BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƯỜNG ĐẠI HỌC VINH
NGÔ PHI HÙNG
NGHIÊN CỨU CÁC PHƯƠNG THỨC CẤU TẠO
HỆ THUẬT NGỮ KHOA HỌC TỰ NHIÊN TIẾNG VIỆT
(trên tư liệu thuật ngữ Toán - Cơ - Tin học, Vật lí)
LUẬN ÁN TIẾN SĨ NGỮ VĂN
NGHỆ AN - 2014
BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƯỜNG ĐẠI HỌC VINH
NGÔ PHI HÙNG
NGHIÊN CỨU CÁC PHƯƠNG THỨC CẤU TẠO
HỆ THUẬT NGỮ KHOA HỌC TỰ NHIÊN TIẾNG VIỆT
(trên tư liệu thuật ngữ Toán - Cơ - Tin học, Vật lí)
Chuyên ngành: Lí luận ngôn ngữ
Mã số: 62 22 01 01
LUẬN ÁN
198 trang |
Chia sẻ: huong20 | Ngày: 15/01/2022 | Lượt xem: 345 | Lượt tải: 0
Tóm tắt tài liệu Luận án Nghiên cứu các phương thức cấu tạo hệ thuật ngữ khoa học tự nhiên Tiếng Việt, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
TIẾN SĨ NGỮ VĂN
Người hướng dẫn khoa học:
1. GS. TS. LÊ QUANG THIÊM
2. PGS. TS. HOÀNG TRỌNG CANH
NGHỆ AN - 2014
LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan đây là công trình nghiên cứu của riêng tôi. Các số
liệu, kết quả nêu trong luận án là trung thực và chưa từng được ai công bố
trong bất kì công trình nào khác.
Tác giả luận án
Ngô Phi Hùng
DANH MỤC CÁC CHỮ VIẾT TẮT
TT Quy định viết tắt Nghĩa
1. A Thành tố độc lập
2. B Thành tố có nghĩa, không độc lập
3. D Danh từ
4. Đg Động từ
5. KHTN Khoa học Tự nhiên
6. MH Mô hình
DANH MỤC BẢNG VÀ BIỂU ĐỒ SỐ LIỆU
Bảng 1.1. Các kí hiệu thường dùng trong Toán học..............................17
Bảng 1.2. Các tiêu chuẩn của thuật ngữ tiếng Việt ...............................22
Bảng 2.1. Phân bố các kiểu thuật ngữ (từ) trong Từ điển KHTN ..........46
Bảng 2.2. Thuật ngữ KHTN là từ ghép.................................................49
Bảng 2.3. Thuật ngữ KHTN là từ ghép đẳng lập ..................................51
Bảng 2.4. Số lượng mô hình thuật ngữ KHTN là từ ghép đẳng lập.......59
Bảng 2.5. Thuật ngữ KHTN là từ ghép chính phụ ................................60
Bảng 2.6. Thuật ngữ KHTN là từ ghép chính phụ trật tự xuôi ..............61
Bảng 2.7. Số lượng mô hình cấu tạo thuật ngữ KHTN là từ ghép
chính phụ trật tự xuôi ...........................................................67
Bảng 2.8. Thuật ngữ KHTN là từ ghép chính phụ trật tự ngược ...........69
Bảng 2.9. Số lượng mô hình cấu tạo thuật ngữ KHTN là từ ghép
chính phụ trật tự ngược ........................................................72
Biểu đồ 2.10. Tỉ lệ các mô hình cấu tạo thuật ngữ KHTN là từ ghép
đẳng lập ................................................................................76
Biểu đồ 2.11. Tỉ lệ các mô hình cấu tạo thuật ngữ KHTN là từ ghép
chính phụ trật tự xuôi ...........................................................77
Biểu đồ 2.12. Tỉ lệ các mô hình cấu tạo thuật ngữ KHTN là từ ghép
chính phụ trật tự ngược ........................................................78
Bảng 2.13. Các thành tố độc lập (đứng trước) có tần số xuất hiện
cao trong thuật ngữ KHTN ...................................................79
Bảng 2.14. Các thành tố không độc lập (đứng trước) có tần số xuất
hiện cao trong thuật ngữ KHTN ...........................................81
Bảng 3.1. Thuật ngữ KHTN có cấu tạo là ngữ......................................90
Bảng 3.2. Thuật ngữ KHTN có cấu tạo là danh ngữ .............................94
Bảng 3.3. Thuật ngữ KHTN có cấu tạo là động ngữ ...........................118
Bảng 3.4. Số lượng mô hình cấu tạo thuật ngữ KHTN là động ngữ ....134
Bảng 3.5. Số lượng thuật ngữ là danh ngữ thuộc mô hình: Phần
phụ trước + Phần trung tâm ................................................136
Bảng 3.6. Số lượng thuật ngữ là danh ngữ thuộc mô hình: Phần
phụ trước + Phần trung tâm + Phần phụ sau .......................136
Bảng 3.7. Số lượng thuật ngữ là danh ngữ thuộc mô hình: Phần
trung tâm + Phần phụ sau ...................................................137
Biểu đồ 3.8. Tỉ lệ thành tố tham gia cấu tạo thuật ngữ KHTN là
danh ngữ ............................................................................139
Bảng 3.9. Số lượng thuật ngữ là động ngữ thuộc mô hình: Phần
phụ trước + Phần trung tâm ................................................140
Bảng 3.10. Số lượng thuật ngữ là động ngữ thuộc mô hình: Phần
phụ trước + Phần trung tâm + Phần phụ sau .......................140
Bảng 3.11. Số lượng thuật ngữ là động ngữ thuộc mô hình: Phần
trung tâm + Phần phụ sau ...................................................141
Biểu đồ 3.12. Tỉ lệ thành tố tham gia cấu tạo thuật ngữ KHTN là
động ngữ ............................................................................142
MỤC LỤC
Trang
MỞ ĐẦU....................................................................................................... 1
1. Lí do chọn đề tài ..................................................................................... 1
2. Lịch sử vấn đề ......................................................................................... 2
3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu .......................................................... 5
4. Phương pháp nghiên cứu......................................................................... 6
5. Đối tượng và tư liệu nghiên cứu .............................................................. 7
6. Đóng góp của luận án.............................................................................. 7
7. Bố cục của luận án .................................................................................. 8
Chương 1. CƠ SỞ LÍ LUẬN........................................................................... 9
1.1. Khái niệm thuật ngữ ............................................................................. 9
1.2. Thuật ngữ trong văn bản .....................................................................12
1.3. Phân biệt thuật ngữ và danh pháp khoa học.........................................19
1.4. Phương châm xây dựng thuật ngữ khoa học tiếng Việt........................21
1.5. Về hệ thuật ngữ khoa học tự nhiên và tình hình nghiên cứu ở Việt Nam ......27
1.6. Phương thức cấu tạo thuật ngữ ............................................................34
1.7. Tiểu kết chương 1 ...............................................................................37
Chương 2. PHƯƠNG THỨC VÀ MÔ HÌNH CẤU TẠO THUẬT NGỮ
KHOA HỌC TỰ NHIÊN Ở BẬC TỪ ............................................................39
2.1. Quan niệm từ - từ điển và các kiểu loại cấu trúc từ tiếng Việt .............39
2.1.1. Quan niệm từ - từ điển ..................................................................39
2.1.2. Các kiểu loại cấu trúc từ tiếng Việt ...............................................40
2.2. Thành tố cấu tạo thuật ngữ ở cấp độ từ................................................42
2.2.1. Thành tố cơ sở ..............................................................................43
2.2.2. Thành tố trực tiếp..........................................................................43
2.3. Quan niệm mô hình cấu tạo từ và phạm vi khảo sát ............................44
2.3.1. Quan niệm mô hình cấu tạo từ ......................................................44
2.3.2. Phạm vi khảo sát ...........................................................................45
2.4. Thuật ngữ khoa học tự nhiên là từ ghép ..............................................47
2.4.1. Khái niệm từ ghép.........................................................................47
2.4.2. Thuật ngữ khoa học tự nhiên là từ ghép đẳng lập ..........................50
2.4.3. Thuật ngữ khoa học tự nhiên là từ ghép chính phụ........................59
2.5. Các mô hình sản sinh thuật ngữ...........................................................73
2.5.1. Quan niệm sản sinh.......................................................................73
2.5.2. Những mô hình có sức sản sinh lớn ..............................................75
2.6. Tiểu kết chương 2 ...............................................................................85
Chương 3. PHƯƠNG THỨC VÀ MÔ HÌNH CẤU TẠO THUẬT NGỮ
KHOA HỌC TỰ NHIÊN Ở BẬC NGỮ .........................................................88
3.1. Giới hạn khái niệm và nội dung khảo sát.............................................88
3.1.1. Giới hạn khái niệm........................................................................88
3.1.2. Nội dung khảo sát .........................................................................89
3.2. Thuật ngữ khoa học tự nhiên có cấu tạo là danh ngữ ...........................91
3.2.1. Khái niệm danh ngữ......................................................................91
3.2.2. Mô hình cấu trúc của danh ngữ .....................................................91
3.2.3. Các mô hình cấu tạo......................................................................94
3.3. Thuật ngữ khoa học tự nhiên có cấu tạo là động ngữ.........................117
3.3.1. Khái niệm động ngữ....................................................................118
3.3.2. Các mô hình cấu tạo....................................................................118
3.4. Những mô hình có sức sản sinh cao ..................................................135
3.5. Tiểu kết chương 3 .............................................................................146
KẾT LUẬN................................................................................................148
DANH MỤC CÁC CÔNG TRÌNH CÓ LIÊN QUAN ĐẾN NỘI DUNG
LUẬN ÁN ĐÃ CÔNG BỐ...........................................................................151
TÀI LIỆU THAM KHẢO.........................................................................152
PHỤ LỤC...................................................................................................165
1
MỞ ĐẦU
1. Lí do chọn đề tài
1.1. Về mặt ngôn ngữ và văn tự, trước đây, trong suốt 1000 năm Bắc
thuộc và tiếp sau gần 1000 năm độc lập, tiếng Việt tồn tại trong vị thế song ngữ
bất bình đẳng [113]. Kể từ cách mạng tháng Tám năm 1945, địa vị của tiếng
Việt nói chung, chữ quốc ngữ nói riêng mới thực sự thay đổi, tiếng Việt đã trở
thành ngôn ngữ quốc gia thống nhất. Vị thế của tiếng Việt thay đổi nên chức
năng xã hội của tiếng Việt càng ngày càng phát triển cả về chiều rộng và chiều
sâu. Tiếng Việt không chỉ được dùng rộng rãi trong giao tiếp toàn xã hội, trong
các văn bản pháp quy nhà nước, mà còn là công cụ được dùng để dạy học trong
các cấp học, trong các lĩnh vực nghiên cứu khoa học khác nhau. Cùng với sự
phát triển của xã hội, tiếng Việt cũng phát triển mạnh mẽ, toàn diện. Như một
đòi hỏi khách quan và cũng là tất yếu của sự phát triển ngôn ngữ, một hệ thuật
ngữ khoa học tiếng Việt ra đời để đáp ứng nhu cầu giáo dục đào tạo và nghiên
cứu khoa học. Cũng vì thế, thuật ngữ là một trong những lĩnh vực trở thành đối
tượng nghiên cứu cần yếu của Việt ngữ học.
1.2. Từ những năm đầu thế kỉ XX, đặc biệt là từ những năm 40 về sau,
việc biên soạn thuật ngữ tiếng Việt có những bước phát triển. Năm 1942 cuốn
Danh từ khoa học của tác giả Hoàng Xuân Hãn ra đời, là mốc đánh dấu hệ
thuật ngữ khoa học tự nhiên (KHTN) và công nghệ Việt Nam hình thành, bước
phát triển đầu tiên của thuật ngữ khoa học tiếng Việt. Tiếp theo, sau 1945, hàng
loạt thuật ngữ Hóa học, Sinh học lần lượt được xuất bản; nội dung khoa học
được nâng lên một bước và phát triển theo định hướng: chính xác, hệ thống,
quốc tế và dân tộc. Đến nay, cùng với sự phát triển sâu rộng của các ngành
khoa học, hệ thống thuật ngữ tiếng Việt, nhất là hệ thống thuật ngữ các ngành
KHTN đã phát triển nhanh chóng, mạnh mẽ không chỉ về từng thuật ngữ đơn lẻ
2
mà cả hệ thống. Nghiên cứu thuật ngữ tiếng Việt tuy đã có nhiều thành tựu
nhưng còn rất nhiều vấn đề của thuật ngữ cần đào sâu, trong đó có vấn đề
chuẩn hóa trong thời kì mới.
1.3. Từ trước đến nay, nói đến xây dựng, phát triển thuật ngữ, người ta đề
cập đến nhiều con đường như: thuật ngữ hóa từ thông thường, tạo thuật ngữ trên
cơ sở ngữ liệu vốn có, vay mượn thuật ngữ nước ngoài. Trong đó, con đường
cấu tạo thuật ngữ mới có ý nghĩa quan trọng, vì nó sử dụng chất liệu ngôn ngữ
dân tộc. Chính vì vậy, việc đi sâu nghiên cứu các phương thức cấu tạo của hệ
thuật ngữ KHTN trong tiếng Việt là cần thiết, góp phần vào quá trình xây dựng
và chuẩn hóa hệ thuật ngữ tiếng Việt nói chung và hệ thuật ngữ KHTN nói riêng
theo phương châm: khoa học (chính xác, hệ thống), quốc tế và dân tộc. Mặt
khác, hiểu rõ các đặc điểm cấu tạo của hệ thuật ngữ KHTN tiếng Việt cũng sẽ
góp phần vào việc khẳng định vai trò của tiếng Việt trong lĩnh vực khoa học, góp
phần vào quá trình truyền bá tri thức, phát triển khoa học ở Việt Nam. Kết quả
nghiên cứu của luận án có thể được sử dụng vào việc biên soạn từ điển, tạo điều
kiện cho việc giảng dạy và học tập tốt hệ thuật ngữ khoa học tiếng Việt nói
chung và hệ thuật ngữ KHTN nói riêng.
2. Lịch sử vấn đề
Mặc dù vấn đề thuật ngữ đã được quan tâm từ rất lâu, nhưng phải đến
thế kỉ XX, Thuật ngữ học mới thực sự được khẳng định như một ngành khoa
học. Việc nghiên cứu thuật ngữ xuất phát từ hai vấn đề nền tảng: thứ nhất là
do kết quả quan sát quá trình hình thành lí thuyết nhằm đáp ứng sự ra đời của
một bộ phận từ ngữ đặc biệt trong ngôn ngữ chuyên môn; thứ hai là do trên
thực tế, trong giao tiếp, nhóm từ ngữ đặc biệt này được coi như những từ ngữ
có ứng dụng độc lập.
Trên thực tế, thuật ngữ ra đời và được sử dụng trước khi người ta tìm
cách định nghĩa chúng. Bên cạnh cái chung, mỗi ngành khoa học đều tạo
3
dựng cho mình các cơ sở xây dựng nên những hệ thống thuật ngữ chuyên
ngành khác nhau, vì thế chúng có những đặc thù riêng.
Để hình dung một cách rõ hơn về nội dung của khái niệm “thuật ngữ
khoa học”, trước hết chúng ta hãy đến với quan niệm của các nhà khoa học Âu -
Mĩ, nơi có nền khoa học - kĩ thuật - công nghệ phát triển sớm, nhanh và mạnh.
