VIỆN HÀN LÂM
KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM
HỌC VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI
NGUYỄN THỊ THU HÀ
NGHI LỄ VÕNG ĐỜI CỦA NGƢỜI DAO
THANH Y Ở HUYỆN HOÀNH BỒ,
TỈNH QUẢNG NINH
Chuyên ngành: Nhân học
Mã số : 62 31 03 02
LUẬN ÁN TIẾN SĨ NHÂN HỌC
NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC:
1. PGS.TS. Phạm Quang Hoan
2. TS. Đặng Thị Hoa
Hà Nội - 2016
LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan đây là công trình nghiên cứu của riêng tôi. Nội dung
trình bày trong luận án là kết quả điều tra khảo sát thực địa
197 trang |
Chia sẻ: huong20 | Ngày: 14/01/2022 | Lượt xem: 427 | Lượt tải: 1
Tóm tắt tài liệu Luận án Nghi lễ võng đời của người Dao Thanh Y ở huyện Hoành bồ, tỉnh Quảng Ninh, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
của tác giả tại tỉnh
Quảng Ninh. Các số liệu, kết quả trong luận án hoàn toàn trung thực.
Nghiên cứu sinh
Nguyễn Thị Thu Hà
LỜI CẢM ƠN
Để hoàn thành luận án Tiến sĩ về đề tài: Nghi lễ vòng đời của người
Dao Thanh Y ở huyện Hoành Bồ, tỉnh Quảng Ninh, tôi xin bày tỏ lời cảm ơn
chân thành tới:
- Ban Giám hiệu trường Đại học Văn hóa Nghệ thuật Quân đội - Nhà
Hát NTTH nơi tôi đang công tác, đã tạo điều kiện về thời gian để tôi hoàn
thành chương trình học tập và thực hiện luận án.
- Học viện Khoa học xã hội và Khoa Dân tộc học đã tận tình giúp đỡ,
tạo điều kiện cho tôi trong quá trình học tập và thực hiện luận án.
- Sở Văn hóa - Thể thao và Du lịch tỉnh Quảng Ninh, cán bộ huyện, xã
và đồng bào Dao Thanh Y, Dao Thanh Phán, xã Bằng Cả, huyện Hoành Bồ,
huyện Tiên Yên, tỉnh Quảng Ninh, địa bàn nơi tôi điền dã, nghiên cứu đã nhiệt
tình giúp đỡ và cộng tác giúp tôi thu thập thông tin, tư liệu của luận án.
- Gia đình, bạn bè và đồng nghiệp đã chia sẻ, khích lệ tôi trong thời
gian thực hiện luận án.
- Tập thể hướng dẫn khoa học: PGS.TS. Phạm Quang Hoan và TS.
Đặng Thị Hoa đã tư vấn, định hướng khoa học rõ ràng cho tôi trong quá trình
học tập và thực hiện luận án. Tập thể hướng dẫn đã có những ý kiến gợi mở
và đóng góp trực tiếp vào các nội dung nghiên cứu của luận án.
Xin chân thành cảm ơn!
Hà Nội, ngày 06 tháng 6 năm 2016
Nghiên cứu sinh
Nguyễn Thị Thu Hà
MỤC LỤC
MỞ ĐẦU ............................................................................................................. 1
Chƣơng 1: TỔNG QUAN TÌNH HÌNH NGHIÊN CỨU, CƠ SỞ LÝ
THUYẾT, GIỚI THIỆU ĐỊA BÀN NGHIÊN CỨU ..................................... 8
1.1. Tổng quan tình hình nghiên cứu ....................................................................... 8
1.2. Các khái niệm tiếp cận và cơ sở lý thuyết ..................................................... 14
1.3. Giới thiệu về người Dao Thanh Y ở tỉnh Quảng Ninh ................................. 21
Chƣơng 2: NGHI LỄ SINH ĐẺ VÀ CHĂM SÓC, NUÔI DẠY CON ........ 34
2.1. Quan niệm của người Dao Thanh Y về con người và sinh đẻ ..................... 34
2.2. Nghi lễ và kiêng cữ trong quá trình mang thai .............................................. 35
2.3. Nghi lễ và các kiêng kỵ khi sinh con ............................................................. 38
2.4. Lễ đặt tên .......................................................................................................... 40
2.5. Nghi lễ nhận con nuôi ..................................................................................... 44
2.6. Biến đổi trong nghi lễ sinh đẻ ......................................................................... 44
Chƣơng 3: NGHI LỄ TRƢỞNG THÀNH (LỄ CẤP SẮC) ......................... 50
3.1. Tên gọi và ý nghĩa của lễ cấp sắc trong cộng đồng người Dao ở nước ta ........ 50
3.2. Lễ cấp sắc của người Dao Thanh Y ở Hoành Bồ tỉnh Quảng Ninh ............. 53
3.3. Các bước chuẩn bị nghi lễ ............................................................................... 56
3.4. Các bước nghi lễ cấp sắc ................................................................................. 60
3.5. Những biến đổi trong nghi lễ cấp sắc ............................................................. 67
Chƣơng 4: NGHI LỄ TRONG HÔN NHÂN VÀ CƢỚI XIN ...................... 72
4.1. Quan niệm của người Dao về hôn nhân ......................................................... 72
4.2. Các nghi lễ trong đám cưới ............................................................................. 76
4.3. Các nghi lễ sau đám cưới ................................................................................ 87
4.4. Biến đổi trong nghi lễ hôn nhân ..................................................................... 90
Chƣơng 5: NGHI LỄ TANG MA ................................................................... 99
5.1. Quan niệm của người Dao Thanh Y về sự tồn tại của linh hồn và cái chết 99
5.2. Nghi lễ trong tang ma .................................................................................... 101
5.3. Biến đổi trong nghi lễ tang ma ..................................................................... 116
Chƣơng 6: KẾT QUẢ VÀ BÀN LUẬN ....................................................... 119
6.1. Kết quả ........................................................................................................... 119
6.2. Bàn luận ......................................................................................................... 126
KẾT LUẬN ..................................................................................................... 145
DANH MỤC CÁC CÔNG TRÌNH ................................................................. 149
TÀI LIỆU THAM KHẢO ................................................................................ 150
DANH SÁCH NHỮNG NGƯỜI CUNG CẤP THÔNG TIN ......................... 161
PHỤ LỤC ....................... ..
DANH MỤC CÁC CHỮ VIẾT TẮT
CNH : Công nghiệp hóa
GS : Giáo sư
HĐH : Hiện đại hóa
KHXH : Khoa học xã hội
PGS : Phó giáo sư
TS : Tiến sĩ
Nxb : Nhà xuất bản
Tr. (tr.) : Trang
UBND : Ủy ban nhân dân
YHCT : Y học cổ truyền
VND : Việt Nam đồng
MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Bảo tồn và phát triển văn hóa truyền thống của các dân tộc luôn là vấn
đề được Đảng và Nhà nước ta quan tâm. Trong xu thế phát triển hiện nay, dưới
sự tác động mạnh mẽ của quá trình toàn cầu hóa, kinh tế thị trường và đô thị
hóa, nhiều thành tố của nghi lễ trong văn hóa truyền thống tộc người đang bị
biến đổi. Trong bối cảnh đó, nghiên cứu về văn hóa tộc người nói chung, nghi
lễ vòng đời của các tộc người nói riêng có ý nghĩa quan trọng, góp phần gìn giữ
và phát huy các giá trị bản sắc văn hóa của các tộc người.
Dân tộc Dao là một trong số ít các dân tộc ở Việt Nam có nhiều nhóm
địa phương như: Dao Tiền, Dao Đỏ, Dao Tuyển, Dao Họ, Dao Quần Chẹt,
Dao Thanh Y, Dao Lô Gang, Mỗi nhóm Dao có những đặc trưng văn hoá
riêng, đa dạng trong các thành tố văn hoá nhưng lại thống nhất trong một số
nghi lễ truyền thống tộc người. Nghiên cứu về nghi lễ vòng đời của người
Dao Thanh Y ở xã Bằng Cả, huyện Hoành Bồ, tỉnh Quảng Ninh giúp chúng ta
hiểu biết một cách toàn diện và có hệ thống sự đa dạng trong văn hóa của tộc
người Dao nói chung, người Dao Thanh Y nói riêng, đồng thời cung cấp
những luận cứ và tư liệu khoa học cho các nhà hoạch định chính sách, các nhà
nghiên cứu khoa học, góp phần bảo tồn và phát huy văn hóa các giá trị truyền
thống của người Dao Thanh Y trước sự mai một và biến đổi, trong bối cảnh
hội nhập và toàn cầu hóa.
Hoành Bồ là huyện miền núi của tỉnh Quảng Ninh, có 5 dân tộc anh em
cùng sinh sống, trong đó, người Dao có hơn 10.515 người với hai nhóm chính
là Dao Thanh Y và Dao Thanh Phán. Người Dao Thanh Y cư trú tập trung ở
các xã: Tân Dân (1.804 người), Bằng Cả (1.239 người), Đồng Lâm (2.095
người). Những giá trị văn hóa phi vật thể của người Dao Thanh Y như: Hội
làng, lễ cấp sắc, hát giao duyên, tục cưới hỏi, ma chay... được duy trì và bảo
1
tồn từ đời này sang đời khác. Trong đó, nghi lễ vòng đời của người Dao Thanh
Y đã trở thành dấu ấn trong tiềm thức, là nét đẹp văn hóa tinh thần không thể
thiếu của mỗi người dân nơi đây và cũng là một nét sinh hoạt văn hóa cộng
đồng mang đặc trưng văn hóa truyền thống của các dân tộc ở Việt Nam.
Các loại hình sinh hoạt văn hóa của mỗi dân tộc được hình thành từ
những thói quen, phong tục tập quán trong đời sống sinh hoạt phù hợp với
điều kiện tự nhiên, mang những biểu trưng riêng, đậm bản sắc văn hóa tộc
người. Nghi lễ vòng đời của người Dao Thanh Y là một di sản văn hóa quý
báu, đồng thời cũng là một kho tư liệu rất quý giúp cho việc nghiên cứu về
nhiều lĩnh vực như: Tôn giáo, tín ngưỡng, văn hóa tộc người Các nghi lễ
vòng đời của người Dao Thanh Y cũng chứa đựng nhiều nội dung tư tưởng
mang tính giáo dục sâu sắc, thể hiện bản chất tốt đẹp và mang đậm bản sắc
dân tộc Dao. Thông qua nội dung các bài cúng khấn, các bài hát trong nghi lễ
đã nói lên khát vọng của con người mong muốn có một cuộc sống hạnh phúc,
thể hiện những quan niệm về đạo đức, chứa đựng những giá trị nhân văn
mang tính hướng thiện và có tính giáo dục sâu sắc. Đồng thời cũng thể hiện
quan niệm đạo đức về lòng chung thủy, tình nghĩa vợ chồng qua lễ kết hôn;
quan niệm về nguồn gốc, tổ tiên dòng họ qua lễ cúng Bàn Vương; học giáo lý của
Đạo giáo, học đạo lý làm người qua lễ cấp sắc...
Trong quá trình hội nhập và toàn cầu hóa hiện nay, việc giao lưu và tiếp
biến văn hóa của người Dao ở Việt Nam nói chung và người Dao Thanh Y ở
xã Bằng Cả, huyện Hoành Bồ, tỉnh Quảng Ninh nói riêng đã và đang diễn ra.
Khi vốn văn hóa các dân tộc, đặc biệt là ở nhóm Dao Thanh Y, đang dần biến
đổi, thậm chí có thể mai một mất đi, thì việc nghiên cứu và bảo tồn, phát huy
các giá trị văn hóa ấy trong cuộc sống đương đại là rất cần thiết. Do đó, việc
nghiên cứu về nghi lễ vòng đời của người Dao Thanh Y trong bối cảnh hiện
nay không chỉ góp phần giữ gìn truyền thống văn hóa tốt đẹp của tộc người
mà còn cung cấp những luận cứ khoa học giúp tỉnh Quảng Ninh nhận rõ
2
những giá trị văn hóa của người Dao Thanh Y để có hướng bảo tồn, kế thừa
và phát huy những mặt tốt cho việc xây dựng đời sống văn hóa ở cơ sở, giúp
cơ quan quản lý nhà nước có những giải pháp phù hợp trong việc ổn định an
ninh chính trị, kinh tế, xã hội, bảo tồn và phát huy các di sản của các tộc
người phù hợp với tinh thần Nghị quyết Trung ương 5 khoá VIII Về xây dựng
và phát triển nền văn hoá Việt Nam, tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc, và tiếp
tục triển khai Nghị quyết Trung ương 9, khóa XI Về xây dựng và phát triển
văn hóa, con người Việt Nam đáp ứng yêu cầu phát triển bền vững đất nước.
Xuất phát từ những nhận thức trên, với thực tế hơn 25 năm làm công tác
văn hóa, tác giả luận án là một giảng viên, biên đạo múa dân gian, dân tộc.
Nghiên cứu và tìm hiểu nghi lễ vòng đời của người Dao Thanh Y, với mong
muốn đóng góp thêm vào sự hiểu biết sâu sắc hơn những đặc trưng văn hoá, về
nguồn gốc lịch sử, về sự giao lưu, ảnh hưởng văn hoá của nhóm Dao Thanh Y
với các nhóm Dao khác ở tỉnh Quảng Ninh, từ đó cung cấp những tư liệu khoa
học cho các cấp chính quyền địa phương nơi đây trong việc đề xuất, tìm ra các
giải pháp thích hợp trong việc giữ gìn, làm giàu bản sắc văn hoá phù hợp với
chủ trương, chính sách về nếp sống văn hoá mới của Đảng và Nhà nước tại địa
phương. Vì vậy, tác giả đã chọn vấn đề Nghi lễ vòng đời của người Dao Thanh
Y ở huyện Hoành Bồ, tỉnh Quảng Ninh làm đề tài luận án tiến sĩ chuyên ngành
Nhân học.
2. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu luận án
- Nghiên cứu có hệ thống và toàn diện nghi lễ vòng đời của người Dao
Thanh Y ở huyện Hoành Bồ, tỉnh Quảng Ninh, góp phần làm sáng tỏ đặc
trưng văn hóa của người Dao Thanh Y trong đời sống văn hóa tinh thần
truyền thống cũng như những biến đổi hiện nay.
- Thông qua nghiên cứu, làm rõ những yếu tố biến đổi trong nghi lễ vòng
đời của người Dao Thanh Y từ năm 1986 đến nay, tìm ra những giá trị và một
3
số hạn chế của các nghi lễ trong quá trình giao lưu và tiếp biến văn hoá tộc
người.
- Đề xuất quan điểm và giải pháp cho việc bảo tồn và phát huy những
mặt tích cực, hạn chế những mặt không còn phù hợp trong nghi lễ vòng đời
của người Dao Thanh Y.
3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu luận án
- Đối tượng nghiên cứu của luận án là nghi lễ vòng đời (gồm: sinh đẻ,
cấp sắc, hôn nhân và tang ma) của nhóm Dao Thanh Y ở Quảng Ninh, trong
đó tập trung nghiên cứu, thu thập tư liệu tại xã Bằng Cả, huyện Hoành Bồ.
- Phạm vi nội dung nghiên cứu: Luận án tập trung nghiên cứu nghi lễ
sinh đẻ, nghi lễ trưởng thành (lễ cấp sắc), nghi lễ hôn nhân và nghi lễ tang
ma của người Dao Thanh Y từ truyền thống đến biến đổi. Phạm vi truyền
thống được giới hạn là giai đoạn trước năm 1986; Giai đoạn biến đổi được
xác định là từ đổi mới năm 1986 đến nay.
