Khánh đã xác định sự vận động
Folklore qua những địa bàn khơng gian nhất định, tìm hiểu những sinh hoạt
phong phú của nĩ, nhìn đúng diện mạo, sắc thái cĩ khả năng phân biệt với
những địa bàn khác, do những nguyên nhân nào đĩ tạo nên [61, tr. 251]. Điều
này cĩ tác dụng thiết thực, giúp cho việc nhận diện rõ sự phong phú đa dạng
của tồn bộ Folklore Việt Nam, cũng như cĩ cái nhìn về sắc thái địa phương
để hiểu sâu hơn nữa tâm hồn dân tộc.
Cuốn Hành trình vào thế giới Folklore Việt Nam của ơng [63] gĩp
phần làm rõ cái mà ta gọi là đậm đà bản sắc dân tộc. Dạo qua các “điểm”
Folklore tiêu biểu (khu vực Hùng Vương, khu vực Thánh Tản, khu vực Hai
Bà Trưng) [63, tr. 9-138] để thấy những dấu ấn cội nguồn dân tộc được biểu
hiện tập trung, đặc sắc trên các hình thái văn hĩa, Vũ Ngọc Khánh một lần
nữa khẳng định sức sống mãnh liệt của Folklore Việt Nam. Từ đĩ, ơng đi
13
vào nghiên cứu thế giới dân ca - diễn xướng, thế giới hội hè, thế giới tâm
linh của người Việt như một cách bày tỏ niềm tự hào với những di sản văn
hĩa của dân tộc.
Cuốn sách Trên đường tìm hiểu văn hĩa dân gian Việt Nam của tác giả
Đinh Gia Khánh [53] thường được coi là tài liệu gối đầu giường cho những ai
nghiên cứu về Folklore Việt Nam. Trong cuốn sách này, tác giả đã đi hết một
loạt các vấn đề thuộc phạm trù Folklore, đĩ là giải đáp Folklore là gì?, sự hình
thành, phát triển của Folklore ở Việt Nam, các thành tố chủ yếu của Folklore,
vai trị của Folklore Việt Nam trong sự nghiệp xây dựng nền văn hĩa mới.
Cuốn Văn hĩa dân gian Việt Nam với sự phát triển của xã hội Việt
Nam của Đinh Gia Khánh [56] cung cấp một cách hệ thống những giá trị
truyền thống và ảnh hưởng của văn hĩa dân gian đối với sự phát triển của
xã hội trong giai đoạn mới. Cuốn sách khẳng định văn hĩa dân tộc và bản
sắc dân tộc của văn hĩa luơn trường tồn cùng lịch sử, giúp dân tộc ta trụ
vững trước bao cuộc xâm lăng, bao biến thiên xã hội. Với những truyền
thống tốt đẹp của mình, văn hĩa dân gian đã đĩng vai trị tích cực trong sự
phát triển của xã hội Việt Nam, đồng thời, đang phát huy ảnh hưởng rộng
lớn với tồn xã hội trên bước đường xây dựng đất nước theo định hướng xã
hội chủ nghĩa.
Tác giả Ngơ Đức Thịnh trong cuốn Quan niệm về Folklore [95] đề cập
đến các quan niệm, định nghĩa khác nhau về Folklore. Từ quan niệm về
Folklore ở Anh, Mỹ, các nước Mỹ Latinh đến quan niệm về Folklore ở Pháp,
Ý, Nga và một số nước Đơng Âu; các quan niệm về Folklore của Mác,
Ăngghen, Lênin, của các nhà lãnh tụ, các học giả và các nhà văn hĩa Việt
Nam... được trình bày ngắn gọn, rõ ràng, súc tích. Qua đĩ, người đọc cĩ được
những kiến thức cơ bản về Folklore, như Folklore là gì, Folklore bao gồm
những thành tố gì... [95, tr. 10] Cơng trình này gĩp phần giúp ích khơng nhỏ
14
cho giới nghiên cứu Folklore nĩi riêng, cho giới nghiên cứu khoa học xã hội
nĩi chung.
Cuốn sách Văn hĩa dân gian - những lĩnh vực nghiên cứu do các tác
giả Nguyễn Xuân Kính, Lê Ngọc Canh và Ngơ Đức Thịnh chủ biên [54] là
cuốn sách tập hợp những bài viết về lịch sử Folklore, lý luận Folklore và
phương pháp luận nghiên cứu Folklore. Điểm nổi bật của cuốn sách là xác
định nét đặc thù cơ bản của Folklore là một nghệ thuật nguyên hợp, gồm
nhiều thành tố gắn bĩ hữu cơ với nhau, từ đĩ xác định phương pháp nghiên
cứu cơ bản là phương pháp tổng hợp [54, tr. 8].
Tác giả Lê Ngọc Canh với cuốn Văn hĩa dân gian Việt Nam - những
thành tố [7] đã giới thiệu cơng phu, đề cập khá tỉ mỉ về những thành tố
Folklore Việt Nam. Cơng trình giới thiệu những vấn đề lý luận về thành tố
văn hhốdân gian, khảo sát những đặc điểm mơi trường của các thành tố này,
cũng như khảo cứu cụ thể từng thành tố. Điểm đáng quý ở cơng trình này là
qua việc khảo cứu các thành tố Folklore Việt Nam, tác giả đã cố gắng đưa ra
những dẫn chứng, tư liệu quý của một số tộc người ở nước ta.
Trong các cơng trình của các học giả nêu trên, người đọc cĩ thể hiểu
được những nét cơ bản về Folklore Việt Nam. Đĩ là những tri thức về khái
niệm, đặc trưng, thể loại của Folklore, là những tri thức về nguồn gốc, bản
chất của văn hĩa dân gian Việt Nam. Qua đĩ, các tác giả cũng giúp chúng ta
hiểu được văn hĩa dân gian chính là cội nguồn, là bản sắc của văn hĩa dân
tộc. Văn hĩa dân gian gắn với lịch sử lâu đời của dân tộc, là nguồn sản sinh
và tiếp tục nuơi dưỡng văn hĩa dân tộc.
Nhìn chung, các cơng trình nghiên cứu về Folklore hay văn hĩa dân
gian cho chúng ta cái nhìn đa chiều về các thành tố hợp thành bản sắc văn hĩa
Việt. Tuy nhiên, các tác phẩm chủ yếu phân tích đặc trưng của loại hình văn
hĩa dân gian mà nĩ đề cập, hoặc là giá trị của văn hĩa dân gian trong đời sống
15
xã hội đương đại, mà rất ít, thậm chí bỏ qua việc tìm hiểu nhân sinh quan
người Việt thể hiện như thế nào qua văn hĩa dân gian. Đĩ chính là nhiệm vụ
của luận án này.
1.2. CÁC CƠNG TRÌNH NGHIÊN CỨU VỀ NHÂN SINH QUAN NGƯỜI
VIỆT QUA LỄ HỘI DÂN GIAN VÀ TÍN NGƯỠNG DÂN GIAN
Trên thực tế, các cơng trình nghiên cứu về từng lĩnh vực, từng loại hình
của Folklore vơ cùng phong phú và đa dạng, bởi bản thân mỗi một loại hình
văn hĩa dân gian đã là một kho tri thức mà chúng ta chưa hiểu hết được. Do
đĩ, để tổng thuật tất cả các cơng trình nghiên cứu về các loại hình văn hĩa dân
gian là một việc làm địi hỏi nhiều thời gian và cơng sức. Trong giới hạn cho
phép, chúng tơi chỉ đi vào những mảng vấn đề lớn, liên quan hoặc trực tiếp
bàn đến nhân sinh quan người Việt qua một số loại hình của Folklore (trong
khuơn khổ luận án, chúng tơi lựa chọn hai loại hình Folklore để khảo cứu là lễ
hội dân gian và tín ngưỡng dân gian).
1.2.1. Nhĩm cơng trình bàn về nhân sinh quan của người Việt qua
lễ hội dân gian
Tác giả Thuận Hải trong cuốn Bản sắc văn hĩa lễ hội: văn hĩa dân
gian đặc sắc qua những lễ hội dân gian trong năm [31] đã khẳng định lễ hội
là một hình thức sinh hoạt tổng hợp bao gồm các mặt tinh thần và vật chất,
tơn giáo tín ngưỡng và văn hĩa nghệ thuật, tâm linh và đời thường, là sinh
hoạt cĩ sức hút một số lượng lớn những hiện tượng của đời sống xã hội.
Khơng những thế, lễ hội là những sinh hoạt văn hĩa, tơn giáo, nghệ thuật
truyền thống của cộng đồng, mà thơng qua đĩ, cĩ thể hiểu được giá trị tinh
thần và những triết lý sâu sắc của nền văn hĩa của một quốc gia.
Tiếp tục hành trình khai quật “lối cũ lề xưa” trong đời sống của người
Việt Nam, trong cuốn Hội hè đình đám [4], học giả Toan Ánh nĩi về những
niềm vui của một thời đơn sơ, những ý niệm tơn giáo lẫn những nỗi niềm
khao khát gửi gắm, những nỗi sợ hãi và cả những sự ghi ơn,... Vừa mang tính
16
tâm linh trang nghiêm, vừa là chốn vui chơi trần tục, hội hè là sự phản chiếu
thú vị và đa chiều nhất về văn hĩa người Việt xưa.
Cuốn Văn hĩa lễ hội dân gian cộng đồng các dân tộc Việt Nam của tác
giả Nguyễn Hải Yến [122] giúp người đọc nắm bắt một cách cĩ hệ thống,
tồn diện những nghi thức, nghi lễ và nội dung của các lễ hội, các hình thái tín
ngưỡng dân gian của các dân tộc Việt Nam. Qua đĩ, cĩ thể thấy rõ vai trị
quan trọng của lễ hội đối với đời sống tinh thần của cộng đồng, để từ đĩ biết
trân trọng, kế thừa phát huy những cái hay, nét đẹp của chúng, gĩp phần xây
dựng nền văn hĩa các dân t...rị tích cực của nhân sinh quan truyền thống, hạn chế
những ảnh hưởng tiêu cực của nhân sinh quan người Việt từ kho tàng nghiệm
sinh Folklore trong cơng cuộc xây dựng nhân sinh quan mới, lối sống mới,
con người mới hiện nay. Vấn đề đặt ra cho luận án là đề xuất được các nhĩm
giải pháp đáp ứng những yêu cầu đĩ.
32
Chương 2
NHÂN SINH QUAN NGƯỜI VIỆT VÀ FOLKLORE VIỆT NAM -
MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN
2.1. NHÂN SINH QUAN VÀ NHÂN SINH QUAN NGƯỜI VIỆT
2.1.1. Nhân sinh quan
Các nhà ngơn ngữ học Việt Nam trong cuốn Đại từ điển tiếng Việt và
Từ điển tiếng Việt cho rằng: nhân sinh quan là quan niệm về cuộc đời, thành
hệ thống bao gồm lý tưởng, lẽ sống, lối sống... [121, tr. 1239]; hay: nhân sinh
quan là quan niệm thành hệ thống về cuộc đời, về ý nghĩa, mục đích sống của
con người [88, tr. 947].
Cuốn Từ điển Bách khoa Việt Nam trình bày tương đối rõ ràng, cụ thể
về nhân sinh quan:
Nhân sinh quan là bộ phận của Thế giới quan (hiểu theo nghĩa
rộng), gồm những quan niệm về cuộc sống của con người: lẽ sống
của con người là gì? mục đích, ý nghĩa, giá trị của cuộc sống con
người ra sao và sống như thế nào cho xứng đáng? trả lời những câu
hỏi đĩ là vấn đề nhân sinh quan. Khác với lồi cầm thú, bất kì
người nào cũng cĩ quan niệm của mình về cuộc sống. Trong đời
thường, đĩ là nhân sinh quan tự phát, “ngây thơ” của đại chúng; các
nhà tư tưởng khái quát những quan điểm ấy, nâng lên thành lí luận,
tạo ra nhân sinh quan tự giác, mang tính nguyên lí triết học. Nhân
sinh quan phản ánh tồn tại xã hội của con người. Nội dung của nĩ
biểu hiện những nhu cầu, lợi ích, khát vọng và hịai bão của con
người trong mỗi chế độ xã hội cụ thể [46, tr. 235-236].