Nói đến thuật ngữ học trước hết không thể không nhắc tới các nhà thuật
ngữ học như: E. Wuster (Đức), J.C. Boulanger (Anh), R.W. Brown (Mĩ)
[146], W.E. Flood (Mĩ) [148], J.C. Segen (Mĩ) [150]. Ngoài việc định nghĩa
thuật ngữ, nêu bản chất khái niệm và chức năng của chúng, các nhà nghiên
cứu này còn có xu hướng tìm cách xác định các tiêu chuẩn cụ thể cần phải có
của thuật ngữ.
Cùng với những tên tuổi của các nhà thuật ngữ học Âu - Mĩ là các nhà
thuật ngữ học nổi tiếng của Xô viết như: D.S. Lotte (Д.C. Лотте), N.P. Kuz'kin
(Н.П. Кузькин), A.I. Moiseev (А.И. Моисеев), V.V. Vinogradov (В.В.
Виноградов), A.A. Reformatskij (А.А. Реформатский), V.P. Đanilenko (В.П.
Даниленко), A.S. Gerd (А.С. Герд),... đã đi sâu vào phân tích bản chất, chức
năng, khái niệm của thuật ngữ và đã tìm định nghĩa cho thuật ngữ khoa học.
Riêng nghiên cứu về cấu tạo của thuật ngữ, năm 1939 tác giả G.O. Vinokur
(Г.О. Винокур) đã có bài “Về một số hiện tượng cấu tạo từ trong hệ thuật ngữ
kĩ thuật Nga” [135].
Ở Việt Nam, thuật ngữ khoa học xuất hiện muộn hơn so với các nước
phương Tây. Vào những năm đầu thế kỉ XX, một số thuật ngữ khoa học xã
hội đã được các tác giả Đông Kinh Nghĩa Thục giới thiệu. Từ những năm
1917 trở đi, việc xây dựng, hình thành thuật ngữ đã có những biểu hiện từ tự
phát đến tự giác, trên tạp chí Nam Phong (1917 - 1934) đã có ý kiến bàn bạc
về việc biên soạn từ điển, đặt danh từ khoa học. Chẳng hạn như bài viết của
Nguyễn Ứng “Về sự dịch tiếng hóa học”, Nguyễn Triệu Luật bàn về “Danh từ
4
hóa học”. Một số từ điển (tự điển) đã được xuất bản như: Việt Nam tự điển, do
Hội khai trí Tiến Đức khởi thảo, xuất bản lần đầu năm 1931, Hán Việt từ điển
của Đào Duy Anh, Quan - Hải, Tùng - Thư xuất bản năm 1932 và Danh từ
khoa học (Toán, Lí, Hóa, Thiên văn) của Hoàng Xuân Hãn, xuất bản năm
1942. “Cuốn Danh từ khoa học của Hoàng Xuân Hãn không chỉ cung cấp tư
liệu từ ngữ mới, tri thức mới mà cả phương pháp, cách thức sáng tạo thuật
ngữ tiếng Việt hiện đại. Đóng góp lớn của công trình này không chỉ ở vốn
thuật ngữ một số ngành khoa học cơ bản lần đầu được xây dựng cấu tạo mà
còn là lí luận về hệ thuật ngữ, về nguyên tắc và phương pháp xây dựng hệ
thuật ngữ tiếng Việt hiện đại” [113, tr.190]. Sau cuốn Danh từ khoa học của
Hoàng Xuân Hãn, một số từ điển đã được xuất bản như Danh từ thực vật của
Nguyễn Hữu Quán và Lê Văn Căn, Danh từ vạn vật học của Đào Văn Tiến
(1945), Danh từ y học của Lê Khắc Thiền và Phạm Khắc Quảng, v.v.
Do điều kiện lịch sử và xã hội, phải đến những năm 60 của thế kỉ XX,
vấn đề thuật ngữ mới thực sự trở thành mối quan tâm của các nhà khoa học
Việt Nam. Năm 1960, Ban Sử Địa Văn (tiền thân của Viện Khoa học Xã hội
Việt Nam, nay là Viện Hàn lâm Khoa học Xã hội Việt Nam) đã ban hành
“Quy định tạm thời về nguyên tắc biên soạn danh từ khoa học tự nhiên”.
Hàng loạt các hội nghị, hội thảo bàn về vấn đề thuật ngữ (Hội nghị bàn về vấn
đề xây dựng thuật ngữ khoa học, 28 - 29/12/1964; Hội nghị trưng cầu ý kiến
về vấn đề dùng thuật ngữ khoa học tháng 5/1965). Một Hội đồng Thuật ngữ -
Từ điển khoa học do Nguyễn Khánh Toàn làm chủ tịch đã ra đời. Vào tháng
6/1966, Ủy ban Khoa học Nhà nước đã công bố áp dụng tạm thời bản “Quy
tắc phiên thuật ngữ khoa học (gốc Ấn - Âu) ra tiếng Việt”.
Những năm 90 của thế kỉ XX về sau, một số bài viết, công trình nghiên
cứu về cấu tạo thuật ngữ tiếng Việt ra đời như: Vấn đề phương thức cấu tạo
thuật ngữ trong một số công trình xuất bản tại Việt Nam thời kì 1954 - 1975
5
[143]; Thuật ngữ quân sự tiếng Việt (đặc điểm và cấu trúc) [42]; Thuật ngữ
Việt Nam đầu thế kỉ XX trong quan hệ với văn hóa và phát triển [111]; Đặc
điểm của thuật ngữ tiếng Việt [83], [84]; Về đặc điểm mô hình cấu tạo và việc
chuẩn hóa thuật ngữ xây dựng là cụm từ trong tiếng Việt [128]. Cùng với các
bài viết, công trình trên là các đề tài cấp bộ, cấp học viện đã được bảo vệ,
hàng loạt bài viết của các tác giả về thuật ngữ đã được giới thiệu, phản ánh
kết quả nghiên cứu về thuật ngữ tiếng Việt.
Kể từ năm 1991 đến năm 2013 đã có nhiều luận án tiến sĩ nghiên cứu
về thuật ngữ được bảo vệ, như luận án của Vũ Quang Hào [41], Nguyễn Thị
Bích Hà [35], Nguyễn Thị Kim Thanh [105], Vương Thị Thu Minh [80], Mai
Thị Loan, Vũ Thị Thu Huyền [48].
Như vậy, vấn đề thuật ngữ nói chung và việc nghiên cứu các phương
thức và mô hình cấu tạo của thuật ngữ nói riêng đã ít nhiều được các tác giả
trong và ngoài nước nghiên cứu. Tuy nhiên, việc chúng tôi đi vào Nghiên cứu
các phương thức cấu tạo hệ thuật ngữ khoa học tự nhiên tiếng Việt (trên tư
liệu thuật ngữ Toán - Cơ - Tin học, Vật lí) cho đến nay đây vẫn còn là lĩnh
vực chưa có tác giả nào đi vào khảo sát chuyên sâu và toàn cảnh nhóm ngành
khoa học này. Vì vậy, chúng tôi đã lựa chọn đề tài này để nghiên cứu với
mong muốn góp một phần công sức vào lĩnh vực phát triển và chuẩn hóa
thuật ngữ nói chung và hệ thuật ngữ KHTN tiếng Việt nói riêng.
3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu
3.1. Mục đích
Luận án nghiên cứu các phương thức cấu tạo hệ thuật ngữ KHTN
tiếng Việt mà cụ thể là hệ thuật ngữ Toán - Cơ - Tin học, Vật lí nhằm rút ra
các đặc điểm cơ bản về cấu tạo của hệ thuật ngữ này. Trên cơ sở đó, luận án
sẽ đưa ra một bức tranh tổng quát về các phương thức và mô hình cấu tạo;
đề xuất một số ý kiến đối với việc phát triển và chuẩn hóa hệ thuật ngữ này
trong tiếng Việt.
6
3.2. Nhiệm vụ
Để đạt được mục đích trên, luận án của chúng tôi hướng tới giải quyết
các nhiệm vụ sau đây:
- Hệ thống hóa các quan điểm lý thuyết về thuật ngữ khoa học nói
chung và về thuật ngữ KHTN tiếng Việt nói riêng. Đồng thời xem xét sơ bộ
về sự hình thành và phát triển của hệ thuật ngữ KHTN tiếng Việt trong mối
quan hệ với lịch sử phát triển của các ngành khoa học cơ bản này của Việt
Nam thời hiện đại.
- Khảo sát phương thức và mô hình cấu tạo hệ thuật ngữ KHTN Toán -
Cơ - Tin học, Vật lí tiếng Việt ở bậc từ.
- Khảo sát phương thức và mô hình cấu tạo hệ thuật ngữ KHTN Toán -
Cơ - Tin học, Vật lí tiếng Việt ở bậc ngữ.
Thông qua sự phân tích các mô hình cấu tạo, liên hệ tới những mô hình
có sức sản sinh cao, rút ra các mô hình cấu tạo cơ bản của các hệ thuật ngữ
này trong tiếng Việt.
4. Phương pháp nghiên cứu
Để đạt kết quả nghiên cứu theo mục đích và nhiệm vụ đã đề ra, luận
án sử dụng các phương pháp sau:
4.1. Phương pháp miêu tả
Phương pháp này được dùng để miêu tả các phương thức và mô hình
cấu tạo hệ thuật ngữ KHTN tiếng Việt.
4.2. Phương pháp phân tích thành tố trực tiếp
Phương pháp phân tích thành tố trực tiếp được áp dụng để phân tích
cấu tạo của thuật ngữ theo từng thành tố. Kết quả phân tích cho thấy đặc điểm
phương thức cấu tạo của hệ thuật ngữ KHTN tiếng Việt và làm rõ hệ thống mô
hình cấu tạo cũng như các bước phát triển và xu hướng chuẩn hóa của chúng
trong tiếng Việt.
Ngoài hai phương pháp cơ bản trên, luận án còn sử dụng các phương
pháp, thủ pháp nghiên cứu sau:
7
- Phương pháp so sánh đối chiếu được dùng khi phân tích những đặc
điểm riêng của từng tiểu loại. Các tiểu loại khảo sát có mối liên hệ với nhau;
qua so sánh rút ra những nhận xét chung và riêng cho từng tiểu loại.
- Thủ pháp thống kê phân loại được sử dụng để xác định số lượng từng
loại thuật ngữ xét theo mô hình cấu tạo. Các kết quả thống kê sẽ được tổng hợp
thể hiện dưới hình thức các bảng biểu, đồ thị nhằm giúp hình dung rõ hơn nét
đặc trưng cơ bản về cấu tạo của hệ thuật ngữ khoa học tự nhiên trong tiếng Việt.
5. Đối tượng và tư liệu nghiên cứu
5.1. Đối tượng nghiên cứu
Đối tượng nghiên cứu của luận án là hệ thuật ngữ khoa học tự nhiên
tiếng Việt. Xét theo bậc cấu tạo và các phương diện cụ thể của thuật ngữ, luận
án sẽ nghiên cứu:
- Phương thức và mô hình cấu tạo thuật ngữ khoa học tự nhiên ở bậc từ
- Phương thức và mô hình cấu tạo thuật ngữ khoa học tự nhiên ở bậc ngữ
5.2. Tư liệu nghiên cứu
Ở Việt Nam, hiện nay có nhiều từ điển KHTN song ngữ được xuất bản.
Trong số những cuốn từ điển KHTN được xuất bản gần đây, chúng tôi đã chọn
các từ điển sau làm tư liệu nghiên cứu: Từ điển Anh - Việt khoa học tự nhiên,
tập 1, Toán - Cơ - Tin học và tập 2, Vật lí/ Nguyễn Văn Mậu (chủ biên), Nxb
Giáo dục, Hà Nội, 2008.
Đây là những từ điển được biên soạn bởi những nhà khoa học có uy tín
hàng đầu ở Việt Nam, những từ điển này được biên soạn vào dịp kỉ niệm 50 năm
Trường Đại học Khoa học Tự nhiên - Đại học Quốc gia Hà Nội (1956 - 2006).
6. Đóng góp của luận án
6.1. Ý nghĩa lí luận
- Việc nghiên cứu về hệ thuật ngữ KHTN tiếng Việt của luận án góp
phần tổng hợp, nhìn nhận toàn cảnh các vấn đề về thuật ngữ KHTN nói riêng
và thuật ngữ ở Việt Nam nói chung.
8
- Qua khảo sát và phân tích, luận án chỉ ra các đặc điểm của thuật ngữ
KHTN tiếng Việt về cấu tạo, từ đó sẽ góp phần thúc đẩy tiến trình xây dựng
hệ thuật ngữ KHTN tiếng Việt mang tính khoa học (tính chính xác, tính hệ
thống), tính quốc tế và tính dân tộc, thiết thực góp ích cho sự phát triển của
khoa học nói chung và hệ thuật ngữ KHTN tiếng Việt nói riêng.
- Kết quả nghiên cứu sẽ thực sự đóng góp vào việc xây dựng lí thuyết
về thuật ngữ khoa học nói riêng và lí luận về chuẩn hóa ngôn ngữ nói chung.
6.2. Ý nghĩa thực tiễn
Trên cơ sở xác định được các đặc điểm về mặt cấu tạo của hệ thuật ngữ
KHTN tiếng Việt, luận án sẽ góp phần định hướng cho việc xây dựng và
chuẩn hóa thuật ngữ, rút kinh nghiệm cho việc xây dựng thuật ngữ khoa học
nói chung và hệ thuật ngữ KHTN nói riêng trong tiếng Việt hiện nay.
Luận án, ở mức độ khác nhau, trực tiếp hoặc gián tiếp, góp phần chuẩn
hóa và giữ gìn sự trong sáng, sự phát triển của tiếng Việt trong thời kì công
nghiệp hóa, hiện đại hóa, hội nhập khu vực và quốc tế.
7. Bố cục của luận án
Ngoài phần mở đầu và kết luận, tài liệu tham khảo, khảo sát và phụ lục,
luận án gồm có ba chương được sắp xếp như sau:
Chương 1: Cơ sở lí luận
Chương 2: Phương thức và mô hình cấu tạo thuật ngữ KHTN ở bậc từ
Chương 3: Phương thức và mô hình cấu tạo thuật ngữ KHTN ở bậc ngữ
9
Chương 1
CƠ SỞ LÍ LUẬN
1.1. Khái niệm thuật ngữ
Hiện nay, trên thế giới cũng như ở Việt Nam, vấn đề thuật ngữ luôn
được các nhà ngôn ngữ học cũng như các nhà khoa học quan tâm nghiên
cứu. Tuy nhiên, cho đến nay vẫn chưa có một định nghĩa, khái niệm thuật
ngữ được mọi người thừa nhận. Sở dĩ có nhiều cách định nghĩa khác nhau là
do cách nhìn. Có tác giả cho rằng thuật ngữ xác định khái niệm, nhưng cũng
có tác giả cho rằng thuật ngữ không chỉ xác định khái niệm mà còn biểu hiện
khái niệm. Về bản chất của thuật ngữ, D.S. Lotte (Д.C. Лотте), thì cho rằng
thuật ngữ là từ đặc biệt, còn G.O. Vinokur (Г.О.Винокур) cho rằng thuật
ngữ không phải từ đặc biệt, mà chỉ là từ với chức năng đặc biệt, và tuyên bố
rằng, bất cứ từ nào cũng được cấu tạo để có vai trò là một thuật ngữ.