4. Phương pháp luận và phương pháp nghiên cứu của luận án
Phương pháp luận
Thực hiện luận án này, tác giả dựa trên cơ sở lý luận duy vật biện
chứng và duy vật lịch sử của chủ nghĩa Mác- Lênin để xem xét đối tượng
nghiên cứu có mối quan hệ lịch đại và đồng đại, có sự vận động, biến đổi
liên tục trong quá trình phát triển của lịch sử từ truyền thống đến hiện đại;
nghiên cứu sự biến đổi trong các nghi lễ vòng đời của người Dao Thanh Y ở
huyện Hoành Bồ, tỉnh Quảng Ninh trong mối tương tác với các điều kiện
kinh tế - xã hội, giao lưu tiếp biến văn hóa tộc người. Luận án còn dựa trên
các quan điểm đổi mới của Đảng và Nhà nước ta về văn hóa, bảo tồn và phát
huy các giá trị văn hóa tộc người phục vụ cho mục đích phát triển và hướng
tới phát triển bền vững.
Phương pháp nghiên cứu
4
Trong quá trình thực hiện luận án, tác giả đã sử dụng những phương
pháp cơ bản sau:
- Phương pháp điền dã dân tộc học: Đây là phương pháp chủ đạo, quan
trọng nhất nhằm thu thập tài liệu để xây dựng luận án. Tác giả đã sử dụng
các công cụ nghiên cứu trong điền dã dân tộc học như: Quan sát thực địa,
phỏng vấn sâu, thảo luận nhóm: Mỗi công cụ được sử dụng linh hoạt tuỳ
thuộc vào nhóm đối tượng. Tác giả đã thực hiện hơn 35 cuộc phỏng vấn sâu
với các đối tượng, lựa chọn khác nhau về lứa tuổi, giới tính, nghề nghiệp và
địa vị xã hội như thầy cúng, chủ hộ gia đình, nghệ nhân, cán bộ quản lý
Đây là những người am hiểu phong tục tập quán của người Dao Thanh Y ở
địa phương để tìm hiểu chi tiết về các nghi lễ vòng đời. Qua phỏng vấn sâu,
tác giả đã thu thập được các tư liệu cần thiết để so sánh đồng đại, lịch đại, so
sánh giữa các nhóm đối tượng cung cấp thông tin Phương pháp thảo luận
nhóm được sử dụng để thu thập thông tin chung của cộng đồng và các ý kiến
đánh giá dựa vào cộng đồng.
Bằng các công cụ nghiên cứu, tác giả tập trung thu thập các tư liệu như: quá
trình thực hiện nghi lễ, các nghi thức, các trò diễn... Trong quá trình sử dụng
phương pháp quan sát, phỏng vấn, ghi chép của điền dã Dân tộc học có sự trợ
giúp của một số phương tiện như máy camera, máy ảnh, máy ghi âm
- Phương pháp tọa đàm, xin ý kiến chuyên gia: Tác giả thực hiện trao đổi
trực tiếp với những chuyên gia nghiên cứu về lĩnh vực nghi lễ như các cán bộ
nghiên cứu văn hóa ở tỉnh Quảng Ninh, các chuyên gia ở Trung ương có kinh
nghiệm nghiên cứu trong lĩnh vực về nghi lễ vòng đời, có kiến thức về văn
hoá Dao, để thu thập những ý kiến đánh giá chuyên sâu và những kinh
nghiệm của họ phục vụ cho các vấn đề nghiên cứu của luận án.
- Phương pháp hệ thống, so sánh, thống kê: Trong quá trình nghiên
cứu, tác giả còn sử dụng các phương pháp nghiên cứu hệ thống, so sánh,
thống kê có chọn lọc nguồn tài liệu của các nhà khoa học khác để kế thừa bổ
sung và rút ra các điểm riêng và chung của đề tài. Một số vấn đề trong luận án
5
được so sánh cả lịch đại và đồng đại nhằm tìm ra sự biến đổi của nghi lễ vòng
đời và những tác động của nó trong đời sống xã hội của người Dao Thanh Y.
5. Đóng góp mới về khoa học của luận án
- Luận án là công trình nghiên cứu tổng thể, toàn diện, có hệ thống và
chuyên sâu đầu tiên dưới góc độ chuyên ngành Nhân học về nghi lễ vòng đời
của người Dao Thanh Y ở huyện Hoành Bồ, tỉnh Quảng Ninh.
- Góp phần hiểu biết sâu sắc hơn về những đặc trưng văn hoá của nhóm
Dao Thanh Y, về sự giao lưu, ảnh hưởng văn hoá giữa họ với các nhóm Dao
cũng như với các dân tộc khác ở tỉnh Quảng Ninh. Việc nghiên cứu cũng giúp
chúng ta hiểu biết đầy đủ hơn về truyền thống văn hóa, nguồn gốc lịch sử của
người Dao Thanh Y tại một địa phương.
- Góp thêm nguồn tài liệu tham khảo hữu ích cho các nhà nghiên cứu,
giảng dạy, các nhà quản lý và hoạch định, thực thi chính sách về phát huy các
giá trị văn hoá truyền thống tộc người trong công cuộc phát triển kinh tế - xã
hội ở tỉnh Quảng Ninh và với dân tộc Dao ở nước ta hiện nay.
6. Ý nghĩa lý luận và ý nghĩa thực tiễn của luận án
Luận án được xây dựng từ các tư liệu thực tế, dưới góc nhìn Nhân học,
góp phần cung cấp cho người đọc một cách có hệ thống những thông tin mới
về nghi lễ vòng đời của người Dao Thanh Y.
Qua việc thực hành các nghi lễ (như sinh đẻ, lễ cấp sắc, hôn nhân, tang
ma) chúng ta thấy được giá trị văn hoá, thẩm mỹ, thế giới quan, nhân sinh
quan, bản sắc văn hoá tộc người trải qua các giai đoạn phát triển của xã hội,
thấy được những mặt tích cực cũng như yếu tố không còn phù hợp với đời
sống văn hoá mới góp phần làm cơ sở khoa học cho các cấp chính quyền địa
phương nơi đây trong việc đề xuất, xây dựng và triển khai thực hiện có hiệu
quả các chủ trương, chính sách về nếp sống văn hoá mới của Đảng và Nhà
nước tại địa phương, các giải pháp thích hợp trong việc giữ gìn, làm giàu và
phát huy bản sắc văn hoá dân tộc trong phong trào xây dựng nông thôn mới,
6
phát triển du lịch văn hoá, du lịch cộng đồng ở huyện Hoành Bồ và Festival
Hạ Long của tỉnh Quảng Ninh .
7. Kết cấu của luận án
Ngoài phần Mở đầu, Kết luận, Tài liệu tham khảo và Phụ lục, luận án
được kết cấu thành 6 chương như sau:
Chương 1: Tổng quan tình hình nghiên cứu, cơ sở lý thuyết và giới
thiệu địa bàn nghiên cứu
Chương 2: Nghi lễ sinh đẻ và chăm sóc, nuôi dạy con
Chương 3: Nghi lễ trưởng thành (lễ cấp sắc)
Chương 4: Nghi lễ trong hôn nhân và cưới xin
Chương 5: Nghi lễ tang ma
Chương 6: Kết quả và bàn luận
7
Chƣơng 1
TỔNG QUAN TÌNH HÌNH NGHIÊN CỨU, CƠ SỞ LÝ THUYẾT,
GIỚI THIỆU ĐỊA BÀN NGHIÊN CỨU
1.1. Tổng quan tình hình nghiên cứu
1.1.1. Nghiên cứu của các tác giả nước ngoài
Nghiên cứu về người Dao ở Việt Nam của các tác giả nước ngoài thời kỳ
Pháp thuộc chủ yếu là các linh mục, sĩ quan, một số nhà nghiên cứu khoa học
Pháp. Nhiều tài liệu viết về người Dao ở nước ta được công bố trên các tập san
của Trường Viễn đông Bác cổ (BEFEO) và xuất bản thành sách. Đó là các bài
viết của M.Abadie và A.Bonifacy như: Một cuộc công cán ở vùng người Mán
từ tháng 10 năm 1901 đến cuối tháng giêng năm 1902 [5]... Hầu hết các công
trình nghiên cứu này đề cập đến các khía cạnh văn hóa của một số nhóm Dao ở
nước ta như ngôn ngữ, sản xuất kinh tế, phong tục tập quán trong sinh đẻ, cưới
xin, ma chay... Tuy nhiên, các tác giả mới chỉ dừng lại dưới dạng mô tả khái
quát và không đi sâu về các nghi lễ vòng đời.
Trong số các tác giả người Pháp, đáng chú ý là A. Bonifacy, một nhà
ngôn ngữ học, đã điều tra điền dã ở nhiều địa phương có người Dao cư trú và
thống kê các tên gọi của từng nhóm Dao (cả tên tự gọi và tên các dân tộc khác
gọi). Ông đã tiến hành phân loại các nhóm Dao trên cơ sở dựa vào hai phương
ngữ, trong đó các nhóm Dao gọi từ người là Mun có Mán Quần Trắng, Mán
Lam Điền, Mán Quần Cộc; còn những nhóm gọi từ người là Miên có Mán
Tiền, Mán Đại Bản hay Mán Sừng... Có lẽ ông đọc được các loại sách ghi
chép bằng chữ Nôm Dao, nên một số công trình nghiên cứu của ông về tôn
giáo tín ngưỡng và văn học dân gian đến nay vẫn còn giá trị tham khảo.
Các học giả Xô Viết trước đây cũng quan tâm nghiên cứu về người Dao
ở Việt Nam. Có thể kể đến một số tác giả như A.I.Lexkinen, N.N.Tsebocxrov,
I.A.Tsebocxrova, M.V.Kriukov... Trong đó, đáng chú ý tới công trình "Chủng
tộc, Dân tộc, Văn hóa" được xuất bản năm 1971 bằng tiếng Nga. Công trình
này đã đề cập đến các yếu tố nhân chủng và một số tập quán liên quan đến các
8
nhóm Dao Đỏ, Dao Thanh Y và Dao Quần Trắng ở Việt Nam, song hầu như
không có tư liệu về nghi lễ vòng đời của tộc người này.
Ngoài ra, phải kể đến một số bài viết của các học giả quốc tế và Việt Nam
đã trình bày tại Hội nghị quốc tế học về người Dao được tổ chức tại Trung
Quốc và Việt Nam. Những bài tham luận khoa học này đã góp phần làm rõ
các vấn đề liên quan tới văn hóa và sự biến đổi kinh tế - xã hội của người Dao
ở Việt Nam và các nước trong khu vực.
1.1.2. Nghiên cứu của các tác giả trong nước
Trong các tài liệu thư tịch, người Dao được giới thiệu về nguồn gốc, một
số phong tục tập quán dưới tên gọi là Man. Chẳng hạn như: Kiến văn tiểu lục
của Lê Quý Đôn [30]; “Hưng hóa xứ phong thổ lục" [11] Các công trình
này ít nhiều đề cập đến nhóm man (từ chỉ chung cho một số dân tộc thiểu số ở
miền núi), trong đó có người Dao. Đáng chú ý là tác phẩm Hưng Hóa ký lược
của Phạm Thận Duật có đề cập nhiều đến các dân tộc ở vùng Tây Bắc Việt
Nam, trong đó có người Dao. Trong mục Phong tục tập quán, Phạm Thận
Duật có nhắc đến đôi nét về người Mán Sừng (Dao Đỏ), người Mán Đạn Tiên
(Dao Làn Tiên)... Tuy nhiên, ông mới chỉ đề cập tới tên gọi, đặc điểm trang
phục và một số tập quán trong hoạt động kinh tế, lối sống [18].
Từ sau khi giải phóng miền Bắc đến nay, để phục vụ cho việc thực hiện
chính sách dân tộc của Đảng và Nhà nước, nhiều nhà nghiên cứu Dân tộc học,
Văn hóa học đã có nhiều công trình nghiên cứu về người Dao ở Việt Nam.
Đáng chú ý là Trần Quốc Vượng [114], [115], [116]; Bế Viết Đẳng [26], [27],
[28];Bàn Tài Đoàn [29];Nguyễn Khắc Tụng [89], [90]; Phan Hữu Dật [13],
[14], [15], [16], [17]; Lý Hành Sơn [67], [68], [69], [70], [71]; Trần Hữu Sơn
[72], [73], [74], [75];Lê Sỹ Giáo [34];Phạm Quang Hoan, Hùng Đình Quý
[52]; Nguyễn Ngọc Thanh [77]; Ngô Đức Thịnh [82], [83], [84];Triệu Tài
Lâm [58]; Hoàng Lương [65]; Vương Xuân Tình [86]; Phạm Văn Dương
[24] Các công trình nghiên cứu trên đã cho chúng ta một cái nhìn tổng thể
và khá chi tiết về người Dao ở Việt Nam. Với nhiều nguồn tư liệu điền dã
phong phú, chính xác, cụ thể, các tác giả đã đề cập khái quát về tên gọi,
9
nguồn gốc lịch sử, địa bàn cư trú, các hình thức sinh kế, đời sống vật chất,
phong tục tập quán, tôn giáo, tín ngưỡng, văn học nghệ thuật, tri thức dân
gian và những biến đổi trong đời sống sinh hoạt của dân tộc Dao ở nước ta từ
sau 1954 đến nay.
Cũng từ 1954 đến nay, nghiên cứu trực tiếp về các nghi lễ trong chu kỳ
đời người của người Dao, có một số công trình nghiên cứu của Lý Hành Sơn:
Những tập tục liên quan đến dân số và kế hoạch hóa gia đình của người Dao
Tiền ở huyện Ba Bể, Cao Bằng [68], Lễ cưới của người Dao Tiền ở Ba Bể,
Bắc Kạn [69], Các nghi lễ chủ yếu trong chu kì đời người của nhóm Dao Tiền
ở Bắc Kạn [71], Lễ cấp sắc và bản sắc văn hóa Dao [70] Trên cơ sở mô tả
khá sinh động các nghi lễ chủ yếu trong chu kì đời người và quá trình biến đổi
của những nghi lễ đó, tác giả Lý Hành Sơn đã làm rõ vai trò, chức năng, giá
trị của những nghi lễ này cũng như đặc trưng văn hóa của người Dao nói
chung, nhất là người Dao Tiền ở Bắc Kạn.
Việc nghiên cứu cụ thể về các nghi lễ trong chu kỳ đời người của dân tộc
Dao còn thấy ở các công trình khác như: Tục cấp sắc của người Dao và tính
giáo dục của nó trong sự phát triển văn hoá xã hội của người Dao: Hiện tại và
tương lai [36], Tập tục chu kỳ đời người của các tộc người ngôn ngữ Mông -
Dao ở Việt Nam[61], Người Dao ở Lạng Sơn[63], Lễ cưới người Dao Tuyển
[75], Phong tục tập quán của người Dao Thanh Hoá [111]
Điểm lại các công trình nghiên cứu về người Dao ở Việt Nam cho thấy,
các nhà nghiên cứu dân tộc học, văn hóa học... đã quan tâm tới nhiều khía
cạnh, lĩnh vực trong đời sống văn hóa - xã hội của người Dao. Đây là nguồn
tài liệu phong phú và quí giá để nghiên cứu một cách toàn điện hơn, sâu sắc
hơn về các nghi lễ vòng đời của dân tộc Dao ở nước ta.
1.1.3. Nghiên cứu về người Dao ở Quảng Ninh
Năm 1999, trong khuôn khổ Chương trình bảo tồn văn hóa phi vật thể,
Sở Văn hóa - Thông tin tỉnh Quảng Ninh đã thực hiện dự án điều tra, sưu tầm
lễ cấp sắc của người Dao Thanh Phán ở huyện Hoành Bồ, tỉnh Quảng Ninh. Dự
án đã sưu tầm đầy đủ lễ cấp sắc, mô tả đầy đủ các bước trong lễ cấp sắc của
10
người Dao Thanh Phán và Dao Thanh Y tại địa phương, 15 nghi lễ của người
Dao Thanh Y và 12 nghi lễ của người Dao Thanh Phán đã được công trình
trình bày sơ lược các bước trong nghi lễ, cũng như diễn giải ý nghĩa của các
bức tranh bắt buộc phải có trong lễ cấp sắc. Có thể nói, lễ cấp sắc là một trong
những phong tục cổ truyền của người Dao chứa đựng nhiều yếu tố văn hóa tâm
linh cũng như nghệ thuật rất phong phú và đa dạng. Những yếu tố đó có tính
nhân văn sâu sắc và được coi như triết lý sống của người dân.
