BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO BỘ VĂN HÓA, THỂ THAO VÀ DU LỊCH
VIỆN VĂN HÓA NGHỆ THUẬT QUỐC GIA VIỆT NAM
----------------------------------------------------------------------
Vũ Huyền Trang
NGHỆ THUẬT TRANG TRÍ TRÊN ÁO LỄ PHỤC
CUNG ĐÌNH TRIỀU NGUYỄN (1802-1945)
LUẬN ÁN TIẾN SĨ NGHỆ THUẬT
Hà Nội – 2021
VIỆN VĂN HÓA NGHỆ THUẬT QUỐC GIA VIỆT NAM
----------------------------------------------------------------------
Vũ Huyền Trang
NGHỆ THUẬT TRANG TRÍ TRÊN ÁO LỄ PHỤC
CUNG ĐÌNH TRIỀU
305 trang |
Chia sẻ: huong20 | Ngày: 18/01/2022 | Lượt xem: 1060 | Lượt tải: 1
Tóm tắt tài liệu Luận án Nghệ thuật trang trí trên áo lễ phục cung đình Triều Nguyễn (1802 - 1945), để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
NGUYỄN (1802-1945)
Chuyên ngành: Lý luận và Lịch sử Mỹ thuật
Mã số: 9210101
LUẬN ÁN TIẾN SĨ NGHỆ THUẬT
NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC
PGS.TS Đoàn Thị Tình
Hà Nội - 2021
BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO BỘ VĂN HÓA, THỂ THAO VÀ DU LỊCH
i
LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan bản luận án tiến sĩ Nghệ thuật trang trí trên áo lễ phục
cung đình triều Nguyễn (1802 - 1945) là công trình nghiên cứu do tôi thực
hiện. Các số liệu kết quả nêu trong luận án là trung thực và chưa công bố.
Tôi xin chịu trách nhiệm về lời cam đoan này.
Hà Nội, ngày 25 tháng 03 năm 2021
Tác giả luận án
Vũ Huyền Trang
ii
MỤC LỤC
LỜI CAM ĐOAN .............................................................................................. i
DANH MỤC CHỮ VIẾT TẮT ....................................................................... iv
MỞ ĐẦU .......................................................................................................... 1
Chương 1 TỔNG QUAN TÌNH HÌNH NGHIÊN CỨU, CƠ SỞ LÝ LUẬN
VÀ KHÁI QUÁT NGHỆ THUẬT TRANG TRÍ TRÊN ÁO LỄ PHỤC
CUNG ĐÌNH TRIỀU NGUYỄN (1802 - 1945) ............................................ 9
1.1. Tổng quan tình hình nghiên cứu ................................................................ 9
1.1.1. Các công trình nghiên cứu liên quan tới vấn đề lý luận về lễ phục cung
đình triều Nguyễn dưới góc độ lịch sử, văn hóa ............................................... 9
1.1.2. Các công trình nghiên cứu liên quan đến nghệ thuật trang trí trên áo lễ
phục cung đình triều Nguyễn dưới góc độ mỹ thuật ....................................... 16
1.2. Cơ sở lý luận ............................................................................................ 23
1.2.1. Các khái niệm liên quan đến đề tài luận án .......................................... 23
1.2.2. Lý thuyết nghiên cứu ............................................................................ 31
1.3. Khái quát về nghệ thuật trang trí trên áo lễ phục cung đình triều Nguyễn
......................................................................................................................... 39
1.3.1. Sự hình thành nghệ thuật trang trí trên áo lễ phục cung đình triều Nguyễn
......................................................................................................................... 39
1.3.2. Khái quát lễ phục cung đình triều Nguyễn ........................................... 46
Tiểu kết ............................................................................................................ 54
Chương 2 NHẬN DIỆN NGHỆ THUẬT TRANG TRÍ TRÊN ÁO LỄ
PHỤC CUNG ĐÌNH TRIỀU NGUYỄN (1802 - 1945) .............................. 57
2.1. Mật độ trang trí ......................................................................................... 57
2.1.1. Áo đại triều phục ................................................................................... 58
2.1.2. Áo thường triều phục ............................................................................ 66
2.1.3. Áo lễ phục Nam Giao của vua triều Nguyễn ........................................ 69
2.2. Hình tượng trang trí .................................................................................. 72
2.2.1. Hình tượng tứ linh ................................................................................. 72
2.2.2. Hình tượng tam sơn thủy ba trên áo lễ phục cung đình triều Nguyễn .. 86
2.2.3. Một số hình tượng hoa văn khác ........................................................... 88
2.3. Màu sắc .................................................................................................... 91
2.4. Chất liệu và kỹ thuật thể hiện ................................................................... 98
iii
2.4.1. Chất liệu ................................................................................................ 98
2.4.2. Kỹ thuật trang trí ................................................................................. 101
Tiểu kết .......................................................................................................... 104
Chương 3 ĐẶC ĐIỂM VÀ GIÁ TRỊ NGHỆ THUẬT TRANG TRÍ TRÊN
ÁO LỄ PHỤC CUNG ĐÌNH TRIỀU NGUYỄN (1802 - 1945)............... 106
3.1. Đặc điểm nghệ thuật trang trí trên áo lễ phục cung đình triều Nguyễn . 106
3.1.1. Bố cục trang trí trên lễ phục cung đình triều Nguyễn ......................... 107
3.1.2. Hình tượng trang trí, biểu tượng của những ước vọng ....................... 111
3.1.3. Màu sắc là biểu tượng của sự vận hành vũ trụ .................................... 113
3.1.4. Yếu tố tam giáo trong nghệ thuật trang trí trên áo lễ phục cung đình triều
Nguyễn .......................................................................................................... 115
3.2. Giá trị nghệ thuật .................................................................................... 119
3.2.1. Nghệ thuật trang trí trên áo lễ phục cung đình triều Nguyễn, một mảnh
ghép hoàn hảo tạo nên diện mạo của mỹ thuật cung đình triều Nguyễn ...... 119
3.2.2. Vị trí của nghệ thuật trang trí trên áo lễ phục cung đình triều Nguyễn
trong hệ thống nghệ thuật trang trí trên áo lễ phục cung đình Việt Nam ..... 122
3.2.3. Nghệ thuật trang trí trên áo lễ phục cung đình triều Nguyễn tạo nên tính
khác biệt trong sự phát triển của nền mỹ thuật cổ ........................................ 125
3.3. Giá trị lịch sử, văn hóa ........................................................................... 129
3.3.1. Giá trị lịch sử ....................................................................................... 129
3.3.2. Giá trị văn hóa ..................................................................................... 134
Tiểu kết .......................................................................................................... 145
KẾT LUẬN .................................................................................................. 147
DANH MỤC CÁC CÔNG TRÌNH CỦA TÁC GIẢ ĐÃ CÔNG BỐ LIÊN
QUAN ĐẾN ĐỀ TÀI LUẬN ÁN ................................................................ 161
TÀI LIỆU THAM KHẢO .......................................................................... 162
PHỤ LỤC ..................................................................................................... 173
iv
DANH MỤC CHỮ VIẾT TẮT
Chữ viết đầy đủ Chữ viết tắt
Bulletin des Amis du Vieux Hue
( Những người bạn cố đô Huế)
B.A.V.H
Bảo tàng mỹ thuật cung đình Huế BTH
Bảo tàng lịch sử BTLS
Đồ dệt ĐD
Đại học Quốc gia Hà Nội ĐHQGHN
Minh họa MH
Mã số kiểm kê MSKK
Nghiên cứu sinh NCS
Nhà xuất bản Nxb
Phó giáo sư Tiến sĩ PGS. TS
Phụ lục PL
Thành phố Hồ Chí Minh Tp HCM
Trang Tr
Xã hội và Nhân văn XH & NV
1
MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài
1.1. Trong tiến trình hình thành và phát triển nền mỹ thuật Việt Nam,
lịch sử đã ghi nhận “Huế, một công trình vĩ đại” [49]. Gần 400 năm (1598-
1945), Huế đã từng là thủ phủ của 9 đời chúa Nguyễn và kinh đô của 13 đời
vua triều Nguyễn với những công trình lịch sử: kiến trúc, lăng tẩm, hội họa,
điêu khắc, âm nhạc, sân khấu...đã cho thấy sự đồng bộ về hệ thống trang trí,
mang giá trị to lớn về giá trị văn hóa nghệ thuật. Góp phần tạo nên diện mạo
của văn hóa nghệ thuật triều Nguyễn ấy phải nói đến vai trò của nghệ thuật
trang trí trên áo lễ phục cung đình triều Nguyễn (1802 - 1945) được biểu đạt ở
cả hai mặt nội dung và hình thức.
Có thể khẳng định, nghệ thuật trang trí trên áo lễ phục cung đình là một
trong những loại hình mỹ thuật ứng dụng chuyên biệt, do con người sáng tạo
ra không những phục vụ cho nhu cầu về cái đẹp, mà còn phản ánh một phần tư
dung về thế giới quan, nhân sinh quan, đặc quyền hưởng dụng mang tính đế
vương, danh phận của con người ở mỗi một triều đại đương thời. Nghiên cứu
nghệ thuật trang trí trên áo lễ phục cung đình triều Nguyễn là đi tìm lại những
tinh hoa, giá trị tinh thần, giá trị thẩm mỹ qua những yếu tố nghệ thuật tạo hình
của bố cục, đường nét, hình tượng, hoa văn - họa tiết trang trí, màu sắc và sự
tài nghệ của người thợ thủ công truyền thống Việt Nam...
1.2. Lễ phục cung đình triều Nguyễn (1802 - 1945) cho tới nay còn lưu
giữ được khá nhiều nguồn sử liệu, tư liệu hình ảnh, những di vật lễ phục cung
đình đặc biệt là áo lễ phục như áo đại triều nghi: (Hoàng bào, Mãng bào, Giao
bào, Hoa bào); áo thường triều (Long bào, Giao lĩnh gắn bổ tử); áo tế lễ (Nam
Giao) của vua và quan đại thần... Đó là những tác phẩm nghệ thuật của người
xưa với sự kết hợp tinh tế của nghệ thuật trang trí và kỹ thuật may, thêu, dệt đã
tạo lên một không gian giàu biểu cảm, mang đậm dấu ấn của mỹ thuật cung
2
đình triều Nguyễn.
1.3. Từ đầu thế kỉ XX đến nay, việc nghiên cứu, nhìn nhận giá trị thẩm
mỹ và giải mã những biểu tượng trang trí trong mỹ thuật truyền thống đang là
vấn đề được quan tâm. Đã có nhiều công trình của các nhà nghiên cứu về mỹ
thuật thời Nguyễn, ở những góc độ như lịch sử mỹ thuật, khảo cổ học, văn hóa
học, dân tộc, sân khấu điện ảnh, kiến trúc, trang phục. Tuy nhiên, các công trình
này không đi sâu nghiên cứu về nghệ thuật trang trí trên áo lễ phục cung đình
triều Nguyễn. Đặc biệt là nghiên cứu nghệ thuật học dưới góc độ nghệ thuật
học để nêu lên giá trị thẩm mỹ, tính tạo hình, kỹ thuật tạo hình của đồ án hoa
văn trên áo lễ phục cung đình triều Nguyễn. Khoảng trống này, cũng chính là
hướng đi mới mà đề tài luận án muốn thực hiện.