O.S. Akhmanova (O.C. Axмaнова) định nghĩa: “Thuật ngữ là từ hoặc
cụm từ của ngôn ngữ chuyên môn (ngôn ngữ khoa học, ngôn ngữ kĩ thuật,
v.v.) được sáng tạo ra (được tiếp nhận, được vay mượn, v.v.) để biểu hiện
chính xác các khái niệm chuyên môn và biểu thị các đối tượng chuyên môn”
[dẫn theo 124, tr.3]. Đại Bách khoa toàn thư Xô viết (1976) định nghĩa:
“thuật ngữ là một từ hoặc một cụm từ chỉ ra một cách chính xác khái niệm
và quan hệ của nó với những khái niệm khác trong giới hạn của phạm vi
chuyên ngành. Thuật ngữ là cái biểu thị vốn đã chuyên biệt hóa, hạn định
hóa về sự vật, hiện tượng, thuộc tính và quan hệ của chúng đặc trưng cho
phạm vi chuyên môn đó” [dẫn theo 35, tr.11].
Đanilenko (В.П. Даниленко) cho rằng: “Thuật ngữ dù là từ (ghép
hoặc đơn) hay cụm từ đều là một kí hiệu tương ứng với một khái niệm”, và
“Bản chất của thuật ngữ với tư cách là một khái niệm hoàn toàn không trùng
với từ thông thường của ngôn ngữ toàn dân” [dẫn theo 35, tr.11].
10
A.S. Gerd (А.С. Герд) định nghĩa: “Thuật ngữ là một đơn vị từ vựng
- ngữ nghĩa có chức năng định nghĩa và được khu biệt một cách nghiêm ngặt
bởi các đặc trưng như tính hệ thống, tính đơn nghĩa; ở thuật ngữ không có
hiện tượng đồng nghĩa hay đồng âm trong phạm vi của một khoa học hoặc
một lĩnh vực tri thức cụ thể” [dẫn theo 105, tr.19].
Ở Việt Nam, việc nghiên cứu thuật ngữ bắt đầu từ những năm đầu thế
thế kỷ XX. Rất nhiều nhà khoa học Việt Nam đã đi vào nghiên cứu và đưa ra
những định nghĩa thuật ngữ, làm cho khái niệm “thuật ngữ” ngày một đầy đủ
và chính xác.
Năm 1960, trong cuốn Khái luận ngôn ngữ học, Nguyễn Văn Tu đã định
nghĩa: “Thuật ngữ là từ hoặc nhóm từ dùng trong các ngành khoa học, kĩ thuật,
chính trị, ngoại giao, nghệ thuật, v.v. và có một ý nghĩa đặc biệt, biểu thị chính
xác các khái niệm và tên các sự vật thuộc ngành nói trên" [131, tr.176]. Năm
1976, trong cuốn Từ và vốn từ tiếng Việt hiện đại, một lần nữa, ông lại đưa ra
định nghĩa về thuật ngữ: “Thuật ngữ là những từ và những cụm từ chỉ những
khái niệm của một ngành khoa học, ngành sản xuất hay ngành văn hóa nào đó
v.v... Ví dụ: đồng âm, phụ âm, nguyên âm thuộc về ngành ngôn ngữ học; giáo
án, lên lớp,... thuộc về ngành giáo dục học; ốcxi hidrô, benzen thuộc về ngành
hóa học; quang phổ, quang học, điện pin... thuộc về ngành lí v.v...
Đặc điểm của thuật ngữ là một từ chỉ có một nghĩa, không có từ đồng
nghĩa, không có sắc thái tình cảm, có thể có tính chất quốc tế (tùy từng
ngành)” [133, tr.202].
Ở định nghĩa này, Nguyễn Văn Tu đã nhấn mạnh đến mặt khái niệm
mà các thuật ngữ biểu thị. Tuy nhiên, do điều kiện khoa học - kĩ thuật ở nước
ta lúc bấy giờ còn chưa phát triển mạnh, nên trong định nghĩa của ông phải
chăng vì thế mà tính quốc tế chưa được đề cao, còn "tùy từng ngành”.
Năm 1962, trong Giáo trình Việt ngữ, tập 2, Đỗ Hữu Châu đã định nghĩa:
“Thuật ngữ là những từ chuyên môn được sử dụng trong phạm vi một ngành
11
khoa học, một nghề nghiệp hoặc một ngành kĩ thuật nào đấy. Có thuật ngữ của
ngành vật lí, ngành hóa học, toán học, thương mại, ngoại giao, v.v Đặc tính
của những từ này là phải gắng chỉ có một nghĩa, biểu thị một khái niệm hay chỉ
tên một sự vật, một hiện tượng khoa học, kĩ thuật nhất định” [15, tr.167].
Định nghĩa trên đã nhấn mạnh không chỉ đến mặt “biểu thị khái niệm
khoa học” mà còn “chỉ tên một sự vật, hiện tượng khoa học, kĩ thuật” trong
thuật ngữ khoa học.
Sau này trong cuốn Từ vựng - ngữ nghĩa tiếng Việt (1981), Đỗ Hữu
Châu đã đưa ra định nghĩa bao quát nhưng khái quát hơn về thuật ngữ khoa
học, kĩ thuật như sau: “Thuật ngữ khoa học, kĩ thuật bao gồm các đơn vị từ
vựng được dùng để biểu thị những sự vật, hiện tượng, hoạt động, đặc điểm
trong những ngành kĩ thuật công nghiệp và trong những ngành khoa học tự
nhiên hay xã hội” [16, tr.237]. Ông đối lập thuật ngữ với từ thông thường.
Theo ông: “Khác với từ thông thường, thuật ngữ có ý nghĩa biểu vật trùng
hoàn toàn với sự vật, hiện tượng... có thực trong thực tế, đối tượng của ngành
kĩ thuật và ngành khoa học tương ứng. Ý nghĩa biểu niệm của chúng cũng là
những khái niệm về các sự vật, hiện tượng này đúng như chúng tồn tại trong
tư duy (dĩ nhiên theo cách hiểu của ngành kĩ thuật và ngành khoa học tương
ứng). Về mặt nội dung, ở các thuật ngữ không xảy ra sự chia cắt thực thể
khách quan theo cách riêng của ngôn ngữ. Mỗi thuật ngữ như là một “cái
nhãn” dán vào đối tượng này (cùng với khái niệm về chúng) tạo nên chính nội
dung của nó. Tính hệ thống về mặt ngữ nghĩa của thuật ngữ là do tính hệ
thống của bản thân đối tượng và khái niệm trong ngành khoa học và kĩ thuật
đó quyết định” [16, tr.238].
Năm 1983, Hoàng Văn Hành đã đưa ra định nghĩa nhấn mạnh hơn đến
tính hệ thống của thuật ngữ. Trong định nghĩa này, Hoàng Văn Hành đã chỉ rõ
thêm tính xác định của khái niệm mà thuật ngữ biểu thị trong hệ thống những
12
khái niệm của một ngành khoa học nhất định: “Thuật ngữ là từ ngữ dùng để
biểu thị một khái niệm xác định thuộc hệ thống những khái niệm của một
ngành khoa học nhất định. Toàn bộ hệ thống thuật ngữ của các ngành khoa
học hợp thành vốn thuật ngữ” [38, tr.26].
Năm 1978, trong giáo trình Từ vựng tiếng Việt, tiếp đến năm 1985,
trong cuốn Từ vựng học tiếng Việt, sau đó là năm 1998 trong giáo trình trên
được tái bản, Nguyễn Thiện Giáp viết “Thuật ngữ là bộ phận từ ngữ đặc biệt
của ngôn ngữ. Nó bao gồm những từ và cụm từ cố định là tên gọi chính xác
của các loại khái niệm và các đối tượng thuộc các lĩnh vực chuyên môn của
con người” [29, tr.270].
Năm 2008, trong cuốn Sự phát triển của từ vựng tiếng Việt nửa sau thế
kỉ XX, tác giả Hà Quang Năng viết: “thuật ngữ là từ ngữ dùng để biểu thị một
khái niệm xác định thuộc hệ thống những khái niệm của một ngành khoa học
nhất định” [81, tr.94].
Năm 2010, trên tạp chí Ngôn ngữ, tác giả Nguyễn Đức Tồn đã vi...ghị nên đổi mêtan, êtan, butan thành nguyên thán, lưỡng
thán, tam thán, đổi méthyle, propyle thành nguyên tín, lưỡng tín, tam
tín, (Dương Minh, Báo Khoa học, số 12).
Lê Văn Kim trên Khoa học tạp chí, số 39 năm 1932 cho rằng, về hóa
"bây giờ chúng ta đang ở vào cái thời kì học theo, chỉ có phận sự dịch thuật,
chưa tới trình độ đặt tên, thế thì cái phép tắc đặt tên ta chưa cần biết vội".
Trong thực tế thì ông cũng đã mượn tiếng Hán là chính để đặt ra một hệ thống
thuật ngữ hóa học với những kí hiệu riêng, so sánh với tiếng Pháp.
Đặng Phúc Thông trên báo Khoa học năm 1942 cũng cho rằng, thuật
ngữ tiếng Việt nên dùng chữ nho, còn về hóa học thì theo cách đặt chữ nôm,
không dùng tiếng Pháp vì "dịch âm tiếng Pháp ra tiếng ta có nhiều điểm
không tiện", "tiếng Pháp thuộc về loài đa âm mà tiếng mình thuộc về loài
độc âm".
30
Trái lại, Nguyễn Văn Thịnh lại không tán thành quan niệm dùng chữ
Hán để đặt thuật ngữ hóa học. Ông cho rằng: "nếu ta cứ mượn chữ Hán thì
ngày kia thông dụng đã quen rồi, muốn sửa ắt là bất tiện". Ông chủ trương
"mượn tiếng Latinh hay Hy - lạp như các tiếng trong thế giới mà âm ra", chứ
không mượn tiếng Pháp vì "tiếng Pháp cũng mượn tiếng Latinh hay Hy - lạp,
ta nên đi tới cuội nguồn phải tốt hơn" (Nguyễn Văn Thịnh, Khoa học tạp chí,
số 31, 1932). Ngay cả những người chủ trương dùng thuật ngữ bằng tiếng
Hán như Phan Khắc Khoan cũng cho rằng, riêng đối với hóa học thì "phải
dùng ngay chữ Tây" (Phan Khắc Khoan, 1942). Đào Đăng Hy cũng chủ
trương đối với thuật ngữ hóa học "cần phải để nguyên văn mà dùng". Theo
ông, "ngay đối với một số thuật ngữ vật lí như ampère, champ magnélique,
dioptrie, foyer, virtuel thì cũng nên dùng nguyên văn" (Đào Đăng Hy, 1932).
Nguyễn Duy Thanh trong bài “Bàn về cách đặt tiếng hóa học”, báo
Khoa học, số 3 năm 1942 cho rằng, cách đặt thuật ngữ hóa học của Trung
Quốc là không khoa học. Ông đề nghị lấy các kí hiệu mà gọi. Theo ông,
không nên gọi là khinh khí, dưỡng khí, mà gọi là hát (H), ô (O), a-en (Al),
es-bê (Sb), Đối với các hợp chất cũng cứ theo công thức mà gọi. Ví dụ
MnO2 gọi là em-en ô hai. Theo ông, các chất mà mình chưa có tên cứ lấy "kí
hiệu" cả thế giới đều công nhận ra mà dùng. Ngoài ra, có thể đặt thêm một số
chữ gì đó ghép vào giữa hai chất mà đọc như thêm uy chẳng hạn.
Ngoài những khuynh hướng trên, một số học giả còn muốn dùng "tiếng
nôm na" để đặt thuật ngữ. Năm 1932 trong bài "Một vài ý kiến về cách dùng
danh từ khoa học" đăng trên Khoa học tạp chí, số 35, ông Jật cho rằng "dùng
danh từ cần phải cân nhắc xem có thể dễ hiểu và giản dị, phổ thông, càng
nôm na càng hay". Đại Nam cũng cùng quan điểm này và đề nghị dùng những
"tiếng nôm na" như cạp góc (côté d’un angle), đường giữa góc (bissectrice),
vía (valence).
31
Tác giả Dương Trọng Bái lại đề nghị cần “mạnh dạn dùng các
danh từ đã quốc tế hóa”. Theo ông, đây là “một trong những nguyên tắc
cơ bản” để đặt thuật ngữ, nhưng Phạm Văn Bảy lại cho rằng “từ chỗ chú
ý dùng trong phạm vi cần thiết đi đến thành một nguyên tắc là một bước
dài” [66, tr.33].
Trong số các quan điểm trên, đáng chú ý nhất là quan điểm của Hoàng
Xuân Hãn trong cuốn Danh từ khoa học xuất bản năm 1942. Có thể coi đây là
một hướng đặt thuật ngữ khoa học bằng sự kết hợp tiếng Hán, tiếng Việt với
thuật ngữ có tính quốc tế (bằng tiếng Pháp). Trong tác phẩm, tác giả đã đề ra
cho thuật ngữ các điểm sau:
1) Mỗi ý phải có một danh từ để gọi;
2) Danh từ ấy phải dùng riêng về ý ấy;
3) Mỗi ý đừng có nhiều danh từ;
4) Danh từ phải làm cho dễ nhớ đến ý;
5) Danh từ trong các môn phải thành một toàn thể duy nhất và liên lạc;
6) Danh từ phải gọn;
7) Danh từ phải có âm hưởng Việt Nam;
8) Danh từ phải đặt theo lối đặt các tiếng thường và phải có tính chất
quốc gia.
Ông nêu lên 3 phương sách đặt thuật ngữ khoa học, đó là: phương
sách dùng tiếng thông thường, phương sách phiên âm và phương sách lấy
gốc chữ nho.
Ba phương sách trên đã được Hoàng Xuân Hãn vận dụng trong cuốn
Danh từ khoa học. Đây là dấu mốc đánh dấu hệ thuật ngữ KHTN và công
nghệ Việt Nam được hình thành, bước phát triển đầu tiên của thuật ngữ khoa
học tiếng Việt với các môn Toán, Lí, Cơ, Thiên văn dùng trong nhà trường
Việt Nam.
32
Tiếp theo công trình Danh từ khoa học của Hoàng Xuân Hãn, hàng loạt
từ điển đã được xuất bản, như Danh từ thực vật của Nguyễn Hữu Quán và Lê
Văn Căn; Danh từ vạn vật học của Đào Văn Tiến; Danh từ y học của Lê Khắc
Thiền và Phạm Khắc Quảng. v.v.
Cách mạng tháng Tám thành công, với việc ra đời của Nhà nước Việt
Nam Dân chủ Cộng hòa, tiếng Việt đã được trả lại ví trí xứng đáng. Tiếng
Việt đã trở thành ngôn ngữ chính thức của một nhà nước độc lập, có chủ
quyền. Tiếng Việt đã được sử dụng rộng rãi và được giảng dạy ở tất cả các
cấp học. Vị thế của tiếng Việt thay đổi nên chức năng xã hội của tiếng Việt
càng ngày càng phát triển mạnh mẽ, toàn diện. Đây chính là điều kiện thuận
lợi cho việc sáng tạo và sử dụng phổ biến thuật ngữ tiếng Việt. Tuy nhiên
hoàn cảnh chiến tranh cũng gây nhiều khó khăn hạn chế cho việc xây dựng và
phát triển thuật ngữ.
