Luận án Ngoại giao văn hóa Việt Nam với Asean trong thời kỳ hội nhập

BỘ VĂN HOÁ, THỂ THAO VÀ DU LỊCH BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO TRƯỜNG ĐẠI HỌC VĂN HOÁ HÀ NỘI NGUYỄN THỊ THÙY YÊN NGOẠI GIAO VĂN HÓA VIỆT NAM VỚI ASEAN TRONG THỜI KỲ HỘI NHẬP LUẬN ÁN TIẾN SĨ VĂN HÓA HỌC HÀ NỘI - 2016 BỘ VĂN HOÁ, THỂ THAO VÀ DU LỊCH BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO TRƯỜNG ĐẠI HỌC VĂN HOÁ HÀ NỘI NGUYỄN THỊ THÙY YÊN NGOẠI GIAO VĂN HÓA VIỆT NAM VỚI ASEAN TRONG THỜI KỲ HỘI NHẬP Chuyên ngành: Văn hóa học Mã số: 62310640 LUẬN ÁN TIẾN SĨ VĂN HÓA HỌC Người hướng dẫn khoa học: 1, PGS.TS.

pdf250 trang | Chia sẻ: huong20 | Ngày: 14/01/2022 | Lượt xem: 412 | Lượt tải: 0download
Tóm tắt tài liệu Luận án Ngoại giao văn hóa Việt Nam với Asean trong thời kỳ hội nhập, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Nguyễn Văn Cương 2, PGS.TS. Nguyễn Duy Bắc HÀ NỘI - 2016 LỜI CAM ĐOAN Tác giả xin cam đoan đây là công trình nghiên cứu của chính tác giả. Các kết quả nghiên cứu và kết luận trong luận án là trung thực và chưa từng được công bố trong bất kỳ công trình nào khác. Việc tham khảo các nguồn tài liệu đã được thực hiện trích dẫn và ghi nguồn tài liệu tham khảo đúng quy định. Tác giả luận án Nguyễn Thị Thùy Yên 1MỤC LỤC LỜI CAM ĐOAN MỤC LỤC ....................................................................................................................1 DANH MỤC CÁC CHỮ VIẾT TẮT ..........................................................................2 MỞ ĐẦU........................................................................................................................3 CHƯƠNG 1. CƠ SỞ LÝ LUẬN VỀ NGOẠI GIAO VĂN HÓA VÀ KHÁI LƯỢC VỀ MỐI QUAN HỆ GIỮA VIỆT NAM VỚI ASEAN...............................19 1.1. Cơ sở lý luận về ngoại giao văn hóa......................................................................19 1.2. Cơ sở lý thuyết của luận án ...................................................................................49 1.3. Khái lược về mối quan hệ giữa Việt Nam với ASEAN ........................................55 Tiểu kết .........................................................................................................................62 CHƯƠNG 2. THỰC TIỄN HOẠT ĐỘNG NGOẠI GIAO VĂN HÓA VIỆT NAM VỚI ASEAN TRONG THỜI KỲ HỘI NHẬP...................................63 2.1. Những nhân tố tác động đến ngoại giao văn hóa Việt Nam với ASEAN .............63 2.2. Các hình thức hoạt động ngoại giao văn hóa Việt Nam với ASEAN ...................72 2.3. Đánh giá hoạt động ngoại giao văn hóa Việt Nam với ASEAN .........................104 Tiểu kết .......................................................................................................................113 CHƯƠNG 3. XU HƯỚNG VẬN ĐỘNG CỦA NGOẠI GIAO VĂN HÓA VIỆT NAM VỚI ASEAN VÀ NHỮNG VẤN ĐỀ ĐẶT RA.................................................115 3.1. Xu hướng vận động của ngoại giao văn hóa Việt Nam với ASEAN ..................115 3.2. Những vấn đề đặt ra nhằm nâng cao hiệu quả hoạt động ngoại giao văn hóa Việt Nam với ASEAN .........................................................................................121 Tiểu kết .......................................................................................................................146 KẾT LUẬN ...............................................................................................................148 DANH MỤC CÁC CÔNG TRÌNH ĐÃ CÔNG BỐ LIÊN QUAN ĐẾN ĐỀ TÀI LUẬN ÁN ..........................................................................................................151 DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO ................................................................152 PHỤ LỤC ..................................................................................................................162 2DANH MỤC CÁC CHỮ VIẾT TẮT Chữ viết tắt Chữ viết đầy đủ AC : Cộng đồng ASEAN ARF : Diễn đàn khu vực ASEAN ASA : Hiệp hội Đông Nam Á ASCC : Cộng đồng Văn hóa - Xã hội ASEAN ASEAN : Hiệp hội các quốc gia Đông Nam Á ASEAN - COCI : Ủy ban Văn hóa - Thông tin ASEAN CLM : Campuchia, Lào, Mianma CLMV : Campuchia, Lào, Mianma, Việt Nam CNXH : Chủ nghĩa xã hội CSR : Trách nhiệm xã hội HTQT : Hợp tác Quốc tế NCKH : Nghiên cứu Khoa học NCS : Nghiên cứu sinh NGVH : Ngoại giao văn hóa Nxb : Nhà xuất bản PVS : Phỏng vấn sâu SEAGAMES : Đại hội thể thao Đông Nam Á UNESCO : Tổ chức Giáo dục, Khoa học và Văn hóa Liên Hiệp Quốc XHCN : Xã hội chủ nghĩa VHTTDL : Văn hóa, Thể thao và Du lịch 3MỞ ĐẦU 1. Tính cấp thiết của đề tài Sau khi kết thúc chiến tranh lạnh, bức tranh toàn cảnh về tình hình chính trị, kinh tế, văn hóa, xã hội... của thế giới có nhiều thay đổi. Xu hướng chủ đạo của thế giới và khu vực là hòa bình, hợp tác và phát triển. Sự phát triển của mỗi quốc gia, khu vực và cả thế giới đang có xu hướng phụ thuộc ngày càng nhiều vào môi trường quốc tế. Những thành tựu của khoa học công nghệ và thông tin đã thúc đẩy kinh tế - xã hội phát triển nhanh. Các cuộc xung đột tôn giáo - sắc tộc, tranh chấp về lãnh thổ... không chỉ ảnh hưởng đến một vài quốc gia mà còn lan rộng ra toàn khu vực, ảnh hưởng lớn đến tình hình chính trị, kinh tế quốc tế. Xu thế toàn cầu hóa và khu vực hóa trên tất cả các lĩnh vực là một xu hướng tất yếu. Vì vậy mỗi quốc gia muốn tham gia vào quá trình toàn cầu hóa thì phải chủ động xác định chiến lược hội nhập và xác định “vị thế” của mình trong quan hệ quốc tế, đặc biệt các quốc gia ngày càng chú trọng gia tăng sức mạnh mềm của mình trên trường quốc tế. Sự vận động và phát triển của ASEAN trong những năm qua cũng nằm trong quy luật đó và Việt Nam cũng không nằm ngoài vòng xoáy của khu vực và quốc tế. Do vậy việc Việt Nam hội nhập ASEAN (1995) là phù hợp với xu thế của thời đại và điều kiện hoàn cảnh riêng của đất nước. ASEAN mang lại cho đất nước ta nhiều lợi ích quan trọng và thiết thực, tạo thuận lợi và hỗ trợ rất lớn trong việc triển khai thực hiện đường lối đối ngoại độc lập tự chủ, đa dạng hóa, đa phương hóa, chủ động hội nhập khu vực và quốc tế của Đảng và Nhà nước ta. Trong 20 năm tham gia ASEAN, Việt Nam đã có những đóng góp quan trọng trên tất cả các lĩnh vực hợp tác của hiệp hội ASEAN như kinh tế, quốc phòng - an ninh và đặc biệt trong lĩnh vực hợp tác văn hóa. Tham gia hội nhập ASEAN, Việt Nam có điều kiện khai thác tối đa những thuận lợi để xây dựng nền văn hóa tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc, phát triển đất nước. Thành tựu lớn nhất mà ASEAN đạt được là không chỉ tăng cường sự hiểu biết, tin cậy nhau và sẵn sàng hỗ trợ nhau khi cần thiết, mà còn thúc đẩy tinh thần đoàn kết giữa nhân dân các nước ASEAN. Trong xu thế quốc tế hóa 4và toàn cầu hóa như hiện nay, văn hóa là chiếc cầu nối quan trọng trong quan hệ quốc tế của mỗi nước. Vai trò, vị trí quan trọng của văn hóa nói chung và ngoại giao văn hóa nói riêng đã được thừa nhận rộng rãi trong nghiên cứu và trong chính sách phát triển chung trên toàn thế giới. Các quốc gia, ở mức độ khác nhau, đều sử dụng văn hóa như một công cụ trong hoạt động ngoại giao. Vì đây là kênh ngoại giao hữu hiệu làm gia tăng sức mạnh mềm, xây dựng lòng tin, quảng bá giá trị văn hóa ra thế giới, tiếp thu văn hóa nhân loại để làm giàu cho nền văn hóa đất nước. Từ đầu thế kỷ XXI, khi toàn cầu hóa phát triển mạnh mẽ, ngoại giao văn hóa càng được sử dụng rộng rãi với nhiều hình thức phong phú và có vai trò quan trọng hơn trong nền ngoại giao của mỗi quốc gia bởi sức lan toả mạnh mẽ của văn hóa có vai trò to lớn trong việc xây dựng lòng tin giữa các quốc gia, giúp làm sâu sắc và thắt chặt hơn các mối quan hệ chính trị và kinh tế. Nhân tố văn hóa có ảnh hưởng, tác động đến quan hệ quốc tế và trong một số trường hợp mang tính quyết định. Do đó, việc vận dụng yếu tố văn hóa để nâng cao hiệu quả triển khai đường lối đối ngoại được các quốc gia ngày càng chú trọng. Sự trân trọng các giá trị văn hóa trong công tác ngoại giao trở thành cầu nối để vượt qua những khác biệt, đưa các dân tộc xích lại gần nhau và cùng chung tay giải quyết các vấn đề toàn cầu. Trong xu thế hòa bình, sự phân công lao động trên thế giới ngày càng sâu sắc sự phụ thuộc lẫn nhau ngày càng rõ nét và xu thế hội nhập đang nắm giữ vai trò chủ đạo trong đời sống kinh tế quốc tế thì ngoại giao văn hóa ngày càng trở nên quan trọng và được quan tâm hơn bao giờ hết. Như nhiều quốc gia trên thế giới, Việt Nam với sự kết hợp giữa nhận thức về vai trò của văn hóa và nhận thức về sự cần thiết đẩy mạnh hội nhập quốc tế đã đưa ngoại giao văn hóa thực sự trở thành một trong 3 trụ cột của nền ngoại giao Việt Nam hiện đại. Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XI của Đảng Cộng sản Việt Nam đã nêu chủ trương: "Triển khai đồng bộ, toàn diện hoạt động đối ngoại" [26, tr.235], đồng thời đề cập trực tiếp đến vai trò của ngoại giao văn hóa: "Phối hợp chặt chẽ hoạt động đối ngoại của Đảng, ngoại giao Nhà nước và ngoại giao nhân dân; giữa ngoại giao chính trị với ngoại giao kinh tế và ngoại giao văn hóa” [26, tr.238]. 5Với vai trò ngày càng lớn của ngoại giao văn hóa, việc nghiên cứu những khía cạnh khác nhau của ngoại giao văn hóa trong quan hệ quốc tế, trước hết là quan hệ với các nước trong khu vực rất quan trọng trong tình hình hiện nay. Nghiên cứu các hoạt động ngoại giao văn hóa giữa Việt Nam với các nước ASEAN có ý nghĩa cấp thiết cả về lý luận và thực tiễn, giúp chúng ta nhận diện được tình hình thực tế, đánh giá hoạt động ngoại giao văn hóa giữa Việt Nam với các nước ASEAN, nhận định xu hướng vận động của ngoại giao văn hóa giữa Việt Nam với các nước ASEAN trong những năm tới, từ đó đưa ra những bàn luận nhằm thúc đẩy công tác ngoại giao văn hóa Việt Nam với ASEAN để đáp ứng những yêu cầu thực tiễn hiện nay. Xuất phát từ tình hình đó, nghiên cứu sinh (NCS) chọn đề tài: “Ngoại giao văn hóa Việt Nam với ASEAN trong thời kỳ hội nhập” làm luận án Tiến sĩ chuyên ngành Văn hóa học tại Trường Đại học Văn hóa Hà Nội. 2. Tổng quan tình hình nghiên cứu 2.1. Những nghiên cứu về ngoại giao văn hóa 2.1.1. Tình hình nghiên cứu ngoài nước * Những luận điểm làm tiền đề cho lý luận ngoại giao văn hóa - Thuyết xung đột văn minh Thuyết xung đột văn minh do Samuel P.Huntington đề ra, ông cho rằng, nhân tố văn hóa ngày càng có vai trò quan trọng trong quan hệ giao lưu quốc và thế giới đang tiến vào một thời kỳ lịch sử của “Xung đột giữa các nền văn minh”. Thời kỳ sau chiến tranh lạnh, chính trị toàn cầu đang tiến hành tổ chức lại theo ranh giới văn minh. Đặc tính chung và sự khác biệt của văn hóa ảnh hưởng tới các quốc gia, những dân tộc và quốc gia có nền văn hóa tương tự đang tụ hợp lại, những dân tộc và quốc gia có nền văn hóa khác đang chia tách ra. Các tác phẩm của ông bao gồm: “Sự xung đột giữa các nền văn minh” và“Các loại quy phạm của thế giới sau chiến tranh lạnh. Nếu như không phải là văn minh thì sẽ là cái gì?” trên Tạp chí Ngoại giao, năm 1992; Năm 1996 ông xuất bản cuốn sách “Xung đột của văn minh và việc xây dựng lại trật tự thế giới”; Năm 2003 ở Việt Nam 6cuốn “Sự va chạm của các nền văn minh” của Samuel P.Huntington đã được dịch ra tiếng Việt do Nxb Lao động, Hà Nội xuất bản. “Thuyết xung đột văn minh” của