1
MỞ ĐẦU
1. Lí do chọn đề tài
Một trong những điểm nổi bật của đời sống Hán Nôm thế kỉ XIX là sự
xuất hiện một loạt sách vừa như là những tự điển, từ điển song ngữ Hán Nôm
vừa như là những bộ sách học chữ Hán, cập nhật, phổ biến và mở rộng tri thức
qua chữ Hán, chữ Nôm như: Nhật dụng thường đàm;
Tự Đức Thánh chế Tự học giải nghĩa ca; Nam phương danh vật
bị khảo; Ðại Nam quốc ngữ; ... Chúng được biên soạn trước hết nhằm
học chữ Hán,
157 trang |
Chia sẻ: huong20 | Ngày: 14/01/2022 | Lượt xem: 670 | Lượt tải: 0
Tóm tắt tài liệu Luận án Nghiên cứu các tự điển, từ điển Hán nôm thế kỉ XIX, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
, tiếp thu và cập nhật tri thức qua chữ Hán, chữ Nôm nhưng cách
thức tổ chức bên trong của chúng đã làm cho chúng trở thành các bộ tự điển, từ
điển song ngữ Hán Nôm. Các bộ tự điển và từ điển đó mang trong mình nhiều
giá trị, phản ánh một trong những lĩnh vực nổi trội của truyền thống ngữ văn
học chữ Hán nói chung, ngữ văn học truyền thống Việt Nam nói riêng có nhiều
thành tựu. Đó là lĩnh vực biên soạn tự điển và từ điển. Chúng cần được xem
xét trên phương diện tự điển, từ điển học cũng như trên phương diện giáo dục
chữ Hán, giáo dục Hán văn. Qua các bộ sách này, chúng ta có thể biết được rõ
hơn những yêu cầu và đòi hỏi nhằm đổi mới giáo dục Hán văn như: nhật dụng
hóa tri thức Hán học, mở mang cái học cách trí, cái học đa thức, cái học phi
khoa cử. Đồng thời qua chúng ta còn thấy vai trò của nhân tố tiếng mẹ đẻ ghi
bằng chữ Nôm trong giáo dục chữ Hán và cập nhật tri thức qua chữ Hán. Giáo
dục Hán văn vì thế đã thúc đẩy sự nhìn nhận về vai trò của tiếng mẹ đẻ. Sự có
mặt của nhân tố chữ Nôm trong các sách học chữ Hán này đã nói lên vai trò và
khả năng của quốc ngữ Nôm cho sự mở mang và cập nhật tri thức ngay khi vẫn
dùng chữ Hán.
Nghiên cứu chúng sẽ giúp ta giải thích và đánh giá một loạt vấn đề của
ngữ văn Việt Nam cũng như xã hội và văn hóa Việt Nam truyền thống trong
môi trường song ngữ Việt Hán.
2
Nghiên cứu chúng sẽ giúp chúng ta hiểu thêm về cách thức biên soạn tự
điển chữ Hán của ngữ văn Việt Nam truyền thống bởi vì ở đây chứa đựng một
loạt vấn đề của ngữ văn Hán Nôm nói chung, của truyền thống tự điển và từ điển
học Việt Nam nói chung như: cách chọn các đơn vị cơ sở để lập mục từ, bảng từ;
cách thức xây dựng bảng từ, cấu trúc mục từ; mức độ phổ biến, cập nhật và bổ
sung các tri thức văn hóa vào một thế kỉ cuối thời trung đại qua chữ Hán.
Nghiên cứu các bộ tự điển, từ điển Hán Nôm thế kỉ XIX sẽ giúp ta hiểu
thêm về khả năng của tiếng Việt khi thực hiện nhiệm vụ làm vốn đối ứng cho
việc phổ biến những tri thức văn hóa có tính trí tính cao từ chữ Hán.
Nghiên cứu các bộ tự điển, từ điển song ngữ Hán Nôm nói chung và nhất
là các bộ ra đời vào thế kỉ XIX sẽ góp phần cho sự nhận thức về những đóng
góp của ngữ văn Hán Nôm cho truyền thống ngữ văn Việt Nam nói riêng,
truyền thống ngữ văn Đông Á nói chung, nơi mà các vấn đề về văn tự, tự điển,
học chữ, phổ biến chữ, thích danh, thích nghĩa luôn được đặc biệt chú ý.
Vì những lí do trên, chúng tôi chọn vấn đề nghiên cứu các tự điển, từ điển
Hán Nôm thế kỉ XIX làm đề tài cho luận án tiến sĩ ngữ văn, chuyên ngành Hán
Nôm của mình.
2. Mục đích nghiên cứu
Trên cơ sở nhận thức chung về bối cảnh xã hội - ngôn ngữ Việt Nam thế
kỉ XIX, luận án nhằm các mục tiêu cụ thể sau:
- Lập danh mục các bộ tự điển, từ điển Hán Nôm được biên soạn vào thế
kỉ XIX, xác lập tính chất “ tự học”, “ tự thư”, “ từ thư”, “ loại
thư” của chúng trong mối quan hệ với truyền thống biên soạn sách học chữ
Hán cũng như tự điển và từ điển chữ Hán nói chung.
- Nghiên cứu cơ cấu bảng từ cũng như cơ cấu mục từ nói chung để từ đó
đi vào nghiên cứu phần chữ Hán hay “phần được giải thích” của mục từ của
các bộ tự điển, từ điển này trong mối quan hệ với các phạm trù văn hoá mà các
3
mục chữ Hán này chuyển tải; nghiên cứu chữ Hán từ góc độ văn tự học để thấy
được nhận thức của nhà Nho thế kỉ XIX về việc dạy và học chữ Hán.
- Nghiên cứu “phần giải thích” của mục từ (giải thích nghĩa bằng chữ
Nôm, giải thích nghĩa bằng chữ Hán), trong mối quan hệ đối ứng với bộ phận
được giải thích (chữ Hán); nghiên cứu các bộ phận nối giữa “phần được giải
thích” và “phần giải thích”.
- Nghiên cứu các mục đích biên soạn cũng như các định hướng tri thức
văn hóa qua sự cập nhật tri thức qua Hán học mà các bộ “tiểu loại thư” này đã
thực hiện.
3. Đối tượng, phạm vi nghiên cứu
Đối tượng nghiên cứu của luận án là bốn bộ tự điển, từ điển Hán Nôm
được biên soạn, ấn bản, trùng san trong thế kỉ XIX, đó là các bộ: Nhật dụng
thường đàm; Tự Đức Thánh chế Tự học giải nghĩa ca; Nam phương danh vật
bị khảo và Ðại Nam quốc ngữ.
Phạm vi nghiên cứu: Luận án nghiên cứu bốn bộ tự điển, từ điển Hán
Nôm thế kỉ XIX từ góc nhìn của từ điển học, từ thư học cũng như từ góc nhìn
sách dạy chữ Hán, sách học chữ Hán.
4. Phương pháp nghiên cứu
Luận án vận dụng các thao tác mô tả của văn bản học Hán Nôm và ngữ
văn Hán Nôm trong việc giới thiệu và mô tả các bộ tự điển, từ điển song ngữ
Hán Nôm thế kỉ XIX, phiên âm, dịch nghĩa chúng ra quốc ngữ hiện đại.
Luận án sử dụng các thao tác mô tả của từ điển học, nhất là của từ thư
học và tự điển học chữ Hán để mô tả cơ cấu bảng từ và cơ cấu mục từ của các
tự điển, từ điển Hán Nôm.
Luận án vận dụng các thao tác của xã hội - ngôn ngữ học trong việc mô
tả hoàn cảnh xã hội - ngôn ngữ Việt Nam thế kỉ XIX nhằm giải thích các cơ sở
xã hội - ngôn ngữ mà các bộ sách này ra đời.
4
Luận án vận dụng các thao tác của ngôn ngữ và văn hóa học trong việc
phân tích, giải thích và sơ bộ đánh giá giá trị văn hóa của các bộ sách này trong
bối cảnh song ngữ Việt Hán của thời điểm ra đời chúng.
5. Đóng góp mới của luận án
Luận án giới thiệu danh mục các bộ tự điển, từ điển song ngữ Hán Nôm
thế kỉ XIX.
Luận án góp phần làm sáng tỏ các vấn đề về cấu trúc (cấu trúc bảng từ,
bảng chữ Hán trong từng bộ sách; cấu trúc mục từ trong từng mục từ và trong
từng bộ sách) từ góc nhìn của từ điển học nói chung, của tự điển học và từ điển
học chữ Hán và tự điển, từ điển Hán Nôm nói riêng.
Luận án góp phần làm sáng tỏ mục đích, tính chất của các bộ tự điển, từ
điển Hán Nôm trong khuôn hình loại thư song ngữ Hán Nôm từ góc nhìn sách
dạy chữ Hán, sách học chữ Hán.
Luận án góp phần giải thích một vài cơ sở ngôn ngữ - xã hội cho sự ra đời
của các bộ tự điển, từ điển Hán Nôm và phân tích các mục đích biên soạn
của chúng.
Luận án góp phần giải thích những cố gắng và thành tựu của ngữ văn
truyền thống trong việc cập nhật, bổ sung các tri thức văn hóa mà thời đại yêu
cầu qua chữ Hán, chữ Nôm.
Luận án góp phần hình thành một nhận thức đúng đắn về truyền thống tự
điển học và từ điển học Việt Nam, trân trọng di sản văn hiến dân tộc trên cơ sở
thấu hiểu những minh chứng cụ thể về phương diện tự điển và từ điển học.
6. Cấu trúc của luận án
Trên cơ sở nhận thức về đối tượng, mục tiêu, phạm vi và phương pháp
nghiên cứu được trình bày ở phần MỞ ĐẦU, NỘI DUNG của đề tài được triển
khai theo hệ thống vấn đề như sau:
5
Chương 1 với tiêu đề: “TỔNG QUAN TÌNH HÌNH NGHIÊN CỨU CÓ
LIÊN QUAN ĐẾN ĐỀ TÀI VÀ XÁC LẬP NHỮNG HƯỚNG NGHIÊN CỨU
CHỦ YẾU CỦA LUẬN ÁN” nhằm đề cập đến các nghiên cứu đã có về bốn
bộ tự điển, từ điển song ngữ Hán Nôm Việt Nam thế kỉ XIX, từ đó làm sáng tỏ
cách thức và hướng đi mà luận án sẽ thực hiện, nhằm đề cập đến các bộ tự
điển, từ điển song ngữ Hán Nôm từ góc nhìn của từ điển học nói chung, từ điển
học và từ thư học chữ Hán nói riêng.
Chương 2 với tiêu đề: “DANH MỤC VÀ BẢNG TỪ CỦA CÁC TỰ
ĐIỂN, TỪ ĐIỂN HÁN NÔM THẾ KỈ XIX” nhằm bao quát danh mục cũng
như các vấn đề về mặt văn bản học của các tự điển và từ điển song ngữ Hán
Nôm thế kỉ XIX làm cơ sở cho việc nghiên cứu bảng từ (tức cấu trúc vĩ mô)
của chúng.
Chương 3 với tiêu đề: “CẤU TRÚC NỘI TẠI CỦA MỤC TỪ TRONG
CÁC TỰ ĐIỂN, TỪ ĐIỂN HÁN NÔM THẾ KỈ XIX” nhằm nghiên cứu cấu
trúc tổng quát của mục từ cũng như cấu trúc chi tiết của mục từ trong tự điển,
từ điển.
Chương 4 với tiêu đề: “ĐỊNH HƯỚNG BIÊN SOẠN VÀ SỰ CẬP
NHẬT TRI THỨC CỦA CÁC TỰ ĐIỂN, TỪ ĐIỂN HÁN NÔM THẾ KỈ
XIX” nhằm nghiên cứu định hướng biên soạn nhằm mở mang và cập nhật tri
thức theo chủ đề của các bộ sách học chữ Hán có tính chất song ngữ này; vai
trò và khả năng mở mang tri thức Hán học của chúng trong bối cảnh xã hội -
ngôn ngữ cũng như trong môi trường song ngữ Việt Hán thế kỉ XIX.
Phần KẾT LUẬN sẽ đánh giá, tổng kết những kết quả trong thực tế giải
quyết vấn đề trong các chương mục của NỘI DUNG luận án.
Ngoài ra, luận án còn hai phần phụ là: TÀI LIỆU THAM KHẢO và PHỤ
LỤC với các bộ phận cấu thành:
6
1. Phụ lục 1: Ảnh chụp trang bìa các bộ tự điển, từ điển Hán Nôm
thế kỉ XIX.
2. Phụ lục 2: Bản phiên dịch Nhật dụng thường đàm và các bài tựa
của các bộ tự điển, từ điển Hán Nôm thế kỉ XIX.
- Phụ lục 2.1: Bản phiên dịch Nhật dụng thường đàm.
- Phụ lục 2.2: Phần phiên dịch Nam phương danh vật bị khảo (tựa)
- Phụ lục 2.3: Phần phiên dịch Đại Nam quốc ngữ (tựa)
7
NỘI DUNG
Chương 1
TỔNG QUAN TÌNH HÌNH NGHIÊN CỨU
CÓ LIÊN QUAN ĐẾN ĐỀ TÀI VÀ XÁC LẬP
NHỮNG HƯỚNG NGHIÊN CỨU CHỦ YẾU CỦA LUẬN ÁN
Trong chương này, chúng tôi tập trung khái quát những nghiên cứu có
liên quan đến đề tài luận án, từ đó xác định những hướng nghiên cứu chủ yếu
sẽ được trình bày trong luận án nhằm nghiên cứu các bộ tự điển và từ điển
song ngữ Hán Nôm thế kỉ XIX từ góc nhìn của từ điển học nói chung, tự điển
học và từ điển học chữ Hán nói riêng.
1.1. Lịch sử vấn đề nghiên cứu
Những nghiên cứu về các tự điển, từ điển Hán Nôm thế kỉ XIX (từ đây
viết tắt là TĐHN.TkXIX) chủ yếu đã được triển khai trên các lĩnh vực như:
những giới thiệu khái quát và phiên dịch Hán Nôm; những nghiên cứu cụ thể
về từng bộ sách; những nghiên cứu về chữ Nôm lấy các TĐHN.TkXIX như
nguồn tư liệu
1.1.1. Những giới thiệu khái quát và phiên dịch Hán Nôm về các tự điển, từ
điển Hán Nôm thế kỉ XIX
1.1.1.1. Những giới thiệu khái quát
Những giới thiệu khái quát về bốn bộ TĐHN.TkXIX thể hiện trong các
công trình sau đây:
Trần Văn Giáp (1990) trong Tìm hiểu kho sách Hán Nôm - nguồn tư liệu
văn học, sử học Việt Nam, (tập 2)[15], đã giới thiệu các bộ sách ở phần NGÔN
NGỮ với các số: 217 (Nhật dụng thường đàm); 224 (Tự Đức Thánh chế Tự học
giải nghĩa ca); 223 (Ðại Nam quốc ngữ); 226 (Nam phương danh vật bị khảo):
8
+ Về Nhật dụng thường đàm: “Sách Nhật dụng thường đàm là
một bộ từ điển Hán Việt nhỏ, xếp theo 32 loại như Thiên văn, Luân tự, Nho
giáo Du hí, Tật bệnh, Cầm thú, Trung loại, v.v Các từ ngữ tuy không
nhiều, nhưng có thể nói là tạm đủ để đọc biết các chữ thông thường. Đó cũng
là một tài liệu mà chúng ta có thể dùng so sánh để thấy những chỗ khác biệt
trong cách chua và giải nghĩa chữ Hán bằng chữ Nôm” [15, tr.18].