Sau khi miền Bắc được hoàn toàn giải phóng (1954) công việc đặt
thuật ngữ khoa học tiếng Việt được tiến hành một cách chính thức, có quy
mô và mang tính Nhà nước. Từ thuật ngữ và cụm từ thuật ngữ khoa học đã
xuất hiện và được sử dụng rộng rãi trong thời gian này (trước đó chủ yếu sử
dụng cụm từ danh từ khoa học). Từ những năm 60 của thế kỉ XX, vấn đề đặt
thuật ngữ đã thực sự trở thành mối quan tâm của các nhà khoa học Việt
Nam. Có hàng loạt các hội nghị, hội thảo bàn về vấn đề thuật ngữ, đáng chú
ý là các sự kiện sau:
- Công bố Quy định tạm thời về biên soạn danh từ khoa học tự nhiên
(năm 1960).
- Thành lập hội đồng thuật ngữ - từ điển khoa học thuộc Ủy ban khoa
học Nhà nước.
- Tổ chức Hội nghị bàn về vấn đề xây dựng thuật ngữ nước ngoài
(tháng 12 - 1964).
33
- Trưng cầu và công bố Đề án về quy tắc phiên thuật ngữ nước ngoài
và Quy định tạm thời về quy tắc phiên thuật ngữ nước ngoài ra tiếng Việt
(1964).
Ở miền Nam, vào những năm 60 của thế kỉ XX, một Ủy ban soạn thảo
danh từ đã được thành lập ngày 6 tháng 7 năm 1960 (sau này đổi tên là Ủy ban
quốc gia soạn thảo danh từ chuyên môn). Ủy ban đã tham gia tích cực vào công
việc chuẩn hóa thuật ngữ tiếng Việt, cụ thể là tiến hành thảo luận ba vấn đề:
1) Vấn đề tiêu chuẩn cần có của một thuật ngữ khoa học;
2) Vấn đề các phương pháp tạo ra các hệ thống thuật ngữ;
3) Vấn đề phiên âm thuật ngữ nước ngoài gốc Ấn - Âu ra tiếng Việt.
Từ khi đất nước thống nhất (năm 1975), đã có nhiều hội thảo ở cả ba
miền Bắc, Trung, Nam về công việc chuẩn hóa thuật ngữ tiếng Việt. Căn cứ
vào Quyết định của Hội đồng chuẩn hóa chính tả và Hội đồng chuẩn hóa thuật
ngữ, Bộ Giáo dục đã công bố Một số quy định về chính tả trong sách giáo
khoa cải cách giáo dục (30-11-1980) và Quy định về chính tả tiếng Việt và
thuật ngữ tiếng Việt (5-3-1984).
Kể từ sau năm 1960 đến nay, đối với thuật ngữ tiếng Việt, nhà nước ta
đã có ba văn bản quan trọng về việc biên soạn và phiên chuyển thuật ngữ
nước ngoài ra tiếng Việt: (1) Quy định tạm thời về quy tắc phiên thuật ngữ
nước ngoài ra tiếng Việt (1964), (2) Quy định về chính tả và thuật ngữ tiếng
Việt (1984) và (3) Quy định chính tả tiếng Việt và phiên chuyển tiếng nước
ngoài (2000).
Như vậy, việc nghiên cứu thuật ngữ ở Việt Nam bắt đầu từ những năm
đầu thế kỉ XX. Tuy nhiên, vấn đề thuật ngữ thực sự trở thành mối quan tâm
của các nhà khoa học Việt Nam phải vào những năm 60 của thế kỉ XX. Rất
nhiều nhà khoa học Việt Nam thuộc các ngành khoa học khác nhau đã bàn về
cách đặt thuật ngữ khoa học tiếng Việt.
34
1.6. Phương thức cấu tạo thuật ngữ
Thuật ngữ là lớp từ chuyên môn trong từ vựng nên về cấu tạo, chúng
cũng được tạo ra theo phương thức cấu tạo từ nói chung. Theo các tác giả Từ
điển giải thích thuật ngữ ngôn ngữ học, phương thức cấu tạo từ là “Cách cấu
tạo từ mới bằng cách ghép các hình vị căn tố và hình vị phụ tố với nhau, hoặc
ghép các đơn vị cấu tạo từ của một ngôn ngữ nào đó với nhau theo những quy
tắc, mô hình nhất định của từng ngôn ngữ” [144, tr.233]. Nói một cách cụ thể
hơn, theo Đỗ Hữu Châu: “Phương thức cấu tạo từ là những cơ chế, những quá
trình xử lí các nguyên liệu hình vị để cho ta các từ của ngôn ngữ (có các
phương thức sau):
- Phương thức từ hóa hình vị
- Phương thức phức hóa hình vị” [17, tr.83].
Trong Từ vựng - ngữ nghĩa tiếng Việt, phương thức phức hóa hình vị
đã được tác giả cụ thể hóa, minh định bằng phương thức thức láy và phương
thức ghép; tương ứng với 3 phương thức cấu tạo từ cụ thể, tiếng Việt có 3 loại
từ là: từ đơn, từ láy và từ ghép [16, tr.40].
Như đã biết, xét về bậc cấu tạo, thuật ngữ bao gồm cả từ và ngữ. “Nhìn
một cách tổng quát, có thể thấy thuật ngữ trong tiếng Việt, cũng như trong các
ngôn ngữ đã phát triển khác hình thành nhờ ba con đường cơ bản là: 1) thuật
ngữ hóa từ ngữ thông thường; 2) cấu tạo những thuật ngữ tương ứng với thuật
ngữ nước ngoài bằng phương thức sao phỏng; 3) mượn nguyên những thuật
ngữ nước ngoài (thường là những thuật ngữ có tính quốc tế” [38, tr.134].
Thuật ngữ hóa từ ngữ thông thường hay còn gọi là chuyển chức năng -
nghĩa là con đường biến đổi và phát triển nghĩa của từ để tạo ra một nghĩa
mới - nghĩa thuật ngữ. Ví dụ: chuột (d). Theo nghĩa thông thường, chuột là
“Thú gặm nhấm, mõm nhọn, tai bầu dục, đuôi thon dài, thường phá hại mùa
màng và có thể truyền dịch hạch”. Theo nghĩa chuyên môn, chuột là “Một bộ
35
phận được nối với máy tính, khi cho chuyển động trên một mặt phẳng thì sẽ
gây ra việc chuyển động con chạy trên màn hình và có tác dụng để kích hoạt
hay chọn lựa các thành phần phần mềm trên màn hình” [137, tr.185].
Cấu tạo những thuật ngữ mới tương ứng với thuật ngữ nước ngoài bằng
phương thức sao phỏng là “sử dụng những yếu tố và mô hình cấu tạo từ vựng
tiếng Việt để dịch nghĩa những thuật ngữ tương ứng trong tiếng nước ngoài.
Ví dụ: cầu truyền hình là sự sao phỏng của TV bridge, trong đó, truyền hình
tương ứng với TV, còn cầu tương ứng với bridge” [83, tr.34].
Cấu tạo thuật ngữ theo phương thức sao phỏng, một mặt đòi hỏi phải có
kiến thức sâu về tiếng Việt và tiếng nước ngoài, mặt khác, phải có những hiểu
biết sâu về chuyên ngành mà thuật ngữ được sử dụng.
Cấu tạo thuật ngữ bằng phương thức mượn (tiếp nhận) thuật ngữ nước
ngoài được thể hiện qua ba hình thức: mượn nguyên dạng, chuyển tự và phiên âm.
Giữ nguyên dạng gốc thuật ngữ thường được áp dụng cho những
trường hợp mượn thuật ngữ nước ngoài của những ngôn ngữ có chữ viết sử
dụng hệ thống chữ cái Latin . Ví dụ: menu, website, download,...
Chuyển tự là “Chuyển cách viết từ ngữ bằng một hệ thống chữ cái này
thành cách viết bằng một hệ thống chữ cái khác, theo quy tắc tương ứng giữa
hai hệ thống chữ cái” [137, tr.188]. Chuyển tự thường chỉ áp dụng đối với các
ngôn ngữ không sử dụng hệ thống chữ cái Latin, như tiếng Nga. Ví dụ:
opбита: orbita, камера: kamera,
“Phiên âm là ghi lại cách phát âm các từ ngữ của một ngôn ngữ bằng hệ
thống kí hiệu riêng hoặc bằng hệ thống chữ cái của một ngôn ngữ khác” [137,
tr.779]. Ví dụ: computer: com-piu-tơ, căm-piu-tơ, cơm-piu-tơ,; piston: pit-
tông, pittông, pixtông,
Khác với từ ngữ thông thường, thuật ngữ là bộ phận từ ngữ đặc biệt của
ngôn ngữ mang tính chuyên môn chỉ những khái niệm của một ngành khoa
36
học. So với nhiều nước tiên tiến trên thế giới, các ngành khoa học ở Việt Nam
phát triển muộn, những đặc điểm đó cho phép đoán định mức độ sản sinh
thuật ngữ giữa các phương thức cấu tạo hệ thuật ngữ khoa học tiếng Việt sẽ
không như nhau.
Khi tìm hiểu cấu tạo của thuật ngữ, có thể xuất phát từ lí thuyết nghiên
cứu các phương thức cấu tạo thuật ngữ, cũng có thể khảo sát, miêu tả hệ thuật
ngữ đã có để chỉ ra các kiểu quan hệ cấu tạo giữa các thành tố, khái quát hóa
thành các mô hình cấu tạo. Trong luận án, chúng tôi tiếp cận theo cách thứ
hai, xuất phát từ tiền đề thuật ngữ đã có sẵn trong từ điển, phân tích chúng về
mặt cấu trúc và khái quát thành các mô hình để chỉ ra đặc điểm của thuật ngữ
KHTN tiếng Việt về cấu tạo. Cụ thể, đối tượng mà luận án phân tích cấu trúc
là những thuật ngữ KHTN tiếng Việt có cấu tạo là từ và ngữ. Trong các
phương thức cấu tạo thuật ngữ, chúng tôi chọn nghiên cứu các thuật ngữ được
tạo ra theo phương thức ghép. Sở dĩ chúng tôi chọn phương thức này để
nghiên cứu vì đây là phương thức điển hình nhất trong việc cấu tạo thuật ngữ,
từ phương thức này các nhà khoa học Việt đã cấu tạo nên số lượng chủ yếu
của thuật ngữ tiếng Việt theo các mô hình cấu tạo nhất định.
Như chúng tôi đã nói ở trên, trong các phương thức cấu tạo thuật ngữ,
phương thức ghép là phương thức có sức sản sinh lớn nhất, tồn tại trong nhiều
ngôn ngữ thuộc các loại hình khác nhau. Đối với thuật ngữ tiếng Việt nói
chung, thuật ngữ khoa học tự nhiên tiếng Việt nói riêng, phương thức ghép là
một phương thức cấu tạo thuật ngữ quan trọng nhất. Từ phương phức này, các
nhà khoa học đã cấu tạo nên rất nhiều thuật ngữ theo nhiều kiểu ghép khác
nhau. Việc vận dụng phương thức này được tiến hành dựa trên hai quan hệ cú
pháp chủ yếu của tiếng Việt (mô hình ghép chính phụ và mô hình ghép đẳng
lập). Từ hai quan hệ cú pháp này, hàng hàng loạt thuật ngữ được tạo ra, bổ
sung những thiếu hụt cho hệ thống thuật ngữ tiếng Việt nói chung và hệ thuật
ngữ khoa học tự nhiên nói riêng.
37
Việc sử dụng phương thức ghép để cấu tạo thuật ngữ không chỉ diễn ra
ở bậc từ mà còn diễn ra ở bậc ngữ. Ở bậc từ, phương thức ghép được thể hiện
qua việc ghép các thành tố cơ sở với thành tố cơ sở, thành tố trực tiếp với
thành tố trực tiếp và khả năng kết hợp thành tố cơ sở với thành tố trực tiếp. Ở
bậc ngữ, phương thức ghép được thể hiện qua việc ghép các thành tố là từ với
từ theo từng cấp bậc khác nhau.
Xét về mặt cấu tạo, phiên chuyển cũng được xem là một phương thức
cấu tạo thuật ngữ. Tuy nhiên, phương thức này nghiêng về mặt ngữ âm và chữ
viết. Với chất liệu sẵn có là tiếng Việt, các nhà khoa học đã “cải biến sáng tạo”
các thuật ngữ khoa học nước ngoài trở thành các thuật ngữ khoa học tiếng Việt.
Những thuật ngữ được tạo ra từ phương thức này đóng một vai trò quan trọng
trong hệ thuật ngữ KHTN tiếng Việt. Để có một cái nhìn tổng quát về việc cấu
tạo thuật ngữ KHTN tiếng Việt, ngoài việc tập trung khảo sát, miêu tả chi tiết
thuật ngữ được cấu tạo theo phương thức ghép, chúng tôi còn nghiên cứu
phương thức phiên chuyển thuật ngữ (kết quả được thể hiện trong phần phụ
lục) và cũng khảo sát thống kê có tính định lượng về các loại thuật ngữ được
cấu tạo theo các phương thức khác.
1.7. Tiểu kết chương 1
Trên cơ sở hệ thống hóa các quan điểm lí luận về thuật ngữ của các nhà
khoa học trong và ngoài nước; xem xét một cách có hệ thống về quá trình phát
triển của các ngành khoa học tự nhiên với sự hình thành và phát triển của hệ
thuật ngữ này trong tiếng Việt, luận án đã đưa ra một cách hiểu về thuật ngữ
với tư cách là định nghĩa để làm việc. Luận án cũng đi vào phân tích sự khác
nhau giữa thuật ngữ và danh pháp: thuật ngữ gắn liền với hệ thống khái niệm,
còn danh pháp chỉ gọi tên các sự vật, đối tượng trong một ngành khoa học.
Ở Việt Nam, các nhà khoa học đã bàn nhiều đến các phương châm của
việc đặt thuật ngữ khoa học tiếng Việt. Trong các phương châm mà các nhà
38
khoa học đã đưa ra, luận án xác định, việc đặt thuật ngữ và liên hệ chuẩn hóa
thuật ngữ cần có các phương châm sau: tính khoa học (tính chính xác, tính hệ
thống), tính quốc tế và tính dân tộc.
Trong số các phương thức cấu tạo thuật ngữ khoa học tiếng Việt, luận
án chọn phương thức ghép để nghiên cứu. Bởi theo lí thuyết điển mẫu, đây
là phương thức điển hình nhất trong số các phương thức cấu tạo hệ thuật ngữ
khoa học tự nhiên tiếng Việt nói riêng và hệ thuật ngữ khoa học tiếng Việt
nói chung.
Dựa trên nền tảng lí thuyết về thuật ngữ của các nhà khoa học trong và
ngoài nước, từ việc xác định rõ vị trí của thuật ngữ khoa học trong toàn bộ hệ
thống ngôn ngữ, thông qua các nhận xét khái quát về thuật ngữ khoa học tự
nhiên tiếng Việt, luận án triển khai những nội dung nghiên cứu ở các chương
tiếp theo.
