HỌC VIỆN CHÍNH TRỊ QUỐC GIA HỒ CHÍ MINH
TRẦN THỊ HÒE
NHÀ NƯỚC VIỆT NAM VỚI VIỆC BẢO ĐẢM
QUYỀN CON NGƯỜI TRONG ĐIỀU KIỆN
HỘI NHẬP QUỐC TẾ HIỆN NAY
Chuyên ngành : Chủ nghĩa duy vật biện chứng
và Chủ nghĩa duy vật lịch sử
Mã số : 62 22 03 02
LUẬN ÁN TIẾN SĨ TRIẾT HỌC
Người hướng dẫn khoa học: PGS, TS. TRẦN THÀNH
HÀ NỘI - 2015
LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan đây là công trình nghiên cứu của
riêng tôi; các số liệu, tư liệu được sử dụng trong luận án là
trung thực, có xuất x
199 trang |
Chia sẻ: huong20 | Ngày: 15/01/2022 | Lượt xem: 391 | Lượt tải: 0
Tóm tắt tài liệu Luận án Nhà nước Việt Nam với việc bảo đảm quyền con người trong điều kiện hội nhập quốc tế hiện nay, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
ứ rõ ràng; những phát hiện đưa ra
trong luận án là kết quả nghiên cứu của tác giả luận án.
Tác giả luận án
Trần Thị Hòe
MỤC LỤC
Trang
MỞ ĐẦU 1
Chương 1: TỔNG QUAN TÌNH HÌNH NGHIÊN CỨU 6
1.1. Các công trình nghiên cứu về quyền con người và bảo đảm quyền
con người 6
1.2. Các công trình nghiên cứu về nhà nước đối với việc bảo đảm quyền
con người 15
1.3. Những giá trị của các công trình liên quan đến luận án và những vấn đề
đặt ra mà luận án tiếp tục nghiên cứu 23
Chương 2: BẢO ĐẢM QUYỀN CON NGƯỜI VÀ NHÀ NƯỚC ĐỐI VỚI
VIỆC BẢO ĐẢM QUYỀN CON NGƯỜI 26
2.1. Quyền con người và bảo đảm quyền con người 26
2.2. Nhà nước đối với việc bảo đảm quyền con người - Tầm quan trọng và
biểu hiện 43
Chương 3: NHÀ NƯỚC VIỆT NAM ĐỐI VỚI VIỆC BẢO ĐẢM QUYỀN
CON NGƯỜI TRONG ĐIỀU KIỆN HỘI NHẬP QUỐC TẾ - THỰC TRẠNG
VÀ NHỮNG VẤN ĐỀ ĐẶT RA 63
3.1. Hội nhập quốc tế và tác động của nó đến nhà nước trong việc bảo đảm
quyền con người ở Việt Nam 63
3.2. Thực trạng Nhà nước Việt Nam đối với việc bảo đảm quyền con người
trong điều kiện hội nhập quốc tế 76
3.3. Nhà nước Việt Nam với việc bảo đảm quyền con người trong điều kiện
hội nhập quốc tế hiện nay - Những vấn đề đặt ra 104
Chương 4: NHÀ NƯỚC VIỆT NAM ĐỐI VỚI VIỆC BẢO ĐẢM QUYỀN
CON NGƯỜI TRONG ĐIỀU KIỆN HỘI NHẬP QUỐC TẾ HIỆN NAY -
MỘT SỐ QUAN ĐIỂM VÀ GIẢI PHÁP 112
4.1. Một số quan điểm cơ bản 112
4.2. Một số giải pháp chủ yếu 122
KẾT LUẬN 152
DANH MỤC CÔNG TRÌNH CỦA TÁC GIẢ ĐÃ CÔNG BỐ LIÊN QUAN
ĐẾN LUẬN ÁN 154
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO 156
PHỤ LỤC 166
DANH MỤC CÁC CHỮ VIẾT TẮT TRONG LUẬN VĂN
HNQT : Hội nhập quốc tế
HTQT : Hợp tác quốc tế
KTTT : Kinh tế thị trường
LHQ : Liên hợp quốc
QCD : Quyền công dân
QCN : Quyền con người
TCH : Toàn cầu hóa
XHCN : Xã hội chủ nghĩa
1
MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài nghiên cứu
Quyền con người (Human Rights) (QCN) là giá trị cao quý, là thành quả đấu
tranh chung của toàn nhân loại chống lại áp bức, bất công. Do đó, bảo đảm QCN trở
thành khát vọng của loài người, là giá trị cơ bản mà các chế độ xã hội luôn hướng tới.
Ngày nay, cùng với sự phát triển của lịch sử, vấn đề bảo đảm QCN cũng được nhận
thức và thực hiện tốt hơn với những giá trị, chuẩn mực về QCN ngày càng được mở
rộng. Tuy nhiên tùy theo mỗi thời kỳ lịch sử, chế độ kinh tế, chính trị, quan điểm giai
cấp khác nhau... mà những chuẩn mực, nguyên tắc bảo đảm QCN khác nhau. Do vậy,
bên cạnh những giá trị chung, phổ biến về QCN, khó có một quan niệm thống nhất về
QCN và bảo đảm QCN, nhất là trong điều kiện trên thế giới đang tồn tại đa dạng các
nhà nước với các giai cấp với những chế độ chính trị vì những mục tiêu, lợi ích khác
nhau. Điều này thể hiện rất rõ trong quan điểm chính trị, cách tổ chức, thực thi quyền
lực của các nhà nước cụ thể.
Ngày nay, toàn cầu hóa (TCH) và hội nhập quốc tế (HNQT) là một xu thế tất yếu
đối với các quốc gia. Việc tham gia ngày càng sâu rộng vào quá trình TCH và HNQT
đã làm cho các quốc gia "xích" lại gần nhau hơn, tạo ra các điều kiện và cơ hội thuận
lợi hơn cho sự phát triển vì sự tiến bộ chung của nhân loại, góp phần quan trọng vào
việc bảo đảm ngày càng tốt hơn các QCN. Tuy nhiên, TCH và HNQT cũng nảy sinh
nhiều vấn đề tác động tiêu cực đến sự phát triển bền vững của mỗi quốc gia. Tình trạng
mâu thuẫn giữa các dân tộc do sự chênh lệch, bất công về cơ hội, điều kiện trong việc
chiếm lĩnh các nguồn lực để thực hiện và phân chia hệ thống lợi ích xã hội; trong việc
giải quyết mối quan hệ giữa nhân quyền và chủ quyền quốc gia dân tộc trong hội nhập;
những mâu thuẫn lợi ích giữa các giai cấp trong một nhà nước cụ thể đang cản trở cuộc
đấu tranh vì những lợi ích chung cho xã hội, vì tiến bộ xã hội... dẫn tới phạm vi và mức
độ bảo đảm, thực hiện QCN ở các quốc gia có khác nhau. Giải quyết vấn đề này mỗi nhà
nước có quan điểm, nguyên tắc riêng về bảo đảm QCN vì sự phát triển chung của xã hội
và sự phát triển bền vững của quốc gia.
Trong bối cảnh đó, nhà nước Việt Nam đã nhận thức ngày càng sâu sắc và tham
gia tích cực vào quá trình đấu tranh để bảo vệ QCN trên phạm vi quốc tế vì sự phát triển
chung của nhân loại và bảo vệ lợi ích quốc gia. Sự tham gia ngày càng tích cực vào các
tổ chức quốc tế bảo vệ và đấu tranh cho QCN, quyền tự quyết của các dân tộc, chống
2
phân biệt chủng tộc, đảm bảo phân chia lợi ích giữa các quốc gia... đã cho thấy vai trò
của Việt Nam trong thế giới hiện nay.
Theo Luật nhân quyền quốc tế, bảo đảm QCN là trách nhiệm của nhiều chủ thể,
trong đó, nhà nước đóng vai trò quan trọng. Bảo đảm QCN là trách nhiệm của nhà
nước và là vấn đề mang tính nguyên tắc trong hoạt động của nhà nước. Nguyên tắc này
đã được khẳng định trong Lời nói đầu Tuyên ngôn độc lập của Hợp chủng quốc Hoa
Kỳ (1776), rằng: "quyền lực chính đáng của các chính phủ phải xuất phát từ sự nhất trí
của nhân dân" [124, tr.15]. Chính phủ đó phải "dựa trên nền tảng của những nguyên tắc
và tổ chức quyền lực theo cách thức mà nhân dân thấy thích hợp nhất để đảm bảo an
ninh và hạnh phúc cho họ" [124, tr.15] và nếu chính phủ nào "đối nghịch" hoặc không
đáp ứng được yêu cầu trên thì nhân dân "có quyền thay đổi hoặc xóa bỏ nó"để thiết lập
một chính phủ mới"
Ở Việt Nam, tư tưởng về một chính quyền của dân, bảo vệ các quyền của dân đã
được Chủ tịch Hồ Chí Minh khẳng định "Nếu để dân đói là Đảng và Chính phủ có lỗi;
Nếu để dân rét là Đảng và Chính phủ có lỗi; Nếu để dân dốt là Đảng và Chính phủ có
lỗi; Nếu để dân ốm là Đảng và Chính phủ có lỗi" [85, tr.572]. Do đó, ngay từ Hiến
pháp 1946, bản Hiến pháp đầu tiên của nước Việt Nam dân chủ cộng hòa, việc tôn
trọng các quyền tự do dân chủ của nhân dân đã trở thành một nguyên tắc cơ bản trong
hoạt động của Nhà nước.
Quán triệt nguyên tắc này, bảo đảm QCN đã trở thành một trong những mục tiêu
đầu tiên và quan trọng hàng đầu của sự phát triển xã hội theo định hướng xã hội củ
nghĩa (XHCN) ở Việt Nam. Chính vì vậy, trong việc hoạch định các chính sách phát
triển kinh tế, xã hội, văn hóa, an ninh, đối ngoại..., Đảng và Nhà nước ta luôn đặt vấn
đề con người và bảo đảm QCN vào vị trí trung tâm và là mục tiêu quan trọng nhằm
hướng tới sự phát triển ổn định, bền vững của đất nước.
Nhiệm vụ "Chăm lo cho con người, bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của mọi
người, tôn trọng và thực hiện các điều ước quốc tế về quyền con người mà Việt Nam đã
tham gia ký kết" [30, tr.76] được khẳng định tại Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ IX và
"Nhà nước tôn trọng và bảo đảm các quyền con người, quyền công dân; chăm lo hạnh
phúc, sự phát triển tự do của mỗi người [33, tr.85] tiếp tục được nhấn mạnh tại Đại hội
Đảng toàn quốc lần thứ XI khẳng định chủ trương đúng đắn về định vị trí, vai trò, trách
nhiệm của Nhà nước trong việc bảo đảm QCN, xác định nguyên tắc bảo vệ các QCN
của công dân trước quyền lực chính trị của nhà nước.
3
Cụ thể hóa quan điểm của Đảng, những năm qua, Nhà nước Việt Nam đã có
nhiều nỗ lực trong việc thực hiện xây dựng, hoàn thiện hệ thống pháp luật về QCN; tổ
chức thực thi chính sách, pháp luật về QCN; hoàn thiện các cơ chế, thiết chế bảo đảm
QCN; tham gia hợp tác quốc tế (HTQT) trên lĩnh vực QCN...
Thực tiễn gần 30 năm đổi mới hệ thống chính trị, đổi mới tổ chức và hoạt động
của Nhà nước, thực hiện dân chủ hóa đời sống xã hội đã đem lại cho chúng ta những
kinh nghiệm quý báu về tổ chức nhà nước, về phát huy tính hiệu quả của nhà nước đối
với việc bảo đảm các QCN. Tuy nhiên, do hoàn cảnh lịch sử, việc bảo đảm QCN của
Nhà nước ta còn nhiều hạn chế. Trên lĩnh vực pháp luật, nhiều quy định của pháp luật
còn chồng chéo, bất cập, thậm chí mâu thuẫn, chưa phù hợp với Hiến pháp, khó triển
khai trong thực tiễn.
Công tác tuyên truyền, giáo dục về QCN cho người dân và đội ngũ cán bộ công
chức mang tính hình thức, nặng về lý thuyết, thiếu sự gắn kết với thực tiễn, bên cạnh
đó, nhận thức và am hiểu về QCN của một số cán bộ, công chức còn hạn chế, gây trở
ngại cho việc thực hiện QCN của người dân.
Tổ chức bộ máy nhà nước còn cồng kềnh, một số cơ quan còn chồng chéo về
chức năng, nhiệm vụ dẫn đến hoạt động kém hiệu quả, chưa đáp ứng được yêu cầu của
đổi mới và hội nhập. Bên cạnh đó, tình trạng thiếu trách nhiệm, vô cảm, thậm chí vi
phạm nghiêm trọng các QCN của người dân của một số cán bộ, công chức, gây bức
xúc trong xã hội, tạo kẽ hở cho một số thế lực thù địch coi đó là lý do để vu cáo Việt
Nam vi phạm QCN.
Hội nhập quốc tế mở ra cho Nhà nước Việt Nam nhiều cơ hội trong việc bảo
đảm QCN, song cũng làm nảy sinh nhiều vấn đề phức tạp về QCN, gây trở ngại cho
việc bảo đảm QCN của nhà nước. Bởi lẽ, việc tuân thủ các định chế, các nguyên tắc,
các cam kết của các tổ chức quốc tế và khu vực trong quá trình hội nhập làm cho việc
hoạch định, thực thi chính sách phát triển kinh tế, xã hội gắn với bảo đảm QCN của nhà
nước đứng trước nhiều thách thức.
Ngoài ra, việc phân bổ nguồn lực chưa hợp lý; quy trình ban hành chính sách,
pháp luật về QCN còn nhiều hạn chế, bất cập, chưa có sự gắn kết chặt chẽ với các quy
định của định chế quốc tế cũng như những đòi hỏi của quá trình HNQT. Chất lượng
của chính sách kinh tế, chính sách xã hội chưa đáp ứng được yêu cầu và đòi hỏi của
thực tiễn. Việc tổ chức thực hiện chính sách pháp luật về QCN còn nhiều bất cập, lúng
4
túng... Thực tế này đòi hỏi nhà nước phải có sự điều tiết, can thiệp ở mức độ nhất định
nhằm đạt được hiệu quả tốt nhất cho mục tiêu bảo đảm QCN.
Từ những hạn chế, bất cập kể trên, việc nghiên cứu vấn đề lý luận về nhà nước
đối với việc bảo đảm QCN; phân tích thực trạng Nhà nước Việt Nam đối với việc bảo
đảm QCN trong điều kiện HNQT, từ đó đề ra những giải pháp nhằm nâng cao tính hiệu
quả của Nhà nước đối với việc bảo QCN ở nước ta thời gian tới là một yêu cầu cần
thiết và cấp thiết cả về lý luận lẫn thực tiễn. Xuất phát từ các lý do trên, tác giả chọn
vấn đề "Nhà nước Việt Nam với việc bảo đảm quyền con người trong điều kiện hội
nhập quốc tế hiện nay" làm đề tài nghiên cứu của mình.