Năm 2005, Sở Văn hóa - Thông tin tỉnh Quảng Ninh trên cơ sở báo cáo
điều tra, sưu tầm hội làng của người Dao Thanh Y ở xã Bằng Cả, huyện Hoành
Bồ đã lập dự án bảo tồn và phát huy giá trị văn hóa dân tộc Dao xã Bằng Cả,
huyện Hoành Bồ, tỉnh Quảng Ninh. Trong dự án này, các tác giả đã trình bày
các nhóm Dao hiện đang sinh sống tại Quảng Ninh và cách thức phân loại của
từng nhóm Dao, cũng như đề cập một cách khái quát về đời sống kinh tế - xã hội
của người Dao tại xã Bằng Cả.
Ngoài những chương trình lớn kể trên, Sở Văn hóa, Thể thao và Du lịch tỉnh
Quảng Ninh (trước đây là Sở Văn hóa - Thông tin tỉnh Quảng Ninh) còn chỉ đạo
thực hiện việc sưu tầm, bảo tồn các loại hình dân ca, dân vũ Dao, lập dự án đầu tư
bảo tồn làng truyền thống dân tộc Dao Thanh Y. Qua dự án bảo tồn làng truyền
thống của người Dao Thanh Y cho thấy, đây là chủ trương lớn của tỉnh trong việc
bảo tồn các giá trị văn hóa gắn với phát triển du lịch, gắn với mục tiêu bảo tồn cảnh
quan môi trường sống, sinh hoạt đặc thù và tập quán canh tác truyền thống. Bảo tồn
không gian văn hóa, cảnh quan thiên nhiên gắn với phong tục tập quán sinh hoạt
của người dân, cây trồng, các quy trình, phương thức sản xuất, công cụ sản xuất
Có một số nhà nghiên cứu đã quan tâm tới người Dao ở Quảng Ninh.
Chẳng hạn như: Nguyễn Quang Vinh, nguyên là một sĩ quan biên phòng tỉnh
Quảng Ninh, đã có một số công trình nghiên cứu về người Dao, trong đó, tác
phẩm Một số vấn đề người Dao Quảng Ninh [113], đã nghiên cứu khá toàn
diện về các vấn đề đặt ra hiện nay ở vùng dân tộc thiểu số nói chung và khu
vực người Dao nói riêng, mô tả khái quát về những đặc điểm văn hóa nổi bật
của các nhóm Dao sinh sống tại địa phương, đặc biệt nhấn mạnh tới những
11
vấn đề liên quan tới tình hình an ninh, quốc phòng tại các huyện trong tỉnh có
người Dao sinh sống. Tác giả Nguyễn Quang Vinh đã tổng kết các vấn đề có
tính thực tiễn của bộ đội biên phòng trong khu vực biên giới, chính vì vậy,
đây là một trong những tài liệu phục vụ cho bộ đội biên phòng và cho cả các
nhà nghiên cứu sử dụng khi đi thực tế tại khu vực người Dao tại Quảng Ninh.
Nguyễn Bảo Đồng (2007) và cộng sự đã có công trình nghiên cứu về các
giá trị y học cổ truyền của người Dao vùng Đông Bắc Việt Nam, trong đó tập
trung khảo cứu chủ yếu vào người Dao ở Quảng Ninh. Các tác giả khẳng định,
người Dao ở Quảng Ninh còn lưu giữ rất nhiều tri thức địa phương về chữa
bệnh bằng thuốc nam gia truyền. Việc khám chữa bệnh bằng YHCT vẫn tồn tại
song song với hệ thống khám chữa bệnh của Nhà nước là do đáp ứng được nhu
cầu chăm sóc sức khỏe và chữa bệnh cho người dân, nhất là người nghèo.
Chính việc tham gia của hệ thống thầy lang đã góp phần không nhỏ trong việc
đảm bảo sức khỏe cho người dân, đặc biệt là ở vùng sâu, vùng xa, vùng đặc
biệt khó khăn không có điều kiện đến các cơ sở y tế của Nhà nước [31].
Ở một góc nhìn khác, Trần Văn Hà, Lê Minh Anh (2007) đã nghiên cứu
biến đổi tập quán ăn uống của người Dao Thanh Phán ở xã Tân Dân, huyện
Hoành Bồ, tỉnh Quảng Ninh. Theo các tác giả, những món ăn được gọi là
truyền thống của người Dao khi hạ sơn còn lại rất ít, bản thân người dân cũng
rất ít khi sử dụng và chế biến món ăn truyền thống của mình. Các món ăn trong
những dịp quan trọng như đám cưới, cấp sắc cũng có sự thay đổi rõ rệt khi mà
món ăn thuần Dao có tỷ lệ rất nhỏ, trong khi đó các món ăn có tính chất hỗn
hợp Kinh - Dao có tỷ lệ khá cao, chiếm tỷ lệ từ 40 - 60% tùy thuộc vào loại
hình nghi lễ. Đối với việc ăn uống hàng ngày cũng đơn giản rất nhiều khi mà
lớp trẻ ngày càng tham gia nhiều vào công việc tại các công ty hay cơ quan nhà
nước. Theo các tác giả, nhóm có số lượng thay đổi nhiều nhất tập trung vào
những người tư 20 - 40 tuổi, hầu hết những người này có thiên hướng đi ra
ngoài (buôn bán, công chức, bộ đội). Như vậy, có thể nói sự biến đổi nhanh
chóng về kinh tế - xã hội trong những năm đổi mới và quá trình đô thị hóa đã
tác động mạnh mẽ tới văn hóa ẩm thực của người Dao, tuy nhiên sự thay đổi đó
12
ở các cộng đồng cũng khác nhau nhất là cộng đồng thuần Dao vào cộng đồng
hỗn hợp [44].
Trong đề tài “Gia đình truyền thống của người Dao Thanh Phán ở xã
Hòa Bình, huyện Hoành Bồ, tỉnh Quảng Ninh với xây dựng gia đình văn hóa
mới hiện nay”, Nguyễn Thị Thắm đã chỉ ra những yếu tố truyền thống trong
gia đình, vai trò của người phụ nữ Dao trong gia đình và xã hội cũng đã được
nâng cao đáng kể, họ được tham gia các hoạt động của cộng đồng và có tiếng
nói nhất định trong gia đình. Vấn đề giáo dục trong gia đình, các mối quan hệ
giữa cha mẹ, con cái, dòng họ cũng có sự thay đổi theo hướng tích cực, ngoài
các yếu tố truyền thống vẫn được duy trì thì những nét mới trong việc kết hợp
các hình thức giáo dục từ nhà trường và cộng đồng cũng được quan tâm [80].
Vi Văn An trong bài nghiên cứu Tục lệ tang ma của người Dao Thanh
Phán ở Quảng Ninh (Tham luận tại Hội thảo quốc tế về người Dao năm 1995
tại Thái Nguyên) đã đề cập tới khía cạnh của phong tục tập quán của nhóm Dao
Thanh Phán qua tục lệ tang ma cũng như sự tồn tại của linh hồn, quan niệm về
cái chết và sự ảnh hưởng của Tam giáo đối với tục lệ tang ma [1].
Nghiên cứu về người Dao ở Quảng Ninh còn có các tác giả: Trần Văn
Hà (1996), Những biến đổi về kinh tế - xã hội của người Dao ở xã Tân Dân,
huyện Hoành Bồ, tỉnh Quảng Ninh” [43,tr.65- 64], Trần Văn Hà (2006),
Biến đổi các nghi lễ truyền thống tại hai làng người Dao ở tỉnh Quảng Ninh
[44, tr.12 - 19]; Tạ Hữu Dực (2007), Thực trạng và xu hướng biến đổi cơ
cấu xã hội nông thôn miền núi (nghiên cứu trường hợp ở xã Tân Dân, hu..., trong các dòng họ không có sự phân biệt, họ sống quây quần bên nhau,
giúp đỡ nhau trong cuộc sống. Họ nội, ngoại thường làm nhà gần nhau, các
con khi ở riêng cũng làm nhà gần bố mẹ đẻ của mình. Mỗi dòng họ, có một
người đứng đầu gọi là trưởng họ, trưởng họ có trách nhiệm giúp đỡ các
thành viên trong các công việc lớn như cấp sắc, hôn nhân, tang ma Đặc
biệt, mỗi khi trong dòng họ có người ốm đau, hoạn nạn dù ở xa hay gần họ
đều tự nguyện đến thăm hỏi, không chỉ trong chuyện buồn mà ngay cả trong
những cuộc vui, hay các ngày lễ Tết người ta quyên góp công sức, thóc
gạo, sẻ chia khó khăn. Trong dòng họ, các thành viên đoàn kết thương yêu
nhau, tương trợ, sẻ chia cùng nhau khắc phục mọi khó khăn là nét nổi bật
của cộng đồng người Dao nơi đây.
Nhà ở Trước đây, ngôi nhà truyền thống của người Dao Thanh Y chủ
yếu là nhà nửa sàn nửa đất. Nguyên vật liệu để làm nhà chủ yếu là gỗ để làm
cột kèo, ván hoặc tre để đan vách và làm dui, cỏ tranh dùng để lợp, những
nguyên vật liệu này có sẵn tại chỗ, nhà thường có bốn gian, bộ khung nhà đơn
28
giản, cột ngoàm, mái lợp tranh hoặc tre chẻ lòng máng kiểu âm dương. Nửa
nhà thuộc phần nền đất (nửa nhà phía sau) thường có hai hoặc ba phòng nhỏ
cho chủ nhà và các con, nhà có hai hoặc ba cửa ra vào, hai bên hông và một
đằng trước nhà. Vách ngăn giữa nhà có bàn thờ tổ tiên. Nửa nhà thuộc về bên
phải cho khách nam, nửa nhà bên trái dành cho khách nữ. Tiếp đến là phòng
ngủ của vợ chồng con trai chủ nhà. Ngoài ra, bên hiên nhà thường được bố trí
các vật dụng sinh hoạt lớn như cối giã gạo, cối xay.
Hiện nay, người Dao Thanh Y không giữ được ngôi nhà truyền thống của
tộc người mình, đa số người Dao ngày nay ở nhà xây nền đất giống kiểu nhà
của người Kinh [ Ảnh 2]. Việc bố trí các không gian sinh hoạt cũng như vật
liệu, kiểu dáng công trình của người Dao Thanh Y ở xã Bằng Cả hiện đã mai
một rõ rệt. Điều này lại càng khẳng định nhu cầu cấp thiết cho việc bảo tồn một
không gian văn hoá thuần Dao Thanh Y tại địa phương, với những giá trị văn
hoá tốt đẹp, góp phần thúc đẩy gìn giữ văn hoá, phong tục tập quán dân tộc
Dao hiện nay.
Dân ca Trong cộng đồng người Dao dân ca gắn liền với đời sống của họ.
Trong một ngày từ lúc tỉnh giấc đã nghe tiếng hát chào mừng ngày mới, rồi đi
lên nương, đi xuống ruộng đồng, đi ra bến sông, bờ suối, tiếng xay ngô, giã
gạo, quay xa, cho đến đêm khuya tự tình với người yêu, hầu như giờ phút nào
cũng cần đến tiếng hát lời ca. Nếu kể một đời người thì từ lúc nằm nôi, đã
được nuôi bằng lời ru, lớn lên chơi đùa trong tiếng hát; mười tám, đôi mươi tỏ
tình trong tiếng ca, về già bên mâm rượu hát “lời dạy con cháu”, cho đến lúc
chết, hồn bay theo tiếng nhạc tiễn đưa dù bất kỳ trong bước đi nào của đời
người, dân tộc Dao cũng tắm mình trong thơ ca. Thơ ca đã thực sự trở thành
một bộ phận trong cuộc sống của tộc người Dao. Chưa ai có thể đếm được
những câu dân ca của họ.
Trang phục Trang phục là một nét văn hoá mà con người tạo ra để thoả mãn
nhu cầu sử dụng và nhu cầu thẩm mỹ. Ngoài ra nó còn biểu hiện cho những giá
trị văn hoá của mỗi tộc người và thông qua đó ta có thể thấy được tâm hồn của
29
tộc người đó. Trang phục của người Dao Thanh Y được kết hợp hai bộ phận:
Y phục và đồ trang sức.
Trang phục nữ giới: Qua tư liệu điền dã tại Quảng Ninh tác giả luận án
thấy, về mặt trang phục, nhóm Dao Thanh Y miền tây (Hoành Bồ, Uông Bí)
mặc áo dài, quần dài, đầu đội mũ nhỏ, tuy nhiên, nhóm Dao Thanh Y miền
Đông (Tiên Yên, Quảng Hà, Móng Cái) lại mặc áo dài quần cộc, đầu đội mũ
to. Cùng là nhóm Dao Thanh Y nhưng trang phục hoàn toàn khác nhau. Đây
là sự khác biệt rất hiếm gặp ở một nhóm Dao cùng sinh sống trong một tỉnh
[Ảnh 3, Ảnh 7].
Trang phục của Phụ nữ Dao Thanh Y ở xã Bằng Cả có mầu sắc sặc sỡ,
áo dài màu chàm, tay rộng, cửa tay đáp một khoanh vải đỏ rộng khoảng 15
cm. Cổ áo thấp có thêu hình chữ vạn và có sự phân biệt với nẹp ngực. Hai
thân trước thì so le: thân bên phải ngắn, thân bên trái dài, nẹp trong của mỗi
thân đều là vải đỏ. Áo không có khuy, khi mặc thân dài vắt chéo lên thân
ngắn rồi ngoài buộc dây lưng. Quần của phụ nữ Dao Thanh Y cắt theo kiểu
"chân què", ống hẹp vừa, dưới gấu không thêu. Yếm là một vuông vải trắng,
gần cổ có thêu và cũng có hai bán cầu bằng bạc.
Đồ trang sức của người Dao Thanh Y, cũng giống như các nhóm Dao
khác gồm có: đôi khuyên tai, vòng cổ thường đeo bốn cái, hai cái nhỏ và hai
cái to, vòng tay thường từ hai đến ba cái. Tóc được vuốt ngược lên rồi cuốn
thành búi tóc nhỏ trên đỉnh đầu, các búi tóc này được cột lại với nhau bằng
một sợi dây gai. Cột mũ làm bằng xơ mướp, ngoài lợp bằng chỉ đen. Trên
đỉnh mũ gắn một ngôi sao bạc mười cánh. Xung quanh thành mũ có hai hàng
khuy bạc đính song song, gồm 40 cái, đường kính mỗi khuy khoảng 1,5 cm.
Bên ngoài mũ được phủ một cái khăn nhỏ thêu bằng chỉ đen, đặc biệt là các
mô típ chữ Hán cách điệu. Đây cũng là sự khác biệt để nhận biết trang phục
của người Dao Thanh Y ở xã Bằng Cả với các nhóm Dao khác trong vùng.
Trang phục nam giới: Nam giới mặc áo chàm đen, áo ngắn năm thân,
cổ cao, cài khuy bên nách phải, thêu một đường tâm trước ngực, dưới gấu và
hai bên bả vai. Quần được cắt theo kiểu “chân què”. Ngày nay, đàn ông người
30
Dao Thanh Y ít sử dụng quần áo truyền thống của mình, thường họ chỉ mặc
vào các ngày quan trọng như lễ cấp sắc, lễ hôn nhân, lễ Tết những ngày
bình thường hầu hết mặc quần áo như người Kinh.