39
Chương 2
PHƯƠNG THỨC VÀ MÔ HÌNH CẤU TẠO
THUẬT NGỮ KHOA HỌC TỰ NHIÊN Ở BẬC TỪ
2.1. Quan niệm từ - từ điển và các kiểu loại cấu trúc từ tiếng Việt
2.1.1. Quan niệm từ - từ điển
Hiện nay, trong Ngôn ngữ học nói chung và Việt ngữ học nói riêng còn
có những quan niệm khác nhau về từ. Xuất phát từ những cơ sở lí luận và
thực tiễn không giống nhau nên cách định nghĩa về từ được các tác giả đưa ra
cũng khác nhau.
Nguyễn Tài Cẩn, trong cuốn "Ngữ pháp tiếng Việt: tiếng - từ ghép -
đoản ngữ" [9], do quan niệm tiếng là hình vị - chủ trương xem tiếng độc lập
và các tổ hợp âm tiết chặt chẽ, cố định đều là từ ghép. Tiếp đó từ ghép được
ông chia thành từ ghép nghĩa và từ láy âm.
Theo Nguyễn Thiện Giáp thì “Từ của tiếng Việt là một chỉnh thể nhỏ
nhất có ý nghĩa dùng để cấu tạo câu nói; nó có hình thức của một âm tiết, một
khối viết liền” [29, tr.69]. Như vậy “từ tiếng Việt trùng với hình vị và âm tiết.
Tuy nhiên không phải âm tiết nào cũng là từ và hình vị. Những âm tiết vô
nghĩa không thể được coi là từ, càng không thể được coi là hình vị” [34, tr.1].
Tác giả Nguyễn Kim Thản thì quan niệm “Từ là đơn vị cơ bản của
ngôn ngữ, có thể tách khỏi các đơn vị khác của lời nói để vận dụng một cách
độc lập và là một khối hoàn chỉnh về ngữ âm, ý nghĩa (từ vựng hoặc ngữ
pháp) và chức năng ngữ pháp [102, tr.64].
Tác giả Đỗ Hữu Châu quan niệm “Từ của tiếng Việt là một hoặc một
số âm tiết cố định, bất biến, mang những đặc điểm ngữ pháp nhất định, nằm
trong những kiểu cấu tạo nhất định, tất cả ứng với một kiểu ý nghĩa nhất định,
lớn nhất trong tiếng Việt và nhỏ nhất để tạo câu” [16, tr.16].
40
Chúng tôi không đi vào bàn luận nhiều về các định nghĩa về từ mà chỉ
chọn một định nghĩa, một cách hiểu để làm cơ sở cho quá trình triển khai luận
án. Chúng tôi dựa vào quan điểm của Nguyễn Tài Cẩn về từ tiếng Việt: “Từ là
đơn vị nhỏ nhất có thể vận dụng độc lập ở trong câu” [9, tr.326].
Đối tượng nghiên cứu của chúng tôi trong luận án là những thuật ngữ
KHTN Toán - Cơ - Tin học, Vật lí tiếng Việt. Đây là những đơn vị mà căn cứ
vào đặc điểm ý nghĩa của nó, được xếp riêng thành mục từ trong từ điển. Do
đó, những đơn vị mà chúng tôi nghiên cứu là những từ tách biệt, trong từ
điển, chưa tham gia vào hoạt động hành chức.
2.1.2. Các kiểu loại cấu trúc từ tiếng Việt
Để làm chỗ dựa cho việc phân tích ngữ liệu, chúng tôi đã khảo sát và
thống kê ba kiểu loại thuật ngữ cấu tạo là từ là: từ đơn (đơn âm tiết), từ ghép
và từ ngẫu hợp. Ba kiểu loại cấu trúc hình thức mà chúng tôi chọn dựa trên
quan niệm của tác giả Nguyễn Tài Cẩn, đó là:
1) Từ đơn là từ “gồm những tiếng vừa có nghĩa, vừa độc lập. Đa số đều
nằm trong vốn từ cơ bản của tiếng Việt, có đã từ lâu đời: cha, mẹ, tay, chân,
cơm, nước, ăn, uống, cười, nói, dài, ngắn, và, nhưng, à, nhỉ v.v... những tiếng
gốc Hán hay gốc Âu đã được Việt hóa cao độ (Ví dụ: tim, gan, buồng, buồm,
cồn, xăng, xăm, lốp) và những tiếng Hán Việt không có một từ Việt đồng
nghĩa cạnh tranh (ví dụ tuyết, bút, cao, thấp, học, đáp)” [9, tr.29-30].
2) Từ ghép “là một đơn vị phức hợp, có tổ chức nội tại: trong từ ghép
bao giờ cũng có thể tìm ra ít nhất là hai tiếng được kết hợp với nhau theo một
loại quan hệ này hay quan hệ nọ. Từ ghép là loại đơn vị có tổ chức cao hơn
tiếng, nói chung, và cao hơn từ đơn, nói riêng, một bậc” [9, tr.51].
3) Từ ngẫu hợp là “Kiểu từ ghép trong đó các thành tố trực tiếp được
kết hợp với nhau một cách ngẫu nhiên, không dựa trên quan hệ ý nghĩa, cũng
41
không dựa trên cơ sở quan hệ ngữ âm, có thể tạm gọi là từ ghép ngẫu hợp” [9,
tr.139].
Tuy nhiên, cũng cần phải nói thêm rằng, việc phân chia các kiểu từ như
trên không phải lúc nào cũng rành mạch, dứt khoát. Điều này cũng dễ hiểu
bởi ranh giới của mọi sự vật, hiện tượng trong tự nhiên không phải lúc nào
cũng rạch ròi. Trong quá trình xử lí tư liệu, đối với kiểu từ đơn và từ ngẫu
hợp, chúng tôi không gặp nhiều khó khăn trong việc xác định kiểu từ. Chỉ còn
lại trường hợp cần phải có sự thống nhất trong quá trình khảo sát, đó là: việc
phân biệt từ ghép với cụm từ cố định, ví dụ: cà chua, xăng dầu, đường thẳng,
hình vuông,...
Trong quá trình hoạt động, các đơn vị ngữ pháp luôn phải kết hợp với
nhau để tạo thành những đơn vị lớn hơn, các đơn vị này được gắn với nhau
bằng những mối quan hệ nhất định.
Trong nội bộ từ, mối quan hệ này được thể hiện qua việc gắn kết các
hình vị với nhau được gọi là quan hệ từ pháp.
Quan hệ từ pháp và quan hệ cú pháp được phân biệt ở tính chặt chẽ
“đông cứng” của chúng. Quan hệ từ pháp không cho phép chen một yếu tố
nào khác vào trong thành phần nội bộ của chúng. Chẳng hạn, đối với các từ
ghép có ý nghĩa khái quát, thành tố cấu tạo vốn là các từ đơn, hoạt động độc
lập như: xăng dầu, quần áo, nhà cửa, trâu bò,... nếu chúng ta chêm xen các
yếu tố khác vào giữa các thành tố cấu tạo thì sẽ phá vỡ ý nghĩa khái quát của
từ. Đó chính là phép thử quan trọng để xác định chúng là từ ghép.
Trong luận án, như chúng tôi đã nói ở trên, từ đơn là loại từ chỉ có
một tiếng được dùng độc lập, không có cấu trúc bên trong (về từ vựng) nên
chúng tôi đã giới hạn không nghiên cứu thuật ngữ là từ đơn, mà chỉ đưa ra
kết quả thống kê loại thuật ngữ này vào bảng số liệu để người đọc thấy được
bức tranh chung về sự phân bố của các kiểu thuật ngữ là từ trong từ điển
42
khảo sát. Đối với thuật ngữ là từ ngẫu hợp, do cấu tạo của loại này là các
thành tố trực tiếp kết hợp với nhau một cách ngẫu nhiên, không dựa trên
quan hệ ý nghĩa, cũng không dựa trên cơ sở quan hệ ngữ âm, số lượng lại
không lớn (622 đơn vị) và còn do dung lượng các vấn đề chính của đề tài
cần miêu tả, cho nên chúng tôi không đi sâu nghiên cứu. Kết quả khảo sát,
miêu tả về loại thuật ngữ này được chúng tôi đưa vào phần phụ lục nhằm
cung cấp thêm cứ liệu cho thấy bức tranh tổng quát, đầy đủ hơn về cấu tạo
thuật ngữ KHTN tiếng Việt.
Theo quan niệm của tác giả Nguyễn Tài Cẩn về “từ ghép” tiếng Việt,
ngoài "từ ghép nghĩa", "từ ngẫu hợp", từ ghép còn bao gồm cả "từ láy âm" -
loại từ mà phần đông các nhà nghiên cứu khác gọi là "từ láy" và không xem
nó là một loại của từ ghép. Do số lượng thuật ngữ có cấu tạo là từ láy âm
chiếm tỉ lệ thấp, chỉ có 0,2%, gồm 13 đơn vị (ví dụ: chắc chắn, rộng rãi, sền
sệt, thình lình,...) nên chúng tôi không nghiên cứu. Để thuận tiện cho trình bày
và cũng để người đọc dễ theo dõi, tên gọi về các loại từ theo cách phân loại và
gọi tên của Nguyễn Tài Cẩn được chúng tôi gọi theo cách gọi phổ biến hiện
nay. Cụ thể, trường hợp "từ láy âm" theo cách gọi của Nguyễn Tài Cẩn được
chúng tôi gọi là “từ láy”, còn “từ ghép láy nghĩa” và “từ ghép phụ nghĩa”,
chúng tôi gọi là từ ghép đẳng lập và từ ghép chính phụ.
2.2. Thành tố cấu tạo thuật ngữ ở cấp độ từ
Khi nghiên cứu các phương thức cấu tạo của một hệ thuật ngữ, chúng ta
không thể không bàn tới thành tố cấu tạo thuật ngữ. Như đã biết, thuật ngữ là
bộ phận từ vựng đặc thù có chức năng biểu hiện các khái niệm khoa học một
cách chính xác, hệ thống. Trong thuật ngữ, các thành tố được tổ chức theo tôn
ti và có quan hệ với nhau một cách logic. Vì vậy, khi tạo thuật ngữ, các nhà
khoa học đã phải lựa chọn, cân nhắc từng thành tố để làm sao cho thuật ngữ
được tạo ra đảm bảo được các phương châm cần có của một thuật ngữ.
43
2.2.1. Thành tố cơ sở
Trong cuốn Ngữ pháp tiếng Việt: tiếng - từ ghép - đoản ngữ, Nguyễn
Tài Cẩn đã xác lập khái niệm tiếng (tiếng một, hình tiết) làm đơn vị cơ sở của
ngữ pháp tiếng Việt. Ông cho rằng “trong tiếng Việt, có một loại đơn vị xưa
nay, ta thường gọi là “tiếng”, “tiếng một” hay là “chữ”, ví dụ: ăn, học, nhà,
cửa, cao, rộng, và, nhưng, đã, sẽ, tri, thức, thiên, địa, tiểu, vô, bất, v.v Gọi
đơn vị này là “tiếng”, “tiếng một” là căn cứ vào ngữ âm; gọi là “chữ” tức là
căn cứ vào văn tự. Trong tiếng Việt, mỗi tiếng bao giờ cũng phát ra một hơi,
nghe thành một tiếng, và nó mang một thanh điệu nhất định” [9, tr.14]. Quan
niệm của chúng tôi, mỗi tiếng như thế chính là một thành tố cơ sở của thuật
ngữ tiếng Việt ở cấp độ từ.
Thành tố cơ sở có hai loại. Loại thứ nhất, gồm những tiếng không độc
lập, thuộc nhiều loại với đặc điểm nguồn gốc và ngữ nghĩa riêng, trong đó
phần lớn là các thành tố Hán Việt. Bộ phận tiếng này có số lượng áp đảo, hiện
được dùng nhiều trong cấu tạo thuật ngữ (viên, vô, bán, bất, đa, sự, tính, phi,
đại, trường,). Ví dụ: bán kính, đa giác, tích phân, đạo hàm, thấu kính,
Những thuật ngữ này được cấu tạo bởi hai thành tố cơ sở, mỗi thành tố cơ sở
đó đều có nghĩa nhưng không có khả năng hoạt động độc lập. Loại thứ hai là
tiếng có khả năng hoạt động độc lập và tham gia với các thành tố khác trong
việc cấu tạo thuật ngữ. Ví dụ: bậc, bảng, biên, bờ, cạnh, chùm, chuỗi, cột,
cung, đai, dây, đáy, đỉnh, dòng, góc, máy, mạch, trục, tụ,
2.2.2. Thành tố trực tiếp
Cấu tạo thuật ngữ ở cấp độ từ không chỉ có thành tố cơ sở mà còn có cả
thành tố trực tiếp (immediate constituent). Theo tác giả Nguyễn Tài Cẩn:
“Thành tố trực tiếp của một tổ hợp là những bộ phận mà ta tìm ra được ngay
sau bước phân tích đầu tiên. Cũng có thể nói ngược lại, nếu đi theo hướng
tổng hợp: thành tố trực tiếp là những bộ phận mà ta dùng trong bước tổng hợp
44
cuối cùng để tạo ngay ra tổ hợp. Thành tố trực tiếp ở từ ghép như vậy là có
thể trùng mà cũng có thể không trùng với khái niệm đơn vị tế bào, đơn vị
gốc” [9, tr.63].
Có thể nhận thấy, những thuật ngữ như: toán học, hóa học, vô tỷ, vô
ước, đều có 2 thành tố trực tiếp (2 thành tố cơ sở). Những thuật ngữ như: số
nguyên tố, hàm sơ cấp, phản điều hòa, đa tinh thể, điện quang học, có 2
thành tố trực tiếp (3 thành tố cơ sở). Những thuật ngữ như: địa lí toán học, vật
lí toán học, vật lí sinh vật, gồm 2 thành tố trực tiếp (4 thành tố cơ sở). Để
đảm bảo tính hệ thống của thuật ngữ, đối với trường hợp thành tố cấu tạo là từ
phiên âm, nguyên dạng (ví dụ: anpha, atlat, bazơ, vectơ,) chúng tôi xem
những đơn vị này là một thành tố trực tiếp (đơn vị cơ sở).
Trong luận án chúng tôi dùng thuật ngữ “tiếng” (do Nguyễn Tài Cẩn
đưa ra) đã trở thành quen thuộc, được nhiều nhà ngôn ngữ học sử dụng để
nghiên cứu thuật ngữ có cấu tạo là từ. Như vậy là chúng tôi đã xuất phát từ
việc xem “tiếng” là đơn vị cơ sở (hình vị) dùng để cấu tạo từ (từ ghép, từ
láy). Đơn vị bậc trên của từ do các từ liên kết tạo nên theo những quan hệ
ngữ pháp nhất định được chúng tôi gọi là ngữ (có tác giả gọi là cụm từ) như
cách gọi của nhiều nhà nghiên cứu. Chúng tôi vận dụng cách phân tích cấu
tạo ngữ của Nguyễn Tài Cẩn để phân tích thuật ngữ có cấu tạo là ngữ trong
tư liệu nghiên cứu.