2. Mục đích, nhiệm vụ phạm vi nghiên cứu
2.1. Mục đích của luận án
Trên cơ sở làm rõ những vấn đề lý luận về nhà nước đối với việc bảo đảm QCN
và thực tiễn bảo đảm QCN của Nhà nước Việt Nam, luận án đề xuất một số quan điểm
và giải pháp chủ yếu nhằm nâng cao tính hiệu quả của Nhà nước Việt Nam đối với việc
bảo đảm QCN trong điều kiện HNQT hiện nay.
2.2. Nhiệm vụ của luận án
Dựa trên quan điểm của chủ nghĩa Mác Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh và Đảng
cộng sản Việt Nam về QCN và bảo đảm QCN, luận án tập trung:
- Làm rõ khái niệm quyền con người, bảo đảm QCN, tầm quan trọng của việc bảo
đảm QCN và những biểu hiện cụ thể của nhà nước đối với việc bảo đảm QCN.
- Làm rõ quá trình HNQT của Việt Nam và những tác động của HNQT đến QCN
và nhà nước đối với việc bảo đảm QCN ở Việt Nam.
- Làm rõ thực trạng Nhà nước Việt Nam đối với việc bảo đảm QCN trong điều
kiện HNQT hiện nay và những vấn đề đặt ra.
- Đề xuất một số quan điểm và giải pháp chủ yếu nâng cao tính hiệu quả của Nhà
nước đối với việc bảo đảm QCN trong điều kiện HNQT ở Việt Nam hiện nay.
2.3. Phạm vi nghiên cứu của luận án
- Luận án không nghiên cứu toàn bộ lý luận về nhà nước đối với việc bảo đảm
QCN mà chỉ tập trung nghiên cứu quan điểm của chủ nghĩa Mác-Lênin về vấn đề
này dưới góc độ triết học.
- Trong phần thực trạng, luận án chỉ giới hạn khảo sát thực trạng Nhà nước Việt
Nam đối với việc bảo đảm QCN trong điều kiện HNQT (từ 1995 đến nay).
5
3. Cơ sở lý luận và phương pháp nghiên cứu
3.1. Cơ sở lý luận
Luận án dựa trên quan điểm của Chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh,
quan điểm đường lối của Đảng và Nhà nước Việt Nam bảo đảm QCN; những vấn đề lý
luận và thực tiễn về nhà nước đối việc bảo đảm QCN. Luận án có kế thừa một số kết
quả nghiên cứu có giá trị của các công trình khoa học khác liên quan.
3.2. Phương pháp nghiên cứu
Luận án được thực hiện trên cơ sở vận dụng phương pháp luận của chủ nghĩa duy
vật biện chứng và chủ nghĩa duy vật lịch sử với các phương pháp lô-gíc và lịch sử,
phân tích và tổng hợp, quy nạp và diễn dịch, thống kê và so sánh, trừu tượng và cụ thể
và một số phương pháp khác.
4. Đóng góp khoa học của luận án
- Luận án góp phần làm rõ khái niệm QCN, bảo đảm QCN, tầm quan trọng của
nhà nước đối với việc bảo đảm QCN.
- Trên cơ sở phân tích về những tác động của HNQT đến QCN và nhà nước đối
với việc bảo đảm QCN ở Việt Nam, luận án phân tích và làm rõ thực trạng Nhà nước
Việt Nam đối với việc bảo đảm QCN (những thành tựu, hạn chế, nguyên nhân) và
những vấn đề đặt ra đối với Nhà nước Việt Nam đối với việc bảo đảm QCN trong điều
kiện HNQT hiện nay.
- Đề xuất một số quan điểm và giải pháp cơ bản để nâng cao tính hiệu quả của
Nhà nước đối với việc bảo đảm QCN trong điều kiện HNQT ở Việt Nam hiện nay.
5. Ý nghĩa thực tiễn của luận án
- Những kết luận rút ra trong luận án có thể dùng làm tài liệu tham khảo cho
những người hoạch định chính sách và quản lý xã hội khi đề xuất, đánh giá, xem xét và
giải quyết các vấn đề có liên quan đến QCN, bảo đảm QCN, nâng cao tính hiệu quả
của nhà nước đối với việc bảo đảm QCN trong điều kiện HNQT hiện nay.
- Luận án có thể làm tài liệu tham khảo cho việc nghiên cứu, giảng dạy về QCN
và các vấn đề khác có liên quan.
6. Kết cấu của luận án
Ngoài phần mở đầu, kết luận, danh mục công trình của tác giả đã công bố liên
quan đến đề tài luận án, danh mục tài liệu tham khảo và phụ lục, luận án được kết cấu
gồm 4 chương, 10 tiết.
6
Chương 1
TỔNG QUAN TÌNH HÌNH NGHIÊN CỨU
1.1. CÁC CÔNG TRÌNH NGHIÊN CỨU VỀ QUYỀN CON NGƯỜI VÀ BẢO
ĐẢM QUYỀN CON NGƯỜI
Thời gian gần đây, việc nghiên cứu về QCN, những vấn đề lý luận và thực tiễn
bảo đảm QCN, về nhà nước đối với việc bảo đảm QCN đã và đang là đề tài thu hút sự
quan tâm của nhiều cơ quan, tổ chức, các nhà lãnh đạo và các nhà khoa học trong và
ngoài nước. Vì vậy, nhiều công trình nghiên cứu đã được xuất bản, thể hiện tập trung ở
các nội dung sau:
1.1.1. Các công trình nghiên cứu về quyền con người
Có rất nhiều công trình nghiên cứu xoay quanh những vấn đề lý luận về QCN của
nhiều học giả trong và ngoài nước, tiêu biểu là cuốn sách Quyền con người của Jacques
Mourgon, giáo sư trường đại học khoa học xã hội Toulouse (Pháp) [60]. Bằng việc
phân tích bản chất của con người và QCN, tác giả khẳng định QCN là trung tâm của
chính trị và trung tâm của các mối quan hệ giữa quyền lực và con người, nhưng QCN
cũng không phải là những cái gì quá xa lạ với con người. Quyền con người là "những
đặc quyền" được các quy tắc điều khiển mà con người "giữ riêng" lấy trong các quan
hệ của mình với những cá nhân và với chính quyền". Như vậy, QCN trước hết là các
quyền cố hữu, tự nhiên con người sinh ra đã có (cả thể xác và tư tưởng) và các quyền
này được sử dụng trong các quan hệ giữa cá nhân với cá nhân, cá nhân với chính
quyền. Trên cơ sở khái niệm QCN, tác giả tập trung phân tích các điều kiện cần thiết để
bảo đảm, thực hiện QCN như: sự công nhận quyền trong các điều ước quốc tế về QCN;
sự ghi nhận quyền trong pháp luật quốc tế và quốc gia; thiết chế kiểm soát các quyền
nhằm ngăn chặn sự lạm quyền từ phái các cá nhân, tổ chức thực thi quyền lực nhà nước
bảo đảm QCN và sự phụ thuộc của các quyền vào cộng đồng quốc tế và các nhà nước.
Giáo sư Hoàng Nam Sâm, trường đại học Tổng hợp Bắc Kinh, Trung Quốc trong
bài "Khái niệm quyền con người trong truyền thống văn hóa Trung Quốc" (2002) cho
rằng: "Quyền con người là những quyền cơ bản mà con người sinh ra đã được hưởng,
bao gồm trước hết là quyền được sống và quyền được phát triển; sau đó là các quyền
khác" [98, tr.40], chẳng hạn như "quyền được tham gia các hoạt động chính trị, xã hội,
trong đó quyền bình đẳng là quan trọng nhất. Quyền này thể hiện ở chỗ tất cả mọi
người có thể sống như một cá nhân độc lập và quan hệ giữa con người với con người
là bình đẳng, xét trên phương diện nhân phẩm" [98, tr.40]. Để có được một học thuyết
7
về QCN, tác giả cho rằng phải được thiết lập qua 5 giai đoạn: thứ nhất là ý thức về
QCN; thứ hai là tư tưởng về QCN; thứ ba là QCN dưới góc độ pháp lý; thứ tư là khái
niệm QCN và thứ năm là học thuyết về QCN. Tác giả cũng khẳng định việc Trung
Quốc thực hiện cải cách, mở cửa đã đưa sự phát triển về QCN sang một giai đoạn mới.
Bằng việc thực thi dân chủ và xây dựng nhà nước pháp quyền, các QCN của người dân
Trung Quốc không ngừng mở rộng, quyền cá nhân và quyền tập thể kết hợp hòa quyện
với nhau, tạo động lực thúc đẩy lực lượng sản xuất, cải thiện mức sống của người dân.
Bài viết "Thực tế quyền con người trong chủ nghĩa xã hội và cuộc đấu tranh vì
quyền con người trên thế giới", (2002), tác giả Lang Nghị Hoài khẳng định: "Quyền
con người là một phạm trù xã hội mang tính tổng hợp, là sự giới định và thừa nhận xã
hội mà con người giành được với tư cách là sự vật tồn tại trong xã hội. Sự thừa nhận và
giới định này biểu hiện ở tư cách là người tham dự giao lưu xã hội" [48, tr.231]. Theo
tác giả, QCN nằm sâu trong mối quan hệ giữa người với người trong xã hội, do đó,
QCN trước hết là quyền của một giai cấp nhất định, có tính giai cấp rõ rệt. Sự phát triển
QCN, sự cải thiện mối quan hệ QCN là quá trình lâu dài trong lịch sử, tự do và bình
đẳng trừu tượng không phải là thước đo thông dụng đối với QCN mà chỉ là tiêu chí để
đánh giá mức độ phát triển của QCN mà thôi. Đặc biệt, trong thế giới hiện nay, việc
bảo đảm QCN và bảo vệ giữ vững chủ quyền quốc gia có mối quan hệ mật thiết và
biện chứng với nhau, do đó, cần có cái nhìn toàn diện và khoa học về QCN cũng như
các cơ chế, thiết chế bảo vệ QCN.
Ở nước ta, việc nghiên cứu QCN được bắt đầu từ cuối thập kỷ 80 của thế kỷ XX.
Tuy nhiên, thời gian này, các công trình nghiên cứu mới chỉ là bước đầu và chưa được
xã hội hóa một cách có hệ thống. Những năm 1990 là thời gian đánh dấu sự "bùng nổ"
về hoạt động nghiên cứu QCN ở Việt Nam. Hai sự kiện có thể coi là động lực thúc đẩy
hoạt động nghiên cứu QCN ở Việt Nam những năm đầu của thập kỷ này là việc sửa đổi
bổ sung Hiến pháp 1992 và việc ban hành Chỉ thị 12-CT/TW của Ban Bí thư về Vấn đề
quyền con người và quan điểm chủ trương của Đảng ta. Hiến pháp 1992, Hiến pháp
của công cuộc Đổi mới, lần đầu tiên, khái niệm QCN được quy định tại điều 50, thể
hiện sự thay đổi mang tính bước ngoặt trong nhận thức về vấn đề này ở Việt Nam. Sự
kiện này khẳng định việc đánh giá một cách chính thức của Đảng, Nhà nước Việt Nam
với vấn đề QCN, tạo nền tảng chính trị và pháp lý cho các hoạt động nghiên cứu, giảng
dạy và tổ chức thực hiện bảo đảm các QCN ở Việt Nam.
8
Trong Chương trình "Con người, mục tiêu và động lực của sự phát triển kinh tế -
xã hội", mã số KX.07/91-95, lần đầu tiên, QCN đã trở thành đối tượng nghiên cứu cấp
nhà nước. Đó là đề tài "Các điều kiện đảm bảo quyền con người, quyền công dân trong
sự nghiệp đổi mới đất nước", do Hoàng Văn Hảo chủ nhiệm. Đề tài đã tập trung phân
tích những vấn đề lý luận về QCN như: khái niệm QCN, lịch sử phát triển của QCN,
những nội dung cơ bản của QCN; thực trạng việc vi phạm QCN trên thế giới cũng như
các điều kiện đảm bảo QCN [43]. Từ đó đến nay, vấn đề QCN được nhiều học giả tập
trung nghiên cứu với nhiều công trình khoa học được công bố có giá trị cả về mặt lý
luận và thực tiễn trên hầu hết lĩnh vực của QCN, như đề tài khoa học cấp bộ "Quan
điểm C.Mác-Ph.Ăngghen về quyền con người", Hoàng văn Hảo chủ nhiệm (1997)
[46]; đề tài "Tư tưởng Hồ Chí Minh về Quyền con người", Cao Đức Thái chủ nhiệm
(1998) [104]; đề tài "Những quan điểm cơ bản của chủ nghĩa Mác-Lênin về quyền con
người và ý nghĩa với Việt Nam hiện nay" (2007), Nguyễn Đức Thùy chủ nhiệm [119],
đề tài "Tư tưởng V.I.Lênin về quyền con người", Hoàng Mai Hương chủ nhiệm (2009)
[58]; đề tài "Tư tưởng nhân quyền trong một số học thuyết chính trị, pháp lý cơ bản",
Nguyễn Duy Sơn chủ nhiệm (2013) [101]. Các công trình trên đã tập trung phân tích
những vấn đề lý luận cơ bản về QCN: nguồn gốc của QCN, khái niệm QCN, các quan
điểm, luận điểm khác nhau về QCN trong lịch sử, quan điểm của Chủ nghĩa Mác-
Lênin về QCN; tư tưởng Hồ Chí Minh về QCN cũng như các điều kiện cần thiết để bảo
đảm QCN và khẳng định: QCN là một phạm trù lịch sử; mang tính nhân loại và tính
giai cấp; nó là sản phẩm của phương thức sản xuất vật chất; gắn liền với nhà nước và
pháp luật, được bảo vệ bằng pháp luật; được thực hiện triệt để nhất trong chủ nghĩa xã
hội và chủ nghĩa cộng sản. Đây là những công trình đặt cơ sở phương pháp luận cho
việc triển khai nghiên cứu các chủ đề khác nhau về QCN.
Cùng với các đề tài khoa học, nhiều sách chuyên khảo có giá trị về QCN đã được
công bố như: "Quyền con người trong thế giới hiện đại", tác giả Phạm Khiêm Ích và
Hoàng Văn Hảo chủ biên (1995) [59], sách "Tìm hiểu vấn đề nhân quyền trong thế giới
hiện đại" (1996), Chu Hồng Thanh chủ biên [111]; sách tham khảo "Góp phần tìm hiểu
quyền con người" (2006) của tác giả Phạm Văn Khánh [61]; sách "Triết học chính trị
về quyền con người" (2006) của tác giả Nguyễn Văn Vĩnh; "Quyền con người, tiếp cận
đa ngành và liên ngành khoa học xã hội" (2009), Võ Khánh Vinh chủ biên, "Tư tưởng
về quyền con người, Tuyển tập tư liệu thế giới và Việt Nam" (2011) của Khoa Luật,
Đại học quốc gia Hà Nội [64], "Dân chủ nhân quyền giá trị toàn cầu và đặc thù quốc
9
gia" (2011) của Hội đồng Lý Luận Trung ương [55], "Quyền con người, lý luận và
thực tiễn" (2014) của Viện NC quyền con người [139],... Mặc dù cách tiếp cận và phân
tích có khác nhau, song các công trình trên đều tập trung nghiên cứu, luận giải khái
niệm QCN, bản chất đặc trưng của QCN, nội dung các quyền cơ bản của con người
cũng như các điều kiện, cơ chế bảo đảm QCN...