+ Về Ðại Nam quốc ngữ: Đầu sách có bài tựa không ghi tên
người viết, nhưng đọc thì biết là của người soạn sách này. Cuối bài có chú
giải những chữ khó trong bài đó. Tiếp theo là phần nghĩa lệ, đề năm Tự Đức
thứ 33 (1880), gồm có 4 điều nói về mục đích và phương pháp làm sách
này” [15, tr.21].
+ Về Tự Đức Thánh chế Tự học giải nghĩa ca: “Tự
học giải nghĩa ca cũng thuộc loại tự điển Hán Việt. Chữ Hán ghi trên, chữ
Nôm ghi dưới, có chép vần thượng lục hạ bát, nhiều chỗ có ghép chữ đôi và
thêm chữ đệm cho khỏi túng vần Mục đích của người soạn là muốn phổ biến
việc học chữ Hán và chính xác lối viết chữ Nôm. Nhưng vì sách làm dài, nhiều
chữ khó, nghĩa khó hoặc ít dùng, nên tác dụng đạt được có lẽ là ở chỗ góp
phần làm chính xác được lối viết chữ Nôm thôi. Về mặt ấy, sách Tự học giải
nghĩa ca được coi là một tài liệu quí khi người nghiên cứu cần so sánh để tìm
hiểu quá trình phát triển và chuyển hóa của chữ Nôm”[15, tr.23].
+ Về Nam phương danh vật bị khảo: “Như vậy, sách Nam
phương danh vật bị khảo cũng là một bộ sách thuộc loại từ ngữ Hán Việt, đặc
điểm là có chú ý nhiều đến tên gọi các sản vật của nước ta và có ghi chú tên
địa phương có những sản vật ấy. Đó là một công trình biên soạn có giá trị về
ngôn ngữ học và sinh vật học” [15, tr.24].
Trần Nghĩa, Prof.Francois Gros (1993) và các cộng sự của mình trong
công trình Di sản Hán Nôm Việt Nam - Thư mục đề yếu, Khoa học Xã hội, Hà
9
Nội, 1993, gồm 3 tập, sau khi giới thiệu về văn bản của các bộ sách, tác giả đã
mô tả khái quát về kết cấu và nội dung của từng bộ tự điển, từ điển về phương
diện thư mục học.
Trong tập I ở mục số 865, các tác giả mô tả về Ðại Nam quốc ngữ như
sau: “Giải thích và dịch ra Nôm các từ ngữ tiếng Hán bao gồm nhiều lĩnh vực,
chia thành 50 loại mục, gọi là “môn” hay “bộ”, như Thiên văn môn; Địa lí
môn; Nhân luân môn; Tàm tang môn; Công khí môn; Tục ngữ môn v.v.; Thuỷ
bộ; Thổ bộ; Kim bộ v.v. [45, tr.497].
Trong tập II, mô tả về Nhật dụng thường đàm ở mục số 2538: “Từ điển
Hán - Nôm, do Phạm Đình Hổ (1768 - 1839) soạn. Các mục từ được xếp thành
32 nhóm: Thiên văn, Địa lí, Nho giáo, Đạo giáo, Thân thể, Nhà cửa, Trang
phục, Thực phẩm, Thảo mộc, Côn trùng, Cầm thú.. [45, tr.487].
Nam phương danh vật bị khảo được giới thiệu như sau ở mục số 2256 của
tập II: “Từ điển Hán - Nôm do Đặng Xuân Bảng soạn, chia thành các mục như
thiên văn, địa lí, thời tiết”[45, tr.333].
Cuối cùng, đối với Tự Đức Thánh chế Tự học giải nghĩa ca ở mục số 4116
của tập III, tác giả mô tả như sau: “Sách dạy chữ Hán (thể 6-8) giải nghĩa bằng
chữ Nôm. Các chữ được xếp thành 7 mục lớn: Kham dư (thiên văn, địa lí),
Nhân sự (quan hệ xã hội, con người), Chính hóa (giáo dục), Khí dụng (vật
dùng), Thảo mộc (cây cỏ), Cầm thú (động vật, chim muông) và Trùng ngư
(côn trùng, tôm cá)” [45, tr.506].
Nguyễn Thị Lan (2002) trong Luận văn Thạc sĩ Hán Nôm: Tìm hiểu loại
hình sách song ngữ Hán - Nôm dạy chữ Hán [35], với tính chất nghiên cứu
điểm về thể loại, đã đề cập đến tên các bộ sách này với tư cách là những sách
song ngữ dạy chữ Hán; qua thao tác thống kê điểm đã đưa ra những nhận định
chung về cách phân chia môn loại, cách giải nghĩa, vốn chữ trong một số môn
loại làm tham số cho các so sánh của mình.
10
1.1.1.2. Những công trình phiên dịch Hán Nôm
Phương thủ Nguyễn Hữu Quì (1971) trong Tự Đức Thánh chế Tự học giải
nghĩa ca[48], đã phiên âm bộ sách này và mới chỉ in được một phần, được Uỷ
ban dịch thuật phủ Quốc vụ khanh đặc trách văn hóa của chính quyền Sài Gòn
cũ xuất bản năm 1971.
Phan Đăng (1996) trong công trình Thơ văn Tự Đức (3 tập), đã phiên âm
hoàn chỉnh Tự Đức Thánh chế Tự học giải nghĩa ca, in ở tập 3 của công trình
này [12].
Lã Minh Hằng (2013) trong công trình Khảo cứu từ điển song ngữ Hán -
Việt Đại Nam quốc ngữ [22], đã phiên dịch bộ sách và khảo cứu, chú giải cho
các mục từ Hán của Đại Nam quốc ngữ.
Như vậy, trong bốn bộ TĐHN.TkXIX thì cho đến nay mới có hai bộ Tự
Đức Thánh chế Tự học giải nghĩa ca và Đại Nam quốc ngữ được phiên dịch và
công bố. Với bốn bộ sách là đối tượng nghiên cứu của luận án, chúng tôi chủ
yếu làm việc trực tiếp với văn bản gốc Hán Nôm. Chúng tôi cũng được thừa
hưởng ở mức độ nhất định từ bản dịch của hai bộ sách trên. Chúng tôi cũng
phiên dịch toàn bộ trong quá trình làm luận án. Chúng được trích in trong phần
Phụ lục luận án. Việc tiếp cận với hai bản sách đã công bố diễn ra sau khi luận
án đã cơ bản hoàn thiện và chỉ mang tính chất tham khảo.
1.1.2. Những nghiên cứu cụ thể về từng bộ tự điển, từ điển Hán Nôm thế kỉ XIX
1.1.2.1. Các bộ tự điển, từ điển là đối tượng cho những giới thiệu tổng quát
Thuộc về những nghiên cứu cụ thể về từng bộ TĐHN.TkXIX là những
bài viết độc lập cũng như lời giới thiệu cho các lần xuất bản, những nghiên cứu
về chữ Nôm trong các tự điển, từ điển sau đây:
Phan Đăng (1998) trong Tự Đức Thánh chế Tự học giải nghĩa ca” - một
cuốn sách quí trong các tác phẩm của vua Tự Đức[13], đã dành 3 trang để giới
11
thiệu một cách khái quát về cấu trúc của cuốn sách và đưa ra một số nhận xét
sơ lược về chữ Nôm: “Chúng tôi chưa dám xem đấy là một loại tự điển nhưng
chắc chắn trong một phạm vi nhất định của giáo dục thời ấy, Tự Đức Thánh
chế Tự học giải nghĩa ca đã là một loại sách công cụ tra cứu thật bổ ích”.
GS.Nguyễn Thiện Giáp (2005) trong công trình Lược sử Việt ngữ học, tập
một, Nxb Giáo dục, Hà Nội, đã nêu ra danh mục 10 cuốn từ điển đối chiếu Hán
Việt đầu tiên trong đó có 4 cuốn mà đề tài luận án này nghiên cứu. Đó là một
cố gắng trong việc giới thiệu truyền thống từ điển học Việt Nam cho độc giả
hiện đại. Tất nhiên, trong phạm vi và khuôn khổ của một mục viết cho một bộ
sách lớn về lịch sử Việt ngữ học, tác giả chỉ có thể nêu ra những nhận xét
chung và đặt chúng trong phạm vi của Việt ngữ học. Sau đó, tác giả đã đi vào
phân tích sâu hơn cho các cuốn sách cụ thể như : An Nam dịch ngữ (trang 97-
100); Chỉ nam ngọc âm giải nghĩa (trang 100-103; Tam thiên tự giải âm (trang
104-110).
Lê Văn Cường (2012) trong bài viết Nhật dụng thường đàm, cuốn từ điển
bách khoa song ngữ Hán Nôm thế kỉ XIX” in trên Tạp chí Hán Nôm, (số 3.
2012)[8], đã giới thiệu chủ yếu về tình hình của các văn bản đang được lưu trữ
trong các thư viện, điểm qua về phương pháp giải nghĩa chú âm của từ điển và
bước đầu có những nhận định chung về cuốn tự điển này.
1.1.2.2. Những nghiên cứu về chữ Nôm trong các tự điển, từ điển
Thuộc vào những nghiên cứu chuyên biệt về chữ Nôm, trong bốn bộ
TĐHN.TkXIX mới chỉ có Tự Đức Thánh chế Tự học giải nghĩa ca được
nghiên cứu đến trong các công trình sau đây:
Đoàn Khoách trong Chữ Nôm trong một tác phẩm của vua Tự Đức[28],
sau khi đề cập đến vấn đề lí thuyết chữ Nôm với các đề mục: chữ Nôm là gì?
chữ Nôm có từ bao giờ, do ai sáng chế, chữ Nôm là chữ thế nào - cách cấu tạo
chữ Nôm ra sao? Tự Đức là ai? Có sự nghiệp văn hoá gì? “Tự học giải nghĩa
12
ca” là sách gì?... mới đi vào phiên âm và phân tích cấu tạo chữ Nôm của một
vài trang phần Nhân sự loại (thượng). Cuối cùng tác giả dẫn lời của Trần Văn
Giáp trong Lược khảo vấn đề chữ Nôm để kết luận “Nó không phải là sách
bắt chước đúng thể tài một cuốn sách nào của Trung Quốc ra tiếng Việt. Giá trị
của nó rất lớn, ở chỗ nó có tính dân tộc, đối với ngôn ngữ học và văn tự học
Việt Nam tức là chữ Nôm”.
Hà Đăng Việt (2008) trong bài viết “Tự Đức Thánh chế Tự học giải nghĩa
ca” và vấn đề chuẩn hoá chữ Nôm thời Nguyễn[68] đã phân loại cấu trúc và
định lượng chữ Nôm của bộ sách đồng thời so sánh, đối chiếu các loại cấu tạo
chữ Nôm trong đó với các sách cùng loại (đồng đại và lịch đại) để rút ra những
nhận xét về đặc điểm của chữ Nôm trong đó.
Qua phần trình bày lịch sử vấn đề nghiên cứu trên đây có thể thấy, các
nghiên cứu đã có về các TĐHN.TkXIX chủ yếu mới chỉ giới thiệu và điểm
danh về bốn bộ sách, phiên âm Hán - Nôm và nghiên cứu cấu trúc chữ Nôm
trong Tự Đức Thánh chế Tự học giải nghĩa ca; những vấn đề về chữ Hán, là
đối tượng chính của sách dạy chữ Hán vẫn chưa được nghiên cứu.
1.1.3. Các bộ tự điển, từ điển Hán Nôm thế kỉ XIX - nguồn tư liệu cho các
nghiên cứu chữ Nôm Việt nói chung, cho chữ Nôm hậu kì nói riêng
Với tiêu chí này chúng ta có thể kê ra một danh sách khá dài các công
trình nghiên cứu về chữ Nôm. Đào Duy Anh, Chữ Nôm - nguồn gốc, cấu tạo
diễn biến, Nxb Khoa học Xã hội, H.1975[1]; Phan Văn Các (chủ biên), Giáo
trình Hán Nôm, Nxb Giáo dục, 1985[2]; Nguyễn Tài Cẩn, Một số vấn đề về
chữ Nôm, Nxb Đại học và Trung học chuyên nghiệp, H.1985[3]; Nguyễn
Quang Hồng, Khái luận văn tự học chữ Nôm, Nxb KHXH, 2008 [26]; (.).
Trên đây là sự kiểm kê về lịch sử vấn đề nghiên cứu. Các nghiên cứu đó
do yêu cầu và hoàn cảnh của mình, phần nhiều mới chỉ dừng lại ở các phương
diện như: Giới thiệu về các bộ TĐHN.TkXIX trong tổng thể kho sách Hán
13
Nôm theo chủ đề (Trần Văn Giáp, Nguyễn Thị Lan); Giới thiệu các bộ sách
dưới góc độ thư mục học (Trần Văn Giáp, Trần Nghĩa và Prof.Francois Gros);
Giới thiệu sách và các tác giả của sách (Hà Đăng Việt, Lê Văn Cường); Phiên,
dịch và công bố các bản phiên, dịch (Nguyễn Hữu Quì, Phan Đăng, Lã Minh
Hằng); Nhận xét chung về những cuốn từ điển đối chiếu Hán Việt đầu tiên
(Nguyễn Thiện Giáp); Các nghiên cứu cụ thể về chữ Nôm trong các bộ sách
(Đoàn Khoách, Hà Đăng Việt); Sử dụng các bộ tự điển, từ điển song ngữ Hán
Nôm này như là nguồn cứ liệu để xây dựng các bộ tự điển chữ Nôm. Ngay cả
khi nghiên cứu có sử dụng những cơ sở của văn tự học nhưng cũng mới chỉ đề
cập đến phần chữ Nôm như là nguồn tư liệu mà thôi. Còn hướng nhìn chúng
theo góc độ tự điển học theo nghĩa hẹp hay nghĩa rộng của thuật ngữ này thì
vẫn còn bỏ trống. Điều đó cho phép chúng tôi triển khai đề tài theo các yêu cầu
mà đề tài phải có.
1.2. Những hướng và lĩnh vực cần được đề tài luận án triển khai
Luận án nghiên cứu bốn bộ tự điển, từ điển Hán Nôm thế kỉ XIX sẽ được
triển khai theo hướng nghiên cứu của từ điển học nói chung, truyền thống từ
điển học chữ Hán nói riêng. Do vậy phải có một sự nhận thức cần thiết về các
cơ sở của từ điển học hiện đại và truyền thống tự điển và từ điển học chữ Hán.
Từ điển học hiện đại sẽ cung cấp những cơ sở có tính phương pháp luận cho
nghiên cứu đề tài luận án [phân loại tự điển, từ điển; cấu trúc của tự điển, từ
điển (cấu trúc vĩ mô, cấu trúc vi mô - bảng từ và mục từ, cấu tạo mục từ)].
Còn những nhận thức về truyền thống tự điển, từ điển chữ Hán sẽ đóng vai trò
cơ sở cho mọi trình bày của luận án vì chúng cắt nghĩa cho ta hiểu bốn bộ tự
điển, từ điển song ngữ Hán Nôm Việt Nam thế kỉ XIX, đối tượng mà luận án
nghiên cứu đã được nảy sinh từ một truyền thống như thế nào, chúng được xây
dựng theo mẫu hình nào, chúng được chảy từ nguồn nào, chúng đã được tạo
lập trong mối quan hệ với các nguồn mạch ra sao, cấu trúc nội tại của chúng
thế nào, chúng mang trong mình những đặc điểm vốn có nào của cả truyền
14
thống tự điển, từ điển chữ Hán trong quá khứ nói chung. Do vậy, những tri
thức về tự điển học nói chung, tự điển và từ điển học chữ Hán nói riêng sẽ là
cơ sở cho mọi trình bày trong luận án.