Trong phạm vi giới hạn của đề tài luận án Nghệ thuật trang trí trên áo lễ
phục cung đình triều Nguyễn (1802 -1945), dưới góc độ của mỹ thuật học, kết
hợp với góc độ lịch sử, nghiên cứu sinh (NCS) với mong muốn làm rõ các giá
trị nghệ thuật, văn hóa, lịch sử thông qua các tài liệu, nghiên cứu điền dã để
tìm kiếm, nhận diện, đánh giá sâu về các yếu tố học thuật, giá trị đặc trưng và
tính thẩm mỹ của nghệ thuật trang trí trên áo lễ phục cung đình triều Nguyễn.
2. Mục đích nghiên cứu
2.1. Mục đích tổng quát
Mục đích chính của luận án là nhận diện, phân tích, chứng minh, đánh
giá được đặc điểm, vai trò, giá trị của nghệ thuật trang trí trên áo lễ phục cung
đình triều Nguyễn (1802 -1945) trên hai mặt nội dung và hình thức biểu hiện
trên đồ án trang trí.
2.2. Mục đích cụ thể
Qua các tư liệu sách, hình ảnh, hiện vật còn lưu giữ, từ đó tổng hợp, phân
tích tìm ra luận điểm, khái niệm nghệ thuật trang trí trên áo lễ phục cung đình
triều Nguyễn. Đưa ra được bối cảnh lịch sử liên quan đến sự hình thành nghệ
3
thuật trang trí trên áo lễ phục cung đình triều Nguyễn (1802 - 1945).
Nghiên cứu nghệ thuật trang trí trên áo lễ phục cung đình triều Nguyễn
qua hai mặt nội dung và hình thức biểu hiện. Để nhận diện nét đặc trưng riêng
biệt trong tạo hình trang trí trên đó, so sánh với tạo hình trang trí truyền thống
và tạo hình trang trí trên áo lễ phục cung đình nhà Minh, Thanh (Trung Quốc).
Chứng minh vị trí nghệ thuật trang trí trên áo lễ phục cung đình triều
Nguyễn (1802-1945) có mối tổng hòa trong hệ thống trang phục cung đình Việt
Nam. Bước đầu nhận diện đặc điểm có sự kế thừa các giá trị mỹ thuật truyền
thống, phát huy tính thẩm mỹ và tiếp nhận một số phương thức thể hiện mới.
Phản ánh về sự đóng góp nhất định của triều đình nhà Nguyễn vào tiến trình
phát triển mỹ thuật dân tộc trong dòng chảy lịch sử văn hóa Việt Nam.
3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
3.1. Đối tượng nghiên cứu
Nghệ thuật trang trí trên áo lễ phục cung đình triều Nguyễn qua biểu hiện
về nội dung và hình thức trang trí trên Hoàng bào, Long bào, áo tế lễ Nam Giao
của các vua triều Nguyễn; Mãng bào, Hoa bào, Giao bào, áo thường triều của
các quan đại thần triều đình Nguyễn hiện đang được bảo tồn.
3.2. Phạm vi nghiên cứu
Về không gian: Nghiên cứu nghệ thuật trang trí trên 18 áo lễ phục cung
đình triều Nguyễn được bảo tồn tại hai bảo tàng: Bảo tàng lịch sử quốc gia Hồ
Chí Minh và bảo tàng cổ vật cung đình Huế. Do đặc trưng riêng, luận án mở rộng
nghiên cứu áo lễ phục cung đình triều Nguyễn qua một số các nhà sưu tầm cổ vật,
nhà nghiên cứu về Huế và qua các công trình nghiên cứu trong nước, ngoài nước.
Về thời gian: Các áo lễ phục cung đình triều Nguyễn trong giai đoạn
1802 - 1945 để nhận diện đặc điểm, vị trí riêng của trang trí mỹ thuật cung đình
triều Nguyễn khi chưa có sự ảnh hưởng của phương Tây.
4
4. Câu hỏi và giả thuyết nghiên cứu
4.1. Câu hỏi nghiên cứu
Nghiên cứu nghệ thuật trang trí trên áo lễ phục cung đình triều Nguyễn
(1802 - 1945) là đi tìm tính thống nhất, nét đặc trưng tạo hình trang trí trên mỗi
loại áo lễ phục thông qua mối tương quan của hoàn cảnh lịch sử, xã hội. Trong
mỗi giai đoạn lịch sử, mỗi triều đại lại có những bối cảnh, tư tưởng và thể chế
riêng. Xét từ nội dung nghiên cứu của đề tài luận án, các câu hỏi được đặt ra
như sau:
- Nghệ thuật trang trí trên áo lễ phục cung đình triều Nguyễn (1802 -
1945) có những đặc điểm gì (?)
- Nghệ thuật trang trí trên áo lễ phục cung đình triều Nguyễn (1802 -
1945) có vị trí như thế nào trong dòng chảy nghệ thuật trang trí lễ phục cung
đình Việt Nam nói chung và mặt tư tưởng thẩm mỹ, văn hóa, lịch sử nói riêng
(?)
4.2. Giả thuyết nghiên cứu
Nghệ thuật trang trí trên áo lễ phục cung đình triều Nguyễn đã phản
ánh biểu tượng của một chế độ quân chủ phong kiến tập quyền, lấy Nho giáo
làm gốc cai trị đất nước với ngôn ngữ tạo hình trang trí chính là hình tượng,
màu sắc mang yếu tố linh thiêng kết hợp với chất liệu và kỹ thuật thể hiện
cầu kỳ như thêu bọc mép, dệt cài bông, tạo khối nổi, đắp, khảm vàng, bạc,
đá quí trên lễ phục đã đóng góp một phần diện mạo đa sắc màu trong nền mỹ
thuật nước nhà.
Nghệ thuật trang trí trên áo lễ phục cung đình triều Nguyễn, ra đời, hình
thành và phát triển từ sự kế thừa về tạo hình trang trí, phong cách nghệ thuật
của các thời kỳ trước và có tính tư tưởng, quan điểm thẩm mỹ riêng của triều
đình Nguyễn. Đó là những tư tưởng thẩm mỹ của vua quan triều Nguyễn đã tạo
nên sự uy nghiêm, quyền lực và có chứa đựng yếu tố linh thiêng. Phản ánh
5
quan niệm thẩm mỹ của người Việt, cũng như đạo lý văn hóa dân tộc trong
hệ tư tưởng của tam giáo (Phật - Nho - Lão).
5. Phương pháp nghiên cứu
Việc nhìn nhận lại hệ thống các vấn đề trang phục cung đình nhà Nguyễn
nói chung, nghệ thuật trang trí trên áo lễ phục cung đình triều Nguyễn nói riêng
là một cứ liệu khoa học vô cùng có ý nghĩa đối với việc bảo tồn, phát huy và
tôn vinh giá trị nghệ thuật cung đình Việt Nam hòa chung với bản sắc truyền
thống dân tộc. Đối với đề tài luận án Nghệ thuật trang trí trên áo lễ phục cung
đình triều Nguyễn dưới góc độ lý luận và lịch sử mỹ thuật, NCS đã sử dụng
một số các phương pháp nghiên cứu như sau:
5.1. Phương pháp chứng thực lịch sử và so sánh chứng thực lịch sử
Là hai phương pháp hữu hiệu và phù hợp với đối tượng và phạm vi
nghiên cứu của đề tài luận án. Trong đó, phương pháp chứng thực lịch sử đóng
vai trò giúp cho NCS có thể nhìn nhận về nguồn gốc và quá trình hình thành
của nghệ thuật trang trí trên áo lễ phục cung đình triều Nguyễn (1802 - 1945),
môi trường và không gian sử dụng trong bối cảnh lịch sử đương thời. Nhìn nhận
về tính biểu tượng của hoa văn họa tiết trang trí trên áo lễ phục trong không
gian văn hóa mỹ thuật cung đình, với tư tưởng trị quốc lấy Nho giáo làm quốc
giáo. Đối chiếu với các mô típ, hình tượng trang trí trên áo lễ phục, để thấy
được sự hòa nhập của các kiểu thức tạo hình trang trí mang biểu tượng của tam
giáo (Phật - Nho - Lão). Mặt khác, thông qua các hoa văn trang trí, kiểu thức
tạo hình, phong cách biểu hiện trên áo lễ phục để thấy được vị trí, uy quyền của
người mặc áo lễ phục. Phương pháp so sánh chứng thực lịch sử là phương pháp
thông qua phân tích so sánh đối chiếu lịch sử, đưa ra được những giả thuyết về
sự ra đời của nghệ thuật trang trí trên áo lễ phục triều Nguyễn, xây dựng tính
tiếp biến văn hóa trong đề tài luận án.
6
5.2. Phương pháp nghiên cứu điền dã
Vận dụng các kiến thức chuyên ngành để khai thác, điều tra, ghi chép,
đo đạc, phác thảo bản rập và những mẫu hình trang trí trên áo lễ phục cung đình
triều Nguyễn (1802- 1945). Bên cạnh đó, để nghiên cứu nghệ thuật trang trí
trên áo lễ phục cung đình triều Nguyễn, có thể thu thập tài liệu một cách trực
tiếp, thông qua phỏng vấn một số nhà nghiên cứu về mỹ thuật Huế; nghệ nhân
thêu, dệt cung đình. Qua đó, xây dựng tư duy phân tích, tổng hợp tài liệu.
5.3. Phương pháp tổng hợp - thống kê tài liệu, hình ảnh nghệ thuật
trang trí trên áo lễ phục cung đình triều Nguyễn
Là phương pháp tổng hợp những vấn đề nghiên cứu, phân tích tạo hình
trang trí trên các áo lễ phục. Tổng hợp những giá trị nghệ thuật, giá trị văn hóa
và lịch sử qua các đồ án biểu tượng hoa văn của nghệ thuật trang trí trên áo lễ
phục cung đình triều Nguyễn (1802 - 1945) trong hệ thống lễ phục cung đình
Việt Nam. Bổ sung nguồn tư liệu cho sự phát triển chung của nền mỹ thuật dân
tộc. Với phương pháp này có thể thuận lợi cho NCS phân tích về nội dung, hình
thức của nghệ thuật trang trí trên áo lễ phục cung đình triều Nguyễn (1802-
1945) được dễ dàng hơn.
6. Kết quả và đóng góp của luận án
6.1. Về lý luận khoa học
Nghiên cứu Nghệ thuật trang trí trên áo lễ phục triều Nguyễn (1802 -
1945) ở góc độ lý luận và lịch sử mỹ thuật, là tiền đề cho một quá trình giải
quyết các luận cứ mang tính khoa học. NCS có thể xây dựng được hướng triển
khai của đề tài luận án. Từ đó đưa ra các vấn đề nghiên cứu, xây dựng trên cơ
sở lý thuyết và thực tiễn cho nội dung của đề tài.
Luận án hướng tới cách tiếp cận các giá trị truyền thống trong quá trình
giao lưu và tiếp biến văn hóa. Vận dụng phương pháp luận để đưa ra các giá trị
văn hóa, nghệ thuật của người Việt dưới triều đại phong kiến cuối cùng của
7
Việt Nam. Những nguyên tắc và phương pháp nghiên cứu này sẽ mở rộng ra
các thời kỳ của các triều đại khác nhưng vẫn giữ nguyên cơ sở giá trị biện chứng
của nó.
Đề tài bổ khuyết cho những nghiên cứu sâu vào nghệ thuật trang trí trên
áo lễ phục triều Nguyễn, phản ánh rõ diện mạo nền mỹ thuật cung đình triều
Nguyễn qua tạo hình trang trí, kiểu thức, mô típ... được sắp đặt từng loại trên áo
lễ phục.