Trên cơ sở các công trình nghiên cứu, một số cơ sở đào tạo đã biên soạn giáo
trình giảng dạy về QCN. Tiêu biểu là giáo trình "Lý luận về quyền con người" do Viện
nghiên cứu quyền con người, Học viện Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh (2010) biên
soạn và "Giáo trình lý luận và pháp luật về quyền con người" của Khoa luật, Đại học
quốc gia (2009) [63]... Mặc dù cách tiếp cận, phân tích khác nhau, song nhìn chung,
các giáo trình này đều tập trung giới thiệu về những vấn đề lý luận của QCN như: khái
niệm QCN; đặc trưng cơ bản của QCN; nội dung cơ bản của QCN; sự phát triển QCN
trong lịch sử nhân loại; luật quốc tế về QCN; Hiến pháp, pháp luật Việt Nam về QCN;
quan điểm của Đảng, chính sách pháp luật của Nhà nước Việt Nam về QCN; phân tích
các điều kiện và cơ chế quốc gia và quốc tế bảo đảm QCN, trong đó nhấn mạnh "Ngày
nay, quyền con người đã được quốc tế hóa về nhiều mặt. Đó là việc xác lập các nguyên
tắc và chuẩn mực nhân quyền. Đó là sự hình thành cơ chế quốc tế bảo vệ quyền con
người. Tuy nhiên, việc bảo đảm các quyền con người hiện nay chủ yếu vẫn nằm trong
khuôn khổ quốc gia, trong thẩm quyền pháp lý của các nhà nước" [138, tr.126]. Vì vậy,
các quốc gia đều có nghĩa vụ ghi nhận, tôn trọng, bảo vệ, thực thi QCN theo quy định
của Luật nhân quyền quốc tế, đồng thời có trách nhiệm tôn trọng cơ chế giám sát quốc
tế và phải tuân thủ các công ước mà quốc gia đã ký kết, gia nhập....
1.1.2. Các công trình nghiên cứu về bảo đảm quyền con người
- Về khái niệm bảo đảm QCN, có nhiều công trình nghiên cứu về bảo đảm QCN,
tuy nhiên phần lớn các công trình tập trung phân tích những kết quả và thực trạng việc
bảo đảm QCN, còn vấn đề lý luận bảo đảm QCN chưa có nhiều công trình đề cập. Tác
giả Lê Hồng Sơn trong bài "Các nhân tố pháp lý tác động đến việc hình thành và hoạt
động của các cơ chế bảo đảm quyền con người" cho rằng: "Bảo đảm quyền con người
là một quá trình. Nó phụ thuộc vào tổng thể nhiều điều kiện khác nhau như kinh tế,
chính trị, văn hóa, pháp luật trong đó pháp luật có vị trí, vai trò và tâm quan trọng hàng
đầu" [99, tr.123]. Điều đó có nghĩa bảo đảm QCN không thực hiện một cách đơn lẻ mà
phụ thuộc vào nhiều điều kiện, nhiều yếu tố khác nhau, vấn đề là phải tạo ra các điều
kiện để việc bảo đảm QCN được thực hiện.
10
Khái niệm bảo đảm QCN còn được đề cập đến trong một số bài viết như: "Bảo
đảm quyền con người bằng các hình thức pháp lý hành chính" (2009) của tác giả Lê
Thị Hồng Nhung, [90]; "Vai trò của toàn án trong việc bảo đảm quyền con người,
quyền công dân" (2014) của Hoàng Hùng Hải [41]. Tác giả Hoàng Hùng Hải cho rằng:
"Bảo đảm quyền con người là hoạt động của các chủ thể thực hiện một hệ thống các
điều kiện và biện pháp về kinh tế, chính trị, văn hóa, xã hội, pháp luật hướng tới việc
bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của cá nhân, tổ chức" [41, tr.1]. Như vậy, bảo đảm
QCN theo tác giả là hoạt động có mục đích của các chủ thể nhằm tạo ra các điều kiện
cần thiết cho việc thực hiện QCN.
Ngoài ra có công trình không đề cập trực tiếp về khái niệm bảo đảm QCN mà tập
trung bàn về các điều kiện bảo đảm QCN. Chẳng hạn, nhóm tác giả đề tài "Các điều
kiện đảm bảo quyền con người, quyền công dân trong sự nghiệp đổi mới đất nước"
[43] cho rằng, bảo đảm QCN gắn liền với dân chủ, nhà nước pháp quyền, pháp luật,
dân trí, thông tin, kinh tế..., trong đó nhấn mạnh: dân chủ gắn bó hữu cơ với nhân
quyền và là công cụ, phương tiện bảo đảm và phát triển QCN. Mỗi nấc thang của dân
chủ lại mở rộng thêm phạm vi, làm sâu sắc thêm chất lượng của QCN. Pháp luật là
phương tiện để ghi nhận các QCN, là một trong những điều kiện quan trọng nhất để
QCN được thực hiện.
Tác giả Nguyễn Thị Báo trong bài viết "Một số suy nghĩ về cơ chế bảo đảm và
bảo vệ quyền con người ở Việt Nam hiện nay" (2009) cho rằng, "các quyền con người
chỉ được bảo đảm và thực hiện khi bảo đảm được các điều kiện bảo đảm về chính trị;
về mặt thể chế; về nguồn lực kinh tế và về văn hóa" [6, tr.121]. Trên cơ sở phân tích
các điều kiện bảo đảm QCN, tác giả nhấn mạnh: "sự hiện diện ở tất cả các điều kiện
bảo đảm quyền con người trên chỉ có thể được bảo đảm khi có sự vận hành của các cơ
quan trong tổ chức Đảng và các cơ quan nhà nước trên các lĩnh vực lập pháp, hành
pháp và tư pháp" [6, tr.121]. Như vậy, theo tác giả, bảo bảo đảm QCN cần có hai yếu
tố, thứ nhất là các điều kiện để bảo đảm QCN; thứ hai, cơ chế bảo đảm QCN.
- Về thực tiễn bảo đảm QCN, đã có nhiều công trình được công bố, trong đó phải
kể đến công trình nghiên cứu "Hiến pháp, pháp luật và quyền con người- Kinh nghiệm
Việt Nam và Thụy Điển", do Trung tâm NC quyền con người Việt Nam và Viện Raoul
Wallenberg Thụy Điển thực hiện (2001). Cuốn sách là tập hợp các bài viết của các học
giả hai nước về cơ chế bảo đảm QCN, vai trò của các cơ quan nhà nước trong việc bảo
đảm QCN, những thành tựu bảo đảm QCN ở Việt Nam và Thụy Điển. Bằng những lập
11
luận khoa học và các dẫn chứng sinh động về thực tiễn bảo đảm QCN ở Việt Nam
những năm qua, tác giả Hoàng Văn Hảo nhấn mạnh "Việt Nam đã đạt được những
thành tựu rất to lớn, rất cơ bản trong lĩnh vực quyền con người, quyền công dân. Đó là
quyền sống trong độc lập, tự do. Phạm vi quyền ngày càng được mở rộng theo tiến
trình phát triển của đất nước, đặc biệt là, chúng ta đã giải quyết thành công một khối
lượng lớn các vấn đề xã hội" [125, tr.153-154].
Bài viết "Thực tiễn bảo đảm quyền con người ở Việt Nam và những vấn đề đặt
ra hiện nay" của tác giả Đặng Dũng Chí (2014) tập trung phân tích thực tiễn việc bảo
đảm QCN của Việt Nam như quyền bầu cử ứng cử; quyền tự do lập hội; quyền tự do
ngôn luận, báo chí, thông tin; quyền tự do tôn giáo, tín ngưỡng; quyền giáo dục; quyền
chăm sóc sức khỏe; quyền phụ nữ, trẻ em...Tác giả khẳng định "Những thành tựu đạt
được trên lĩnh vực quyền con người trong thời gian qua tạo nền tảng vững chắc để
chúng ta giải quyết thành công những nhiệm vụ đặt ra trên lĩnh vực nhân quyền trong
giai đoạn đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa và hội nhập quốc tế" [19, tr.270].
Bài viết "Thành tựu phát triển lý luận của Đảng về quyền con người trong thời
kỳ đổi mới", tác giả Tạ Ngọc Tấn (2014) đã phân tích những thành tựu về QCN mà
Việt Nam đạt được như: (1) Khẳng định QCN là bản chất của chế độ XHCN, là mục
tiêu của Nhà nước và là động lực của sự phát triển đất nước; (2) Hình thành được
những quan điểm cơ bản về QCN làm cơ sở cho việc xem xét, thực hiện QCN ở Việt
Nam; (3) Xác định được những nhiệm vụ ưu tiên trong việc thực thi QCN ở Việt
Nam....Đánh giá về những thành tựu bảo đảm QCN của Việt Nam, tác giả nhấn
mạnh: "Đảng và Nhà nước Việt Nam đã và đang giải quyết thành công những nhiệm
vụ đặt ra trên lĩnh vực quyền con người trong giai đoạn đẩy mạnh hội nhập quốc tế,
vừa bảo đảm ngày càng tốt hơn các quyền con người cho mọi người dân Việt Nam,
vừa góp phần tích cực vào việc thúc đẩy nhân quyền quốc tế" [103, tr.10]. Những
thành tựu đó có ý nghĩa to lớn, không chỉ thể hiện sự kiên định lựa chọn con đường
XHCN của Đảng ta, mà còn góp phần vào kho tàng lý luận của các lực lượng tiến bộ
và cách mạng trên thế giới.
Ngoài các công trình trên, nhiều công trình nghiên cứu thực tiễn bảo đảm QCN
của các nhóm cụ thể. Chẳng hạn, trên lĩnh vực dân sự, chính trị, công trình: "Một số
vấn đề về quyền dân sự, chính trị" (1999) do Hoàng Văn Hảo và Chu Hồng Thanh chủ
biên [45], đề tài "Bảo đảm các quyền dân sự, chính trị trong pháp luật và thực tiễn ở
Việt Nam" (2010), Tường Duy Kiên chủ nhiệm [68], sách "Những vấn đề lý luận và
12
thực tiễn của nhóm quyền dân sự và chính trị" (2009), Võ Khánh Vinh chủ biên
[143]Các công trình này đã tập trung phân tích cơ chế bảo đảm QCN, quan điểm của
Đảng, chính sách của Nhà nước ta về quyền dân sự, chính trị; phân tích các quy định
của pháp luật quốc tế và quốc gia về các quyền dân sự, chính trị và thực tiễn thực hiện
quyền dân sự, chính trị trên các lĩnh vực: khiếu nại, tố cáo, tự do ngôn luận, tự do tín
ngưỡng, tôn giáo, tự do báo chí, thông tin, bầu cử ứng cử, quyền bình đẳng trước pháp
luật cũng như cơ chế bảo đảm quyền dân sự, chính trị... từ đó đề xuất một số ...N là những nhu cầu tự nhiên, bẩm sinh, vốn có của con người để tồn tại với tư
cách là một "thực thể tự nhiên" và với tư cách là một thực thể xã hội, được nhà nước
thừa nhận và bảo đảm bằng pháp luật [58], [59], [61], [101], [138], [144]...
Thứ hai, về bảo đảm QCN, có nhiều công trình nghiên cứu về bảo đảm QCN, tuy
nhiên phần lớn đều tập trung phân tích những kết quả và thực trạng việc bảo đảm
QCN, còn việc định nghĩa thế nào là bảo đảm QCN chưa có nhiều công trình đề cập.
Trong các tài liệu mà tác giả có điều kiện tham khảo, một vài công trình có đề cập đến
khái niệm bảo đảm QCN, song chủ yếu nhấn mạnh tới chủ thể có nghĩa vụ là nhà nước
còn các chủ thể khác chưa được đề cập đến [41], [99], [90], còn phân lớn các công
trình khác đều đề cập đến bảo đảm QCN từ góc độ phân tích về các cơ chế và điều kiện
đảm bảo QCN ở Việt Nam như bảo đảm về mặt pháp luật, bảo đảm về mặt chính sách,
hoàn thiện tổ chức bộ máy bảo đảm QCN... [17], [43], [52], [59], [91], [6],... Nhiều
công trình đề cập đến bảo đảm QCN thông qua việc phân tích, khái quát những thành
tựu và hạn chế về QCN mà Việt Nam đạt được [17], [19], [42], [91], [103]... Đây là
những tư liệu quan trọng để chúng tôi tiếp thu và tiếp tục làm sâu sắc hơn trong
Chương 2 và Chương 3 của Luận án.
24
Hai là, nhiều công trình tập trung phân tích tác động của TCH và HNQT đến
QCN và nhà nước đối với việc bảo đảm QCN, trong đó nhấn mạnh: TCH và HNQT
mở ra nhiều cơ hội cho mở rộng và thực thi QCN, song cũng đặt nhà nước trước nhiều
thách thức bởi việc tuân thủ các định chế quốc tế cùng với sự can thiệp của các tổ chức
quốc thế, các tổ chức tài chính, các tổ chức xã hội dân sự...vai trò của nhà nước dường
như bị thu hẹp. Điều này đã và đang là trở ngại cho việc nâng cao tính hiệu quả của nhà
nước đối với việc bảo đảm QCN. Kết quả nghiên cứu của các công trình này là tư liệu
quan trọng và hữu ích để luận án đề xuất cách tiếp cận mới cơ chế bảo đảm QCN trong
điều kiện HNQT [12], [22], [40], [54], [57], [70], [106]...
Ba là, nhiều công trình đã đi sâu phân tích, làm rõ vai trò quan trọng của Nhà
nước Việt Nam trong việc bảo đảm QCN. Các nghiên cứu đi sâu lý giải tầm quan trọng
của nhà nước với tư cách là chủ thể quyền lực cao nhất và duy nhất có khả năng bảo
đảm QCN.
Do đó, Nhà nước phải được coi là chủ thể có trách nhiệm chính trong việc tôn
trọng, bảo vệ và thực hiện QCN, kiềm chế, không can thiệp (cả trực tiếp và gián tiếp)
vào việc hưởng thụ các QCN đã được ghi nhận trong pháp luật; xây dựng các kế hoạch,
chương trình cụ thể để bảo đảm mọi công dân được hưởng thụ các QCN ở mức cao
nhất có thể; tổ chức thực hiện trên thực tế các biện pháp cụ thể bảo đảm QCN cho
người dân. Để thực hiện tốt các nghĩa vụ trên, nhà nước phải xây dựng hệ thống pháp
luật bảo đảm QCN, xây dựng cơ chế bảo đảm QCN; xây dựng đội ngũ cán bộ làm
công tác bảo vệ QCN; thực hiện các chính sách an sinh xã hội; tham gia hợp tác quốc
tế trên lĩnh vực QCN...