Các bộ tự điển, từ điển chữ Hán trong truyền thống tự điển chữ Hán
không chỉ đóng vai trò như là những bảng sưu tập chữ Hán phán ánh chuẩn
hóa cách viết, âm đọc mà còn là công cụ cho sự lưu truyền, sử dụng, mở mang
văn hóa, cập nhật kiến thức. Các bộ tự điển, từ điển Hán Nôm thế kỉ XIX trước
hết cũng là những bộ sách học chữ Hán mà nội dung học chữ Hán đó phản ánh
Hán học của thời đại mà chúng ra đời. Sự xuất hiện của các bộ sách này cũng
là sự điều chỉnh, bổ sung cho Hán học đương thời nhằm đáp ứng các đòi hỏi
của xã hội đương thời đối với Hán học. Luận án sẽ đi vào triển khai theo
hướng coi bốn bộ sách đó như là những sách học chữ Hán, phổ biến những tri
thức đương thời cần có qua chữ Hán trong điều kiện Việt Nam thế kỉ XIX.
Với hai định hướng như trên, những vấn đề sau đây sẽ được triển khai
trong luận án:
Giới thiệu và phân tích các bộ tự điển, từ điển Hán Nôm thế kỉ XIX về
phương diện văn bản học, phiên âm dịch nghĩa và mô tả chúng về phương diện
từ điển học.
Nghiên cứu cấu trúc vĩ mô cũng như cấu trúc vi mô của các bộ tự điển, từ
điển song ngữ Hán Nôm thế kỉ XIX.
Mô tả môi trường song ngữ Hán Việt mà các bộ tự điển, từ điển Hán Nôm
thế kỉ XIX ra đời.
Phân tích và đánh giá mục đích biên soạn cũng như những tri thức văn
hóa của chữ Hán được mang ra dạy và học trong các bộ sách này.
Những hướng và vấn đề trên đây sẽ được trình bày trong luận án. Ở phần
TỔNG QUAN TÌNH HÌNH NGHIÊN CỨU CÓ LIÊN QUAN VÀ XÁC LẬP
NHỮNG HƯỚNG NGHIÊN CỨU CHỦ YẾU CỦA LUẬN ÁN, về cơ bản
15
chúng tôi chỉ nêu vấn đề mà thôi. Riêng phần các cơ sở của từ điển học hiện
đại và tự điển, từ điển chữ Hán trong truyền thống bởi lẽ chúng đóng vai trò
nền tảng cho mọi nghiên cứu của đề tài luận án nên chúng sẽ được lược trình
dưới đây. Chúng đóng vai trò làm cơ sở cho mọi trình bày trong chương 2,
chương 3, chương 4; chúng cũng đóng vai trò như là những số đo cho mọi
đánh giá về giá trị của các bộ tự điển, từ điển Hán Nôm thế kỉ XIX. Dưới đây
là sự trình bày đó.
1.2.1. Cơ sở của từ điển học và từ điển học chữ Hán phục vụ cho đề tài
nghiên cứu
1.2.1.1. Một số khái niệm của từ điển học hiện đại
Có một quan niệm rằng, “từ điển học là một bộ phận của ngôn ngữ học,
nghiên cứu lí luận và biên soạn các công trình tra cứu về ngôn ngữ”.
Lại có một quan niệm khác cho rằng, “Từ điển học là chuyên ngành khoa
học nhằm nghiên cứu lí luận và biên soạn các công trình tra cứu nói chung”
[Nguyễn Văn Lợi, “Từ điển học và bách khoa thư học: Đôi điều suy nghĩ về
Ngành, Nghề và Nghiệp”// Từ điển học & Bách khoa thư (số 6), 2013 [40,
tr.10-17]. Tuy có các quan niệm hẹp hay rộng như thế, song tựu trung lại, ta
thấy rằng, những gì liên quan đến nghiên cứu lí luận và biên soạn từ điển cũng
như các công trình tra cứu dù ít dù nhiều cũng đều thuộc phạm trù từ điển học.
Từ lí thuyết và thực tiễn biên soạn cũng như những phân tích ngôn ngữ
phục vụ cho mục đích biên soạn từ điển, ngôn ngữ học hiện đại đã khái quát
nên một số khái niệm có tính cơ sở về từ điển. Chúng thường được trình bày
trong các giáo trình ngôn ngữ học. Dưới đây là một số khái niệm cơ bản về từ
điển học được chúng tôi tóm lược từ Giáo trình ngôn ngữ học [17] của
GS.Nguyễn Thiện Giáp.
a. Từ điển là những tập sách tập hợp vốn từ vựng của một ngôn ngữ hay
nhiều ngôn ngữ xếp theo những trật tự nhất định nhằm giải thích hay phiên
16
dịch các mục từ. Sự mô tả vốn từ một cách hệ thống là đặc trưng chủ yếu của
từ điển. Từ điển nói chung được chia thành từ điển bách khoa (encyclopedia)
và từ điển ngữ văn (philological dictionary).
Từ điển bách khoa được chia thành bách khoa toàn thư và bách khoa
chuyên thư. Cả ở bách khoa toàn thư và bách khoa chuyên thư đều hướng vào
giải thích các khái niệm ở các ngành, các lĩnh vực.
a1. Từ điển ngữ văn giải thích ý nghĩa và cách sử dụng các từ đã được thu
thập vào từ điển. Từ điển ngữ văn lại bao gồm từ điển tường giải (cho một thứ
tiếng); từ điển đối chiếu (từ điển song ngữ) cho hai thứ tiếng trở lên. Từ điển
tường giải, là từ điển một thứ tiếng, nhằm giải thích ý nghĩa và cách sử dụng của
từ, ngữ, chỉ ra những đặc điểm ngữ pháp, ngữ âm và ngữ nghĩa của từ Từ điển
tường giải thường được quan niệm là từ điển giải thích chung cho một ngôn
ngữ. Song tùy theo yêu cầu của đối tượng, đích hướng vào có thể bao gồm trong
mình những loại nhỏ hơn như: từ điển học sinh, từ điển phương ngữ, từ điển
thành ngữ, từ điển từ nguyên, từ điển từ đồng nghĩa, từ điển từ trái nghĩa
a2. Từ điển học hiện đại còn tách từ điển ngữ văn theo cách sắp xếp các
mục từ trong đó thành các loại: từ điển biểu âm, từ điển biểu ý. Các từ điển
tường giải và đối chiếu sắp xếp mục từ theo trật tự chữ cái, tức là theo trật tự
ngữ âm, biểu âm, thường gọi là từ điển biểu âm. Các từ điển xếp các mục từ
theo ý nghĩa được gọi là từ điển biểu ý. Trong từ điển biểu ý lại chia thành các
loại nhỏ như: Từ điển kho tàng, là từ điển mà vốn từ được thu thập ở trong đó
được sắp xếp theo các lớp khái niệm hay các nhóm đề mục, như không gian,
thời gian, vật chất, trí tuệ; Từ điển loại suy, là loại từ điển mà các mục từ
được xếp dựa theo mức độ thường dùng nhất của chúng làm trọng tâm; Từ điển
học sinh biên soạn theo đề mục (chủ đề, chủ điểm).
(Nguyễn Thiện Giáp, tr.239-251)[17].
17
b. Cấu trúc của từ điển. Một cuốn tự điển, từ điển nói chung thường được
cấu trúc thành hai bộ phận: Một là cấu trúc vĩ mô và hai là cấu trúc vi mô.
Cấu trúc vĩ mô là cấu trúc bảng từ, trong đó bao gồm toàn thể các mục từ
được sắp xếp theo một trật tự nhất định. Đối với các tự điển, từ điển Hán Nôm
chúng ta đang nghiên cứu nói riêng thì cấu trúc vĩ mô của nó chính là tất cả các
môn loại được tập hợp trong đó.
Cấu trúc vi mô là cấu trúc của từng mục từ cụ thể trong hệ thống bảng từ.
Như tác giả Lí Toàn Thắng đã định nghĩa trong “Một số vấn đề về cấu trúc vi
mô của từ điển" đăng trên Từ điển học & Bách khoa thư (số 3)[55]: “Nói chung
ở Việt Nam, cấu trúc vi mô của từ điển giải thích (đơn ngữ) được hiểu là cấu
trúc mục từ, bao gồm toàn bộ những thông tin/ tri thức được trình bày trong
mục từ đó. Mỗi yếu tố của cấu trúc vi mô mang một thông tin nhất định và thông
tin này được diễn đạt bằng một phương tiện nào đó" (Lí Toàn Thắng, tr.18).
Như vậy, mục từ là đơn vị từ vựng được lựa chọn để giải thích trong từ
điển. Mục từ là một phức thể bao gồm phần cần được giải thích (phần đem ra
giải thích) và phần giải thích. Phần cần được giải thích lại tương ứng với các
đơn vị của ngôn ngữ. Ở các từ điển hiện đại, phần được giải thích thường là
“từ” (từ đơn, từ phức) hay những đơn vị lớn hơn từ như ngữ, cú. Trong các tự
điển chữ Hán, phần được giải thích thường là một chữ Hán (đơn tự) nhưng
cũng có khi là một tổ hợp lớn hơn (phức tự).
Trên đây là một số cơ sở của từ điển học hiện đại. Chúng được xem như
là một trong những cơ sở có tính lí thuyết và phương pháp để chúng ta suy xét,
đánh giá về bốn bộ TĐHN.TkXIX của đề tài luận án này nghiên cứu. Tuy vậy,
đó là cách nhìn của từ điển học hiện đại vì từ điển học hiện đại lấy “từ” làm
đơn vị cở sở cho xây dựng mục từ. Đối với các tự điển, từ điển Hán Nôm,
ngoài việc được xem xét theo cách nhìn của từ điển học hiện đại, chúng ta cần
phải dựa trực tiếp vào một số cơ sở của truyền thống từ điển học chữ Hán vì
18
các bộ tự điển, từ điển Hán Nôm thế kỉ XIX đều được xây dựng trên sự kế thừa
nhất định truyền thống đó.
1.2.1.2. Truyền thống từ điển học chữ Hán
Việc biên soạn từ điển học chữ Hán đã có truyền thống trên 2000 năm, gắn
liền với sự tăng tiến và mở mang của chữ Hán, tiếng Hán, văn hóa Hán cũng
như văn hóa các nước trong khu vực Đông Á nên đã đặt cơ sở cho sự ra đời của
truyền thống từ điển chữ Hán. Từ điển học chữ Hán truyền thống bắt đầu với
những ý tưởng và thao tác nhằm sưu tập, thống nhất, mở rộng phạm vi người
biết chữ Hán. Thống nhất chữ Hán diễn ra trước tiên ở phương diện tự thể -
thể của chữ. Chữ Hán đã trải qua những biến đổi sau đây về tự thể: Giáp cốt văn
(chữ trên mai rùa, xương thú, chủ yếu sử dụng cho mục đích bói toán, mà
các chứng tích của chúng ra đời vào thời Ân Thương, khoảng thế kỉ XV Tr.
CN); Chung đỉnh văn (chữ khắc trên chuông trên đỉnh, còn gọi là kim văn
) thế kỉ XI Tr.CN; Đại triện thế kỉ VIII Tr.CN; Tiểu triện thế kỉ III
Tr.CN; Lệ thư thế kỉ II Tr.CN; Thảo thư thời Hán (là biến thể nhằm viết
nhanh...
không những làm sáng rõ cho mục đích biên soạn mà điều quan trọng là chỗ
chúng giúp ta hiểu rõ cách thức biên soạn và sưu tập tài liệu cho từng bộ sách.
Trong số các bộ tự điển, từ điển Hán Nôm thế kỉ XIX, Nam phương là bộ
sách có đề cập đến các bộ sách đóng vai trò là nguồn dẫn liệu cho sự biên soạn.
Có thể coi đó là định hướng cho sự sưu tập vốn chữ. Dưới đây trong vai trò
minh hoạ về nguồn tư liệu để soạn sách, chúng tôi xin dẫn các sách mà Nam
phương đã đề cập đến như là những sách làm mẫu cho sự so sánh đối chiếu
hay nguồn tư liệu đó. Qua đó ta thấy hai nguồn sách mà ông dựa vào để soạn.
Một là, nguồn các sách Trung Quốc. Hai là, nguồn các sách Việt Nam.
2.2.1. Nguồn các sách Trung Quốc
Trong lời tiểu dẫn sách Nam phương có đoạn:
Hình 2.6 Hình 2.7
Trang chứa “Nam phương danh vật khảo tiểu dẫn” sách Nam phương
39
“Vật chi danh nghĩa Chu Công Nhĩ nhã bị hĩ! Kì hậu Hán Sử Du Cấp tựu
chương, Tấn Lục Cơ Thi sớ, Kê Hàm Nam phương thảo mộc trạng; Minh Lí
Trân Bản thảo cương mục, Vương Tấn Tượng Quần phương phổ, dĩ chí Thuyết
văn, Tì nhã, Chính tự thông, Thông tục văn, Cách trí kính nguyên, Tam tài đồ
hội đẳng tác kì sở dĩ huấn hỗ hậu học tối vi tường - Danh và nghĩa của vật ở
sách Nhĩ Nhã của Chu Công đã đầy đủ rồi. Các sách như Cấp tựu chương của
Sử Du đời Hậu Hán, Thi sớ của Lục Cơ, Nam phương thảo mộc trạng của Kê
Hàm đời Tấn, Bản thảo cương mục của Lí Trân, Quần phương phổ của Vương
Tấn Tượng đời Minh, đến Thuyết văn, Tì nhã, Chính tự thông, Thông tục văn,
Cách trí kính nguyên, Tam tài đồ hộilà những sách được làm ra để dạy dỗ,
huấn hỗ cho kẻ hậu học thực rất rõ ràng”.
Đoạn trích trên đây đã dẫn ra những sách mẫu có tính tự điển để làm rõ
danh vật và danh nghĩa của vật.
Qua đây ta thấy, các bộ sách tự điển, tự thư làm cơ sở cho việc biên soạn
có nguồn gốc từ Trung Quốc gồm các bộ:
+ Nhĩ nhã - từ điển giải thích ý nghĩa sớm nhất ở Trung Quốc do các
học giả thời sơ Hán sưu tập các văn cũ có trong các sách đời Chu và Hán mà
thành (còn có thuyết cho là do Chu Công soạn, tác giả Nam phương theo
thuyết này). Bản hiện lưu hành có 19 thiên. Ba thiên đầu là: “ thích hỗ”, “
thích ngôn”, “ thích huấn” nhằm thu thập các từ theo đồng nghĩa. Còn
các thiên như “ thích cung”, “ thích thân”, “ thích khí” nhằm giải
nghĩa tên của các đồ vật. Nhĩ nhã được xếp vào hàng kinh điển Nho học vì nó
giải thích ý nghĩa của các từ trong các kinh điển Nho học mà không được
đương thời hiểu nữa.
+ Cấp tựu chương, còn có tên là Cấp tựu thiên, do Sử
Du thời Tây Hán soạn. Bản hiện còn có 34 chương. Đại để đó là sách biên tập
theo môn loại như: “ tính danh”, “ y phục”, “ ẩm thực”, “ khí
40
dụng”, đa phần gồm các câu có 7 chữ để phục vụ trẻ em học chữ, sau được xếp
vào hàng kinh điển.
+ Thuyết văn, tức Thuyết văn giải tự, do Hứa Thận người
thời Đông Hán soạn, thu thập 9353 tự và 1163 văn. Thuyết văn là bộ tự thư học
chữ Hán gồm 14 quyển, thu thập chữ Hán theo thể Tiểu triện (cũng có cả cổ văn
và Trựu thư). Mỗi mục tự của sách này bao gồm: chữ (tự) + nghĩa của chữ (tự
nghĩa) + giải thích về kết cấu hình thể của chữ đó + âm đọc. Sách biên soạn xong
vào năm thứ 12 niên hiệu Vĩnh Nguyên của vua Hán Hoà đế. Đây là bộ sách đầu
tiên phân tích chữ theo tự hình và tự nguyên của chữ Hán.