Trước đây, nền kinh tế của người Dao Thanh Y mang tính chất tự cung
tự cấp, từ cái ăn đến cái mặc đều do sức lao động của họ, nhưng hiện nay do
sự phát triển của cơ chế thị trường, đời sống được nâng cao hơn, việc đi lại
mua bán, giao dịch thuận lợi, nên việc trồng bông, dệt vải hầu như không còn
tồn tại đối với người Dao Thanh Y. Một số phụ nữ Dao Thanh Y cho rằng dệt
được một bộ quần áo truyền thống rất kỳ công và mất nhiều thời gian.
Ẩm thực: Người Dao Thanh Y có các món ăn truyền thống như: thịt thú
rừng sấy khô, thịt lợn ướp chua, hay bánh làm bằng gạo nếp như bánh chưng
gù, bánh dầy và xôi nếp nhiều màu: xanh đen, đỏ, vàng, tím... được nhuộm
bằng các loại lá hay các loại củ quả lấy trên rừng. Tất cả những thứ trên đều
được trồng bằng một thứ gạo nếp trồng trên nương vừa dẻo vừa thơm.
Ngoài bữa ăn thường nhật trong phạm vi gia đình, còn có các bữa ăn tổ
chức vào dịp lễ, Tết... trong những dịp này, các loại thức ăn được chế biến nhằm
dâng cúng tổ tiên hoặc các thế lực siêu nhiên. Vì vậy, lương thực, thực phẩm đều
có sự lựa chọn theo yêu cầu cụ thể của từng nghi lễ và việc chế biến cũng có
những nét khác biệt so với ngày thường. Người Dao kiêng không ăn thịt chó
(đặc biệt là Dao Thanh Y), họ cho rằng con chó ăn đủ thứ tạp uế, cho nên thịt
chó cũng uế tạp như vậy, đặc biệt là những người thầy cúng càng kiêng kị kĩ
hơn. Theo quan niệm của đồng bào, đàn ông "biết việc hơn phụ nữ". Do vậy,
trong các nghi thức tín ngưỡng hay nhà có khách, chủ bếp chính là người đàn
ông, phụ nữ chỉ đóng vai trò phụ. Đồng thời việc tiếp khách và các công việc
ngoại giao trong gia đình là người đàn ông.
Người Dao Thanh Y nổi tiếng với đặc sản rượu bâu (tìu bâu). Rượu
bâu được làm từ gạo nếp tự trồng lấy, với cách ngâm ủ đặc biệt đã tạo lên
hương vị thơm nồng, êm dịu, có tác dụng giải khát, bồi bổ sức khỏe rất tốt.
Đặc biệt trong cách uống rượu của người Dao nơi đây luôn thể hiện cách đôn
31
hậu, nhiệt tình, chân thành, và mến khách. Đó là một nét văn hoá ẩm thực đặc
sắc của địa phương.
Chữ viết Chữ viết của người Dao Thanh Y ở xã Bằng Cả, hầu như đã bị
lãng quên, những người còn biết đến chữ viết của người Dao Thanh Y là thầy
cúng và các già làng, trưởng bản. Lớp trẻ bây giờ ít người biết đến chữ viết của
tộc người mình, đó là vấn đề đáng báo động. Qua nhiều đợt điền dã tại huyện
Hoành Bồ tác giả luận án đã phỏng vấn nhiều thanh thiếu niên ở thôn Hai xã
Bằng Cả thấy rằng các em không biết viết tiếng Dao, nhưng lại giao tiếp với
nhau bằng tiếng Dao, điều đấy cho thấy trong các gia đình, dòng họ luôn ý thức
gìn giữ ngôn ngữ qua truyền khẩu chứ không qua cách viết, nên các em chỉ biết
giao tiếp mà không viết được ngôn ngữ của tộc người mình.
Tiếng nói Hàng ngày, các thành viên trong gia đình, dòng họ, làng bản
người Dao Thanh Y ở Hoành Bồ, giao tiếp với nhau bằng ngôn ngữ của tộc
người mình, như vậy tiếng nói của người Dao Thanh Y gần như vẫn còn
nguyên vẹn, từ trẻ thơ tập nói đã được bố, mẹ, ông bà dậy phát âm thứ tiếng mẹ
đẻ của mình, đó là một điều đáng trân trọng. Tuy nhiên, trong thời đại ngày
nay, khi nền kinh tế thị trường nước ta đang trên đà phát triển, bản sắc văn hoá
dần mai một thậm chí mất đi, thì việc khuyến khích đồng bào phát huy, gìn giữ
ngôn ngữ của tộc người mình là rất cần thiết. Như vậy, người Dao Thanh Y xã
Bằng Cả sẽ không bao giờ bị mất đi tiếng nói của tộc người mình.
Tiểu kết chƣơng 1
Cho đến nay, có khá nhiều công trình nghiên cứu về người Dao ở Việt
Nam, trong đó có người Dao ở Quảng Ninh. Phần lớn các công trình đi sâu
nghiên cứu về đời sống văn hóa tộc người như văn hóa vật chất, văn hóa tinh
thần, các nhóm Dao Đeo Tiền, Dao Đỏ, Dao Lô Gang, Dao Làn Tẻn hay Dao
Quần Chẹt được nghiên cứu nhiều hơn, hầu hết các công trình, sách hay các
nghiên cứu nhỏ như khóa luận, luận văn, luận án thường tập trung nghiên cứu
các nhóm Dao này. Đối với nhóm Dao Thanh Y và Dao Quần Trắng, số lượng
nghiên cứu hay bài viết về nhóm tộc người này còn khá khiêm tốn, đặc biệt chưa
có một khảo cứu chuyên sâu nào về các nghi lễ vòng đời của những nhóm này từ
32
góc nhìn chuyên ngành Nhân học. Các nghiên cứu về nghi lễ vòng đời và vai
trò của nghi lễ trong việc bảo tồn và phát huy giá trị văn hóa tộc người ở
người Dao nói chung và ở nhóm Dao Thanh Y ở tỉnh Quảng Ninh nói riêng
còn rất hạn chế.
Tác giả luận án đã làm rõ một số khái niệm cơ bản trong nghiên cứu về
nghi lễ vòng đời, đồng thời trình bày các lý thuyết nghiên cứu được sử dụng
trong luận án như: Lý thuyết bản sắc văn hoá tộc người, lý thuyết biến đổi văn
hoá, lý thuyết nghi lễ chuyển đổi.
Địa bàn nghiên cứu chính của đề tài luận án là xã Bằng Cả, huyện
Hoành Bồ, tỉnh Quảng Ninh. Người Dao Thanh Y ở đây chiếm tỷ lệ khá cao
trong dân số của xã và sống chủ yếu sống bằng nghề nông nghiệp dưới hình
thức canh tác ruộng nương, kết hợp với chăn nuôi, trồng trọt, thủ công truyền
thống và trao đổi mua bán Tác giả luận án đã tập trung khảo sát về nghi lễ
vòng đời của người Dao Thanh Y, cụ thể là các nghi lễ sinh đẻ, nghi lễ hôn
nhân, lễ cấp sắc, lễ tang ma. Trong quá trình khảo sát, tác giả có nghiên cứu
so sánh với nhóm Dao Thanh Phán cư trú xen kẽ trong vùng.
Hiện nay, cuộc sống vật chất và tinh thần của người Dao Thanh Y xã
Bằng Cả đang từng bước được nâng lên. Nhưng có một điều không hề thay
đổi đó là các yếu tố văn hóa truyền thống trong các nghi lễ vòng đời như: cưới
xin, tang ma, cấp sắc, được người Dao Thanh Y duy trì, gìn giữ trao truyền
từ thế hệ này sang thế hệ khác như một nguyên tắc. Mà trong đó, làng bản,
dòng họ và gia đình là cơ sở để duy trì các đặc trưng văn hoá.
33
Chƣơng 2
NGHI LỄ SINH ĐẺ VÀ CHĂM SÓC, NUÔI DẠY CON
2.1. Quan niệm của người Dao Thanh Y về con người và sinh đẻ
Người Dao Thanh Y quan niệm rằng, sinh đẻ là ước vọng của loài
người, sinh sôi nảy nở để bảo tồn nòi giống. Có nhiều con để phụng dưỡng
cha mẹ tuổi già, là lớp người nỗi dõi tông đường của tổ tiên dòng họ. Nếu khi
chết đi mà không có người thờ cúng, đó là sự bất hạnh lớn đối với mỗi con
người. Chính từ quan niệm trên, người Dao Thanh Y ở xã Bằng Cả, huyện
Hoành Bồ, tỉnh Quảng Ninh rất coi trọng nghi lễ sinh đẻ. Sinh đẻ như là một
sự kiện quan trọng trong đời sống gia đình của người Dao Thanh Y. Họ quan
niệm, gia đình hạnh phúc là gia đình có đông con, nhiều cháu. Do vậy, họ rất
chú trọng việc sinh đẻ, nuôi dạy đứa con thành người.
Người Dao Thanh Y quan niệm rằng, con cái là tài sản quý giá không
chỉ của riêng cặp vợ chồng mà là của đại gia đình, dòng họ. Từ khi chuẩn bị
kết hôn, bố mẹ tìm kiếm vợ cho con trai, chú trọng tìm những cô gái trong
những gia đình có nhiều con cái, nhất là xem người mẹ của cô gái đó có phúc
hậu, sinh và nuôi dưỡng được nhiều con hay không và nếu có nhiều con trai
thì càng tốt. Mong muốn sinh được nhiều con là nguyện vọng chung của các
gia đình người Dao. Tuy nhiên, người Dao Thanh Y ở Hoành Bồ cũng giống
như người Dao ở các địa phương khác, việc sinh con trai hay con gái không
quá quan trọng mà điều họ thực sự mong muốn là nuôi nấng, chăm sóc những
đứa con để chúng trở thành người. Trẻ em là niềm hạnh phúc cho cả gia đình
và luôn được quan tâm dạy bảo, chăm sóc. Mỗi cá nhân khi lớn lên, trưởng
thành và lập gia đình sinh được nhiều con và nuôi được con trưởng thành
mới là điều quan trọng. Những cặp vợ chồng sinh được nhiều con, nuôi con
khỏe mạnh, dễ nuôi và con ngoan ngoãn thường được dân làng tôn trọng,
những người phụ nữ như vậy thường được các gia đình trong thôn mời làm
34
mẹ mối khi đón dâu, mặc quần áo cho cô dâu hay sắm sửa đồ lễ cho cô dâu
về nhà chồng.
Trong quá trình nuôi dạy con cái, cách đối nhân xử thế, cách ứng xử
với người thân trong gia đình hay tôn trọng các phong tục tập quán là những
bài học quan trọng luôn được gia đình đặc biệt chú ý. Đứa trẻ ra đời, đó là
niềm vui của cả nhà và cũng là sự kiện quan trọng đối với tất cả các thành
viên trong gia đình. Người Dao Thanh Y ở xã Bằng Cả, huyện Hoành Bồ có
nhiều nghi lễ, kiêng cữ và rất coi trọng việc ra đời của đứa trẻ. Thông thường,
khi biết người phụ nữ bắt đầu mang thai, gia đình phải thắp hương cầu khấn
tổ tiên phù hộ cho đứa trẻ được khoẻ mạnh, việc sinh đẻ được thuận lợi, mẹ
tròn con vuông. Khi đứa trẻ sinh ra, các thành viên đến chúc mừng coi như
một sự kiện quan trọng của gia đình, dòng họ.
2.2. Nghi lễ và kiêng cữ trong quá trình mang thai
Ngay từ khi bắt đầu có thai, người Dao Thanh Y ở xã Bằng Cả, huyện
Hoành Bồ, tỉnh Quảng Ninh đã có nhiều kiêng cữ và chăm sóc đặc biệt cho
người phụ nữ mang thai. Theo quan niệm của họ, người phụ nữ khi mang thai
rất yếu đuối, dễ bị tác động bởi yếu tố bên ngoài có hại cho sức khỏe, đặc biệt
là thai nhi trong bụng. Chính vì vậy, trong quá trình mang thai, người phụ nữ
phải tuân thủ theo những điều kiêng kỵ, phong tục mà các thế hệ bà, mẹ,
chị truyền lại cho từ trước khi lấy chồng. Đặc biệt, trong thời gian này
không chỉ người phụ nữ mang thai phải kiêng kỵ, giữ gìn mà cả người chồng
và gia đình họ cũng phải tuân thủ những tục lệ kiêng kỵ để mang lại điều lành
tránh rủi ro cho người mang thai.
Trong quá trình mang thai, người phụ nữ phải thực hiện những kiêng
cữ để chăm sóc và bảo vệ thai nhi cho đến khi sinh nở. Những người phụ nữ
cao tuổi trong gia đình thường đi vào rừng tìm lá cây rừng về cho thai phụ
uống để bồi dưỡng cơ thể, ăn được, ngủ được và hạn chế mệt mỏi khi cơ thể
có dấu hiệu bị nghén. Gia đình cũng ưu tiên cho thai phụ những thức ăn bổ
35
dưỡng như thịt gà, trứng gà, thịt, cá Đặc biệt, người Dao có nhiều loại cây
thuốc bổ quý dành cho thai phụ. Các loại cây thuốc được thu hái từ rừng và
đun nấu làm đồ uống hàng ngày.
Trong quá trình mang thai, các thành viên trong gia đình rất quan tâm,
mẹ chồng và chồng thường làm hết những việc nặng, chẳng hạn vào mùa cấy,
gặt, người phụ nữ mang thai có thể đi làm muộn hơn, mang vác nhẹ hơn. Do
môi trường sống khá khắc nghiệt, lạnh về mùa đông, nóng ẩm về mùa hè, sản
phụ thường dễ bị mắc các bệnh nhiệt đới như cảm cúm, ho, cảm lạnh, Vì
vậy, các kiêng cữ đối với sản phụ như không được đi đầu trần ra ngoài nắng,
không được lội nước khi có gió mùa đông bắc, Những kiêng kỵ này giúp
cho người phụ nữ tránh được các rủi ro sức khỏe do khí hậu, thời tiết gây ra.
Đến tháng gần sinh, thai phụ ở nhà và làm những việc nhẹ trong gia
đình như chăn nuôi, chăm sóc nhà cửa,trong thời gian này, không được ăn
quá nhiều và cũng không được nằm nhiều vì sợ thai to khó đẻ. Và đặc biệt,
thai phụ không được ăn các loại thịt rắn, gà rừng, ếch đồng hay các loại
nhộng họ cho rằng con sinh ra sẽ chạy nhảy, đi lại nhiều, hay khóc nhè
hoặc hay đái dầm. Nên thai phụ kiêng không được ăn những thức ăn đó.
Quá trình mang thai, chẳng may thai phụ bị đau bụng doạ sẩy thai, người
Dao Thanh Y đến nhà các bà lang xin thuốc dân tộc về cho sản phụ uống. Các
bà lang biết tìm cây thuốc trong rừng đồng thời cũng biết cách làm phép để
giữ hồn cho đứa bé được yên ổn. Các loại cây thuốc trong rừng dùng cho sản
phụ khi bị động thai, là các loại cây thài lài, mía đỏ, cây gai, lấy lá tươi vò
hoặc giã nát, vắt lấy nước cho sản phụ uống. Kết hợp với chữa chạy bằng các
loại thuốc lá. Lễ cúng bái rất phổ biến, đồng bào cho rằng thai phụ đã bị các
loại ma làm hại quấy nhiễu, ảnh hưởng đến cả mẹ và con. Trong trường hợp
này họ thường mời thầy cúng về làm lễ tại nhà của thai phụ. Lễ cúng có thể tổ
chức vào buổi chiều hoặc buổi tối và kéo dài hay không tùy thuộc vào loại ma
làm hại. Nghi lễ bói bệnh được thực hiện từng bước. Thầy cúng buộc đôi chân
36
gà đã luộc quay trên tay, vừa quay vừa khấn tên các loại ma. Khi ngón chân
của con gà chỉ vào hướng nào của bàn thờ tổ tiên, hướng núi, hướng sông thì
thầy bói sẽ phán đoán thai phụ do các loại ma tương ứng làm hại. Gia chủ sẽ
phải chuẩn bị mâm đồ vật cúng để thầy làm lễ cúng xin các loại ma không
làm hại hồn của đứa trẻ trong bụng mẹ và cầu khấn bà mụ Đô pha nhầy bảo
vệ, che chở cho thai phụ tai qua nạn khỏi và chóng khỏe mạnh.