Huntington trong nhiều năm đã gây ra luận chiến gay gắt trong giới học thuật quốc tế. Học giả người Đức Harald Miluer, người đại diện thuyết chủ trương “Cùng tồn tại văn minh” với tác phẩm tiêu biểu “Cùng tồn tại văn minh” đã phê phán thuyết xung đột văn minh của Huntington (2001), cho rằng Huntington thổi phồng quá đáng sự xung đột giữa các nền văn hóa. Tuy nhiên “Thuyết xung đột văn minh” cũng đã tác động đến mọi người về sự thay đổi của tình hình thế giới từ góc nhìn văn hóa. - Sức mạnh mềm Những thảo luận về sức mạnh mềm đã xuất hiện khá sớm trong đời sống học thuật phương Tây. Sau đó khái niệm này được Joseph Nye - Nhà nghiên cứu chính trị học quốc tế Mỹ, giáo sư danh tiếng Đại học Havard định nghĩa và phát triển thành một luận thuyết. Ông nêu quan điểm: cần chú ý đặc biệt khác nhau giữa“sức mạnh cứng” (khả năng kinh tế, quân sự của một nước tiến hành mua chuộc và tập hợp) và “sức mạnh mềm” (khả năng cảm hóa và kêu gọi hình thái ý thức văn hóa để tiến hành thu hút) được thể hiện trong cuốn sách “Nước Mỹ định một mình làm bá chủ thế giới chăng?” và luận văn “Xác định lại ranh giới lợi ích quốc gia”, (1990). Một tác phẩm vận dụng lý luận “sức mạnh mềm”, phân tích tường tận tác dụng của sức mạnh mềm là cuốn sách: “Sức mạnh mềm: Sự thống trị toàn cầu của phim ảnh, nhạc thịnh hành, truyền hình và quán ăn nhanh của Mỹ” (2005) của Matthen Fraser, học giả Canada. Trong cuốn sách đó, ông đã trình bày tường tận sự khởi nguồn, phát triển của “sức mạnh mềm” của Mỹ và sự ảnh hưởng của nó trong ngoại giao quốc tế từ bốn mặt: Phim ảnh, truyền hình, âm nhạc thịnh hành và quán ăn nhanh. Các nghiên cứu trên đã đi đến xác định: Sức hấp dẫn về văn hóa, tư tưởng chính trị và các chính sách quốc gia là ba nguồn lực chính tạo nên sức mạnh mềm. - Văn hóa trong quan hệ quốc tế 7Vai trò văn hóa trong quan hệ quốc tế đã được các nhà nghiên cứu đề cập tới rất nhiều và ngày càng đi vào chiều sâu. Đã có rất nhiều tác phẩm bàn luận về vấn đề này tiêu biểu như: “Chính trị học toàn cầu” do Herano Kenichiro; “Thay đổi lớn toàn cầu” do David Held, giáo sư Đại học Mở Anh quốc; “Quan hệ văn hóa quốc tế” của học giả văn hóa Pháp Louis Doro; “Ngoại giao nhiều quỹ đạo” của hai học giả nổi tiếng người Mỹ Louise Diamond và John Mc Donald; “Nhân tố văn hóa trong quan hệ quốc tế Đông Tây” của Tư Trung Quân; “Lý luận văn hóa của chính trị thế giới” và trong luận văn cùng tên đã trình bày luận điểm: “Văn hóa có quan hệ với quan hệ quốc tế như thế nào?” của Tần Á Thanh; “Bàn về mối quan hệ giữa văn hóa và ngoại giao” của Phùng Thiệu Lôi;...[61, tr.14-22]. Các tác phẩm trên đều đề cập tới vai trò của văn hóa trong quan hệ quốc tế từ nhiều góc độ. Tiêu biểu là luận điểm của ông Herano Kenichiro, giáo sư trường Đại học Tokyo, chuyên gia về vấn đề quốc tế nổi tiếng của Nhật trong cuốn sách “Chính trị học toàn cầu” cho rằng, trong giao lưu giữa các nước ngoài quan hệ chính trị, quan hệ kinh tế và quan hệ pháp luật ra còn có quan hệ văn hóa, hơn nữa quan hệ văn hóa không chỉ gián tiếp mà còn trực tiếp ảnh hưởng tới đời sống và lối sống của mọi người. Ông đề xuất, văn hóa trong quan hệ quốc tế bao gồm 4 mặt sau: (1), quan hệ giữa văn hóa và văn hóa lạ; (2), ý trực diện văn hóa trong quan hệ quốc tế; (3), quan hệ văn hóa có tính quốc tế; (4), văn hóa quốc tế [61, tr.16]. Luận điểm của học giả văn hóa Pháp Louis Doro đã phân tích một cách hệ thống quan hệ văn hóa quốc tế, nhấn mạnh vị trí, vai trò của giao lưu văn hóa quốc tế trong ngoại giao tổng thể trong cuốn sách “Quan hệ văn hóa quốc tế”. Ông cho rằng hoạt động giao lưu văn hóa đối ngoại ngày càng hướng tới trung tâm sân khấu giao lưu quốc tế, lĩnh vực hoạt động ngoại giao nhà nước được mở rộng không còn giới hạn ở lĩnh vực chính trị, kinh tế, khoa học kỹ thuật và quân sự nữa mà đi sâu vào lĩnh vực văn hóa. [61, tr.17]. Những nghiên cứu về văn hóa trong quan hệ quốc tế ở trên sẽ là cơ sở cho nghiên cứu ngoại giao văn hóa sau này. * Về ngoại giao văn hóa 8Việc nghiên cứu của giới học giả về ngoại giao văn hóa bắt đầu tương đối muộn. Khái niệm mới “ngoại giao văn hóa” do nhà sử học ngoại giao người Mỹ Ralph Tumer đưa ra sớm nhất từ những năm 40 của thế kỷ XX. Sau này, nhà sử học ngoại giao Mỹ Frank Ninkovich đã trình bày và phát triển một cách hệ thống quan niệm trên. Ninkovich cho rằng: “Nhà chính trị có kiến thức sâu rộng luôn luôn thừa nhận ngoại giao cần suy tính kỹ quan niệm giá trị văn hóa, vì những quan niệm giá trị này có vai trò rất quan trọng trong việc hình thành khả năng lập luận ngoại giao, do đó mà càng có ý nghĩa hơn so với tín ngưỡng, hình thái ý thức hay quan niệm trừu tượng của nó. Ở thế kỷ XX, hầu như tất cả các nhà chính trị quan trọng của Mỹ đều cân nhắc coi nhân tố văn hóa là bộ phận để xử lý công việc ngoại giao của họ; quả thật văn hóa có tác dụng rõ ràng trong công việc ngoại giao của họ, thường là quyết định trong quyết sách đối ngoại của họ” [61, tr.21]. Bước vào thế kỷ XXI, mang lại sự thay đổi có “tính cách mạng” cho nghiên cứu ngoại giao văn hóa phải kể đến cuốn sách “Ngoại giao nhiều quỹ đạo” của hai học giả nổi tiếng người Mỹ Louise Diamond và John Mc Donald. Các tác giả chỉ ra rằng, muốn tìm hiểu ngoại giao toàn diện thì phải tiến hành nghiên cứu và phân tích ngoại giao từ những góc độ khác nhau. Các tác giả nhận xét: chính phủ, phi chính phủ hay cơ quan chuyên môn, hoạt động thương vụ, cá nhân công dân, nghiên cứu/đào tạo và giáo dục, tôn giáo, tài trợ, thông tin và truyền thông đều có thể trở thành kênh quan trọng của trao đổi ngoại giao. Trong 9 “Quỹ đạo” ngoại giao mà các tác giả nêu có 3 lĩnh vực (nghiên cứu/đào tạo và giáo dục, tôn giáo, truyền bá và truyền thông) là thuộc về phạm trù ngoại giao văn hóa [61, tr.17]. 2.1.2. Tình hình nghiên cứu ở trong nước Trong giai đoạn hiện nay, quan hệ giữa Việt Nam với các nước ngày càng được gia tăng cả chiều sâu lẫn chiều rộng, trong đó văn hóa trở thành một lĩnh vực phát triển mạnh mẽ. Ngoại giao văn hóa là một đề tài rất quan trọng, nhưng các công trình nghiên cứu về lĩnh vực này ở nước ta còn chưa nhiều và đây là lĩnh vực khá mới mẻ. Tuy nhiên cũng đã xuất hiện một số công trình nghiên cứu chuyên sâu 9về ngoại giao văn hóa ở dạng đề tài cấp Bộ, luận văn, sách, giáo trình và các bài viết đăng trên các tạp chí chuyên ngành, hay trong kỷ yếu của các hội thảo khoa học... Về sách giáo trình có một số cuốn tiêu biểu như:“Giáo trình quan hệ công chúng chính phủ trong văn hóa đối ngoại” (2011) do Lê Thanh Bình chủ biên; “Ngoại giao và công tác ngoại giao” (2009) của Vũ Dương Huân. “Những vấn đề quốc tế đương đại và quan hệ đối ngoại của Việt Nam” của Viện Quan hệ Quốc tế (Học viện Ngoại giao); Trong đó đáng chú ý là cuốn sách“Ngoại giao văn hóa cơ sở lý luận, kinh nghiệm quốc tế và ứng dụng” (2012) của Phạm Thái Việt. Có thể khẳng định đây được xem là một ấn phẩm đầu tiên của Việt Nam về ngoại giao văn hóa. Cuốn sách chia thành 10 chương đề cập tới nhiều vấn đề nhưng dung lượng dành cho ngoại giao văn hóa còn hạn chế, các vấn đề như vai trò, nội dung, hình thức của ngoại giao văn hóa thì chưa được đề cập tới. Tuy nhiên, khái niệm văn hóa, ngoại giao, đặc biệt về khái niệm ngoại giao văn hóa đã được tác giả nghiên cứu khá dày công. Ngoài ra phải kể đến một số bài viết, bài phát biểu của các nhà ngoại giao, nhà nghiên cứu ngoại giao văn hóa trình bày trong các Hội thảo: Hội thảo quốc gia: "Ngoại giao văn hóa vì một bản sắc Việt Nam trên trường quốc tế, phục vụ hòa bình, hội nhập và phát triển bền vững" (2008) do Bộ Ngoại giao tổ chức. Đáng chú ý là các bài viết của Nguyễn Mạnh Cầm, Vũ Khiêu, Phạm Sanh Châu, Vũ Dương Huân, Trần Trọng Toàn... đã nêu nên những ý kiến về ngoại giao văn hóa rất sâu sắc và bổ ích. Hội thảo khoa học quốc tế “Văn hóa trong thế giới hội nhập” (2010) do Trường Đại học Văn hóa Hà Nội tổ chức. Kỷ yếu Hội thảo có nhiều bài về ngoại giao văn hóa, các tác giả đã đề cập tới quan niệm về ngoại giao văn hóa và vai trò của ngoại giao văn hóa, sự khác nhau giữa ngoại giao văn hóa và giao lưu văn hóa Hội thảo “Văn hóa đối ngoại trong thế giới hội nhập” (2011) do Trường Đại học Văn hóa Hà Nội tổ chức. Hội thảo bàn về những vấn đề lý luận và thực tiễn của văn hóa đối ngoại trong giai đoạn hiện nay, trong đó có nhiều bài viết về ngoại giao 10 tiêu biểu như các bài viết của Vũ Khoan, Phạm Sanh Châu, Lê Viết Duyên Đáng chú ý là bài “Ngoại giao văn hóa Việt Nam: Lý luận và thực tiễn trong thời kỳ hội nhập” của Nguyễn Thái Yên Hương. Tác giả cũng bàn luận về ngoại giao và đánh giá thực trạng hoạt động ngoại giao văn hóa của Việt Nam trong thời gian qua. Từ đó đưa ra các giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả của ngoại giao văn hóa trong thời gian tới. Nghiên cứu chuyên sâu về ngoại giao văn hóa còn được thể hiện dưới dạng đề tài. Đặc biệt phải kể đến đề tài nghiên cứu khoa học cấp Bộ: “Hoạt động ngoại giao văn hóa Việt Nam trong hai thập kỷ đầu thế kỷ XXI” (2009) chủ nhiệm đề tài Phạm Sanh Châu, Vụ trưởng Vụ Văn hóa Đối ngoại, UNESCO. Đây là đề tài nghiên cứu cấp Bộ chuyên sâu đầu tiên bàn về ngoại giao văn hóa. Một lợi thế thấy rõ là nhóm tác giả chính là những người đang thực thi nhiệm vụ ngoại giao văn hóa nên sẽ gặp rất nhiều thuận lợi trong việc triển khai nghiên cứu. Thành công của đề tài là không chỉ đáp ứng được hiểu biết cơ bản ban đầu về ngoại giao văn hóa Việt Nam mà còn hiểu biết được ngoại giao văn hóa trên thế giới hiện nay được tổ chức như thế nào. Tuy nhiên một số nội dung trong đề tài mới chỉ được nêu khái quát, chưa phân tích kỹ, mới mang tính gợi mở như: Vai trò của ngoại giao văn hóa; nội dung của ngoại giao văn hóa; thực trạng của công tác ngoại giao văn hóa Việt Nam. Các tác giả cũng chưa đề cập tới khái niệm cần thiết như: ngoại giao, văn hóa ngoại giao, xung đột văn hóa đây là sự gợi mở cho hướng nghiên cứu tiếp theo. Đáng chú ý là các bài báo được đăng trên tạp chí chuyên ngành về ngoại giao văn hóa như: “Thông tin truyền thông và đẩy mạnh ngoại giao văn hóa” của Đỗ Quí Doãn, Tạp chí Cộng sản số 797, 3/2009; “ngoại giao văn hóa và truyền thông văn hóa đối ngoại trong bối cảnh hội nhập của quốc tế” của Đặng Thị Thu Hương, Tạp chí Nghiên cứu Quốc tế số 1, 3/2009; ngoại giao văn hóa qua Festival tại Việt Nam” của Đỗ Thị Minh Thúy, Tạp chí Văn hóa Nghệ thuật số 335, 5/ 2012; “Quan hệ công chúng và ngoại giao văn hóa” của Phạm Thái Việt, Tạp chí Nghiên cứu Quốc tế số 3, 11 9/2009; “ngoại giao văn hóa trong thời kỳ hội nhập” của Cao Vũ Huyền, Tạp chí Văn hóa Nghệ thuật số 336, 6/2012; “Ngoại giao văn hóa trong chiến lược phát triển hòa bình của Trung Quốc” của Phạm Hồng Yến, Tạp chí Quốc tế số 2, 6/2011; “Ngoại giao văn hóa: Trung Quốc quảng bá quốc gia như thế nào?” của Thạch Hà, Tạp chí Nghiên cứu Quốc tế số 2, 6/2009; Ngoại giao văn hóa Trung Quốc và vai trò của nó trong quá trình hội nhập quốc tế”, Tạp chí Nghiên cứu Trung Quốc số 8/2009. Có thể nói chỉ trong giới hạn của những bài viết, các tác giả dưới những lăng kính khác nhau đã khai thác, phân tích những vấn về liên quan đến ngoại giao văn hóa rất sâu sắc và đầy mới mẻ về các vấn đề như: - Vai trò của thông tin và truyền thông trong việc đẩy mạnh ngoại giao văn hóa hiện nay. - Sự tiến triển Quan hệ công chúng (PR), những nội dung cơ bản của PR và khả năng ứng dụng PR trong ngoại giao văn hóa. - Việc tổ chức festival ở Việt Nam chính là một hoạt động ngoại giao văn hóa nhằm thúc đẩy sự quảng bá hình ảnh đất nước con người Việt Nam ra thế giới, thúc đẩy sự hiểu biết văn hóa thế giới tại Việt Nam. - Muốn thực hiện thành công ngoại giao văn hóa, chúng ta phải chú trọng, tăng cường “khai thông” nhận thức, tư tưởng cho toàn xã hội về vai trò to lớn của ngoại giao văn hóa trong thời đại toàn cầu hóa. - Vai trò của việc tôn vinh các giá trị bản sắc dân tộc, đưa ra một số việc cần làm ngay như: tổ chức lựa chọn Quốc phục, Quốc nhạc, Quốc tửu, các món ăn tiêu biểu của Việt Nam - Truyền thống ngoại giao văn hoá với những nét đẹp trong suốt thời kỳ lịch sử với ba đặc trưng cơ bản đó là: ngoại giao gắn với chủ thể văn hóa; ngoại giao lấy tinh thần khoan hòa văn hóa làm phương châm; ngoại giao thông qua con đường văn học nghệ thuật... 