2.3. Quan niệm mô hình cấu tạo từ và phạm vi khảo sát
2.3.1. Quan niệm mô hình cấu tạo từ
Hiện nay, quan niệm của các nhà ngôn ngữ học về mô hình cấu tạo từ
(mẫu cấu tạo) vẫn chưa có sự thống nhất. Trong cuốn Vấn đề cấu tạo từ của
tiếng Việt hiện đại, Hồ Lê đã đưa ra khái niệm về mô hình cấu tạo, theo tác
giả: “Mẫu (hay là mô hình) là cái khuôn cấu tạo của một loạt sự vật hay hiện
tượng đồng dạng. Cái khuôn cấu tạo ấy phản ánh những nét chung bản chất
45
nhất về mặt cấu tạo của loạt sự vật hay hiện tượng ấy. Sự cấu tạo cụ thể của
từng cái một trong loạt sự vật hay hiện tượng này không thể hoàn toàn giống
nhau, nhưng mẫu cấu tạo của chúng phải là một” [70, tr.125].
Tác giả Hồ Lê đã đi vào khảo sát các mô hình cấu tạo từ trong tiếng
Việt. Theo tác giả tiêu chí để phân biệt các mô hình cấu tạo từ chính là các
đơn vị cấu tạo từ mà ông gọi là các nguyên vị.
Tác giả Vũ Thị Kim Hoa khi nghiên cứu Từ ghép Hán-Việt trong từ
ghép tiếng Việt hiện đại, cũng đã đưa ra quan niệm về mô hình cấu tạo từ.
Theo tác giả, mô hình cấu tạo từ là: “Những khuôn cấu tạo của một số từ hoặc
có thể là của một từ Hán hoặc từ Hán-Việt mượn nguyên khối Hán nhưng
được sử dụng để cấu tạo một hoặc một loạt từ ghép Hán-Việt Việt tạo. Mẫu
cấu tạo này bao gồm khuôn hình cấu tạo và một yếu tố cấu tạo” [45, tr.118].
Tác giả Lê Quang Thiêm cho rằng: “mô hình cấu tạo là khuôn đúc mà
có thể đưa vào những loại chất liệu, từ đó để tạo ra hàng loạt đơn vị khác
nhau” [113, tr.225].
Trong luận án, chúng tôi quan niệm: mô hình cấu tạo từ là cái khuôn
cấu tạo mà từ đó có thể tạo ra một hay nhiều từ. Trong mô hình cấu tạo từ, có
mô hình cấu tạo có sức sản sinh cao, có mô hình cấu tạo có sức sản sinh thấp.
Mô hình cấu tạo từ có thể có hai hay nhiều thành tố. Thành tố cấu tạo từ có
thể là thành tố cơ sở hoặc thành tố trực tiếp.
2.3.2. Phạm vi khảo sát
Một thuật ngữ tiếng Anh khi được chuyển dịch sang tiếng Việt không
phải bao giờ cũng có sự tương đương 1:1. Trong những trường hợp tồn tại
nhiều biến thể, quan điểm của chúng tôi khi khảo sát là:
1) Tương ứng với một thuật ngữ tiếng Anh, nếu có nhiều thuật ngữ Việt
đồng nghĩa, hoặc gần nghĩa, chúng tôi chỉ chọn một biến thể - biến thể đầu.
Ví dụ:
46
apparatus: máy; dụng cụ, thiết bị; công cụ.
gas-filled capacitor: tụ (điện) (chứa) khí
connection: [sự, cách] mắc
alternative: khác // biến tướng, cách khác, kiểu khác.
Trong những trường hợp này, chúng tôi chọn biến thể thứ nhất, biến thể
đầu máy, tụ điện chứa khí, sự mắc, khác. Bởi theo chúng tôi, đây là biến thể
thường trực, biến thể mạnh, biến thể mà người đặt thuật ngữ ưu tiên nhất và
việc lựa chọn một biến thể đầu cũng là cách để tránh được những biến thể
mang tính giải thích.
2) Trong luận án, chúng tôi chỉ nghiên cứu những thuật ngữ là từ ghép
có các thành tố có nghĩa. Những trường hợp có chứa thành tố mất nghĩa
chúng tôi không nghiên cứu.
Như vậy, trong chương 2 này, chúng tôi đi vào nghiên cứu phương thức
cấu tạo hệ th... hiệu quốc tế trong hóa học và khoa học
tự nhiên, tên viết tắt các tổ chức quốc tế.
Ví dụ: W = Oat, J = Jun, Fe = sắt, WTO = Tổ chức Thương mại Thế giới.
Phiên âm tên riêng (tên người, tên địa lí) nước ngoài. Ví dụ: Frăngxoa
Busê (Pháp: François Bouchet), Jêm Biucanơn (Anh: James Buchanan)”.
+ “Các cặp chữ cái i và y; ph và f; j và gi đều được dùng để phiên âm
căn cứ vào nguyên ngữ: nguyên ngữ dùng chữ cái nào thì chuyển sang tiếng
Việt dùng chữ cái tương ứng”.
+ “Một số trường hợp thêm ơ, ví dụ: Marơ (Marr), Tơroa (Troie)”.
+ “Thuật ngữ gốc tiếng nước ngoài cũng được phiên chuyển theo các
nguyên tắc trên. Sử dụng thuật ngữ đã dùng thống nhất trong từng chuyên
ngành và liên ngành. Thuật ngữ hóa học tạm thời dùng theo quy định do Ban
biên soạn hóa học đề nghị. Ví dụ: dùng i thay cho y (oxi, hiđro) trừ các kí hiệu
nguyên tố, các kí hiệu chỉ chức và gốc hóa học al, ol, yl (etanol, metyl); ví dụ:
dùng ozơ trong hệ thống hiđrat cacbon (glucozơ), aza trong hệ thống các
enzim (lipaza)”.
+ “Tên thuốc không phiên âm sang tiếng Việt mà sử dụng nguyên dạng
theo tiếng Anh hoặc tiếng Pháp. Biệt dược cũng được dùng theo nguyên dạng
viết trên nhãn mác của loại thuốc đó”.
172
Qua ba văn bản quy định trên, chúng ta có thể rút ra một số nhận xét sau:
- Quy định tạm thời về quy tắc phiên thuật ngữ nước ngoài ra tiếng Việt
(1964) có tư tưởng chỉ đạo là: khi phiên thuật ngữ nước ngoài ra tiếng Việt, cần
phải chú ý tới tính “khoa học, dân tộc, đại chúng”, làm cho chúng trở thành thuật
ngữ dân tộc, đồng hóa vào tiếng Việt. Khi phiên, cần dựa vào âm là chính, sao
cho dễ đọc, dễ viết nhưng không quá xa với thuật ngữ khoa học nhiều nước.
- Nếu như Quy định tạm thời về quy tắc phiên thuật ngữ nước ngoài ra
tiếng Việt (1964) chú ý tới tính “khoa học, dân tộc, đại chúng” thì Quy định về
chính tả tiếng Việt và thuật ngữ tiếng Việt (1984) có tư tưởng chỉ đạo là chú ý
tới tính khoa học và tính quốc tế của thuật ngữ.
- Quy định chính tả tiếng Việt và phiên chuyển tiếng nước ngoài của
Trung tâm Quốc gia chỉ đạo biên soạn Từ điển bách khoa tuy không đề cập
trực tiêp tới tính khoa học và tính quốc tế, nhưng qua nội dung quy định, có
thể nhận thấy bản quy định đã chỉ dẫn người phiên phải chú ý tới tính khoa
học và tính quốc tế (chẳng hạn như: khi phiên cần dựa vào cách đọc trực tiếp
của nguyên ngữ có thể biết được, cần kèm theo chú thích nguyên dạng tên
gốc đối với những ngôn ngữ dùng chữ cái Latinh, nguyên ngữ dùng chữ cái
nào thì chuyển sang tiếng Việt dùng chữ cái tương ứng”.
Có thể nhận thấy, trong ba bản qui định trên, bản quy định thứ nhất
ngoài việc đề cập tới tính khoa học còn đề cập tới tính dân tộc và tính đại
chúng. Đây cũng là điều dễ hiểu, bởi phương châm này được đưa ra trong buổi
đầu của nền khoa học, thời kì mà tiếng Việt mới trở thành ngôn ngữ quốc gia.
Vì vậy, các nhà khoa học đã đưa ra phương châm này nhằm mục đích tạo điều
kiện cho thuật ngữ được tạo ra dễ hiểu, dễ truyền bá tới công chúng.
Hai văn bản sau đã định hướng người đặt thuật ngữ phải chú ý tới tính
khoa học và tính quốc tế. Theo chúng tôi, thuật ngữ cần phải có tính khoa học
(chính xác, hệ thống) và tính quốc tế là cần thiết. Tuy nhiên, thuật được cấu
173
tạo bằng chất liệu ngôn ngữ dân tộc nên cần phải có tính dân tộc. Đây là
những phương châm cần phải có của thuật ngữ như chúng tôi đã trình bày ở
chương 1. Điều quan trọng mà chúng tôi muốn đề cập đến trong chương này
là qua khảo sát, phân tích, đánh giá, đưa ra những đề xuất đối với việc nên
để nguyên dạng hay phiên âm khi tiếp nhận thuật ngữ KHTN từ tiếng Anh
sang tiếng Việt.
1.3. Phương thức phiên chuyển
Các thuật ngữ tiếng Anh khi thâm nhập vào tiếng Việt thể hiện dưới
nhiều dạng khác nhau, có cách đọc, cách viết khác nhau. Nhìn một cách tổng
quát, có hai cách xử lí (trừ cách sao phỏng hay dịch nghĩa), đó là tiếp nhận
nguyên dạng và phiên âm.
1.3.1. Tiếp nhận nguyên dạng
Cách tiếp nhận này được thể hiện ở hình thức chữ viết: sử dụng
nguyên cách viết của thuật ngữ tiếng Anh. Còn cách đọc thì cố gắng đọc
sát với cách đọc của nguyên ngữ. Có nhiều nguyên nhân dẫn đến việc phải
để nguyên dạng khi tiếp nhận. Có khi là do chúng ta chưa tìm được từ
tương ứng trong tiếng Việt, song cũng có khi có từ tương ứng, nhưng chưa
có sự thống nhất trong cách hiểu, hoặc từ đó chưa phản ánh hoàn toàn
chính xác khái niệm trong thuật ngữ gốc. Ví dụ: radio, chat, computer,
menu, download, strees,...
1.3.2. Phiên âm
Phiên âm là phương thức cấu tạo thuật ngữ bằng cách dựa trên âm đọc
của thuật ngữ tiếng Anh để ghi lại thuật ngữ đó bằng cách đọc, cách viết của
tiếng Việt. Ví dụ:
Tiếng Anh Tiếng Việt
accumulator ắc quy
base bazơ
vector vectơ
174
Các thuật ngữ được tiếp nhận bằng phương thức phiên âm thường ngắn
gọn, chủ yếu là thuật ngữ có cấu tạo là từ, và thường có sự thiếu thống nhất về
cách đọc, cách viết.
2. Việc phiên chuyển thuật ngữ Toán - Cơ - Tin học, Vật lí từ tiếng
Anh sang tiếng Việt
Để có cái nhìn toàn cảnh về số lượng, tỉ lệ thuật ngữ trong từ điển
KHTN, chúng tôi đã tiến hành thống kê, phân loại, những thuật ngữ này được
tổng hợp qua bảng 2.1 sau:
Bảng 2.1. Tỉ lệ thuật ngữ trong Từ điển Toán - Cơ - Tin học, Vật lí
Từ đơn 10,14% (786/7.748)
Từ ghép 81,82% (6.340/7.748)
Từ
24,93%
(7.748/31.072) Từ ngẫu hợp 8,02% (622/7.748)
Danh ngữ 87,21% (20.342/23.324)
Động ngữ 10,35% (2.416/23.324)
Tính ngữ 2,06% (482/23.324)
Thuật ngữ
KHTN
(31.072) Ngữ định danh
75,06%
(23.324/31.072)
Giới ngữ 0,36% (84/23.324)
Kết quả thống kê trên cho thấy, số thuật ngữ là từ ngẫu hợp chiếm tỉ lệ
thấp 8,02%. Đây là những thuật ngữ được tiếp nhận từ tiếng Anh sang tiếng
Việt bằng hai hình thức: nguyên dạng và phiên chuyển.
2.1. Nguyên dạng
Qua khảo sát hệ thuật ngữ KHTN Toán - Cơ - Tin học, Vật lí được
chuyển dịch từ tiếng Anh sang tiếng Việt, chúng tôi thu được số thuật ngữ
nguyên dạng như sau:
Từ điển Toán - Cơ - Tin học có 24 thuật ngữ được tiếp nhận nguyên
dạng, chiếm 36,76%.
175
Từ điển Vật lí có 43 thuật ngữ được tiếp nhận nguyên dạng, chiếm
63,23%. Tỉ lệ thuật ngữ được tiếp nhận nguyên dạng từ tiếng Anh sang tiếng
Việt được thể hiện qua bảng 2.2 sau:
Bảng 2.2. Tỉ lệ thuật ngữ nguyên dạng trong Từ điển Toán - Cơ - Tin học, Vật lí
Stt Từ điển Nguyên dạng Tỉ lệ %
1. Toán - Cơ - Tin học 24 35,82%
2. Vật lí 43 64,17%
3. Tổng 67 100%
Qua bảng thống kê, có thể nhận thấy:
Số lượng thuật ngữ được tiếp nhận nguyên dạng trong Từ điển Vật lí
chiếm tỉ lệ nhiều hơn Từ điển Toán - Cơ - Tin học. Những thuật ngữ để
nguyên dạng thường là những thuật ngữ trừu tượng (abstract terms), hoặc có
thể mang quá nhiều nghĩa. Ví dụ: bit, cam, computron, ion, conic, (Toán -
Cơ - Tin học); coma, helion, lepton, phonon, microtron, (Vật lí).
2.2. Biến đổi
Qua khảo sát hệ thuật ngữ KHTN trong Từ điển Toán - Cơ - Tin học,
Vật lí được chuyển dịch từ tiếng Anh sang tiếng Việt, chúng tôi thu được số
thuật ngữ nguyên dạng và biến đổi (phiên chuyển) như sau:
Trong Từ điển Toán - Cơ - Tin học có 24 thuật ngữ được tiếp nhận
nguyên dạng và 159 thuật ngữ phiên chuyển. Từ điển Vật lí có 43 thuật ngữ
được tiếp nhận nguyên dạng và 404 thuật ngữ phiên chuyển. Tỉ lệ thuật ngữ
tiếp nhận nguyên dạng và phiên chuyển trong hệ thuật ngữ KHTN được thể
hiện qua bảng 2.3 sau:
Bảng 2.3. Tỉ lệ thuật ngữ phiên chuyển trong Từ điển Toán - Cơ - Tin học, Vật lí
Stt Từ điển Số lượng Nguyên dạng Phiên chuyển
1. Toán - Cơ - Tin học 181 24 (13,25%) 157 (86,74%)
2. Vật lí 441 43 (9,75%) 398 (90,24%)
3. Tổng 622 67 (10,77%) 555 (89,22%)
176
Qua khảo sát, thống kê việc phiên chuyển thuật ngữ trong hệ thuật ngữ
KHTN Toán - Cơ - Tin học, Vật lí từ tiếng Anh sang tiếng Việt có thể rút ra
một số nhận xét sau:
2.2.1. Thanh điệu
Những thuật ngữ tiếng Anh phiên chuyển sang tiếng Việt có cách đọc
theo âm tiết tiếng Việt nên có sự tham gia của dấu thanh. Tuy nhiên, không
phải tất cả sáu thanh đều được tham gia. Kết quả khảo sát của chúng tôi trên 2
tư liệu cho thấy.