Cũng cần thấy rằng, người phương Đơng nĩi chung, người Việt Nam
nĩi riêng thường hay sử dụng các khác niệm: nhân sinh quan, triết lý sống,
đạo lý, đạo làm người với một hàm nghĩa tương tự nhau. Song thực chất, là
những hình thức lý luận của nhân sinh quan, chúng cĩ những sắc thái riêng,
33
phản ánh ý nghĩa và nội dung của phạm trù nhân sinh quan, với mục đích giáo
dục con người, khích lệ các cá nhân hay cộng đồng tham khảo để vận dụng
trong cuộc sống.
Bàn về các vấn đề thuộc phạm trù nhân sinh quan, các nhà triết học
phương Tây lại nhấn mạnh đến giác độ khoa học tự nhiên hoặc giác độ hoạt
động lý tính của con người để lý giải bản chất con người và các vấn đề khác
cĩ liên quan. Nếu như các nhà triết học duy vật đưa ra quan niệm về bản chất
vật chất tự nhiên của con người, coi con người cũng như vạn vật trong giới tự
nhiên khơng cĩ gì thần bí, đều được cấu tạo nên từ vật chất thì các nhà triết
học duy tâm lại lý giải bản chất lý tính của con người từ giác độ siêu tự nhiên.
Như vậy, cĩ thể hiểu một cách đơn giản nhất, nhân sinh quan là quan
niệm về con người và cuộc sống của con người, ví như: con người được sinh
ra từ đâu? tồn tại như thế nào? phương thức sống ra sao? ý nghĩa, giá trị của
cuộc sống con người là gì?...
Nhân sinh quan ra đời từ cuộc sống, là kết quả trực tiếp của quá trình
nhận thức, song, suy đến cùng, nĩ là kết quả của cả những yếu tố khách quan
và chủ quan, của cả hoạt động nhận thức và hoạt động thực tiễn.
Nhân sinh quan là một bộ phận cấu thành quan trọng của thế giới quan,
chịu sự quy định của thế giới quan. Nhân sinh quan thể hiện trên ba phương
diện chủ yếu là mục đích nhân sinh, thái độ nhân sinh và giá trị nhân sinh.
Nội dung của nhân sinh quan bao gồm: Thứ nhất, là những cái bên
trong - chính bản thân con người: con người hiểu về mình, nhận thức về mình,
cĩ những quan điểm, quan niệm của riêng mình; Thứ hai, là mối quan hệ của
con người và cái bên ngồi con người: con người cĩ sự hiểu biết những cái
bên ngồi mình và hiểu biết về mối quan hệ giữa cái bên trong con người với
thế giới bên ngồi.
Nhân sinh quan cĩ rất nhiều chức năng như chức năng nhận xét, chức
năng đánh giá, nhận thức, nhận định, trong số đĩ, chức năng định hướng
34
cho hoạt động của con người, định hướng cho tồn bộ cuộc sống của con
người, định hướng cho quan hệ con người, cho hệ giá trị con người là chức
năng quan trọng nhất.
Trong xã hội cĩ giai cấp, nhân sinh quan mang tính giai cấp. Giai cấp
“tiến bộ”, đang đi lên trong lịch sử cĩ nhân sinh quan lạc quan, tích cực,
cách mạng; ngược lại, nhân sinh quan của giai cấp đang đi xuống thường
mang tính bi quan, yếm thế. Nếu phản ánh đúng khuynh hướng khách quan
của lịch sử thì nhân sinh quan là nhân tố mạnh mẽ để cải tạo xã hội một cách
hợp lí; nếu phản ánh khơng đúng thì nĩ cĩ tác dụng ngược lại, cản trở xã hội
tiến lên [46, tr. 236].
Cĩ rất nhiều cách phân chia các loại hình của nhân sinh quan, cĩ thể
phân chia từ gĩc độ nhân sinh quan cá nhân hay nhân sinh quan cộng đồng,
cĩ thể phân chia dựa trên vai trị của nhân sinh quan (tích cực hay tiêu cực),
hoặc cĩ thể phân chia theo trình độ nhận thức và tư duy của con người.
Luận án này tiếp cận từ cách phân chia dựa trên vai trị của nhận thức
và lý tính, chúng tơi nhận thấy, trong quá trình phát triển của mình, nhân sinh
quan tồn tại dưới ba hình thức cơ bản: nhân sinh quan thần thoại, nhân sinh
quan tơn giáo, nhân sinh quan triết học.
* Nhân sinh quan thần thoại
Nhân sinh quan thần thoại hình thành và phát triển trong giai đoạn đầu
của xã hội lồi người. Nhân sinh quan thần thoại phản ánh quan niệm của con
người thời cổ về nguồn gốc thế giới và đời sống con người, trong đĩ, các yếu
tố như tri thức và tình cảm, lý trí và tín ngưỡng, hiện thực và tưởng tượng, cái
hư ảo và cái thật hịa quyện vào nhau.
Nhân sinh quan thần thoại thể hiện chủ yếu qua các câu chuyện thần
thoại như: Prometheus và nguồn gốc lồi người (thần thoại Hy Lạp); Nữ Oa
(thần thoại Trung Quốc); Lạc Long Quân - Âu Cơ (thần thoại Việt Nam)
Nội dung của chúng cĩ sự pha trộn giữa thần và người, giữa thật và ảo, trật tự
35
khơng gian và thời gian bị đảo lộn khơng tự giác. Nhân sinh quan thần thoại
thể hiện trình độ nhận thức thấp, chủ yếu ở cấp độ nhận thức cảm tính nên
những gì trừu trượng thường được con người hình dung dưới những sự vật
hữu hình, cụ thể.
Nội dung của nhân sinh quan thần thoại chủ yếu bàn về nguồn gốc ra đời
của lồi người. Theo huyền sử Hy Lạp, khi trái đất cịn đang trong cảnh hỗn
mang tăm tối, anh em Prơ-mê-tê (Prometheus) và Ê-pi-mê-tê (Epimetheus)
được Thần Dớt (Zeus) giao cho nhiệm vụ cai quản trái đất, sáng tạo ra con
người. Hai Anh em Prơ-mê-tê đã lấy đất sét trộn với nước nặn thành hình
muơn lồi. Sau mười hai ngày đêm, Prơ-mê-tê hịan thành tác phẩm “người
đàn ơng” theo hình dáng các vị Thần. Vì muốn trao một đặc quyền gì đĩ cho
con người, Prơ-mê-tê bèn trộm lấy lửa của thần Dớt đem xuống trần gian trao
cho những sinh linh yêu quí. Lửa thắp sáng và sửa ấm. Nhờ đĩ mà con người
ngày càng phát triển [92, tr. 22-23].
Cịn theo thần thoại Trung Quốc, Nữ Oa là vị thần sáng tạo ra con
người. Tương truyền sau khi anh hùng Bàn Cổ khai thiên lập địa, Nữ Oa đã
du ngoạn đĩ đây giữa Trời Đất. Buồn chán vì cảnh vật khơng sinh động, hoạt
bát, Bà quyết định dùng bùn dưới sơng Hịang Hà nặn những người đất theo
hình dạng của mình. Nữ Oa thổi hơi tiên vào những người đất nhỏ này, khiến
chúng cĩ thể đứng thẳng người, biết đi lại, biết nĩi. Những con người này vây
quanh Nữ Oa nhảy múa, reo hị, mang lại sức sống cho Mặt Đất [12, tr. 7].
Hay như truyền thuyết con người được sinh ra từ sự kết hợp của 12 bà
Mụ (truyện Mười hai bà Mụ - thần thoại Việt Nam). Mười hai bà Mụ là
những vị thần cĩ trách nhiệm nắn lại cơ thể cho một người nào đĩ khi được
lệnh đầu thai, mỗi bà Mụ lo một việc: người nắn tai, người nắn mắt, người
nắn tứ chi, người dạy trẻ cười, người dạy trẻ nĩi Truyện Lạc Long Quân -
Âu Cơ cho ta biết thủy tổ sinh ra dân tộc Việt Nam từ bọc trăm trứng. Thần
thoại Đẻ đất đẻ nước của người Mường thì cho rằng đơi chim Tùng, chim Tĩt
36
(cĩ nơi cịn gọi là chim Ây cái Ứa hoặc chim Tráng, chim Trị...) đẻ ra trứng
và từ trứng nở ra người
Nhân sinh quan thần thoại cũng bước đầu đề cập đến những quan niệm
về phương thức sống, lẽ sống, giá trị cuộc sống của con người. Đĩ là Sử thi
thần thoại Ẳm ẹt luơng của dân tộc Thái kể lại quá trình đấu tranh gian khổ
của lồi người nhằm sinh tồn và phát triển; truyện Cây thuốc thần, Chú Cuội
cung trăng... - những thần thoại nĩi tới ước mơ sống sung túc, lao động khơng
vất vả, về cuộc sống chống lại được bệnh tật và con người được trở nên bất tử
nhờ các giống cây thần diệu; là hình tượng người anh hùng làng Giĩng giết
giặc Ân được kể trong truyện Thánh Giĩng, hình tượng Thạch Sanh trong
truyện Thạch Sanh (với khá nhiều yếu tố thần thoại lẫn cổ tích) cĩ chiến cơng
diệt yêu quái, đã phản ánh cuộc đấu tranh với sự cường điệu đầy tính thần kỳ
về các anh hùng của dân tộc Việt, nhằm mang lại nền thái bình cho đất nước...
Cĩ thể nĩi, cùng với thế giới quan thần thoại, nhân sinh quan thần thoại
được xem là hình thái ý thức xã hội đầu tiên của lồi người, trong đĩ đã bước
đầu khái quát những cảm nhận về thế giới và con người của người nguyên
thủy, với các yếu tố tri thức và cảm xúc, lý trí và tín ngưỡng, hiện thực và
tưởng tượng, cái thật và ảo, cái thần và người hịa quyện vào nhau.
* Nhân sinh quan tơn giáo
Nhân sinh quan tơn giáo là sự phản ánh thế giới và con người một cách
hư ảo, trong đĩ, niềm tin tơn giáo đĩng vai trị quyết định, tín ngưỡng cao hơn
lý trí, cái hư ảo lấn át cái thực. Nhân sinh quan tơn giáo thể hiện qua giáo lư
của các tơn giáo.
Nhân sinh quan tơn giáo ra đời khi trình độ nhận thức và khả năng hoạt
động thực tiễn của con người cịn rất thấp nên con người bất lực, sợ hãi trước
những lực lượng tự nhiên cũng như những lực lượng xã hội, dẫn đến việc họ
thần thánh hố chúng, quy chúng về sức mạnh siêu tự nhiên và tơn thờ chúng.
37
Nội dung của nhân sinh quan tơn giáo chủ yếu bàn về con người trong
các mối quan hệ của mình với thế giới các thánh, thần, trong đĩ nhấn mạnh
đến những lời răn, đe về đạo lý, đạo làm người.
Trong các tơn giáo phương Đơng, vấn đề con người, nội tâm con
người, mối quan hệ con người với tự nhiên, mối quan hệ giữa con người với
con người trên ba chiều cạnh (cá nhân, gia đình, xã hội) là nội dung cốt lõi
nhất của nhân sinh quan tơn giáo. Chẳng hạn, bàn về thế giới nội tâm con
người cĩ lẽ chưa cĩ tơn giáo nào đi sâu như Phật giáo. Phật giáo nghiên cứu
những cái bản năng, dục tính, ngã, siêu ngã, tiềm thức trong con người, để từ
đĩ đi đến kết luận: Tham, Sân, Si là biểu hiện của tự ngã sai lầm; vơ tham, vơ
sân, vơ si là biểu hiện của cái vơ ngã. Đây là hai mặt của một nhân cách. Do
hai mặt này, nhân cách khơng thiện và nhân cách thiện đều cĩ mặt trong cùng
một cá nhân [77, tr. 89]. Lý thuyết của Phật giáo lấy con người là trung tâm,
thấy được nỗi khổ của chúng sinh và mong muốn chúng sinh thốt khỏi vịng
bể khổ bằng cách hướng con người tu tập thân tâm, vượt qua mọi cám dỗ để
hịan thiện dần nhân cách.