Đưa ra những luận điểm mới, thông qua các dấu ấn nghệ thuật trang trí
tạo hình biểu tượng hoa văn trên áo lễ phục, hàm chứa ý nghĩa về văn hóa dân
tộc. Phản ánh hệ tư tưởng của chế độ nhà nước phong kiến trung ương tập
quyền, lấy tư tưởng Nho giáo làm gốc cai trị đất nước.
Đánh giá, giải mã biểu tượng mỹ thuật truyền thống là một điều hết
sức cần thiết, trong xu thế phát triển của đời sống văn hóa hiện đại trong thời
kỳ hội nhập mang tính toàn cầu. Việc nghiên cứu nghệ thuật trang trí trên áo
lễ phục cung đình triều Nguyễn ở Huế đã là mục tiêu, cấp thiết đối với mỗi
một ngành nghệ thuật.
Hệ thống được các hình tượng hoa văn trang trí trên áo lễ phục cung đình
triều Nguyễn, xác định được địa vị, phẩm bậc của người được mặc thông qua
các đồ án hoa văn. Luận án đóng góp một phần vào nguồn tài liệu tham khảo
về mỹ thuật truyền thống nói chung, ngành mỹ thuật ứng dụng thiết kế thời
trang - trang phục hiện đại nói riêng.
Tìm ra đặc trưng trong phong cách nghệ thuật trang trí trên áo lễ phục
cung đình triều Nguyễn giai đoạn 1802 - 1945 qua các yếu tố tạo hình: màu
sắc, chất liệu và kỹ thuật thể hiện. Khẳng định hiệu quả thẩm mỹ trong việc
phối kết hợp về nghệ thuật tạo hình trong bố cục đồ án, chủ đề biểu tượng...
6.2. Về thực tiễn
Xác định giá trị nghệ thuật của hệ thống trang trí trên áo lễ phục cung
8
đình triều Nguyễn (1802 - 1945).
Xác định vai trò của đồ án trang trí đối với việc hình thành nên diện mạo
áo lễ phục cung đình triều Nguyễn.
Đề tài góp thêm vào những luận điểm, luận cứ khoa học trong nghệ thuật
trang trí trên áo lễ phục cung đình triều Nguyễn, nhằm phát huy các giá trị di sản
văn hóa dân tộc giai đoạn (1802 - 1945), mỹ thuật Việt Nam nói chung và Huế
nói riêng.
Là cơ sở cho công tác bảo tồn các giá trị văn hóa phi vật thể của quần thể di
sản cố đô Huế.
Góp phần vào việc kế thừa và phát huy giá trị nghệ thuật trang trí trên áo lễ
phục cung đình triều Nguyễn trong các công trình nghiên cứu, cũng như ứng dụng
vào lễ phục, thực hành tín ngưỡng tâm linh của người Việt. Đề cao phát triển làng
nghề truyền thống và giá trị văn hóa phi vật thể của dân tộc trong xu hướng thời
trang hiện đại.
Vận dụng nghiên cứu, đào tạo, giảng dạy chuyên ngành, liên ngành, có
liên quan đến nghệ thuật trang trí trên bề mặt vải, để bảo tồn và phát huy những
giá trị sản phẩm mỹ thuật ứng dụng.
7. Bố cục của luận án
Ngoài phần Mở đầu (08 trang), Kết luận (03 trang), Tài liệu tham khảo (10
trang) và Phụ lục (138 trang), nội dung của luận án gồm 3 chương.
Chương 1: Tổng quan tình hình nghiên cứu, cơ sở lý luận và khái quát nghệ
thuật trang trí trên áo lễ phục cung đình triều Nguyễn (1802 - 1945) (47 trang).
Chương 2: Nhận diện nghệ thuật trang trí trên áo lễ phục cung đình triều
Nguyễn (1802 - 1945) (49 trang).
Chương 3: Đặc điểm và giá trị nghệ thuật trang trí trên áo lễ phục cung đình
triều Nguyễn (1802 - 1945) (41 trang).
9
Chương 1
TỔNG QUAN TÌNH HÌNH NGHIÊN CỨU, CƠ SỞ LÝ LUẬN VÀ
KHÁI QUÁT NGHỆ THUẬT TRANG TRÍ TRÊN ÁO LỄ PHỤC CUNG
ĐÌNH TRIỀU NGUYỄN (1802 - 1945)
1.1. Tổng quan tình hình nghiên cứu
Từ đầu thế kỉ XX đến nay, việc nghiên cứu, nhìn nhận giá trị thẩm mỹ
và giải mã những biểu tượng trang trí trong mỹ thuật truyền thống đang là vấn
đề được quan tâm. Đã có nhiều nguồn tài liệu phong phú tổng quan về mỹ thuật
thời Nguyễn, được nghiên cứu ở nhiều góc độ như lịch sử, mỹ thuật học, khảo
cổ học, văn hóa học, sân khấu điện ảnh. Tuy nhiên, việc nghiên cứu nghệ thuật
trang trí trên áo lễ phục cung đình triều Nguyễn, dưới góc độ lịch sử mỹ thuật
học lại đang là một vấn đề mới và ít đề cập đến. Trong phần tổng quan tình
hình nghiên cứu NCS tiếp cận nghiên cứu dưới các góc độ lịch sử, văn hóa học,
mỹ thuật học với phương pháp nghiên cứu điền dã, thu thập - tổng hợp, thống
kê tài liệu hình ảnh những bộ lễ phục cung đình triều Nguyễn đang được lưu
giữ tại các viện bảo tàng và một số nhà sưu tầm đồ cổ trong nước.
1.1.1. Các công trình nghiên cứu liên quan tới vấn đề lý luận về lễ
phục cung đình triều Nguyễn dưới góc độ lịch sử, văn hóa
Nghiên cứu lễ phục cung đình triều Nguyễn (1802 - 1945) có lẽ không phải
là đề tài xa lạ đối với nhiều nhà nghiên cứu bởi nó mang lại giá trị thực tiễn về một
phần lịch sử văn hóa Việt Nam. Nên đã được các nhà nghiên cứu quan tâm từ rất
sớm đồng thời phân định thành hai giai đoạn trước và sau năm 1945. Giai đoạn
trước năm 1945, triều Nguyễn (1802 - 1945), “triều đại sau cùng của chế độ phong
kiến Việt Nam” [114] đã xây dựng rất nhiều bộ sử liệu tiêu biểu Khâm định Đại
Nam hội điển sự lệ, Đại Nam thực lục chính biên, Đại Nam thực lục Tiền biên, Đại
Nam nhất thống chí, Đồng Khánh Khải Định chính yếu... Tất cả bộ sử trên đều được
các sử gia của Nội các triều Nguyễn, cơ quan Quốc sử quán triều Nguyễn ghi chép
10
rất kỹ càng. Cũng như thông sử Việt Nam từ các thời kỳ trước, triều đình Nguyễn
rất chú tâm với hai vấn đề lớn đó là lịch sử hoạt động và điển pháp, quy chuẩn của
chính quyền cai trị. Thông qua sử liệu triều Nguyễn và tập san dưới triều Nguyễn,
mọi thông tin đã được mở ra và làm cơ sở lý luận cho đề tài luận án trên nhiều
phương diện về tình hình văn hóa, kinh tế, chính trị, bối cảnh xã hội dưới triều
Nguyễn. Ở giai đoạn sau năm 1945, việc nhìn nhận đánh giá triều Nguyễn đã được
nhiều học giả, nhà nghiên cứu quan tâm và nhìn nhận với nhiều góc nhìn khác nhau.
Bên cạnh những thông tin trái chiều thì vẫn có những sự quan tâm đặc biệt về lễ
phục cung đình triều Nguyễn như trong một hội thảo tổ chức năm 1992, với chủ đề
Những vấn đề văn hóa xã hội thời Nguyễn, do Viện Khoa học Xã hội Việt Nam,
bảo tàng lịch sử Việt Nam thành phố Hồ Chí Minh, hội sử học thành phố Hồ Chí
Minh phối hợp tổ chức tại thành phố Hồ Chí Minh; bài viết “Về áo vua triều Nguyễn
hiện trưng bày tại Bảo tàng Lịch sử thành phố Hồ Chí Minh” của tác giả Hoàng
Anh Tuấn đã đưa ra bàn luận về hai chiếc áo của vua triều Nguyễn đang được lưu
giữ tại bảo tàng lịch sử Việt Nam, thành phố Hồ Chí Minh. Bài viết đưa ra những
thông tin số liệu về hai áo lễ phục và những nhận xét về việc nhìn nhận giá trị lịch
sử, văn hóa, nghệ thuật của lễ phục cung đình triều Nguyễn nói chung, hai áo lễ
phục của vua triều Nguyễn nói riêng. Qua bài viết của tác giả, đề tài có thêm thông
tin về áo lễ phục của các vua triều Nguyễn. Đây cũng là tư liệu thiết thực giúp cho
việc tiếp cận các đối tượng nghiên cứu với hiện vật gốc. Năm 1994, tác giả Ngô
Đức Thịnh trong cuốn Trang phục cổ truyền các dân tộc Việt Nam cũng đưa ra gần
20 trang viết về trang phục triều đình Nguyễn.
Năm 1993, bộ sách sử Khâm định Đại Nam hội điển sự lệ của Nội các
triều Nguyễn được biên tập và xuất bản gồm 15 cuốn, là một công trình đồ sộ
về sử liệu và thư tịch cổ dưới thời Nguyễn. Đặc biệt trọng tập 6, quyển 69 - 95
có thể nhận thấy triều Nguyễn rất coi trọng các lễ và hoạt động tổ chức nghi lễ.
Trong đó triều Nguyễn chia ra làm hai lễ chính (lễ triều hội và lễ tự hưởng),
11
mọi nghi thức trong nghi lễ đều được quy định rất rõ ràng bao gồm cả áo mũ
trong các nghi lễ. Quyển 78 - 79, đã ghi lại những quy định về trang phục mặc
trong các ngày lễ của vua, quan khi hội triều.
Bên cạnh đó, cuốn sử liệu Đời sống cung đình triều Nguyễn [12] của Tôn
Thất Bình, một nhà Huế học đương đại cũng có đề cập tới đời sống trong cung
đình rất cụ thể từ không gian Tử Cấm thành cho đến các ngày lễ, hoạt động
nghi lễ của cung đình triều Nguyễn. Với mục đích chính của đề tài luận án,
nguồn sử liệu này vô cùng quý giá và là căn cứ khoa học, xác thực nhất để NCS
có những tổng hợp, đánh giá. Đó cũng là cơ sở cho việc định hướng nghiên cứu
của đề tài luận án.
Năm 2002, bộ sử liệu Đại Nam thực lục của Quốc sử quán triều Nguyễn
cũng đã được phiên dịch bởi Tổ phiên dịch của Viện sử học. Bộ sử liệu được
coi là lớn nhất và quan trọng nhất dưới triều Nguyễn với 88 năm biên soạn bắt
đầu từ năm Minh Mạng thứ hai (1821) cho đến năm Duy Tân thứ ba (1909).
Bộ sách gồm 10 tập, được chia thành hai phần Tiền biên và Chính biên. Trong
đó phần Tiền biên ghi chép về sự nghiệp của 9 đời chúa Nguyễn và phần Chính
biên được chia thành các kỷ, mỗi kỷ một đời vua tương ứng. Bộ sử liệu viết về
toàn bộ lịch sử trị vì của gần 200 năm các chúa Nguyễn ở đàng trong và gần
100 năm triều Nguyễn. Sử liệu đã cung cấp thông tin về thời gian, điển chế
trang phục trong từng nghi lễ.