+ Thi sớ, do Lục Cơ, người thời Tấn soạn. Tên đầy đủ là
Mao Thi thảo mộc điểu thú trùng ngư sớ. Nó như là một bộ chuyên
thư nhằm chú sớ cho các danh vật như cỏ, cây, chim, thú, sâu, cá có trong Mao
Thi (Kinh Thi).
+ Nam phương thảo mộc trạng, do Kê Hàm đời Tấn soạn
năm Vĩnh Hưng nguyên niên (304). Sách này chép các sản vật ở vùng Quảng
Đông, Quảng Tây và cả Việt Nam lúc đó. Quyển thượng: 29 loại; quyển trung:
28 loại; quyển hạ: 17 loại; trúc: 7 loại. Tổng cộng: 80 loài. Đây là loại thư sưu
tập tư liệu văn hiến về thực vật, nhất là về cỏ cây các tỉnh phía Nam.
+ Bản thảo cương mục, do Lí Thời Trân thời Minh soạn,
gồm 52 quyển, hoàn thành năm Vạn Lịch 6 (1578). Toàn sách phân ra 16 bộ,
60 loại, chép 1892 giống thuốc. Mỗi giống đều có “thích danh” để xác định
danh xưng; “tập giải” để thuật về nơi sinh, hình thái, tài bồi cũng như các cách
thức thu hái, sao tẩm, công năng chủ trị bệnh Bản in lần đầu vào năm 1590,
sau đó được nhiều lần in lại. Đây là tài liệu được nhiều nhà dược liệu học, thực
vật học thế giới coi trọng.
+ Quần phương phổ, do Vương Tấn Tượng, người Tân
Thành, tiến sĩ thời Minh soạn, soạn từ thời Vạn Lịch. Lúc đầu là sưu tập tên
41
các loài cây cỏ, sau gia công thành sách vào năm Thiên Khải nguyên niên
(1621), biên tập theo 12 môn loại như: “ thiên”, “ tuế”, “ sơ”, “ huỷ”, “
hạc”, “ ngư”,Sách có ghi cả phương pháp vun trồng (tài bồi).
+ Tì nhã, sách huấn hỗ do Lục Điền người Sơn Âm, Chiết Giang
soạn. Lúc đầu có tên là Vật tính môn loại sau đổi thành tên này, lấy
nghĩa của chữ bì (ta quen đọc tì - thường dùng chữ tì ), ý chỉ nó là sách
phụ của Nhĩ nhã. Sách phân ra 8 loại như: “ thích ngư”, “ thích
thú”, “ thích mã” trong đó giải thích tên sự vật đại lược về hình trạng,
tường minh về nghĩa tên.
+ Tam tài đồ hội, do Vương Kì và con trai là Vương Ân
Nghĩa soạn khoảng những năm Gia Tĩnh triều Minh, gồm 106 quyển, phân ra 14
môn như “ thiên văn”, “ địa lí”, “ nhân vật”, “ thời lệnh”, “
cung thất”, “ khí dụng”, “ thân thể”, “ y phục”, “ nhân sự”, “ y
chế”, “ toàn bảo”, “ văn sử”, “ điểu thú”, “ thảo mộc” Mỗi sự
vật đều có hình vẽ để thuyết minh.
+ Chính tự thông, 12 quyển, do Trương Tự Liệt, người Nghi
Xuân, Giang Tây biên soạn vào cuối thời Minh; thu thập 33.000 chữ theo thể
lệ của “Tự vựng” ( Từ vựng, 14 quyển, Mai Ứng Tộ thời Minh soạn,
thu thập 33.179 tự , xếp theo 214 bộ).
+ Thông tục văn, 38 quyển, do Địch Hạo thời Thanh soạn, sưu
tập từ ngữ thường nhật của Hán ngữ lúc bấy giờ.
+ Cách trí kính nguyên, loại thư, do Trần Nguyên Long
biên tập thời Khang Hi, gồm 100 quyển, phân ra 30 loại, như: “ thiên văn”,
“ địa lí”, “ kiến trúc” “ động vật”, “ thực vật”, sưu tập về công
nghệ (kĩ thuật) từ thời cổ cho đến bấy giờ.
Qua danh mục này ta thấy, các sách trên đều thuộc phạm trù tự điển, tự
thư, từ thư chữ Hán; danh sách chúng cho thấy sự liên tục về thời gian của
42
chúng (từ Tiên Tần qua Hán, Đường đến Tống, Nguyên, Minh, Thanh. Chúng
phản ánh sự liên tục và cập nhật về thời gian.
2.2.2. Nguồn các sách Việt Nam
Bài tựa của Nam phương đã dẫn ở trên có đoạn: “Tiền bối Lê Quí Đôn
“Vân Đài loại ngữ”; Tuệ Tĩnh “Dược tính chỉ nam”; Phạm Đình Hổ “Nhật
dụng thường đàm” đẳng thư diệc thường bác thái quần thư dĩ thụ hậu học
nhi quải nhất lậu vạn lãm giả, bất vô hám yên - Các sách Vân Đài loại ngữ của
tiền bối Lê Quý Đôn, Dược tính chỉ nam của Tuệ Tĩnh, Nhật dụng thường đàm
của Phạm Đình Hổ cũng từng tham bác nhiều sách để dạy cho bọn hậu học,
đeo lấy một mà bỏ sót đến muôn”. Đoạn trích này cũng cho ta biết bộ sách có
nguồn dẫn liệu từ các sách Việt Nam.
Ta biết rằng, Vân Đài loại ngữ, 4 quyển, bách khoa thư theo môn
loại do Lê Quí Đôn soạn, gồm 8 môn loại (1. Lí khí ngữ; 2.
Hình tượng ngữ; 3. Khu vũ ngữ; 4. Vựng điểu ngữ; 5. Văn
nghệ ngữ; 6. Âm tự ngữ; 7. Thư tịch ngữ; 8. Sĩ qui ngữ),
được xem như là một bách khoa thư.
Trần Văn Giáp đã nhận xết về Vân Đài loại ngữ như sau: “Theo thuật ngữ
thư mục học thì “loại thư” là những bộ sách có nội dung tổng hợp, không
chuyên hẳn về một môn loại nào, nếu chuyển ngang sang thuật ngữ hiện đại thì
có thể gọi những sách ấy thuộc loại Bách khoa toàn thư. Cố nhiên, trong truyền
thống biên soạn, khảo cứu của Trung Quốc và Việt Nam thì những bộ Bách
khoa toàn thư ấy không xếp theo thứ tự chữ cái như Bách khoa toàn thư của
các nước phương Tây, mà thường là chia riêng theo từng môn loại tùy theo nội
dung của từng bộ sách. Trong ý nghĩa, Vân Đài loại ngữ là một Bách khoa
toàn thư do riêng một tác giả là Lê Quí Đôn biên soạn. Với tư cách là một công
trình cá nhân, Vân Đài loại ngữ đã thể hiện tầm hiểu biết rộng lớn của nhà bác
học Lê Quí Đôn. Công trình đó là một trong những di sản rất quí báu mà ông
43
đã để lại cho chúng ta ngày nay. Nội dung Vân Đài loại ngữ có 9 đề mục;
trong từng đề mục, tác giả cứ theo từng điều mà viết, không thật hẳn tuân theo
một trật tự nào”[15, tr.257].
+ Dược tính chỉ nam, do Tuệ Tĩnh soạn. Theo Trần Văn Giáp,
Tuệ Tĩnh tên là Nguyễn Bá Tĩnh , biệt hiệu là Tráng Tử Vô Dật, quê làng
Xưa, tổng Văn Thai, Cẩm Giàng, Hải Dương. Tuệ Tĩnh có các sách Nam dược
thần hiệu, Phú thuốc Nam Qua tìm hiểu, chúng tôi không thấy Tìm hiểu kho
sách Hán Nôm và Di sản Hán Nôm thư mục đề yếu nhắc đến tên sách Dược
tính chỉ nam, nên trong điều kiện tư liệu và phạm vi nghiên cứu, luận án chưa
dám khẳng định Nam dược thần hiệu và Dược tính chỉ nam có phải là một hay
không!.
+ Nhật dụng thường đàm, do Phạm Đình Hổ (1769 - 1839) soạn.
Đây là bộ sách được Nam phương nhắc đến với tư cách là nguồn dẫn liệu cho
sự biên soạn, song cũng chính là bộ sách cùng loại và đồng đại với Nam
phương, đã được luận án giới thiệu ở phần trên đây.
+ Nhất thống chí tức Đại Nam nhất thống chí, gồm 28
quyển, Sử quán triều Nguyễn (Tự Đức) soạn; sách chép tay, giấy bản thường,
khổ 28cm x 16cm; mỗi quyển riêng về một tỉnh.
Theo Trần Văn Giáp: “Sách chép riêng từng tỉnh, theo lối Nhất thống chí
triều Thanh, mỗi tỉnh gồm có các mục: 1. Phận dã (giới hạn theo vị trí các
sao trên bầu trời); 2. Kiến trí diên cách (lịch sử thay đổi); 3. Hình thế
(vị trí địa dư); 4. Khí hậu (thời tiết, mưa nắng); 5. Phong tục (tục
lệ thói quen); 6. Thành trì (Thành, hào, có phụ bản địa đồ) ; 7. Học hiệu
(trường học); 8. Hộ khẩu (số người); 9. Điền phú (thuế ruộng); 10.
Sơn xuyên (núi non, sông ngòi); 11. Cổ tích (di tích lịch sử); 12. Quan
tấn (cửa ải và đồn biển); 13. Thị tập (chợ búa); 14. Tân lương
(bến đập); 15. Đê uyển (đê điều); 16. Lăng mộ (mồ mả vua quan); 17.
44
Từ miếu (đền miếu); 18. Tự quán (chùa thờ phật, đền đạo sĩ); 19. Nhân
vật (truyện các bậc nổi tiếng); 20. Liệt nữ (phụ nữ tiết liệt và giỏi); 21.
Tiên thích (các bậc tu Phật, tu đạo); 22. Thổ sản (sản vật địa phương);
23. Giang đạo (đường sông); 24. Tân độ (bến đò ngang, đò dọc). [14,
tr.338-339].
Như vậy, theo như lời tiểu dẫn của Nam phương đã dẫn ở trên, nguồn các
sách được Nam phương nhắc đến có xuất xứ từ Trung Quốc gồm 12 quyển và
xuất xứ từ Việt Nam gồm 4 quyển. Từ danh mục những sách được coi là mẫu,
hay là nguồn dẫn liệu cho việc biên soạn này cho thấy, tất cả chúng đều là sách
thuộc phạm trù tự thư, từ thư, loại thư, hay các sách có tính cập nhật tri thức.
Có những sách thuộc loại thư về tất cả lĩnh vực (tam tài) hay về một số lĩnh
vực, đặc biệt nhất là những lĩnh vực về cỏ cây, chim thú, y dược mà theo cách
nói hiện đại là các lĩnh vực động vật, thực vật, kĩ thuật, công nghệ, kiến trúc
cũng như địa lí Việt Nam, con người Việt Nam, văn hóa xã hội Việt Nam cả
trong lịch sử và đương thời.
Đa phần các sách được dẫn ra làm mẫu có nguồn gốc cả từ Trung Quốc
và Việt Nam, về cơ bản đều thuộc phạm trù phi kinh điển, được biên soạn theo
hướng “cách trí” hay “đa thức” nhằm cập nhật kiến thức. Chúng đều có mang
ý nghĩa nhận thức về thế giới tự nhiên, xã hội tức là phạm trù danh vật. Trong
số sách đó có một số sách liên quan đến đời sống cụ thể của đất nước Việt
Nam ở thế kỉ XIX cả về tự nhiên - xã hội - con người. Điều đó cho thấy các bộ
tự điển, từ điển Hán Nôm thế kỉ XIX được định hướng biên soạn theo hướng
cập nhật kiến thức của nguồn sách làm mẫu. Đây là vấn đề sẽ được nghiên cứu
trong chương 4 của luận án này.
2.3. Bảng từ và cấu trúc bảng từ
Cấu trúc tổng quát của các từ điển nói chung bao gồm: cấu trúc bảng từ
tổng thể và cấu trúc mục từ cụ thể. Từ điển học hiện đại gọi cấu trúc bảng từ là
45
cấu trúc vĩ mô, cấu trúc mục từ là cấu trúc vi mô. Dưới đây là sự mô tả cấu
trúc tổng quát đó của các TĐHN.TkXIX Trong mọi mục từ được dẫn ra làm ví
dụ minh họa cho cấu trúc bảng từ dưới đây, phần chữ Hán được phiên âm sẽ
được in hoa, chữ Nôm phiên ra quốc ngữ được in thường, còn phần chữ Hán
dùng để thích nghĩa phiên ra quốc ngữ được in nghiêng.
2.3.1. Bảng từ của Nhật dụng thường đàm
Bộ sách được xếp theo 32 môn loại, gồm các môn loại như bảng sau:
Bảng 2.1: Danh mục cơ cấu môn loại của Nhật dụng
Stt Môn loại Âm Hán Việt Nghĩa Mục từ
1 Thiên văn môn Môn loại về thiên văn 89
2 Địa lí môn Môn loại về địa lí 78
3 Luân tự môn Môn loại về trật tự luân lí 89
4 Thù ứng môn Môn loại về đối đáp 70
5 Nho giáo môn Môn loại về Nho giáo 6
6 Đạo giáo môn Môn loại về Đạo giáo 65
7 Thích giáo môn Môn loại về Phật giáo 27
8 Thân thể môn Môn loại về thân thể 336
9 Bảo ốc môn Môn loại về nhà cửa 78
10 Tác dụng môn Môn loại về tác dụng 142
11 Thực phẩm môn Môn loại về thực phẩm 23
12 Quả thực môn Môn loại về hoa quả 60
Môn loại về công dụng
13 Hoả dụng môn 63
của lửa
Môn loại về đồ dùng
14 Phục dụng môn 63
y phục
15 Nữ trang môn Môn loại về nữ trang 46
16 Chức nhậm môn Môn loại về tơ tằm 61
Chúng hương Môn loại về các loại
17 18
môn hương thơm
18 Trân bảo hương Môn loại về của quí 98
46
19 Thái sắc môn Môn loại về màu sắc 21
20 Khí dụng môn Môn loại về đồ dùng 182
21 Công dụng môn Môn loại về công dụng 58
22 Văn nghệ môn Môn loại về văn nghệ 45
23 Âm nhạc môn Môn loại về âm nhạc 35
24 Binh khí môn Môn loại về binh khí 17
25 Nhân phẩm môn Môn loại về nhân phẩm 108
26 Du hí môn Môn loại về du hí 26
27 Tục ngữ môn Môn loại về tục ngữ 46
28 Tật bệnh môn Môn loại về bệnh tật 24
29 Thảo mộc môn Môn loại về cây cỏ 79
30 Cầm thú môn Môn loại về cầm thú 64
31 Thuỷ tộc môn Môn loại về sinh vật nước 66
32 Trùng loại môn Môn loại về côn trùng 29
TỔNG 2.479
Nhìn vào cơ cấu bảng từ qua môn loại, mục từ và các ví dụ trên cho thấy
bảng từ, môn loại, mục từ có liên hệ với nhau phục vụ cho yêu cầu học chữ.