Trong các tơn giáo phương Tây, Cơng giáo là tơn giáo quan tâm nhiều
đến vấn đề gia đình, về mối quan hệ vợ - chồng, mối quan hệ bố mẹ - con
cái. Nhìn chung những giáo lý của nĩ về vấn đề này rất phù hợp với tâm lý
của người phương Đơng nĩi chung và người Việt Nam nĩi riêng vì nĩ cổ vũ
cho sự hiếu kính, vâng lời, phụng dưỡng, đền đáp cơng ơn sinh thành dưỡng
dục của cha mẹ. Cha mẹ khơng cĩ quyền ép duyên con cái mà chỉ định
hướng, giáo dục và chỉ dẫn con cái trong việc hơn nhân. Hơn nhân và tình
yêu vợ chồng đều phải hướng vào việc truyền sinh và giáo dục, con cái được
quyền yêu thương, đĩn nhận và dạy dỗ... Thêm nữa, Giáo Hội Cơng giáo
thực sự quan tâm đến vấn đề mơi sinh, vấn đề đĩ nằm trong phạm vi giáo
huấn của Giáo Hội. Trong quan niệm của họ, thiên nhiên là mĩn quà mà
Chúa ban tặng cho con người, nên con người phải cĩ trách nhiệm đĩn nhận,
38
nâng niu và bảo vệ nĩ như bảo vệ các giá trị luân lý của chính đời sống cá
nhân mình [77, tr. 96-99].
Cĩ thể nĩi, những tư tưởng nhân sinh trong giáo lý các tơn giáo chính
là tài sản quý giá mà tơn giáo đĩng gĩp cho nhân loại. Nhân sinh quan tơn
giáo bao giờ cũng hướng đến xác lập một hệ giá trị, chuẩn mực đạo đức giúp
điều chỉnh hành vi con người trong những hịan cảnh nhất định, tạo ra một lối
sống thánh thiện, lấy liên đới giữa đấng sáng thế với con người, liên đới giữa
con người với con người làm lẽ sống.
* Nhân sinh quan triết học
Nhân sinh quan triết học là nhân sinh quan cĩ hạt nhân lý luận là các
triết thuyết. Nhân sinh quan triết học được thể hiện qua các học thuyết triết
học, nĩ là bộ phận quan trọng nhất vì chi phối tất cả những quan điểm, quan
niệm khác của nhân sinh quan con người. Bởi lẽ, trong lịch sử tư tưởng nhân
loại, khi nhân sinh quan thần thoại và nhân sinh quan tơn giáo bế tắc, khơng
giải quyết được các vấn đề nhân sinh thì nhân sinh quan triết học sẽ thể hiện
chức năng định hướng và dẫn dắt tư duy cho con người. Nhân sinh quan triết
học ra đời khi nhận thức của con người đã đạt đến trình độ cao của sự khái
quát hố, trừu tượng hố và khi các lực lượng xã hội đã ý thức được sự cần
thiết phải cĩ định hướng về tư tưởng để chỉ đạo cuộc sống.
Tính chất của nhân sinh quan triết học bị chi phối bởi tính chất của các
học thuyết triết học, nghĩa là, nếu như lập trường triết học là duy vật thì nhân
sinh quan ấy là nhân sinh quan duy vật, ngược lại, nhân sinh quan duy tâm là
sản phẩm của Chủ nghĩa duy tâm. Bản thân Chủ nghĩa duy vật cũng tồn tại
nhiều loại hình, cĩ thứ duy vật chất phát, duy vật siêu hình, hay duy vật biện
chứng thì tương ứng với nĩ sẽ là nhân sinh quan chất phát, nhân sinh quan
siêu hình hoặc nhân sinh quan biện chứng. Học thuyết triết học là duy tâm
chủ quan hay duy tâm khách quan thì nhân sinh quan đĩ sẽ là nhân sinh quan
duy tâm chủ quan hoặc nhân sinh quan duy tâm khách quan [46, tr. 236].
39
Nhân sinh quan triết học bàn rất nhiều vấn đề liên quan đến con người
như: nguồn gốc của con người, phương thức sống của con người, lối sống của
con người, lý tưởng sống của con người với những hệ thống quan điểm lý
luận tương đối rõ ràng, cụ thể. Mỗi một trường phái triết học khác nhau đều
đưa ra những triết lý nhân sinh theo quan điểm của mình, nhưng tựu chung lại
đều hướng đến việc luận giải về cuộc đời con người và biện pháp giải phĩng
tồn diện con người.
Nhân sinh quan triết học Mác - Lênin được xem là học thuyết tiến bộ
về con người, bởi đĩ là nhân sinh quan triết học duy vật biện chứng. Chủ
nghĩa duy vật biện chứng tồn tại với tư cách là cơ sở lý luận của nhân sinh
quan khoa học.
Chủ nghĩa Mác là khoa học về các quy luật phát triển của lịch sử,
chỉ rõ hoạt động của con người cĩ tác dụng cải tạo tự nhiên, cải tạo
xã hội, và qua đĩ mà tự cải tạo, tự nâng mình lên, đĩ là nhân tố
quyết định sự tiến bộ xã hội. Vì vậy, sứ mệnh của mỗi người là thúc
đẩy những quá trình phát triển xã hội đã chín muồi, những hoạt
động lao động sáng tạo và cải tạo xã hội, đem lại một xã hội tốt đẹp
tự do, ấm no, hạnh phúc cho mọi người, đồng thời qua đĩ mà hịan
thiện những năng lực trí tuệ, tình cảm của bản thân mình. Đĩ là
nhân sinh quan cách mạng, mang tính khoa học của giai cấp vơ sản
và của con người mới trong chế độ xã hội chủ nghĩa [46, tr. 236].
Nhìn chung, các quan niệm nêu trên đã phần nào chỉ ra hoặc gĩp phần
bổ sung, làm sáng tỏ phạm trù nhân sinh quan. Các quan niệm đĩ tiếp cận vấn
đề nhân sinh quan theo nhiều hướng: kết cấu, vai trị, chức năng, loại hình
giúp chúng tơi cĩ cái nhìn cụ thể, đa chiều về nhân sinh quan.
Kế thừa các hướng nghiên cứu đĩ, trong luận án này, chúng tơi sử dụng
khái niệm nhân sinh quan theo nghĩa: Nhân sinh quan là một phạm trù dùng
40
để chỉ những quan niệm, quan điểm mang tính định hướng của con người về
mối quan hệ của họ với gia đình, xã hội và mơi trường tự nhiên.
2.1.2. Nhân sinh quan người Việt
Sau khi nghiên cứu các loại hình nhân sinh quan của con người trong
lịch sử, từ nhân sinh quan thần thoại, nhân sinh quan tơn giáo đến nhân sinh
quan triết học, và, với mục đích tìm hiểu nhân sinh quan/triết học của người
Việt qua các loại hình Folklore, chúng tơi muốn dành một tiểu tiết để khái
quát quá trình hình thành và một số đặc thù nhân sinh quan triết học của
người Việt, những đặc điểm nhân sinh này sẽ được minh chứng cụ thể qua
một số lễ hội và tín ngưỡng dân gian Việt Nam ở chương sau.
Trước hết, khái niệm người Việt trong luận án này dùng để chỉ tất cả
cộng đồng người Việt Nam chứ khơng phải hiểu theo nghĩa là tộc người Việt
(người Kinh). Do vậy, nhân sinh quan người Việt là nhân sinh quan của cộng
đồng dân tộc Việt Nam.
Thứ đến, để xác định được những đặc thù của nhân sinh quan người
Việt, chúng ta khơng thể khơng nhìn lại lịch sử dân tộc Việt Nam, vì đặc thù
nhân sinh quan người Việt đi cùng hành trình của lịch sử dân tộc, với những
dấu mốc sau: (1) Giai đoạn mở đầu của lịch sử dân tộc, gắn với thời kỳ Hùng
Vương dựng nước cho đến khởi nghĩa Hai Bà Trưng. Thời kỳ này, tư tưởng
dân tộc mang sắc thái ngọn nguồn bản địa; (2) Giai đoạn Bắc thuộc với chính
sách Hán hố, sự trỗi dậy của ý thức/tư tưởng dân tộc để chống lại xu hướng
Hán hĩa; (3) Giai đoạn tự chủ, với các triều đại: Lý, Trần, Lê, Nguyễn, tư duy
dân tộc chịu ảnh hưởng nhiều từ các triết thuyết Nho - Phật - Đạo đến từ
Trung Hoa và Ấn Độ; (4) Giai đoạn ảnh hưởng của văn hĩa phương Tây
(Pháp, Mỹ) và thời đại Hồ Chí Minh gắn với phong trào giải phĩng dân tộc và
những biến đổi to lớn của đất nước sau 1975, tư duy dân tộc chịu ảnh hưởng
của ý thức hệ mác xít và các trào lưu tư tưởng phương Tây.
41
Sự gắn kết đặc thù nhân sinh quan người Việt với những giai đoạn lịch
sử như trên, chúng tơi cĩ thể chỉ ra một số đặc điểm sau:
Một là, đặc thù nhân sinh quan người Việt thường gắn bĩ chặt chẽ với
vận mệnh của dân tộc, các triết lý nhân sinh của người Việt đều giải đáp
những vấn nạn mà người Việt gặp phải trên con đường dựng nước và giữ
nước của họ. Chẳng hạn, mỗi khi tổ quốc lâm nguy, tinh thần yêu nước trở
thành giá trị nổi trội, tạo nên sức mạnh vơ biên giúp chúng ta chiến thắng kẻ
thù. Yêu nước trở thành triết lý nhân sinh tiêu biểu của người Việt, là “sợi chỉ
đỏ” xuyên suốt tồn bộ quá trình lịch sử của dân tộc Việt Nam.
Tâm thức Việt về một hệ thống thần kỳ sơng núi, khí thiêng non
nước luơn ủng hộ sự nghiệp đấu tranh chống phương Bắc ngày càng
hịan thiện và phổ biến đã trở thành một sức mạnh tinh thần mãnh
liệt nuơi dưỡng ý chí đấu tranh giành độc lập tự chủ của người Việt
qua cả nghìn năm. Tất cả những khía cạnh tinh thần đĩ đã làm hình
thành một nét đặc trưng cho tư duy Việt, cho thế sinh Việt trong
suốt thời kỳ chống Bắc thuộc kéo dài hơn 10 thế kỷ [11, tr. 79].
Hai là, nhân sinh quan người Việt luơn gắn liền với các điều kiện sinh
tồn của họ, đĩ là nơng nghiệp (lúa nước), nơng thơn (thiết chế làng - xã) và
con người (nơng dân), được triển khai trong một hệ thống hịan chỉnh trên mọi
chiều kích của các mối quan hệ: lao động - sản xuất, mơi trường thiên nhiên,
mơi trường xã hội, gia đình, dịng tộc, họ hàng Do cuộc sống phụ thuộc vào
các yếu tố “thuần nơng” như vậy, người Việt luơn cĩ xu hướng hài hịa, yêu
quý, tơn trọng và sùng bái tự nhiên. Lối sống “hịa mình” với thiên nhiên trở
thành một triết lý sống rất đặc trưng của người Việt.