Trong trường hợp thai phụ không giữ được đứa con trong bụng, người
Dao Thanh Y làm lễ để linh hồn đứa trẻ sớm siêu thoát và không trở thành ma
xấu quay trở về làm hại mẹ của nó cũng những người thân trong gia đình. Đây
cũng là mặt trái của tín ngưỡng, đồng bào tin vào linh thiêng của thần thánh
để chữa bệnh, làm cho thai phụ không những bị nặng hơn mà còn tốn kém rất
nhiều tiền bạc, ảnh hưởng không nhỏ tới đời sống tinh thần, gây tác hại đến
sức khỏe, thậm chí đến tính mạng con người. Có thể nói đây là mặt hạn chế
của người Dao cần phải sàng lọc trong quá trình xây dựng và phát triển nông
thôn mới ở địa phương. Một mặt cần có kế hoạch nâng cao dân trí, và đời
sống cho đồng bào.
Trong trường hợp thai phụ chẳng may bị mất khi đang mang đứa con
trong bụng, người Dao Thanh Y ở Hoành Bồ cho đây là điều xấu và hồn, vía
của cả thai phụ và đứa trẻ sẽ không siêu thoát được, sẽ trở thành ma xấu quay
trở về làm hại những người thân trong gia đình. Do vậy, người Dao Thanh Y
rất lo lắng và chăm sóc cho thai phụ trong gia đình và cố gắng hạn chế đến mức
cao nhất những rủi ro có thể xảy ra đối với thai phụ và đứa con trong bụng của
họ. Những người đàn ông trong gia đình luôn có ý thức chăm sóc, bảo vệ người
phụ nữ khi mang thai. Đứa trẻ trong bụng mẹ là niềm vui của cả gia đình và tất
cả các thành viên trong gia đình trông đợi thời khắc đứa trẻ ra đời.
Qua những tư liệu trên chứng tỏ rằng gia đình rất quan tâm tới sản phụ
và tất cả các thành viên trong gia đình, chồng và mẹ chồng tận tình yêu
thương, lo lắng chuẩn bị đón thành viên mới. Đây cũng là nét chung của đồng
37
bào người Dao và cũng là yếu tố bảo lưu một cách bền vững các tập quán,
nghi lễ kiêng kỵ liên quan đến sinh đẻ.
2.3. Nghi lễ và các kiêng kỵ khi sinh con
Khi biết sắp đến kỳ sinh con, người phụ nữ thường chủ động nhờ mẹ
chồng, mẹ đẻ hoặc những người phụ nữ cao tuổi trong gia đình đến giúp đỡ.
Để chuẩn bị cho việc sinh nở, sản phụ thường đi vào rừng lấy các loại lá cây
rừng, phơi khô, để dành chờ khi sinh sẽ uống dần.
Trước đây, phụ nữ Dao Thanh Y ở xã Bằng Cả thường sinh con tại nhà.
Khi có hiện tượng chuyển dạ, người Dao Thanh Y ở Bằng Cả thường chuẩn
bị một góc trong buồng, trên giường có rải một ít rơm hoặc rải chiếu để sản
phụ chuẩn bị cho cuộc sinh. Những người phụ nữ cao tuổi, thường là mẹ
chồng, mẹ đẻ, chị em ruột hay chị em dâu giúp đỡ sản phụ. Người ta buộc
một chiếc dây ở đầu giường hoặc phía góc buồng cho sản phụ bám khi lên
cơn đau đẻ. Trong quá trình sinh con, người chồng kiêng không được vào
giúp ở trong buồng mà chỉ có thể chuẩn bị nước tắm, đồ ăn uống hoặc trực ở
phía ngoài theo yêu cầu của những người phụ nữ lớn tuổi. Bởi quan niệm cho
rằng người chồng tiếp xúc với lúc này làm cho sản phụ khó đẻ.
Người Dao Thanh Y đẻ ngồi trong buồng của mình. Lúc chuyển dạ,
người mẹ chồng, chị dâu thường trực tiếp làm bà đỡ. Trong trường hợp khó
đẻ, người ta cho mời thầy cúng đến. Thầy cúng lấy một bát nước lã vừa đọc
phù chú, vừa dùng dao nhọn khuấy bát nước rồi cho sản phụ uống. Khi đứa
trẻ lọt lòng mẹ, người ta lấy sợi chỉ buộc vào rốn rồi dùng cật nứa cắt rốn.
Người cha trực tiếp mang rốn đi chôn ngay bên cạnh nhà. Trẻ lọt lòng được
tắm nước đun từ một loại lá rừng [113, tr. 315].
Sau khi đứa bé ra khỏi bụng mẹ, người Dao Thanh Y thường có kinh
nghiệm dân gian là chờ đến khi đứa trẻ khóc mới bế lên cắt rốn. Người bố bế
đứa bé, còn bà thì lấy nước ấm tắm cho bé, cắt rốn bằng dao hoặc cật nứa.
Rốn của đứa trẻ được rửa sạch, bọc cẩn thận chôn ở góc buồng phía ngoài nhà
38
hoặc gốc cây trong vườn, nhưng phải tránh những nơi ẩm thấp và tránh nới có
dòng nước chảy qua khi trời mưa. Khi chôn phải lèn chặt đất để rốn không
được chồi lên mặt đất sợ đứa bé hay bị đau ốm, khó nuôi. Trong trường hợp
ống đựng rốn do trời mưa, bị trồi lên mặt đất, chủ nhà phải làm lễ cúng và
chôn lại cẩn thận để phòng tránh ốm đau cho đứa trẻ.
Sản phụ sau khi sinh qua một đêm được tắm bằng lá cây dùng mé, một
loại dây leo trên rừng còn tươi vừa được người nhà lấy về. Người Dao Thanh
Y cho rằng, người mẹ khi đẻ con người rất bẩn nên phải tắm bằng nước lá
rừng mới rửa sạch được. Tắm nước thuốc có tác dụng rất tốt cho sản phụ,
giúp cho sản phụ lưu thông khí huyết, chóng hồi phục sức khỏe. Đứa trẻ cũng
được tắm cùng với mẹ bằng nước lá rừng. Đây cũng là những kinh nghiệm,
những tri thức dân gian, những bài thuốc đáng quý được đồng bào trao truyền
từ đời này sang đời khác.
Sau khi mẹ tròn, con vuông, sản phụ thường được ăn cháo đặc và gà
hầm với nghệ cho nhanh lại sức. Trong thời gian ở cữ, người nhà thường cắt
một túm cỏ gianh hoặc cành hoa bông lau treo trên một cành cây cắm trước
cổng. Trong trường hợp bị coi là có vía độc vào nhà, người nhà lấy nắm cỏ
gianh đó đốt, xua đuổi vía độc đi để khỏi làm hại đến đứa trẻ.
Thông thường, sau khi sinh một ngày thì người mẹ cho con bú bằng
sữa mẹ. Nếu chưa có sữa, người Dao Thanh Y thường nấu cháo với cây pìn
nhá mia hoặc nấu cháo với chân giò lợn, canh đu đủ với chân giò lợn cho sản
phụ ăn để nhanh có sữa cho con bú. Khi trong nhà có người sinh đẻ, người
Dao Thanh Y thường chuẩn bị sẵn món rượu bâu nấu với thịt gà để cho sản
phụ ăn, rượu bâu được làm từ cơm nếp, ủ với men lá rừng, rượu thường được
ủ từ 1 đến 3 tháng, không qua chưng cất. Đây là món ăn truyền thống rất tốt
đối với sản phụ sau khi sinh con, giúp cho sản phụ nhanh hồi phục sức khỏe,
có thể ăn được nhiều cơm và tránh được các loại bệnh đường ruột, có thể gây
ảnh hưởng xấu đến sức khỏe của đứa trẻ.
39
Một số loại rau tự nhiên có thể dùng làm thức ăn cho phụ nữ khi
sinh như rau bao, rau ngót, Đồ uống của phụ nữ khi sinh con chủ yếu là
nước cây thuốc từ nhiều loại lá cây rừng. Mỗi gia đình người Dao Thanh
Y khi có người sinh con thường cất giữ trong nhà khá nhiều loại cây thuốc
dùng để đun nước uống. Trước đây rừng còn nhiều cây thuốc, đồng bào tự
đi lấy về phơi khô để uống dần, hiện nay phải đi tìm trong rừng sâu mới
có cây thuốc nên đồng bào thường mua của các bà lang biết hái cây thuốc
về cho sản phụ uống.
Trong thời gian ở cữ, người ta không muốn cho người lạ vào nhà, sợ vía
nặng ảnh hưởng tới đứa bé, và trong làng bản, đặc biệt là các thầy cúng,
những người có việc trọng đại như cấp sắc, cưới xin cũng không muốn vào
nhà. Các thành viên trong gia đình không được đến gần, họ cho rằng phụ nữ
mới sinh không được sạch sẽ, vấn đề này làm cho tâm lý người phụ nữa sau
khi sinh bị ảnh hưởng rất lớn. Bất cứ tộc người nào cũng vậy họ đều mong
muốn người chồng và gia đình của mình luôn ở cạnh nhất là lúc vượt cạn và
sau khi sinh. Vai trò của người chồng trong lúc vợ chuyển dạ là rất quan
trọng. Tâm lý thai phụ sẽ thoải mái tự tin hơn, dễ đẻ hơn và an toàn hơn. Có
thể thấy, tập quán kiêng kỵ trên không còn phù hợp với nếp sống mới hiện
nay của đồng bào.
2.4. Lễ đặt tên
Khi đứa trẻ ra đời khoảng một tháng, gia đình mổ gà, nấu xôi, thắp
hương cúng báo với tổ tiên về nhận khẩu mới của gia đình và làm lễ đặt tên
(ún bó phôn). Ngày hôm đó, bà con họ hàng đến mừng, nhà ngoại nhất thiết
phải có mặt, tặng quà cho trẻ. Quà tặng thường là thực phẩm, con gà, chục
quả trứng hay chân giò lợn để bồi bổ cho sản phụ. Nếu là bé gái thì có thể là
vài mảnh vải, chỉ thêu Các bà, các cô, dì đến mừng quà cho cháu bé thường
dành những lời chúc tốt đẹp cầu chúc cho bé hay ăn chóng lớn, thông minh,
khỏe mạnh đối với bé trai và xinh đẹp, khỏe mạnh đối với bé gái.
40
Theo kết quả khảo sát điền dã tại xã Bằng Cả, huyện Hoành Bồ của tác
giả luận án, ngay sau khi sinh đứa trẻ, người Dao Thanh Y ở đây không có lễ
thôi nôi (lễ đầy năm). Thông thường khi mới sinh, bố mẹ, ông bà thường chọn
cho đứa trẻ một tên gọi trong nhà, có thể đó cũng là tên thường gọi sau này
của trẻ.
Có sự khác nhau giữa bé trai và bé gái. Đối với đứa trẻ là bé gái, gia đình
chọn cho bé một tên gọi theo cách đặt tên gọi hàng ngày. Bố mẹ hoặc ông bà
của trẻ có thể đặt tên. Tên gọi của bé gái thường không được trùng với tên của
bà, các bà cô, cô, dì, chị em trong gia đình. Tên gọi của bé gái cũng có thể thay
đổi tùy thuộc theo ý muốn của gia đình. Theo người Dao Thanh Y ở Hoàng Bồ
cho biết, chỉ trong trường hợp bé bị ốm nặng hoặc ngủ hay bị giật mình, kém
ăn thì khi ở giai đoạn bắt đầu lớn gia đình có thể đổi tên cho bé với hy vọng
bé sẽ khỏe mạnh, hay ăn chóng lớn. Tuy nhiên, các trường hợp đổi tên đối với
bé gái là rất ít ở người Dao Thanh Y.
Đối với bé trai, khi trẻ đầy tháng tuổi, gia đình cũng có thể đặt một tên
gọi thường ngày cho trẻ. Tên gọi thường ngày có thể được lựa chọn tùy thích
theo quan điểm của cha mẹ, ông bà của trẻ. Cũng có thể đặt các tên hiện đại
hay tên theo cách gọi của người Kinh nhưng không được trùng tên gọi với ông
bà, cha mẹ và các anh chị em trong gia đình, dòng họ. Tên có ý nghĩa và đặc
biệt quan trọng đối với người Dao Thanh Y là tên âm do thầy cúng đặt. Mặc dù
vậy, tên do bố mẹ, ông bà của trẻ chọn cũng phải chuẩn bị rất kỹ càng và kiểm
tra để tránh trùng tên với những người trong dòng họ.
Việc đặt tên âm có thể đặt trong thời gian trẻ đầy tháng hoặc đến khi trẻ
được 3 - 5 tuổi. Thông thường nghi lễ đặt tên được tiến hành cùng với nghi lễ
cấp sắc theo phong tục truyền thống của người Dao Thanh Y ở huyện Hoành
Bồ. Trong trường hợp đặc biệt, bé trai mới đầy tháng, có nhiều biểu hiện mệt
mỏi, hay khóc, quấy hoặc kém ăn, ngủ thì phải mời thầy cúng đến làm lễ cúng
bà mụ để cầu mong đứa trẻ ngoan ngoãn, hay ăn, chóng lớn. Nghi lễ cúng mụ
41
đơn giản chỉ là một con gà luộc, một chén rượu và một bát cơm. Chủ nhà
(thường là người ông) làm lễ trước bàn thờ gia tiên cầu khẩn gia tiên và bà mụ
phù hộ cho đứa trẻ được ngoan ngoãn, chịu ăn, chịu ngủ.
Trường hợp, nếu đứa trẻ khó nuôi, hay đau ốm, người Dao Thanh Y
cho rằng, có thể hồn, vía của đứa trẻ chưa có chỗ trú ngụ do chưa có tên âm
thì phải làm lễ xin tổ tiên khất cho lễ đặt tên sẽ được làm cùng với lễ cấp sắc,
xin khất lễ đặt tên âm và phải được sự đồng ý của tổ tiên.
Trước đây, người Dao Thanh Y ở xã Bằng Cả thường đặt tên cho con
sau khoảng 1 tháng đến 3 tháng khi đứa trẻ đã cứng cáp. Theo quan niệm của
đồng bào, đứa trẻ khi sinh ra được bà mụ ( Đô Pha Nhầy), một bà cô chuyên
trông nom trẻ cho cả dòng họ, thường trú ngụ ở miếu tổ của dòng họ trông coi
và chăm sóc. Do vậy, đứa trẻ có dễ nuôi, nhanh lớn, thông minh, khỏe mạnh
là nhờ vào sự chăm sóc của bà mụ này. Vì vậy, khi làm lễ đặt tên phải có lễ
cúng mụ và nhờ thầy cúng chọn cho cái tên hợp với mệnh.
Đồng bào quan niệm, ngoài thân xác của con người đang hiện hữu, phần
hồn và phần âm của con người mới thực sự có ý nghĩa đối với họ. Mỗi người
Dao đều có tên âm và có người âm phù trợ. Người âm luôn theo dõi, bảo vệ
thân thể và tinh thần của mỗi con người trong những khó khăn của cuộc sống
hiện tại. Do vậy, việc đặt tên âm và các nghi lễ trong nghi lễ vòng đời được
người Dao Thanh Y ở xã Bằng Cả, huyện Hoành Bồ hết sức chú trọng.
Nghi lễ đặt tên có ý nghĩa đặc biệt quan trọng trong nghi lễ vòng đời.