Nếu mỗi môn loại có thể xem như một bài học thì sẽ có 32 bài học. Nếu xếp
theo trật tự theo số lượng mục từ thì ta có trật tự là: Môn loại Thân thể (336
mục từ), môn loại Khí dụng (182 mục từ), môn loại Tác dụng (142 mục từ),
môn loại Nhân phẩm (108 mục từ), rồi đến các môn loại ít mục từ hơn như
môn loại Trân bảo (98 mục từ), Thiên văn (89 mục từ), Luân tự (89 mục từ)
Trật tự này kéo dài đến những môn loại có ít mục từ nhất, là các môn loại: Du
hí (26 mục từ), Tật bệnh (24 mục từ), Thái sắc (21 mục từ), Chúng hương (18
mục từ), Binh khí (17 mục từ), Nho giáo (6 mục từ). Số lượng mục từ thông
thường của môn loại nằm trong khoảng 60 đến 80 mục từ, như các môn loại:
Địa lí (78 mục từ), Bảo ốc (78 mục từ), Thù ứng (70 mục từ), Thủy tộc (66
mục từ), Đạo giáo (65 mục từ), Cầm thú (64 mục từ), Hỏa dụng (63 mục từ),
Phục dụng (63 mục từ), Chức nhậm (61 mục từ), Công dụng(58 mục từ). Bài
47
học ít mục từ nhất là Nho giáo với 6 mục. Bài học có nhiều mục từ nhất là
Thân thể với 336 mục. Mỗi bài học khoảng chừng 77 mục từ. Ở đây ta thấy
quan hệ giữa bảng từ - môn loại - mục từ về mặt số lượng như sau: Bảng từ có
nhiều môn loại thì khả năng phân chia cao hơn, do đó số chữ trong một môn
loại ít hơn. Lượng chữ cho một bài học cũng ít hơn. Điều này dẫn đến việc học
một bài cũng dễ hơn. Tính phân tích về môn loại sẽ giúp cho lượng chữ trong
một bài học phải đảm nhận sẽ giảm đi. Như vậy có thể nói, với 32 bài học và
bình quân số mục từ trong mỗi bài học là 77 mục, Nhật dụng có phạm vi bao
quát tương đối rộng và dung lượng kiến thức cho mỗi một lĩnh vực là vừa phải.
Điều đó làm cho Nhật dụng với tư cách là sách dạy chữ Hán, có thể dễ dàng
đáp ứng được khả năng tiếp nhận kiến thức của người học chữ. Số lần được in
của nó cũng lớn nhất so với các bộ sách khác phần nào đã nói lên điều đó.
Như vậy, cấu trúc bảng từ bộ sách này gồm 32 môn loại; cấu trúc mục từ
gồm 2.479 mục từ (bao gồm cả đơn âm tiết và đa âm tiết). Với dung lượng như
vậy, có thể nói rằng, Nhật dụng của Phạm Đình Hổ (1768-1839), là bộ tự điển
bách khoa song ngữ Hán - Nôm cỡ vừa, thuộc nhóm các tự điển sắp xếp theo
môn loại. Cấu trúc bảng từ ở đây mang đặc trưng cấu trúc bao hàm, trong đó
bảng từ bao gồm các môn loại, các môn loại lại bao gồm các mục từ. Ví dụ các
mục từ trong môn loại Văn nghệ ( Văn nghệ môn) dưới đây đã thể hiện cấu
trúc bao hàm đó:
NGŨ KINH là năm bộ kinh - Dịch kinh,
Thư kinh, Thi kinh, Lễ, Xuân Thu; TỨ THƯ là
bốn truyện - Đại học, Luận ngữ, Mạnh Tử, Trung dung; TẢ
TRUYỆN là sách Tả truyện;
CHƯ SỬ là sách chư sử chép việc nước người, có sách Thiếu
Vi, sách Cương mục, sách Cương giám Chung Bá Kính, sách Cương giám Vi
Liễu Phàm; QUỐC SỬ là sách quốc sử chép việc nước ta;
48
THI VẬN TẬP YẾU là Thi vận tập yếu; ĐỐI
LIÊN là câu đối; TIỂU ĐOẠN là làm đoạn một;
KINH NGHĨA là văn kinh nghĩa; TỨ LỤC là văn - chiếu - chế -
biểu; THI PHÚ là thi phú; VĂN
SÁCH là văn trường sách, trước làm cổ văn sau làm kim văn;
2.3.2. Bảng từ của Tự Đức Thánh chế Tự học giải nghĩa ca
Bộ sách này được phân chia làm 7 môn loại, mỗi môn loại lại chia thành
thượng và hạ (riêng môn loại Cầm thú và Trùng ngư không chia thượng - hạ,
môn loại Nhân sự có 3 phần: thượng, trung và hạ. Cơ cấu vốn từ trong các
môn loại của Tự Đức như bảng dưới đây:
Bảng 2.2: Danh mục cơ cấu môn loại của Tự Đức
STT Môn loại Âm Hán Việt Nghĩa Mục từ
1 Kham dư loại Môn loại về trời, đất 1379
2 Nhân sự loại Môn loại về người 2162
3 Chính hoá loại Môn loại về giáo hóa 1587
4 Khí dụng loại Môn loại về đồ dùng 1474
5 Thảo mộc loại Môn loại về cây, cỏ 1114
6 Cầm thú loại Môn loại về cầm, thú 770
7 Trùng ngư loại Môn loại về trùng, ngư 546
8 Tổng cộng 9.032
Nhìn vào cơ cấu bảng từ qua môn loại và mục từ trên cho thấy: Bộ sách
có 7 môn loại. Nếu xem mỗi môn loại là một bài học thì đây có thể xem như 7
bài học. Số bài học trong đó ít, số chữ trong mỗi bài học nhiều. Bài học ít mục
từ nhất là Trùng ngư với 546 mục. Bài học có nhiều mục từ nhất là Nhân sự
với 2162 mục, đa phần là trên 1000 mục. Bình quân mỗi bài học trong bộ sách
là 1290 mục. Điều này cho thấy tính tổng hợp xét về môn loại cao dẫn đến sự
phân tích tính trong lượng chữ từng môn loại lớn. Do vậy khó có thể nhớ được
hơn 1000 chữ Hán trong một bài học được, dẫn đến khó cho việc dùng Tự Đức
49
vào việc học chữ. Có lẽ để khắc phục tình hình này, người soạn đã xếp mục từ
theo môn loại nhưng lại theo vần lục bát cho dễ đọc, dễ nhớ. Đó cũng là điểm
khác biệt của bộ sách này so với sách cùng loại.
Xin dẫn ra đây các mục từ trong môn loại Chính hoá ( Chính hoá
loại (hạ)) được giải nghĩa theo cách diễn thơ lục bát, như một bài học về chính
trị, giáo hóa làm minh họa:
DỤC sinh, VĨ lạ, XUẨN dày
KHỔNG nhà họ Khổng, NI thầy Trọng Ni
.... HIỆU là dạy bảo người ta
NHAN thầy Nhan tử, TĂNG là họ Tăng
PHẢ vả, THỨ thứ, NHƯ bằng
KHIÊN thầy Mẫn tử, KHUÊ rằng họ Khuê
PHÀN là họ thầy Phàn Trì
NHIỄM là họ Nhiễm, CẤP thầy Tử Tư.
Cấu trúc bảng từ ở bộ tự điển này gồm 9.032 mục từ (có 2 mục lặp lại),
được trình bày theo trật tự: chữ Hán cỡ to ghi ở trên, chữ Nôm nhỏ hơn ghi ở
dưới, chữ Hán nhỏ nhất ghi dưới cùng để chú âm, thích nghĩa thêm cho chữ
Hán ở trên. Đơn vị cho sự sắp xếp mỗi mục từ cơ bản là tự nhưng có khi mục
từ gồm hai tự trở lên. Đây là bộ tự thư Hán Nôm có dung lượng lớn nhất. Các
mục từ trong môn loại Nhân sự (thượng) sau đây là một minh chứng:
CỦ mũi gãy, HIỆP răng hô.
LỊCH LỘC mắt rõ, NHIẾP NHU tai
bùng.
Cấu trúc bảng từ ở đây cũng mang tính cấu trúc bao hàm. Bảng từ bao
gồm các môn loại, các môn loại lại bao gồm các mục từ. Ví dụ trong môn loại
Chính hóa (hạ), bao hàm trong đó các mục từ, như các mục từ sau:
ĐÔN hậu, THỨ thứ, TƯ tư
50
DUỆ sáng, NGHỊ cứng, ỦY THA khoan hòa
2.3.3. Bảng từ của Nam phương danh vật bị khảo
Bộ sách gồm các môn loại và cơ cấu mục tự như sau:
Bảng 2.3: Danh mục cơ cấu môn loại của Nam phương
Stt Môn loại Âm Hán Việt Nghĩa Mục từ
1 Thiên văn môn Môn loại về thiên văn 139
2 Địa lí môn Môn loại về địa lí 178
3 Tuế thời môn Môn loại về năm, mùa 90
4 Thân thể môn Môn loại về thân thể 344
5 Tật bệnh môn Môn loại về bệnh tật 219
6 Nhân sự môn Môn loại về việc người 712
7 Nhân luân môn Môn loại về luân lí 231
8 Nhân phẩm môn Môn loại về nhân phẩm 122
9 Chức chế môn Môn loại về chức vị 127
10 Ẩm thực môn Môn loại về ăn uống 87
11 Phục dụng môn Môn loại về trang phục 236
12 Cư xứ môn Môn loại về chỗ ở 172
13 Cung thất môn Môn loại về nhà cửa 167
14 Chu xa môn Môn loại về xe, thuyền 96
15 Khí dụng môn Môn loại về đồ dùng 258
16 Lễ nhạc môn Môn loại về lễ nhạc 201
Môn loại về quân đội -
17 Binh hình môn 129
hình phạt
Môn loại về công việc
18 Hộ công môn 129
trong nhà
19 Nông tang môn Môn loại về nông, tang 228
Môn loại về đánh cá, săn
20 Ngư liệp môn 33
bắt
Môn loại về nghề thủ
21 Xảo nghệ môn 43
công
22 Ngũ cốc môn Môn loại về ngũ cốc 105
23 Sơ thái môn Môn loại về rau cỏ 61
51
24 Hoa môn Môn loại về hoa 79
25 Quả môn Môn loại về quả 66
26 Thảo môn Môn loại về cỏ 167
27 Mộc môn Môn loại về cây cối 107
28 Trúc môn Môn loại về trúc 24
29 Cầm môn Môn loại về cầm 109
30 Thú môn Môn loại về thú 48
31 Lân môn Môn loại về loài cá 93
32 Giới môn Môn loại về loài có mai 23
33 Côn trùng môn Môn loại về côn trùng 65
34 TỔNG 4.767
Qua cấu trúc bảng từ, cấu trúc môn loại và các ví dụ trên có thể nói 33
môn loại của bộ sách như 33 bài học. Bài học nhiều nhất có 358 mục từ là bài
học về đồ dùng (Khí dụng môn), bài học ít nhất có 23 mục từ là bài học về loài
có mai (Giới môn). Bình quân trong mỗi bài học có 144 mục từ, nhiều gần gấp
2 lần so với bình quân mỗi bài học của Nhật dụng (77 mục). Do vậy cũng khó
hơn khi đưa bộ sách vào việc dạy chữ nếu so với Nhật dụng. Điều này thể hiện
cái học cách trí của bộ sách này.
Cấu trúc bảng từ ở bộ tự điển này gồm 33 môn loại và cấu trúc mục từ
gồm 4.767 mục. Trật tự thông thường của một mục từ là: chữ Hán cỡ to ở trên
được thích nghĩa bằng Hán hoặc chữ Nôm nhỏ hơn ở dưới.
2.3.4. Bảng từ của Đại Nam quốc ngữ
Bộ sách có cơ cấu môn loại và số lượng mục từ như sau:
Bảng 2.4: Danh mục cơ cấu môn loại của Đại Nam
Stt Môn loại Âm Hán Việt Nghĩa Mục từ
1 Thiên văn môn Môn loại về thiên văn 185
2 Địa lí Môn loại về địa lí 275
3 Nhân luân môn Môn loại về nhân luân 261
4 Thân thể môn Môn loại về thân thể 331
5 Thân thể cử động Môn loại về cử động 158
52
môn thân thể
6 Cung thất môn Môn loại về nhà cửa 216
7 Hôn nhân môn Môn loại về hôn nhân 8
8 Canh nông môn Môn loại về cày, cấy 24
9 Tàm tang môn Môn loại về dâu, tằm 15
10 Thục túc môn Môn loại về lúa gạo 90
11 Ẩm thực môn Môn loại về ăn uống 268
12 Bính nhị môn Môn loại về bánh trái 47
13 Nữ trang môn Môn loại về nữ trang 45
14 Chức nhậm môn Môn loại về dệt 64
15 Thái sắc môn Môn loại về màu sắc 20
16 Y quan môn Môn loại về mũ, áo 37
17 Cẩm tú môn Môn loại về gấm lụa 55
18 Y phục môn Môn loại về quần áo 119
Môn loại về công dụng
19 Hoả dụng môn 27
của lửa
20 Khí dụng môn Môn loại về đồ dùng 296
21 Tản võng môn Môn loại về Đan lát 25
22 Chu thuyền môn Môn loại về thuyền bè 45
23 Chú dã công Môn loại về gang đúc 81
24 Pháp khí môn Môn loại về pháp khí 35
25 Công khí môn Môn loại về công khí 26
26 Tác dụng môn Môn loại về tác dụng 141
27 Văn sự môn Môn loại về văn sự 66
28 Binh khí môn Môn loại về binh khí 75
29 Trân bảo môn Môn loại về của quí 154
30 Chúng hương môn Môn loại về mùi vị 32
31 Tạp kĩ môn Môn loại về tạp kĩ 47
32 Nhân phẩm môn Môn loại về nhân phẩm 178
33 Thù ứng môn Môn loại về đối đáp 74
34 Tật bệnh môn Môn loại về bệnh tật 28
35 Tang tế môn Môn loại về tang tế 45
36 Tang lễ môn Môn loại về tang lễ 15
37 Tục ngữ môn Môn loại về tục ngữ 48
53
38 Bách hoa môn Môn loại về hoa 113
39 Bách quả môn Môn loại về quả 151
40 Sơ thái môn Môn loại về rau cỏ 111
41 Bách thảo môn Môn loại về các loài cỏ 172
42 Bách mộc môn Môn loại về gỗ, cây 94
Môn loại về côn trùng
43 Vũ trùng môn 106
có cánh
Môn loại về côn trùng
44 Mao trùng môn 126
có lông
Môn loại về côn trùng
45 Lân trùng môn 105
có vảy
Môn loại về côn trùng
46 Giáp trùng môn 63
vỏ cứng
47 Trùng trãi môn Môn loại về thú dữ 81
48 Thuỷ bộ Môn loại về nước 41
49 Thổ bộ Môn loại về đất 25
50 Kim bộ Môn loại về kim loại 22
TỔNG 4.790
Qua cấu trúc bảng từ, cấu trúc môn loại và các ví dụ trên có thể nói: Mỗi
môn loại trong bộ sách này là một bài học. Bài học nhiều mục từ nhất có 331
mục là bài học về thân thể (Thân thể môn), bài học ít mục từ nhất có 22 mục là
bài học về kim loại (Kim bộ), đa phần các bài học có trên dưới 50 mục từ và trên
dưới 100 mục từ, bình quân mỗi bài có 95 mục từ. Điều này cho thấy tính sư
phạm của bộ sách trong việc dạy chữ Hán nếu nhìn từ góc độ sách học chữ Hán.
Bảng từ của Đại Nam cũng được xây dựng theo cấu trúc bao hàm, cấu
trúc mẹ con, trong đó bảng từ gồm các môn loại. Các môn loại lại bao gồm các
mục từ thành phần.
Cấu trúc bảng từ ở bộ tự điển này gồm có 50 môn loại, cấu trúc mục từ
gồm 4.790 mục từ.