Trong 157 thuật ngữ Toán - Cơ - Tin học được phiên chuyển từ tiếng
Anh sang tiếng Việt, chỉ có ba thanh được tham gia, đó là thanh ngang (không
dấu), thanh sắc và thanh huyền. Trong đó, số lượng thanh ngang chiếm số
lượng gần tuyệt đối 154/157 thuật ngữ (chiếm 98,08%). Ví dụ: affine: afin,
adic: ađic, cactoid: cactoit,...; thanh sắc có hai thuật ngữ (chiếm 1,27%), đó là
thuật ngữ accumulator: ắc quy, modal: mốt và thanh huyền có một thuật ngữ
(0,63%), folium of Descartes: lá Đề các.
Trong 398 thuật ngữ Vật lí được phiên chuyển từ tiếng Anh sang tiếng
Việt, có hai thanh được tham gia: thanh ngang, thanh sắc. Trong đó thanh
ngang có 395 thuật ngữ (chiếm 99,24%). Thanh sắc có ba thuật ngữ (0,75%).
Ví dụ: cable: cáp, note: nốt, Fermi particle: hạt Féc-mi.
Quan sát kĩ có thể thấy, thuật ngữ mang thanh sắc này nằm trong sự lựa
chọn bắt buộc giữa một trong hai thanh: hoặc là thanh sắc hoặc là thanh
không dấu và sự lựa chọn nghiêng về thanh sắc.
2.2.2. Phụ âm đầu (được thể hiện bằng con chữ)
Trong hệ thuật ngữ Toán - Cơ - Tin học, Vật lí tiếng Anh có phụ âm
đầu được thể hiện bằng con chữ mà tiếng Việt cũng có thì được đọc và viết
như chúng ở trong tiếng Việt: b, l, m, n, p, r, g, h, t.
- Phụ âm b
Từ điển Toán - Cơ - Tin học: b chuyển sang tiếng Việt là b. Ví dụ:
block: bloc, balancer: balăng, bazơ.
177
Từ điển Vật lí: b chuyển sang tiếng Việt là b. Ví dụ: bakelit: bakelit,
balsam: banzam, bomb: bom,...
- Phụ âm g
Từ điển Toán - Cơ - Tin học: g chuyển sang tiếng Việt là g. Ví dụ:
gradient: građien.
Từ điển Vật lí: g chuyển sang tiếng Việt là g. Ví dụ: gram, gramme:
gam, gaser: gaze, graphite: graphit, gyrostat: giroxta,
- Phụ âm h
Từ điển Toán - Cơ - Tin học: h chuyển sang tiếng Việt là h. Ví dụ:
hectare: hecta, herpolhode: hecpolođi, heteroscedastic: heteroxcđaxtic,
holonomy: holonom, homoscedastic: homoxedaxtic, hyperbola: hypebon,
hyperbolic: hypebolic, hyperboloid: hypeboloit,
Từ điển Vật lí: h chuyển sang tiếng Việt là h. Ví dụ: hectare: hecta,
helium: heli, henry: henri, hetero-dyne: heterođin, hydrogen: hiđrô,
- Phụ âm l
Từ điển Toán - Cơ - Tin học: l chuyển sang tiếng Việt là l. Ví dụ: laser:
laze, lemniscate: lemnixcat, logic: lôgic, logistic: lôgitic,
Từ điển Vật lí: l chuyển sang tiếng Việt là l. Ví dụ: lambert: lambe,
lamel: lamen, leptonic: lepton, liter: lit, logometer: logomet,
- Phụ âm m
Từ điển Toán - Cơ - Tin học: m chuyển sang tiếng Việt là m. Ví dụ:
madular: mođula, magnetron: manhetron, magnistor: macnito, maser: maze,
metacyclic: metaxiclic, minimax: minimac, modal: mốt, module: mođun,
moment: momen, monitor: monitơ,
Từ điển Vật lí: m chuyển sang tiếng Việt là m. Ví dụ: magneto:
manhêto, megaelectron-volt: mêgaêlectron-vôn, megatron: mêgatron,
megawatt: mêgaoat, meson: mêzon, module: môđun, moment: momen,
178
- Phụ âm n
Từ điển Toán - Cơ - Tin học: n chuyển sang tiếng Việt là n. Ví dụ:
neoid: neoit, neutron: nơtrơn, normit: nomit.
Từ điển Vật lí: n chuyển sang tiếng Việt là n. Ví dụ: neutretto: nơtreto,
neutrino: nơtrino, neutrodyne: nơtrođin, neutron: nơtron, note: nốt, nova: nôva,...
- Phụ âm p
Từ điển Toán - Cơ - Tin học: p chuyển sang tiếng Việt thành p. Ví dụ:
panel: panen, parabola: parabon, paracompact: paracompac, parametrix:
parametric, phase: pha, pile: pin, piston: pittong, plasma: platma,
Từ điển Vật lí: p chuyển sang tiếng Việt thành p. Ví dụ: paradeuterium:
parađơteri, parahelium: paraheli, parahydrogen: parahiđrô, pharton: pacton,
phase: pha, pile: pin, piston: pitông, plasma: plaxma, proton: prôton,
- Phụ âm r
Từ điển Toán - Cơ - Tin học: r chuyển sang tiếng Việt là r. Ví dụ: radio:
rađiô, relay: rơ le, rhumb: rum, rotor: roto, roulette: rulet,
Từ điển Vật lí: r chuyển sang tiếng Việt là r. Ví dụ: robot: rôbot, rotor:
rôto, rutherford: ruzơfo, rydberg: ritbe,...
- Phụ âm t
Từ điển Toán - Cơ - Tin học: t chuyển sang tiếng Việt là t. Ví dụ: tacnode:
tacnot, tautology: tautologi, topology: topo, tensor: tenxơ,
Từ điển Vật lí: t chuyển sang tiếng Việt là t. Ví dụ: tau-meson: mêzon tô,
tensor: tenxơ, tinol: tinon, topaz: tôpa, tourmaline: tuamalin, turbin: tuabin,
Một số phụ âm đầu tiếng Anh khi chuyển sang tiếng Việt đã có sự thay
đổi. Âm /k/ trong tiếng Anh được thể hiện bằng các con chữ c, k, q, khi sang
tiếng Việt về cơ bản vẫn giữ như vậy. Tuy nhiên trong một số trường hợp c và k
là có sự thay đổi.
- Phụ âm c
Từ điển Toán - Cơ - Tin học: c chuyển sang tiếng việt là c, x. Ví dụ:
cathode: catot, compact: compac, compass: compa,
179
Từ điển Vật lí: c chuyển sang tiếng Việt thành c, k, x. Ví dụ: cable: cáp,
calorific: calo, carbon: cacbon, cathode: catôt, comma: com-ma, continuum:
continum, coulomb: culông,
- Phụ âm k
Từ điển Toán - Cơ - Tin học: k chuyển sang tiếng Việt là k. Ví dụ:
kappa: kapa.
Từ điển Vật lí: k chuyển sang tiếng Việt là k, c. Ví dụ: kathode: catot,
kation: cation, kelvin: kenvin, kilocalorie: kilôcalo, kilogram: kilôgam,
kilovolt-ampere: kilôvôn-ampe,
- Phụ âm j
Từ điển Toán - Cơ - Tin học: j chuyển sang tiếng Việt là j. Ví dụ: jack:
jăc, jacobian: jacobi.
Từ điển Vật lí: j chuyển sang tiếng Việt là j, ch. Ví dụ: jacobian:
jacobien, jar: chai.
- Phụ âm f
Từ điển Toán - Cơ - Tin học: f chuyển sang tiếng Việt là f. Ví dụ:
ferrite: ferit, flecnode: flecnot, fractal: fractan.
Từ điển Vật lí: f chuyển sang tiếng Việt là f, ph. Ví dụ: farad: fara,
feeder: fiđơ, foot: fut, foot-lambert: fut-lambe, film: phim,
- Phụ âm s
Từ điển Toán - Cơ - Tin học: s chuyển sang tiếng Việt là s, x. Ví dụ:
servo: secvo, sine: sin, segment: xecmăng,
Từ điển Vật lí: s chuyển sang tiếng Việt là s, x. Ví dụ: sonar: sona,
spinor: spinơ, siphon: xi phông,
- Phụ âm w
Từ điển Vật lí: w chuyển sang tiếng Việt là v. Ví dụ: weber: vêbe, watt
meter: oat kế,
180
- Phụ âm v
Từ điển Toán - Cơ - Tin học: v chuyển sang tiếng Việt là v, r. Ví dụ:
vector: vectơ, versiera: vecsơra, vortex: rota.
Từ điển Vật lí: v chuyển sang tiếng Việt là v. Ví dụ: valve: van, vector:
vectơ, video: viđiô,
- Phụ âm x
Từ điển Toán - Cơ - Tin học: x chuyển sang tiếng Việt là kx. Ví
dụ: xi: kxi.
2.2.3. Tổ hợp phụ âm đầu (được thể hiện bằng con chữ)
- Tổ hợp phụ âm ch
Từ điển Toán - Cơ - Tin học: ch chuyển sang tiếng Việt là ch. Ví dụ:
chat: chat.
Từ điển Vật lí: ch chuyển sang tiếng Việt là c. Ví dụ: chronotron:
cronotron.
- Tổ hợp phụ âm he
Từ điển Toán - Cơ - Tin học: he chuyển sang tiếng Việt là he, ơ. Ví dụ:
heteroscedastic: heteroxcđaxtic, heuristic: ơristic.
Từ điển Vật lí: he chuyển sang tiếng Việt là he, ơ. Ví dụ: hectare:
hecta, helium: heli, heuristic: ơristic.
- Tổ hợp phụ âm dy
Từ điển Toán - Cơ - Tin học: dy chuyển sang tiếng Việt là đy, đi. Ví
dụ: dyne: đyn, đin (đơn vị lực).
Từ điển Vật lí: dy chuyển sang tiếng Việt là đi. Ví dụ: dyne: đin,
dyotron: điôtron, dystectie: đitecti.
- Tổ hợp phụ âm th
Từ điển Toán - Cơ - Tin học: th chuyển sang tiếng Việt thành t. Ví dụ:
theodolite: teođolit.
Từ điển Vật lí: th chuyển sang tiếng Việt thành t. Ví dụ: therm: tecmơ,
thermistor: tecmisto, thyratron: tiratron.
181
2.2.4. Nguyên âm và tổ hợp nguyên âm (được thể hiện bằng con chữ)
Tiếng Anh có 23 nguyên âm và 24 phụ âm. Trong số 23 nguyên âm thì
có 12 nguyên âm đơn, 9 nguyên âm đôi và 2 nguyên âm ba. Tiếng Việt có 14
nguyên âm (gồm 11 nguyên âm đơn, 3 nguyên âm đôi) và 21 phụ âm. Các
nguyên âm đơn tiếng Anh thường có trên hai cách đọc khác nhau khi tham gia
vào kết hợp từ. Hơn nữa, khi các từ tiếng Anh xuất hiện trong tiếng Việt,
chúng một mặt vẫn được phỏng theo cách đọc tiếng Anh, mặt khác lại có
thêm cách đọc của tiếng Việt.
- Nguyên âm a
Từ điển Toán - Cơ - Tin học: a chuyển sang tiếng Việt là a. Ví dụ:
affine: afin.
Từ điển Vật lí: a chuyển sang tiếng Việt là a. Ví dụ: actinides: actinit,
agate: agat.
- Tổ hợp ac, al, au
+ Tổ hợp ac
Từ điển Toán - Cơ - Tin học: ac chuyển sang tiếng Việt là ắc. Ví dụ:
accumulator: ắc quy.
Từ điển Vật lí: ac chuyển sang tiếng Việt là ac. Ví dụ: accumulator:
acquy, activator: activato.
+ Tổ hợp al
Từ điển Toán - Cơ - Tin học: al chuyển sang tiếng Việt là an. Ví dụ:
algorithmical: angorit, alpha: anpha.
Từ điển Vật lí: al chuyển sang tiếng Việt thành a, an. Ví dụ: allochroic
= allochromatic: alocrom, alpha: anpha.
+Tổ hợp au
Từ điển Toán - Cơ - Tin học: au chuyển sang tiếng Việt là o. Ví dụ:
automaton: otomat, autonomous: otonom.
Từ điển Vật lí: au chuyển sang tiếng Việt là ô. Ví dụ: audion: ôđion,
autonomous: ôtônom, auxinotron: ôxinôtron.
182
- Nguyên âm e
Từ điển Toán - Cơ - Tin học: e chuyển sang tiếng Việt là e. Ví dụ:
entropy: entropi.
Từ điển Vật lí: e chuyển sang tiếng Việt là ê. Ví dụ: electret: êlectret,
electron: êlectron.
- Tổ hợp er
Từ điển Toán - Cơ - Tin học: er chuyển sang tiếng Việt là e. Ví dụ:
ergodic: egođic.
Từ điển Vật lí: er chuyển sang tiếng Việt là ec. Ví dụ: ergodic: ecgôđic.
- Nguyên âm i
Từ điển Toán - Cơ - Tin học: i chuyển sang tiếng Việt là i. Ví dụ: ideal:
iđean.
Từ điển Vật lí: i chuyển sang tiếng Việt là i. Ví dụ: ideal: iđêan,
ionotron: ionơtron.
- Tổ hợp id
Từ điển Toán - Cơ - Tin học: id chuyển sang tiếng Việt là iđ. Ví dụ:
(modular) ideal: iđean (mođula).
Từ điển Vật lí: id chuyển sang tiếng Việt là iđ. Ví dụ: ideal: iđêan.
- Nguyên âm y
Từ điển Toán - Cơ - Tin học: y chuyển sang tiếng Việt là y, i. Ví dụ:
cybernetics: xibecnetic, cyclicde: xiclit, cyclotron: xiclotron, dyne: đyn, đin.
Từ điển Vật lí: y chuyển sang tiếng Việt là i. Ví dụ: dynamotor:
đinamôtơ, dynatron: đinatron, dyne: đin.
- Nguyên âm o
Từ điển Toán - Cơ - Tin học: o chuyển sang tiếng Việt là o, ô. Ví dụ:
oval: ovan, servo: secvo, cosecant: côsen.
Từ điển Vật lí: o chuyển sang tiếng Việt là o, ô. Ví dụ: opal: opan,
ozone: ôzon.
183
- Tổ hợp oh
Từ điển Toán - Cơ - Tin học: oh chuyển sang tiếng Việt là o. Ví dụ:
ohm: om.
Từ điển Vật lí: oh chuyển sang tiếng Việt là ô. Ví dụ: ohmic: ômic, ohm
meter: ôm kế,
- Nguyên âm u
Từ điển Toán - Cơ - Tin học: u chuyển sang tiếng việt là u. Ví dụ:
unitary: unita.
Từ điển Vật lí: u chuyển sang tiếng việt là u. Ví dụ: urarnium: urani.
2.2.5. Phụ âm cuối
Nhìn chung, những phụ âm cuối của thuật ngữ Toán-Cơ-Tin, Vật lí
tiếng Anh nào mà trong tiếng Việt cũng có thì đều được giữ nguyên. Ví dụ:
adic: ađic, cryotron: criotron; synchorotron: sincrotron.