Ba là, nhân sinh quan người Việt là mẫu số chung của phép cộng các
triết lý nhân sinh của các tộc người - mà các tộc người này trong quá trình
cộng cư lâu dài, đã diễn ra sự đan xen văn hĩa, với dịng chủ lưu, cốt lõi là
văn hĩa Việt/Kinh, hấp lực các nền văn hĩa của các tộc người khác xung
42
quanh mình nhưng khơng phá vỡ diện mạo riêng cĩ của nĩ. Là dân tộc chủ
thể, cĩ ưu thế trong tiếp thu, truyền bá văn hĩa bên ngồi, người Kinh (Việt)
đã ảnh hưởng sâu sắc đến sự biến đổi văn hĩa của nhiều tộc người, song
khơng làm mất đi bản sắc của các tộc người đĩ. Ngược lại, cĩ những nét văn
hĩa của người Kinh được thẩm thấu, lan tỏa vào cộng đồng các dân tộc ít
người, khiến cho văn hĩa Việt đa dạng trong tính thống nhất. Cĩ thể nhận
thấy rõ điều này qua loại hình tín ngưỡng dân gian. Bên cạnh các tín ngưỡng
đặc trưng của dân tộc mình (ảnh hưởng của các tơn giáo, tín ngưỡng nguyên
thủy như tơ tem giáo, bái vật giáo), đồng bào các dân tộc ít người cũng tiếp
thu và lưu truyền các tín ngưỡng dân gian phổ biến trong cộng đồng người
Việt/Kinh như tín ngưỡng thờ cúng tổ tiên, tín ngưỡng thờ Mẫu, tín ngưỡng
phồn thực, tín ngưỡng thờ các loại thần (nhiên thần, thành hịang làng, thần
anh hùng dân tộc)
Bốn là, nhân sinh quan người Việt thường được biểu đạt qua hai dịng:
văn hĩa dân gian (Folklore) và văn hĩa bác học hàn lâm (Academic). Cả hai
dịng ấy đều cĩ sự đan xen, thẩm thấu, ảnh hưởng lẫn nhau, tạo ra những giá
trị và những bản sắc cho nhân sinh quan người Việt.
Năm là, thái độ trọng nghĩa - tình là truyền thống của văn hĩa Việt
Nam, nĩ được phản ánh khá đậm nét trong nhân sinh quan người Việt. Trong
ứng xử, người Việt luơn nêu cao triết lý nhân nghĩa, thuỷ chung: Ăn quả nhớ
kẻ trồng cây; Uống nước nhớ nguồn; quý trọng con người: Người sống, đống
vàng; Người làm nên của, của khơng làm nên người...; trọng tình làng nghĩa
xĩm: Bán anh em xa mua láng giềng gần; Người xưa đã nĩi chớ quên/Láng
giềng tắt lửa tối đèn cĩ nhau/Giữ gìn tình nghĩa tương giao/Sẵn sàng giúp đỡ
khác người nào thân
Sáu là, vì nằm giữa hai nền văn minh Trung Hoa và Ấn Độ, trong quá
trình phát triển, nhân sinh quan người Việt đã tiếp thu (dù cưỡng bức hay chủ
động) nhiều yếu tố trong triết lý nhân sinh của hai nền văn hĩa trên qua hệ
43
thống các học thuyết triết học của nĩ như Phật giáo, Đạo giáo, Nho giáo và
sau này là Kitơ giáo và chủ nghĩa Mác - Lênin đến từ phương Tây. Nhân sinh
quan người Việt được hình thành trước thời kỳ Hán hĩa, cĩ bản sắc, sắc thái
riêng. Khi các tơn giáo phương Đơng du nhập vào, chúng được tiếp biến để
thích nghi, hịa đồng với cái bản địa. Sự dung hợp các luồng tư tưởng, tơn
giáo ấy đã hình thành ở người Việt một thứ nhân sinh quan bao dung, hịa
đồng. Đĩ là sự bao dung, hịa đồng, yêu mến thiên nhiên, vũ trụ; bao dung,
hịa đồng trong hệ thống những triết lý khác nhau từng tồn tại lâu dài trong
đời sống dân tộc (Phật giáo, Nho giáo, Đạo, Cơng giáo, tín ngưỡng cổ truyền,
tư duy khoa học hiện đại - chủ nghĩa Mác - Lênin...); bao dung, hịa đồng
trong các thể chế, quan hệ ứng xử giữa con người, giữa các thế hệ; bao dung,
hịa đồng giữa các dân tộc trong lịng đất nước, và các dân tộc trên thế giới;
thậm chí, cịn là sự bao dung với kẻ thù, với những người cĩ quan hệ sở hữu
khác nhau, cĩ quá khứ chính trị đối lập nhau
một nhân sinh quan chất phác, hồn nhiên, một lối sống hịa
hợp, bình đẳng với tự nhiên và con người, dung hợp, chấp nhận mọi
mặt đối lập tồn tại trong thế giới như là một thực tại tất yếu, vốn
cĩ,, đĩ là những yếu tố mầm mống triết học cơ bản nhất mà người
dân Việt trước Bắc thuộc đã đạt được trên cơ sở các thành tựu văn
hĩa, văn minh rực rỡ của thời kỳ Đơng Sơn [11, tr. 50].
2.2. FOLKLORE VIỆT NAM – KHÁI NIỆM, ĐẶC TRƯNG, CÁC LOẠI HÌNH
2.2.1. Khái niệm
Thuật ngữ Folklore lần đầu tiên được đưa ra trong tạp chí The
Athemneum của Anh năm 1846 bởi William J. Thoms (bút danh Ambrose
Merton). Bài báo khoa học ngay lập tức gây được tiếng vang và khái niệm
này được chấp nhận, trở thành một xu hướng nghiên cứu mới và phát triển
rộng khắp. Cũng như nhiều lí thuyết, nhiều tơn giáo, nhiều mơn học khác trên
thế giới, khi đã lan tỏa trong khơng gian, thời gian, qua nhiều thực tế khác
44
nhau thì Folklore cũng được hiểu và vận dụng rất khác nhau. Năm 1972, nhân
kỉ niệm 100 năm ngày Folklore, người ta thống kê cĩ rất nhiều cách hiểu
phong phú, thậm chí đối lập nhau, tranh luận với nhau về Folklore.
Folklore được định nghĩa là “kiến thức của nhân dân”, “trí tuệ của nhân
dân” (folk: đại chúng, nhân dân; lore: trí tuệ, trí khơn; Folklore = kiến thức, trí
tuệ của nhân dân). Folklore là tồn bộ những sáng tác cĩ tính chất nghệ thuật
của nhân dân trong mọi thời đại, tương đương với thuật ngữ văn nghệ dân
gian hoặc nghệ thuật dân gian. Hiểu rộng hơn, Folklore là văn hĩa dân gian,
văn hĩa của những con người mộc mạc, bình dị, gần với cộng đồng dân tộc.
Tại Hội nghị các nhà Folklore học thế giới lần đầu tiên được tổ chức ở
Pari (Pháp) vào tháng 9 năm 1937, định nghĩa Folklore được thơng qua, đĩ là:
Folklore là khoa học nghiên cứu tất cả những gì cĩ liên quan đến văn hĩa vật
chất, cấu trúc xã hội, truyền thống dân gian và văn học truyền miệng của nhân
dân [95, tr. 77].
Ở Việt Nam, quan niệm Folklore được du nhập vào cùng với việc
thành lập Viện Viễn Đơng bác cổ đầu thế kỉ XX. Từ đĩ cho đến năm 1945,
nĩ được hiểu theo nghĩa rộng. Sau năm 1954, nĩ được hiểu rất hẹp, gần như
chỉ nĩi đến Folklore ngơn từ (Văn học dân gian), cuối những năm 1970, hiểu
rộng ra là Nghệ thuật dân gian và hiện nay hiểu tương đương với Văn hĩa
dân gian. Việc quan niệm rộng hẹp và chuyển ngữ sang tiếng Việt khác nhau
như vậy là do sự thay đổi nhận thức của chúng ta về văn hĩa dân gian và
cũng do sự tiếp thu ảnh hưởng của các quan niệm Folklore từ các trường
phái khác nhau trên thế giới.
Trong những năm gần đây, nhiều học giả Việt Nam đã cĩ những
chuyên đề, cơng trình đề cập tới quan niệm, ý nghĩa của Folklore/văn hĩa dân
gian trong sinh hoạt văn hĩa cộng đồng xưa và nay, như Trần Quốc Vượng,
Ngơ Đức Thịnh, Đinh Gia Khánh v.v...
45
Tác giả Trần Quốc Vượng quan niệm:
Nĩi Folklore Việt Nam là nĩi tổng thể mọi sáng tạo, mọi thành tựu
văn hĩa của dân gian ở mọi nơi, mọi thời, của mọi thành phần dân
tộc đang hiện tồn trên lãnh thổ Việt Nam. Nĩ cĩ thể là một ngơi
đền, một cái đình mà cũng cĩ thể là một mẩu huyền thoại hay một
câu chuyện thần kỳ. Nĩ cĩ thể là một cái lư hương gốm sứ cổ, một
cỗ kiệu sơn son thếp vàng ngày xưa mà cũng cĩ thể là một câu tục
ngữ cổ, một khúc dân ca Sáng tạo dân gian bao trùm mọi lĩnh
vực đời sống, từ đời sống làm ăn thường ngày (ăn, mặc, ở, đi lại)
đến đời sống vui chơi, buơng xả (thể thao dân gian, võ, vật, đánh
cầu, hát phết), hát hị (hát đị đưa, hị giã gạo, đúm, ví, xoan, ghẹo),
đến đời sống tâm linh (giỗ, tế, lễ hội) [95, tr. 124].
Quan điểm của tác giả Ngơ Đức Thịnh là:
Khoa Folklore học tập trung nghiên cứu bộ phận văn hĩa nghệ
thuật dân gian, đặt trong mối quan hệ hữu cơ với những sáng tạo
văn hĩa nghệ thuật bác học, chuyên nghiệp, trong đĩ dịng dân
gian là cội nguồn, là cơ tầng của văn hĩa dân tộc. Văn hĩa nghệ
thuật dân gian phân hợp từ ba bộ phận chính, đĩ là I/ Nghệ thuật
ngơn từ; II/ Nghệ thuật diễn xướng dân gian, bao gồm cả lễ hội,
nghi lễ được coi như là một loại hình diễn xướng đặc thù và III/
Nghệ thuật tạo hình [95, tr. 128].
Đặc biệt, tác giả Đinh Gia Khánh - một trong những chuyên gia hàng
đầu về văn hĩa dân gian ở Việt Nam đã đưa ra luận thuyết cơ bản về văn hĩa
dân gian, đĩ là: “văn hĩa dân gian bao gồm tồn bộ văn hĩa vật chất và tinh
thần (culture intellectuelle) của dân chúng được tiếp cận dưới giác độ thẩm
mỹ (apporoche esthétique)” [54, tr. 19]. Những quan niệm, định nghĩa về văn
hĩa dân gian và các thành tố văn hĩa dân gian mà tác giả Đinh Gia Khánh
46
nêu lên là cơ sở cho các nhà nghiên cứu văn hĩa dân gian tham khảo và tiếp
tục làm sáng tỏ những vấn đề lý luận cơ bản về Folklore ở Việt Nam.
Tĩm lại, ở Việt Nam, Folklore được dịch là văn hĩa dân gian bao hàm
những ý nghĩa sau: hiểu theo nghĩa rộng là những giá trị vật chất và tinh thần
do dân chúng sáng tạo (folk culture); hiểu theo nghĩa hẹp là những sáng tạo
của dân chúng mang tính nghệ thuật.
2.2.2. Đặc trưng
Văn hĩa dân gian Việt Nam cĩ truyền thống hình thành, và phát triển
từ rất lâu đời, bắt nguồn từ xã hội nguyên thủy. Đến thời kỳ phong kiến tự
chủ, cùng với sự ra đời và phát triển của văn hĩa bác học, chuyên nghiệp,
cung đình thì văn hĩa dân gian vẫn tồn tại và giữ vai trị quan trọng đối với
sự phát triển của văn hĩa cũng như xã hội Việt Nam, đặc biệt là với quần
chúng lao động.