Nếu đứa trẻ mới sinh ra được đặt tên âm ngay thì đứa trẻ ấy sớm được tổ tiên
công nhận. Cho dù đã trưởng thành, lên lão mà chưa thực hiện lễ đặt tên âm
thì người đó vẫn chưa được tổ tiên thừa nhận. Trong tiếng Dao có sự phân
biệt khá rõ ràng về điều này. Đối với trẻ em, tiếng Dao gọi là muôn sấy, khi
lớn ở tuổi thanh niên thì gọi là hâu thẻng. Đối với đứa trẻ sau khi sinh mà đã
được đặt tên âm thì cũng có thể được gọi là hâu thẻng. Đối với người lớn,
42
thậm chí đã lên lão nhưng chưa qua lễ đặt tên và chưa cấp sắc thì vẫn bị gọi là
muôn sấy.
Trước lúc làm lễ đặt tên gia đình phải xem xét và và kiểm tra kỹ lưỡng thứ
tự trong dòng họ của mình, sau đó mới làm lễ cúng để xin phép tổ tiên “bàn
vương”, với mục đích thông báo với tổ tiên từ nay gia đình đã có thêm những
nhân khẩu mới, xin được nhập khẩu, ghi tên vào danh sách và cầu tổ tiên phù
hộ cho các con mạnh khỏe.
Lễ cúng mụ ở người Dao Thanh Y huyện Hoành Bồ hiện nay được
thực hiện rất đơn giản. Khi đứa trẻ ra đời, cùng với nghi lễ cúng báo với tổ
tiên về sự ra đời của đứa trẻ, các gia đình thường làm luôn lễ cúng mụ trên
một chiếc bàn đặt gần bàn thờ tổ tiên. Các lễ vật gồm có thịt gà, xôi, rượu. Lễ
cúng này được thực hiện khi đứa trẻ tròn một ...ính
sách dân số và kế hoạch hoá gia đình đối với vùng dân tộc ở Việt Nam,
Tạp ch Dân tộc học, số 2, Hà Nội.
52. Phạm Quang Hoan, Hùng Đình Qu ý(Chủ biên) (1999), Văn hóa truyền
thống, người Dao ở Hà Giang, Nxb Văn hóa Dân tộc, Hà Nội.
53. Nguyễn Đình Hoa (1983), Các dân tộc ở Việt Nam (dẫn liệu Nhân học -
Tộc người), Nxb Khoa học xã hội, Hà Nội.
154
54. Đào Huy Khuê (1998), Chăm sóc sức khỏe cho trẻ em và sản phụ ở một
số tộc người Tây Bắc, Tạp ch Dân tộc học, 100 (4), Hà Nội.
55. Phan Ngọc Khuê (1998), Tranh thờ của dân tộc Dao ở Bắc bộ Việt Nam,
Sự phát triển văn hóa xã hội của người Dao: Hiện tại và tương lai, Kỷ yếu
Hội thảo Quốc tế về người Dao, tổ chức ở Thái Nguyên tháng 12 năm
1995, Hà Nội.
56. Dân tộc Mán, Tài liệu lưu trữ tại Thư viện Khoa Sử Trường Đại học Khoa
học xã hội và Nhân văn, Bản đánh máy, K ý hiệu ĐM386, Hà Nội.
57. Trịnh Thị Lan (2004), Tập quán sinh đẻ truyền thống của nhóm Dao
Quần Ch t, nghiên cứu tại xã Lãng Công, Lập Thạch, Vĩnh Phúc, Kỷ yếu
hội thảo Thông báo Dân tộc học, Viện Dân tộc học, Hà Nội.
58. Triệu Tài Lâm (1998), Tình hình phân bố dân cư và đôi nét quan hệ xã
hội ở người Dao, Sự phát triển văn hóa xã hội của người Dao: Hiện tại và
tương lai, Kỷ yếu Hội thảo Quốc tế về người Dao, tổ chức tại Thái
Nguyên tháng 12/1995, Hà Nội, tr.72-75.
59. Jacques Lemoine (1998)Khái quát về di sản văn hóaDao và hiện đại hóa
ở Việt Nam, Sự phát triển văn hóa - xã hội của người Dao: Hiện tại và
tương lai, Kỷ yếu Hội thảo Quốc tế về người Dao, tổ chức ở Thái Nguyên
tháng 12 năm 1995, Hà Nội, tr. 391- 399.
60. Ngô Văn Lệ, Nguyễn Văn Tiệp, Nguyễn Văn Diệu, (1997 ), Văn hoá các
dân tộc thiểu số Việt Nam, Nxb Giáo dục, Hà Nội.
61. Đỗ Đức Lợi (2002), Tập tục chu kỳ đời người của các tộc người ngôn ngữ
Mông- Dao ở Việt Nam, Nxb Văn hóa dân tộc, Hà Nội.
62. Triệu Hữu L ý sưu tầm và dịch (1990 ),Dân ca Dao, Nxb Văn hóa dân tộc,
Hà Nội.
63. Lý Dương Liễu (2004), Người Dao ở Lạng Sơn, Nxb Sở Văn hoá, Thể
thao, Du lịch Lạng Sơn, Lạng Sơn.
155
64. Ngôn ngữ các dân tộc thiểu số Việt Nam (1991), Nxb Văn hóa dân tộc, Hà
Nội.
65. Hoàng Lương (1996), Một số kiêng kỵ và tục lệ liên quan đến sinh đẻ,
chăm sóc trẻ sơ sinh của người Dao Tả Pan và Dao o Dài ở Hà Giang,
Hội thảo Dân số - Kế hoạch hóa gia đình các dân tộc ở Việt Nam, Hà Nội.
66. Vương Duy Quang (2009), T n ngưỡng tôn giáo của người Dao ở Việt
Nam, Tạp chí Nghiên cứu tôn giáo, (3), Hà Nội.
67. Lý Hành Sơn, Hoàng Minh Lợi (1995), Nữ phục Dao Tiền ở Cao Bằng,
Tạp ch Dân tộc học, 86 (2), Hà Nội.
68. Lý Hành Sơn (1996), Những tập tục liên quan đến Dân số - Kế hoạch hóa
gia đình của nhóm Dao Tiền ở huyện Ba Bể, Cao Bằng, Hội thảo Dân số -
Kế hoạch hóa gia đình các dân tộc ở Việt Nam, Hà Nội.
69. Lý Hành Sơn (1999), Lễ cưới của người Dao Tiền ở Ba Bể, Bắc Kạn, Tạp
ch Dân tộc học, (3), Hà Nội.
70. Lý Hành Sơn (2002), Lễ cấp sắc và bản sắc văn hóa Dao, Tạp ch Dân tộc
học, (3), Hà Nội.
71. Lý Hành Sơn (2003), Các nghi lễ chủ yếu trong đời người của nhóm Dao
Tiền ở Ba Bể, Bắc Kạn, Luận án Tiến sĩ lịch sử, Viện Dân tộc học, Hà
Nội.
72. Trần Hữu Sơn, Trần Thùy Dương (2009), Sách cổ người Dao - nguồn tài
liệu quan trọng tìm hiểu lịch sử dân tộc Dao, Tạp ch Dân tộc học, (3), Hà
Nội.
73. Trần Hữu Sơn (1998), Sách cổ người Dao ở Lào Cai - Di sản văn hóa có
giá trị, Sự phát triển văn hóa xã hội của người Dao: Hiện tại và tương lai,
Kỷ yếu Hội thảo Quốc tế người Dao, tổ chức tại Thái Nguyên tháng
12/1995, Hà Nội, tr.167-174.
74. Trần Hữu Sơn (1998), Tục ngữ, câu đố người Dao, Nxb Văn hóa dân tộc,
Hà Nội.
156
75. Trần Hữu Sơn (chủ biên) (2001), Lễ cưới người Dao Tuyển, Nxb Văn hóa
dân tộc, Hà Nội.
76. Phan Thuận Thảo (1996), Tục cưới gả, tang ma của người Việt xưa, Nxb
Văn hoá thông tin, Hà Nội.
77. Nguyễn Ngọc Thanh (1998), Làng bản và nghi lễ của người Dao Đỏ ở
một xã miền núi, Tạp ch Dân tộc học, 97 (1), Hà Nội..
78. Lê Ngọc Thắng (2010), Sự phát triển vùng dân tộc thiểu số Việt Nam sau
hội nhập (Bộ sách hội nhập kinh tế quốc tế), Nxb Công thương, Hà Nội.
79. Lê Ngọc Thắng, Lâm Bá Nam (1990) Bản sắc văn hoá các dân tộc Việt
Nam, Nxb Văn hoá dân tộc, Hà Nội.
80. Nguyễn Thị Thắm (2008), Gia đình truyền thống của người Dao Thanh
Phán ở xã Hoà Bình, huyện Hoành Bồ, tỉnh Quảng Ninh, Tài liệu lưu trữ
tại Thư viện Viện Dân tộc học ký hiệu TL 872, Hà Nội.
81. Trương Thìn (2008), Nghi lễ đời người, Nxb Hà Nội, Hà Nội.
82. Ngô Đức Thịnh (2004), Văn hóa vùng và phân vùng văn hóa ở Việt Nam,
Nxb Trẻ, Thành phố Hồ Chí Minh.
83. Ngô Đức Thịnh (2006), Văn hóa, văn hóa tộc người và văn hóa Việt Nam,
Nxb Khoa học xã hội, Hà Nội.
84. Ngô Đức Thịnh (1998), Bàn Hồ trong folklore dân tộc Dao, Sự phát triển
văn hóa xã hội của người Dao: Hiện tại và tương lai, Kỷ yếu Hội thảo
Quốc tế người Dao tổ chức tại Thái Nguyên, tháng 12/1995, Hà Nội,
tr.120-125.
85. Thomas Barfiled (1997), Từ điển nhân học, Nxb Les Encyclopedies du
savoir moderne.
86. Vương Xuân Tình, Trần Hồng Hạnh (chủ biên) (2012)Phát triển bền vững
văn hóa tộc người trong quá trình hội nhập vở vùng Đông Bắc, Nxb Khoa
học xã hội, Hà Nội.
157
87. Nông Quốc Tuấn (2002), Trang phục cổ truyền của người Dao ở Việt
Nam", Nxb Văn hóa dân tộc, Hà Nội.
88. Trương Hữu Tuấn (1998), Mấy vấn đề người Dao di cư vào Việt Nam, Sự
phát triển văn hóa xã hội của người Dao: Hiện tại và tương lai, Kỷ yếu
Hội thảo Quốc tế người Dao tổ chức tại Thái Nguyên tháng 12 năm1995,
Hà Nội.
89. Nguyễn Khắc Tụng (1997), Trở lại vấn đề phân loại các nhóm Dao ở Việt
Nam, Tạp ch Dân tộc học, 95 (3), Hà Nội.
90. Nguyễn Khắc Tụng, Nguyễn Anh Cường (2004), Trang phục của người
Dao ở Việt Nam, Nxb Khoa học xã hội, Hà Nội.
91. Trung tâm Từ điển học, Từ điển Tiếng Việt (2007), Nxb Đà Nẵng, Đà
Nẵng, Đà Nẵng.
92. Từ điển Văn hóa, T n ngưỡng, Phong tục (2009), Nxb Văn hóa - Thông
tin, Hà Nội.
93. Từ điển Nhân học, bản dịch tiếng Việt, tập 1-2, lưu tại Thư viện Viện Dân
tộc học, ký hiệu TĐ 86, TĐ 89, Hà Nội.
94. Trung tâm Khoa học xã hội và Nhân văn Quốc gia (1998), Kỷ yếu Hội
thảo Quốc tế: Sự phát triển văn hóa xã hội của người Dao: Hiện tại và
tương lai, NXB Khoa học xã hội, Hà Nội.
95. Truyện Đặng hành và Bàn Đại Hộ, Tài liệu dịch từ tiếng Dao ra tiếng
Việt, Lưu trữ tại Thư viện Viện Dân tộc học, Ký hiệu B30, Hà Nội.
96. Truyện cổ Dao (1978), Nxb Văn hóa dân tộc, Hà Nội.
97. Ủy ban Dân tộc Trung ương, Một số tài liệu có liên quan đến văn hóa tư
tưởng tâm l ý người Mán, Tài liệu Lưu trữ tại thư viện Viện Dân tộc học,
Ký hiệu B131, Hà Nội.
98. Ủy ban Dân tộc Trung ương, Tư liệu về dân tộc Dao: tr ch Bàn Vương
xướng, Tài liệu lưu trữ tại thư viện Viện Dân tộc học, Ký hiệu B23, Hà
Nội.
158
99. Đặng Nghiêm Vạn (chủ biên) (1996), Về tôn giáo t n ngưỡng Việt Nam
hiện nay, Nxb Khoa học xã hội, Hà Nội.
100. Đặng Nghiêm Vạn (2001) Dân tộc, văn hoá và tôn giáo, Nxb. Khoa
học xã hội, Hà Nội.
101. Đặng Nghiêm Vạn (1998), Vai trò tôn giáo tộc người trong việc thống
nhất thức cộng đồng người Dao, Sự phát triển văn hóa xã hội của người
Dao: Hiện tại và tương lai, Kỷ yếu Hội thảo Quốc tế người Dao tổ chức
tại Thái Nguyên tháng 12/1995, Hà Nội.
102. Vấn đề dân tộc và ch nh sách dân tộc của Đảng và Nhà nước (1995),
Nxb Sự thật, Hà Nội.
103. Văn kiện Đại hội Đại biểu toàn quốc lần thứ X (2006), Nxb Sự thật, Hà
Nội.
104. Văn hóa dân gian những phương pháp nghiên cứu (1990), Nhiều tác giả,
Nxb Khoa học xã hội, Hà Nội.
105. Viện Dân tộc học (1970), Nhân loại học xã hội và văn
hóa,“Ethropologie général” Ed.Gallimard, Pari, 1968, tài liệu đánh máy
chữ, Ký hiệu Tld 991, Lưu tại Thư viện Viện Dân tộc học, Hà Nội.
106. Viện Dân tộc học (1978), Các dân tộc t người ở Việt Nam (các tỉnh ph a
Bắc), Nxb Khoa học xã hội, Hà Nội, tr.311-336.
107. Viện Dân tộc học (1983), Sổ tay về các dân tộc ở Việt Nam, Nxb Khoa
học xã hội, Hà Nội.
108. Viện Dân tộc học (1980), Góp phần tìm hiểu bản lĩnh bản sắc các dân
tộc ở Việt Nam, Nxb Khoa học xã hội, Hà Nội.
109. Nguyễn Khắc Viện (1994), Từ điển xã hội học, Nxb Thế giới, Hà Nội.
110. Hoàng Vinh (1997), Một số vấn đề về bảo tồn và phát triển di sản văn
hoá dân tộc.
111. Đào Thị Vinh (2001), Phong tục tập quán của người Dao Thanh Hóa,
Nxb Văn hóa - Thông tin, Hà Nội.
159
112. Nguyễn Hồng Vinh, Mười năm triển khai thực hiện Nghị quyết Trung
ương 5 (khóa VIII) về xây dựng và phát triển nền văn hóa Việt Nam tiên
tiến, đậm đà bản sắc dân tộc, http:www.tapchicongsan.org.vn.
113. Nguyễn Quang Vinh (1999), Một số vấn đề người Dao Quảng Ninh, Nxb
Văn hóa dân tộc, Hà Nội.
114. Trần Quốc Vượng (1963), Qua nghiên cứu bình Hoàng Khoán điệp thử
bàn về gốc tích người Dao (Mán),Tạp ch Dân tộc học, (40), Hà Nội.
115. Trần Quốc Vượng (1963), Thử bàn về gốc tích người Dao, Tạp ch Dân
tộc học, (41), Hà Nội.
116. Trần Quốc Vượng (1967), Đôi điểm về lịch sử người Dao, Nghiên cứu
Lịch sử, (95), Hà Nội.
117. La Công Ý (1998) Về những biến đổi văn hoá- xã hội của người Dao
Thanh Phán ở Sơn Động tỉnh Hà Bắc, Sự phát triển văn hóa xã hội của
người Dao: Hiện tại và tương lai, Kỷ yếu Hội thảo Quốc tế người Dao tổ
chức tại Thái Nguyên tháng 12/1995, Hà Nội, tr. 243- 248.