Những giá trị khoa học này có ý nghĩa phương pháp luận quan trọng, là tiền đề để
luận án phân tích sâu sắc hơn cơ sở triết học của vai trò nhà nước đối với việc bảo đảm
QCN trong HNQT [20], [22], [36], [63], [65], [91], [120], [121]...
Bốn là, các công trình nghiên cứu đã đề xuất phương hướng, kiến nghị, giải pháp
quan trọng mà Nhà nước ta cần phải làm để thực hiện tốt nghĩa vụ bảo đảm QCN của
mình. Nhiều kiến nghị có giá trị khoa học và thiết thực cho các nhà hoạch định chính
sách, thực thi chính sách, các cơ quan trong tổ chức bộ máy nhà nước, cơ quan nghiên
cứu, giảng dạy và các nhà khoa học như kiến nghị về xây dựng và hoàn thiện hệ thống
chính sách, pháp luật mang tính đồng bộ về QCN; củng cố, hoàn thiện tổ chức bộ máy
Nhà nước để bảo vệ QCN; tăng cường sự lãnh đạo của Đảng đối với Nhà nước trên
lĩnh vực QCN; thực hiện cải cách tư pháp; cải cách hành chính; phát triển kinh tế gắn
25
với bảo đảm QCN; tuyên truyền giáo dục QCN; tăng cường HTQT trên lĩnh vực
QCN... Đây là những hướng gợi mở quan trọng để luận án đề xuất những giải pháp cơ
bản góp phần nâng cao vai trò của Nhà nước đối với việc bảo đảm QCN trong điều
kiện HNQT [18], [20], [22], [54], [120], [126], [138]...
1.3.2. Những vấn đề đặt ra mà luận án tiếp tục nghiên cứu
Các công trình nghiên cứu nêu trên đã có nhiều đóng góp khoa học quan trọng
khi nghiên cứu những vấn đề lý luận về QCN, bảo đảm QCN, thực tiễn bảo đảm QCN,
tác động của TCH và HNQT đến QCN và Nhà nước Việt Nam đối với việc bảo đảm
QCN. Tuy nhiên, việc nghiên cứu về nhà nước đối với việc bảo đảm QCN trong điều
kiện HNQT, nhất là tiếp cận dưới góc độ triết học thì hầu như chưa có.
Do đó, hướng nghiên cứu và cách tiếp cận vấn đề này trong luận án là hoàn toàn
mới. Kế thừa những giá trị mà các công trình trước, luận án tiếp tục đi sâu phân tích
những vấn đề sau:
Thứ nhất, luận án góp phần làm rõ khái niệm QCN, bảo đảm QCN, phân tích đặc
trưng bản chất của QCN, các điều kiện bảo đảm QCN.
Thứ hai, luận án phân tích và luận giải về tầm quan trọng của nhà nước đối với
việc bảo đảm QCN; phân tích những biểu hiện cụ thể của vai trò nhà nước đối với việc
bảo đảm QCN; đưa ra kinh nghiệm của một số quốc gia trên thế giới và khu vực trong
việc phát huy tính hiệu quả của nhà nước đối với việc bảo đảm QCN làm cơ sở để so
sánh với việc bảo đảm QCN của Nhà nước Việt Nam.
Thứ ba, luận án góp phần làm rõ khái niệm HNQT, quá trình HNQT của Việt
Nam, tác động HNQT đến QCN và Nhà nước Việt Nam với việc bảo đảm QCN.
Thứ tư, luận án đánh giá thực trạng việc phát huy vai trò của Nhà nước Việt Nam
đối với việc bảo đảm QCN, đánh giá những thành tựu đạt được, những hạn chế tồn tại
và nguyên nhân, cũng như những vấn đề đặt ra đối với Nhà nước Việt Nam đối với
việc bảo đảm QCN trong điều kiện HNQT.
Thứ năm, đề xuất một số quan điểm và giải pháp chủ yếu nhằm nâng cao tính
hiệu quả của Nhà nước đối với việc bảo đảm QCN trong điều kiện HNQT ở Việt Nam
hiện nay.
Tuy nhiên, chúng tôi cũng xác định rằng, đây là vấn đề rất mới và khó, nên
những kết quả nghiên cứu trong luận án chỉ là bước đầu, vấn đề này vẫn cần tiếp tục
nghiên cứu sâu hơn trong những công trình tiếp theo.
26
Chương 2
BẢO ĐẢM QUYỀN CON NGƯỜI
VÀ NHÀ NƯỚC ĐỐI VỚI VIỆC BẢO ĐẢM QUYỀN CON NGƯỜI
2.1. QUYỀN CON NGƯỜI VÀ BẢO ĐẢM QUYỀN CON NGƯỜI
2.1.1. Quyền con người - một số vấn đề lý luận cơ bản
2.1.1.1. Khái niệm quyền con người
Để làm rõ khái niệm bảo đảm QCN, trước tiên cần tìm hiểu QCN là gì? Cho đến
nay, có hàng trăm định nghĩa khác nhau về QCN dưới nhiều cách tiếp cận khác nhau,
điển hình là:
Từ phương diện pháp lý, Văn phòng Cao ủy LHQ định nghĩa: "Quyền con người
là những bảo đảm pháp lý toàn cầu (universal legal guarantees) có tác dụng bảo vệ các
cá nhân và các nhóm chống lại những hành động hoặc sự bỏ mặc làm tổn hại đến nhân
phẩm, sự được phép và tự do cơ bản của con người [151, tr.8].
Định nghĩa này được các nhà nghiên cứu trích dẫn khá phổ biến trong nhiều thập
kỷ qua. Cơ sở của định nghĩa này bắt ngồn từ Thuyết nhân quyền pháp lý (legal rights).
Theo Thuyết nhân quyền pháp lý, QCN không phải là những gì bẩm sinh, vốn có một
cách tự nhiên mà phải do các nhà nước xác định và pháp điển hóa thành các quy phạm
pháp luật. Chẳng hạn, Jeremy Bentham trong tác phẩm "Phê phán học thuyết về các
quyền tự nhiên, không thể chuyển nhượng" (1843), khẳng định: ý tưởng về quyền tự
nhiên là vô nghĩa và chẳng có quyền nào không thể chuyển nhượng được. Quyền con
người là tất cả những gì mà nhà nước thông qua pháp luật để quy định cho cá nhân. Chỉ
những gì pháp luật cho phép tự do làm hay không làm thì mới là QCN.
Xét về bản chất QCN, Thuyết nhân quyền pháp lý có điểm hợp lý là gắn QCN
với pháp luật, với nhà nước và thấy được vai trò quan trọng, tầm quan trọng của pháp
luật trong việc bảo vệ QCN "không có pháp luật thì không có quyền". Tuy nhiên, nếu
chỉ coi ý chí nhà nước là nguồn gốc của QCN, coi trọng tính hợp pháp của quyền mà
không quan tâm đến tính hợp lý của QCN (đó là những đòi hỏi, nhu cầu bẩm sinh, tự
nhiên, hợp lý của cuộc sống con người, coi nhẹ cơ sở giá trị của đạo đức, văn hóa) sẽ
rơi vào chủ quan, siêu hình, biến QCN trở thành công cụ phục vụ giới cầm quyền, cổ
vũ tính quan liêu của bộ máy nhà nước.
Từ phương diện "Pháp quyền tự nhiên"(Natural rights), "nhân quyền là những
quyền bẩm sinh, vốn có của con người" [140, tr.1239]. Đó là "quyền tự nhiên và cố hữu
của con người" [150, tr.6], là "những đặc quyền được các quy tắc điều khiển mà con
27
người giữ riêng lấy trong các quan hệ của mình với những cá nhân và chính quyền"
[60, tr.12]. Các định nghĩa về QCN này bắt nguồn từ Thuyết pháp quyền tự nhiên thời
kỳ Phục Hưng. Theo học thuyết này, ở trạng thái tự nhiên, con người có các quyền tự
do, bình đẳng và tư hữu. Đó là các quyền bẩm sinh, vốn có được bắt nguồn từ "bản
chất muôn đời và bất biến của con người" [82, tr.80]. Trách nhiệm của nhà nước là phải
bảo đảm các quyền tự nhiên cho các công dân của họ. Bằng việc khẳng định các QCN
là tự nhiên, bẩm sinh, Thuyết pháp quyền tự nhiên thể hiện khát vọng của các thế lực
tiến bộ chống lại những bất công trong xã hội, đòi QCN. Tuy nhiên, nếu quá nhấn
mạnh tính tự nhiên của QCN dễ dẫn đến xem nhẹ nguồn gốc xã hội của QCN, không
thấy được tính lịch sử, tính giai cấp của QCN.
Từ phương diện chính trị- xã hội, học giả Trung Quốc, Lang Nghị Hoài cho rằng:
"quyền con người là một phạm trù xã hội mang tính tổng hợp, là sự giới định và thừa
nhận xã hội mà con người giành được với tư cách là một tồn tại xã hội" [49, tr.231].
Vấn đề "then chốt là ở chỗ phải gắn tiêu chuẩn quyền con người với những lý giải khác
nhau và tính đặc thù của mỗi quốc gia, mỗi giai cấp" [49, tr.232]. Với cách tiếp cận
này, QCN không phải xuất phát từ bản năng mà chịu sự chi phối của chế độ xã hội.
Điểm hợp lý của quan niệm nhân quyền này là nhấn mạnh sự thừa nhận của xã hội và
lịch sử đấu tranh của con người giành lấy quyền của mình, song nếu quá nhấn mạnh
đến tính xã hội của QCN, dễ dẫn đến phủ nhận hoặc coi thường QCN với tư cách là
con người cá nhân, hòa tan giá trị cá nhân vào trong xã hội.
Từ phương diện đạo đức, nhân quyền được định nghĩa "là quyền lợi được thừa
nhận, bảo đảm rõ ràng về mặt pháp lý để mỗi cá nhân có thể được hưởng một cách độc
lập, đầy đủ, tự do nhất về các lĩnh vực cá tính, tinh thần, đạo đức" [142, tr.606].
Từ các cách tiếp cận trên cho thấy, QCN là vấn đề chính trị- xã hội phức tạp.
Nhận thức về QCN không chỉ phụ thuộc vào quan điểm chính trị, mà còn ảnh hưởng
sâu sắc truyền thống lịch sử, văn hóa của mỗi quốc gia. Thời gian qua, khi các nước
Phương Tây luôn có xu hướng đề cao quyền cá nhân, coi trọng tính tự nhiên của QCN,
xem quyền dân sự, chính trị là nội dung quan trọng, cốt lõi của QCN thì ở Phương
Đông lại đề cao quyền lợi của cộng đồng, nhấn mạnh đến tính lịch sử, xã hội của QCN,
coi trọng các quyền kinh tế, xã hội, văn hóa của con người cũng như điều kiện để thực
hiện các quyền đó. Trong bối cảnh chưa có quan điểm thống nhất về QCN, có thể dẫn
đến những lý giải tùy tiện về nguồn gốc, bản chất của QCN. Vì vậy, để tránh lạm dụng
28
vấn đề QCN, cần phải có một quan niệm thống nhất. Để đạt được điều đó, theo chúng
tôi, trước hết phải dựa vào chủ nghĩa Mác - Lênin.
Theo quan điểm của chủ nghĩa Mác- Lênin, con người tự phân biệt với con vật
nhờ có lao động, ngôn ngữ trong các quan hệ với tự nhiên và xã hội. Trong tác phẩm
"Hệ tư tưởng Đức", C.Mác viết: "Có thể phân biệt con người với con vật bằng ý thức,
bằng tôn giáo, nói chung bằng bất cứ cái gì cũng được. Bản thân con người bắt đầu tự
phân biệt với con vật ngay khi bắt đầu sản xuất ra tư liệu sinh hoạt của mình - một
bước tiến do tổ chức cơ thể của con người quy định" [78, tr.24]. Thế giới tự nhiên đã
không thỏa mãn nhu cầu của con người, nên con người quyết định bằng hành động của
mình sáng tạo ra thiên nhiên thứ hai như một tồn tại xã hội cho con người, từ đó, con
người sáng tạo ra lịch sử và văn hóa, hình thành các quyền và nghĩa vụ trong đời sống
cộng đồng. Ở trạng thái ban đầu, các quyền là thái độ của con người coi những điều
kiện tự nhiên của sản xuất của mình như một cái gì thuộc về mình, đã có từ trước cùng
với sự tồn tại của bản thân mình [78, tr.145], do đó, cơ sở phát sinh quyền ở đây không
phải bắt nguồn từ khái niệm nảy sinh ra trong đầu óc con người như các nhà triết học
duy tâm quan niệm mà theo C.Mác, chúng "bắt nguồn từ quan hệ vật chất giữa người
với người và từ sự đấu tranh giữa người với người do quan hệ đó gây ra" [78, tr.458].
Trong xã hội nguyên thuỷ, chưa có sự phân hóa giàu nghèo, giai cấp, quyền và nghĩa
vụ con người là ngang bằng và thống nhất một cách tự nhiên. Với tư cách là chủ thể
của sản xuất, con người có những quyền nhất định được xã hội mà nó đang tồn tại công
nhận, mặt khác, với tư cách là thành viên của xã hội, con người phải thực hiện các
nghĩa vụ của mình nhằm duy trì sự tồn tại và cố kết cộng đồng. Chính sự thống nhất tự
nhiên này giúp con người tận dụng các năng lực của mình, hợp thành các yếu tố cơ bản
trong nhân cách con người cùng các giá trị chân, thiện, mỹ đã phát triển trong lịch sử.
Như vậy, con người có quan hệ với quyền của mình là nhằm xác lập những hành động
phù hợp với ý chí của họ, tác động làm thay đổi thế giới mà họ đang tồn tại và phát
triển và là yếu tố cần thiết để xác lập vị trí và đặc tính các hội của con người. Tuy
nhiên, trong điều kiện của xã hội đó thì "nhiều lắm cũng chỉ có thể nói về quyền bình
đẳng giữa những thành viên của cộng đồng, lẽ dĩ nhiên phụ nữ, nô lệ, người ngoại lai
đều không có quyền đó" [80, tr.149].