12 2.2. Những nghiên cứu về mối quan hệ và ngoại giao văn hóa Việt Nam với ASEAN * Về lịch sử, chính trị, văn hóa Việt Nam với ASEAN Các cuốn sách viết về lịch sử, chính trị, văn hóa của Việt Nam với ASEAN khá nhiều, tiêu biểu như: cuốn “Việt Nam – Đông Nam Á: Quan hệ lịch sử văn hóa” (1995) của Phạm Đức Thành, Ngô Văn Doanh, Trần Thị Lý...; “Các nước Đông Nam Á” (2010) của các tác giả Nguyễn Quốc Lộc, Nguyễn Công Khanh, Nguyễn Thị Kim Yến, Đào Ngọc Tú; “Việt Nam- ASEAN” (1995) do Phạm Đức Thành (chủ biên); “Tiến trình hội nhập Việt Nam – ASEAN” (2009) của Đinh Xuân Lý; “Ngoại giao Việt Nam trong thời kỳ đổi mới và hội nhập quốc tế” (2011) của Bùi Văn Hùng; “Một Đông Nam Á vận mệnh chung, tương lai chung” (2013) của M.Rajaretnam và Thái Quang Trung; “Quốc hội Việt Nam với AIPA trong tiến trình xây dựng cộng đồng ASEAN” của Ngô Đức Mạnh; “Xây dựng Cộng đồng văn hóa xã hội ASEAN” (2013) do Đức Ninh chủ biên; “Hiện thực hóa Cộng đồng ASEAN. Bối cảnh tác động và những vấn đề đặt ra” (2013) do Trương Duy Hòa chủ biên; “Đánh giá hiện thực các cam kết xây dựng Cộng đồng ASEAN” do Nguyễn Huy Hoàng chủ biên... Trong đó đáng chú ý là cuốn sách “Lịch sử Đông Nam Á tập VI: Đông Nam Á trong thời kỳ hòa bình, phát triển và hội nhập (1991-2010)” (2012) do Nguyễn Thu Mỹ, Viện Nghiên cứu Đông Nam Á chủ biên. Cuốn sách đã dựng lại quá trình phấn đấu vì hòa bình, an ninh, phát triển và hội nhập của Đông Nam Á từ 1991- 2010, bàn về một số vấn đề khoa học và thực tiễn trong lịch sử Đông Nam Á đương đại như các vấn đề đặt ra trong quá trình xây dựng các giá trị văn hóa dân tộc, hiện đại và giữ gìn bản sắc khu vực trong bối cảnh toàn cầu hóa như: các chính sách về văn hóa của các nước Đông Nam Á; các thành tựu phát triển văn hóa, xã hội và những vấn đề đang đặt ra cho các nước Đông Nam Á trong thời gian tới; tình hình xây dựng Cộng đồng ASEAN 13 * Về ngoại giao văn hóa Việt Nam với ASEAN Có thể khẳng định là hiện chưa có một công trình chuyên biệt nào nghiên cứu sâu về NGVH Việt Nam với ASEAN. Những tài liệu chủ yếu bàn về vấn đề có liên quan đến NGVH Việt Nam với ASEAN có thể kể đến: Cuốn “Đối sách của các quốc gia và vùng lãnh thổ ở Đông Bắc Á về sự gia tăng quyền lực mềm” (2013) do Hoàng Minh Lợi chủ biên đã bàn về sự gia tăng quyền lực mềm tại khu vực Đông Bắc Á và tác động của nó tới nhiều quốc gia (trong đó có Việt Nam). Các tác giả đề xuất, Việt Nam cần phải có những đối sách thích hợp để biến những lợi thế, sức mạnh trở thành “quyền lực mềm phục vụ hữu hiệu cho việc xây dựng hình ảnh và vị thế quốc gia”; Cuốn "Sức mạnh mềm văn hóa Trung Quốc - Tác động tới Việt Nam và một số nước Đông Á” (2015) do Nguyễn Thị Thu Phương chủ biên nói về mức độ tác động của sức mạnh mềm văn hóa Trung Quốc một số nước Đông Á và đặc biệt các tác giả nhận định Việt Nam cần tỉnh táo, thận trọng trong việc tiếp nhận, hấp thu, tiếp biến có chọn lọc những tác động tích cực từ sức mạnh mềm văn hóa Trung Quốc, đồng thời tăng cường “nội lực” văn hóa nhằm chống đỡ, hóa giải được những tác động nguy hại gây xói mòn các giá trị nền tảng, làm giảm đi bản sắc văn hóa, chủ quyền văn hóa quốc gia. Từ đó xây dựng “chiến lược nâng cao sức mạnh mềm văn hóa Việt Nam”. Hội thảo khoa học quốc tế “ASEAN:40 năm nhìn lại và hướng tới”, (2007) do trường Đại học Khoa học Xã hội và Nhân văn, Đại học Quốc gia Hà Nội tổ chức. Hội thảo đã nhìn nhận thực tế 40 năm tồn tại và phát triển đã chứng tỏ rằng ASEAN đã tạo dựng được một bản sắc riêng, không hòa trộn, được các nước và cộng đồng quốc tế thừa nhận như là một “phong cách ASEAN”. Sự hình thành bản sắc hay phong cách đó gắn liền với cội nguồn văn hóa Đông Nam Á từ hàng nghìn năm trước và trở thành tài sản chung của ASEAN hiện nay. Ngoài ra còn một số bài viết liên quan đến NGVH Việt Nam với ASEAN như: "Hợp tác văn hóa, thông tin và giáo dục trong ASEAN trong thế kỷ XXI” (2009) của Đỗ Hương Giang, Tạp chí Nghiên cứu Đông Nam Á; “Quan hệ văn 14 hóa Việt Nam - ASEAN: một cách tiếp cận” của Lê Đình Tự; “Vài nét giao lưu văn hóa ASEAN – Trung Quốc và Việt Nam trong lĩnh vực thư viện” (2012) của Phan Thị Kim Dung, Tạp chí Thư viện Việt Nam... Trong đó phải kể đến bài viết “Hợp tác văn hóa Việt Nam – ASEAN hướng tới cộng đồng Văn hóa - Xã hội ASEAN” của Vũ Tuyết Loan, và bài “Tư duy đối ngoại của Việt Nam về văn hóa trong hợp tác ASEAN” của Lê Viết Duyên. Theo hai tác giả, hợp tác văn hoá giữa các nước ASEAN với nhau và giữa ASEAN với các nước đối thoại là một nhu cầu tất yếu và rất được coi trọng. Các bài viết đã bàn về hợp tác văn hoá Việt Nam - ASEAN trong những năm qua và triển vọng hợp tác văn hoá Việt Nam - ASEAN trong những năm sắp tới. Tác giả nhận định văn hoá đã, đang và sẽ đóng vai trò quan trọng đề cao hình ảnh của ASEAN, không thể xây dựng một Cộng đồng ASEAN trong tương lai mà không gắn với việc giữ gìn và làm phong phú hơn những đặc trưng của văn hoá các dân tộc ASEAN, của con người ASEAN. Văn hoá giúp tạo dựng tinh thần ASEAN, từ đó khiến cho nếp nghĩ và hành động của mỗi người dân trong từng quốc gia có tính khu vực hơn. Tóm lại, tổng quan tình hình nghiên cứu cả trong và ngoài nước cho thấy, đây là những tài liệu hữu ích để tham khảo về lý luận và thực tiễn của ngoại giao văn hóa. Đóng góp của các công trình là đã tìm ra khái niệm ngoại giao văn hóa ở nhiều góc độ khác nhau, tầm quan trọng của ngoại giao văn hóa trong quan hệ quốc tế. Nhiều công trình còn nghiên cứu và phân tích sâu về chính sách và thực tiễn ngoại giao văn hóa của một số quốc gia cụ thể, hoặc làm rõ những nhân tố tác động, những mục tiêu chiến lược mà chính sách ngoại giao văn hóa của quốc gia đó hướng tới. Tuy nhiên, vẫn thiếu hụt các công trình nghiên cứu dưới góc độ văn hóa học mà chủ yếu là dưới cách tiếp cận chính trị học, ngoại giao học. Nhìn chung, do phần tư liệu tổng quan không phải là công trình nghiên cứu chuyên biệt về chủ đề được lựa chọn nghiên cứu nên tính hệ thống và vấn đề nghiên cứu liên quan trực tiếp đến đề tài chưa cao. Các công trình liên quan đến ngoại giao văn hóa Việt Nam với ASEAN mới chỉ dừng lại ở các bài viết dưới dạng biểu hiện của ngoại giao văn hóa như sức mạnh mềm văn hóa, hoạt động giao lưu, hợp tác về 15 văn hóa giữa Việt Nam với ASEAN Có thể thấy rằng hiện nay các công trình nghiên cứu chuyên sâu về ngoại giao văn hóa của khu vực Đông Nam Á, đặc biệt là ngoại giao văn hóa Việt Nam với ASEAN trong thời kỳ hội nhập đang còn hạn chế, thiếu hụt. Việc mô tả, phân tích tương đối rõ ràng mức độ thành công của các công trình nghiên trong và ngoài nước và những kết quả mới nhất trong lĩnh vực nghiên cứu của luận án đã đem đến nhiều gợi mở ở các cấp độ khác nhau như: quan điểm phân tích hệ thống lý luận về ngoại giao văn hóa, sức mạnh mềm văn hóa, vai trò của ngoại giao văn hóa, những nhân tố tác động đến ngoại giao văn hóa, hoạt động ngoại giao văn hóa giữa Việt Nam với các nước ASEAN, xu hướng vận động của ngoại giao văn hóa trong quan hệ quốc tế nói chung và Việt Nam với các nước ASEAN nói riêng. 2.3. Câu hỏi nghiên cứu của luận án - Tại sao ngoại giao văn hóa lại được đề cao trong thời kỳ hội nhập quốc tế và có vị trí ngang hàng với ngoại gi... văn hóa phải thông qua truyền bá văn hóa quốc tế để làm cho văn hóa của quốc gia dân tộc hòa nhập vào trong kết cấu văn hóa chủ đạo của thế giới, trở thành bộ phận cấu thành hữu cơ của toàn bộ hệ thống đó hoặc trực tiếp lan rộng thành văn hóa chính thống thế giới, hay nói cách khác là thúc đẩy “tri thức riêng” (quan niệm) của dân tộc lên thành “tri thức chung”, từ đó làm cho nước mình được xã hội quốc tế và các nước khác tích cực đồng thuận. Đó chính là tạo dựng môi trường dư luận quốc tế tốt đẹp, mà trong thời đại hiện nay việc xây dựng hình ảnh quốc gia ngày càng đóng vai trò quan trọng. Ngoại giao văn hóa là công cụ để thực hiện chính sách đối ngoại của đất nước, bản chất là hình thức ngoại giao nhưng phương thức thực hiện lại khác về cơ bản so với các hình thức ngoại giao khác. Phương thức hoạt động của NGVH kết chặt chẽ với các hoạt động truyền bá, quảng bá giá trị văn hóa quốc gia (nước gửi đi) ra thế giới, có thể đến một hoặc nhiều nước khác (nước tiếp nhận). Các giá trị văn hóa của quốc gia, bao gồm các giá trị vật chất (giá trị tự nhiên, như phong cảnh, 32 tài nguyên, môi trường), giá trị tinh thần (giá trị nhân văn, đạo đức, tôn giáo, ngôn ngữ, nghệ thuật, triển lãm, văn học, điện ảnh) và giá trị con người (phẩm chất và năng lực của người dân, đặc biệt là vai trò của các vĩ nhân, anh hùng dân tộc, danh nhân văn hóa tiêu biểu của đất nước,). Những giá trị văn hóa này nếu biết phát huy tốt sẽ tạo nên thương hiệu quốc gia, có sức mời gọi đối với thế giới . Truyền bá và giải thích làm rõ những giá trị văn hóa dân tộc cho các nước tiếp nhận; khuyến khích các loại hình hợp tác văn hóa giữa các chủ thể văn hóa của các quốc gia với các nước tiếp nhận. Thứ hai, đàm phán ký kết, hợp tác về văn hóa Một trong những phương thức hoạt động khác cũng không kém phần quan trọng của NGVH đó là đàm phán, ký kết các hiệp định, thỏa thuận về hợp tác về văn hóa giữa quốc gia với các nước, các tổ chức đa phương trên thế giới. Việc triển khai thực hiện các hiệp định, thỏa thuận quốc tế này đặt ra một yêu cầu thực tế đó là NGVH là một tiến trình hai chiều, có đi có lại. Nước gửi đi có trách nhiệm hỗ trợ nước tiếp nhận trọng việc tổ chức các hoạt động NGVH của nước tiếp nhận trên lãnh thổ của mình khi có yêu cầu. Thứ ba, duy trì mối liên kết văn hóa Ngoài ra, NGVH còn thông qua phương thức đó là hỗ trợ và duy trì mối liên kết văn hóa, ngôn ngữ, phong tục tập quán giữa nước gửi đi với các kiều dân của họ ở nước tiếp nhận, qua đó giữ gìn và phát huy bản sắc văn hóa dân tộc trong cộng đồng kiều dân của mình tại nước tiếp nhận. Ngoại giao văn hóa là một tiến trình hai chiều giữa quốc gia gửi đi với quốc gia tiếp nhận. Đây là nội hàm mang tính quy luật của NGVH mà các chủ thể phải tôn trọng, quốc gia chủ thể vừa quảng bá, giới thiệu những giá trị văn hóa của dân tộc ra thế giới, những đồng thời phải biết tôn trọng những giá trị văn hóa của dân tộc khác. Ở chiều đi đó là nỗ lực của quốc gia gửi đi trong quảng bá hình ảnh đất nước, những giá trị văn hóa của mình đến quốc gia tiếp nhận. Và chiều ngược lại đó là hiểu sâu thêm về nền văn hóa, những giá trị văn hóa của quốc gia tiếp nhận để 33 tìm ra những