118. Sở Văn hóa - Thông tin tỉnh Quảng Ninh (1999). Dự án điều tra, sưu tầm
lễ cấp sắc của người Dao Thanh Phán ở huyện Hoành Bồ, tỉnh Quảng
Ninh.
119. Sở Văn hoá - Thể thao - Du Lịch Quảng Ninh (2005), Báo cáo điều tra, sưu
tầm hội làng của người Dao Thanh Y ở xã Bằng Cả, huyện Hoành Bồ
160
DANH SÁCH NHỮNG NGƯỜI CUNG CẤP THÔNG TIN
1. Nghệ nhân Trương Thị Quý, sinh năm 1959, người Dao Thanh
Y, xã Bằng Cả, huyện Hoành Bồ, tỉnh Quảng Ninh.
2. Ông Hoàng Văn Út,sinh năm 1957, thầy cúng người Dao Thanh
Y, xã Bằng Cả, huyện Hoành Bồ, tỉnh Quảng Ninh.
3. Ông Bàn Văn Quyền, sinh năm 1968, thầy cúng người Dao
Thanh Y,xã Bằng Cả, huyện Hoành Bồ, tỉnh Quảng Ninh.
4. Ông Chìu A Nhì, sinh năm 1966, thầy cúng người Dao Thanh Y,
xã Hai Lạng, huyện Tiên Yên, tỉnh Quảng Ninh.
5. Ông Hoàng Văn Hoa, sinh năm 1956 , thầy cúng người Dao
Thanh Y, xã Hai Lạng, huyện Tiên Yên, tỉnh Quảng Ninh.
6. Nghệ nhân Bàn Thị Vinh, sinh năm 1941, người Dao Thanh
Phán, xã Tân Dân, huyện Hoành Bồ, tỉnh Quảng Ninh.
7. Lê Văn Thuỷ, sinh năm 1970, người Dao Thanh Y, phụ trách văn
hoá xã Tiên Yên, huyện Hoành Bồ, tỉnh Quảng Ninh.
8. Ông Triệu Tài Cao, 75 tuổi người Dao Thanh Phán, thôn Bằng
Anh, xã Tân Dân, huyện Hoành Bồ, tỉnh Quảng Ninh.
9. Ông Lý Tài Cao, sinh năm 1970 người Dao Thanh Phán, xã Tân
Dân, huyện Hoành Bồ, tỉnh Quảng Ninh.
10. Ông Triệu Đức Cao, sinh năm 1940 người Dao Thanh Phán, xã
Tân Dân, huyện Hoành Bồ, tỉnh Quảng Ninh.
11. Ông Lý Tài Thông, sinh năm 1955 người Dao Thanh Phán, xã
Tân Dân, huyện Hoành Bồ, tỉnh Quảng Ninh.
12. Bà Triệu Thị Sinh, sinh năm 1947 người Dao Thanh Phán, xã
Tân Dân, huyện Hoành Bồ, tỉnh Quảng Ninh.
13. Ông Bàn Sinh Cao, sinh năm 1970, người Dao Thanh Phán,
thôn Bằng Anh, xã Tân Dân, huyện Hoành Bồ, tỉnh Quảng Ninh.
161
14. Nguyễn Thị Hường, sinh năm 1977, cán bộ văn hoá huyện
Hoành Bồ, tỉnh Quảng Ninh.
15. Hoàng Văn Thái, Giám đốc Sở Văn hoá , Thể thao và Du lịch
tỉnh Quảng Ninh.
16. Ông Trần Văn Minh, sinh năm 1946, thầy cúng, người Dao
Thanh Y, xã Hai Lạng, huyện Tiên Yên, tỉnh Quảng Ninh.
17. Ông Đăng Văn Lương, sinh năm 1945, thầy cúng người Dao
Thanh Y, xã Bằng Cả, huyện Hoành Bồ, tỉnh Quảng Ninh.
18. Ông Bàn Văn Tuấn, sinh năm 1950, thầy cúng người Dao
Thanh Y, xã Bằng Cả, huyện Hoành Bồ, tỉnh Quảng Ninh.
19. Ông Bàn Văn Dũng ,sinh năm 1957, thầy cúng người Dao
Thanh Y, xã Bằng Cả, huyện Hoành Bồ, tỉnh Quảng Ninh.
20. Nghệ nhân Bàn Văn Khương, sinh năm 1966, người Dao Thanh
Y, xã Bằng Cả, huyện Hoành Bồ, tỉnh Quảng Ninh.
21. Ông Lý Văn Phương, sinh năm 1966, thầy cúng người Dao
Thanh Y, xã Bằng Cả, huyện Hoành Bồ, tỉnh Quảng Ninh.
22. Nghệ nhân Trương Thị Đông, sinh năm 1954, người Dao Thanh
Y, xã Bằng Cả, huyện Hoành Bồ, tỉnh Quảng Ninh.
23. Ông Chương Văn Lâm, sinh năm 1936, người Dao Thanh Y, xã
Bằng Cả, huyện Hoành Bồ, tỉnh Quảng Ninh.
24. Bà Bàng Thị Thuỷ sinh năm 1977, người Dao Thanh Y, xã
Bằng Cả, huyện Hoành Bồ, tỉnh Quảng Ninh.
25. Ông Bàn Văn Thắng, sinh năm 1960, người Dao Thanh Y, xã
Bằng Cả, huyện Hoành Bồ, tỉnh Quảng Ninh.
162
VIỆN HÀN LÂM
KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM
HỌC VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI
----------------------------
NGHI LỄ VÕNG ĐỜI
CỦA NGƢỜI DAO THANH Y Ở HUYỆN HOÀNH BỒ,
TỈNH QUẢNG NINH
PHỤ LỤC LUẬN ÁN TIẾN SĨ NHÂN HỌC
Hà Nội - 2016
Phụ lục 1
BẢN ĐỒ HÀNH CHÍNH TỈNH QUẢNG NINH
ĐỊA BÀN NGHIÊN CỨU HUYỆN HOÀNH BỒ
1
Phụ lục 2
PHẦN CHUNG
Ảnh1: Đường vào xã Bằng Cả, huyện Hoành Bồ, tỉnh Quảng Ninh.
Tác giả: Nguyễn Thị Thu Hà, tháng 10 năm 2014.
Ảnh 2: Nhà ở của người Dao Thanh Y, thôn Hai, xã Bằng Cả, huyện Hoành
Bồ, tỉnh Quảng Ninh. Tác giả: Nguyễn Thị Thu Hà, tháng 10 năm 2014.
2
Ảnh 3: Đội văn nghệ người Dao Thanh Y, xã Bằng Cả, huyện Hoành Bồ,
tỉnh Quảng Ninh. Tác giả: Hà My, tháng 10 năm 2014.
Ảnh 4: Rừng keo của người Dao Thanh Y, thôn Hai, xã Bằng Cả, huyện
Hoành Bồ, tỉnh Quảng Ninh. Tác giả: Nguyễn Thị Thu Hà, tháng 10 năm 2014.
3
Ảnh 5: Trang phục cô dâu người Dao Thanh Y, xã Bằng Cả, huyện Hoành
Bồ, tỉnh Quảng Ninh. Tác giả: Nguyễn Thị Thu Hà, tháng 07 năm 2015.
Ảnh 6: Phụ kiện, trang phục cô dâu người Dao Thanh Y, xã Bằng Cả, huyện
Hoành Bồ, tỉnh Quảng Ninh. Tác giả: Nguyễn Thị Thu Hà, tháng 07 năm
2015.
4
Ảnh 7: Trang phục của người Dao Thanh Y, xã Hai Lạng, huyện Hoành Bồ, tỉnh
Quảng Ninh. Tác giả: Nguyễn Thị Thu Hà, tháng 04 năm 2013.
Ảnh 8: Trang phục lễ cấp sắc của người Dao Thanh Y,xã Hai Lạng, huyện
Tiên Yên, tỉnh Quảng Ninh. Tác giả: Nguyễn Thị Thu Hà, tháng 04 năm
2014.
5
Ảnh 9: Sách cúng chất liệu giấy gió của thầy cúng Hoàng Văn Hoa, người
Dao Thanh Y, xã Hai Lạng, huyện Tiên Yên, tỉnh Quảng Ninh.
Tác giả: Nguyễn Thị Thu Hà, tháng 10 năm 2014.
Ảnh 10: Bài cúng bằng chữ nôm Dao được dùng trong lễ cấp sắc của người
Dao Thanh Y, xã Hai Lạng, huyện Tiên Yên, tỉnh Quảng Ninh.
Tác giả: Nguyễn Thị Thu Hà, tháng 10 năm 2014.
6
Ảnh 11: Bài cúng bằng chữ nôm Dao được dùng trong lễ cấp sắc của người
Dao Thanh Y, xã Hai Lạng, huyện Tiên Yên, tỉnh Quảng Ninh.
Tác giả: Nguyễn Thị Thu Hà, tháng 10 năm 2014.
7
Phụ lục 3
MỘT SỐ HÌNH ẢNH TRONG NGHI LỄ HÔN NHÂN
CỦA NGƢỜI DAO THANH Y - QUẢNG NINH
Ảnh 12: Đoàn nhà trai đi xin dâu,xã Bằng Cả, huyện Hoành Bồ, tỉnh Quảng
Ninh. Tác giả: Nguyễn Thị Thu Hà, tháng 07 năm 2015.
Ảnh 13: Phụ dâu, cô dâu, bà cô, trong ngày cưới của người Dao Thanh Y,
huyện Hoành Bồ, tỉnh Quảng Ninh.
Tác giả: Nguyễn Thị Thu Hà, tháng 07 năm 2015.
8
Ảnh 14: Lễ chăng dây trong đám cưới ở xã Bằng Cả, huyện Hoành Bồ,
tỉnh Quảng Ninh.Tác giả: Nguyễn Thị Thu Hà, tháng 07 năm 2015.
Ảnh 15: Ông mo Trần Văn Minh 69 tuổi, đang làm lễ báo tổ tiên tại nhà
gái, xã Bằng Cả, huyện Hoành Bồ, tỉnh Quảng Ninh.
Tác giả: Nguyễn Thị Thu Hà, tháng 07 năm 2015.
9
Ảnh 16: Nhà gái trong đám cưới người Dao Thanh Y ở huyện Hoành Bồ -
Quảng Ninh. Tác giả: Nguyễn Thị Thu Hà, tháng 07 năm 2015.
Ảnh 17: Đón dâu người Dao Thanh Y, xã Bằng Cả ở huyện Hoành Bồ, tỉnh
Quảng Ninh. Tác giả Nguyễn Thị Thu Hà, tháng 7 năm 2015.
10
Ảnh 18: Lễ đón dâu, người Dao Thanh Y ở
xã Bằng Cả, huyện Hoành Bồ, tỉnh Quảng Ninh.
Tác giả: Nguyễn Thị Thu Hà, tháng 07 năm 2015.
Ảnh 19: Cô dâu về nhà chồng, người Dao Thanh Y, xã Bằng Cả, huyện
Hoành Bồ, tỉnh Quảng Ninh. Tác giả: Nguyễn Thị Thu Hà, tháng 07
năm 2015.
11
Ảnh 20: Lễ cải sát trong đám cưới người Dao Thanh Y, xã Bằng Cả,
huyện Hoành Bồ, tỉnh Quảng Ninh. Tác giả: Nguyễn Thị Thu Hà, tháng
7 năm 2015.
Ảnh 21: Mẹ cô dâu nhận lễ lại mặt sau đám cưới, người Dao Thanh Y, xã
Bằng Cả, huyện Hoành Bồ, Tác giả: Nguyễn Thị Thu Hà, tháng 07 năm
2015.
12
Phụ lục 4
MỘT SỐ HÌNH ẢNH TRONG LỄ CẤP SẮC
Những lễ thức cơ bản trong lễ cấp sắc của ngƣời Dao Thanh Y,
xã Bằng Cả, huyện Hoành Bồ, tỉnh Quảng Ninh
Ảnh 22: Đối tượng làm lễ cấp sắc:
- Bàng Duy An, sinh năm 2007, người Dao Thanh Y ở Thôn Hai, xã
Bằng Cả, huyện Hoành Bồ, tỉnh Quảng Ninh (bên phải).
- Bàng Văn Thơm, sinh năm 2000, người Dao Thanh Y ở Thôn Hai,
xã Bằng Cả, huyện Hoành Bồ, tỉnh Quảng Ninh (bên trái).
Tác giả: Nguyễn Thị Thu Hà, tháng 6 năm 2015.
13
Ảnh 23:Thầy cúng Hoàng Văn Út, sinh năm 1957, người Dao Thanh Y
ở xã Bằng Cả, huyện Hoành Bồ, tỉnh Quảng Ninh, đang làm Lễ thỉnh
mời ông bà tổ tiên (Bú nhi cố phá cố).
Tác giả: Nguyễn Thị Thu Hà, ngày 31 tháng 6 năm 2015.
Ảnh 24: Lễ vật dùng trong lễ cấp sắc của người Dao Thanh Y, xã Bằng
Cả, huyện Hoành Bồ, tỉnh Quảng Ninh. Tháng 12 năm 2014 (Nguồn:Tư
liệu tại nhà văn hoá xã Bằng Cả, huyện Hoành Bồ, tỉnh Quảng Ninh).
14
Ảnh 25: Lễ cúng Ngọc hoàng xin áo cho thầy mặc trong lễ cấp sắc của
người Dao Thanh Y, xã Bằng Cả, huyện Hoành Bồ, tỉnh Quảng Ninh.
Tác giả: Phan Hà My, tháng 06 năm 2015.
Ảnh 26: Lễ cầu hòa trong lễ cấp sắc của người Dao Thanh Y, xã Bằng Cả,
huyện Hoành Bồ, tỉnh Quảng Ninh. Tác giả: Phan Hà My, tháng 06 năm
2015.
15
Ảnh 27:Lễ bắc cầu, trong lễ cấp sắc của người Dao Thanh Y, xã Bằng
Cả, huyện Hoành Bồ, tỉnh Quảng Ninh.
Tác giả: Nguyễn Thị Thu Hà, tháng 06 năm 2015.
Ảnh 28: Lễ cấp sắc của người Dao Thanh Y, xã Bằng Cả, huyện Hoành Bồ,
tỉnh Quảng Ninh. ( Nguồn:Ảnh tại nhà văn hoá thôn Hai, xã Bằng Cả, huyện
Hoành Bồ, tỉnh Quảng Ninh). Tháng 11 năm 2014.
16
Ảnh 29: Lễ tạ ơn thần linh trong lễ cấp sắc của người Dao Thanh Y,
xã Bằng Cả, huyện Hoành Bồ, tỉnh Quảng Ninh. Tác giả: Phan Hà My,
tháng 06 năm 2015.
Ảnh 30: Bộ tranh thờ Tam Thanh gồm có 03 bức từ trái sang Thái Thanh,
Ngọc Thanh, Thượng Thanh, trong Lễ cấp sắc của người Dao Thanh Y,
xã Bằng Cả, huyện Hoành Bồ, tỉnh Quảng Ninh. Tác giả: Nguyễn Thị Thu
Hà, tháng 06 năm 2015.
17
Ảnh 31: Bộ tranh thờ Tam Nguyên gồm có 03 bức từ trái sang Thượng
Nguyên, Trung Nguyên, Hạ Nguyên,trong lễ cấp sắc của người Dao Thanh
Y,xã Bằng Cả, huyện Hoành Bồ, tỉnh Quảng Ninh.
Tác giả: Nguyễn Thị Thu Hà, tháng 06 năm 2015.
Ảnh 32: Ban Tam Thanh và Tam Nguyên trong lễ cấp sắc của người Dao
Thanh Y, xã Bằng Cả, huyện Hoành Bồ, tỉnh Quảng Ninh.
(Ảnh tư liệu tại nhà văn hoá thôn Hai, huyện Hoành Bồ cung cấp), tháng 06
năm 2015.