Sau này, khi xã hội có sự phân chia giai cấp, khi lực lượng sản xuất đã vượt ra
khỏi khuôn khổ của xã hội cộng sản nguyên thủy, phân công lao động phát triển, những
mây thuẫn và xung đột xã hội xuất hiện là cơ sở cho việc hình thành những hình thái xã
29
hội áp đặt và nô dịch người lao động. Bước tiến văn minh đầu tiên về tổ chức xã hội
được đánh dấu bằng sự ra đời của nhà nước và cùng với quá trình này là thiết lập quyền
của chủ nô thống trị và tước đoạt quyền của người nô lệ. Giai cấp chủ nô được quyền
lựa chọn mục đích và phương tiện sản xuất, trái lại, người nô lệ luôn phải thực hiện ý
chí của giai cấp thống trị. Thời kỳ này mở đầu sự tha hóa về quyền và nghĩa vụ con
người. Trong tác phẩm "Hệ tư tưởng Đức", C.Mác đã phân tích sâu sắc về sự tha hóa
và xem nó như một tất yếu lịch sử, được diễn ra trong tất cả các giai đoạn phát triển của
xã hội loài người kể từ khi xã hội có sự phân chia giai cấp và đạt tới giai đoạn phát
triển toàn diện trong xã hội tư bản. Trong tha hóa, các quá trình sản xuất ra của cải vật
chất, kết quả của lao động, các thiết chế xã hội, cả nhà nước và thị trường..." đã trở
thành một lực lượng xa lạ, đối lập với con người và nô dịch con người, chứ không phải
con người thống trị" [78, tr.47]. Sở dĩ có tình trạng trên vì con người không phải là một
cá nhân trừu tượng hay cô lập, mà là một động vật xã hội luôn gắn bó với một hệ thống
xã hội đang tồn tại, với một giai cấp, một dân tộc, một nhóm người hay một ngành
nghề xác định đang vận hành theo những quy luật riêng của nó. Do vậy, con người luôn
bị giới hạn và lệ thuộc vào xã hội. Trong hoàn cảnh đó, nhiều thế lực xã hội như chế độ
tư hữu, nhà nước của giai cấp bóc lột và các lực lượng chưa được kiểm soát được luôn
áp đặt con người trên cả phương diện kinh tế lẫn phương diện chính trị -xã hội. Trong
đời sống, "hoạt động của chúng chẳng những đối lập với ý chí loài người, mà trái lại
còn điều khiển ý chí ấy và hành động ấy" [78, tr.49]. Đó là những thời kỳ lịch sử con
người bị tước đoạt các quyền tự do và là nguồn gốc xã hội chủ yếu để các giai cấp bị áp
bức, các lực lượng tiến bộ đấu tranh đòi QCN, giành lấy địa vị xứng đáng là con người.
Tuy nhiên, trong sự phát triển của lịch sử, con người không chấp nhận sự lệ thuộc
và sự tha hóa như một định mệnh, mà con người luôn cố gắng vượt qua những trở ngại
nhờ hoạt động thực tiễn của mình. Ngay trong các trường hợp con người bị tước đoạt
nhiều nhất về các phương tiện hoạt động, thì nó vẫn chứa đựng khả năng của một
‘động vật chính trị" như Aristotle quan niệm hay khả năng làm thay đổi hoàn cảnh của
chính mình như C.Mác đã khẳng định trong "Luận cương về Feuerbach" và những khả
năng này càng được gia tăng cùng với sự phát triển của lực lượng sản xuất và sự trưởng
thành của giai cấp công nhân, của tri thức và văn hóa, nó giúp con người vượt qua giới
hạn của sự lệ thuộc và tha hóa. Trong quá trình này, những yêu sách về QCN bắt nguồn
từ phẩm giá con người và những giá trị bình đẳng, tự do đã sản sinh ra trong lịch sử tìm
được khả năng hiện thực hóa các quyền của mình trong những hành động tập thể của
30
các nhóm xã hội, các giai cấp, các đảng phái chính trị, nhằm vượt qua những hình thức
ép buộc và bất công, tổ chức xã hội theo đó mọi người đều có được cơ hội để phát triển
năng lực của mình, được lựa chọn những hành động có ý nghĩa cho chính họ và cho xã
hội. Vì vậy, trong quan niệm của chủ nghĩa Mác - Lênin, khái niệm nhân quyền luôn
gắn với các hành động tự giải phóng của các giai cấp bị áp bức, nó là sự xác nhận các
khả năng để con người khắc phục sự tước đoạt và tình trạng mất tự do trong tiến trình
lịch sử. Vì vậy, C.Mác khẳng định "quyền con người với tư cách là hiện thân của tự do"
[76, tr.183], hiện thân của ý thức và hành động đã giúp cho con người vượt qua sự lệ
thuộc, thực hiện sự phát triển toàn diện con người.
Từ phân tích trên, có thể khẳng định, QCN không có nguồn gốc thuần túy từ tự
nhiên "về nhân quyền, sự phê phán không nói ra điều nào có tính phê phán hơn điều
mà Hêghen nói, nhân quyền không phải là bẩm sinh, mà là sản sinh ra trong lịch sử"
[77, tr.173] và không phải được suy ra từ "ý niệm" mang tính chủ quan, trừu tượng mà
xuất phát từ bản chất xã hội của con người. Nó là một giá trị xã hội, mà con người
giành được để đi đến sự phát triển tự do, nó không chỉ liên quan đến kinh tế, mà còn có
quan hệ mật thiết với văn hóa, văn minh, thúc đẩy sự phát triển của xã hội phù hợp với
quy luật khách quan của lịch sử.
Trong đời sống hiện thực, QCN luôn tồn tại dưới hình thức các quyền tự do, bình
đẳng trên nhiều lĩnh vực liên quan đến sự mở rộng các khả năng đa dạng của con
người, nó là sự thống nhất biện chứng giữa khả năng xã hội và khả năng cá nhân trong
sự phát triển lịch sử, bởi "chỉ có trong cộng đồng cá nhân mới có được phương tiện để
có thể phát triển toàn diện những năng khiếu của mình và do đó, chỉ có những cộng
đồng mới có thể có tự do cá nhân" [76, tr.108]. Quyền tự do theo quan điểm Mác-xít
không phải là "một thứ tự do tuyệt đối của ý muốn" mà nó bao hàm một sự lựa chọn có
lý do - "sự phát triển tự do". Đó là sự phát triển phù hợp với phẩm giá con người, là sự
phát triển tuân theo quy luật khách quan của lịch sử.
Tiến trình phát triển của lịch sử, kể từ khi xuất hiện nhà nước và pháp luật, QCN
không chỉ tồn tại trong hình thức các tập quán xã hội, mà còn được xác lập trong các
hình thức pháp lý, trực tiếp phản ánh mối quan hệ giữa con người với quyền lực chính
trị của nhà nước. Với tư cách là một quan hệ pháp lý, QCN chính là sự thừa nhận xã
hội dưới hình thức pháp luật các quyền tự do được hình thành trong quá trình con
người tổ chức xã hội và phát triển năng lực của mình. Trong mối quan hệ này, pháp luật
đóng vai trò hợp pháp hoá ý nghĩa quan trọng về mặt đạo đức và lẽ phải các quyền tự
31
do được áp dụng phổ biến cho mọi người. Mặt khác, thông qua pháp luật, QCN xác lập
vị trí độc lập của nó trong quan hệ với quyền lực nhà nước và các tổ chức kinh tế, xã
hội khác. C.Mác viết: "Tự do là cái vốn có của con người đến mức ngay cả kẻ thù của
tự do cũng thực hiện tự do... Luật pháp không phải là những biện pháp đàn áp tự do,
ngược lại luật pháp là tiêu chuẩn rõ ràng, phổ biến, trong đó tự do có một sự tồn tại vô
ngã, mang tính lý luận, không phụ thuộc vào sự tùy tiện của cá nhân riêng lẻ" [81,
tr.133-134]. Đây là dấu hiệu đặc trưng của khái niệm QCN, phân biệt với các khái niệm
khác có liên quan đến đời sống xã hội của con người như đạo đức, lòng từ thiện, nhu
cầu, lợi íchTrong tác phẩm "Chủ nghĩa xã hội pháp lý" (1886), Ph.Ăngghen phân
tích về bản chất và đặc trưng của nhân quyền. Theo Ph.Ăngghen, xét về bản chất, QCN
là hiện thân của tự do, xuất phát từ con người hiện thực. Về đặc trưng, nhân quyền tồn
tại trong các hình thức, các chuẩn mực khách quan nhằm xác lập những hành động có ý
thức của xã hội hướng đến việc đáp ứng nhu cầu và phẩm giá của con người. Đây là sự
thống nhất giữa khách quan và chủ quan, giữa mục đích và phương tiện; giữa khả năng
và hiện thực, thúc đẩy sự phát triển của cá nhân và xã hội. Cách luận giải này cho
chúng ta thấy vai trò pháp luật trong việc ghi nhận các quyền cơ bản của con người.
Từ sự trình bày trên, có thể nhận xét, khái niệm QCN trong quan niệm của chủ
nghĩa Mác-Lênin là sự thống nhất biện chứng giữa nhu cầu, năng lực vốn có của con
người với các hoạt động chính trị - thực tiễn của con người, khẳng định những phẩm
giá của con người và thúc đẩy sự phát triển xã hội phù hợp với phẩm giá con người.
Điều đó làm cho QCN đóng vai trò quan trọng trong sự nghiệp giải phóng giai cấp
công nhân và nhân dân lao động, nó hợp thành nội dung cơ bản của sự phát triển toàn
diện, sự phát triển lấy con người làm trung tâm. Đây là mô hình nhân quyền tổng quát,
khả thi để triển khai và đánh giá các QCN của các cá nhân cũng như xã hội. Do đó,
chúng tôi cho rằng, quyền con người là một phạm trù chính trị- xã hội - lịch sử, phản
ánh nhu cầu, lợi ích, năng lực vốn có, chỉ có ở con người dưới hình thức các chuẩn
mực khách quan, được xã hội thừa nhận và bảo đảm bằng các quy định pháp luật.
Khái niệm QCN mà chúng tôi đưa ra thể hiện những nội dung cơ bản sau:
Thứ nhất, QCN là những nhu cầu, lợi ích vốn có và cần phải có của con người
để tồn tại với tư cách là một "thực thể tự nhiên" (nhu cầu để sống, để sinh tồn) và
với tư cách là một "nhân tính tự do" (nhu cầu về sự phát triển năng lực vốn có của
bản thân, về sự hoàn thiện nhân cách). Các nhu cầu vốn có này áp dụng chung cho
tất cả mọi người mà không có sự phân biệt nào về chủng tộc, màu da, giới tính,
32
ngôn ngữ, tôn giáo, chính kiến, quan điểm khác, nguồn gốc dân tộc hoặc xã hội
v.v... "Sự hiện diện các quyền con người phụ thuộc vào con người chứ không phải
phụ thuộc vào địa vị của họ trong nền văn hóa, hoàn cảnh hoặc hệ thống xã hội mà
họ đang sinh sống" [129, tr.16].
Thứ hai, các nhu cầu, lợi ích của con người mang tính thiết yếu và có mối quan
hệ thống nhất, không thể tách rời. Mức độ bảo đảm các nhu cầu, lợi ích này không phải
đều như nhau mà phải có thứ tự ưu tiên, nghĩa là có những nhu cầu cần phải bảo đảm
trước tiên để làm tiền đề, nền tảng cho việc thực hiện các nhu cầu khác. Chẳng hạn,
nhu cầu sinh tồn là nhu cầu đầu tiên và thiết yếu của con người. Để bảo đảm được nhu
cầu sinh tồn (quyền sống), con người cần có thức ăn, nước uống, môi trường sống...Vì
thế, các QCN (với tính cách là những nhu cầu được xã hội thừa nhận) có mối quan hệ
biện chứng, quy định lẫn nhau, trong đó, có những quyền là tiền đề, là hạt nhân, là
chuẩn mực của việc thực hiện các quyền khác.
Thứ ba, những nhu cầu, năng lực, lợi ích này phải được xã hội thừa nhận và bảo
đảm thông qua các chế định pháp luật. Pháp luật là phương tiện chính thức hóa các giá
trị xã hội của QCN. Nếu không có sự thừa nhận của xã hội thông qua pháp luật thì
những nhu cầu, lợi ích vốn có của con người chưa trở thành quyền mà chỉ dừng lại ở
mong muốn, khát vọng mà thôi. Do đó, sự ghi nhận của pháp luật đã "khuôn" các nhu
cầu, lợi ích của con người vào điều kiện thực tế. Hơn nữa, việc ghi nhận của pháp luật
về các QCN còn thể hiện mối quan hệ giữa pháp luật và các điều kiện bảo đảm khác
(chính trị, kinh tế, văn hóa...). Các điều kiện trên đều phải thông qua pháp luật, thể hiện
dưới hình thức pháp luật mới trở thành giá trị xã hội ổn định, được hiện thực hóa trên
qui mô toàn xã hội. Chỉ có như vậy thì các điều kiện đó mới phát huy được vai trò của
mình trong việc bảo đảm QCN.
Để hiểu rõ hơn về QCN, chúng ta phân biệt: quyền con người và quyền công dân.
Đây là hai phạm trù gần nhưng không hoàn toàn đồng nhất.
Quyền công dân (citizen’ ringhts) chỉ gắn liền với sự xuất hiện của cách mạng tư
sản. Có thể khẳng định, cách mạng tư sản đã cống hiến cho nhân loại một giá trị nhân
văn to lớn là đưa con người từ những địa vị thần dân trở thành những công dân (với tư
cách là những thành viên bình đẳng của một nhà nước) và pháp điển hóa các quyền tự
nhiên của con người dưới hình thức các QCD trong pháp luật. Xét về bản chất, "quyền
công dân chính là quyền con người được các nhà nước thừa nhận và áp dụng cho công
dân của nước mình" [37, tr.21].
33
Quyền công dân là QCN trong một xã hội cụ thể, đứng trong một chế độ chính
trị, xã hội nhất định với hệ thống pháp luật cụ thể do nhà nước thừa nhận và quy định.
C.Mác khẳng định: "Droits de I’homme - nhân quyền khác với droits du citoyen -
quyền công dân nhà nước" [76, tr.549] và sự khác biệt của "cái gọi là nhân quyền,
droits de I’homme" với "droits du citoyen, chẳng qua chỉ là những quyền của thành
viên xã hội công dân" [76, tr.549]. Do đó, QCD là QCN với tư cách là thành viên của
cộng đồng chính trị, cộng đồng nhà nước. Nói cách khác, đó là những quyền chính
trị, những quyền cá nhân con người với tư cách là thành viên "xã hội công dân", còn
"quyền con người là những đặc quyền chỉ có ở con người với tư cách là con người, là
thành viên của xã hội loài người" [123, tr.14].
Nếu như quyền công dân là sự thể chế hóa về mặt nhà nước bằng pháp luật địa vị
con người trong khuôn khổ nhà nước, là sự thừa nhận, trong chừng mực mà nhà nước
chấp nhận, địa vị con người của cá nhân trong nhà nước, thì QCN ở đây được biểu hiện
ra như một quan hệ xã hội, quan hệ giữa con người với xã hội (tức là con người được
hiểu là một thực thể xã hội) với môi trường xã hội (bao gồm cả lịch sử, văn hóa, các
quan hệ dân tộc, tôn giáo, quốc gia, nhân loại...). Trong mối quan hệ giữa cá nhân và xã
hội, QCN bao hàm cả những quyền tự nhiên được xác định khi họ sinh ra và theo họ
trong suốt cuộc đời (quyền sống, quyền bất khả xâm phạm về thân thể, quyền tự do...).