Ví dụ các mục từ trong môn loại Địa lí như một bài học về địa lí:
54
Nói đến SƠN là đề cập đến muôn hình muôn trạng của núi theo cách
nói của người xưa như: ĐỈNH đỉnh núi; PHONG trái núi
nhọn đầu; NHAM trái núi thia lia; ĐẶNG bậc đá
lên núi; KHÊ đường trên núi; SA cát to; CƯƠNG trái
đồi;...; các kết hợp của núi với các chữ khác để biểu hiện các nét và sắc thái
của núi tương ứng với sự đa dạng vốn có của núi cũng như những gì đang tồn
tại trên núi như: XUÂN SƠN; THU SƠN; DU SƠN;...;
THẠCH KHỐI; BÀN THẠCH; SƠN TÍCH sống núi,
TÙNG LÂM rừng cấm; LỤC NGẠN; BÌNH NGUYÊN; QUẢNG
DÃ; TRƯỜNG THÀNH thành dài;... rồi đến cả những đơn vị hành
chính được xây dựng theo lãnh thổ như: XÃ, ẤP, PHƯỜNG,
THÔN; các tiết lễ theo vùng miền; các sản vật trên đất; các dòng sông, nguồn
suối...
Trên đây là sự giới thiệu về cơ cấu môn loại và mục từ của bốn bộ tự
điển, từ điển Hán Nôm thế kỉ XIX. Trong đó, các môn loại tạo nên cấu trúc
bảng từ (cấu trúc vĩ mô) bao hàm trong nó các mục từ (cấu trúc vi mô). Mối
quan hệ chung giữa môn loại và mục từ của chúng sẽ được đề cập trong phần
dưới đây của luận án.
2.4. Bảng từ và tính chất của bảng từ
Qua sự trình bày mang tính mô tả về bảng từ của bốn bộ tự điển, từ điển
Hán Nôm Việt Nam thế kỉ XIX cho phép nhận xét để nêu ra một số đặc điểm
cơ bản về bảng từ và đồng thời cũng là những đặc điểm về phương diện cấu
trúc vĩ mô của chúng như: qui mô và kích cỡ của bảng từ; tính môn loại, tính
tầng bậc, tính biểu ý, mối quan hệ giữa bảng từ với mục từ để làm nổi bật một
số đặc trưng của bảng từ cũng như là của 4 tự điển, từ điển đó nói chung.
2.4.1. Qui mô cấu trúc bảng từ, tính phân tích và tổng hợp của bảng từ
55
Nếu xếp theo dung lượng môn loại trong từng bộ thì ta có trật tự sau về
qui mô của cấu trúc bảng từ:
1. Đại Nam quốc ngữ: có 50 môn loại, 4.790 mục từ.
2. Nam phương danh vật bị khảo: có 33 môn loại, 4.795 mục
từ.
3. Nhật dụng thường đàm: có 32 môn loại, 2.479 mục từ.
4. Tự Đức Thánh chế Tự học giải nghĩa ca: có 7 môn
loại, 9.030 mục từ.
Điều này cần phải được nhìn từ kết cấu cũng như mục đích soạn sách.
Kết cấu của sách được tổ chức theo cấu trúc bảng từ, một thuộc tính mang tính
chất tiêu biểu của tự thư, từ thư trong ngữ văn chữ Hán truyền thống. Mục đích
của sách nhằm cho việc học chữ Hán, cập nhật và phổ biến kiến thức qua chữ
Hán. Do vậy, xét về số lượng môn loại và mục từ từ góc nhìn của từ thư, từ
điển, tự điển ta có thể rút ra nhận xét sau đây: Nhật dụng, Nam phương, Đại
Nam là 3 bộ tự điển, từ điển cỡ nhỏ, có đơn vị số lượng tương ứng với vốn tự
tối thiểu và tối thuận trong văn tự học chữ Hán.
Còn Tự Đức lại là bộ tự điển tầm trung, có số lượng mục tự tương đương
với Thuyết văn của Trung Hoa.
Xét về số lượng môn loại và mục từ từ góc nhìn của sách dạy chữ Hán
cho phép chúng ta nêu ra một số nhận xét sau đây về tính phân tích và tính
tổng hợp của bảng từ. Do môn loại là sự tập hợ...ng thế kỉ XIX. Đó cũng là nét Việt Nam của loại hình loại thư Việt
Nam nói chung.
139
4.3.2. Cập nhật tri thức ngoài kinh điển Nho học
Tính chất phi kinh điển - phi khoa cử của mục từ Hán trong từ điển Hán
Nôm là tính chất mà như Nguyễn Văn San nói là “không phục vụ cho lối học
kinh tế”. Lối học “Kinh tế” là lối học ra làm quan (kinh thế tế dân) theo tinh
thần Nho học mà trong khuôn khổ, điều kiện của Việt Nam thế kỉ XIX là lối
học khoa cử. Tính chất này được thể hiện qua 27/32 môn loại của Nhật dụng
(trừ 5 môn loại Nho giáo, Đạo giáo, Thích giáo, Văn nghệ, Binh khí), 6/7 môn
loại của Tự Đức (trừ Chính hóa loại), 31/33 môn loại của Nam phương (trừ Lễ
nhạc môn và Binh hình môn) và 48/50 môn loại của Đại Nam (trừ Văn sự môn
và Binh khí môn). Như vậy, các mục từ Hán đã chuyển tải các nội dung của
mọi mặt đời sống sinh động, từ trời đất thiên nhiên, con người, bệnh tật và các
hoạt động sống, đồ vật, đến cây cỏ, chim cá... Đây chính là những tri thức nằm
ngoài khoa cử từ chương và kinh điển Nho học. Vì thế có thể nói đây là đặc
trưng tiêu biểu của mục từ trong các tự điển, từ điển Hán Nôm thế kỉ XIX.
Ngoài những dẫn dụ về sự định hướng biên soạn cái học “phi kinh điển”,
cái học “phi kinh tế”, cái học “phi khoa cử” trong trường hợp của Đại Nam đã
trình bày trong mục 3.2.4 có thể vận dụng và tham khảo trong nội dung phần
này; dưới đây chúng tôi xin dẫn một số môn loại trong Nhật dụng như là một
đại biểu của loại hình loại thư cung cấp và cập nhật tri thức nhật dụng ngoài
kinh điển:
Môn loại Quả thực gồm 61 loại quả, như: AM LA là quả dâu;
LĂNG là quả ấu; LẠI QUA là dưa chuột; KHIẾM là
súng; KHỔ QUA là mướp đắng; MỘC MIẾT là quả
táo; ... NGŨ LIÊM là quả khế; PHIÊN THÙY là quả ổi;
ĐẬU GIÁP là đậu ván; TÂY QUA là dưa hấu;
THẢI QUA là quả mướp; VƯƠNG QUA là quả dưa gang;
GIA là quả cà; PHẤN QUA là bí đao;...
140
Môn loại Hỏa dụng gồm 24 mục từ ghi chép về lửa và công dụng của lửa:
HỎA NHUNG là bùi nhùi; ĐĂNG LUNG là lồng đèn;
TRIỆP ĐĂNG là đèn xếp; BÁC HỎA THẠCH là
đánh đá lửa; PHÁT PHONG LÔ là quạt hoả lò; ỦNG
MINH là chuyên trà; TIÊN DƯỢC là sắc thuốc;
THIÊU THANG là nấu nước nóng; BÀO TRÀ là om trà;
Môn loại Phục dụng gồm 64 mục từ ghi về trang phục nói chung và Nữ
trang môn lại chi tiết về trang phục và đồ đoàn của phụ nữ với 48 mục từ, như
là: SƠ là cái lược thưa; BỀ là cái lược bí;
LƯỢC PHÁT TỬ là cái chẽ tóc; NHƯỠNG HOA LỘ là nước
hoa; OẠT NHĨ là cái môi lấy ráy tai; ... PHẤN
HẠP là cái bạng phấn; KHẨU CHI là sáp thơm;
KHẨU CHI HẠP là cái bạng sáp; KÍNH HẠP là cái
gương có khung gỗ; MẠCH HOA KÍNH là cái gương đồng...
UẤT ĐẤU là cái bàn là; HUÂN LUNG là cái
lồng xông áo; TÚ HÀI là cái giày thêu; TÚ LÍ là cái
dép thêu; NÊ NHUNG LÍ là dép da lợn; TIỄN
NHUNG LÍ là dép thung thúc; LỘC BÌ LÍ là cái dép
buộc da hươu; THỦY MÃ TỬ là cái chậu đàn bà tiểu
tiện.
Những tri thức ngoài kinh điển này là những tri thức không có trong cái
học khoa cử. Đó là những tri thức phục vụ cho sự hiểu biết. Chúng đã được
cập nhật trong các bộ sách dạy và học chữ Hán. Qua chúng, ta nhận thấy rằng
nhận thức của các soạn giả đã chuyển biến. Họ nhận ra sự bất cập của cái học
khoa cử, cái học mà lúc này phần nhiều mang tính giáo điều, không giúp gì
nhiều cho sự mở mang tri thức, mà tri thức lúc này đang rất cần kíp cho sự
141
nhận thức và kinh bang trong hoàn cảnh xã hội mới của các nhà Nho Việt Nam
lúc bấy giờ.
Tiểu kết chương 4:
Trong chương này, luận án đã trình bày về những định hướng biên soạn
nhằm bổ sung và cập nhật tri thức qua chữ Hán của các TĐHN.TkXIX trên cơ
sở xem xét chúng trong môi trường song ngữ Hán - Việt lúc đó.
Môi trường song ngữ Hán Việt mà các bộ tự điển, từ điển Hán Nôm này
ra đời chính là bối cảnh xã hội - ngôn ngữ mà ở đó, chữ Hán, Hán văn có ngôi
vị thượng đẳng, là chữ chở đạo thánh hiền.
Việc học chữ Hán từ cách nhìn chính thống trong bối cảnh đó đồng nghĩa
với cái học khoa cử. Song cái học chữ Hán đâu chỉ là khoa cử. Chữ Hán, Hán
văn còn là kênh chủ yếu cho sự cập nhật và mở mang những kiến thức có tính
thời đại, quốc gia, thường nhật. Học chữ Hán đâu chỉ dành cho sĩ tử đào luyện
để làm quan. Vả lại, cả một xã hội ai cũng muốn làm cha mẹ của dân thì lấy
đâu ra dân để họ làm cha mẹ.
Khắc phục tình trạng ấy của việc học chữ Hán là một trong những nguyên
nhân chủ yếu cho sự ra đời của hàng loạt các bộ sách học chữ Hán mà cấu tạo
của chúng ở dạng bảng từ, bố trí theo môn loại, thích nghĩa bằng Nôm, bổ cứu
cho cái học chữ Hán chính thống đương thời mà Nhật dụng thường đàm; Tự
Đức Thánh chế Tự học giải nghĩa ca; Nam phương danh vật bị khảo; Đại Nam
quốc ngữ là những bộ tiêu biểu nhất.
Mỗi người một vẻ, mỗi bộ sách ấy đã được biên soạn theo hướng riêng
của mình để góp sức cho một sự nghiệp chung làm phong phú đời sống Hán
học và đời sống Hán Nôm của thế kỉ XIX trong nhiệm vụ là công cụ và
phương tiện cho sự truyền tải và cập nhật kiến thức, mở rộng phạm vi những
người biết chữ Hán, chữ Nôm.
142
Bốn bộ TĐHN.TkXIX ra đời trong môi trường song ngữ Hán Việt của thế
kỉ này, mỗi bộ có những định hướng biên soạn của mình. Nhật dụng thường
đàm biên soạn theo định hướng nhật dụng hóa tri thức Hán học; Tự Đức Thánh
chế Tự học giải nghĩa ca biên soạn theo định hướng “chính hóa” mang tính
nhà nước; Nam phương danh vật bị khảo biên soạn theo định hướng cái học
“đa thức” và “cách trí”; Đại Nam quốc ngữ biên soạn theo định hướng cái học
phi khoa cử “tường tận được tên của muôn vật”, chuyển tải tri thức mang tính
phi khoa cử.
KẾT LUẬN
Luận án với đề tài Nghiên cứu các tự điển, từ điển Hán Nôm thế kỉ XIX
nhằm nghiên cứu bốn bộ tự điển, từ điển song ngữ Hán Nôm được biên soạn,
trùng san vào thế kỉ XIX từ góc nhìn từ điển học nói chung, tự điển, từ điển
chữ Hán và Hán Nôm nói riêng và từ góc nhìn xem chúng như là những sách
dạy, sách học chữ Hán.
Các nhiệm vụ đó được cụ thể hóa qua việc triển khai các vấn đề như sau:
Chương 1: Nghiên cứu những vấn đề tổng quan về tình hình nghiên cứu có liên
quan đến đề tài và xác lập những vấn đề lí thuyết về từ điển học, từ thư học
cho hướng triển khai vấn đề của luận án. Chương 2: Giới thiệu về danh mục
các bộ tự điển, từ điển, cấu trúc bảng từ của chúng. Chương 3: Nghiên cứu
mục từ và cấu trúc tổng quát của mục từ trong tự điển, từ điển. Chương 4:
Nghiên cứu những định hướng biên soạn, mục đích và nội dung kiến thức mà
các bộ sách này cung cấp với tư cách là các sách dạy chữ Hán.
Qua quá trình nghiên cứu, cho phép rút ra những kết luận như sau:
143
1. Thế kỉ XIX là thế kỉ có nhiều bộ sách dạy, sách học chữ Hán được biên
soạn theo môn loại có chú quốc âm, có tính chất tự điển, từ điển song ngữ
Hán Nôm.
1.1. Các bộ tự điển, từ điển được chọn nghiên cứu đều được lưu trữ tại
Viện Nghiên cứu Hán Nôm, lần lượt có kí hiệu là: Nhật dụng
thường đàm, kí hiệu AB.511; Tự Đức Thánh chế Tự học
giải nghĩa ca, kí hiệu VHv.626; Nam phương danh vật bị khảo, kí
hiệu A.155; Đại Nam quốc ngữ có kí hiệu AB.106. Đây là những định
bản có độ qui phạm về mặt văn bản học (có bộ được kiểm đính bởi Tu thư cục
Quốc sử quán) và chúng đều được in nhiều lần (có bộ được in ấn và lưu hành
liên tục suốt gần một thế kỉ).
1.2. Trong bối cảnh xã hội - ngôn ngữ Việt Nam thế kỉ XIX, Hán văn, văn
ngôn chữ Hán là quốc văn; chữ Hán là chữ thánh hiền, chữ chở luân thường đạo
lí; Khổng học là quốc học. Chữ Hán, Hán văn là kênh chủ yếu cho mọi sự
chuyển tải và cập nhật tri thức từ cộng đồng hẹp như gia đình dòng tộc, họ mạc,
xóm thôn đến tầm rộng cả quốc gia xã hội. Tăng số người biết chữ Hán như là
một nhu cầu tự nhiên. Phổ cập kiến thức là yêu cầu cấp bách cho dù những kiến
thức cần được phổ cập ấy đương nhiên bị giới hạn bởi nền học vấn đương thời,
mang đặc trưng trung đại, nền học vấn được gọi là "cái học tam tài", "cái học
cách trí". Đó là những yêu cầu xã hội cho sự ra đời của những bộ sách dạy chữ
Hán được sắp xếp và tổ chức theo dạng tự điển, từ điển song ngữ Hán Nôm mà
Nhật dụng thường đàm; Tự Đức Thánh chế Tự học giải nghĩa ca; Nam phương
danh vật bị khảo; Đại Nam quốc ngữ là những bộ tiêu biểu nhất.