Năm 2003, cuốn Các triều đại Việt Nam [32] của tác giả Quỳnh Cư - Đỗ
Đức Hùng được xuất bản. Tác giả đã tiếp cận lịch sử qua một cách nhìn mới, khác
với các cuốn thông sử của thời trước đó. Với một lịch trình phát triển từ sự kế nhiệm
của các vua chúa ở thời kỳ Hùng Vương đến thời Bảo Đại triều Nguyễn. Những
thông tin dưới góc độ lịch sử về giai đoạn thời kỳ đầu của triều đại phong kiến cho
đến triều Nguyễn được tác giả tập trung 46 trang để viết về triều Nguyễn. Bắt đầu
từ sự kiện vua Gia Long xưng đế ở điện Thái Hòa, đề ra các quy định về lễ thiết
12
triều và lễ thường triều cho đến thời kỳ vua Minh Mạng - một vị vua tinh thâm nho
học, mở ra Quốc sử quán để biên soạn lịch sử triều Nguyễn đầu tiên. Từ đó NCS có
cái nhìn bao quát và hình dung được rõ hơn về tình hình xã hội, chính trị ở triều
đình Nguyễn (1802-1945), xác định được sự thừa kế cũng như biến đổi của triều
Nguyễn so với các triều đại khác. Tác phẩm đem lại cái nhìn bao quát hơn về niên
đại cũng như lịch đại của các triều đại phong kiến Việt Nam.
Năm 2003, cuốn tạp chí Huế di sản và cuộc sống, bài viết “Phục chế
trang phục cung đình triều Nguyễn” [8] in trên trang số 113 - 120 của tác giả
Trịnh Bách. Bài viết cùng với hiện vật trưng bày của tác giả đã cho ta thấy sự
nhiệt huyết trong việc bảo tồn và phát huy di sản có giá trị văn hóa, nghệ thuật
rất đáng trân trọng. Những hiện vật được công bố cũng là công trình nghiên
cứu mang ý nghĩa thiết thực trong việc lưu giữ những giá trị lịch sử của ông
cha ta để lại. Công trình là một trong những minh chứng giúp cho đề tài tham
khảo, quy nạp và hệ thống hoá tư liệu, triển khai thuận lợi việc nghiên cứu đề
tài luận án trên cơ sở tìm ra giá trị nghệ thuật trang trí trên trên áo lễ phục cung
lễ phục cung đình triều Nguyễn. Những sản phẩm của ông, những năm gần đây
còn được triển lãm ở nhiều nơi trong đó có bảo tàng Cổ vật cung đình Huế và
giới thiệu tại hội thảo quốc tế về di sản văn hoá cung đình thời Nguyễn, nghiên
cứu, bảo tồn và phát huy di sản giá trị, được đăng tin trên trang 267 - 283 với
tiêu đề “Phục chế trang phục và từ cung đình triều Nguyễn”.
Năm 2006, Trang phục Việt Nam - Vietnamese costumes through the
ages [95] của Đoàn Thị Tình là công trình nghiên cứu về lịch sử trang phục Việt
Nam với nguồn tư liệu được sưu tập rất công phu và phong phú, đặc biệt là tư
liệu hình ảnh, khả năng mô tả và phân tích hệ thống rất thuyết phục của tác giả.
Qua nghiên cứu, tác giả đã cung cấp lịch sử trang phục Việt Nam qua từng thời
kỳ lịch sử từ thời kỳ Hùng Vương, thời Ngô - Đinh - Tiền Lê, thời Lý, thời
Trần, giai đoạn nhà Hồ, thời Lê - Mạc - Trịnh - Nguyễn - Tây Sơn đến thời
13
Nguyễn - Pháp thuộc, miêu tả hình dáng, màu sắc, chất liệu của trang phục từng
thời kỳ. Công trình là một nguồn tư liệu quý trong việc tiếp cận trang phục truyền
thống, cũng như tiếp cận những giá trị tinh thần, giá trị văn hóa, giá trị thẩm mỹ
của mỗi thời kỳ. Tác giả đã đề cập đến trang phục thời Nguyễn ở hai góc nhìn
trang phục cung đình và trang phục dân gian. Công trình đã gợi mở cho NCS
hướng nghiên cứu và tiếp cận các mẫu hình trang trí trên trang phục thời Nguyễn.
Năm 2007, Cuốn Chuyên đề đồ dệt [62] của Bảo tàng cổ vật cung đình
Huế đưa ra rất nhiều thông...guyễn vẫn duy trì tục tế
lễ này. Đàn Nam Giao là một nơi linh thiêng, nơi cầu “đón khí hòa”,“cầu được
mùa”. Đàn gồm có 3 tầng, tượng trưng cho thiên, địa, nhân; tầng trên cùng hình
tròn, tượng trưng cho mặt trời (thiên) gọi là Viên Đàn, tầng thứ hai hình vuông,
tượng trưng cho mặt đất (địa) gọi là Phương Đàn, tầng thứ ba là tầng trệt, hình
vuông nơi mọi người tập trung làm các lễ nghi chính trong buổi lễ. Xung quanh
đàn gồm một số công trình phụ như Trai Cung, Thần Trù, Thần Khố... Theo
quan niệm của người xưa, vua tượng trưng cho bậc thiên tử, là con của trời, nên
chỉ có vua mới có quyền cúng tế Trời đất, cầu cuộc sống no đủ, mưa thuận gió
hòa, quốc thái dân an.
Trong những hoạt động nghi lễ dưới thời Nguyễn, người tham gia nghi lễ
đều được quy định nghiêm ngặt về đồ mặc lễ hay những nghi thức thực hiện trong
buổi lễ và do bộ Lễ quản lý và ban hành theo điều lệ. Lễ phục cung đình triều
Nguyễn được mặc theo luật định về phẩm trật. Tất cả điển lễ đều được bộ Lễ
soạn thảo và trình duyệt trước khi ban bố. Khâm định Đại nam hội điển sự
lệ quyển 6 - năm 1993 có ghi chép lại các thông lệ áo mũ triều Nguyễn [61,
Tr. 218]. Căn cứ vào quy định về các lễ và nơi diễn ra buổi lễ của triều đình
Nguyễn, lễ phục cung đình triều Nguyễn được chia ra thành ba loại lễ phục
chính: đại triều phục, thường triều phục và lễ phục Nam Giao.
Với việc lấy tư tưởng Nho giáo để xây dựng và phát triển đất nước, triều
đình Nguyễn không cho phụ nữ tham gia vào các việc nhà nước, song, những
ngày lễ Vạn Thọ, lễ Thánh Thọ có sự tham dự của hậu cung, mệnh phụ của các
29
quan nên trang phục đại triều của các bà vẫn được quy định nghiêm ngặt. Năm
Gia Long thứ 11: “xưa nay khi gặp ba ngày lễ lớn. Tứ cung Thánh Thọ, Chánh
Đán, Đoan Dương, các mệnh phụ văn - vũ đều vào lạy mừng ở nội đình, nhưng
phẩm phục chưa được một loạt đồng đều. Nay chuẩn phàm dụ vào hàng mệnh
phụ văn - vũ từ tam phẩm trở lên đều chiểu theo phẩm trật tự cho sắm lấy triều
phục, để theo ban chiêm bái cho được sáng tỏ lễ độ và nghi thức được nghiêm
túc. Việc này đặt thành lệ” [61, Tr. 77 - 78].
Như vậy, lễ phục cung đình triều Nguyễn là loại trang phục được mặc
trong những buổi lễ và mặc theo quy định nghiêm ngặt của triều đình, với ý
nghĩa là giá trị biểu tượng của một quốc gia. Mỗi loại lễ lại có những quy định
riêng phục vụ cho từng cấp bậc. Lễ phục gồm áo mặc ngoài, mũ, giầy và các
phụ kiện, trang sức. Lễ phục được trang trí công phu, cầu kỳ đặc biệt là trên
áo lễ. Nhìn vào lễ phục có thể xác định được phẩm vị, thứ bậc của người mặc.
Sử sách triều Nguyễn đều ghi nhận lễ hội cung đình ở Huế xưa kia đều là những
cuộc lễ mang tính quốc gia, do nhà nước Trung ương thực hiện.
1.2.1.3. Khái niệm nghệ thuật trang trí trên áo lễ phục cung đình triều
Nguyễn
Trải qua hàng nghìn năm biến đổi và phát triển, lễ phục các triều đại Việt
Nam đã chuyển mình với những nét độc đáo riêng về biểu hiện của nghệ thuật
trang trí từ màu sắc, kiểu dáng và đặc biệt là các hình tượng, hoa văn được sắp
đặt trên mỗi bộ lễ phục. Nó phản ánh sâu sắc về tính thẩm mỹ, nét văn hóa của
từng thời kỳ lịch sử. Nằm trong dòng chảy của các triều đại phong kiến, nghệ
thuật trang trí trên áo lễ phục cung đình triều Nguyễn cũng không ngoại lệ, là
một hình thức biểu hiện về nhu cầu làm đẹp, mong muốn của con người
dưới triều Nguyễn. Nghệ thuật trang trí trên áo lễ phục được biểu hiện qua
ý nghĩa nội dung và hình thức của mỗi bộ trang phục được sử dụng trong
các nghi lễ quan trọng của triều đình.
30
Hầu hết, một số nghiên cứu nghệ thuật trang trí truyền thống ở Việt
Nam, các tác giả Đoàn Thị Tình, Nguyễn Phi Hoanh, Ngô Văn Doanh cho
rằng không dừng lại ở việc thể hiện cái đẹp mà nó còn ẩn tàng bên trong đó là
biết bao nhiêu giá trị tinh thần, tính văn hóa của dân tộc. Bên cạnh đó, tác giả
Đoàn Thị Tình trong cuốn Trang phục Thăng Long Hà Nội lại coi yếu tố tạo
nên bản sắc dân tộc chính là hoa văn - họa tiết ghi dấu ấn trên trang phục của
mỗi thời đại. Cùng quan điểm, tác giả Trần Lâm Biền cũng đưa ra nhận định
“Nghiên cứu hoa văn - họa tiết truyền thống cũng là tìm về với bản sắc văn hóa
của một quốc gia và thấy được tính xuyên suốt, đa dạng trong sự thống nhất
của lịch sử, văn hóa Việt Nam [22, Tr. 05]. Hay khi nghiên cứu về nghệ thuật
trang trí dưới triều Nguyễn, tác giả Trần Đức Anh Sơn trong công trình Huế,
triều Nguyễn một cái nhìn cũng đã lựa chọn hình tượng rồng trong chạm khắc
kiến trúc cung đình Huế. Tác giả Phan Thanh Bình trong công trình Nghiên
cứu Nghệ thuật khảm sành sứ trong mỹ thuật cung đình thời Nguyễn lại có
cái nhìn khác hơn khi nghiên cứu chính về chất liệu khảm sành sứ tạo nên
giá trị nghệ thuật trong mỹ thuật cung đình triều Nguyễn “Nghiên cứu nghệ
thuật trang trí khảm sành sứ trong mỹ thuật cung đình triều Nguyễn đã trở
thành một khuynh hướng chủ đạo Phản ánh xu hướng thẩm mỹ cung đình,
những sắc thái văn hóa tâm linh của triều đại phong kiến cuối cùng ở Việt
Nam.” [14, Tr. 6].