Các quyền đó đóng vai trò "là cơ sở để xác định tính điều chỉnh, tự định đoạt của con
người, khả năng độc lập của con người trong việc giải quyết các nhu cầu cá nhân" [141,
tr.22]. Trong mối quan hệ với cộng đồng nhân loại, QCN không chỉ bao gồm những
nhu cầu, lợi ích của con người được ghi nhận và bảo đảm bằng pháp luật quốc gia mà
còn là những nhu cầu, lợi ích được ghi nhận và bảo đảm trong pháp luật quốc tế. Do
đó, phạm vi áp dụng của QCN không bị giới hạn bởi chế định quốc tịch mà chủ thể của
QCN là tất cả các thành viên của loài người, bất kể vị thế, hoàn cảnh, quốc tịch... Nói
cách khác, QCN được áp dụng một cách bình đẳng với tất cả mọi người thuộc mọi dân
tộc đang sinh sống trên phạm vi toàn cầu, không phụ thuộc vào biên giới quốc gia, tư
cách cá nhân hay môi trường sống của chủ thể quyền.
Một cá nhân con người (ngoại trừ những người không có quốc tịch), về hình thức
đồng thời là chủ thể của cả hai loại QCN và QCD. Sự phân biệt trong việc hưởng thụ
hai loại quyền này chỉ được thể hiện trong một số hoàn cảnh đặc biệt. Chẳng hạn, một
người nước ngoài sẽ không được hưởng một số QCD (và cũng là QCN) đặc thù như
quyền bầu cử, ứng cử như công dân của nước mà người đó sinh sống, làm việc, nhưng
34
người đó vẫn được hưởng các QCN phổ biến (mà đồng thời cũng là các quyền công
dân) áp dụng cho mọi thành viên của nhân loại như: quyền sống, quyền tự do và an
ninh cá nhân...
2.1.1.2. Đặc trưng của quyền con người
Theo nhận thức chung của cộng đồng quốc tế, QCN có đặc trưng cơ bản sau:
Một là, QCN là quyền bẩm sinh, vốn có của con người. Quyền con người vừa
phản ánh nhu cầu tự nhiên, khách quan vừa thể hiện ý chí chủ quan của từng con người
và xã hội trong mối quan hệ giữa cá nhân với cá nhân, cá nhân với cộng đồng và cá
nhân với nhà nước. Với tư cách là thành viên cá nhân trong xã hội, con người có khả
năng tự quyết định việc thực hiện quyền và nghĩa vụ của mình mà không xâm phạm
đến quyền và lợi ích của người khác. Điều này có nghĩa rằng, mọi người đều có các
quyền bẩm sinh, thuộc sở hữu vốn có của con người mà đã là tự nhiên, bẩm sinh, vốn
có thì không thể bị xâm phạm, không thể được ban phát, chuyển nhượng, tước đoạt hay
hạn chế một cách tùy tiện bởi bất cứ chủ thể nào, kể cả các cơ quan và quan chức nhà
nước, trừ một số trường hợp đặc biệt (như khi một người phạm một tội ác thì có thể bị
tước đoạt quyền tự do) và càng không thể ban phát, chuyển nhượng quyền sống của
người này cho người khác, hoặc chuyển nhượng nhượng danh dự, nhân phẩm của
người này cho người khác...
Hai là, QCN mang giá trị "phổ biến, không chia cắt và phụ thuộc lẫn nhau"
[134, tr.441]. Quyền con người là thành quả phát triển lâu dài mang giá trị phổ biến,
là một trong những giá trị tinh thần quý báu nhất, cao cả nhất kết tinh những giá trị
nhân văn của nhân loại. Đó là những giá trị được bắt nguồn từ phẩm giá vốn có của
con người và được áp dụng cho tất cả các thành viên trong gia đình nhân loại,
không có sự phân biệt đối xử về chủng tộc, màu da, giới tính, độ tuổi, địa vị xã
hội....Do đó, "các quyền con người, không còn nghi ngờ gì nữa, là phổ biến" [149,
tr.1] và "Bản chất phổ cập của các quyền và tự do không có gì phải tranh cãi" [124,
tr.93]. Tính phổ biến của QCN đòi hỏi các nhà nước tuân thủ nghiêm túc các tiêu
chuẩn nhân quyền trong các Công ước quốc tế mà họ là thành viên. Các chính phủ
không được tùy tiện lựa chọn QCN nào thì thực hiện, QCN nào thì không, vì như
vậy, sẽ coi là không hoàn thành...ách bảo hiểm thất nghiệp (có hiệu lực từ năm 2009) là những
bước phát triển mới về hoàn thiện khung chính sách trong lĩnh vực này. Bên cạnh
đó, các chương trình phát triển thị trường lao động chủ động, nhất là các biện pháp
kết nối cung-cầu lao động được cải thiện. Nhờ đó, các kênh giao dịch trên thị
trường lao động ngày càng đa dạng, trong đó mạng lưới cơ sở dịch vụ việc làm đã
phát triển với hai loại hình Trung tâm giới thiệu việc làm Nhà nước (130 trung tâm)
và các doanh nghiệp dịch vụ việc làm tư nhân (trên 100 doanh nghiệp). Trung tâm
dự báo và thông tin về thị trường lao động bước đầu hình thành và vận hành tốt.
Quỹ Quốc gia về việc làm đã góp phần tạo việc làm cho khoảng 160.000 lao động,
tạo điều kiện cho nhóm đối tượng dễ bị tổn thương (lao động khuyết tật, người dân
tộc thiểu số, lao động vùng chuyển đổi mục đích sử dụng đất nông nghiệp) có cơ
hội vay vốn phát triển kinh doanh.
48. Các chương trình phát triển thị trường lao động chủ động đã hỗ trợ người
dân có việc làm và tăng thu nhập. Tỉ lệ thất nghiệp chung của cả nước giảm rõ rệt từ
2,9% năm 2009 xuống còn 1,99% năm 2012. Riêng năm 2012, đã tạo thêm 1,52
triệu việc làm, trong đó 80 nghìn lao động đi làm việc ở nước ngoài theo hợp đồng
lao động. Thu nhập bình quân đầu người theo giá thực tế năm 2010 tăng gấp 3,5 lần
so với năm 2000.
Xóa đói, giảm nghèo
49. Giảm nghèo toàn diện và bền vững luôn được xác định là ưu tiên hàng
đầu của Chính phủ Việt Nam trong việc bảo đảm các quyền con người và các Mục
tiêu Thiên niên kỷ của Liên hợp quốc (MDGs). Trong những năm gần đây, công
cuộc giảm nghèo tại Việt Nam đã có những bước tiến vượt bậc. Nhờ các thành tựu
về tăng trưởng kinh tế và chính sách an sinh xã hội, Việt Nam đã hoàn thành trước
thời hạn MDG về xóa đói, giảm nghèo. Tỷ lệ hộ nghèo trên cả nước đã giảm từ
13,7% năm 2008 xuống còn 9,6% năm 2012. Thu nhập bình quân của hộ nghèo
tăng gần 2 lần trong 5 năm qua. Năm 2012, số lượt hộ thiếu đói giảm 27,6% và tỷ lệ
hộ nghèo cả nước cũng giảm 1,76% so với năm 2011. Xu thế giảm mạnh được thể
hiện ở cả 3 thước đo nghèo quan trọng: tỉ lệ nghèo, khoảng cách nghèo và mức độ
185
nghiêm trọng của nghèo. Điều quan trọng là không chỉ một số lượng lớn người dân
thoát nghèo mà mức sống và chất lượng sống của họ được cải thiện đáng kể.
50. Các chương trình và chính sách giảm nghèo của Chính phủ tập trung trên
ba chiến lược chính: (i) thúc đẩy các hoạt động sản xuất và sinh kế để tăng thu nhập
cho người nghèo, (ii) tăng cường khả năng tiếp cận của người nghèo đến các dịch
vụ xã hội, (iii) tăng cường năng lực và nâng cao nhận thức ở vùng nghèo. Những
chiến lược này được hiện thực hóa bằng các chương trình quốc gia hỗ trợ giảm
nghèo và phát triển xã hội, trong đó tập trung vào 5 nhóm chính sách: tín dụng, phát
triển sản xuất nông nghiệp, cơ sở hạ tầng, giáo dục và y tế. Nhờ đó, người nghèo
được tiếp cận với các nguồn lực (vốn, đất sản xuất, công nghệ, thị trường) và các
dịch vụ xã hội cơ bản (giáo dục, y tế, nước sạch, trợ giúp pháp lý). Tính đến
2010, 77,2% người nghèo được hưởng lợi từ các chương trình và chính sách hỗ trợ
của chính phủ, cho thấy mức độ phổ cập chính sách rộng khắp trên cả nước.
51. Chương trình giảm nghèo bền vững theo Nghị quyết 30a/2008/NQ-CP
của Chính phủ về giảm nghèo nhanh và bền vững đối với 62 huyện nghèo là
chương trình lớn và quan trọng, có tác động mạnh đến giảm nghèo và nâng cao điều
kiện sống của người nghèo. Chương trình này đã lồng ghép một loạt các hạng mục
phát triển kinh tế - xã hội như: phát triển cơ sở hạ tầng công cộng cấp xã, tín dụng
cho người nghèo, bảo hiểm y tế, giáo dục, nhà ở, nước sạch, vệ sinh môi trường và
các chương trình khuyến nông. Với chính sách toàn diện thúc đẩy mọi khía cạnh
quan trọng của đời sống và hướng đến nhóm dân cư dễ bị tổn thương và thiệt thòi
nhất ở vùng sâu, vùng xa, các chương trình này đã đạt được mục tiêu chung là giảm
nghèo, tăng thu nhập và cải thiện điều kiện sống của nhóm cư dân. Kết quả đánh giá
tác động qua 3 năm thực hiện cho thấy tỉ lệ nghèo đã giảm 4-5%/năm và khả năng
tiếp cận dịch vụ xã hội như giáo dục, y tế, điện, nước sạch của các hộ gia đình tăng
đáng kể.
Đảm bảo nhà ở cho người thu nhập thấp
52. Nhà nước đã ban hành nhiều chính sách, chương trình phát triển nhà ở
cho các đối tượng có khó khăn về nhà ở như người lao động tại các khu công
nghiệp, học sinh, sinh viên, người nghèo ở nông thôn, người có thu nhập thấp tại
khu vực đô thị... Năm 2009, Chính phủ đã ban hành Nghị quyết về một số cơ chế,
chính sách nhằm đẩy mạnh phát triển nhà ở cho học sinh, sinh viên, công nhân lao
động tại các khu công nghiệp và người có thu nhập thấp tại khu vực đô thị. Thông
186
qua các chương trình đó, đến nay đã có hơn 530.000 hộ nghèo được hỗ trợ về nhà ở;
có 62 dự án nhà ở cho công nhân với tổng quy mô 11.719 căn hộ được hoàn thành,
đáp ứng chỗ ở cho 67.600 công nhân lao động tại các khu công nghiệp; 163 khối
nhà cho sinh viên đã được đưa vào sử dụng, đáp ứng khoảng 140.000 chỗ ở (dự
kiến đến hết năm 2013 sẽ đáp ứng được chỗ ở cho 330.000 sinh viên); 56 dự án nhà
cho người thu nhập thấp tại khu vực đô thị được triển khai, đáp ứng cho khoảng
130.000 hộ thu nhập thấp có nhu cầu về nhà ở.
53. Việt Nam cũng đang nghiên cứu, soạn thảo Luật Nhà ở sửa đổi để trình
Quốc hội thông qua vào năm 2014, trong đó tập trung vào các chính sách hỗ trợ cho
người nghèo (cả đô thị và nông thôn), người thu nhập thấp và các đối tượng ưu tiên
khác như công nhân tại khu công nghiệp, học sinh, sinh viên Trong thời gian tới,
Việt Nam tiếp tục hoàn thiện chính sách về phát triển nhà ở xã hội, nhà cho thuê ở
khu vực đô thị và nhà ở tái định cư; thúc đẩy các biện pháp tăng cường trách nhiệm
của Nhà nước, các tổ chức xã hội và cộng đồng trong việc xây dựng nhà ở cho
người nghèo nhằm hỗ trợ các đối tượng khó khăn có nhà ở, ổn định cuộc sống.
Chăm sóc y tế, giáo dục
54. Việt Nam xác định chăm sóc sức khỏe cộng đồng là ưu tiên hàng đầu
trong các chiến lược phát triển, chương trình mục tiêu quốc gia và đã đạt được
nhiều tiến bộ trong lĩnh vực này. Hiện nay, năng lực của hệ thống các cơ sở y tế
được củng cố và phát triển. 100% xã có trạm y tế, 74% số xã có bác sĩ. Tính đến
năm 2012, tỷ lệ người dân tham gia bảo hiểm y tế đạt khoảng 68%. Việt Nam đã
giảm đáng kể tỉ lệ tử vong ở trẻ sơ sinh: 23/1000 ca năm 2012, giảm 2/3 so với năm
1990. Việt Nam đã đạt được Mục tiêu Phát triển Thiên niên kỷ trong phòng, chống
và kiểm soát bệnh sốt rét. Công tác kiểm soát và phòng chống HIV/AIDS cũng có
những tiến bộ trong việc xác định các ca nhiễm bệnh và cung cấp phác đồ điều trị
kịp thời.
55. Giáo dục và đào tạo cũng đã có chuyển biến tích cực. Việt Nam đã hoàn
thành phổ cập giáo dục tiểu học, đang tiến tới hoàn thành phổ cập giáo dục trung
học cơ sở. Năm 2012, tỉ lệ nhập học đúng độ tuổi bậc tiểu học là 97,7% và bậc
trung học cơ sở là 87,2%. Quy mô giáo dục tiếp tục được phát triển, các chỉ số phát
triển về cơ sở vật chất được nâng cao, đáp ứng tốt hơn nhu cầu học tập ngày càng
tăng của người dân ở các lứa tuổi, vùng miền. Chất lượng đào tạo đã có nhiều
chuyển biến tích cực, từng bước đáp ứng yêu cầu về nguồn nhân lực qua đào tạo
187
phục vụ phát triển kinh tế. Chính sách xã hội hóa giáo dục, đào tạo đã đạt một số kết
quả, thể hiện ở việc huy động các nguồn lực xây dựng cơ sở vật chất trường học,
đầu tư mở trường, bổ sung kinh phí cho giáo dục dưới nhiều hình thức khác nhau.
C. Quyền của các nhóm yếu thế/ dễ bị tổn thương
Người cao tuổi
56. Số lượng người cao tuổi ở Việt Nam hiện nay là khoảng 7,5 triệu người,
chiếm khoảng 8,7% dân số cả nước. Việc bảo đảm quyền của người cao tuổi được
Chính phủ quan tâm, thông qua việc thực hiện nghiêm túc các quy định của pháp
luật, các chương trình quốc gia, các đề án hoặc dự án hỗ trợ.