18
Phụ lục 5
MỘT SỐ BÀI HÁT
DÂN CA TRONG NGHI LỄ VÕNG ĐỜI CỦA NGƢỜI
DAO THANH Y, TỈNH QUẢNG NINH
( Nguồn cung cấp nhà văn hoá huyện và nghệ nhân Trương Thị Quý xã Bằng
Cả, huyện Hoành Bồ, tỉnh Quảng Ninh)
Dân ca gắn liền với đời sống của dân tộc Dao. Trong một ngày từ lúc
tỉnh giấc đã nghe tiếng hát chào mừng ngày mới, rồi đi lên nương, đi xuống
ruộng đồng, đi ra bến sông, bờ suối, tiếng xay ngô, giã gạo, quay xa, cho
đến đêm khuya tự tình với người yêu, hầu như giờ phút nào cũng cần đến
tiếng hát lời ca. Nếu kể một đời người thì từ lúc nằm nôi, đã được nuôi bằng
lời ru, lớn lên chơi đùa trong tiếng hát; mười tám, đôi mươi tỏ tình trong tiếng
ca, về già bên mâm rượu hát “lời dạy con cháu”, cho đến lúc chết, hồn bay
theo tiếng nhạc tiễn đưa dù bất kỳ trong bước đi nào của đời người, dân tộc
Dao cũng tắm mình trong thơ ca. Thơ ca đã thực sự trở thành một bộ phận
trong cuộc sống của tộc người Dao. Chưa ai có thể đếm được những câu dân
ca của họ.
Dân ca đám cưới là một bộ phận không thể thiếu được trong đám cưới
cổ truyền của dân tộc Dao. Nó có thể dùng làm công cụ để tiến hành các
nghi thức của đám cưới như trong lễ “ăn hỏi” người ta hát “nhin cháy
chủng” (hát ăn hỏi):
Khỏi thỉn dịop tây Phan Hung đầu
Phan Hung đầu lầu pấy nhin chom
Phan Hung đầu tú sop thây lâu
Đầu pấy sóng chăn hu thây chom
Thọc giầy giảo chẩu chén sop sóng
Hon hây tháy thỉn cha nhui tong
19
Khoi slẩu đai thin sop sóng khàn
Hop săng gu lâu chén văn ẳn
Sóm cháy pay đai sóng giả gìu
Sâu nhùn gop don dét tói chưng
Sóm cháy giả phàn hong thẩu thằu
Biểu phàn lo đai sâu th p thẩu
Sâu gầy th p thẩu sóng lù to
To bú nh nhan gthỉn tây pấy
To bú nh nhang thỉn tây sáng
Dịch: Trời đất sinh ra Vua họ Bàn
Từ đó đến nay mọi “họ” theo
Làm ăn sinh sống được no ấm
Kết duyên chồng vợ sống trăm năm
Hôm nay Giở sách ra so tuổi
Hai họ chung tình chắc là nên
Gà vàng gáy vọng giục hai họ
Hôm nay ngày đ p tháng đ p
Hai họ cùng gặp nhau đây
Giở sách đỏ báo cho thiên hạ biết
Từ nay hai họ kết duyên đôi lứa
Hai họ kết duyên bạn trăm năm
Khi chú rể đến nhà gái để đón dâu, người ta chăng dây lưng để hát hỏi,
hát chào, nếu bên nhà trai đối đáp được thì bên nhà giá mới thu dây cho đoàn
nhà trai vào nhà, họ gọi là: “gian kiáu chủng” (hát chặn đường):
Nhà gái hát chặn nhà trai tại nhà ông mối (phần hát này nam không được
hát trả lời):
Nữ: Slẩu mùn nầy: (em hỏi anh)
Nầy táng ho sâu ho quyển tai
20
Nầy táng ho sỏm ho quyển thằu
Bầy tai thằu tây nhếp ho chá
Nầy nằng nhốn tău tỏng phán sàng
Mây thỏ cảng cỏng chan min thin
Cáng cỏng chan quái nhân tău lâu
Chá khàn nhâu tău ho lâu heng.
Nầy tắng chun tai tắng lâu tai
Chun tai chào làn sá chấy sá
Lâu tai đáp làn sá thung hai.
Nầy nằng tai chun châm thúi sàng
Mây thỏ chi tău chan min thin
Chi tău chan quái tai chun lâu
Chả khàn tai chun ho lâu heng.
Dịch:
Hôm nay ngày gì mà có khách
Anh từ đâu đến nơi này vậy
Anh ở bản làng nào đến đây
Anh ở huyện, tỉnh nào đến đây
Anh đi qua mấy rừng, mấy núi
Anh đi qua mấy dốc, mấy đèo
Anh đi qua mấy khe, mấy suối
Anh đi mấy ngày mấy đêm vậy
Anh đi bằng chân hay ngồi ngựa
Anh đi bằng chân hay anh bay
Anh đi bằng chân hay bằng cánh
Anh đi bằng thuyền hay anh bơi
Anh đi bao nhiêu người tốt xấu
Anh đến đây có việc gì không ?
21
Hát chặn tại nhà cô dâu: (phần này hai bên phải đối đáp):
Nữ: Anh là ai, anh từ đâu đến?
Anh họ gì, đến đây có việc gì?
Hôm nay ngày gì anh đến đây?
Nếu anh không nói không được vào.
Nam: Tôi nhà trai, từ bản xa đến!
Tôi họ Bàn, đến đón họ Trương!
Hôm nay là ngày đ p nhất!
Tôi đến đây mong đón người về.
Khi đón dâu về đến gần nhà trai, nhà trai chăng dây hát đón, nhà gái
không cần đối lại:
Hôm nay trời quang mây tạnh
Đón được người hiền về tới đây
Cầu chúc hai người nên duyên mới
Hạnh phúc trăm năm mãi được bền
Đắng cay cả hai cùng cam chịu
Phúc thì cùng hưởng, hoạ cùng cam.
Khi đón cô dâu về đến nhà chồng, người ta đặt lễ hát báo tổ tiên gọi là:
“khỏi cha chúng” (hát báo tổ tiên):
Hôm nay là ngày đ p tháng đ p
Con cháu làm lễ báo tổ tiên
Con cháu đón người mới về nhà
Đó là dâu hiền, cháu thảo
Từ nay nhà có thêm người mới
Mong ông (bà) tổ tiên che trở
Cùng dạy bảo con cháu làm ăn
Để được phát tài bằng người
Sinh ra nhiều con, nhiều cháu
22
Người ta ca ngợi cảnh tưng bừng của tiệc cưới:
Hôm nay là ngày đ p tháng đ p
Gia đình làm đám mời dân làng
Đám cưới có chén rượu nhạt
Có sôi có thịt có tấm lòng
Mong dân làng cùng đến cùng vui
Người ra, người vào thật tấp nập
Chúc gia chủ từ nay có người mới
Làm ăn sẽ phát tài hơn xưa
Và có con cháu đầy nhà
Nào ta cùng uống rượu cho say
Người Dao không chỉ say mê dân ca đám cưới qua nội dung và ngôn ngữ
của nó, mà còn yêu thích phương pháp sử dụng trình bày nó.
Dân ca đám ma (khỏi moông chúng).
Dân ca hát lên lòng thương nhớ người đã mất. Đối với người Dao còn có
quan niệm chết là sang một thế giới khác, nếu được dẫn đi đúng đường sẽ đến
một thế giới mới hạnh phúc. Thông qua việc miêu tả những việc hiếu thảo mà
con cháu đã làm để đền đáp công ơn sinh thành, nuôi dưỡng của ông bà, cha
mẹ; qua việc dẫn dắt linh hồn người chết về với tổ tiên, cầu mong cho linh
hồn người chết được thanh thản ở thế giới bên kia, đồng bào Dao đã dăn dạy,
giáo dục con cháu về thái độ đúng đắn đối với cuộc sống, về luân lí, về đạo
đức, được bày tỏ qua giọng điệu của lời cúng và lời hát:
Khi sống ân tình nặng như núi
Một đường cùng tế tình hoà thuận
Oán trời ban cho số chẳng theo
Bắt bố (m ) ta sớm quy tiên
Giá biệt thân sinh lòng đau đớn
23
Dân ca hát lên lòng thương nhớ người đã mất. Dẫn linh hồn người chết về
với thế giới bên kia thấm đẫm tinh thần, quan điểm nhân sinh quan đạo Phật:
Năm thành tâm với Diên La đế
Diên La con trời phán linh hồn
Ngự bút phân cho kiếp đời sau
Vui vẻ linh hồn nhận làm quan
Dầu nhớ thương than khóc thảm thiết, nhưng tinh thần lạc quan, trách
nhiệm đối với đời sống nhắc nhở mọi người dẹp bớt đau thương mà nghĩ đến
việc làm ăn.Trong trường hợp này lời khuyên bảo có tác dụng mạnh nhất chỉ
là lời của người chết. Người ta tưởng tượng ra cảnh người chết nhờ thầy cúng
chuyển lời cho con cháu, và vẽ ra cảnh làm ăn tấp nập để động viên con cháu
quên buồn thương, vui vẻ làm ăn cho kịp người:
Mong cha (m ) vui chúc con cháu
Ban phúc bình an cho kiếp sau
Trăm thứ tươi tốt và xinh đ p
Nam thăng quan chức, nữ đoan trang
Ngoài những phần đã giới thiệu ở trên, dân ca nghi lễ và phong tục của
tộc người Dao còn nhiều loại như: dân ca mừng năm mới, mừng nhà mới,
mừng trẻ sơ sinh, dân ca cúng sông núi, nương rẫy, làng bản, cúng tổ tiên, cầu
bình an
Dân ca đám cấp sắc (áy man chúng).
Lễ cấp sắc được tổ chức khi con trai người Dao chuẩn bị đến tuổi trưởng
thành. Trong lễ cấp sắc có nhiều lễ khác nhau như lễ đặt tên, lễ khai quang, lễ
dâng đèn, lễ nhảy rồng, lễ nhảy gàtrong mỗi lễ người Dao đều kết hợp nhảy
và hát (nam nhảy, nữ hát):
Hát chúc Thầy cả (Dao Thanh Phán):
Tỏi chịa diết miền chiếu slay chiếm
Slay muần hèng vặng quắng hiền diều
24
Diết nin phẩy quẩy miền phang s ng,
Chìu chiu dìm phiển pịa sàng tàn.
Dịch: Xin chúc Thầy cả cùng uống rượu
Sư Thầy thịnh vượng mãi bên dân
Một năm bốn quý khách tìm đến
Ngày ngày khăn gói, muối mời Thầy.
Hát trong lễ dâng đèn:
Mong thầy mang đèn soi sáng tỏ
Đèn soi sáng cho từng đệ tử
Thân hình đ p đẽ dạ thông minh
Hát trong lễ dâng hương:
Ba nén hương thơm mời Tam phẩm
Thầy sư Tam phẩm nhận vô cùng
Long não trình lên trước án ngọc
Tam nguyên trông thấy tủm tỉm cười
Hay: Ca khai đàn thượng quang
Đêm chiều vàng lại đên chiều vàng
Tiếng ca đến cửa nhà nàng
Tiếng ca văng vẳng bên sườn núi
Cánh cửa nhà nàng có mở không?
Hát trong lễ nhảy rồng:
Thầy truyền khuôn vàng như Đồng Nhi
Ban cho ân mới được trường thọ
Văn võ giỏi dang như rồng bay
Dân ca giao duyên:
Tiếng hát giao duyên là phương tiện chủ yếu giãi bày tình cảm, trò
chuyện tìm hiểu, trao đổi tình yêu của người Dao Thanh Y và Thanh Phán.
Hát có lề lối tổ chức là hình thức hát được hai bên chuẩn bị trước, được thống
25
nhất tổ chức theo những nghi thức khá chặt chẽ, điển hình như hát hội đầu
xuân, hát qua làng
Hát dân ca giao duyên có muôn hình muôn vẻ, từ đơn giản, nhẹ nhàng
đến quy mô phức tạp. Ngay từ buổi đầu gặp gỡ, trai gái người Dao đã bộc lộ
miền vui, khát vọng giao lưu tình cảm, giãi bày tâm sự của mình qua câu hát:
- Khách đâu xa lạ tới nơi này
Hoa sắc bay về đến làng em
Làng em nghèo chẳng đáng dừng bước
Nhưng mong hoa đ p cũng đồng tâm
- Hoa thấp giá đến nhà quý nữ
Được nàng đến tiếp thật đàng hoàng
Quý nương mời ngồi bàn ghế đ p
Chẳng biết lời nào đáp lại em.
Lời hát diễn tả thật sinh động niềm vui sướng, miền khát khao được gặp
gỡ để bộc bạch nỗi lòng của các chàng trai, cô gái.
Nếu có sấm kêu thì vui vẻ
Nhộn nhịp cùng hát hết đêm nay
Họ hàng say hát hết mình mà không nghĩ đến, hát hay hay hát dở:
Một hai ba bài chưa như ý
Lại hát thêm nhiều đừng thắc mắc.
Câu nào phạm lỗi thông cảm cho
Câu nào đáng yêu anh nhớ lòng.
Đó là cách ứng xử phù hợp với điều kiện xã hội dân cư thưa thớt, phù
hợp với cách sống của con người miền núi.
Cuộc hát giao duyên không chỉ là nơi để những người bạn cũ gặp nhau
tâm tình, có ý nghĩa nhân văn sâu sắc, cuộc hát là nơi để trai gái bày tỏ tình
yêu lứa đôi. Câu hát dưới đây bộc lộ rõ khát vọng ấy:
- Thật thoả đôi lòng uổng nhớ mong
26
Làm cho đêm thâu nghĩ quẩn quanh
Ta như mặt trời phơi cỏ mới
Quyết không thể rời nơi lâm ngọc
Mong cho cha m kết cho ta.
Chẳng quên nghĩa sâu nơi tâm khảm.
Sức hấp dẫn của những lời hát đó không chỉ ở ngôn ngữ thơ ca mà còn ở
toàn bộ cuộc sống bao quanh làm thành chất sống của nó. Chàng trai thổ lộ
nỗi chờ mong khắc khoải (hát gọi bạn):
Dưới trăng thanh mình tôi đơn lẻ
Một mình tôi thiếu bạn chung tình
Tôi thả lời ca theo làn gió
Tôi gửi lời ca theo ánh trăng
Bạn tình hỡi nơi nào xa thẳm
Có nghe không lời hát tâm tình
Có ai không cùng tôi tâm sự
Để nỗi lòng tôi đỡ đơn côi
Một mình thôi, tôi hát một mình
Bạn hỡi có nghe thấu lòng tôi
Đi một khe, hai khe còn nghe tiếng chày giã gạo nỗi lòng chàng vấn
vương, kẻ đi người ở:
Một khe hai khe sao vẫn thấy
Tiếng chày em giã gạo vọng theo
Chân bước đi mà lòng ở lại
Chẳng biết khi nào mới gặp nhau
Đi một đèo, hai đèo vẫn nghe tiếng em nói cười dưới bản và những lời
hẹn hò hạnh phúc chung đôi:
Một đèo hai đèo vẫn thấy bóng
Văng vẳng đâu đây tiếng em cười
27
Tiếng nói trong veo như tiếng suối
Quay chân lui bước nước mắt rơi
Nhớ lời em h n cùng anh sống
Cùng anh như đôi chim cùng cây
Vạn niên đời đời ta chung sống
Và cứ như thế buổi trao đổi tâm tình bằng ca hát cứ tiếp tục, nếu như
vượt qua được những khó khăn thì họ đi đến những tình cảm đằm thắm.
Tra hạt hai ta thành một đôi
Xuống nước lên non tay dắt tay
Khổ đau cùng nhau chẳng oán trời
Rửa mặt cũng mong rửa cùng chậu
Đêm ngủ cũng mong chung một gối ./.
28
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- luan_an_nghi_le_vong_doi_cua_nguoi_dao_thanh_y_o_huyen_hoanh.pdf