Như vậy, có thể thấy đa phần các công trình nghiên cứu nghệ thuật trang
trí truyền thống đều đi vào nhấn mạnh về các yếu tố như hình tượng, hoa văn -
họa tiết hay chất liệu thể hiện. Tuy nhiên, khi nghiên cứu nghệ thuật trang trí
trên áo lễ phục cung đình triều Nguyễn nếu chỉ dừng lại ở hình tượng, hoa văn
hay chất liệu thì chưa đủ để thể hiện hết giá trị tính nhân văn sâu sắc của bộ lễ
phục mà còn căn cứ vào nhiều yếu tố khác như không gian sử dụng, màu sắc,
mật độ trang trí và những quy định nghiêm ngặt đồ án biểu tượng, hoa văn,
31
Tựu chung lại, có thể xác định khái niệm Nghệ thuật trang trí trên áo lễ
phục cung đình triều Nguyễn (1802 - 1945) là sự kết hợp chặt chẽ của các yếu
tố trang trí như mật độ, hình tượng, hoa văn, màu sắc được sắp đặt theo một
quy chuẩn nghiêm ngặt trên trang phục mặc lễ của triều đình Nguyễn. Qua đó
khẳng định quyền uy, thể hiện phẩm đức của người đứng đầu đất nước. Nghệ
thuật trang trí trên áo lễ phục cung đình triều Nguyễn tạo nên đặc điểm riêng
biệt về giá trị thẩm mỹ, văn hóa, lịch sử triều đại giai đoạn 1802 - 1945.
1.2.2. Lý thuyết nghiên cứu
Nghiên cứu mỹ thuật cổ là nghiên cứu những vấn đề lịch sử, văn hóa,
mỹ thuật của từng thời kỳ. Tìm ra nét đặc trưng của tạo hình mỹ thuật của mỗi
thời kỳ và ý nghĩa biểu tượng gắn liền với xã hội đương thời.
Trong nội dung áp dụng lý thuyết vào đề tài luận án chuyên ngành Lý
luận và Lịch sử Mỹ thuật, với mục đích chính là tìm hiểu, khái quát được nét
đặc trưng và giải mã ý nghĩa của tạo hình trang trí trên áo lễ phục cung đình
triều Nguyễn (1802 - 1945). NCS đã lựa chọn cách tiếp cận nghệ thuật trang trí
cổ thông qua các lý thuyết liên ngành như thuyết tiếp biến văn hóa, thuyết giải
mã biểu tượng. Đây cũng là những lý thuyết được các nhà mỹ thuật cổ sử dụng
rất thành công trong các công trình nghiên cứu trước đó.
1.2.2.1. Thuyết tiếp biến văn hóa
Vào những năm đầu của thế kỷ XIX, ngoài sự tiến hóa văn hóa không
ngừng của mỗi quốc gia thì bên cạnh đó lại xuất hiện nhiều những sự biến đổi,
thay đổi xã hội do tâm lý con người chịu tác động từ sự cọ sát, cưỡng bức văn
hóa của tàn dư chiến tranh thế giới thứ nhất và cuộc chiến tranh thế giới thứ
hai. Trong đó có đất nước An Nam, kinh thành Huế là tâm điểm của vấn đề tiếp
xúc văn hóa và giao lưu văn hóa.
Thuật ngữ “Tiếp biến văn hóa” có gốc từ “Cultural Acculturation”, được
hình thành từ thế kỷ XX, người tiếp cận đầu tiên về thuyết này do giáo sư John
32
Wesley Powell (1834-1902), trong một báo cáo diễn ra vào năm 1880. Sau này
đã có nhiều nhà nghiên cứu về xã hội, nhân học, triết học, tâm lý học đề cập
sâu hơn như Lewis Henry Morgan (1818 - 1881), Willian Isaac Thomas (1923
- 1947), Florian Witold Znaniecki (1882 - 1958) Trong đó John W. Berry
với việc xác định phân chia các chiến lược tiếp biến văn hóa theo hai hướng:
hướng duy trì hoặc từ chối văn hóa bản địa; hướng chấp nhận hoặc từ chối văn
hóa nhóm ưu thế hơn đã đưa ra mô hình tiếp biến văn hóa với bốn nếp gấp: sự
đồng hóa; sự chia tách; sự hòa nhập và sự cô lập. Có thể nhận thấy Việt Nam, dưới
thời Nguyễn đã thể hiện mô hình chiến lược tiếp biến văn hóa này. Từ việc 1000
năm Bắc thuộc đến các thời kỳ phong kiến độc lập, các triều đại phong kiến Việt
Nam không tránh khỏi những ảnh hưởng từ nền văn minh Trung Hoa, mặt khác
luôn muốn khẳng định nét văn hóa riêng của mình, đặc biệt là dưới thời Nguyễn.
Vua Nguyễn một mặt “tham chước” lễ phục nhà Minh, một mặt muốn tạo
nên một nền văn hóa riêng biệt. Chính sự giao thoa và tiếp biến văn hóa
ngoại lai, thêm vào đó là sự kế thừa yếu tố nghệ thuật truyền thống, cùng với
sự tự tôn của một nước độc lập mà triều Nguyễn đã tạo ra “một cõi thiên y
văn hiến” [36, Tr. 38].
Trong công trình nghiên cứu “Tiếp biến văn hóa Việt - Pháp, một không
gian chuyển tiếp” của tác giả Trần Thu Hương đã đưa ra luận bàn về một số
khái niệm văn hóa và tiếp biến văn hóa. Trong đó tác giả có khẳng định “Tiếp
biến văn hóa là một thuật ngữ mới mà tiền tố “a” không có nghĩa là phủ định
mà có nghĩa là sự vận động thay thế một nền văn hóa gốc bằng một nền văn
hóa mới... Nói cách khác, tiếp biến văn hóa chỉ ra tập hợp các quá trình chấp
nhận, chối bỏ hoặc phối hợp các nét văn hóa thuộc về hai hệ thống văn hóa
khác nhau, trong một bối cảnh đặc thù bởi các mối quan hệ uy quyền” [47,
Tr.36]. Đồng thời tác giá cũng chỉ ra nguyên tắc của quá trình tiếp biến văn hóa
đó là “Sự tiếp biến văn hóa có thể xảy ra theo kiểu “cưỡng bức” (trong quá trình
33
xâm chiếm, thống trị) hoặc theo kiểu tự nguyện, vay mượn (thông qua các trao
đổi văn hóa). Không gian văn hóa nhỏ hơn sẽ tiếp nhận những ảnh hưởng của
trung tâm văn hóa lớn hơn và biến đổi bằng cách bắt chước các đặc tính của
nền văn hóa lớn hơn và cổ xưa hơn” [47, Tr.36]. Có thể thấy tiếp biến văn hóa
được hiểu là quá trình thay đổi xã hội, tâm lý và văn hóa từ việc pha trộn giữa
các nền văn hóa với nhau. Ảnh hưởng của nền văn hóa có thể thấy ở nhiều cấp
độ khác nhau từ văn hóa bản địa ban đầu và văn hóa du nhập. Tiếp biến văn
hóa là sự tiếp thu văn hóa một cách có chọn lọc hoặc cưỡng ép và biến đổi nó
cho phù hợp với sự thay đổi của xã hội. Bởi vậy trong quá trình giao lưu và
cùng chung sống giữa các nước phong kiến như Trung Quốc, Triều Tiên, Nhật
Bản; đặc biệt là chịu ảnh hưởng mạnh mẽ tư tưởng giáo lý Trung Hoa; diện
mạo văn hóa lễ phục cung đình Việt Nam cũng không nằm ngoài những ảnh
hưởng sâu đậm này.
Lễ phục cung đình triều Nguyễn (1802 - 1945), nằm trong dòng chảy của
hệ văn hóa tư tưởng đế vương, lấy tư tưởng Nho giáo làm nền tảng trị quốc,
chịu ảnh hưởng của nền văn minh Trung Hoa; ngoài kế thừa một phần phong
cách tạo hình trang trí trên lễ phục triều đình nhà Lê, nhà Nguyễn không tránh
khỏi việc tiếp thu một cách tự nhiên, hữu thức hay tham chước, mô phỏng theo
trang phục triều đình nhà Minh - Trung Quốc. Đây là nhận định của các chuyên
gia, nhà nghiên cứu sử học như Trần Đình Sơn, Trần Quang Đức, Nguyễn
Phước Vĩnh Cao (ông cũng là đời thứ năm của vua Minh Mạng) được ghi lại
trong quá trình đi điền dã thực địa của NCS. Tuy nhiên, đây là sự tiếp thu văn
hóa có chọn lọc và có sự sáng tạo riêng phù hợp với tâm lý xã hội người Việt
trong thời kỳ đó. Rõ ràng, do sự kế thừa tư tưởng văn minh Trung Hoa cổ và
sự tự tôn về nền văn hiến trước đó của nước nhà, cho nên nhà Nguyễn cũng
thận trọng khi tham khảo trang phục nhà Thanh gốc Mãn (nước song hành với
thời kỳ nhà Nguyễn). “Năm 1830, chính vua Minh Mạng nói rõ: “Trẫm xem
34
sách Hội điển của nước Thanh [] áo mũ triều phục đều theo thói tục man di,
không phải chế độ phục sức của cổ nhân như thế lại càng sai trái, không thể
làm khuôn phép” [36. Tr. 31].
Quá trình tiếp biến văn hóa còn được diễn ra qua một số hình tượng, hoa
văn - họa tiết trang trí trên áo lễ phục cung đình triều Nguyễn như hình tượng
tứ linh (rồng, lân, rùa, phượng), hoa văn vân mây, tam sơn... có những nét riêng
biệt không giống hệt với mô típ hoa văn của nhà Minh, nhà Thanh (Trung
Quốc), càng tinh tế và bớt rườm rà hơn so với hình tượng hoa văn nhà Lê trước
đó. Bên cạnh đó là sự tiếp biến ở yếu tố màu sắc, vẫn là những gam màu ngũ
sắc quen thuộc trong lễ phục triều đình phong kiến, xong khi đối chiếu với lễ
phục nhà Minh, nhà Thanh Trung Quốc thì đã có sự khác biệt rất rõ. Ví dụ như
tông màu vàng của nhà Nguyễn được sử dụng chiếm tỷ nhiều hơn so với các
thời kỳ trước và nhà Minh, tuy nhiên, sắc độ vàng được Việt hóa, dịu nhẹ và
không rực, tạo cảm giác gần gũi với dân gian hơn, hay chữ Thọ được thêu trên
áo vua, màu sắc hài hòa, không chênh lệch mạnh về độ đậm nhạt trên lễ phục,
tạo cảm giác trầm ấm hơn so với triều phục nhà Minh, Trung Quốc. Đây chính
là yếu tố thẩm mỹ riêng, định hình một phong cách nghệ thuật cung đình triều
Nguyễn (1802 - 1945). Nói cách khác, đây cũng là sự “chống trả” của triều
Nguyễn trước sự ảnh hưởng của văn hóa Trung Quốc vào Việt Nam và đồng
thời cũng là sự khẳng định giá trị tạo hình của nghê thuật trang trí truyền thống
của dân tộc Việt trong lễ phục cung đình triều Nguyễn.