Truyền thống lịch sử và xã hội Việt Nam đã quy định những nét đặc
trưng của văn hĩa nước ta. Đĩ là văn hĩa xĩm làng trội hơn văn hĩa đơ
thị, văn hĩa truyền miệng lấn át văn hĩa chữ nghĩa, ứng xử duy tình nặng hơn
duy lý, chủ nghĩa yêu nước trở thành cái trục của hệ ý thức Việt Nam, nơi sản
sinh và tích hợp các giá trị văn hĩa Việt Nam Truyền thống đĩ cũng tạo
nên những nét đặc trưng cho Folklore Việt Nam, là tính nguyên hợp, tính tập
thể và tính nghiệm sinh.
Tính nguyên hợp của Folklore biểu hiện ở sự hịa lẫn những hình thức
khác nhau của ý thức xã hội trong các thể loại của nĩ. Cĩ thể nĩi rằng,
Folklore là bộ “bách khoa tồn thư” của nhân dân. Tính nguyên hợp về nội
dung của Folklore phản ánh tình trạng nguyên hợp về ý thức xã hội thời
nguyên thuỷ, khi mà các lĩnh vực sản xuất tinh thần chưa được chuyên mơn
hố. Trong các xã hội thời kỳ sau, mặc dù các lĩnh vực sản xuất tinh thần đã
cĩ sự chuyên mơn hố nhưng Folklore vẫn cịn mang tính nguyên hợp về nội
dung. Bởi vì đại bộ phận nhân dân, tác giả văn hĩa dân gian, khơng cĩ điều
47
kiện tham gia vào các lĩnh vực sản xuất tinh thần khác nên họ thể hiện những
kinh nghiệm, tri thức, tư tưởng, tình cảm của mình trong Folklore.
Tính nguyên hợp của văn hĩa dân gian cịn biểu hiện ở chỗ: Văn hĩa
dân gian khơng chỉ là nghệ thuật ngơn từ thuần túy mà là sự kết hợp của nhiều
phương tiện nghệ thuật khác nhau như âm nhạc, điệu bộ và các hình thức diễn
xướng. Sự kết hợp này là tự nhiên, vốn cĩ ngay từ khi tác phẩm mới hình
thành. Tính nguyên hợp cịn thể hiện ở tính đa chức năng, nĩ khơng chỉ là
nghệ thuật biểu diễn dân gian mà cịn là nghệ thuật tạo hình, hội họa, điêu
khắc. Như vậy, trong Folklore, ngơn từ là yếu tố cơ bản nhưng khơng phải
duy nhất.
Biểu hiện cụ thể của tính nguyên hợp là tính biểu diễn. Văn hĩa dân
gian cĩ ba dạng tồn tại: tồn tại ẩn (tồn tại trong trí nhớ của tác giả d...hướng,
giám sát, chỉ đạo ở những lễ hội của một khơng gian văn hĩa mang tính làng
xã. Nhưng ở những lễ hội quy mơ lớn thì Nhà nước phải tổ chức theo nguyên
tắc Nhà nước và nhân dân cùng làm, vừa tạo ra cơ sở pháp lý vừa phát huy
sức mạnh của chủ thể văn hĩa. Khơng nên cĩ quan điểm cứng nhắc, lấy các
nguyên lý tổ chức lễ hội truyền thống làm khuơn mẫu cho việc tổ chức các lễ
hội dân gian đương đại. Ở đây, cần bám sát thực tiễn, tổng kết thực tiễn trên
cơ sở lý luận về quản lý văn hĩa, trong đĩ, cần đặc biệt nhấn mạnh vai trị chủ
thể của cộng đồng người dân tổ chức lễ hội. Chỉ cĩ sự kết hợp tốt giữa chính
quyền và người dân cộng đồng, cĩ sự tham gia của du khách, mới giúp cho
việc tổ chức lễ hội được thuận lợi và đạt hiệu quả cao nhất.
Để đảm bảo cho các lễ hội thực sự cĩ ý nghĩa, cần ngăn chặn triệt để
các hoạt động mê tín dị đoan, các tệ nạn cờ bạc biến tướng, chống mọi biểu
143
hiện thương mại hĩa lễ hội bằng việc đặt hịm cơng đức bừa bãi. Quản lý,
theo dõi và khơng để làm phát sinh những khoản thu phí khơng hợp lý, trái
quy định. Khâu tổ chức các lễ hội phải cĩ kịch bản được dàn dựng, thống nhất
kỹ lưỡng từ trước. Kết hợp hài hịa giữa phần lễ và phần hội, cĩ sự kiểm duyệt
của các cơ quan văn hĩa cĩ thẩm quyền. Theo đĩ, phần “lễ” phải thể hiện
được tinh hoa, ý nghĩa, bản sắc, tạo được khơng khí thiêng liêng, trang trọng,
loại bỏ các hủ tục phiền hà. Phần “hội” cần cĩ thêm nhiều trị chơi giải trí
lành mạnh, các hoạt động văn hĩa, thể thao mang tính giáo dục, thẩm mỹ cao.
Ban tổ chức các lễ hội cần xây dựng được các phương án bảo vệ, đảm
bảo an ninh trật tự và giữ gìn vệ sinh mơi trường, cảnh quan trong suốt thời
gian lễ hội diễn ra. Tổ chức và quản lý tốt các lễ hội được tổ chức trên địa bàn
cả nước là thiết thực bảo vệ và phát huy giá trị của các di sản văn hĩa cổ
truyền các dân tộc. Đĩ cũng là hoạt động cĩ ý nghĩa trong cơng tác giáo dục
truyền thống, giúp cho các thế hệ hơm nay và mai sau tự hào về quê hương,
đất nước và luơn biết hướng về cội nguồn.
Các cơ quan thơng tin đại chúng cần làm tốt cơng tác tuyên truyền,
nâng cao nhận thức của tồn xã hội về thực hiện nếp sống văn minh trong lễ
hội; giới thiệu các giá trị lịch sử, văn hĩa của lễ hội, tơn vinh người tốt, việc
tốt, các điển hình tiên tiến, đồng thời, tạo dư luận mạnh mẽ, phê phán các
hành vi tiêu cực, vụ lợi trong tổ chức và quản lý lễ hội.
Kết luận chương 4
1. Lễ hội dân gian, tín ngưỡng dân gian là những loại hình văn hĩa gắn
với yếu tố “thiêng”, gĩp phần thỏa mãn nhu cầu tinh thần của đơng đảo quần
chúng nhân dân lao động. Người ta tìm đến lễ hội và tín ngưỡng dân gian
ngày một đơng, vừa để hướng tới những giá trị nhân sinh tốt đẹp được gửi
gắm, bảo lưu trong đĩ, vừa nhằm thỏa mãn những ước nguyện tâm linh của
mình. Lễ hội dân gian, tín ngưỡng dân gian thực sự trở thành “cầu nối” giúp
144
con người tìm về cội nguồn bản sắc dân tộc. Song, hiện nay, lễ hội và tín
ngưỡng dân gian đang cĩ những biến đổi theo chiều hướng gia tăng các yếu tố
tiêu cực, khiến cho “tính thiêng”, ý nghĩa đích thực của lễ hội và tín ngưỡng
bị lu mờ. Cĩ thể kể đến các xu hướng hoạt động của lễ hội và tín ngưỡng dân
gian ở Việt Nam hiện nay như: xu hướng “mê tín hĩa”; xu hướng thương mại
hĩa; xu hướng trần tục hĩa; xu hướng áp đặt, khuơn mẫu, đơn điệu hĩa; xu
hướng sân khấu hĩa; xu hướng nảy sinh các tệ nạn xã hội và các vấn đề xã hội
mới... Các xu hướng này gĩp phần tạo điều kiện cho những yếu tố tiêu cực
của nhân sinh quan truyền thống phát sinh trở lại, đồng thời làm cho cơng tác
quản lý lễ hội, tín ngưỡng dân gian thêm khĩ khăn, phức tạp.
2. Lễ hội và tín ngưỡng dân gian ẩn chứa nhiều triết lý sống của cha
ơng ta, được trao truyền qua bao thế hệ người Việt. Trước xu hướng biến đổi
của các loại hình văn hĩa dân gian này, liệu những giá trị tích cực của nhân
sinh quan truyền thống trong đĩ cĩ cịn được bảo tồn và phát huy? Hay sự
biến đổi mạnh mẽ của lễ hội và tín ngưỡng dân gian lại là cơ hội cho những
yếu tố tiêu cực trong nhân sinh quan truyền thống phát sinh trở lại? Trong
khuơn khổ luận án, chúng tơi mạnh dạn đề xuất một số nhĩm giải pháp mang
tính gợi mở nhằm khắc phục những hạn chế, phát huy những mặt tích cực của
nhân sinh quan người Việt qua lễ hội và tín ngưỡng dân gian. Đĩ là các nhĩm
giải pháp: (1) nhĩm giải pháp tăng cường các hoạt động tuyên truyền, giáo
dục để nhân dân hiểu rõ những giá trị văn hĩa, lịch sử của lễ hội và tín
ngưỡng dân gian; (2) nhĩm giải pháp tăng cường cơng tác quản lý Nhà nước
đối với hoạt động lễ hội và tơn giáo, tín ngưỡng; (3) nhĩm giải pháp đầu tư
cho nghiên cứu khoa học, xây dựng chương trình bảo tồn, khai thác và phát
huy các giá trị văn hĩa và nhân văn của lễ hội và tín ngưỡng dân gian; (4) một
số giải pháp cụ thể khác... Thực hiện tốt các giải pháp này, cơng tác quản lý lễ
hội và tín ngưỡng dân gian sẽ nâng cao hiệu quả, từ đĩ, những giá trị nhân
sinh tốt đẹp của lễ hội và tín ngưỡng sẽ được phục hồi và lan tỏa, những mặt
tiêu cực sẽ dần được khắc chế.
145
KẾT LUẬN
Nhân sinh quan người Việt là một bộ phận của triết học Việt Nam.
Trước đây chúng ta thường chú ý nghiên cứu nhân sinh quan triết học ở các
tác phẩm thành văn mà bỏ qua kho tàng văn hĩa dân gian/Folklore của dân
tộc. Nhiều triết lý ẩn tàng trong Folklore mà triết học khơng cĩ, do vậy,
nghiên cứu Folklore để mở rộng triết học Việt Nam. “Nếu xét ở bình diện phổ
thơng quần chúng thì nghiên cứu triết lý dân gian cịn quan trọng hơn cả
nghiên cứu triết lý bác học, triết học, bởi lẽ từ đây rất cĩ thể chúng ta lại tìm
ra, phát hiện được cái mạch ngầm sâu thẳm của dân tộc mà tư tưởng bác học
chỉ là sự thể hiện bề nổi, bên ngồi” [36, tr. 26]. Nghiên cứu nhân sinh quan
người Việt qua Folklore cũng nhằm củng cố giá trị, bản sắc văn hĩa dân tộc.
Trong phạm vi nghiên cứu, luận án đã làm rõ những nội dung sau:
1. Nhân sinh quan là những quan niệm, quan điểm mang tính định
hướng của con người về mối quan hệ của họ với gia đình, xã hội và mơi
trường tự nhiên. Nhân sinh quan người Việt là những quan niệm về cuộc
sống, gắn với các điều kiện nơng nghiệp, nơng thơn, nơng dân Việt Nam,
phản ánh mối quan hệ của người Việt trong các mối quan hệ: lao động - sản
xuất, mơi trường thiên nhiên, mơi trường xã hội, gia đình, dịng tộc, họ
hàng, trong đĩ, nổi bật là lối sống trọng nghĩa - tình, tinh thần hịa đồng,
bao dung... Nhân sinh quan người Việt được thể hiện một cách độc đáo qua
kho tàng Folklore/Văn hĩa dân gian Việt Nam.