2. Nghiên cứu bốn bộ sách trên theo hướng tự điển và từ điển học là hướng
tiếp cận của luận án này. Theo hướng tiếp cận đó, trọng tâm của vấn đề là xác
lập cấu trúc bảng từ (cấu trúc vĩ mô) và cấu trúc mục từ (cấu trúc vi mô) của các
bộ tự điển, từ điển này để từ đó rút ra những đặc trưng chủ yếu của chúng về qui
mô, cách thức tổ chức bảng từ, tính chất môn loại và tính chất biểu ý của chúng
144
trên phương diện tổ chức trong mối liên hệ với chức năng dạy và học chữ Hán
ứng với các định hướng biên soạn nhằm nhật dụng chữ Hán và tri thức qua chữ
Hán, mở mang và phổ cập chữ Hán, bổ cứu những hạn chế của việc học chữ
Hán đang chi phối học thuật đương thời là học chữ Hán vì khoa cử.
3. Cấu trúc vĩ mô hay cấu trúc bảng từ của bốn bộ tự điển được tổ chức
theo môn loại, mỗi môn loại lại bao gồm các mục từ. Tổng hợp của các mục từ
tạo nên bảng từ của từng bộ tự điển, từ điển. Cấu trúc bảng từ của chúng thể
hiện theo bảng sau:
STT Tên sách Môn loại Mục từ
5 Nhật dụng thường đàm 32 2.479
Tự Đức Thánh chế Tự
6 7 9.030
học giải nghĩa ca
7 Nam phương danh vật bị khảo 33 4.767
8 Đại Nam quốc ngữ 50 4.790
Cấu trúc bảng từ hay cấu trúc vĩ mô của bốn bộ tự điển, từ điển song ngữ
Hán Nôm thế kỉ thứ XIX cho phép qui chúng về cơ bản thuộc loại tầm trung,
tương ứng với vốn tự, vốn từ chữ Hán tối thiểu (Nhật dụng thường đàm),
tương ứng với vốn từ chữ Hán tối thiểu và tối thuận (Nam phương danh vật bị
khảo; Đại Nam quốc ngữ; Tự Đức thánh chế tự học giải nghĩa ca).
Cấu trúc bảng từ được sắp xếp và tổ chức theo môn loại mà mỗi môn loại
lại ứng với một phạm trù kiến thức của học thuật lúc bấy giờ. Về phương diện
tổ chức, kết cấu bảng từ theo môn loại cho phép xếp chúng vào phạm trù tự
điển, từ điển biểu ý. Hơn nữa, cấu trúc bảng từ của cả bốn bộ tự điển, từ điển
này lại còn được tổ chức theo cấu trúc bao hàm, cấu trúc mẹ con. Các môn loại
tạo nên cấu trúc bảng từ, bảng từ lại bao hàm trong nó các mục từ, cho nên tính
chất môn loại và tính chất biểu ý là đặc điểm nổi trội nhất về phương diện tổ
chức bảng từ.
145
Tổ chức bảng từ theo môn loại đã làm cho các bộ sách này có khả năng
phản ánh các vấn đề của học thuật lúc bấy giờ. Học thuật lúc bấy giờ thuộc
phạm trù học thuật thời trung đại, tính phân ngành hầu như chưa có. Cái học
trung đại có tính truyền thống đó được gọi bằng các tên như "cái học tam tài",
"cái học cách trí". Riêng về phương diện Nho học thì mọi chú giải phục vụ cho
khoa cử từ chương hay định hướng giáo hóa của triều đình thì được gọi là
"chính học". Các bộ tự điển này đã phản ánh những vấn đề của học thuật
đương thời cho dù mức độ thể hiện của chúng có sự khác nhau.
4. Mục từ là đơn vị hạt nhân của các tự điển, từ điển Hán Nôm thế kỉ
XIX, chúng tạo nên từng môn loại và cấu trúc bảng từ. Cấu trúc mục từ của
các tự điển, từ điển này là một chỉnh thể bao gồm 2 bộ phận chính: “Phần được
giải thích” và “Phần giải thích”. Giữa 2 phần này đôi khi có phần nối, thường
dùng hệ từ “là” được ghi bằng chữ Nôm.
“Phần được giải thích” trong cấu trúc mục từ là phần chữ Hán, về mặt
trình bày được in cỡ chữ to. Đây chính là những chữ, từ cần dạy, cần học, hay
là phần “danh”.
“Phần giải thích” là phần giải nghĩa cho “phần được giải thích”, hay nói
cách khác đó là phần nghĩa của “danh”. Phần này có thể là Việt ngữ ghi bằng
chữ Nôm, có khi là Hán văn.
“Phần nối” thường được ghi bằng chữ Nôm “ là", có khi không có.
5. Bảng từ - môn loại - mục từ hình thành nên quan hệ tam thể, bao hàm,
có tính tầng bậc. Môn loại là sự tập hợp, khái quát kiến thức theo từng lĩnh vực
nhất định. Mục từ là sự cụ thể hóa kiến thức theo từng danh vật cụ thể. Mỗi
môn loại được xem như một bài học. Nếu số mục từ trong một bài học mà lớn
thì sẽ khó học, khó nhớ và khó đáp ứng được tính sư phạm trong việc bố trí bài
học. Ngược lại, mục từ trong một bài học ít thì bài học càng đơn giản và giá trị
sư phạm, dạy chữ càng tăng. Theo tinh thần đó, thứ tự sư phạm học chữ Hán
146
của bốn bộ tự điển, từ điển được nghiên cứu sẽ được sắp xếp theo trật tự sau:
1. Nhật dụng thường đàm; 2. Nam phương danh vật bị khảo; 3. Đại Nam quốc
ngữ; 4. Tự Đức Thánh chế Tự học giải nghĩa ca.
6. Đơn vị được mang ra giải thích trong mục từ của các tự điển, từ điển
Hán Nôm thế kỉ XIX hoặc là "tự" hoặc lớn hơn tự ( từ, ngữ, cú). Qua việc xác
định đơn vị mục từ, cho phép xếp các bộ tự điển và từ điển song ngữ Hán Nôm
theo loại hình từ điển sau : tự điển, tự thư, từ thư. Theo đó, Tự Đức, là bộ sách
thuộc phạm trù tự điển, tự thư; Nam phương là bộ sách vừa có thể xếp vào
phạm trù tự điển, tự thư cũng như từ thư; Đại Nam là bộ sách cần được xếp
vào phạm trù từ thư; Nhật dụng là bộ sách cần được xếp vào phạm trù từ thư.
7. Việc nghiên cứu tổ chức của đơn vị mục từ còn cho phép xác định tính
phân tích và tính tổng hợp của đơn vị mục từ, qua đó liên tưởng đến mức độ
tổng hợp kiến thức của từng bộ sách qua đơn vị mục từ. Việc lựa chọn đơn vị
mục từ mang trong mình tính tổ chức đơn và tổ chức phức (danh) có liên quan
đến tính phân tích và tổng hợp của mục từ về phương diện diễn đạt (nghĩa).
Các đơn vị mục từ gồm từ 2 chữ trở lên thường biểu thị một khái niệm hoàn
chỉnh, đồng nghĩa với tính tổng hợp cao hơn trong việc truyền tải kiến thức.
Như thế, ta có trật tự sau về mức độ tổng hợp tính: Đại Nam; Nhật dụng; Nam
phương; Tự Đức. Trật tự về mức độ phân tích tính lại theo trật tự ngược lại.
8. Các bộ tự điển, từ điển Hán Nôm thế kỉ XIX không chỉ là những bộ tự
điển, từ điển song ngữ mà chúng có vai trò kép, chúng còn là những bộ loại
thư song ngữ chuyên chở và cập nhật những tri thức của khu vực, của đất nước
bằng chữ Hán theo định hướng chủ đề, chủ điểm.
8.1. Nhật dụng thường đàm được biên soạn theo định hướng “nhật dụng
hóa” tri thức Hán học. Bộ sách sưu tập những đơn vị mục từ chữ Hán có tính
"nhật dụng”. Bộ sách đã nhật dụng hóa tri thức Hán học vốn cao xa thành tri
thức nhật dụng. Hơn nữa ở đây lại đưa nhiều tri thức Việt Nam. Do vậy, bộ
147
sách này không chỉ "nhật dụng hóa" kiến thức qua Hán học mà còn là một thử
nghiệm "Việt Nam hóa" những tri thức cần thiết qua chữ Hán.
8.2. Tự Đức Thánh chế tự học giải nghĩa ca được biên soạn theo định
hướng “chính hóa” Nho học của nhà nước: “Chính hóa” là một trong những nội
dung thể hiện định hướng Nho học chính thống của triều Nguyễn được tác giả
thể hiện trong bộ sách này mà cụ thể và cô đọng nhất là môn loại Chính hóa. Bộ
sách đề cập đến các vấn đề chính trị, giáo hóa, tổ chức nhà nước, tôn sùng chính
học. Đó là sự cụ thể hóa cái định hướng Nho học nhà nước ra xã hội.
8.3. Nam phương danh vật bị khảo được biên soạn theo định hướng phổ
biến cái học “đa thức” và cái học “cách trí”: Nội dung bài tựa và các môn loại,
mục từ mà bộ sách chuyển tải thể hiện khát vọng biết đến ngọn nguồn sự vật
mà cái học từ chương không đề cập. Những sách ấy (chỉ các sách vở của người
Bắc) nhan nhản những chỗ chê bai, bài xích lẫn nhau. Cái khuyết thiếu của
sách vở đời xưa chủ yếu thuộc phạm trù những cái mà đương thời mới có, hay
sản vật nước ta có mà Hán văn không ghi được tác giả Nam phương danh vật
bị khảo nhận ra và dành tâm huyết để bù lấp cho những khoảng trống đó.
8.4. Đại Nam quốc ngữ được biên soạn theo định hướng phổ biến cái học
phi khoa cử. Chữ Hán không chỉ để cho khoa cử mà còn cho sự mở mang các
tri thức ngoài khoa cử như các tri thức liên quan đến động thực vật. Nguyễn
Văn San nhận thức: “Việc làm sách này không phải là việc lập ngôn theo chính
giáo, mà để khảo cứu và dạy cho con em”. Vì vậy, định hướng của người soạn
sách này là lấy mục đích khảo cứu danh vật, thoát li khoa cử làm tôn chỉ.
9. Sự đóng góp của tự điển, từ điển Hán Nôm thế kỉ XIX cho truyền
thống Ngữ văn Việt Nam thực là đáng trân trọng.
Sự xuất hiện của các bộ sách dạy, học chữ Hán thế kỉ XIX đã thể hiện sự
cố gắng của bậc thức giả Việt Nam trong việc sử dụng chữ Hán, chữ Nôm cho
sự nhật dụng, cập nhật, mở mang tri thức. Chúng là công cụ, phương tiện cho sự
148
mở mang văn hoá, khắc phục những hạn chế hiểu biết của cái học từ chương.
Chúng là những loại thư song ngữ Hán Nôm làm phong phú cho Hán học đương
thời và cho truyền thống biên soạn tự điển, từ điển, từ thư Việt Nam.
Các nhà ngữ văn truyền thống đã cố gắng thông qua việc biên soạn
các bộ sách có tính từ điển nhằm góp phần mở mang nhận thức qua chữ Hán,
chữ Nôm trên nền cái học “đa thức”, “cách trí”. Điều đó cho phép nói rằng
trong cấu trúc văn hoá Việt Nam truyền thống nói chung, thế kỉ XIX nói riêng,
tiếng mẹ đẻ luôn là nhân tố chủ yếu cho sự nhận thức, mở rộng mức độ phổ
biến của kiến thức.
10. Kiến nghị về những hướng nghiên cứu tiếp theo:
Các bộ tự điển, từ điển Hán Nôm thế kỉ XIX đã được luận án này nghiên
cứu dưới góc nhìn tự điển, từ điển, từ thư học và góc nhìn biên soạn sách học,
sách dạy chữ Hán qua chữ Nôm. Qua đó gợi mở những hướng nghiên cứu tiếp
theo trên cơ sở những gì đã được vạch ra trên cơ sở của luận án này. Đó là:
Nghiên cứu truyền thống ngữ văn học Việt Nam về phương diện biên
soạn tự điển, từ điển chữ Hán, chữ Nôm và song ngữ Hán Nôm.
Nghiên cứu truyền thống biên soạn sách giáo khoa dạy chữ Hán ở Việt
Nam thời phong kiến.
Nghiên cứu về song ngữ Hán Việt, Việt Hán; sự vươn lên của nhân tố
tiếng Việt trong môi trường song ngữ Việt Hán.
Nghiên cứu sự cập nhật và mở mang văn hóa thế kỉ XIX qua nhân tố chữ
Hán, chữ Nôm trên cơ sở nguồn tư liệu Hán Nôm của giai đoạn này.
Nghiên cứu các tự điển, từ điển Hán Nôm thế kỉ XIX theo góc nhìn từ
điển, từ điển học với những khái niệm của văn tự học, tự điển, tự thư, từ thư
học là một hướng nghiên cứu mới. Từ hướng nghiên cứu này, có thể mở rộng
phạm vi với đối tượng là các tự điển, từ điển song ngữ, tự điển, từ điển
149
đơn ngữ hoặc đa ngữ ở những thế kỉ trước thế kỉ XIX và kể cả các từ điển
tiếng Việt sau thế kỉ XIX.
150
DANH MỤC CÔNG TRÌNH CỦA TÁC GIẢ
LIÊN QUAN ĐẾN LUẬN ÁN
1. Hà Đăng Việt (2008), “Tự Đức thánh chế tự học giải nghĩa ca và vấn đề
chuẩn hoá chữ Nôm thời Nguyễn”, Nghiên cứu về chữ Nôm, Nxb
KHXH, Hà Nội, tr 49-59.
2. Hà Đăng Việt (2012), “Loại thư song ngữ Hán - Nôm: sự bù đắp tri thức
cho Hán học Việt Nam thế kỉ XIX”, Tạp chí Khoa học, số 6, ĐHSP Hà
Nội, tr 115-126.
3. Hà Đăng Việt (2012), Nghiên cứu chữ Nôm trong các từ điển Hán Nôm
thế kỉ XIX - Đề tài KHCN cấp Trường mã số SPHN - 11 - 31.
4. Phạm Văn Khoái - Hà Đăng Việt (2013), “Tự Đức Thánh chế Tự học giải
nghĩa ca - từ điển song ngữ Hán Nôm có tính bách khoa thư”, Tạp chí
Hán Nôm, số 1, tr 17-28.
5. Hà Đăng Việt (2013) “Chữ Hán ở Việt Nam” (giới thiệu, dịch), Hán
Nôm học trong nhà trường - Một số vấn đề nghiên cứu và trao đổi, Nxb
ĐHSP, Hà Nội, tr 167-184 .
151
TÀI LIỆU THAM KHẢO
I. TÀI LIỆU TIẾNG VIỆT
[1]. Đào Duy Anh (1975), Chữ Nôm - nguồn gốc, cấu tạo diễn biến, Nxb
KHXH, Hà Nội.
[2]. Phan Văn Các (chủ biên), Giáo trình Hán Nôm, Nxb Giáo dục, 1985.
[3]. Nguyễn Tài Cẩn (1985), Một số vấn đề về chữ Nôm, Nxb ĐH&THCN,
Hà Nội.
[4]. Nguyễn Tài Cẩn (2001), Một số chứng tích về ngôn ngữ, văn tự và văn
hoá, Nxb Đại học Quốc gia, Hà Nội.
[5]. Nguyễn Tài Cẩn (1998), Ảnh hưởng của Hán văn Lí - Trần qua thơ và
ngôn ngữ thơ Nguyễn Trung Ngạn, Nxb Giáo dục, Hà Nội.
[6]. Hoàng Thị Châu (2001), Tiếng Việt trên các miền đất nước, Nxb ĐHSP,
Hà Nội.