57. Luật Người cao tuổi đã được Quốc hội ban hành và bắt đầu có hiệu lực từ
ngày 1/7/2010. Luật đã thể chế hoá chính sách của Việt Nam về người cao tuổi một
cách hệ thống, đầy đủ và toàn diện, đảm bảo cho sự tham gia vào hoạt động xã hội
của người cao tuổi, đồng thời khuyến khích sự quan tâm của các tổ chức xã hội, cá
nhân trong công tác chăm sóc người cao tuổi. Đây là bước cụ thể hóa cam kết của
Chính phủ về thực hiện Tuyên bố chính trị và Chương trình hành động quốc tế
Madrid năm 2002, phù hợp với chính sách chung của nhiều quốc gia và của Liên
hợp quốc về người cao tuổi. Chính phủ Việt Nam đã phê duyệt Chương trình hành
động quốc gia về Người cao tuổi giai đoạn 2012-2020 với mục tiêu nâng cao chất
lượng chăm sóc người cao tuổi và phát huy vai trò của người cao tuổi trong xã hội,
phù hợp với tiềm năng và trình độ phát triển kinh tế - xã hội của đất nước.
58. Trên thực tế, người cao tuổi được chăm sóc sức khỏe thông qua việc định
kì khám, chữa bệnh tại các cơ sở y tế nói chung và hệ thống các bệnh viện lão khoa;
được chăm lo đầy đủ hơn về đời sống tinh thần trong hoạt động văn hóa, giáo dục,
thể dục, thể thao, giải trí, du lịch. Người đủ 80 tuổi trở lên không có lương hưu và
bảo hiểm xã hội sẽ được trợ cấp hàng tháng, được hưởng bảo hiểm y tế, được hỗ trợ
chi phí mai táng khi qua đời... Bên cạnh đó, các cơ quan nhà nước có trách nhiệm
tạo điều kiện tốt nhất để người cao tuổi phát huy vai trò phù hợp với khả năng của
mình thông qua việc bày tỏ ý kiến, nguyện vọng cống hiến trong khoa học, sản
xuất, kinh doanh
Bình đẳng giới và bảo đảm quyền của phụ nữ
59. Chính phủ Việt Nam luôn coi trọng xây dựng và phát triển các chính
sách, chương trình nhằm thúc đẩy bình đẳng giới, tạo điều kiện để đảm bảo quyền
188
của phụ nữ. Trong thời gian vừa qua, Việt Nam đã đạt được một số thành tựu quan
trọng trong việc thúc đấy quyền phụ nữ như: xây dựng và ban hành các văn bản
pháp quy thể hiện nguyên tắc về bình đẳng giới và không phân biệt đối xử theo quy
định của Luật Bình đẳng giới 2006 và Công ước CEDAW; lồng ghép bình đẳng giới
trong việc xây dựng và thực thi pháp luật; ban hành Chiến lược quốc gia về bình
đẳng giới giai đoạn 2011-2020 và Chương trình quốc gia về bình đẳng giới giai
đoạn 2011-2015 với mục tiêu nâng cao nhận thức, thu hẹp khoảng cách về giới và
nâng cao vị thế của phụ nữ; tích cực thực hiện các sáng kiến quốc tế và khu vực
nhằm thúc đẩy việc bảo vệ quyền của phụ nữ và chống phân biệt đối xử đối với phụ
nữ. Bộ luật Lao động sửa đổi được Quốc hội thông qua tháng 6/2012 quy định tăng
thời gian nghỉ thai sản của lao động nữ từ 4 tháng lên thành 6 tháng.
60. Chiến lược quốc gia về bình đẳng giới và tiến bộ của phụ nữ được tập
trung triển khai ở những vùng và khu vực có sự bất bình đẳng và nguy cơ bất bình
đẳng cao, góp phần ngăn chặn, đẩy lùi tình trạng buôn bán phụ nữ và bạo lực trong
gia đình, tạo điều kiện để phụ nữ tham gia học tập, bồi dưỡng nâng cao trình độ, đáp
ứng yêu cầu công việc, nhiệm vụ. Chính phủ cũng triển khai các giải pháp trong
việc thực thi pháp luật cũng như hợp tác quốc tế nhằm vượt qua những thách thức
chủ yếu liên quan tới nhận thức về bình đẳng giới; xoá bỏ bạo lực giới và bạo lực
gia đình; khoảng cách giữa pháp luật và thực tiễn (việc làm, thu nhập, địa vị xã
hội). Tỉ lệ nữ tham gia Quốc hội khóa XIII (2011-2016) đạt 24,4%, đưa Việt Nam
nằm trong nhóm nước có tỉ lệ nữ đại biểu Quốc hội cao ở khu vực và thế giới (đứng
thứ 43/143 nước trên thế giới và thứ 2 trong ASEAN). Phụ nữ đảm nhiệm nhiều vị
trí lãnh đạo chủ chốt của đất nước như Phó Chủ tịch nước, hai Phó Chủ tịch Quốc
hội, có hai nữ Bộ trưởng; 14/30 Bộ hoặc cơ quan trực thuộc Chính phủ có Thứ
trưởng là nữ. Tỉ lệ lao động có việc làm là nữ giới chiếm 49%. Tính đến hết năm
2011, tỉ lệ phụ nữ biết chữ là 92%; 80% trẻ em gái ở vùng sâu, vùng xa, vùng dân
tộc thiểu số được đi học đúng tuổi. Tỉ lệ nữ sinh viên chiếm trên 50%; 30,53% Thạc
sỹ và 17,1% Tiến sỹ là nữ giới. Nỗ lực bảo đảm bình đằng giới của Việt Nam đã
được quốc tế ghi nhận: theo xếp hạng năm 2012 của Liên hợp quốc về chỉ số bất
bình đẳng giới (GII), Việt Nam xếp thứ 47/187 quốc gia, so với vị trí 58/136 quốc
gia năm 2010.
61. Việt Nam nghiêm túc triển khai thực hiện Công ước quốc tế về xoá bỏ
mọi hình thức phân biệt đối xử với phụ nữ (CEDAW) trên cả phương diện thúc đẩy
189
hoàn thiện luật pháp và tổ chức triển khai thực hiện trong thực tiễn. Chính phủ Việt
Nam cũng đã xây dựng và hoàn thành báo cáo định kỳ về tình hình thực hiện công
ước CEDAW giai đoạn 2004 – 2010 trên cơ sở kết quả tham vấn rộng rãi với các cơ
quan, tổ chức có liên quan và các tầng lớp xã hội.
Trẻ em
62. Tháng 10/2012, Thủ tướng Chính phủ đã phê duyệt Chương trình hành
động quốc gia vì trẻ em giai đoạn 2012-2020, hướng tới thực hiện mục tiêu tổng
quát là xây dựng môi trường sống an toàn, thân thiện và lành mạnh để thực hiện
ngày càng tốt hơn các quyền của trẻ em; từng bước giảm khoảng cách chênh lệch về
điều kiện sống giữa các nhóm trẻ em và trẻ em giữa các vùng, miền; nâng cao chất
lượng cuộc sống và tạo cơ hội phát triển bình đẳng cho mọi trẻ em.
63. Việt Nam là nước đầu tiên tại Châu Á và là nước thứ hai trên thế giới
tham gia Công ước về Quyền trẻ em (CRC) và Nghị định thư bổ sung số 1 và số 2.
Nhà nước Việt Nam đã và đang có những nỗ lực lớn trong việc triển khai thực hiện
trên phương diện hoàn thiện chính sách pháp luật, nội luật hoá các quy định của hệ
thống pháp luật quốc tế về quyền trẻ em vào hệ thống pháp luật quốc gia, và tổ chức
triển khai thực hiện trong thực tế để bảo vệ quyền và lợi ích tốt nhất cho trẻ em.
Việt Nam cũng tích cực tham gia các sáng kiến khu vực và quốc tế nhằm thực hiện
việc bảo vệ các quyền của trẻ em; tiếp tục mở rộng hợp tác quốc tế và thực hiện các
cam kết quốc tế có liên quan.
64. Các chương trình, chính sách có tính chiến lược như tiêm chủng cho trẻ
em, hỗ trợ bảo hiểm y tế, khám chữa bệnh miễn phí cho trẻ em dưới 6 tuổi, phòng
chống lao, phòng chống HIV/AIDS... đã mang lại hiệu quả tích cực. Tỷ lệ tử vong ở
trẻ em dưới 5 tuổi giảm từ 58‰ (1990) xuống còn 24 ‰ (2011), dưới 1 tuổi từ 31‰
(2001) xuống còn 15,5 ‰ (2011).
65. Chương trình quốc gia về bảo vệ trẻ em giai đoạn 2011-2015 sẽ tập trung
vào các hoạt động truyền thông, giáo dục, vận động xã hội để nâng cao nhận thức
và chuyển đổi hành vi thực hiện các quyền của trẻ em; xây dựng và thực hiện các
chương trình, kế hoạch bảo vệ, chăm sóc và giáo dục trẻ em; hoàn thiện hệ thống
pháp luật, chính sách liên quan đến công tác bảo vệ chăm sóc, giáo dục trẻ em và
thực hiện quyền trẻ em; khuyến khích các tổ chức chính trị - xã hội, tổ chức kinh tế,
tổ chức xã hội, tổ chức xã hội nghề nghiệp, gia đình, cộng đồng, người dân và trẻ
em tham gia bảo vệ, chăm sóc, giáo dục trẻ em; củng cố hệ thống tổ chức, nâng cao
190
năng lực đội ngũ cán bộ làm việc với trẻ em ở các cấp, các ngành; kiện toàn và phát
triển mạng lưới cộng tác viên, tình nguyện viên bảo vệ, chăm sóc trẻ em ở cơ sở;
nâng cao chất lượng công tác theo dõi, giám sát và đánh giá.
Người khuyết tật
66. Việt Nam đã ký Công ước về quyền của người khuyết tật năm 2008 và dự
kiến hoàn thành thủ tục phê chuẩn trong năm 2014, cũng như đang nỗ lực xây dựng
và hoàn thiện luật pháp, chính sách nhằm thúc đẩy quyền của người khuyết tật.
Trong lộ trình phê chuẩn Công ước về quyền của người khuyết tất, Việt Nam đã ban
hành Luật về người khuyết tật năm 2010 và xây dựng các văn bản thi hành. Trong
giai đoạn 2010-2013, đã có 13 văn bản dưới Luật được ban hành có liên quan tới
người khuyết tật trong các lĩnh vực truyền thông, thể thao, du lịch, tiếp cận an sinh
xã hội và thúc đẩy thực hiện Mục tiêu Thiên niên kỷ.
67. Chính sách chung của Nhà nước là khuyến khích, tạo điều kiện thuận lợi
cho người khuyết tật thực hiện bình đẳng về các quyền về chính trị, kinh tế, văn
hoá, xã hội và phát huy khả năng của họ để ổn định đời sống, hoà nhập cộng đồng,
tham gia các hoạt động xã hội. Người khuyết tật được Nhà nước và xã hội trợ giúp
chăm sóc sức khoẻ, phục hồi chức năng, tạo việc làm phù hợp và được hưởng các
quyền khác theo quy định của pháp luật.
68. Thủ tướng Chính phủ đã phê duyệt Đề án Trợ giúp người khuyết tật giai
đoạn 2012 - 2020 nhằm đẩy mạnh thực hiện các chính sách trợ giúp người khuyết
tật theo quy định của Luật Người khuyết tật, đồng thời thực hiện cam kết của Chính
phủ Việt Nam về 7 lĩnh vực ưu tiên trong Thập kỷ thứ II Thiên niên kỷ Biwako về
người khuyết tật khu vực châu Á - Thái Bình Dương. Đề án chia làm 2 giai đoạn
với những chỉ tiêu cụ thể nhằm thúc đẩy sự hòa nhập của người khuyết tật trong các
lĩnh vực y tế, giáo dục, lao động, xây dựng, giao thông, công nghệ thông tin, văn
hóa, thể thao, pháp lý Bên cạnh đó, Chính phủ cũng triển khai một loạt các chính
sách trợ giúp người khuyết tật như đề án trợ giúp phục hồi chức năng cho người tâm
thần; tham gia và thực hiện các sáng kiến của quốc tế và khu vực; tăng cường sự
tham gia của người khuyết tật và bảo vệ quyền của người khuyết tật; hỗ trợ thành
lập các tổ chức tự lực của người khuyết tật; trợ giúp đào tạo nghề và tạo việc làm;
cải thiện khả năng tiếp cận và sử dụng các công trình văn hoá, công cộng và các
dịch vụ xã hội cơ bản khác của người khuyết tật.
Người dân tộc thiểu số
191
69. Nhà nước Việt Nam thực hiện đường lối nhất quán là các dân tộc bình
đẳng, đoàn kết, tôn trọng và giúp nhau cùng tiến bộ. Hệ thống pháp luật Việt Nam
liên tục được hoàn thiện, đáp ứng cơ bản chính sách phát triển kinh tế - xã hội của
đất nước, trong đó có việc bảo đảm các quyền và lợi ích hợp pháp của các dân tộc
thiểu số. Người dân tộc thiểu số được tạo điều kiện tham gia hệ thống chính trị,
quản lý xã hội, quản lý nhà nước. Tỷ lệ người dân tộc thiểu số tham chính ngày
càng tăng, số lượng đại biểu Quốc hội là dân tộc thiểu số luôn chiếm tỷ lệ cao hơn
so với tỷ lệ dân số. Trong 4 nhiệm kỳ Quốc hội gần đây, tỷ lệ đại biểu Quốc hội là
người dân tộc thiểu số chiếm từ 15,6% đến 17,27%, trong khi người dân tộc thiểu
số chỉ chiếm 14,3% dân số. Tỷ lệ người dân tộc thiểu số tham gia Hội đồng nhân
dân cấp tỉnh nhiệm kỳ 2011 - 2016 là 18%, cấp huyện là 20%, cấp xã là 22,5%.
70. Trong giai đoạn 2006 – 2012, Nhà nước đã có 160 văn bản quy phạm
pháp luật về chính sách phát triển kinh tế - xã hội vùng dân tộc và miền núi, với
kinh phí từ ngân sách lên tới 55.000 tỷ đồng (tương đương 2,6 tỷ đô la Mỹ). Với
nguồn lực như vậy, nhiều chính sách đã phát huy hiệu quả tốt như Nghị quyết số
30a/2008/NQ-CP của Chính phủ về giảm nghèo bền vững; chính sách hỗ trợ nhà ở
cho hộ nghèo; Chương trình phát triển kinh tế, xã hội vùng đồng bào dân tộc miền
núi, góp phần cải thiện đời sống vật chất và tinh thần cho đồng bào dân tộc thiểu số.