không gian văn hóa chung mà hai bên có thể cùng hợp tác và chia sẻ. Vì vậy thành công của NGVH phụ thuộc vào nhiều năng lực đối thoại liên văn hóa và sự tôn trọng lẫn nhau của hai bên. Thực chất của NGVH là một loại chính trị hình tượng, tức là một hành vi quốc gia của một quốc gia thiết kế hình ảnh của mình trên vũ đài quốc tế, phô bày rõ sức quyến rũ của bản thân, chinh phục “người tiếp nhận” nước ngoài, tăng thêm sự kết nối Thứ tư: Tiếp nhận, tiếp biến văn hóa nước ngoài Là một bộ phận của văn hoá đối ngoại, NGVH còn tiếp thu có chọn lọc tinh hoa văn hoá, tư tưởng nhân văn, giá trị đạo đức, tri thức, khoa học tiên tiến trên thế giới để làm phong phú hơn, hiện đại hơn, giàu đẹp hơn nền văn hóa dân tộc. Bên cạnh đó, NGVH cũng giữ gìn và phát huy bản sắc văn hoá dân tộc, tiến tới định hướng phát triển cho một nền văn hoá. Với đặc tính của văn hóa là không tĩnh tại mà luôn tiếp biến, việc triển khai ngoại giao văn hóa có thể có 2 tác dụng chủ yếu sau đây. Một là, ngoại giao văn hóa có điều kiện phát hiện, phát huy và phát triển các giá trị văn hóa đặc sắc của dân tộc, mà nhiều giá trị trước đây còn là những “tài sản ẩn” (hidden assets) nhưng có điều kiện “thăng hoa” trong quá trình giao lưu với các nền văn hóa khác. Hai là, ngoại giao văn hóa đóng vai trò là “bộ lọc”, “bánh lái” tạo định hướng phát triển cho nền văn hóa quốc gia. 1.1.2.2. Hình thức của ngoại giao văn hóa Thứ nhất: Tổ chức hoạt động truyền thông đối ngoại Có thể coi NGVH như cách thức nhà nước sử dụng các hình thái giao lưu văn hóa xuyên biên giới để thực hiện các mục tiêu chiến lược và chính sách đối ngoại. Trong đó, phổ biến và nổi bật nhất là việc sử dụng các kênh “truyền thông đại chúng” để truyền tải các giá trị văn hóa nội địa ra bên ngoài. 34 Hoạt động truyền thông đối ngoại thông qua các hoạt động như bày tỏ lập trường trên các vấn đề quốc tế; giải thích cho dư luận hiểu về tình hình đất nước, đường lối, chủ trương, chính sách của Đảng và Nhà nước về đối nội và đối ngoại; đấu tranh với những luận điệu sai trái; giải thích cho dư luận trong nước về những diễn biến trên trường quốc tế và những hoạt động đối ngoại của Đảng và Nhà nước. Những hoạt động trên được thông qua các phương tiện như tuyên truyền miệng, trả lời họp báo, phỏng vấn, bảng tin sách báo của trong nước xuất bản bằng tiếng nước ngoài, Tuần báo quan hệ quốc tế, Tạp chí Nghiên cứu quốc tế Điểm cần nhấn mạnh ở đây là: Khi tin tức và sự kiện ở bất cứ nước nào trên thế giới đều rất nhanh chóng truyền tới nước khác, thì mọi quốc gia trên thế giới đều phải đối mặt với các vấn đề thuộc lĩnh vực NGVH. Đứng trước thực trạng này, hầu như tất cả các quốc gia phản ứng bằng cách ra sức truyền bá và phổ biến hình ảnh của mình cho công chúng nước khác nhằm chiếm được sự chia sẻ, cảm tình và lòng tin với hy vọng, từ đó có thể gây ảnh hưởng đến chính sách đối ngoại của các đối tác bên ngoài theo hướng có lợi cho mình. Thứ hai: Tổ chức hoạt động giao lưu văn hóa nghệ thuật Hoạt động giao lưu văn hóa nghệ thuật giữa các quốc gia hiện nay chủ yếu thông qua loại hình nghệ thuật biểu diễn. Nghệ thuật biểu diễn là sử dụng không gian của các loại hình sân khấu để thể hiện, truyền tải nội dung của các tác phẩm phi vật thể đến với công chúng. Các tác phẩm sân khấu, điện ảnh, ca múa nhạc ngoài đáp ứng nhu cầu hưởng thụ văn hóa tinh thần và giải trí đa dạng, nó còn góp phần giáo dục tư tưởng, tình cảm, lối sống của công chúng. Khi tổ chức các hoạt động giao lưu văn hóa nghệ thuật giữa các quốc gia cần lưu ý một số điều kiện sau để có thể đảm bảo được người dân quốc gia đó chấp nhận, và cao hơn là thực hành ứng dụng: (1) tính độc đáo, khác biệt nhưng thân thiện, dễ gần, dễ chấp nhận; (2) đáp ứng sự kỳ vọng, sở thích và thị hiếu của một nhóm người các quốc gia đó; (3) có đầy đủ các ấn phẩm các sản phẩm minh họa đi kèm và bằng ngôn ngữ bản địa hoặc ít nhất cũng là thứ ngôn ngữ thông dụng của các gia đó như sách, tạp chí, băng, đĩa ghi âm, ghi hình, trang web để tra cứu; (4) có 35 cộng đồng người dân hoặc các nhà chuyên môn của bản thân quốc gia đó sẵn sàng trao đổi, chia sẻ kiến thức, hiểu biết về giá trị văn hóa đó, thậm chí kể cả hỗ trợ, giúp đỡ để họ có thể “thực hành” giá trị văn hóa đó. Tất nhiên, đây là cấp độ cao nhất mà bất kỳ quốc gia nào cũng mong muốn khi truyền bá văn hóa ra nước ngoài. Trên thực tế, không phải tất cả các giá trị văn hóa của một quốc gia đều có thể được “thực hành, ứng dụng” ở nước ngoài, nhiều giá trị văn hóa chỉ dừng lại ở mức độ để người dân nước khác biết về nó như một trải nghiệm. Trên thực tế, một hoạt động NGVH cụ thể luôn xác định rõ thời gian, địa điểm và nội dung. Tuy nhiên, điều cần quan tâm là khi hoạt động NGVH đó kết thúc, dư âm và ấn tượng mà nó để lại vẫn sẽ tiếp tục tác động đến công chúng nước tiếp nhận, thôi thúc họ tìm hiểu về nền văn hóa của quốc gia gửi đi. Toàn bộ quá trình tìm hiểu sau sự kiện NGVH đó công chúng nước tiếp nhận sẽ góp phần thúc đẩy giao lưu văn hóa giữa hai nước, qua đó nâng cao hiểu biết lẫn nhau, nuôi dưỡng tình hữu nghị và thúc đẩy quan hệ hợp tác trên mọi lĩnh vực. Thức ba: Tổ chức hoạt động triển lãm Theo định nghĩa của Văn phòng triển lãm quốc tế - B.I.E: Triển lãm là một cuộc trưng bày, cho dù với tên gì đi nữa đều có chung một chức năng chính là giáo dục công dân, một cuộc triển lãm có thể giới thiệu những phương tiện theo chú ý của con người để đáp ứng nhu cầu văn hóa hay giới thiệu tiến bộ đạt được của nhiều ngành là kết quả của trí tuệ con người hay trưng bày những triển vọng cho tương lai. Một triển lãm có tính quốc tế khi có nhiều hơn một nước có đại diện tham dự. Triển lãm (tiếng Anh: exhibition) là việc tổ chức trưng bày vật phẩm, tranh ảnh hoặc hàng hoá tập trung trong một thời gian và tại một địa điểm nhất định nhằm mục đích giới thiệu, quảng bá đến mọi người trong xã hội, cộng đồng. Triển lãm có hai loại chính cần phân biệt rõ: triển lãm thương mại và triển lãm phi thương mại. Trong luận án đề cập tới triển lãm phi thương mại. Triển lãm phi thương mại: Là các triển lãm trưng bày, giới thiệu quảng bá, vật phẩm, hình ảnh đến mọi người trong xã hội, cộng đồng, không vì mục đích xúc 36 tiến ký kết hợp đồng tiêu thụ hàng hoá hay trực tiếp tiêu thụ hàng hoá. Các triển lãm phi thương mại thường vì mục tiêu tuyên truyền, quảng bá chính trị hoặc văn hoá như triển lãm thành tựu kinh tế quốc dân; triển lãm ảnh nghệ thuật, tranh cổ động... Triển lãm thành tựu thường do các cơ quan, tổ chức của nhà nước đứng ra thực hiện chủ yếu vì mục đích chính trị. Các triển lãm tranh ảnh, vì đặc thù của vật phẩm trưng bày, thường được trưng bày như các phòng tranh, không tổ chức thành các gian hàng. Thứ tư: Tổ chức ngày/tuần/tháng/năm văn hóa tại nước ngoài Mục tiêu của NGVH là quảng bá, giới thiệu những giá trị văn hóa, truyền thống, phong tục, tập quán, lối sống, văn hóa nghệ thuật của đất nước; xây dựng và quảng bá một hình ảnh tích cực của quốc gia trên thế giới; tạo điều và môi trường thuận lợi cho các hoạt động kinh tế, thương mại và đầu tư của đất nước với nước ngoài. Và những sự kiện như ngày/tuần/tháng/năm văn hóa tại nước ngoài được tổ chức ngày càng nhiều những năm gần đây chính là để phục vụ cho mục tiêu ấy. Đây không chỉ là dịp để cho bạn bè trên thế giới tìm hiểu về đất nước, con người và truyền thống văn hóa của nước gửi đi mà còn góp phần mở rộng mối quan hệ hợp tác đối ngoại của quốc gia đó trên nhiều lĩnh vực với các nước bạn bè trên thế giới. Không chỉ có vậy, thông qua “Những ngày Văn hóa tại nước ngoài”, du khách quốc tế đã được biết đến nhiều hơn, có một cái nhìn sâu sắc và chân thực hơn về hình ảnh quốc gia đó.Từ đó họ bắt đầu nảy sinh nhu cầu được tìm đến để được tận mắt kiểm chứng và chiêm nghiệm những giá trị văn hóa đó, qua đó góp phần thúc đẩy du lịch của quốc gia đó ngày càng phát triển. Chính vì vậy có thể khẳng định rằng, bên cạnh những ý nghĩa về mặt ngoại giao và chính trị, việc tổ chức những sự kiện ngày/tuần/tháng/năm văn hóa tại nước ngoài đóng góp một phần không nhỏ vào hoạt động xúc tiến, quảng bá của ngành du lịch quốc gia. Thức năm: Hoạt động của Trung tâm Văn hóa ở nước ngoài Một trong những công cụ được đánh giá hữu hiệu nhất để thực hiện các hoạt động NGVH đó là các trung tâm văn hóa ở nước ngoài. Mặc dù Đại sứ quán ở nước 37 ngoài vẫn được các nước sử dụng để tổ chức các hoạt động NGVH, tuy nhiên do tính đặc thù của trụ sở cơ quan đại diện ngoại giao, các trung tâm văn hóa ở nước ngoài được đánh giá là hiệu quả, gần gũi và dễ tiếp cận hơn với công chúng nước sở tại. Trung tâm văn hóa ở nước ngoài của các nước có sự khác nhau về quy mô, cách thức tổ chức hoạt động, nguồn kinh phí bảo đảm, nhưng đều có nhiệm vụ chung là quảng bá hình ảnh đất nước, phổ quát văn hóa, đặc biệt là dạy ngôn ngữ và giới thiệu văn học, nghệ thuật của quốc gia đến chính giới và công chúng nước sở tại. Ví dụ,Vương quốc Anh với các Hội đồng Anh (British Council) được thành lập từ năm 1943 và hiện có văn phòng tại trên 100 nước, trong đó văn phòng tại Việt Nam được thành lập vào năm 1993. Cộng hòa Liên bang Đức với mạng lưới Viện Gớt (Goethe Institute) được thành lập năm 1951 và hiện có 154 phân viện ở 94 quốc gia trên thế giới, trong đó Viện Gớt tại Việt Nam năm 1997, là phân viện đầu tiên của Viện Gớt tại Châu Á. Tiếp đó là sự gia tăng nhanh chóng số lượng các học viện Khổng Tử của Trung Quốc trên thế giới. Kể từ sau khi học viện Khổng Tử đầu tiên được xây dựng vào năm 2004 tại Hàn Quốc, đến nay đã có hơn 260 đơn vị tại 75 quốc gia trên toàn thế giới. Đây là tổ chức giáo dục phi lợi nhuận và nhận được sự tài trợ tích cực từ phía chính phủ Trung Quốc. Nó cũng khá giống với những Viện Goethe của Đức, các Trung tâm văn hóa Pháp (Alliance France), hay các Hội đồng Anh (British Council). Nhiệm vụ của chúng không phải để truyền bá những tư tưởng Khổng giáo như tên gọi, mà chủ yếu để dạy ngôn ngữ, trao đổi nghiên cứu, giáo dục, sách báo, phim ảnh, nói chung là quảng bá các sản phẩm văn hóa Trung Quốc ra toàn cầu, với mục tiêu khuếch trương việc phát triển đa văn hóa và để xây dựng một thế giới hài hòa theo tinh thần đoàn kết, giá trị đạo đức, tôn trọng quyền lực, đề cao tầm quan trọng của các mối quan hệ tôn ty trật tự đang được tuyên truyền rộng rãi chưa từng thấy ở Trung Quốc. Những trung tâm này ngày càng mở rộng hoạt động và thu hút sự quan tâm, khám phá, học hỏi, tham gia của đông đảo công chúng nhất là thanh thiếu niên và sinh viên nước sở tại. 38 1.1.2.3. Chủ thể của ngoại giao văn hóa Chủ thể quan trọng nhất của NGVH là nhà nước, nhà nước giữ vai trò chủ đạo trong chỉ đạo, điều phối, triển khai thực hiện NGVH. Vai trò của nhà nước đối với NGVH thể hiện ở những nội dung cơ bản sau: Thứ nhất, hoạch định, đề ra các chính sách, chiến lược, chương trình, kế hoạch NGVH của đất nước. Thứ hai, chỉ đạo điều phối, tổ chức triển khai thực hiện trong cả nước. Thứ ba, bố trí và huy động nguồn lực, kể cả nguồn nhân lực và vật lực để thực hiện. Thứ tư, thực hiện công tác quản lý nhà nước trên phạm vi cả nước việc triển khai thực hiện chính sách NGVH, bao gồm cả công tác kiểm tra, đôn đốc, hướng dẫn, giám sát, thanh tra, tổng kết, đánh giá rút kinh nghiệm, khen thưởng Thứ năm, cùng các nước, tổ chức quốc tế đánh giá kết quả thực hiện các