1.2.2.2. Thuyết giải mã biểu tượng
Theo Từ điển bách khoa Việt Nam, biểu tượng có nghĩa là “phương tiện
sáng tạo nghệ thuật sang trừu tượng, khái quát. Biểu tượng tác động chủ yếu
đến cảm xúc của người xem. Biểu tượng còn được coi như là một thủ pháp sáng
tạo nghệ thuật. Trực giác của người nghệ sĩ có vai trò rất quan trọng trong quá
trình nhận thức một biểu tượng. Tùy thuộc vào những cảm xúc khác nhau về
35
biểu tượng, người ta có những cảm xúc khác nhau” [46, Tr. 229]. Lại nói Từ
điển biểu tượng văn hóa thế giới có nhận định “Biểu tượng phong phú hơn là
một dấu hiệu, ký hiệu đơn thuần: hiệu lực của nó vượt ngoài ý nghĩa, nó phụ
thuộc vào cách giải thích và cách giải thích thì phụ thuộc vào một thiên hướng
nào đó. Nó đầy gợi cảm và năng động. Nó không chỉ vừa biểu hiện, theo một
cách nào đó, nó vừa che đậy; nó còn vừa thiết lập, cũng theo cách đó, nó vừa
tháo dỡ ra. Nó tác động lên cấu trúc tinh thần” [38, Tr. XX]. Như vậy có thể
thấy, biểu tượng ngoài được coi là một công cụ để thể hiện những ước mơ, khát
vọng của con người thì nó còn được so sánh với chức năng gây cảm xúc. Ngày
nay, trên con đường nghiên cứu khoa học về con người cũng như nghệ thuật
học, chúng ta đều bắt gặp các biểu tượng, “ nói là chúng ta sống trong thế giới
biểu tượng thì vẫn còn chưa đủ, phải nói là một thế giới biểu tượng sống trong
ta” [38, Tr.XIV]. Tác giả Nguyễn Hữu Thông cũng đã nhận định về vai trò và
tầm quan trọng của việc giải mã biểu tượng văn hóa - mỹ thuật:
Càng ngày con người không chỉ trở nên yêu thích biểu tượng, mà dẫu
muốn hay không, trong mọi hoạt động của ý thức lẫn vô thức biểu
hiện bằng tư duy hay hành vi, chúng ta đều sử dụng các biểu tượng.
Có thể đó là những biểu hiện liên quan đến hình ảnh, âm thanh, mùi
hương, con số, màu sắc... nhưng khi trở thành biểu tượng, chúng trở
thành chiếc chìa khóa quan trọng mở cánh cửa của đời sống, trong
đó, các hành vi tôn giáo, ước vọng, hoài bão, những điều dấu kín
trong tiềm thức, những xu hướng, ức chế... của một cộng đồng hay
cá nhân đều ẩn hiện dưới rất nhiều tình huống. Bộc lộ rồi lủi trốn;
càng tự phơi bày sáng tỏ, nó tự giấu mình đi; các biểu tượng tiết lộ
mà che giấu và che giấu mà tiết lộ [93, Tr. 49].
Thông qua nhận định của tác giả, có thể thấy được vai trò của việc giải
mã biểu tượng của đề tài luận án Nghệ thuật trang trí trên áo lễ phục cung đình
36
triều Nguyễn (1802 - 1945) là vô cùng ý nghĩa. Bởi người xưa không chỉ vô
thức tạo ra trang phục với vai trò để mặc đẹp, để thể hiện bản thân mà nó còn
chứa đựng biết bao nhiêu công sức, khát vọng, tư tưởng với ý nghĩa nhân sinh
sâu sa được gửi gắm vào trong bộ lễ phục. Khi tiếp cận các bộ áo lễ phục cung
đình triều Nguyễn, cái đầu tiên tiếp nhận vào thị giác chính là các biểu tượng
trên lễ phục để rồi thôi thúc bản thân muốn tìm ra, lý giải được những ẩn số
dưới dạng đồ hình. Đó là những thông điệp vô ngôn của biểu tượng về một thời
kỳ lịch sử, những giá trị thẩm mỹ cung đình một thời. Đề cập đến vấn đề biểu
tượng trong tạo hình dân tộc, tác giả Trần Lâm Biền có đưa ra:
Thực ra, trong tạo hình của người Việt, yếu tố biểu tượng đã phát
triển rất cao, duy trì nhịp đập của quá khứ cho hiện tại và tương lai.
Biểu tượng tuy thường có một hình thể rõ ràng và đôi khi có vẻ khô
cứng, xong, dầu sau nó là một cuộc sống chứa đựng vẻ đẹp thiên thần
của tâm linh, có một “trái tim” thánh thiện. Biểu tượng, ở chừng mực
nào đó, đầy chất Người, nó phản ánh tư duy trừu tượng, để Hoa không
chỉ là hoa, Núi không chỉ là núi, và cuối cùng lại chính là Hoa và Núi
Tất cả vũ trụ, trời đất muôn loài, sông núi... chỉ có thể được xác nhận
bằng chính trí tuệ của con người. Nhân loại là trung tâm, do đó biểu
tượng góp một phần hòa mênh mông vào trong tâm tưởng, và ngược
lại, bằng biểu tượng con người “nghe” thấy được tiếng thầm thì của
tạo hóa [22, Tr. 33].
Việc vận dụng thuyết giải mã biểu tượng trong nghiên cứu Nghệ thuật
trang trí trên áo lễ phục cung đình triều Nguyễn (1802 - 1945) sẽ là bước đầu
suy diễn và giả định - suy luận, đồng thời cũng là cơ sở khoa học cho NCS tìm
hiểu ý nghĩa của nghệ thuật trang trí trên áo lễ phục cung đình triều Nguyễn nói
chung, các mô típ, kiểu thức hoa văn trên áo lễ phục nói riêng. Mỗi sự sắp đặt
của các họa tiết, kiểu thức trang trí trên bố cục của áo lễ phục chuyên trở bên
37
trong nó những thông điệp gì.
Luận án sử dụng giải mã biểu tượng để trả lời cho các vấn đề nêu trong
phần nghiên cứu giá trị nghệ thuật trang trí trên áo lễ phục cung đình thời
Nguyễn đặt trong bối cảnh lịch sử và sự tác động của yếu tố mỹ thuật đương
thời. Vượt qua ngoài không gian văn hóa, vật chất của con người, những
phương pháp trang trí, yếu tố tạo hình trang trí... mối quan tâm của luận án còn
mở rộng tới việc giải mã những nội dung chứa đựng giá trị bên trong và những
khát vọng của con người. Tác giả Đoàn Thị Tình có viết trong cuốn Trang phục
Thăng Long Hà Nội: “Nếu trang phục được ví như bản sắc, tinh hoa của dân
tộc thì họa tiết - hoa văn trên trang phục còn ghi dấu ấn của mỗi một thời đại,
đã qua đồng thời nó còn là biểu trưng, nhắc nhở, đăng tải sự mong muốn khát
vọng của cuộc sống con người trong vũ trụ thiên nhiên” [96, Tr. 421].
Nghiên cứu các biểu tượng trên áo lễ phục, đồng thời cũng là nghiên cứu
sự kết dính của hai yếu tố trang phục và hoa văn trang trí để từ đó đánh giá
được quan điểm thẩm mỹ của một thời. Qua các triều đại phong kiến Việt Nam,
chịu ảnh hưởng của giáo lý và triết học phương Đông, với quan niệm mọi sự
đầu tiên đều sản sinh từ hai thái cực. “Hai thái cực được diễn tả từ hình ảnh
vòng tròn lưỡng nghi đen - trắng. Đó chính là biểu tượng âm dương” [93, tr
56]. Những hình tượng hoa văn trang trí như rồng, phượng, rùa, lân, vân mây,
tam sơn thủy ba, chữ triện... được đặt trong các loại áo lễ phục đã tạo nên giá
trị biểu tượng sâu xa.
Nhà Nguyễn, ngoài kế thừa những tư tưởng thẩm mỹ thời kỳ trước, kết
hợp với quan điểm lấy tư tưởng Nho giáo làm tôn chỉ xây dựng đất nước đã
tạo nên một không gian nghệ thuật cung đình với ý nghĩa nhân văn sâu sắc.
Hình tượng hoa văn gắn với Nho giáo, tập trung chủ yếu về nguyên lý
âm dương, ngũ hành. Những hoa văn tiêu biểu như mặt trăng - mặt trời, tam
sơn - thủy ba, rồng, phượng hoàng... Trong đó, rồng - phượng đều là những con
38
linh vật, “thuộc về vũ trụ” [22], những con vật ấy đã chi phối tâm thức con
người. Có lẽ chính vì thế mà những con vật thiêng này, hiện hữu trên trang
phục như để khẳng định địa vị, quyền lực của người được mặc.
Rồng thường được gắn liền với vua, phượng được gắn liền với hoàng
hậu. Thời Nguyễn quy định, vua mặc lễ phục có họa tiết rồng năm móng, các
quan đại triều sử dụng họa tiết rồng bốn móng. Riêng con phượng, ngoài sử
dụng riêng cho hoàng hậu, hoàng thái hậu thì được sử dụng trên lễ phục Mãng
bào của các quan đại thần. Có thể nói, áo lễ phục là sự chuyển hóa thần thái từ
các đồ án hoa văn, hình tượng trang trí. Cụ thể, trên áo lễ phục đại triều nghi
của vua Nguyễn, được trang trí bởi các đồ án hoa văn hình rồng (rồng dạng tròn
bay lên, rồng chầu trời), phần dưới thân áo là tam sơn - thủy ba. Thông qua
nghệ thuật tạo hình trang trí trên lễ phục đã thể hiện vị trí và quyền lực của
người sử dụng. Từ lâu, trong tâm thức của người Việt, hình tượng rồng đã được
đưa thành tầng vũ trụ, tầng trời. Và vua là bậc thiên tử, mang ý nghĩa cai trị
thiên hạ. Dưới đồ án rồng là hình ảnh tam sơn thủy ba, một biểu tượng của sự
giao hòa giữa trời, đất và nước.
Hay như trên áo lễ phục Nam Giao của vua Nguyễn còn gọi là áo Long
Cổn, kết cấu hình dạng theo kiểu nhà Đường, trang trí hoa văn theo điển tích
gồm 12 chương ( họa tiết) như nhật - nguyệt, tinh thìn, phẫn mễ, sơn, rồng,
phượng hoàng... Tất cả những đồ án trang trí đó được thể hiện trên áo tế lễ
như là biểu tượng của việc cầu mong cho một đất nước mưa thuận gió hòa,
cuộc sống no đủ, sung túc. Các đồ án hoa văn đều được thêu bằng các chỉ màu
như xanh lam thẫm, vàng, trắng, đỏ, xanh lục nhạt, tương ứng với các hành
kim - mộc - thủy - hỏa - thổ (thuyết ngũ hành). Người xưa đã cố ý sử dụng
biểu tượng theo học thuyết phương Đông để đưa vào áo lễ phục. Một phần để
thể hiện tư tưởng giáo lý của một thời, một phần nào đó thể hiện tín ngưỡng
tôn giáo của dân tộc.
39
Như vậy, lễ phục cung đình triều Nguyễn (1802 - 1945) nói chung,
áo lễ phục nói riêng không chỉ là những đồ mặc mang chức năng sử dụng
thông thường mà còn là sản phẩm nghệ thuật của người xưa, hàm chứa
trong đó một kho tàng văn hóa mà những người được sử dụng chính là đại
diện, phản chiếu những ý nghĩa về nhân sinh quan, thế giới quan, sự linh
thiêng của trời - đất và cả đức - tài trách nhiệm gánh vác trên vai.
1.3. Khái quát về nghệ thuật trang trí trên áo lễ phục cung đình triều
Nguyễn
Nghệ thuật trang trí trên áo lễ phục cung đình triều Nguyễn (1802-1945)
nên xem xét khái quát thông qua một số vấn đề cơ bản:
- Sự hình thành nghệ thuật trang trí trên áo lễ phục cung đình triều
Nguyễn
- Khái quát áo lễ phục cung đình triều Nguyễn
1.3.1. Sự hình thành nghệ thuật trang trí trên áo lễ phục cung đình
triều Nguyễn
Sự hình thành nghệ thuật trang trí trên áo lễ phục cung đình triều Nguyễn
ngoài những yếu tố lịch sử - xã hội, văn hóa - nghệ thuật mang tính quyết định,
bên cạnh đó là sự kế thừa nghệ thuật tạo hình truyền thống từ các thời kỳ trước
của dân tộc Việt Nam và những ảnh hưởng trực tiếp từ văn hóa Trung Hoa.