[7]. Thiều Chửu (1999), Hán Việt tự điển, Nxb Văn hoá Thông tin, Hà Nội.
[8]. Lê Văn Cường (2012), “Nhật dụng thường đàm, cuốn từ điển bách khoa
song ngữ Hán Nôm thế kỉ XIX”, Tạp chí Hán Nôm, (số 3).
[9]. Doãn Chính (2012), Lịch sử triết học phương Đông, Nxb Chính trị Quốc
gia - Sự thật, Hà Nội.
[10]. Trần Trí Dõi, Vấn đề chữ viết nhìn từ góc độ lịch sử tiếng Việt,
ngonngu.net/index.php?p=
[11]. ĐHQG Hà Nội - Trường ĐH KHXH&NV (1997), Tân thư và xã hội Việt
Nam cuối thế kỉ XIX đầu thế kỉ XX, Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội.
[12]. Phan Đăng [chủ biên] (1996), Thơ văn Tự Đức, (tập 3 - Tự Đức Thánh
chế Tự học giải nghĩa ca), Nxb Thuận Hoá, Huế.
[13]. Phan Đăng (1998), “Tự Đức Thánh chế Tự học giải nghĩa ca”- một bộ
sách quí trong các tác phẩm của vua Tự Đức” - Kỉ yếu Hội thảo khoa
học Miền Trung - những vấn đề về ngôn ngữ học và văn học, Huế.
152
[14]. Trần Văn Giáp (1970), Tìm hiểu kho sách Hán Nôm, tập 1, Thư viện
Quốc gia xuất bản, Hà Nội.
[15]. Trần Văn Giáp (1990), Tìm hiểu kho sách Hán Nôm, tập 2, Nxb KHXH,
Hà Nội.
[16]. Nguyễn Thiện Giáp [chủ biên] Đoàn Thiện Thuật, Nguyễn Minh Thuyết
(1996), Dẫn luận ngôn ngữ học, Nxb Giáo dục, Hà Nội.
[17]. Nguyễn Thiện Giáp (2008), Giáo trình ngôn ngữ học, tr239-2510, Nxb
Đại học Quốc gia Hà Nội, Hà Nội.
[18]. Nguyễn Thiện Giáp (2005), Lược sử Việt ngữ học, tập một, Nxb Giáo
dục, Hà Nội.
[19]. Vũ Quang Hào (1999), Từ điển về từ điển, Nxb Văn hóa, Hà Nội.
[20]. Vũ Quang Hào (2005), Kiểm kê từ điển học Việt Nam, Nxb ĐHQG
Hà Nội, Hà Nội.
[21]. Phạm Văn Hảo, (2011) “Tính hệ thống trong cấu trúc vĩ mô của từ điển”,
Từ điển học & Bách khoa thư, (số 2), tr45-52.
[22]. Lã Minh Hằng (2013), Khảo cứu từ điển song ngữ Hán - Việt Đại Nam
quốc ngữ, Nxb ĐHQG, Hà Nội.
[23]. Trịnh Thị Thu Hiền (2011), “Một số vấn đề về cấu trúc vĩ mô của từ điển
thuật ngữ Công nghệ thông tin Việt Nam”, Từ điển học & Bách khoa
thư (số 3), tr39-47.
[24]. Nguyễn Thừa Hỷ (2000), Lịch sử văn hoá Việt Nam truyền thống giản
yếu, in lần thứ 2, Nxb. Đại học Quốc gia, Hà Nội.
[25]. Cao Xuân Huy (1995), Tư tưởng phương Đông gợi những điểm nhìn tham
chiếu, Nxb Văn học, Hà Nội.
[26]. Nguyễn Quang Hồng (2008), Khái luận văn tự học chữ Nôm, Nxb
KHXH, Hà Nội.
[27]. Nguyễn Văn Khang (1991), “Bình diện văn hoá xã hội ngôn ngữ học của
các thành ngữ gốc Hán trong tiếng Việt”, Tạp chí văn hóa dân gian,
số 1.
153
[28]. Nguyễn Văn Khang (1995), “Từ Hán Việt và vấn đề dạy học Từ Hán Việt ở
trường phổ thông”// Tiếng Việt trong trường học, Nxb KHXH, Hà Nội.
[29]. Vũ Văn Kính (1999), Đại tự điển chữ Nôm, Nxb Văn nghệ TP HCM -
Trung tâm nghiên cứu Quốc học, TP. HCM .
[30]. Đoàn Khoách, “Chữ Nôm trong một tác phẩm của vua Tự Đức”, đăng
trên trang Web viethoc.org.
[31]. Phạm Văn Khoái (2001), Một số vấn đề chữ Hán thế kỉ XX, Nxb ĐHQG
Hà Nội, Hà Nội.
[32]. Phạm Văn Khoái (1996), “Vài vấn đề về sách giáo khoa dạy chữ Hán
trong kho sách Hán Nôm”, Thông báo Hán Nôm học, Nxb KHXH,
Hà Nội.
[33]. Phạm Văn Khoái (2004), “Từ Tứ thư ước giải đến Tự Đức Thánh chế
Luận ngữ thích nghĩa ca suy nghĩ về bước vận động xây dựng chính
tả chữ Nôm”, Kỉ yếu Hội nghị Quốc tế về chữ Nôm, Hà Nội.
[34]. Phạm Văn Khoái, Đời sống tự điển chữ Nôm trong những thập niên cuối
thế kỉ 19 đầu thế kỉ 20 [Bài viết thuộc Đề tài trọng điểm Quốc gia,
2006 - 0101. Hán Nôm Việt Nam những thập niên cuối thế kỉ 19 đầu
thế kỉ 20 trong bước chuyển của văn hóa Việt Nam từ truyền thống
đến hiện đại].
[35]. Phạm Văn Khoái (2010), Khoa thi Tiến sĩ cuối cùng trong lịch sử khoa cử
Việt Nam (Kỉ Mùi, Khải Định), Nxb ĐHQG Hà Nội, Hà Nội.
[36]. Phạm Văn Khoái, Hà Đăng Việt (2013), “Tự Đức Thánh chế tự học giải
nghĩa ca - từ điển song ngữ Hán Nôm có tính bách khoa thư”, Tạp chí
Hán Nôm, (số 1), tr 17-28.
[37]. Nguyễn Thị Lan (2002), Tìm hiểu loại hình sách song ngữ Hán Nôm dạy
chữ Hán, Luận văn Thạc sĩ Hán Nôm, ĐH KHXH&NV Hà Nội.
[38]. Nguyễn Thị Lâm, Chữ Nôm và tiếng Việt qua văn bản Thiên Nam ngữ
lục, Nxb KHXH, Hà Nội.2006.
154
[39]. Ngô Sĩ Liên (1998), Đại Việt sử kí toàn thư, bản dịch, tập 2, Nxb. KHXH,
Hà Nội.
[40]. Nguyễn Văn Lợi (2013), “Từ điển học và bách khoa thư học: Đôi điều
suy nghĩ về Ngành, Nghề và Nghiệp”, Từ điển học & Bách khoa thư
(số 6), tr.10 - 17.
[41]. Nguyễn Lộc (1976), Văn học Việt Nam cuối thế kỉ XVIII - hết thế kỉ XIX,
NXB ĐH&THCN, Hà Nội.
[42]. Đặng Thai Mai (1974), Văn thơ Cách mạng Việt Nam đầu thế kỉ XIX
(1900 - 1925), Nxb Văn học, Hà Nội.
[43]. Nguyễn Đăng Na (2006), Con đường giải mã văn học trung đại Việt
Nam, Nxb Giáo dục, Hà Nội.
[44]. Nhiều tác giả (2002), Tam tự kinh, Bách gia tính, Thần đồng thi, Thiên tự
văn, Thanh Thủy dịch, Nxb Thuận Hóa, Huế.
[45]. Trần Nghĩa, Prof.Francois Gros (1993), , Di sản Hán Nôm Việt Nam thư
mục đề yếu, 3 tập, Nxb KHXH, Hà Nội.
[46]. Hoàng Thị Ngọ (1999), Chữ Nôm và tiếng Việt qua bản giải âm Phật
thuyết đại báo phụ mẫu ân trọng kinh, Nxb KHXH, Hà Nội.1999.
[47]. Lê Văn Quán (1981), Nghiên cứu về chữ Nôm, Nxb KHXH, Hà Nội.
[48]. Phương Thủ Nguyễn Hữu Quì (1971), Tự Đức Thánh chế Tự học giải
nghĩa ca (phiên âm), Uỷ ban dịch thuật phủ Quốc vụ khanh đặc trách
văn hóa của chính quyền Sài Gòn cũ xuất bản, Sài Gòn.
[49]. Nguyễn Ngọc San (2001), Lí thuyết chữ Nôm văn Nôm, Nxb ĐHSP, Hà Nội.
[50]. Nguyễn Ngọc San, Đinh Văn Thiện (2001), Từ điển từ Việt cổ, Nxb Văn
hoá Thông tin, Hà Nội.
[51]. Nguyễn Ngọc San (1993), Tìm hiểu tiếng Việt lịch sử, Nxb Giáo dục, Hà Nội.
[52]. Nguyễn Kim Thản (1984), Lược sử ngôn ngữ học, tập 1, Nxb
ĐH&THCN, Hà Nội.
[53]. Nguyễn Q. Thắng (2001), Huỳnh Thúc Kháng - con người & thơ văn,
Nxb Văn học, Hà Nội.
155
[54]. Lí Toàn Thắng (2011), “Từ điển học trên đường học tập và nghiên cứu”
(Bài thứ hai: Loại hình từ điển học), Từ điển học & Bách khoa thư
(số 2), trXII - XX.
[55]. Lí Toàn Thắng (2011), “Từ điển học trên đường học tập và nghiên cứu”
(Bài thứ ba: Một số vấn đề về cấu trúc vi mô của từ điển), Từ điển
học & Bách khoa thư (số 3), tr17 - 24.
[56]. Lạc Thiện (1996), Tự điển Hán Việt thông dụng, Nxb TP. Hồ Chí Minh,
TP. Hồ Chí Minh.
[57]. Chu Bích Thu (2005), “Từ điển và từ điển học Việt Nam”, Lược sử Việt
ngữ học (Nguyễn Thiện Giáp chủ biên), Nxb.Giáo dục, Hà Nội.
[58]. Lê Anh Tuấn (1986), “Tìm hiểu chữ Nôm có dấu phụ trong hệ thống cấu
tạo chữ Nôm”, Nghiên cứu Hán Nôm, (số 1).
[59]. Lê Anh Tuấn (2008), “Bước đầu tìm hiểu những vấn đề về chữ nôm thế
kỷ XX”, Thông báo Hán Nôm học.
[60]. Nguyễn Văn Tu (1976), Từ và vốn từ tiếng Việt hiện đại, Nxb
ĐH&THCN, Hà Nội.
[61]. Nguyễn Kim Thản, Nguyễn Trọng Báu, Nguyễn Văn Tu (2002), Tiếng
Việt trên đường phát triển (tái bản lần 2), Nxb KHXH, Hà Nội.
[62]. Ngô Đức Thọ (chủ biên), Nguyễn Thuý Nga, Vũ Lan Anh, Nguyễn Đức
Toàn (2002) Thư mục sách Hán Nôm ở Thư viện Quốc gia, Bộ Văn
hoá thông tin - Thư viện Quốc gia, trang 354.
[63]. Nguyễn Tài Thư (1997), Nho học và Nho học ở Việt Nam - Một số vấn đề
lí luận và thực tiễn, Nxb KHXH, Hà Nội.
[64]. Phan Trọng Thưởng, Nguyễn Cừ, Vũ Thanh, Trần Nho Thìn [sưu tầm
tuyển chọn và giới thiệu] (2007), 10 thế kỉ bàn luận về văn chương,
Nxb Giáo dục, Hà Nội.
[65]. Hoàng Văn Vân (2003), Ngôn ngữ học qua các nền văn hóa (dịch từ
nguyên bản tiếng Anh Linguistics Acrorr Cultures, Michigan
University press, 1957 của Robrt Lado), Nxb ĐHQG Hà Nội, Hà Nội.
156
[66]. Nguyễn Công Việt (2006), Ấn chương Việt Nam từ thế kỉ XV đến cuối
thế kỉ XIX, Nxb KHXH, Hà Nội.
[67]. Hà Đăng Việt (2006b), “Chữ Nôm trong Tự Đức Thánh chế tự học giải
nghĩa ca”, Luận văn Thạc sĩ Khoa học Hán Nôm, Trường ĐH
KHXH&NV - ĐHQG Hà Nội.
[68]. Hà Đăng Việt (2008), “Tự Đức thánh chế tự học giải nghĩa ca và vấn đề
chuẩn hoá chữ Nôm thời Nguyễn”, Nghiên cứu về chữ Nôm, Nxb
KHXH, Hà Nội.
[69]. Hà Đăng Việt (2009), “Một số kết quả nghiên cứu về chữ Nôm trong Tự
Đức Thánh chế Tự học giải nghĩa ca”, Kỉ yếu Hội thảo khoa học,
Khoa Việt Nam học - ĐHSP Hà Nội.
[70]. Hà Đăng Việt (2012), “Loại thư song ngữ Hán - Nôm: sự bù đắp tri thức
cho Hán học Việt Nam thế kỉ XIX”, Tạp chí Khoa học, (số 6), ĐHSP
Hà Nội, Hà Nội.
[71]. Hà Đăng Việt (2012), Nghiên cứu chữ Nôm trong các từ điển Hán Nôm
thế kỉ XIX - Đề tài KHCN cấp Trường mã số SPHN - 11 - 31.
[72]. Hà Đăng Việt (2012), “Mạn đàm về chữ Nho”, Kỉ yếu Hội thảo khoa học,
Khoa Việt Nam học, ĐHSP Hà Nội.
[73]. Hà Đăng Việt (2013), “Chữ Hán ở Việt Nam”, Hán Nôm học trong nhà
trường - Một số vấn đề nghiên cứu và trao đổi, Nxb ĐHSP, Hà Nội.
[74]. Viện Ngôn ngữ học (1976), Bảng tra chữ Nôm, Nxb KHXH, Hà Nội.
[75]. Viện Ngôn ngữ học (1994), Từ điển tiếng Việt, Trung tâm Từ điển học &
Nxb.KHXH, Hà Nội.
[76]. Trần Ngọc Vương (1995), Văn học Việt Nam dòng riêng giữa nguồn
chung, Nxb Giáo dục, Hà Nội.
[77]. Viện KHXH (2002), Ngữ văn Hán Nôm, Tập 1 - Tứ Thư, Nxb KHXH, Hà Nội.
[78]. Viện KHXH (2002), Ngữ văn Hán Nôm, Tập 2 - Ngũ kinh, Nxb KHXH,
Hà Nội.
157
[79]. Viện KHXH (2004), Ngữ văn Hán Nôm, Tập 4 - Hán Văn Việt Nam, Nxb
KHXH, Hà Nội.
[80]. Nguyễn Như Ý (2002), Từ điển giải thích thuật ngữ ngôn ngữ học, Nxb.
Giáo dục, Hà Nội.
[81].
II. TÀI LIỆU TIẾNG TRUNG QUỐC
[82]. [](2 000), , ,
[83]. ,
[84]. (1956),
[85]. (1996), .
III. TÀI LIỆU HÁN NÔM (theo kí hiệu của Thư viện Viện Nghiên cứu
Hán Nôm).
[86]. , AB.372/ VNv.201
[87]. , AB.106
[88]. , A.155/ VHb.288
[89]. , AB.511
[90]. , A.1542
[91]. , AB.19
[92]. , AB.227/AB.91
[93]. , VHv,626/1-4