chương trình NGVH đã ký kết; đàm phán thiết lập, ký kết mở rộng quan hệ NGVH với các nước, các tổ chức quốc tế khác trên thế giới. Với những nội dung cơ bản nêu trên đặt ra yêu cầu đối với các cơ quan nhà nước, đặc biệt là cơ quan quản lý nhà nước về ngoại giao và về văn hóa phải có sự phối hợp hết sức nhịp nhàng để có thể triển khai thắng lợi chính sách, chiến lược NGVH của nhà nước. Song, NGVH cũng là một phương diện của quan hệ quốc tế, vì lẽ đó sẽ chịu tác động và ảnh hưởng của những thay đổi về chủ thể trong đời sống chính trị quốc tế. Trong thời gian qua, bên cạnh chủ thể chính và quan trọng nhất của NGVH là nhà nước thì ngày càng có sự tham gia rõ nét của một số chủ thể khác trong quan hệ quốc tế, đặc biệt là tổ chức phi chính phủ, các tập đoàn xuyên quốc gia, là một thực tế không thể phủ nhận. Trong đó, điều đáng chú ý là mức độ ảnh hưởng, khả năng tác động, quyền lực, tính hợp pháp và khả năng tạo dựng lòng tin của các chủ thể này trong quan hệ quốc tế ngày càng gia tăng. Trong xu thế toàn cầu hóa và hội nhập quốc tế như hiện nay, nhu cầu đa dạng hóa các nguồn lực cho NGVH ngày càng 39 trở nên cần thiết, và sự tham gia của các chủ thể phi nhà nước ngày càng trở nên quan trọng và có tác động tích cực trong triển khai công tác NGVH của quốc gia. Ngoài ra, một chủ thể đóng vai trò quan trọng trong NGVH nữa đó là nhân dân, với đặc thù của văn hoá là sự giao lưu, hợp tác đan xen giữa nhân dân với nhân dân. Hơn nữa, cùng với chủ trương đẩy mạnh xã hội hoá các hoạt động văn hoá, nhân dân ngày càng trở thành chủ thể chính của nhiều hoạt động văn hoá, vừa là người tổ chức thực hiện và người biểu diễn. Chắc chắn rằng, để thực hiện thắng lợi NGVH, phải khai thác và vận dụng được sức mạnh tổng hợp của tất cả các chủ thể. Ngoài các tiêu chí phân loại trên còn có các tiêu chí phân loại theo quan hệ: song phương, đa phương; tiêu chí phân loại theo không gian: trong nước, ngoài nước. 1.1.3. Vai trò của ngoại giao văn hóa Ngoại giao văn hóa là công cụ thực hiện chính sách đối ngoại cùng với ngoại giao chính trị, ngoại giao kinh tế thực hiện thắng lợi các mục tiêu của nhà nước. Tuy nhiên, NGVH không phải là công cụ ngoại giao đơn thuần mà là công cụ liên ngành, bởi nó có sự gắn kết chặt chẽ, hữu cơ với văn hóa, dùng văn hóa và qua văn hóa để thực hiện những nhiệm vụ của chính sách đối ngoại. Mục tiêu cao nhất của NGVH là góp phần thực hiện thắng lợi các mục tiêu của chính sách đối ngoại của nhà nước, trong đó rõ nét nhất là mục tiêu tăng cường hiểu biết lẫn nhau, tôn trọng các giá trị văn hóa của nhau, tạo nền tảng và cơ sở cho xây dựng lòng tin, qua đó duy trì mối quan hệ ổn định và lâu bền giữa các quốc gia. Tuy nhiên, phân tích ở những góc độ cụ thể thì mục tiêu của NGVH tương đối đa dạng, trong đó có thể nêu một số mục tiêu cơ bản như: (1) quảng bá, giới thiệu một cách rõ nét những giá trị văn hóa, truyền thống, phong tục, tập quán, lối sống, văn hóa nghệ thuậtcủa đất nước; (2) định vị đất nước trong đời sống chính trị - văn hóa quốc tế; (3) làm nền tảng tinh thần cho nền ngoại giao mở rộng, tạo điều kiện và môi trường thuận lợi cho các hoạt động kinh tế, thương mại và đầu tư của đất nước với nước ngoài; (4) thông qua giao lưu văn hóa tiếp thu những giá trị tốt đẹp và tinh túy của văn hóa thế giới để làm phong phú thêm nền văn hóa dân tộc. 40 Bên cạnh đó, NGVH cũng là công cụ thực hiện chính sách văn hóa đối ngoại, hay rộng hơn là chính văn hóa, các thỏa thuận, hiệp định, hợp tác quốc tế về văn hóa của nhà nước và các công ước quốc tế về văn hóa mà nhà nước tham gia, bởi nhiều hoạt động NGVH chính là sự cụ thể hóa các thỏa thuận, hiệp định hợp tác giữa các nhà nước về văn hóa. 1.1.3.1. Ngoại giao văn hóa thúc đẩy ngoại giao chính trị, ngoại giao kinh tế Ngoại giao văn hóa là một bộ phận trong toàn bộ hoạt động ngoại giao, luôn luôn gắn liền với chính trị và kinh tế. Ba lĩnh vực ấy đều liên quan mật thiết với nhau, tác động lẫn nhau và bổ sung cho nhau. Vấn đề văn hóa thâm nhập vào các vấn đề chính trị và kinh tế. Mọi vấn đề kinh tế và chính trị được đặt ra trong ngoại giao đều gắn liền với văn hóa. Sự tham gia của văn hóa là một điều kiện thành công hay thất bại của cả ngoại giao chính trị và ngoại giao kinh tế. Cách đây hơn 60 năm khi Hồ Chủ tịch nói văn hóa nằm trong cả kinh tế và chính trị thì lời nói đó ngày càng sáng tỏ như một chân lý, và càng chứng minh mối quan hệ mật thiết giữa văn hóa, chính trị và kinh tế trong mọi hoạt động ngoại giao. Ngày nay, cùng với ngoại giao chính trị, ngoại giao kinh tế, NGVH tạo thành sức mạnh tổng hợp cho ngoại giao hiện đại; trong đó NGVH tạo nên nền tảng tinh thần, chất “kết dính” làm bền chặt quan hệ chính trị và kinh tế, đồng thời có lúc đóng vai trò đi trước, mở đường cho ngoại giao chính trị và kinh tế. Trong quan hệ quốc tế, sự lồng ghép, đan xen và tác động bổ trợ cho nhau giữa NGVH và ngoại giao chính trị, ngoại giao kinh tế được thể hiện rất rõ nét. Đối với ngoại giao chính trị: NGVH là một công cụ quan trọng để tăng cường hiểu biết lẫn nhau, là chất “keo dính” làm bền chặt quan hệ chính trị với các nước. Cụ thể, NGVH ngày nay có 3 chức năng chính trị chủ yếu: Một là: củng cố quan hệ chính trị tốt đẹp với các nước đối tác, từ đó góp phần vào hòa bình, ổn định và nâng cao vị thế của đất nước. Hai là: quảng bá hình ảnh đất nước, con người, văn hóa dân tộc, từ đó tranh thủ thiện cảm của thế giới và đấu tranh chống lại những âm mưu chống phá của các lực lượng cơ hội chính trị và thế lực thù địch. 41 Ba là: xây dựng nhịp cầu kết nối kiều bào ở nước ngoài hướng về quê hương đất nước và đóng góp tích cực vào công cuộc phát triển đất nước, từ đó xây dựng vững chắc khối đại đoàn kết dân tộc. Trong hầu hết các chương trình nghị sự của các sự kiện chính trị quốc tế lớn như các hội nghị thượng đỉnh, hội nghị cấp cao các nhà lãnh đạo của các tổ chức hợp tác đa phương, hoặc trong chương trình nghị sự của các chuyến thăm cấp cao của nguyên thủ các nước, luôn có một chương trình văn hóa, nghệ thuật do nước chủ nhà tổ chức hoặc cùng giao lưu với nước đối tác. Những hoạt động NGVH này là những điểm nhấn rất có ý nghĩa, góp phần vào sự thành công của các hoạt động ngoại giao chính trị. Bên cạnh đó, khi quan hệ chính trị giữa hai quốc gia tốt đẹp sẽ tạo điều kiện để các hoạt động NGVH nảy nở và phát triển. Đối với ngoại giao kinh tế: NGVH cũng có vai trò quan trọng trong việc thúc đẩy sự phát triển kinh tế. Trong quan hệ hợp tác giữa các quốc gia hình ảnh, uy tín quốc gia trên trường quốc tế được nâng cao sẽ giúp cho quốc gia đó được tin cậy, dễ dàng thu hút đầu tư, sự hợp tác của các quốc gia khác. NGVH có tác động và ý nghĩa hết sức đặc biệt, trực tiếp nhất là trong hỗ trợ thúc đẩy, mở rộng thị trường xuất nhập khẩu các sản phẩm cộng nghiệp văn hóa. Và bởi lẽ trước hết bản thân văn hóa cũng là một ngành công nghiệp quan trọng. Nhiều quốc gia như Mỹ, Hàn Quốc, Trung Quốc đã thu lợi hàng tỷ đô la nhờ việc khai thác các sản phẩm văn hóa được quảng bá. Việc quảng bá hình ảnh đất nước, văn hóa, con người của quốc gia cũng góp phần thúc đẩy đầu tư nước ngoài và du lịch phát triển. Tuy nhiên, NGVH có thể có những cách thức đóng góp khác tuy thầm lặng nhưng không kém phần hiệu quả cho sự phát triển của đất nước. Đó là thông qua các mối quan hệ chính trị bền chặt với các đối tác quan trọng mà NGVH góp phần tạo dựng, nhiều cơ hội hợp tác kinh tế có thể mở ra giữa quốc gia đó với các đối tác khác. Ví dụ, tại Việt Nam trong những năm qua các hoạt động NGVH quảng bá hình ảnh đất nước đã thu hút được số lượng lớn khách du lịch và củng cố lòng tin cho các nhà đầu tư tại Việt Nam. Điều này thể hiện qua việc lượng khách du lịch 42 tăng mạnh sau khi thành phố Đà Nẵng tổ chức thành công hội thi bắn pháo hoa quốc tế nhiều năm nay hay tỉnh Khánh Hòa được công ty tổ chức Miss Universe của Mỹ vào Nha Trang tổ chức cuộc thi Hoa hậu Hoàn vũ 2008. Như vậy, NGVH đóng vai trò hết sức quan trọng cả trên khía cạnh chính trị, kinh tế. NGVH đã và đang trở thành một cột trụ hữu hiệu của ngoại giao hiện đại song hành cùng ngoại giao chính trị và ngoại giao kinh tế trong mối quan hệ qua lại hữu cơ. Trong đó, NGVH tạo nền tảng tinh thần, chất “keo dính” làm bền chặt quan hệ chính trị và kinh tế, đồng thời có lúc đóng vai trò “phá băng”, “mở đường” cho ngoại giao chính trị và kinh tế. Ngoại giao kinh tế tạo cơ sở vật chất để củng cố và làm sâu sắc NGVH và ngoại giao chính trị. Ba cột trụ này tạo ra sức mạnh cộng hưởng cho ngoại giao hiện đại, góp phần tạo dựng và phát triển các mối quan hệ đối ngoại theo hướng ổn định, bền vững và hiệu quả. Ngay tại Việt Nam cũng có rất nhiều ví dụ điển hình minh chứng cho luận điểm trên. Ví dụ, năm 2000, trong chuyến thăm đầu tiên của Tổng thèng Mü ®Õn ViÖt Nam, ng-êi Hµ Néi ®· ®-îc dÞp “giËt m×nh” khi nghe Bill Clinton trÝch th¬ NguyÔn Tr·i và lẩy Kiều: “ Sen tàn cúc lại nở hoa Sầu dài ngày ngắn đông đà sang xuân” Phát biểu trước công chúng người Việt, vị Tổng thống đã nhắc tới Trần Hiếu Ngân lúc đó vừa dành Huy chương bạc ở Olympic Sydney 2000, đến Lê Huỳnh Đức, Hồng Sơn đang tham gia Tiger Cup 2000 ở Thái Lan. Những câu chuyện đã được nhắc lại tạo không khí cởi mở hữu nghị cho hai nước trước đây đã từng là kẻ thù. Từ những chuyện đậm chất văn hoá giúp Bill Clinton vượt qua được rào cản tâm lý từ hai phía. Tháng 4/2006, trong buổi tiếp Chủ tịch Hạ viện Mỹ Dennis Hastest, Chủ tịch Quốc hội Nguyễn Văn An đã tặng ông Hastest món quà nhỏ là Bản Tuyên ngôn độc lập in trên giấy dó với lời giải thích: “Khi viết Tuyên ngôn độc lập của Việt Nam, Chủ 43 tịch Hồ Chí Minh đã trích dẫn Tuyên ngôn độc lập 1766 của Mỹ về nguyên tắc “tự do, bình đẳng, bác ái”, đó là điểm tương đồng quan trọng giữa hai bên”. Lời giới thiệu mang tính văn hóa và nhân văn ấy của Chủ tịch Quốc hội Nguyễn Văn An đã gây ấn tượng cho Chủ tịch Hạ viện Mỹ, khiến cho mối quan hệ giữa hai bên trở nên thân tình, cởi mở hơn, hiệu quả hơn. Một sự kiện NGVH đáng lưu ý, ngày 7/7/2015 Phó Tổng thống Mỹ Joe Biden đã chủ trì buổi tiệc chiêu đãi trọng thể Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng và đoàn đại biểu Việt Nam sau cuộc gặp đầu tiên giữa Tổng thống Barack Obama và Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng tại Nhà Trắng. Ông Biden cho rằng, điều tuyệt vời là ông được đứng bên Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng nhân dịp hai nước kỷ niệm 20 năm ngày bình thường hóa quan hệ ngoại giao, với “không gì khác ngoài triển vọng tương lai” trong mối mối quan hệ song phương giữa hai nước. Ngầm nhắc tới tầm quan trọng của chuyến thăm Mỹ mang tính lịch sử của Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng, Ông Biden đã đọc hai câu thơ trong tác phẩm Truyện Kiều của đại thi hào Nguyễn Du để mô tả quan hệ Việt - Mỹ: “Trời còn để có hôm nay Tan sương đầu ngõ, vén mây giữa trời”. Đây không phải là lần đầu tiên một quan chức cấp cao của Mỹ lẩy thơ Kiều khi nói chuyện với các nhà lãnh đạo cao cấp của Việt Nam. Đặc biệt, sự kiện gần đây nhất là trưa ngày 24/5/2016 Tổng thống Mỹ Barack Obama đã đến thăm Việt Nam và có bài phát biểu trước hơn 2.000 trí thức, sinh viên, doanh nhân trẻ... về quan hệ giữa Việt Nam và Mỹ tại Trung tâm Hội nghị Quốc gia, Hà Nội.Trong bài phát biểu kéo dài hơn 30 