Tỷ lệ hộ nghèo ở vùng có đông người dân tộc thiểu số giảm từ 32,6% năm 2009
xuống còn 24,3% năm 2012. Cơ sở hạ tầng có sự cải thiện rõ rệt: 98,6% xã có
đường ô tô; 99,8% số xã và 95,5% số thôn được sử dụng điện sinh hoạt.
71. Năm 2012, 100% xã đã đạt chuẩn phổ cập tiểu học, nhiều nơi đã đạt
chuẩn phổ cập trung học cơ sở, tỷ lệ nhập học đúng độ tuổi bậc giáo dục tiểu học
bình quân cả nước đạt gần 98%, trong đó 95% trẻ em dân tộc thiểu số được đến
trường. Tất cả các tỉnh vùng có đông dân tộc thiểu số đều có trường trung học
chuyên nghiệp, cao đẳng, trường dạy nghề và đào tạo nghiệp vụ trong các lĩnh vực
nông nghiệp, quản lý kinh tế, tài chính, giáo dục, y tế. Năm 2010, Chính phủ đã ban
hành Nghị định số 82 quy định việc dạy và học tiếng nói, chữ viết của dân tộc thiểu
số. Năm 2012, đã có 32 tỉnh tổ chức dạy và học 12 tiếng dân tộc thiểu số. Tính đến
hết năm 2012, cả nước có 2.629 lớp học chữ tiếng dân tộc với 136.600 học sinh. Bộ
Giáo dục và Đào tạo đang hợp tác với UNICEF thí điểm thực hiện giáo dục song
ngữ trên cơ sở tiếng mẹ đẻ tại 3 tỉnh Lào Cai, Trà Vinh, Gia Lai bước đầu đạt kết
quả tốt.
192
72. Mạng lưới y tế phát triển nhanh chóng ở vùng có đông dân tộc thiểu số,
hệ thống bệnh viện tỉnh, huyện và trạm y tế xã đã được quan tâm đầu tư, 99,39% xã
có trạm y tế, 77,8% xã đạt chuẩn quốc gia về y tế. Đến năm 2011 có 94,2% số thôn
có cán bộ y tế. Đồng bào dân tộc được tiếp cận các dịch vụ chăm sóc sức khoẻ,
đồng bào nghèo được khám chữa bệnh miễn phí. Các dịch bệnh ở vùng dân tộc và
miền núi như sốt rét, bướu cổ cơ bản được khống chế; giảm đáng kể tỷ lệ trẻ em suy
dinh dưỡng...
73. Năm 2011, Chính phủ đã phê duyệt Đề án "Bảo tồn, phát triển văn hoá
các dân tộc thiểu số Việt Nam đến năm 2020", thể hiện chính sách của Nhà nước
Việt Nam trong việc bảo tồn và phát huy bản sắc văn hoá các dân tộc thiểu số. Đề
án tập trung ưu tiên phát triển văn hoá các dân tộc thiểu số rất ít người. Người dân
tộc thiểu số ở tất cả các vùng miền được tham gia hoạt động văn hóa mang bản sắc
các dân tộc, 92% người dân được nghe đài phát thanh, 85% được xem truyền hình,
nhiều chương trình phát bằng tiếng dân tộc thiểu số như: Mông, Thái, Êđê, Chăm,
Khmer... Nhiều di sản văn hóa các dân tộc được công nhận là di sản văn hoá cấp
quốc gia như: "Lễ hội Lồng Tồng" của dân tộc Tày, "Lễ Cấp sắc" của dân tộc Dao.
Tổ chức UNESCO đã công nhận một số di sản văn hóa của các dân tộc thiểu số ở
Việt Nam là di sản văn hóa thế giới như: "Không gian văn hoá Cồng chiêng Tây
Nguyên", "Thánh địa Mỹ Sơn"...
74. Công tác tuyên truyền, phổ biến giáo dục pháp luật trong vùng dân tộc và
miền núi có chuyển biến tích cực, dịch vụ trợ giúp pháp lý đang tiếp cận với người
dân. Thực hiện Luật trợ giúp pháp lý, 100% các tỉnh, thành phố đã có các Trung tâm
trợ giúp pháp lý. Các Trung tâm này cung cấp dịch vụ pháp lý miễn phí bằng các
hình thức tư vấn pháp luật, tham gia tố tụng để giúp đỡ người nghèo, người dân
tộc thiểu số giải quyết các vướng mắc về pháp luật. Từ năm 2009 đến hết 2012, các
tổ chức trợ giúp pháp lý đã thực hiện trợ giúp hơn 200.000 lượt đối tượng là người
dân tộc thiểu số, thành lập gần 2.000 câu lạc bộ trợ giúp pháp lý ở các xã để phổ
biến giáo dục pháp luật cho người dân, trong đó có người dân tộc thiểu số.
IV. Những ưu tiên và cam kết trong việc tiếp tục thúc đẩy và bảo về các
quyền con người ở Việt Nam
A. Các thách thức còn tồn tại
75. Khuôn khổ pháp luật về quyền con người ở Việt Nam mặc dù đang từng
bước được kiện toàn nhưng vẫn chưa đồng bộ, một số lĩnh vực chưa theo kịp với sự
193
thay đổi của cuộc sống, chậm được sửa đổi, bổ sung. Năng lực xây dựng thể chế,
quản lý, điều hành, tổ chức thực thi pháp luật và việc tuyên truyền pháp luật về
quyền con người đến các ngành, các cấp, các địa phương vẫn còn hạn chế, khiến
cho việc triển khai còn khó khăn, bất cập. Bản thân người dân chưa hiểu biết đầy đủ
về các quy định của pháp luật để thực hiện quyền của mình một cách đầy đủ và hiệu
quả. Việc kiểm tra đôn đốc thực hiện các quy định của pháp luật còn lỏng lẻo, dẫn
đến tình trạng có những vi phạm chưa được phát hiện và xử lý kịp thời.
76. Nền kinh tế phát triển chưa bền vững, chịu nhiều ảnh hưởng bất lợi từ
môi trường bên ngoài, đặc biệt là từ cuộc suy thoái kinh tế toàn cầu. Là một nước
đang phát triển, Việt Nam đang phải đối mặt với vấn đề thiếu hụt các nguồn lực
dành cho phát triển, đặc biệt trong việc triển khai các chính sách hỗ trợ và bảo đảm
các quyền của các nhóm yếu thế trong xã hội. Những rủi ro về biến đổi khí hậu,
thiên tai, dịch bệnh, mà đối tượng chịu tác động nặng nề nhất chính là các nhóm xã
hội yếu thế, đặc biệt là người nghèo, vẫn là một thách thức không nhỏ đối với Việt
Nam. Do thiếu hụt nguồn lực, tầm bao phủ của hệ thống an sinh xã hội hiện nay còn
khiêm tốn, nhất là đối với người nghèo và các nhóm dễ bị tổn thương. Phần lớn
người nghèo sống ở các khu vực nông thôn và miền núi, tham gia vào các hoạt động
nông nghiệp và ít nhận được hỗ trợ từ các loại hình bảo hiểm như bảo hiểm xã hội,
bảo hiểm y tế, bảo hiểm thất nghiệp.
77. Việt Nam đã đạt được những kết quả tích cực trong việc thực hiện MDGs
về giảm nghèo nhưng vẫn còn phải đối mặt với nhiều khó khăn, đặc biệt là giải
quyết vấn đề bất bình đẳng và giảm nghèo bền vững. Phần lớn người nghèo là cư
dân nông thôn và người dân tộc thiểu số. Do người dân tộc thiểu số cư trú ở những
vùng sâu, vùng xa, vùng khó khăn về các điều kiện sản xuất, phát triển kinh tế, giao
thông, tiếp cận thị trường nên tỷ lệ hộ dân tộc thiểu số nghèo còn chiếm khá cao.
Hơn nữa, giảm nghèo hiện nay chưa bền vững do một số hộ gia đình mặc dù đã
thoát nghèo nhưng khả năng tái nghèo rất cao do thiên tai, thời tiết, tai nạn lao động,
giao thông... Năng lực tài chính yếu kém cùng với nguồn lực bảo trợ xã hội hạn chế
khiến cho các hộ gia đình cận nghèo dễ bị rơi trở lại cảnh nghèo đói. Bên cạnh đó,
nghèo đô thị đang nổi lên là một vấn đề đáng lo ngại do dòng người di cư từ nông
thôn ra các đô thị ngày một tăng.
78. Giáo dục là lĩnh vực được Nhà nước coi trọng và đầu tư lớn, tuy nhiên
trên thực tế còn nhiều tồn tại chưa được khắc phục như sự bất bình đẳng trong tiếp
194
cận giáo dục, khoảng cách về chất lượng giáo dục giữa thành thị và nông thôn, vùng
sâu, vùng xa, vùng dân tộc thiểu số; cải cách giáo dục trong công tác giảng dạy và
học tập, cải tiến thiết bị, cơ sở vật chất trường học Giáo dục về nhân quyền trong
các cấp học chưa được đầu tư thỏa đáng. Trong chương trình giáo dục phổ thông,
nội dung giảng dạy về quyền con người nói chung và các quyền cụ thể còn sơ sài và
chưa phù hợp với cấp học và độ tuổi.
79. Các quan niệm lạc hậu, cổ hủ vẫn còn tồn tại khiến cho nhiều nhóm dễ bị
tổn thương như phụ nữ, trẻ em, người khuyết tật, người dân tộc thiểu số chưa ý thức
và chủ động trong việc bảo vệ các quyền của chính mình. Tư tưởng "trọng nam hơn
nữ" là trở lực cho nhận thức và thực hiện bình đẳng giới, định kiến xã hội vẫn tạo
nên sự kỳ thị nhất định đối với người dân tộc thiểu số, người khuyết tật Những
hạn chế về nguồn lực khiến việc thực hiện các chương trình và chính sách đạt hiệu
quả chưa cao, đặc biệt là trong việc tăng cường dịch vụ hỗ trợ và khả năng tiếp cận
các dịch vụ xã hội của trẻ em, người khuyết tật, người già
B. Những hướng ưu tiên
80. Việt Nam sẽ tiếp tục tăng cường công tác kiện toàn hệ thống pháp luật
trên nguyên tắc phát huy nhân tố con người, bảo đảm thực hiện tốt hơn các quyền
và tự do cơ bản của người dân, đảm bảo hệ thống pháp luật quốc gia hài hòa và phù
hợp với các chuẩn mực pháp luật quốc tế. Chính phủ nỗ lực đẩy mạnh các chương
trình cải cách hành chính nhằm ngăn chặn và đẩy lùi tệ quan liêu, tham nhũng, phát
huy dân chủ và nâng cao hiệu lực của Nhà nước pháp quyền, tăng cường các thể chế
quốc gia bảo vệ quyền con người, trong đó có việc nghiên cứu khả năng thành lập
Cơ quan nhân quyền quốc gia.
81. Khả năng tiếp cận với các loại hình an sinh xã hội được xếp là một trong
những yếu tố quan trọng nhất ảnh hưởng đến mức sống của người dân. Thực tế cho
thấy việc giảm thu nhập, lạm phát và bệnh tật là ba trong số các nguyên nhân chính
làm giảm mức sống của người dân. Do đó, an sinh xã hội là giải pháp bảo vệ cho
người dân, đặc biệt là người nghèo. Trong thời gian tới, Chính phủ sẽ tập trung các
chính sách để tăng khả năng tiếp cận của các nhóm yếu thế vào hệ thống an sinh xã
hội, nghiên cứu khả năng phát triển loại hình bảo hiểm nông nghiệp.
82. Chất lượng giáo dục là yếu tố quan trọng hàng đầu trong việc nâng cao
năng suất, tăng trưởng kinh tế theo chiều sâu và phát triển xã hội. Nhận thức được
tầm quan trong của phát triển nguồn nhân lực, Chính phủ đã đưa ra các chính sách
195
quốc gia và sẽ tiếp tục đầu tư hơn nữa cho hệ thống giáo dục hướng đến hai mục
tiêu: (i) tăng tỉ lệ nhập học đúng tuổi ở mọi cấp giáo dục; và (ii) nâng cao chất
lượng giáo dục. Giáo dục về quyền con người là hướng ưu tiên đặc biệt nhằm nâng
cao nhận thức của người dân và năng lực của các cơ quan thực thi pháp luật trong
việc đảm bảo ngày càng tốt hơn các quyền và tự do cơ bản của người dân.
83. Chính phủ ghi nhận tầm quan trọng của bình đẳng giới trong phát triển
kinh tế, xã hội thông qua việc xây dựng hai chương trình quy mô quốc gia là Chiến
lược quốc gia về bình đẳng giới giai đoạn 2011-2020 và Chương trình quốc gia về
bình đẳng giới giai đoạn 2011-2015. Những chính sách này đã khẳng định bình
đẳng giới là yếu tố tiền đề để xây dựng một nguồn nhân lực vững mạnh, cũng như
đẩy mạnh chất lượng cuộc sống cho mỗi cá nhân, mỗi gia đình và toàn xã hội.
Trong thời gian tới, Chính phủ sẽ tập trung các chính sách và chiến lược nhằm tăng
cường nhận thức về bình đẳng giới, thay đổi thái độ và tư tưởng về giới vốn là định
kiến trong xã hội; thúc đẩy hợp tác quốc tế trong việc giải quyết vấn đề bình đẳng
giới, đặc biệt là ở các nhóm yếu thế và trong các lĩnh vực có tính chiến lược như
giáo dục, y tế, việc làm.
84. Chăm sóc sức khỏe cộng đồng, hướng đến một xã hội khỏe mạnh và
được tiếp cận với các dịch vụ chăm sóc sức khỏe đầy đủ cả về thể chất và tinh thần,
là một trong những hướng ưu tiên cao của Chính phủ. Nỗ lực của Chính phủ thời
gian tới sẽ tập trung vào các vấn đề: giảm tỉ lệ tử vong trẻ em, đặc biệt là ở trẻ sơ
sinh, tăng cường hiệu quả thực hiện các Chương trình tiêm chủng mở rộng, Chiến
lược dinh dưỡng quốc gia, Chiến lược quốc gia về sức khỏe sinh sản, Chiến lược
quốc gia về phòng chống HIV/AID.
85. Với mục đích tăng cường hợp tác quốc tế, tranh thủ các nguồn lực phục
vụ cho việc bảo đảm tốt hơn các quyền con người, Chính phủ Việt Nam chủ trương
tiếp tục tăng cường hợp tác với tất cả các quốc gia, các cơ chế và tổ chức chuyên
môn của Liên hợp quốc có liên quan đến quyền con người; tham gia tích cực và có
trách nhiệm vào công việc của Hội đồng Nhân quyền, hợp tác đầy đủ và xây dựng
với các Thủ tục đặc biệt, trong đó có việc xem xét tích cực các đề nghị vào thăm;
thực hiện nghiêm túc các nghĩa vụ đối với các Công ước nhân quyền quốc tế mà
Việt Nam là thành viên; tăng cường hiệu quả các cơ chế đối thoại song phương
thường kỳ về quyền con người.