2. Folklore là một chỉnh thể bao gồm nhiều thành tố như ngữ văn dân
gian, nghệ thuật dân gian, tri thức dân gian, tín ngưỡng, phong tục, lễ hội.
Việc lựa chọn lễ hội dân gian và tín ngưỡng dân gian để khảo cứu vì đây là
những loại hình Folklore “động”, bao chứa cả các giá trị vật thể và phi vật
thể, là hai loại hình văn hĩa dân gian mà trong đĩ “hội tụ” gần như đầy đủ
các loại hình văn hĩa dân gian khác, do đĩ, rất điển hình cho Folklore. Thêm
146
nữa, lễ hội dân gian và tín ngưỡng dân gian là đối tượng nghiên cứu của
nhiều ngành khoa học xã hội và nhân văn như văn hĩa học, dân tộc học, tơn
giáo học..., song lại là những loại hình Folklore ít được khai thác về mặt triết
học. Luận án nghiên cứu những triết lý nhân sinh của người Việt ẩn mình
trong lễ hội và tín ngưỡng, để qua đĩ, tìm ra được những tư tưởng triết học
bình dân của cha ơng ta thời xưa, gĩp phần bổ sung cho kho tàng tư duy của
dân tộc.
3. Các giá trị bản nhiên của người Việt, các triết lý nhân sinh của cha
ơng ta được thể hiện trong những loại hình văn hĩa dân gian độc đáo, đĩ là
triết lý yêu nước qua lễ hội đền Giĩng; tinh thần hiếu học qua lễ hội đền Tống
Trân; quan niệm về hơn nhân, gia đình hạnh phúc qua lễ hội Chử Đồng Tử; sự
tơn thờ, đề cao người phụ nữ qua tín ngưỡng thờ Mẫu; lối tư duy thực tế,
“phồn thịnh” qua tín ngưỡng phồn thực; lối sống “hài hịa” với tự nhiên qua
tín ngưỡng thờ nhiên thần... Những quan niệm sống, triết lý sống, nếp sống ấy
là truyền thống tốt đẹp mà cha ơng ta đã lưu truyền qua nhiều thế hệ, qua bao
thăng trầm, biến thiên của lịch sử, tạo nên bảng giá trị cho người Việt Nam
hơm nay.
4. Việt Nam đang trên bước đường hội nhập và phát triển, tất cả những
giá trị tốt đẹp của nhân sinh quan truyền thống đã từng được người Việt phát
huy trong suốt quá trình dựng nước và giữ nước. Giờ đây, những giá trị tích
cực đĩ vẫn giữ vị trí quan trọng trong đời sống tình cảm và quan hệ xã hội của
con người Việt Nam và tác động đối với sự phát triển của đất nước. Song,
trong điều kiện kinh tế thị trường và hội nhập quốc tế, những hạn chế của
nhân sinh quan truyền thống sẽ là rào cản khiến chúng ta thêm khĩ khăn trên
con đường xây dựng đất nước.
5. Từ việc phân tích các triết lý nhân sinh trong lễ hội và tín ngưỡng
dân gian, cùng với việc chỉ ra những giá trị tích cực, những hạn chế của nhân
147
sinh quan truyền thống người Việt qua các loại hình đĩ, luận án đưa ra dự báo
về các xu hướng biến đổi của lễ hội và tín ngưỡng dân gian ở Việt Nam hiện
nay, đồng thời, đề xuất một số nhĩm giải pháp nhằm phát huy những giá trị
tích cực, khắc phục những yếu tố tiêu cực trong nhân sinh quan người Việt.
Các xu hướng biến đổi của lễ hội và tín ngưỡng dân gian là: xu hướng “mê tín
hĩa”; xu hướng thương mại hĩa; xu hướng trần tục hĩa; xu hướng áp đặt,
khuơn mẫu, đơn điệu hĩa; xu hướng sân khấu hĩa; xu hướng nảy sinh các tệ
nạn xã hội và các vấn đề xã hội mới... Các nhĩm giải pháp là: (1) nhĩm giải
pháp tăng cường các hoạt động tuyên truyền, giáo dục để nhân dân hiểu rõ
những giá trị văn hĩa, lịch sử của lễ hội và tín ngưỡng dân gian; (2) nhĩm giải
pháp tăng cường cơng tác quản lý Nhà nước đối với hoạt động lễ hội và tơn
giáo, tín ngưỡng; (3) nhĩm giải pháp đầu tư cho nghiên cứu khoa học, xây
dựng chương trình bảo tồn, khai thác và phát huy các giá trị văn hĩa và nhân
văn của lễ hội và tín ngưỡng dân gian; (4) một số giải pháp cụ thể khác...
Cuộc đấu tranh để cải tạo, khắc phục những yếu tố tiêu cực từ nhân sinh quan
truyền thống nhằm xây dựng nhân sinh quan mới, lối sống mới phù hợp với
bối cảnh đất nước và thời đại cần một quá trình lâu dài, cùng với đĩ là sự nỗ
lực của cả cộng đồng (dưới sự dẫn dắt, định hướng và tầm nhìn chiến lược
của giới lãnh đạo quản lý xã hội; sự tiếp nhận những thành tựu tiến bộ và giáo
dục xã hội) và của mỗi cá nhân con người.
148
DANH MỤC CƠNG TRÌNH CỦA TÁC GIẢ ĐÃ CƠNG BỐ
LIÊN QUAN ĐẾN LUẬN ÁN
1. Phùng Thị An Na (2010), “Về vị trí của nền thần học triết học Tây Âu
trung cổ”, Tạp chí Triết học, (6), tr.67-70.
2. Phùng Thị An Na (2010), “Quan điểm của Lênin về nguồn gốc của tơn giáo
và ý nghĩa của quan điểm đĩ”, trong sách Di sản Lê nin trong thế giới
ngày nay và sự nghiệp đổi mới ở Việt Nam, Nxb Chính trị quốc gia,
Hà Nội, tr.726-730.
3. Phùng Thị An Na (2011), “Lại bàn về ảnh hưởng của tơn giáo đến tư duy
của người Việt”, Tạp chí Nghiên cứu tơn giáo, (10), tr.10-15.
4. Phùng Thị An Na, Đỗ Lan Hiền (2011), Ảnh hưởng của tư duy tơn giáo đến
lối sống của người Việt, Nxb Chính trị - Hành chính, Hà Nội, 174 tr.
5. Phùng Thị An Na (2012), “Tín ngưỡng thờ Nữ thần ở Việt Nam từ gĩc
nhìn “bình đẳng giới”, Tạp chí Nghiên cứu Tơn giáo, (8), tr.53-58.
6. Phùng Thị An Na (2013), “Những cống hiến của Ph.Ăngghen trong việc xây
dựng Chủ nghĩa vơ thần khoa học”, Tạp chí Lý luận chính trị, (3), tr.8-11.
7. Phùng Thị An Na (2013), “Dấu ấn phồn thực trong thơ Hồ Xuân Hương”,
Thơng tin Chủ nghĩa xã hội, Lý luận và thực tiễn, (40), tr.33-36.
8. Phùng Thị An Na (2015), “Bình đẳng giới” nhìn từ gĩc độ tơn giáo, tín ngưỡng -
trường hợp thờ Mẫu ở Việt Nam”, trong sách Văn hĩa tơn giáo với phát
triển bền vững ở Việt Nam, Nxb Lý luận chính trị, Hà Nội, tr.143-155.
9. Phùng Thị An Na (2015), “Đạo Tin lành trong cộng đồng người Thái vùng
Tây Bắc”, Tạp chí Khoa học xã hội Việt Nam, (1), tr.84-90.
10. Phùng Thị An Na (2015), “Mối quan hệ con người - tự nhiên qua tín ngưỡng
thờ nhiên thần ở Việt Nam”, Tạp chí Giáo dục lý luận, (7), tr.42-47.
11. Phùng Thị An Na (2015), “Triết lý nhân sinh của người Việt qua một số lễ
hội dân gian”, Tạp chí Lý luận chính trị và truyền thơng, (8), tr.55-59.
12. Phùng Thị An Na (2015), "Ngơi chùa trong đời sống người Khmer vùng
Tây Nam bộ", Tạp chí Khoa học xã hội Việt Nam, (11), tr.102-107.
149
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Đào Duy Anh (1998), Việt Nam văn hĩa sử cương, Nxb Đồng Tháp.
2. Toan Ánh (2000), Tín ngưỡng Việt Nam (quyển Hạ), Nxb Văn nghệ Thành
phố Hồ Chí Minh.
3. Toan Ánh (2005), Nếp cũ tín ngưỡng Việt Nam (quyển Thượng), Nxb Trẻ,
Thành phố Hồ Chí Minh.
4. Toan Ánh (2005), Hội hè đình đám, Nxb Trẻ, thành phố Hồ Chí Minh.
5. Phan Kế Bính (2005), Việt Nam phong tục, Nxb Văn hĩa thơng tin, Hà Nội.
6. Nguyễn Văn Bình (1999), “Cách xem xét, đánh giá con người thơng qua
các mối quan hệ xã hội cơ bản của Nho giáo - một giá trị cần kế thừa
và phát triển”, Tạp chí Triết học, (3).
7. Lê Ngọc Canh (2000), Văn hĩa dân gian Việt Nam - những thành tố,
Trường Cao đẳng Văn hĩa Tp. Hồ Chí Minh xuất bản.
8. Nguyễn Văn Chiến (2011), "Lễ hội thơn An Cầu một lễ hội tơn vinh việc
học", tại trang
thon-cau-mot-le-hoi-ton-vinh.html, [truy cập ngày 5/4/2014].
9. Nguyễn Trọng Chuẩn, Phạm Văn Đức và Hồ Sĩ Quý (Đồng chủ biên)
(2001), Tìm hiểu giá trị văn hĩa truyền thống trong quá trình cơng
nghiệp hố, hiện đại hố, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.
10. Nguyễn Trọng Chuẩn, Nguyễn Văn Huyên (Đồng chủ biên) (2002), Giá
trị truyền thống trước những thách thức của tồn cầu hố, Nxb
Chính trị quốc gia, Hà Nội.
11. Nguyễn Trọng Chuẩn (Chủ biên) (2006), Lịch sử tư tưởng triết học Việt
Nam, Tập 1 (Từ đầu cơng nguyên đến thời Trần và thời Hồ), Nxb
Khoa học xã hội, Hà Nội.
12. Hồng Chuyên (2013), Chuyện tranh Nữ Oa vá trời, Nxb Kim đồng, Hà Nội.
13. Hồng Đình Cúc (2008), “Vấn đề con người trong học thuyết Mác và
phương hướng, giải pháp phát triển con người cho sự nghiệp cơng
nghiệp hĩa, hiện đại hĩa ở Việt Nam hiện nay”, Tạp chí Triết học, (8).
150
14. Lý Khắc Cung (2010), Văn hĩa phồn thực Việt Nam, Nxb Dân trí, Hà Nội.
15. Hồng Tăng Cường (1996), “Mối quan hệ giữa con người và tự nhiên
trong quan niệm của Nho giáo”, Tạp chí Triết học, (6).
16. Ngơ Văn Doanh (2006), Lễ hội chuyển mùa của người Chăm, Nxb Trẻ,
thành phố Hồ Chí Minh.
17. Vũ Trọng Dung (2003), “Hiểu quan điểm của C.Mác về bản chất con
người như thế nào?”, Tạp chí Triết học, (8).
18. Nguyễn Đăng Duy (2001), Các hình thái tín ngưỡng tơn giáo ở Việt Nam,
Nxb Văn hĩa - Thơng tin, Hà Nội.
19. Đảng Cộng sản Việt Nam (1998), Văn kiện Hội nghị lần năm Ban Chấp
hành Trung ương khố VIII, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.