phút của mình, ông Obama đã sử dụng hàng loạt những câu thơ, lời bài hát, nhắc tên những nhân vật lịch sử nổi tiếng của Việt Nam. Bài phát biểu đã khiến nhiều người bất ngờ vì sự am hiểu sâu sắc lịch sử và văn hóa Việt Nam của Tổng thống Mỹ. Mở đầu bài phát biểu của mình, Tổng thống Obama bày tỏ trân trọng quá khứ lịch sử, tinh thần bất khuất của Việt Nam. Ông Obama đọc thuộc những câu thơ trong bài Sông núi nước Nam của 44 Lý Thường Kiệt thể hiện sự tôn trọng, khẳng định chủ quyền quốc gia, chủ quyền dân tộc của Việt Nam: “Sông núi nước Nam vua Nam ở Rành rành định phận ở sách trời”. Ông Obama cũng nhắc tới những điểm chung trong bản Tuyên ngôn độc lập của Chủ tịch Hồ Chí Minh và Tuyên ngôn độc lập của Tổng thống Thomas Jefferson về “quyền sống, quyền tự do và mưu cầu hạnh phúc” của con người. Khi nói về những nỗ lực, thành quả hàn gắn vết thương chiến tranh, người dân hai nước đã xích lại gần nhau, ông Obama dẫn lời bài hát Mùa xuân đầu tiên của nhạc sĩ Văn Cao :“Từ đây người biết quê người, từ đây người biết thương người”. Trước khi rời bục phát biểu, Tổng thống Obama khiến tất cả mọi người bất ngờ khi lẩy câu Kiều (hai câu thơ hẹn thề của Thúy Kiều và Kim Trọng trong Truyện Kiều của đại thi hào Nguyễn Du) để kết thúc bài phát biểu của mình: “Rằng trăm năm cũng từ đây Của tin gọi một chút này làm ghi”. Những ví dụ cho thấy NGVH nếu được vận dụng khéo léo, có thể làm nên những điều kỳ diệu mà nhiều khi những cuộc đàm phán chính thức kéo dài và gay cấn cũng khó lòng đạt được. Các cường quốc đặc biệt là Mỹ sử dụng NGVH như một công cụ hữu hiệu trong hoạt động ngoại giao của mình. Rõ ràng NGVH thúc đẩy ngoại giao chính trị và ngoại giao kinh tế. 1.1.3.2. Ngoại giao văn hóa tăng cường hiểu biết lẫn nhau giữa các quốc gia đồng thời còn có vai trò làm dịu căng thẳng về chính trị (nếu có) Ngoại giao văn hóa góp phần củng cố và làm sâu sắc mối quan hệ ngoại giao giữa các quốc gia trên thế giới, đặc biệt là tăng cường hiểu biết lẫn nhau, gia tăng sự gắn kết và củng cố lòng tin. Những năm đầu sau chiến tranh lạnh, mặc dù những rào cản vô hình giữa hai phe đã được xóa bỏ nhưng vẫn tồn tại sự nghi kỵ, sự thiếu hiểu biết giữa người dân các nước với nhau. Trong khi đó, yêu cầu giữ môi trường hòa bình, thúc đẩy hợp tác, thu hút đầu tư, mở rộng quan hệ thương mại, đẩy mạnh hợp tác liên kết khu vực 45 và quốc tế để tăng trưởng và phát triển trở thành xu thế chủ đạo, dẫn dắt quan hệ quốc tế. Trong bối cảnh đó, các hoạt động NGVH mà các quốc gia triển khai đã góp phần đưa các dân tộc xích lại gần nhau, biến mối hoài nghi trở thành sự hiểu biết lẫn nhau, vun đắp tình hữu nghị, tạo động lực thúc đẩy sự hợp tác. Ngoài ra, NGVH còn có vai trò làm dịu căng thẳng về chính trị (nếu có), làm thân thiết mối quan hệ giữa các nước. Chúng ta hãy tưởng tượng hai đối tác có những bất đồng về vấn đề chính trị nào đó. Khi gặp mặt, mỗi bên sẽ luôn tự nhủ mình về điều bất đồng đó, luôn tâm niệm phải lưu ý, phải “phòng thủ” để không bị sơ hở, cũng luôn phải giữ ý để không phạm vào quan điểm của phía bên kia và “dè chừng” xem phía bên kia có hàm ý gì về quan điểm của mình hay không. Trong điều kiện đó, cuộc gặp mặt sẽ diễn ra bầu không khí dè dặt, không cởi mở, thậm chí căng thẳng. Và đương nhiên, kết quả sẽ khó đạt được như mong muốn. Những nếu hoạt động ngoại giao được tiến hành thông qua văn hóa thì mọi chuyện lại khác. Vì các hình thức nghệ thuật được biểu đạt bằng các biểu tượng - một thứ ngôn ngữ chung được nhiều dân tộc chấp nhận - nên chúng ta có thể hiểu được mà không cần phiên dịch, có thể đi vào lòng người với những rung cảm thẩm mỹ đầy ấn tượng. Chúng làm cho mọi người đồng cảm với nhau, dễ dàng tìm được tiếng nói chung, chia sẻ với nhau và vì thế mà gần gũi nhau hơn. Trong đó, không chỉ những nước có bất đồng, mà ngay cả những nước cựu thù cũng có thể xích lại gần nhau, hóa giải hận thù cũ, để trở thành đối tác vì mục đích hợp tác cùng có lợi. Ví dụ điển hình trong lĩnh vực này là một sự kiện nổi tiếng, được thế giới đặt biệt danh ...ồng sóng xanh bơi). 32 Giác lấy làm lạ, khi về đến sứ quán, làm thơ gửi tặng, trong đó có những câu: Hạnh ngộ minh thì tán thịnh du, Nhất thân nhị độ sứ Giao Châu... Thiên ngoại hữu thiên ưng viễn chiếu, Khê đàm ba tĩnh kiến thiềm thu. (May gặp thời bình được giúp mưu, Một mình hai lượt sứ Giao Châu... Ngoài trời lại có trời soi nữa, Sóng lặng khe đầm bóng nguyệt thâu)33 32 Đại Việt sử ký toàn thư, tập I, Sđd, tr.224 33 (Đại Việt sử ký toàn thư, tập I. Sđd, tr.225.) 228 Sư Pháp Thuận đem bài thơ này dâng lên vua Lê. Vua cho gọi sư Khuông Việt đến xem. Khuông Việt nói: “Thơ này tôn bệ hạ không khác gì vua Tống”. Vua khen ý thơ, tặng cho rất hậu. Khi Lý Giác từ biệt ra về, vua sai sư Khuông Việt làm bài Từ đưa tiễn, trong đó có câu rằng: Nguyện tương thâm ý vị biên cương, Phân minh tấu ngã hoàng. (Xin đem thâm ý vì Nam cương, Tâu vua tôi tỏ tường)34 Có thể nói, từ chỗ vua quan nhà Tống tự cho mình là nước văn minh có thiên chức đi khai hóa cho các nước man di xung quanh đến chỗ họ phải nể trọng giá trị văn hóa Việt, rõ ràng là một thắng lợi tinh thần to lớn của dân tộc ta thời bấy giờ. Trên cơ sở thắng lợi ấy, nhà Tiền Lê đã chủ động chuyển từ đối đầu quân sự sang đối thoại văn hóa với nhà Tống để củng cố quan hệ bang giao hòa bình giữa hai nước. Và những cuộc xướng họa thơ văn của hai nhà sư Đại Cồ Việt thời Lê Đại Hành với sứ giả Tống đã mở đầu cho một truyền thống ứng đối tao nhã, mềm mỏng về ngôn từ, nhưng với hàm ý rất sâu xa trong lịch sử ngoại giao Việt Nam. Những tình tiết cụ thể của câu chuyện cũng như sự ra đời của các thi phẩm này được sử gia họ Ngô cẩn thận ghi chép đem đến cho chúng ta nhiều suy ngẫm, trước hết là bài học về kinh nghiệm bang giao. Điều mà chúng ta thấy thể hiện rõ nhất trong câu chuyện này chính là một cốt cách Đại Việt tuy nhỏ bé mà tự trọng, bản lĩnh mà thân thiện, lịch duyệt mà chân thành Cụ thể hơn đó là cốt cách của một dân tộc có văn hóa, được chiếu rọi qua tâm hồn, trí tuệ và nhân cách của những cá nhân cụ thể, những nhân vật văn hóa của thời đại và triều đại. Trường hợp sứ thần Mạc Đĩnh Chi qua "Câu đối qua cửa ải” chuyện kể, trong lần Mạc Đĩnh Chi đi sứ năm 1308, do đường xa, mưa gió nên sứ bộ đến cửa ải Nam Quan chậm mất một ngày. Viên quan giữ cửa ải không cho mở cửa để sứ bộ qua. Mạc Đĩnh Chi nói mãi chúng cũng không chịu cho qua. Sau đó họ ném từ trên cửa ải xuống một vế câu đối, bảo hễ đối được thì sẽ mở cửa cho qua, còn nếu chưa đối được thì hãy ở tạm bên dưới qua đêm, đợi đến sáng hôm sau. Vế ra đối viết: “Quá quan trì, quan quan bế, nguyện quá khách quá quan”. (Nghĩa là: Qua cửa quan chậm, cửa quan đóng, mời khách qua đường qua cửa quan) 34 Đại Việt sử ký toàn thư, tập I. Sđd, tr.225. Ngô Đức Thọ dịch, Hà Văn Tấn hiệu đính). 229 Thật là một câu đối hiểm hóc, nội dung nói lên việc Mạc Đĩnh Chi đang cần qua cửa quan để sang Yên Kinh. Song khó ở chỗ trong 11 chữ của vế đối mà có tới bốn lần nhắc lại chữ quan. Mạc Đĩnh Chi nghĩ vế ra quả là rất khó đối lại nhưng nếu im lặng thì mất thể diện. Ông ứng khẩu đọc lại vế đối : “Xuất đối dị, đối đối nan, thỉnh tiên sinh tiên đố”.Vế đối cũng có bốn chữ đối (nghĩa là:Ra câu đối dễ, đối câu đối khó, xin tiên sinh đối trước). Mọi người đều đang bí thì nghe Mạc Đĩnh Chi đọc vế đối lại.Quân lính nhà Nguyên phải chịu và mở cửa ải để ông đi qua. Mạc Đĩnh Chi có đặc biệt là "Đem chuông đi đánh nước người" mà đánh rất kêu. Bằng trí thông minh và tài thi ca, ông đi sứ sang nhà Nguyên (Trung Quốc), đã khiến vua quan nhà Nguyên phải tâm phục, khẩu phục, tấn phong làm Lưỡng quốc Trạng nguyên. Trong cuộc giao du với sứ thần các nước ở Yên Kinh (nay là Bắc Kinh), đặc biệt là với đoàn sứ giả Triều Tiên, Mạc Đĩnh Chi còn đem lại tình hữu nghị lâu đời giữa hai dân tộc Việt - Triều. Theo truyền thuyết, Trạng nguyên Mạc Đĩnh Chi được sứ thần Triều Tiên mến mộ về tài và đức qua các cuộc bút đàm, đã mời sứ giả Việt Nam sang viếng thăm Triều Tiên. Lưu lại nước bạn 4 tháng, Trạng Mạc đã kết duyên cùng phu nhân người nước Triều, để lại hậu duệ có nhiều người thông minh, tài ba, có nhiều cống hiến ở nước bạn. Qua một số ví dụ tiêu biểu ở trên, chúng ta thấy rõ sức mạnh hóa giải và kết nối của thơ ca với các cá nhân đến từ những nền chính trị và văn hóa khác biệt. Trong những thời khắc quan trọng và khó khăn nhất, các sứ thần bao giờ cũng tìm đến thơ ca và nhận thấy ở đó những giá trị, hình thức và lợi thế văn hóa cần thiết cho công việc ngoại giao của mình. Trong các thi tập sứ trình thời kỳ này, phần thơ xướng họa chiếm số lượng đáng kể. Đó là những bài thơ viết để đáp, tặng quan lại Trung Hoa và sứ thần các nước khi có dịp diện kiến. Đây là loại thơ mang tính xã giao nghi lễ nhằm mục đích bang giao nên thường được viết theo qui cách, công thức nhất định. Tuy nhiên do đặc điểm của đối tượng xướng họa (các sứ thần – văn nhân) nên việc xướng họa thơ văn cũng là dịp để các sứ thần – văn nhân Việt Nam khoe tài và bày tỏ tình cảm của mình với văn nhân các nước: niềm cảm mến tài năng và nhân cách, ý thức về vẻ đẹp văn chương. Việc đối thoại dẫn đến hiểu biết, cảm mến lẫn nhau của quan lại, sứ thần các nước thông qua con đường văn chương phản ánh đặc điểm độc đáo của hoạt động bang giao truyền thống. Câu chuyện về mối thâm giao giữa sứ thần Việt Nam :Nguyễn Kiều, Nguyễn Tông Khuê, Lê Quí Đôn....với các sứ thần Trung Hoa và Triều Tiên như Trác Sơn Thị, Hồ Tú Tài, Doãn 230 Đông Thăng, Lý Huy Trung, Hồng Khải Hy.... đã chứng minh ý nghĩa to lớn của thi ca bên cạnh những hình thức và lợi thế ngoại giao khác. Ngay cả trong thời hiện đại, với sự phát triển của nền văn minh công nghiệp, sự bùng nổ của các phương tiện kỹ thuật và hình thức giao lưu nhằm mục đích tối đa hóa đối thoại giữa con người với con người, thơ ca cũng chưa bao giờ đánh mất uy thế của một sứ giả văn hóa trong sứ mệnh kéo gần khoảng cách giữa các dân tộc. Với ý nghĩa đó, câu chuyện ngoại giao trong quá khứ dẫn ra trên đây vẫn luôn là bài học khiến chúng ta phải suy ngẫm. 1.5. Dùng sức mạnh của ngôn từ thực hiện kế sách “tâm công”, chấm dứt chiến tranh bằng giải pháp hòa bình Một ví dụ tiêu biểu cho kế sách “tâm công” là Nguyễn Trãi trao cho thủ lĩnh nghĩa quân Lam Sơn bản Bình Ngô sách, "hiến mưu chước lớn, không nói đến việc đánh thành mà lại khéo nói đến việc đánh vào lòng người”35tức là kế sách “tâm công”. Lê Lợi xem Bình Ngô sách, khen là phải và luôn giữ Nguyễn Trãi ở bên mình để bàn mưu tính kế đánh quân Minh. Nguyễn Trãi được Lê Lợi giao cho nhiệm vụ thay mặt mình soạn thảo tất cả các thư từ giao thiệp với quân Minh. Trên cơ sở của thắng lợi quân sự, ngòi bút của Nguyễn Trãi đã phát huy đến mức cao nhất tác dụng “tâm công”, góp phần rất quan trọng vào việc làm suy sụp ý chí xâm lược của kẻ thù. Chỉ riêng trong hai năm 1426 và 1427, nhân danh Lê Lợi, Nguyễn Trãi đã viết trên 50 bức thư gửi cho các tướng Minh như Phương Chính, Thái Phúc, Sơn Thọ, Vương Thông, v.v.. Bằng sức mạnh của ngôn từ thể hiện trong những bức thư chiêu dụ địch, Nguyễn Trãi đã buộc “mười một trên mười ba thành lớn của giặc phải cới áo giáp ra hàng"36 Trong Bình ngô đại cáo, Nguyễn Trãi viết “Ta mưu phạt tâm công, không chiến cũng thắng”. Mưu phạt tâm công, một mặt, là nêu cao đại nghĩa của cuộc kháng chiến chống Minh để kêu gọi những người lầm đường lạc lối theo giặc trở về với hàng ngũ nhân dân. Nhưng mặt trọng yếu nhất của mưu phạt tâm công là giải thích cho quan và quân Minh nhận ra tính chất phi nghĩa, phi đạo lý và sự thất bại 35 Bài Tựa Ức Trai di tập của Ngô Thế Vinh, In trong: Nguyễn Trãi, 1994. Ức Trai di tập, do Bùi Văn Nguyên biên khảo, chú thích, giới thiệu. Nxb. Khoa học xã hội, Hà Nội, tr.24. 