1.3.1.1. Bối cảnh xã hội dưới triều Nguyễn
Năm 1802, chúa Nguyễn Ánh đánh bại quân Tây Sơn, lập ra triều đình
mới, thống nhất đất nước, lấy niên hiệu là Gia Long, đóng đô ở Phú Xuân. Năm
1804, vua Gia Long chính thức đặt quốc hiệu là Việt Nam, đến 1811 đổi lại tên
cũ là nước Đại Việt. Năm 1838, vua Minh Mạng đổi tên nước thành Đại Nam.
Nếu thời vua Tây Sơn đặt nền móng cho sự thống nhất đất nước thì vua Gia
Long đã xây dựng một hệ thống đất nước thống nhất, toàn diện trên toàn lãnh
thổ, mở ra một triều đại mới. Đất nước mở rộng, ban đầu gồm 11 trấn phía Bắc
40
hợp thành tổng trấn Bắc Thành, 5 trấn phía Nam hợp thành tổng trấn Gia Định
Thành. Với một đất nước Đại Nam có đất đai vật lực, tiềm năng mọi mặt dồi
dào và phong phú, với vị trí là kinh đô của nước Đại Nam, xứ Huế trở thành
trung tâm chính trị, văn hóa của quốc gia suốt thế kỷ XIX.
Về mặt lịch sử, bên cạnh việc thiết lập các chính sách thống trị nhằm
mục tiêu bình ổn và phát triển đất nước. Triều đình Nguyễn không tránh khỏi
những rào cản đã tồn tại từ những mâu thuẫn xã hội trước đó.
Vào cuối thời chúa Võ Nguyễn Phúc Khoát, đàng Trong và đằng Ngoài
tình hình chính trị - xã hội rối ren, chúa Định Nguyễn Phúc Thuần lên ngôi
nhưng bị quyền thần Trương Phúc Loan ép soán ngôi. Do sự lũng đoạn triều
chính của nghịch thần mà lòng dân oán hận, căm phẫn. Các cuộc khởi nghĩa
bắt đầu nổ ra trong cả nước, nổi bật nhất là chiến thắng của cuộc khởi nghĩa
quân Tây Sơn. Năm 1777, Chúa Định bị bắt và xử tử cùng với đa số các hoàng
tử hoàng tôn nhà Nguyễn. Hậu duệ Nguyễn Phúc Ánh thoát nạn và luôn một
lòng muốn khôi phục lại cơ đồ của tổ tiên gây dựng. Chính những mong muốn
tột cùng đó, đã thúc đẩy quyết định cầu viện nước ngoài (quân Xiêm La và
Pháp) của chúa Phúc Ánh mà người đời quy tội “cõng rắn cắn gà nhà”. Năm
1792, vua Quang Trung mất, triều đình Tây Sơn tranh chấp nội bộ, quan lại
đánh xé lẫn nhau, nhân dân lại lâm vào đói khổ, “lòng người lại hướng về
Nguyễn Phúc Ánh” [85, Tr. 83], nhân dân còn truyền nhau câu ca dao “Lạy trời
cho cả gió nồm, để cho chúa Nguyễn kéo buồm thẳng ra”. Tuy nhiên, sau khi
giành lại được kinh đô thì Nguyễn Ánh đã có cuộc báo thù dã man khiến cho
tâm trí con người có phần kiêng sợ về hình ảnh người anh hùng dân tộc, đặc
biệt là nhân dân. Có lẽ vì vậy mà một phần mẫu thuẫn giữa triều đình nhà
Nguyễn với nhân dân, tàn quân Tây Sơn vẫn chưa được bình lặng mặc dù đã
đưa ra các chính sách an dân. Phần khác là do lòng dân chưa tin tưởng hoàn
toàn vào triều đình Nguyễn bởi những chính sách thống trị hà khắc, đặc biệt là
41
về mặt kinh tế xã hội bị kìm hãm sự phát triển. Cụ thể là nông nghiệp sản xuất
bị trì trệ do quỹ đất bị tập trung trong tay cường hào địa chủ, thủ công nghiệp
bị nắm trong tay thợ giỏi. Chính điều đó đã dấy lên hơn 500 cuộc khởi nghĩa
của nông dân chỉ mới nửa đầu của thế kỷ XIX.
Về mặt tư tưởng - chính trị, triều đình Nguyễn thành lập và tồn tại cho đến
năm 1945. Có thể phân kỳ triều đại nhà Nguyễn ra thành hai giai đoạn lớn: Giai
đoạn một vương triều phong kiến độc lập (1802 - 1884) và giai đoạn một vương
triều phong kiến ngoại thuộc (1884 - 1945) [3]. Chính vì hoàn cảnh xã hội thù
trong giặc ngoài mà triều Nguyễn bắt buộc phải đưa ra các quyết sách nhằm bình
ổn lòng dân.
Một mặt, triều Nguyễn đã lựa chọn tư tưởng Nho giáo để điều hành xã
hội và cai trị đất nước ở hai khía cạnh: sử dụng triết lý đạo đức để ràng buộc
con người vào mối quan hệ xã hội mang tính trật tự, đặc biệt là phát triển giáo
dục như giáo dục con người về lễ nghĩa, đạo tam cương ngũ thường, khuyến
khích mở các trường học (Quốc học Huế, Nữ sinh Đồng Khánh), văn miếu
Quốc Tử Giám và tư tưởng “tâm linh huyền bí” qua tín ngưỡng thờ cúng.
Tư tưởng Nho giáo có lẽ lựa chọn là đúng đắn nhất đối với triều đình nhà
Nguyễn lúc bấy giờ vì đó là một học thuyết mang những nguyên lý về triết học
đạo đức. Giáo huấn con người trong xã hội phải đặt lễ giáo, tu dưỡng bản thân
lên hàng đầu “tu thân, tề gia, trị quốc, bình thiên hạ”, giúp cho nhân dân và
chính quyền có sự gắn kết nhau. Giáo huấn người đứng đầu trong cả nước phải
thực hiện chính sách đức trị và con người ngoài lễ giáo thì cần phải “có nghĩa”,
có lòng trắc ẩn và có tính trách nhiệm với cả cộng đồng. Có thể nói đây là một
học thuyết có giá trị tích cực.
Bên cạnh đó, triều đình Nguyễn còn sử dụng tư tưởng “tâm linh huyền
bí” trong Nho giáo với tín ngưỡng thờ trời, thờ đất, thờ cúng tổ tiên, thờ thần
nông... đặc biệt tin vào mệnh trời hay còn gọi là thiên mệnh. Tức là mỗi con
42
người, trong xã hội sinh ra trên đời đều do trời quyết định, chi phối. Vua
Nguyễn cũng vậy, được coi là chân mệnh thiên tử và chỉ có phẩm đức cao mới
được trời ủng hộ “Hoàng thiên vô thân, duy đức thị phụ” [94, Tr.12].
Tuy nhiên, không phải sử dụng Nho giáo thì tất yếu sẽ thành công mặc
dù về lý thuyết sẽ tránh được sự phân hóa giàu nghèo, xã hội bình ổn phát triển.
Dưới triều Nguyễn, do quá đề cao mặt đức nên dẫn tới sự phân hóa sang, hèn.
Người được học thức cao thì sang, là bậc trượng phu, quân tử còn ngược lại ít
học thì hèn, thất phu, tiểu nhân. Xã hội bị phân chia rõ rệt, trong đó vua quan
nắm thần quyền, uy lực và được coi là người có phẩm đức cao nhất. Chính
những khoảng cách đó đã tạo tiền đề cho những mâu thuẫn giữa nông dân và
chính quyền nhà Nguyễn trở nên sâu sắc.
Mặt khác, triều Nguyễn thiết lập bộ máy chính trị chuyên chế, vua là
người đứng đầu, nắm trong tay mọi quyền lực. Dưới vua gồm 6 Bộ: Bộ Lại, Bộ
Hộ, Bộ Hình, Bộ Lễ, Bộ Công, Bộ Binh với mục tiêu xây dựng bộ máy cai trị
vững chắc. Bên cạnh đó, vua Gia Long đã đề ra lệ “Tứ bất” nhằm tập trung
quyền lực trong tay, trong đó có lệ “không lập Hoàng hậu”. Đó chính là lý do
mà phụ nữ dưới thời Nguyễn không được coi trọng và không được tham gia
vào các lễ chính của triều đình tại điện Thái Hòa. Đến thời Minh Mạng còn có
thêm viện Cơ Mật và Tôn nhân phủ. Như vậy, có thể thấy bộ máy chính trị dưới
triều Nguyễn rất cồng kềnh, điều này đã tạo ra khoảng cách rất lớn giữa vua
Nguyễn và nhân dân trong cả nước. Tuy nhiên việc tập trung quyền hành này
sẽ giúp cho nhà nước được ổn định hơn.