20. Đảng Cộng sản Việt Nam (2001), Văn kiện Đại hội đại biểu tồn quốc
lần thứ IX, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.
21. Đảng Cộng sản Việt Nam (2011), Văn kiện Đại hội đại biểu tồn quốc
lần thứ XI, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.
22. Đảng Cộng sản Việt Nam (2015), Dự thảo Văn kiện Đại hội đại biểu tồn
quốc lần thứ XII, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.
23. Lê Tâm Đắc (2014), “Một số đặc điểm của thờ cúng Sơn Tinh - Tản viên
ở miền Bắc”, Tạp chí Nghiên cứu Tơn giáo, (12) (138).
24. Nguyễn Tấn Đắc (2005), Văn hĩa Đơng Nam Á, Nxb Đại học Quốc gia
thành phố Hồ Chí Minh.
25. Khai Đăng (Sưu tầm và biên soạn) (2009), Tản mạn về tín ngưỡng và
phong tục tập quán của người Việt, Nxb Văn hĩa Thơng tin, Hà Nội.
26. Cao Huy Đỉnh (2009), “Người anh hùng làng Dĩng”, trong Lễ hội Thánh
Giĩng, Nxb Văn hĩa - Thơng tin, Hà Nội.
27. Đỗ Hương Giang (2009), “Vấn đề nhân sinh quan trong triết học Phật
giáo thời Trần”, Tạp chí Khoa học xã hội, 11(135).
28. Trịnh Hiểu Giang, Nguyễn An (2009), Những hiểu biết về cuộc đời, Nxb
Hà Nội, Hà Nội.
151
29. Trần Văn Giàu (1980), Giá trị tinh thần truyền thống của dân tộc Việt
Nam, Nxb Khoa học xã hội, Hà Nội.
30. Trường Hà (2012), "Phong tục thờ thần cây, thần rừng của người Tày - Nùng",
tại trang
cay-cua-nguoi-Tay-Nung/11370.bcb, [truy cập ngày 5/4/2014].
31. Thuận Hải (Biên soạn) (2007), Bản sắc văn hĩa lễ hội: văn hĩa dân gian
đặc sắc qua những lễ hội dân gian trong năm, Nxb Giao thơng Vận
tải, Hà Nội.
32. Phạm Minh Hạc, Thái Duy Tuyên (Chủ biên) (2012), Định hướng giá trị
con người Việt Nam thời kỳ đổi mới và hội nhập, Nxb Chính trị quốc
gia - Sự thật, Hà Nội.
33. Cao Xuân Hạo (2003), Tiếng Việt, Văn Việt, Người Việt, Nxb Trẻ, thành
phố Hồ Chí Minh.
34. Cao Thu Hằng (2011), Kế thừa các giá trị đạo đức truyền thống trong xây
dựng nhân cách con người Việt Nam hiện nay, Luận án Tiến sĩ Triết
học, Học viện Khoa học xã hội Việt Nam, Hà Nội.
35. Nguyễn Hùng Hậu (2004), Triết lý trong văn hĩa phương Đơng, Nxb Đại
học Sư phạm, Hà Nội.
36. Nguyễn Hùng Hậu (2010), Đại cương lịch sử triết học Việt Nam, Nxb
Chính trị quốc gia, Hà Nội.
37. Nguyễn Văn Hậu (1999), “Biểu tượng phồn thực trong lễ hội nơng nghiệp
cổ truyền ở Việt Nam và các nước Đơng Nam Á”, Tạp chí Văn hĩa
nghệ thuật, (183).
38. Đỗ Lan Hiền (2011), “Ảnh hưởng của tam giáo trong quan niệm của người
Việt về mối quan hệ Trời - Người”, Tạp chí Nghiên cứu tơn giáo, (8).
39. Đỗ Lan Hiền (2012), “Minh triết Việt qua dịng văn hĩa dân gian”, Tạp
chí Triết học, 8(255).
40. Đỗ Lan Hiền, Phùng Thị An Na (2012), “Tín ngưỡng thờ Nữ thần ở Việt
Nam từ gĩc nhìn “bình đẳng giới””, Tạp chí Nghiên cứu Tơn giáo, (8).
152
41. Thích Nguyên Hiền (2001), "Nguyên lý mẹ trong văn hĩa và tín ngưỡng
Việt Nam", tại trang
nguyenlyme.htm, [truy cập ngày 20/5/2013].
42. Nguyễn Duy Hinh (1996), Tín ngưỡng thành hịang Việt Nam, Nxb Khoa
học xã hội, Hà Nội.
43. Nguyễn Duy Hinh (2005), Văn minh Đại Việt, Nxb Văn hĩa thơng tin, Hà Nội.
44. Hồ Hồng Hoa (1998), Lễ hội, một nét đẹp trong sinh hoạt văn hĩa cộng đồng,
Nxb Khoa học xã hội, Hà Nội
45. Vũ Thị Hoa (1997), Lễ hội cầu mùa của người Thái ở Tây Bắc Việt Nam,
Nxb Văn hĩa - Thơng tin, Hà Nội.
46. Hội đồng Quốc gia chỉ đạo biên soạn Từ điển Bách khoa Việt Nam (2003),
Từ điển Bách khoa Việt Nam, Tập 3, Nxb Từ điển Bách khoa, Hà Nội.
47. Nguyễn Việt Hùng (2004), “Tục thờ đá trong tín ngưỡng dân gian Việt Nam”,
Tạp chí Văn hĩa nghệ thuật, (1).
48. Cao Xuân Huy (1995), Tư tưởng phương Đơng gợi những điểm nhìn
tham chiếu, Nxb Văn học, Hà Nội.
49. Nguyễn Văn Huyên (1992), “Từ những hình tượng nam nữ yêu nhau trên
thạp Đào Thịnh, nghĩ về ước vọng phồn thực lâu đời của nhân dân ta”,
Tạp chí Văn hĩa dân gian, (2).
50. Nguyễn Văn Huyên (1995), Gĩp phần nghiên cứu văn hĩa Việt Nam, Tập 1,
Nxb Khoa học xã hội, Hà Nội.
51. Trần Minh Hường (2010), “Hình tượng rắn qua tục thờ và huyền thoại”,
Tạp chí Văn hĩa nghệ thuật, 5-6(311-312).
52. Trần Đình Hượu (2005), Đến hiện đại từ truyền thống, Nxb Trí thức, Hà Nội.
53. Đinh Gia Khánh (1989), Trên đường tìm hiểu văn hĩa dân gian Việt Nam,
Nxb Khoa học Xã hội, Hà Nội.
54. Nguyễn Xuân Kính, Lê Ngọc Canh, Ngơ Đức Thịnh (1989), Văn hĩa dân gian
Việt Nam những lĩnh vực nghiên cứu, Nxb Khoa học xã hội, Hà Nội.
153
55. Đinh Gia Khánh (1992), “Tục thờ Mẫu và những truyền thống văn hĩa
dân gian ở Việt Nam”, Tạp chí Văn học, (5).
56. Đinh Gia Khánh (1995), Văn hĩa dân gian Việt Nam với sự phát triển của
xã hội Việt Nam, Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội.
57. Đinh Gia Khánh (2000), “Hội lễ dân gian và sự phản ánh những truyền
thống của dân tộc”, Tạp chí Văn hĩa dân gian, (2).
58. Đinh Gia Khánh, Lê Hữu Tầng (Chủ biên) (1993), Lễ hội dân gian trong
đời sống xã hội hiện tại, Nxb Khoa học xã hội, Hà Nội
59. Vũ Ngọc Khánh, Ngơ Đức Thịnh (1990), Tứ bất tử, Nxb Văn hĩa dân
tộc, Hà Nội.
60. Vũ Ngọc Khánh (1991), Dẫn luận nghiên cứu Folklore Việt Nam, Sở
Giáo dục Thanh Hố xuất bản, Thanh Hĩa.
61. Vũ Ngọc Khánh (1999), Tiếp cận kho tàng Folklore Việt Nam, Nxb Văn
hĩa dân tộc, Hà Nội.
62. Vũ Ngọc Khánh (2001), Đạo Thánh ở Việt Nam, Nxb Văn hĩa Thơng tin,
Hà Nội.
63. Vũ Ngọc Khánh (2005), Hành trình vào thế giới Folklore Việt Nam, Nxb
Thanh niên, Hà Nội.
64. "Khi lễ hội, di sản bị “sân khấu hĩa”" (2013), tại trang
san-bi-san-khau-hoa-331013/, [truy cập ngày 15/7/2015].
65. Nguyễn Thế Kiệt, Phạm Bá Lượng (2009), “Đạo làm người trong truyền
thống Việt Nam”, Tạp chí Lý luận chính trị, (10).
66. Hà Lâm Kỳ (2001), “Lễ đĩn mẹ lúa của người Khơmú”, Tạp chí Văn hĩa
nghệ thuật, (1).
67. Lê Văn Kỳ (2002), Lễ hội nơng nghiệp Việt Nam, Nxb Văn hĩa dân tộc,
Hà Nội.
68. C.Mác và Ph.Ăngghen (1994), Tồn tập, Tập 20, Nxb Chính trị Quốc gia,
Hà Nội.
154
69. Hồ Chí Minh (1995), Tồn tập, Tập 6, Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội.
70. Lê Thị Lan (2002), “Quan hệ giữa các giá trị truyền thống và hiện đại
trong xây dựng đạo đức”, Tạp chí Triết học, (7).
71. Phan Huy Lê, Vũ Minh Giang (Chủ biên) (1994), Các giá trị truyền
thống và con người Việt Nam hiện nay, Chương trình Khoa học cơng
nghệ cấp nhà nước KX.07, Đề tài KX07-02, Tập 1, Hà Nội.
72. Phan Huy Lê, Vũ Minh Giang (Chủ biên) (1996), Các giá trị truyền
thống và con người Việt Nam hiện nay, Chương trình Khoa học cơng
nghệ cấp nhà nước KX.07, Đề tài KX07-02, Tập 2, Hà Nội.
73. Bùi Bá Linh (2003), Quan niệm của C. Mác, Ph. Ăngghen về con người và
sự nghiệp giải phĩng con người, Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội.
74. Nguyễn Thu Linh, Phan Văn Tú (2004), Quản lý lễ hội cổ truyền: thực
trạng và giải pháp, Báo cáo tổng quan đề tài khoa học cấp Bộ, Bộ
Văn hĩa - Thơng tin, Hà Nội.
75. Nguyễn Đức Lữ (Chủ biên) (2007), Gĩp phần tìm hiểu tín ngưỡng dân
gian ở Việt Nam, Nxb Tơn giáo, Hà Nội.
76. Nguyễn Văn Lý (2000), Kế thừa và đổi mới các giá trị đạo đức truyền
thống trong quá trình chuyển sang nền kinh tế thị trường ở Việt Nam
hiện nay, Luận án Tiến sĩ Triết học, Học viện Chính trị quốc gia Hồ
Chí Minh, Hà Nội.
77. Phùng Thị An Na, Đỗ Lan Hiền (2012), Ảnh hưởng của tư duy tơn giáo
đến lối sống người Việt, Nxb Chính trị - Hành chính, Hà Nội.
78. Ngơ Thị Thu Ngà (2011), Giá trị đạo đức truyền thống với việc xây dựng đạo
đức mới cho thế hệ trẻ Việt Nam hiện nay, Luận án tiến sĩ Triết học, Học
viện Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh, Hà Nội.
79. Nhiều tác giả (2008), Người Việt phẩm chất và thĩi hư - tật - xấu, Nxb
Thanh niên, Hà Nội.
80. Hịang Văn Páo (2011), Lễ hội Lồng thồng của dân tộc Tày ở Lạng Sơn,
Nxb Văn hĩa dân tộc, Hà Nội.
155
81. Bá Trung Phụ (2009), “Lễ hội Rija - tín ngưỡng phồn thực của người
Chăm ở Trung Bộ”, Tạp chí Nghiên cứu Tơn giáo, (7+8).
82. Đỗ Lan Phương (2010), Tục thờ Chử Đồng Tử, Nxb Tơn giáo, Hà Nội.
83. Trần Chí Quang (2005), “Lễ rửa lá lúa trong cư dân Mường”, Tạp chí
Dân tộc và Thời đại, (84).
84. Hồ Sỹ Quý (1999), “Về triết lý con người chinh phục tự nhiên”, Tạp chí
Triết học, (6).
85. Nguyễn Minh San (1998), “Lễ thức phồn thực trong sinh hoạt văn hĩa
dân gian ở Phú Thọ”, Tạp chí Văn hĩa nghệ thuật, (3).
86. Bùi Hồi Sơn (2007), Quản lý lễ hội dân gian của người Việt ở Châu thổ
Bắc bộ từ năm 1945 đến nay, Luận án Tiến sĩ Văn hĩa học, Viện
Văn hĩa - Thơng tin, Hà Nội.
87. Dương Đình Minh Sơn (2008), Văn hĩa nõ nường, Nxb Khoa học xã hội,
Hà Nội.
88. Minh Tân, Thanh Nghi và Xuân Lãm (1998), Từ điển Tiếng Việt, Nxb
Thanh Hĩa.
89. Đào Thắm (2014), "Lễ hội đền Tống Trân - Lễ hội tơn vinh sự học", tại
trang
tong-tran-le-hoi-ton-vinh-su-hoc-461471/, [truy cập ngày 5/4/2014].
90. Lê Sỹ Thắng (1997), Lịch sử tư tưởng Việt Nam, Tập 2, Nxb Khoa học
Xã hội, Hà Nội.
91. Võ Văn Thắng (2005), Kế thừa và phát huy các giá trị văn hĩa truyền
thống của dân tộc trong việc xây dựng lối sống ở Việt Nam hiện nay,
Luận án tiến sĩ Triết học, Học viện Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh,
Hà Nội.
92. Trần Ngọc Thêm (1997), Cơ sở văn hĩa Việt Nam, Nxb Giáo dục, Hà Nội.
93. Đỗ Trần Thi (2011), Thần thoại Hy Lạp, Nxb Văn hĩa - Thơng tin, Hà Nội.
94. Nguyễn Tất Thịnh (2011), Hành trình nhân sinh quan: Phản tỉnh trên
đường trải nghiệm, Nxb Thơng tin và truyền thơng, Hà Nội.
156
95. Ngơ Đức Thịnh (Chủ biên) (1990), Quan niệm về Folklore, Nxb Khoa
học xã hội, Hà Nội.
96. Ngơ Đức Thịnh (2001), “Văn hĩa dân gian và bản sắc văn hĩa dân tộc”,
Tạp chí Khoa học xã hội và nhân văn, Trường Đại học Sư phạm
Thành phố Hồ Chí Minh, (27).
97. Ngơ Đức Thịnh (2001), “Những giá trị của lễ hội cổ truyền trong đời
sống xã hội hiện nay”, Văn hĩa nghệ thuật, (3).
98. Ngơ Đức Thịnh (Chủ biên) (2001), Tín ngưỡng và văn hĩa tín ngưỡng ở
Việt Nam, Nxb Khoa học xã hội, Hà Nội.
99. Ngơ Đức Thịnh (2007), Về tín ngưỡng và lễ hội cổ truyền, Nxb Văn hĩa -
Thơng tin, Hà Nội.
100. Ngơ Đức Thịnh (2009), Đạo Mẫu Việt Nam, Tập I, Nxb Tơn giáo, Hà Nội.
101. Ngơ Đức Thịnh (2009), Đạo Mẫu Việt Nam, Tập II, Nxb Tơn giáo, Hà Nội.
102. Ngơ Đức Thịnh, Đinh Gia Khánh và Nguyễn Đổng Chi (2004), Văn
hĩa dân gian một chặng đường nghiên cứu, Nxb Khoa học xã hội,
Hà Nội.
103. Hồng Thơ (2000), “Vấn đề con người trong đạo Phật”, Tạp chí Triết
học, (6).
104. Nguyễn Hữu Thụ (2013), Khía cạnh triết học trong tín ngưỡng thờ Mẫu
của người Việt vùng đồng bằng Bắc bộ, Luận án Tiến sĩ Triết học,
Đại học Khoa học xã hội và Nhân văn, Đại học Quốc gia Hà Nội.
105. Nguyễn Đăng Thục (1992), Lịch sử tư tưởng Việt Nam, Tập 1: Tư tưởng
bình dân Việt Nam, Nxb thành phố Hồ Chí Minh, thành phố Hồ
Chí Minh.
106. Đỗ Lai Thúy (1994), “Tín ngưỡng phồn thực nhìn từ gĩc độ văn hĩa lịch sử”,
Tạp chí Văn hĩa nghệ thuật, 122(8).
107. Nguyễn Tài Thư (Chủ biên) (1993), Lịch sử tư tưởng Việt Nam, Tập 1,
Nxb Khoa học Xã hội, Hà Nội.
157
108. "Tín ngưỡng của người Mường ở Hịa Bình" (2014), tại trang
hoa-binh-d21342.html, [truy cập ngày 5/4/2014].
109. Nguyễn Thế Trắc (2008), Mạn đàm nhân sinh, Nxb Văn hĩa Thơng tin,
Hà Nội.
110. Trần Thị Trâm (2012), “Hiếu học - một truyền thống quý báu của dân
tộc Việt Nam”, Tạp chí Lý luận và truyền thơng, (11).
111. Phạm Thị Ngọc Trầm (1992), “Những tư tưởng cơ bản của C.Mác,
Ph.Ăngghen, V.I.Lênin về mối quan hệ giữa con người, xã hội và
tự nhiên”, Tạp chí Triết học, (1).
112. Phạm Thị Ngọc Trầm (2009), “Xây dựng đạo đức sinh thái - một
trách nhiệm xã hội của con người đối với tự nhiên”, Tạp chí
Triết học, (6).
113. Trung tâm khoa học xã hội và nhân văn quốc gia (1994), Lễ hội dân
gian trong đời sống xã hội hiện đại, Nxb Khoa học xã hội, Hà Nội.
114. Chu Quang Trứ (1996), Di sản văn hĩa dân tộc trong tín ngưỡng và tơn
giáo ở Việt Nam, Nxb Thuận Hĩa, Huế.
115. Tạ Chí Đại Trường (2014), Thần, Người và Đất Việt, Nxb Tri thức,
Hà Nội.
116. Vũ Anh Tú (2008), “Tín ngưỡng phồn thực Việt Nam trong dịng chảy
văn hĩa Đơng Nam Á qua các lễ hội nơng nghiệp”, Tạp chí Nghiên
cứu Đơng Nam Á, (9).
117. Vũ Anh Tú (2010), Tín ngưỡng phồn thực trong lễ hội dân gian người
Việt ở Châu Thổ Bắc Bộ, Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội.
118. Lê Trung Vũ (1990), Lễ cầu ngư của làng ven biển, Văn hĩa dân gian,
01 (29).
119. Trần Quốc Vượng (1996), Theo dịng lịch sử, những vùng đất tâm, thần
và vật, Nxb Văn hĩa, Hà Nội.
158
120. Trần Quốc Vượng (1996), “Nguyên lý mẹ của nền văn hĩa Việt Nam”,
Tạp chí Văn hĩa nghệ thuật, (12).
121. Nguyễn Như Ý (Chủ biên) (1999), Đại Từ điển tiếng Việt, Nxb Văn hĩa -
Thơng tin, Hà Nội.
122. Nguyễn Hải Yến (Sưu tầm và biên soạn) (2008), Văn hĩa lễ hội dân gian
cộng đồng các dân tộc Việt Nam, Nxb Quân đội Nhân dân, Hà Nội.
159
HỌC VIỆN CHÍNH TRỊ QUỐC GIA HỒ CHÍ MINH
PH NG THỊ AN NA
NH¢N SINH QUAN NG¦êI VIƯT
QUA FOLKLORE VIƯT NAM
PHỤ LỤC
LUẬN ÁN TIẾN SĨ TRIẾT HỌC
HÀ NỘI - 2015
160
Hội Giĩng Phù Đổng
161
Ơng Hiệu cờ tại Hội Giĩng Phù Đổng
Rước ngựa tại Hội Giĩng Phù Đổng
162
Hội Giĩng Sĩc Sơn
Ngựa Giĩng tại Hội đền Sĩc Sơn
163
Hoa tre tại Hội Giĩng Sĩc Sơn
Rước kiệu tại Hội Giĩng Sĩc Sơn
164
Đền Thờ Tống Trân tại thơn An Cầu, xã Tống Trân, Phù Cừ, Hưng Yên
Lễ hội đền Tống Trân
165
Kiệu của Trạng Nguyên Tống Trân
Lễ rước mực và rước nghiên bút tại hội đền Tống Trân
166
Lễ hội Chử Đồng Tử
Nghi thức rước nước tại lễ hội Chử Đồng Tử
167
Trống khai hội tại lễ hội đền Hĩa (Dạ Trạch)
Rước kiệu Tiên Dung tại lễ hội đền Dạ Trạch
168
Mẫu Tam phủ (Mẫu Thượng Thiên - Mẫu Thượng Ngàn - Mẫu Thoải)
Mẫu Tứ phủ (Thượng Thiên - Thượng Ngàn - Mẫu Thoải - Mẫu Địa)
169
Thờ Tứ pháp tại chùa Dâu (Bắc Ninh)
Tín ngưỡng thờ Mẫu tại đền bà Chúa Kho (Bắc Ninh)
170
Phủ Giày (Nam Định) thờ thánh Mẫu Liễu Hạnh
Phủ Tây Hồ (Hà Nội) thờ thánh Mẫu Liễu Hạnh
171
Miếu Bà Chúa Xứ (Châu Đốc, An Giang)
Bà Chúa Xứ
172
Tháp thờ Thiên Y Thánh Mẫu (Tháp Bà Ponagar) tại Nha Trang
Chùa Bà Thiên Hậu (Bình Dương)
173
Nghi thức hầu đồng trong tín ngưỡng thờ Mẫu
174
Cặp sinh thực khí trong tín ngưỡng phồn thực
Nghi thức Lễ mật trong lễ hội “Linh tinh tình phộc” (Trị Trám)
175
Biểu tượng Linga trong tín ngưỡng phồn thực của người Chăm
Hình tượng điêu khắc trên nắp thạp đồng Đào Thịnh
176
Tượng nhà mồ Tây Nguyên
Điệu múa phồn thực của người Chăm (Bình Thuận)
177
Đền thờ Sơn Tinh (Ba Vì, Hà Nội)
Đến thờ thần rắn ở Cẩm Thủy (Thanh Hĩa)
178
Lễ cúng thần đá của người Nùng
Lễ cúng thần rừng của người Nùng
179
Miếu thờ thần cây của người Tày
Tín ngưỡng thờ Cá Ơng ở Ba Tri, Bến Tre
180
Xã hội đang quá “mê tín”?
Cướp hoa tre tại lễ hội đền Giĩng
181
Cướp ấn đền Trần (Nam Định)
Tranh nhau cướp “lộc”
182
Hát quan họ “xin tiền”
Trả tiền “xin ấn”
183
Hiện tượng đốt vàng mã tràn lan
Tiền lẻ khắp nơi tại các cơ sở thờ tự tín ngưỡng dân gian
184
“Lộc” tại đền thờ bà chúa Kho
Đội ngũ “khấn thuê” tại đền bà Chúa Kho
185
Hoạt động bĩi tốn: xem thẻ, bĩi quẻ
Trị chơi xĩc đĩa tại các lễ hội dân gian
186
Hiện tượng ăn xin tràn lan tại các lễ hội
Xả rác bừa bãi, ơ nhiễm mơi trường tại các lễ hội
187
Bán sách bĩi tốn ngay trong khuơn viên di tích
Bán thịt thú rừng tại các lễ hội