36 Võ Nguyên Giáp, 1997. Nguyễn Trãi – nhà văn hóa lớn (Diễn văn tại lễ kỷ niệm 600 năm sinh Nguyễn Trãi 1380- 1980). In trong Nguyễn Trãi – thơ và đời, Nxb. Văn học, Hà Nội, tr.70 231 không tránh khỏi của cuộc xâm lược. Về mặt này, trong những bức thư chủ động gửi đi hoặc trả lời thư của đối phương, ngòi bút của Nguyễn Trãi tỏ ra hết sức sắc bén, đồng thời cũng rất uyển chuyển, đa dạng. Lời lẽ có cương có nhu, khi thắt khi mở, lúc dọa lúc răn nhằm thực hiện có hiệu quả những mục đích khác nhau trong từng thời điểm cụ thể của cuộc kháng chiến, có chú ý đến cả tính cách, tâm lý, tư tưởng của mỗi đối tượng nhận thư. Đối với những tên tướng hiếu chiến, hung bạo không đủ liêm sỉ để nghe lẽ phải, Nguyễn Trãi kiên quyết vạch mặt chỉ tên, đả kích thẳng tay. Chẳng hạn, trong một bức thư gửi Phương Chính, Nguyễn Trãi viết: “Bảo cho mày ngược tặc Phương Chính: Kể đạo làm tướng, lấy nhân nghĩa làm gốc, trí dũng làm của. Nay bọn mày chỉ chuộng lừa dối, giết hại kẻ vô tội, hãm người vào chỗ chết mà không xót thương. Việc ấy trời đất không dung, thần người đều giận, cho nên liền năm chinh phạt, hằng đánh hằng thua”37. Nội dung bức thư hoàn toàn mang tính đấu tranh không khoan nhượng. Trong trường hợp đối với Vương Thông, thì "mưu phạt tâm công" của Nguyễn Trãi lại được vận dụng theo một cách ứng xử khác vì Vương Thông là loại tướng đã đọc Thi, Thư, thường hay nói tới đạo thánh hiền. Y có uy tín với triều đình nhà Minh Trước nay, nhiều nhà nghiên cứu đều cho rằng những sự kiện vừa trình bày ở trên phản ánh thắng lợi rực rỡ của hoạt động binh vận, của việc kết hợp đấu tranh ngoại giao với đấu tranh quân sự trong quá trình kháng chiến chống Minh của dân tộc ta. Điều đó là hoàn toàn chính xác. Song ở đây, từ góc nhìn của chủ đề nghiên cứu nêu trên, chúng tôi còn nhận thấy, về thực chất, hoạt động binh vận, hoạt động đấu tranh ngoại giao ấy hàm chứa nội dung của cuộc đối thoại rất đặc sắc giữa văn hóa Đại Việt và văn hóa Trung Hoa thông qua trao đổi thư từ giữa Nguyễn Trãi và nhiều tướng soái Minh, đặc biệt là Vương Thông vào gần cuối những năm 20 của thế kỷ XV. Nghệ thuật và bản lĩnh đối thoại văn hóa bậc thầy của Nguyễn Trãi thể hiện ở chỗ: Trên cơ sở nắm vững Bắc sử, nắm vững kinh điển Nho gia, hiểu rõ cả nội tình và tâm lý đối phương, Nguyễn Trãi đã đặt ra trước Vương Thông – tổng chỉ huy đạo quân nam chinh của nhà Minh, người từng đọc Thi, Thư và binh pháp - hàng 37 Nguyễn Trãi. Toàn tập, Sđd, tr.105 232 loạt câu hỏi, buộc y phải tự vấn lương tâm khi đối chiếu hành vi của mình với chính những lời dạy nổi tiếng của các nhà tư tưởng lớn Trung Hoa. Qua đó, ông dẫn dắt y từ chỗ không thể bác bỏ những giá trị văn hóa của dân tộc mình đến chỗ phải thừa nhận giá trị cốt lõi nhất, cơ bản nhất của văn hóa Đại Việt là độc lập và chủ quyền quốc gia. Cuối cùng, Vương Thông phải thề trước thần linh sông núi Việt, chấp nhận chấm dứt chiến tranh, không chờ lệnh vua mà tự mình quyết định rút hết đạo quân xâm lược về nước, trả lại non sông đất nước ta cho ta. Đúng vào lúc đó, các tướng sĩ và người nước ta rất căm thù quân Minh, vốn là những kẻ từng tàn sát cha con, thân thích của họ, liền rủ nhau đến đề nghị với Lê Lợi giết bọn chúng đi. Nhưng với một tầm nhìn chiến lược và một lòng khoan dung rộng lớn, Lê Lợi đã nói với các tướng sĩ và đông đảo dân chúng rằng: "Trả thù báo oán là thường tình của mọi người, nhưng không thích giết người là bản tâm của bậc nhân đức. Vả lại, người ta đã hàng mà mình lại giết thì là điềm xấu không gì lớn bằng. Nếu cốt để hả nỗi căm giận trong chốc lát mà mang tiếng với muôn đời là giết kẻ đã hàng, thì chi bằng tha mạng sống cho ức vạn người, để dập tắt mối chiến tranh cho đời sau, sử xanh ghi chép tiếng thơm muôn đời, há chẳng lớn lao sao?".38 Rõ ràng, đây là một cuộc đối thoại nội văn hóa rất đặc sắc trong lịch sử cuộc kháng chiến chống Minh của dân tộc ta. Cuộc đối thoại nội văn hóa ấy đã đưa đến kết quả là các tướng sĩ và người nước ta đều đồng thuận với chủ trương sáng suốt, mang bản chất nhân đạo cao cả của Lê Lợi và Nguyễn Trãi: “Nghĩ đến kế lâu dài của nước Thả cho về mười vạn tù binh Nối hai nước tình hoà hiếu Tắt muôn đời lửa chiến tranh Đất nước an toàn là thượng sách Cốt sao cho dân được an ninh”39 Trên thực tế, sau sự kiện này, quan hệ bang giao hòa bình giữa nước ta với nhà Minh rồi nhà Thanh đã duy trì được 360 năm (1428-1788). 38 Đại Việt sử ký toàn thư, tập II, Sđd, tr.281. 39 Nguyễn Trãi. Toàn tập, Sđd, tr.87. 233 Như vậy khi tìm hiểu về NGVH của cha ông đã minh chứng sinh động cho một sự thật là không phải chỉ trong bối cảnh hội nhập của thời hiện đại, khi sự giao lưu và tiếp xúc giữa các dân tộc ngày càng rộng mở, đa dạng thì văn hóa đối ngoại, trong đó có vấn đề NGVH mới được đề cập như là một trong những phương châm nhằm thực hiện những lợi ích tối cao của dân tộc. Sự thật là ngay trong những thế kỷ đầu tiên đặt nền móng xây dựng nền độc lập tự chủ thì văn hóa, với tất cả sức mạnh và tính đại diện của nó đã được ông cha ta ưu tiên hàng đầu trong hoạt động ngoại giao. Kết cục bất ngờ theo chiều hướng tốt đẹp của các câu chuyện bang giao các triều đại thời Tiền Lê, Lý, Trần, Lê cũng là chứng thực ưu thế riêng của hoạt động NGVH khi được lồng ghép nhằm phục vụ cho hoạt động ngoại giao chính trị. Đó là sứ mệnh làm cho các dân tộc hiểu biết và chấp nhận văn hóa của nhau, từ đó xích lại gần nhau hơn, xây dựng một nền hòa bình thế giới vững chắc, lâu dài và quan hệ hữu nghị hợp tác cùng phát triển giữa các dân tộc. 2. Ngoại giao văn hóa qua các thời kỳ cách mạng Trong lịch sử ngoại giao Việt Nam hiện đại, có thể phân chia sự phát triển của NGVH thành 2 giai đoạn chính: 2.1.Giai đoạn 1945-1954 Ngoại giao văn hóa phát huy vai trò như một “mặt trận” chủ yếu để tranh thủ sự ủng hộ của dư luận thế giới đối với sự nghiệp đấu tranh giải phóng dân tộc và thống nhất đất nước của Việt Nam. Nói đến NGVH hiện đại, chúng ta có một tấm gương lớn đó là Chủ tịch Hồ chí Minh vị Bộ trưởng Ngoại giao đầu tiên, kiêm Chủ tịch nước Việt Nam Dân chủ Cộng hoà.Hoạt động của Hồ Chí Minh đã góp phần làm cho quan hệ văn hóa Việt - Pháp được thay đổi theo hướng Việt Nam tiếp nhận tích cực, chủ động và biến đổi các giá trị phương tây để phát triển, để giải phóng dân tộc, độc lập dân tộc và vươn ra thế giới. Thời kỳ 1945-1954 là thời kỳ đầy cam go thử thách của cách mạng Việt Nam. Chính quyền cách mạng vừa ra đời đã phải đối mặt với hàng loạt thử thách, sự sống còn của Nhà nước cách mạng bị đe dọa nghiêm trọng bởi thù trong giặc ngoài. Trước tình hình đó, Chủ Tịch Hồ Chí Minh cùng với Ban Chấp hành Trung ương Đảng hoạch định đường lối, chính sách và trực tiếp chỉ đạo thực hiện thành công các nhiệm vụ đối ngoại của Đảng và Nhà nước. Tuy chưa hình thành những chính sách cụ thể về hoạt động NGVH trong thời kỳ cách mạng đầy khó khăn này, 234 Đảng và Nhà nước đã triển khai một số hoạt động đẩy mạnh công tác tuyên truyền báo chí trong và ngoài nước, góp phần quan trọng bảo vệ thành quả của cách mạng tháng Tám. Hoạt động NGVH được diễn ra dưới nhiều hình thức như giao lưu văn hóa, tham gia các diễn đàn thanh niên, trả lời phỏng vấn báo chí, truyền hình, thư gửi bạn bè quốc tế, các hoạt động nhân đạo như trao trả tù binh. Một số ví dụ cụ thể ngày 1/11/1945, nhân danh Hội Văn hóa Việt Nam, Chủ tịch Hồ chí Minh gửi thư cho Bộ trưởng Ngoại giao Mỹ đưa ra sáng kiến mở đường cho mối quan hệ hợp tác giữa nhân dân hai nước, trước hết trong trong lĩnh vực văn hóa, giáo dục, trong lúc hai nước chưa có quan hệ ngoại giao chính thức. Người đề nghị Chính phủ Mỹ để Việt Nam « được cử một phái đoàn khoảng năm mươi thanh niên Việt Nam sang Mỹ với ý định một mặt thiết lập những mối quan hệ văn hóa thân thiết với thanh niên Mỹ, và mặt khác để xúc tiến việc tiếp tục nghiên cứu về kỹ thuật, nông nghiệp cũng như các lĩnh vực chuyên môn khác40 : Trong thư gửi tù binh Pháp và kiều dân Pháp ở Việt Nam ngày 24/12/1946 Chủ Tịch Hồ Chí Minh đã nêu rõ thiện chí hòa bình, chính sách nhân đạo của Chính phủ Việt Nam dân chủ cộng hòa đối với tù binh và kiều dân Pháp. Người hy vọng "một ngày gần đây, dân chúng Pháp và dân chúng Việt Nam sẽ có thể cùng hợp tác với nhau trong vòng hòa bình và thân ái để mưu cầu hạnh phúc chung cho cả hai dân tộc".41 Vào thời điểm, tháng 10/1954, trong khi đạo binh Pháp đang rút quân khỏi Hà Nội và miền Bắc Việt Nam theo Hiệp định Genève thì ông Sainteny lại trở vào Hà Nội với tư cách là Tổng đại diện của Chính phủ Pháp. Ông rất hồi hộp khi được Chủ tịch Hồ Chí Minh tiếp kiến. Không biết cái gì đã diễn ra sau một cuộc chiến tranh 9 năm và kết thúc bằng sự đại bại của nước Pháp ở Điện Biên Phủ. Người chiến thắng sẽ tiếp kẻ bại trận ra sao. Thì rất bất ngờ ông đã thấy vị Chủ tịch nước Việt Nam chiến thắng ra tận cửa với vòng tay dang rộng và một lời chào thân thiện: "Chúng ta ôm hôn nhau chứ !" và vị Chủ tịch của chúng ta nói rằng thế nào người Pháp cũng trở lại đây không phải với những đô đốc hay binh lính mà là những kỹ sư, nhà kinh doanh hay các giáo sư để cùng nhau hợp tác trên tinh thần hữu nghị và cùng có lợi. 40 Hồ Chí Minh :Toàn tập,t,4,tr.70-71,80 41 Hồ Chí Minh :Toàn tập,t,4,tr.489 235 Trong giai đoạn này với sự khéo léo, linh hoạt của Đảng và Nhà nước, sự lãnh đạo tài tình của Chủ tịch Hồ Chí Minh chúng ta ngày càng tranh thủ sự ủng hộ giúp đỡ của các lực lượng cách mạng và tiến bộ trên thế giới, thế và lực của cuộc kháng chiến không ngừng được tăng cường. Hoạt động NGVH được kết hợp với ngoại giao chính trị, quân sự đã làm thay đổi sự tương quan lực lượng giữa ta và địch theo hướng ngày càng có lợi cho ta. Ý chí xâm lược của kẻ thù từng bước bị lung lay. Cuối cùng chúng buộc phải chấp nhận chấm dứt chiến tranh xâm lược bằng đàm phán hòa bình 2.2. Giai đoạn 1954- 1975 Công tác NGVH giai đoạn 1954- 1975 đã góp phần to lớn vào chiến thắng của công tác ngoại giao nói riêng cũng như chiến thắng quân sự và dành độc lập toàn vẹn lãnh thổ của đất nước ta nói chung. Trong giai đoạn này NGVH cũng được xác định mục tiêu chung là "Xây dựng và bảo vệ miền Bắc xã hội chủ nghĩa, giải phóng miền Nam thống nhất đất nước" . Từ hai mục tiêu này NGVH có hai nghiệm vụ đó là(i),tuyên truyền về cuộc đấu tranh chính nghĩa của Việt Nam, vận động sự ủng hộ của phong trào quốc tế chống chiến tranh Việt Nam, vạch bộ mặt xâm lược của đế quốc Mỹ ; (ii) Tranh thủ sự giúp đỡ, ủng hộ của bạn bè quốc tế xây dựng Xã hội Chủ nghĩa và đấu tranh thống nhất đất nước. Trong giai đoạn này, hình thức thể hiện của NGVH với tư cách là một công cụ chính trị hữu hiệu được diễn ra rất đa dạng và linh hoạt, để tăng cường hiểu biết lẫn nhau, là chất "keo dính" làm bền chặt quan hệ chính trị, tăng cường đoàn kết với các nước trong khối xã hội chủ nghĩa và phong trào yêu chuộng hòa bình; đồng thời là kênh tuyên truyền với thế giới. Nhà NGVH tiêu biểu nhất là Chủ tịch Hồ Chí Minh, từ viết thư, trả lời báo chí, chuyến thăm cấp caovới bất kỳ hoạt động nào người cũng lồng ghép các hoạt động văn hóa và thông tin mang tính văn hóa nhằm tuyên truyền về cuộc chiến chống xâm lược của người Việt Nam và tranh thủ sự ủng hộ của quốc tế. Trong các chuyến thăm các nước bên cạnh những hoạt động về chính trị, phát biểu tại các hội nghị, hội thảoChủ Tịch Hồ Chí Minh luôn vận dụng yếu tố văn hóa trong tiếp xúc và đối đãi với bạn bè quốc tế ví dụ chuyến thăm Vạn Lý Trường Thành (1955) ở Trung Quốc, thăm bảo tàng ở Nga (1955), thăm các gia đình nông thôn ở Mông Cổ, Hungari (1957), tham gia trại hè cùng các cháu thiếu niên nhi đồng các nước ở 236 Anbani (1957) khi tham dự các sự kiện này người đều mặc những bộ trang phục truyền thống của các nước, nhảy những điệu nhảy của nhân dân các nước NGVH được Chủ tịch Hồ Chí Minh thể hiện qua những bức thư gửi những người đứng đầu các nước trong đó có cả Mỹ và Pháp. Ít có vị lãnh đạo nào trên thế giới trong khi đang lãnh đạo nhân dân tiến hành cuộc chiến tranh chính nghĩa để bảo vệ nền độc lập, tự do của Tổ quốc mình, lại luôn bày tỏ sự cảm thông với nhân dân các nước phía bên kia chiến tuyến. Trong các bức thư gửi nhân dân Mỹ, Chủ tịch Hồ Chí Minh luôn bày tỏ rằng : Người không lên án bản thân những người lính Mỹ bị đưa sang Việt Nam, bởi họ cũng như các binh lính thuộc địa trước đây chẳng qua là công cụ của nhà cầm quyền. Vì vậy, Người bày tỏ "Chẳng những chúng tôi đau xót vì đồng bào Miền Nam chúng tôi phải gian khổ, hy sinh, mà chúng tôi cũng thương xót cho các bà mẹ và các người vợ Mỹ đã phải mất con, mất chồng trong cuộc chiến tranh phi nghĩa ở miền Nam Việt Nam do bọn quân phiệt Mỹ tiến hành" NGVH bao hàm cả văn hóa ngoại giao, trên bàn đàm phán trong suốt quá trình đấy tranh giành độc lập, các nhà ngoại giao của Việt Nam đã thể hiện được nét văn hóa ngoại giao chinh phục được tình cảm của dư luận báo chí và nhân dân các nước. Bên cạnh những hoạt động NGVH do Chủ tịch Hồ Chí Minh và các nhà ngoại giao chuyên nghiệp khác như Bộ trưởng Ngoại giao Xuân Thủy, Nguyễn Thị Bình tiến hành trong giai đoạn 1954- 1975, còn có những hoạt động NGVH khác thông qua các sản phẩm văn hóa văn nghệ như chiếu phim, biểu diễn văn nghệcó nội dung ca ngợi cuộc chiến đấu của nhân dân Việt Nam cũng được triển khai ở trong và ngoài nước. Tại liên hoan phim Quốc tế Moskova năm 1973, bộ phim "Vĩ tuyến 17 ngày và đêm" đã dành được giải của Hội đồng hòa bình thế giới và giải nữ diễn viên xuất sắc giành cho nghệ sỹ Trà Giang. Giai đoạn 1954- 1975 góp phần làm cho dư luận thế giới hiểu rõ Đảng, Nhà nước và nhân dân Việt Nam tha thiết hòa bình và thống nhất đất nước. Trong thời đại Hồ Chí Minh, chúng ta đã từng làm NGVH rất thành công. Hồ Chí Minh là lãnh tụ Đảng, Nhà nước, nhà ngoại giao có kiến thức văn hóa dân tộc, văn hóa Đông Tây kim cổ vô cùng sâu sắc. Người đã sử dụng tri thức văn hóa một cách lão luyện, tài tình trong ngoại giao, tạo ra bản sắc ngoại giao Hồ Chí Minh. Có thể nói, thành công của cách mạng tháng Tám, chiến thắng lẫy lừng của Điện Biên Phủ và ngày toàn thắng của dân tộc tháng 4 năm 1975 là những sự kiện lịch 237 sử vẻ vang nhất, bắt nguồn từ sức mạnh của văn hóa Việt Nam, sức mạnh toát ra từ nhận thức, từ tình cảm, từ ý chí của toàn Đảng, toàn dân. 3. Ngoại giao văn hóa Việt Nam thời kỳ hội nhập Nếu như trong thời kỳ đất nước bị bao vây, cô lập (1975- 1990), NGVH đã đóng góp tích cực vào củng cố quan hệ với các nước XHCH anh em, đồng thời để “phá băng”, “giữ cầu”, “mở đường” cho quá trình bình thường hóa quan hệ chính trị với các đối tác khác. NGVH bắt đầu được thúc đẩy như một công cụ quan trọng trong đường lối chính sách ngoại giao “thêm bạn, bớt thù”, “đa phương hóa, đa dạng hóa” và hội nhập kinh tế quốc tế của Việt Nam Giai đoạn Thập kỷ 90 Thế kỷ 20 là thời kỳ phát triển của NGVH đặc biệt kể từ khi kết thúc Chiến tranh Lạnh đầu những năm 1990 và sự ra đời của Nghị quyết TW 5 khóa VIII của Bộ Chính trị về Xây dựng và Phát triển nền Văn hóa Việt Nam tiên tiến, Đậm đà Bản sắc dân tộc năm 1998 - một văn bản được coi là chiến lược văn hóa của Đảng ta trong thời kỳ mới. NGVH lúc này được coi là một nội dung quan trọng gắn chặt với ngoại giao chính trị và kinh tế để phục vụ mục tiêu công nghiệp hóa-hiện đại hóa, làm phong phú nền văn hóa dân tộc. Qua các giai đoạn phát triển của NGVH Việt Nam, có thể khẳng định giai đoạn này là thời kỳ thuận lợi nhất cho sự phát triển tăng tốc và đầy đủ của NGVH do một số nhân tố sau: Một là: Sau hơn 20 năm đổi mới và thực hiện chính sách đối ngoại mở rộng, đa phương hóa, đa dạng hóa, hoạt động đối ngoại đang phát triển từ chiều rộng sang chiều sâu, ổn định, bền vững. Định hướng này không chỉ là vấn đề chính sách thuần túy mà đòi hỏi phải chủ động bố trí và sử dụng mọi nguồn nhân lực và công cụ ngoại giao phù hợp để triển khai thực hiện thắng lợi chính sách này. Do đó song song với ngoại giao chính trị, việc đẩy mạnh ngoại giao kinh tế và văn hóa là một bước đi logic tiếp theo. Hai là: Môi trường quốc tế hiện nay mở rộng nhưng cạnh tranh khốc liệt. Nền ngoại giao các nước nhất là các nước nhỏ, muốn phát huy hiệu quả phải huy động sức mạnh tổng hợp trện các lĩnh vực, bao gồm cả sức mạnh vật chất và tinh thần, trong đó có công cụ văn hóa. 238 Ba là: Trong bối cảnh toàn càu hóa và giao thoa văn hóa diễn ra mạnh mẽ, nền văn hóa Việt Nam có thể dành được “chỗ đứng” nhất định trên thế giới Bốn là: Dưới góc độ đối ngoại, chính sách văn hóa của Đảng ta hiện nay thể hiện qua Nghị quyết TW 5 khóa VIII đã tạo điều kiện thuận lợi cho việc triển khai hoạt động NGVH, thể hiện ở 3 điểm : + Tính mở rộng: Ủng hộ hợp tác quốc tế trong lĩnh vực văn hóa + Tính cầu thị: Chấp nhận sự tiếp biến văn hóa, cải biến những khía cạnh lạc hậu của văn hóa Việt Nam tiếp thu văn hóa tiên tiến bên ngoài trong qúa trình giao thoa văn hóa +Tính xây dựng: ủng hộ việc góp phần xây dựng kho tàng văn hóa thế giới, coi văn hóa là một "mặt trận” hậu thuẫn cho các lĩnh vực khác Thứ năm: NGVH là con đường hai chiều đang trở nên rộng mở và thông suốt. Trong bối canh toàn cầu hóa và cuộc cách mạng khoa học công nghệ phát triển như hiện nay đặc biệt trong lĩnh vực thông tin viễn thông đã mở ra cơ hội chưa từng có để các nước tranh thủ quảng bá văn hóa, đất nước, con người Việt Nam đồng thời tiếp thu những tinh hoa văn hóa nhân loại một cách dễ dàng hơn. NGVH còn là kênh tác động đi vào lòng người trực tiếp nhất, hiệu quả nhất vì chủ thể của hoạt động đối ngoại không chỉ đơn thuần là nhà nước mà còn cả nhân dân, doanh nghiệp và các tổ chức xã hội khác Trong thời gian qua, nhất là những năm gần đây khi đất nước tăng cường hội nhập quốc tế, công tác NGVH đã đạt được những bước tiến nhất định về định tính cũng như định lượng, đóng góp vào thành tích chung của đất nước. Cùng với việc mở rộng quan hệ đối ngoại đa dạng hóa, đa phương hóa, hàng loạt hoạt động ngoại văn hóa với quy mô khác nhau đã được tổ chức ở khắp các châu lục. Nhiều Ngày/Tuần/Tháng văn hóa Việt Nam, lễ hội Văn hóa - Du lịch, các hoạt động biểu diễn nghệ thuật, tuần phim, triển lãm giới thiệu hình ảnh đất nước, con người, hội thảo, xúc tiến, quảng bá du lịch... đã được tổ chức ở nhiều khu vực, nhiều nước trên thế giới. Hoạt động NGVH được Bộ Ngoại giao, Bộ VHTTDL chủ trì, phối hợp với các Bộ, ngành, địa phương, các tổ chức đối ngoại nhân dân tổ chức gây được tiếng vang, để lại những dấu ấn tích cực trong lòng bè bạn quốc tế. Cùng với các hoạt động được tổ chức ở nước ngoài, hoạt động NGVH còn tổ chức nhiều sự kiện, hoạt động văn hóa quốc tế tại Việt Nam, từng bước tạo ra một diện mạo văn hóa 239 đương đại đa dạng. Việt Nam đã từng bước tiếp nhận những giá trị văn hóa và phương thức thể hiện hiện đại của thế giới, làm phong phú và sâu sắc thêm những giá trị văn hóa dân tộc. Thành công của các hoạt động NGVH trên đã tạo ra sự nhìn nhận tích cực hơn đối với Việt Nam. Đó là một đất nước tươi đẹp với truyền thống văn hoá lâu đời, những danh lam thắng cảnh và di sản nổi tiếng. Những sự nhìn nhận tích cực này đã mở rộng cánh cửa thu hút khách du lịch cũng như các nhà đầu tư trên thế giới tới Việt Nam, từ đó làm tăng nhanh sự phát triển kinh tế và xã hội, phục vụ sự nghiệp CNH- HĐH đất nước. Ngoài ra, sự nhìn nhận đúng đắn về Việt Nam đã tạo ra sự thấu hiểu của bạn bè quốc tế. Từ đó, những khúc mắc trong quan hệ được giải toả, tạo điều kiện cho hoạt động ngoại giao được rộng mở, đảm bảo cho an ninh quốc gia được vững chắc. Thông qua các hoạt động NGVH, Việt Nam cũng có thể tiếp thu tinh hoa văn hoá của bạn bè quốc tế, làm giàu đẹp hơn cho nền văn hoá của mình. Các chương trình văn hoá nước ngoài tại Việt Nam đã tạo điều kiện cho nhiều loại hình nghệ thuật khác du nhập, làm phong phú thêm đời sống tinh thần của nhân dân. Ngoài ra, đó còn là sự tiếp nhận các công nghệ mới trên thế giới, đóng góp vào công cuộc phát triển đất nước. 240 Phụ lục 5 MỘT SỐ HÌNH ẢNH CỦA HOẠT ĐỘNG NGOẠI GIAO VĂN HÓA VIỆT NAM VỚI ASEAN Ảnh 1: Chủ tịch nước Trương Tấn Sang dự lễ khánh thành tượng Chủ tịch Hồ Chí Minh tại công viên ASEAN, Intramros Manila, Philipines năm 2011 (Nguồn: www.sgn.edu.vn/index.php? Option =com- content& view=artcle&id=2916 :tuong-bac-trang-nghiem-tren-khap-the- gioi&catid=407 :chinh-tri-xa-hoi&temid=532) Ảnh 2: Chương trình Duyên Dáng Việt Nam tại Singapore năm 2007 (Nguồn: motthegioi.vn/van-hoa-giai-tri/van-hoa/ duyen-dang-viet-nam-tại- singapore-2007-cot-moc-duyen-dang-tu-hao-32306.html) 241 Ảnh 3: Triển lãm “Hội nghị Đa dạng Văn hóa ASEAN” tại Bangkok, Thái Lan năm 2011 (Nguồn: www.vietnamplus/vn- du-hoi-nghi-da-dang-van-hoa-asean- tai- bangkok/102378.vnp) Ảnh 4: Lụa Vạn Phúc tham dự triễn lãm Di Sản Lụa ASEAN 2012 tại Thái Lan (Nguồn :Luavanphuc.com/index.php ?option=comasean) 242 Ảnh 5: Triển lãm tranh Đồ họa ASEAN lần thứ nhất 2012 “Chiến tranh 1” của Đỗ Hữu Quyết (Việt Nam) – Giải ba (Nguồn : content/images/2012/08/Duc-vua-van-tue/jpg) Ảnh 6: Triển lãm tranh Đồ họa ASEAN lần thứ nhất 2012 “Đức vua vạn tuế” của Kraisak Chirachaisakul (Thái Lan) – Giải ba (Nguồn: content/images/2012/08/Chien-tranh-1/jpg) 243 Ảnh 7: Liên hoan nghệ thuật các dân tộc ASEAN 2014 tại Campuchia (Nguồn: htttp://img.vietnamplus.vn/t660/uploaded/jatmtb/2014-11-22/vnp-a8.jpg) Ảnh 8: Triển lãm: “Không gian văn hoá ASEAN” tại Việt Nam năm 2014 (Nguồn: nlv.gov.vn/titucsukien/trien-lam-khong-gian-van-hoa-asean.html) 244 Ảnh 9: Liên hoan ẩm thực “Cộng đồng ASEAN với bạn bè quốc tế” (Nguồn: be-quoc-te) Ảnh 10: Liên hoan âm nhạc truyền thống các nước ASEAN 2015 (Nguồn:w thong-cac-nuoc-asean-2015P) 245 Ảnh 11: Huế vinh dự đón danh hiệu "Thành phố Văn hóa ASEAN" năm 2014 (Nguồn: www.nhandan.org.vn/22957602hue-don-nhan-danh-hieu “thanh-pho-van- hoa-asean”.html.) Ảnh 12: Cồng chiêng của đồng bào Bana tại triển lãm di sản văn hóa ASEAN 2014 tại Việt Nam (Nguồn:http//vov.vn/uploads/trongphu/2014-11-21www-PTIN.JPG) 246 Ảnh 13: Pháo hoa Quốc tế Đà Nẵng 2015 (Nguồn: 2015.comwp-content/uploads/2015/05/Anh-1.jpg) Ảnh 14: Trung tâm văn hóa Việt Nam tại Lào (Nguồn: www.baomoi.com/ chuyen-chep-o-vieng-chan/122/3856008.epi)

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • pdfluan_an_ngoai_giao_van_hoa_viet_nam_voi_asean_trong_thoi_ky.pdf
Tài liệu liên quan