Những phụ âm cuối chỉ có trong thuật ngữ Toán - Cơ - Tin học, Vật lí
tiếng Anh mà không có trong thuật ngữ tiếng Việt thì sẽ phải thay đổi để phù
hợp với cách đọc, cách viết của tiếng Việt.
- f chuyển sang tiếng Việt là p. Ví dụ: alef: alep.
- s chuyển sang tiếng Việt là t. Ví dụ: atlas: atlat; , eotvos: etvot.
- d chuyển sang tiếng việt là t. Ví dụ: axoid: axoit, cactoid: cactoit;
cepheid: xêpheit, dyad: điat.
- l chuyển sang tiếng Việt là n. Ví dụ: decibel: đexiben; beryl: berin,
decibel: đêxiben.
Một số tổ hợp chữ cái ở cuối âm tiết thì xu hướng chung đều chuyển
đổi. Cụ thể:
- Tổ hợp phụ âm cuối de
Từ điển Toán - Cơ - Tin học: de chuyển sang tiếng Việt là t. Ví dụ:
anode: anôt, cathode: catot.
184
Từ điển Vật lí: de chuyển sang tiếng Việt là t. Ví dụ: nonode: nonot.
- Tổ hợp phụ âm cuối le
Từ điển Toán - Cơ - Tin học: le chuyển sang tiếng Việt là n. Ví dụ:
capsule: capsun.
Từ điển Vật lí: le chuyển sang tiếng Việt là n. Ví dụ: protile: prôtin.
- Tổ hợp phụ âm cuối ne
Từ điển Toán - Cơ - Tin học: ne chuyển sang tiếng Việt là n. Ví dụ:
affine: afin.
Từ điển Vật lí: ne chuyển sang tiếng Việt là n. Ví dụ: neutrodyne:
nơtrođin.
Kết quả phiên chuyển trong các tư liệu trên cho thấy. Trong Từ điển
Toán - Cơ - Tin học, Vật lí các nhà biên soạn đều chọn cách phiên viết liền, có
sử dụng dấu phụ, dấu thanh ở một số trường hợp (trừ trường hợp ắc quy, xi
phông). Tuy nhiên, đối với những thuật ngữ có yếu tố cấu tạo là tên riêng của
các nhà khoa học, các nhà biên soạn Từ điển Toán - Cơ - Tin học chọn cách
phiên viết liền, có dấu phụ, dấu thanh (trừ Đề các).
Ví dụ: Eulerian angle: góc Ơle.
Trong khi đó Từ điển Vật lí lại chọn cách phiên viết rời có dấu phụ, dấu
thanh và có gạch nối.
Ví dụ: Coulomb scattering angle: góc tán xạ Cu-lông, Bragg angle: góc
Bréc-gơ, Gregorian calendar: lịch Grê-gô-ri-ut.
Số lượng thuật ngữ KHTN có cách phiên chuyển thống nhất được thể
hiện qua bảng 2.4 sau:
185
Bảng 2.4. Những thuật ngữ phiên chuyển thống nhất
trong Từ điển Toán - Cơ - Tin học, Vật lí
Phiên chuyển
TT Nguyên dạng
Toán - Cơ - Tin học Vật lí
1. alpha anpha12 anpha18
2. atlas atlat21 atlat35
3. atmosphere atmotphe21 atmotphe35
4. block bloc30 bloc48
5. caloric, calory, calorie calo35 calo58
6. clothoid clotoit47 clotoit74
7. compact, compactum compac52,53 compac80
8. continuum continum66 continum89
9. cyclic xiclic82 xiclic102
10. cyclotron xiclotron82 xiclotron102
11. dyad điat108 điat130
12. entropy entropi116 entropi150
13. feeder fiđơ135 fiđơ162
14. ferrite ferit135 ferit163
15. grad, grade grat160 grat191
16. hectare hecta167 hecta197
17. mu muy232 muy270
18. panel panen253 panen288
19. phase pha260 pha295
20. pile pin261 pin301
21. pound pao270 pao309
22. saros sarot307 sarot343
23. spinor spinơ329 spinơ360
24. tensor tenxơ tenxơ379
25. vector vectơ372 vectơ401
(Chữ số trên đầu thuật ngữ tương ứng với số trang của từ điển khảo sát)
186
Cách phiên theo Từ điển Toán - Cơ - Tin học, Vật lí có ưu điểm là giúp
cho những người có trình độ phổ thông có thể đọc và viết lại được, nhớ được.
Tuy nhiên, ngoài những phụ âm, nguyên âm,... được phiên chuyển một cách
thống nhất, giữa hai từ điển vẫn còn có sự chưa thống nhất ở một số nguyên
âm, phụ âm,... gây khó khăn cho người tiếp nhận. Những trường hợp có cách
phiên không thống nhất được chúng tôi tổng hợp qua bảng 2.5 sau:
Bảng 2.5. Những thuật ngữ phiên chuyển không thống nhất
trong Từ điển Toán - Cơ - Tin học, Vật lí
Phiên chuyển
TT Nguyên dạng Toán - Cơ - Tin học Vật lí
1. accumulator ắc quy6 acquy10
2. anode anot16 anôt27
3. cathode catot37 catôt63
4. diode điot99 điôt118
5. dyne đyn, đin108 đin131
6. ergodic egođic123 ecgôđic153
7. ideal iđean174 iđêan203
8. module, modulus mođun228 môđun264
9. neutron nơtrơn nơtron
10. piston pittong261 pitông301
11. plasma platma263 plaxma303
12. profile profin278 prôfin315
13. rotor roto304 rôto341
Không chỉ có sự thiếu thống nhất như đã nêu trên, mà ngay trong cách
phiên của mỗi từ điển vẫn có những chỗ không nhất quán. Chẳng hạn, Từ điển
Toán - Cơ - Tin học vừa dùng vectơ, vừa dùng véctơ; khi thì dùng logic, lôgic;
khi dùng rơ le, khi dùng rơle; khi dùng mođun, khi dùng môđun, khi lại dùng
mô đun; khi dùng Đề Các, khi dùng Đề các. Số lượng thuật ngữ, thành tố cấu
tạo thuật ngữ có cách phiên không thống nhất trong Từ điển Toán - Cơ - Tin
học được chúng tôi tổng hợp trong bảng 2.6 sau:
187
Bảng 2.6. Những trường hợp có cách phiên không thống nhất
trong từ điển Toán - Cơ - Tin học
TT Nguyên dạng Phiên âm
1. Gaussian noise nhiễu Gauss157, nhiễu Gauxơ238
2. logical function hàm logic151, hàm lôgic209, lưới logic236,
lưới lôgic209, tích logic278, tích lôgic209
3. module, module of elasticity mođun228, mô đun đàn hồi229
4. Hamiltonian group nhóm Haminton166, nhóm Hamintơn163
5. Cartesian product tích Đề Các37, tích Đề các278
6. field of vectors, vector field trường véctơ136, trường vectơ372
Từ điển Vật lí vừa dùng met (meter), vừa dùng mét; khi dùng an pha,
khi dùng anpha; khi dùng Oet-xtơn, khi dùng Oét-xtơn. Những trường hợp có
cách phiên không thống nhất được chúng tôi tổng hợp trong bảng 2.7 sau:
Bảng 2.7. Những trường hợp có cách phiên không thống nhất
trong Từ điển Vật lí
Stt Nguyên dạng Phiên âm
1. alpha-particle hạt an pha18, hạt anpha290,
2. cadmium (normal) cell,
Weston standard cell
pin chuẩn Oet-xtơn64, pin (chuẩn) Oét-
xtơn65
3. cubic meter, square meter mét khối255, met vuông256
4. homoentropy, isentropic đẳng entrôpi199, đẳng entropi220,
5. volt-ampere meter vôn-ampe kế256, von-ampe kế406
188
3. Nhận xét
Thuật ngữ tiếng Anh xuất hiện ngày càng nhiều trong tiếng Việt.
Tiếng Việt đã tiếp thu một số lượng không nhỏ các thuật ngữ tiếng Anh để
làm giàu vốn thuật ngữ của mình. Tuy nhiên, tùy thuộc vào mỗi lĩnh vực
chuyên môn mà người ta nghiêng về giải pháp này hay giải pháp kia. Để
góp phần vào việc phiên chuyển thuật ngữ KHTN từ tiếng Anh sang tiếng
Việt được chính xác, chúng tôi xin đưa ra một số nhận xét và đề nghị sau.
Trước hết là việc tiếp nhận nguyên dạng thuật ngữ KHTN từ tiếng Anh
sang tiếng Việt. Kết quả nghiên cứu cho nhận thấy, việc tiếp nhận nguyên
dạng có những lợi ích không thể phủ nhận đối với thuật ngữ tiếng Việt. Một
là, chữ viết tiếng Anh và chữ quốc ngữ cùng thuộc chữ Latin. Đây là điều
kiện thuận lợi cho việc tiếp nhận những thuật ngữ từ tiếng Anh sang tiếng
Việt. Hai là, những thuật ngữ được tiếp nhận nguyên dạng đảm bảo được tính
quốc tế, tính chính xác trong khoa học; tiện lợi trong việc giao lưu giữa các
nhà khoa học, nhất là trong thời kì hiện nay khi mà tiếng Anh đang trở thành
ngôn ngữ toàn cầu.
Khó khăn trong việc tiếp nhận nguyên dạng: Một là, hiện nay tiếng
Anh đang phát triển như vũ bão, hàng ngày, hàng giờ có rất nhiều thuật
ngữ mới được xuất hiện. Nếu việc tiếp nhận không được chọn lọc sẽ khiến
cho thuật ngữ tiếng Việt có vô số các thuật ngữ nguyên dạng, điều này sẽ
khiến cho các nhà biên soạn thuật ngữ gặp rất nhiều khó khăn trong việc
xếp thuật ngữ theo mục từ tiếng Việt. Hai là, để viết đúng nguyên dạng, các
nhà khoa học Việt buộc phải thêm một số chữ cái và một số âm vốn không
có ở tiếng Việt.
Đối với trường hợp phiên âm thuật ngữ KHTN từ tiếng Anh sang
tiếng Việt. Việc phiên âm thuật ngữ KHTN từ tiếng Anh sang tiếng Việt có
những thuận lợi sau: tiếng Anh và tiếng Việt đều thuộc hệ chữ latin. Đây là
189
điều kiện thuận lợi để những người phiên thuật ngữ tiếng Anh sang tiếng
Việt dùng ngay con chữ, âm, vần vốn có của tiếng Việt để ghi âm các thuật
ngữ tiếng Anh.
Nhược điểm của phiên âm cũng không ít: 1) Thiếu chính xác trên mặt
chữ viết, cùng một thuật ngữ gốc nhưng khi phiên âm sang tiếng Việt tồn tại
nhiều biến thể khác nhau. Ví dụ: coulomb: culon, culong, culông, cu-lông, cu
lông. 2) Để phiên âm được thuật ngữ nguyên dạng thì phải đọc được nguyên
ngữ đó, trong khi đó việc đọc thuật ngữ nguyên dạng chỉ mang tính “tương
đối” do đó dễ dẫn đến nhiều cách đọc khác nhau, gây khó khăn cho người tiếp
nhận. 3) Những thuật ngữ phiên âm thường gây khó khăn cho việc đánh máy,
dễ dẫn đến sai sót khi phiên âm có dấu - viết liền, vì trong tiếng Việt các âm
tiết được viết tách rời không giống như trong tiếng Anh.
Kết quả nghiên cứu trên cho thấy, số lượng thuật ngữ được tiếp nhận
dưới dạng nguyên dạng, phiên âm trong Từ điển Vật lí cao hơn Từ điển Toán -
Cơ - Tin học. Việc phiên chuyển các thuật ngữ này sang tiếng Việt tuy đạt
được những kết quả to lớn nhưng vẫn còn nhiều vấn đề đặt ra, như việc phiên
chuyển một số thuật ngữ còn thiếu sự thống nhất, hiện tượng đồng nghĩa thuật
ngữ vẫn còn nhiều. Đây chính là một trong những nguyên nhân ảnh hưởng
đến tính chính xác của thuật ngữ và gây khó khăn cho người tiếp nhận.
Đối với trường hợp dyne, Từ điển Toán - Cơ - Tin học phiên là đyn,
đin, Từ điển Vật lí phiên là đin. Theo chúng tôi, trong thuật ngữ KHTN tiếng
Anh có hai đơn vị khác nhau, đó là dyne và din. Nếu phiên là đin sẽ gây nên
sự nhầm lẫn. Vì vậy, đối với trường hợp này chúng ta nên để nguyên dạng.
Khi phiên chuyển thuật ngữ KHTN chúng ta không nên nhất thể dùng i, vì
việc dùng y một mặt vừa không xa rời nguyên ngữ mặt khác lại phù hợp với
kí hiệu quốc tế.
Đối với những thuật ngữ có cấu tạo ngắn gọn gồm một đến hai âm tiết
thì chúng ta nên để nguyên dạng. Ví dụ: atlas, blok, logic,...
190
Đối với các thuật ngữ có yếu tố là tên riêng của các nhà khoa học, các
thuật ngữ đã được phổ thông hóa vẫn nên viết nguyên dạng, bên cạnh đó có
chú phiên âm trong ngoặc đơn.
Đối với những thuật ngữ đã được vay mượn từ lâu, được Việt hóa do
phiên âm hoặc về cách viết, đã quen dùng thì nên phiên theo cách phiên đã phổ
biến. Ví dụ: bơm, phim, chai, van, mét,... còn đối với các thuật ngữ mới được
vay mượn hiện nay và trong tương lai thì nên mượn nguyên dạng thuật ngữ.
Khi đó chúng ta sẽ tránh được mọi phiền phức xảy ra do sự phiên âm mang lại.
Một hệ thuật ngữ chính xác là điều mong muốn của tất cả mọi người.
Trong những trường hợp chuyển dịch, nếu tồn tại nhiều biến thể đồng nghĩa
thì nên chọn một biến thể, tức là ứng với mỗi khái niệm cần gắn với một thuật
ngữ mà thôi. Trường hợp không chọn được một biến thể đảm bảo tính chính
xác thì cách tốt nhất là nên để nguyên dạng.
4. Kết luận
Kết quả nghiên cứu cho phép khẳng định rằng: lớp thuật ngữ được tiếp
nhận từ tiếng Anh sang tiếng Việt chiếm tỉ lệ thấp trong hệ thuật ngữ KHTN
Toán - Cơ - Tin học, Vật lí tiếng Việt. Việc tiếp nhận này được thực hiện chủ
yếu qua hai con đường: nguyên dạng và phiên chuyển. Có thể nhận thấy rằng,
mỗi biện pháp có mặt ưu điểm và hạn chế. Tuy nhiên, trong hai tư liệu mà
chúng tôi nghiên cứu, việc tiếp nhận bằng hình thức phiên chuyển chiếm tỉ lệ
cao hơn nguyên dạng.
Kết quả nghiên cứu cũng cho thấy, việc phiên chuyển các thuật ngữ
KHTN Toán - Cơ - Tin học, Vật lí từ tiếng Anh sang tiếng Việt tuy đạt được
những kết quả to lớn nhưng vẫn còn nhiều vấn đề đặt ra, như việc phiên
chuyển một số thuật ngữ còn thiếu sự thống nhất, hiện tượng tồn tại nhiều
biến thể vẫn còn. Đây chính là một trong những nguyên nhân ảnh hưởng đến
tính chính xác của thuật ngữ và gây khó khăn cho người tiếp nhận.