1.3.1.2. Văn hóa - nghệ thuật thời Nguyễn
Từ chính những quan điểm, tư tưởng chính trị, hoàn cảnh xã hội dưới
triều Nguyễn bấy giờ, đã tạo ra những ảnh hưởng sâu sắc đến văn hóa nghệ
thuật, đặc biệt là mỹ thuật cung đình. Cùng với sự lớn mạnh về bộ máy chính
trị, triều đình Nguyễn ngoài những chính sách cai trị và an dân thì không quên
43
xây dựng các vùng kinh tế, sản xuất hàng hóa nhằm thúc đẩy sự phát triển đời
sống tinh thần của nhân dân trong xã hội. Hàng loạt các làng nghề thủ công
truyền thống như nghề thêu, dệt vải, mỹ nghệ, điêu khắcđược mở ra để phục
vụ cho nhu cầu về cái mặc và thẩm mỹ của đời sống con người trong cung đình
và ngoài dân gian. Trong dư địa chí Thừa Thiên Huế ở nửa đầu thế kỷ XIX
(1802 - 1858) có ghi rõ về vị trí hoạt động của các làng nghề thủ công “Thủ
công nghiệp Thừa Thiên Huế trong nửa đầu thế kỷ XIX cũng có bước phát triển
đáng kể, nhiều làng nghề thủ công trở nên nổi tiếng: làng gốm Phước Tích
(Phong Điền); làng nón Triều Sơn (Hương Trà); Sư Lỗ Đông (Phú Lộc), Phú
Cam (Huế); làng nghề rèn, luyện sắt ở Phù Bài (Hương Thủy), Hiền Lương
(Phong Điền...9.6.19 Hình tượng hoa sen trên Giao bào quan đại thần
H 9.6.20 Hình tượng hoa đào trên Giao bào quan đại thần
H 9.6.21 Hình tượng cái bầu trên Giao bào quan đại thần
H 9.6.22 Hình tượng đồng tiền trên Giao bào quan đại thần
276
H 9.6.23 Hình tượng mây cụm trên Giao bào quan đại thần
H 9.6.24 Hình tượng sóng nước và lửa trên Giao bào quan đại thần
H 9.6.25 Hình tượng chữ triện trên Giao bào quan đại thần
277
PHỤ LỤC 10
10.1 BÁT BỬU CỦA PHẬT GIÁO
STT TÊN HÌNH ẢNH
10.1.1
Nút thắt huyền
bí
10.1.2 Tù và
10.1.3 Lọng
10.1.4 Pháp luân
278
10.1.5 Hoa sen
10.1.6 Dấu chân Phật
10.1.8 Đôi cá
10.1.8 Cái tán
279
10.2 BÁT BỬU CỦA NHO GIÁO
STT TÊN HÌNH ẢNH
10.2.1 Cái bầu
10.2.2 Thanh gươm
10.2.2 Tháp viết
10.2.4 Thảo sách
10.2.5 Cuốn thư
280
10.2.6 Quạt
10.2.7 Phất trần
10.2.8
Đàn (tỳ bà, đàn
tranh hoặc đàn
nguyệt)
281
10.3 BÁT BỬU CỦA ĐẠO GIÁO
STT TÊN BÁT BỬU HÌNH ẢNH
10.3.1
Quạt của Hán
Chung Ly
10.3.2
Cặp roi của
Trương Quả Lão
10.3.2
Thanh gươm,
phất trần của Lữ
Đồng Tân
10.3.4
Cặp sanh của
Tào Quốc Cữu
282
10.3.5
Bầu rượu của Lý
Thiết Quải
10.3.6
Ống sáo của Hàn
Tương Tử
10.3.7
Giỏ hoa của
Lâm Thái Hòa
10.3.8
Đóa sen của Hà
Tiên Cô
283
PHỤ LỤC 11
MỘT SỐ HÌNH LỄ PHỤC CUNG ĐÌNH TRIỀU MINH- THANH
(TRUNG QUỐC) VÀ TRIỀU NGUYỄN (VIỆT NAM)
11.1. Minh họa lễ phục Hoàng bào của vua Minh- Trung Quốc (Nguồn: 128)
284
11.2. Minh họa lễ phục Long bào của vua Minh- Trung Quốc (Nguồn: 128)
11.3. Biểu tượng rồng thêu trên Hoàng bào của vua Minh - Trung Quốc
(Nguồn: 128)
285
11.4. Lễ phục Long Cổn của vua Minh- Trung Quốc (Nguồn: 128)
11.5. Minh họa lễ phục tế trời đất của vua Minh- Trung Quốc (Nguồn: 128)
286
11.6. Mô phỏng kết cấu lễ phục tế trời đất của vua Minh- Trung Quốc
(Nguồn: 128)
287
11.7. Minh họa lễ phục Hoàng bào của vua Minh- Trung Quốc (Nguồn 128)
11.8. Minh họa lễ phục quan triều Minh – Trung Quốc (Nguồn: 128)
288
11.9. Lễ phục quan triều Minh - Trung Quốc (Nguồn: 128)
289
11.10. Minh họa lễ phục quan triều Minh - Trung Quốc (Nguồn: 128)
11.11. Minh họa lễ phục quan triều Minh - Trung Quốc (Nguồn: 128)
290
11.12. Minh họa lễ phục quan triều Minh - Trung Quốc (Nguồn: 128)
11.13. Lễ phục quan triều Minh - Trung Quốc (Nguồn: 128)
291
11.14. Minh họa lễ phục Hoàng bào vua triều Thanh - Trung Quốc
(Nguồn: 128)
292
11.15. Lễ phục Hoàng bào của vua triều Thanh - Trung Quốc
(Nguồn: 128)
293
11.16. Minh họa lễ phục quan triều Thanh - Trung Quốc
(Nguồn: 128)
11.17. Lễ phục đại triều của vua Khải Định và các quan đại thần triều Nguyễn
(Nguồn: Tác giả chụp tại Đại Nội, Huế)
294
11.18. Lễ phục thường triều của vua Đồng Khánh triều Nguyễn - Việt Nam
(Nguồn: Tác giả chụp tại Đại Nội, Huế)
11.19. Lễ phục thường triều của vua Thành Thái triều Nguyễn - Việt Nam
(Nguồn: Tác giả chụp tại Đại Nội, Huế)
295
PHỤ LỤC 12
PHỎNG VẤN ĐIỀN DÃ
TT Họ và tên Nghề nghiệp Địa chỉ Thời gian
phỏng vấn
1 Trịnh Đình
Sơn
Nhà nghiên cứu
sưu tầm cổ vật thời
Nguyễn
114 Mai Thúc
Loan, thành phố
Huế
13/09/2017
2 Nguyễn
Phước Vĩnh
Cao
Nhà nghiên cứu
trung tâm bảo tồn
cố đô Huế
Trung tâm bảo tồn
di tích cố đô Huế
14/09/2017
3 Vũ Giỏi Nghệ nhân thêu Đông Cứu, xã
Dũng Tiến, huyện
Thường Tín, thành
phố Hà Nội
19/08/2018
4 Phạm Khắc
Hà
Chủ tịch hiệp hội
làng nghề Vạn
Phúc
Làng nghề Vạn
Phúc, Hà Đông, Hà
Nội
15/10/2018
12.1 Phỏng vấn nhà nghiên cứu sưu tầm cổ vật thời Nguyễn với Trịnh
Đình Sơn cháu ông Trần Đình Bá (quan Thượng thư triều Nguyễn) ngày
13/09/2017.
Câu hỏi: Thưa ông, Lễ tế Nam Giao ngoài vua thì có người thay thế
không? Nếu có người thay thế vua đứng ra thực hành nghi lễ, lễ phục có
khác so với áo lễ phục Nam Giao của vua không?
Trả lời:
Ngoài vua, còn có thể có các quan, hoàng thất đứng ra thực hành nghi lễ.
Các vị quan, hoàng thất mà đi thay vua thì vị hoàng thân hay quan đó mặc
296
đúng đồ tế giao của mình đã được quy định, chỉ vua hiện diện thì mặc đồ của
lễ phục của vua.
Câu hỏi: Lễ phục các quan trong đại triều mặc khi đi tế giống như đại
triều hay dùng loại lễ phục nào?
Trả lời:
Đi tế thì sẽ mặc đồ đi tế riêng, đại triều là mặc trang phục khác.
Câu hỏi: Theo một số thông tin về các lễ thì không có hậu, vậy các bộ
lễ phục của hoàng hậu và hoàng thái hậu được dùng trong những ngày nào?
Trả lời:
Nói chung là rất nghiêm khắc về vấn đề các bà, cho nên thật sự nhà
Nguyễn chỉ có hai vị được phong hoàng hậu khi sống. Đó là vợ vua Gia Long
năm 806 - bà Thừa Thiên Cao hoàng hậu và bà Nam Phương là hoàng hậu cuối
cùng. Còn các bà thời trước, khi còn sống được phong hoàng quý phi là cao
nhất cho nên không được mặc phẩm phục của hoàng hậu. Khi nào con bà lên
ngôi vua thì tôn bà lên làm hoàng thái hậu, trừ khi bà chết thì con bà mới tôn
bà lên làm hoàng thái hậu của nhà vị vua cha, thờ chung với cha. Vậy nên là rất
là rắc rối, nhiều người không biết lại hiểu nhầm là phong hoàng hậu, nhưng
thực chất chỉ có hai vị được phong hoàng hậu, ở trong có phân rất rõ, phẩm
phục rõ, chức vụ rõ, lăng mộ rất rõ. Chính vì thế nhà Nguyễn, ông vua đầu tiên
lập rất là đủ còn các vụ vua sau người ta có những lý do khác nhau không lập
hậu thì rất là dài dòng.
Bây giờ vấn đề chính là nghi lễ, thứ nhất là về phẩm phục. Triều phục có
hai dạng là đại triều phục và thường triều phục là cái bắt buộc mặc cho đúng
bởi vì nghi lễ đại triều rất là quan trọng. Lễ thiết triều rất là quan trọng, mặc áo
gì, màu gì, mũ gì, thêu gì, tất cả đều có quy định đầy đủ.
Còn riêng về Nam Giao thì có quy chuẩn, thân vương mặc màu gì, thêu
cái gì, mũ gì
297
Về thường triều, là những lần phiên chầu hàng tháng hoặc những buổi nhà
vua cho tập hợp, những nghi lễ không đặc biệt cho lắm thì tổ chức thường triều
tại điện Cần Chánh. Những vị đó mặc lễ phục thường triều có quy định sẵn về
màu gì, mũ gì, thêu bổ tử như thế nào.
Câu hỏi: Bổ phục thường được sử dụng vào loại lễ nào?
Trả lời:
Làlễ phục mặc trong buổi thường triều, hay còn gọi là thường triều phục.
Bổ phục có màu xanh chỉ phân biệt phẩm cấp, văn võ qua các bổ tử.
Câu hỏi: Ông cho biết kết cấu của áo Giao lĩnh?
Trả lời:
Áo Giao lĩnh là áo dài chéo, có bổ tử, nhìn vào đó có thể biết được cấp
mấy, nhờ đề tài thêu trên đó, quan văn quan võ thì như nhất phẩm, nhất phẩm
võ thì thêu con kì lân, nhất phẩm văn thêu con tiên hạc. Còn đại triều phục
người ta không phân biệt cái áo, cái áo giống nhau, áo tứ linh. Nhưng ta phân
biệt cái mũ là văn hay võ.
Câu hỏi: Ông cho biết cách phân biệt mũ trong lễ thường triều?
Trả lời:
Đây là mũ thường triều. Nó có tên, cái đó gọi là mũ văn công cho quan
văn, quan võ là mũ phốc đầu.
Khi mặc đại triều phục thì rất là dễ, dễ là bởi mình chỉ nhìn cái bao này
màu gì mình biết nó là phẩm thứ mấy. Nhưng về hình thêu, cái hoa văn và thêu
là giống nhau, của tam phẩm, tứ phẩm nhất phẩm đều thêu tứ linh bào. Tứ linh
bào là con rồng bốn móng, con lân, con phượng, con rùa hoặc là mãng bào.
Đấy là nói về đại cương phẩm phục của các quan. Còn về phụ nữ, các bà
hoàng hậu hoặc hoàng quý phi mặc triều phục. Vào ngày lễ họ được sắc phong
tức là từ tam giai phi lên nhị giai phi, nhất giai phi thì phải mực triều phục vô,
phẩm phục mặc vô. Ngoài ra khi bà được tôn lên làm hoàng thái hậu thì bà ý
298
phải mặc đại triều phục của hoàng thái hậu được cả triều đình làm lễ vô cung
diên thọ haytrong lễ mừng thọ hoàng thái hậu.
Câu hỏi: Áo đại triều phục của quan hầu hết được thiết kế hình tượng
tứ linh, giữa là rồng bốn móng, theo ông nó có ý nghĩa gì?
Trả lời:
Thứ nhất là tạo vẻ vinh hoa của bậc nho sĩ thành đạt. Việc mặc áo xiêm
được thêu tứ linh để toát lên vẻ sang quý của con vật người đó khoác lên mình.
Từ tam phẩm trở lên đến nhất phẩm có hai bậc chánh và tổng đều mặc tứ linh
bào nhưng màu sắc có sự khác nhau. Từ nhị phẩm tới nhất phẩm có thể mặc
màu cổ đồng, màu vàng vàng đỏ đỏ. Từ tam phẩm đến nhị phẩm mặc màu xanh
nước biển. Tuy nhiên để phân biệt người nào tam phẩm võ thì phải nhìn lên đầu
người đấy là mũ gì. Quan văn là mũ đầu tròn còn quan võ là mũ vuông phốc
đầu. Song khi mặc thường triều phục, không thể nhìn màu bởi toàn bộ đều là
màu xanh hết. Với áo Giao lĩnh, phân biệt qua bổ tử trước và sau lưng
Câu hỏi: NCS được biết Bào phục dành cho tất cả các quan và được
phân biệt thông qua màu sắc. Vậy những màu sắc đó có ý nghĩa như thế
nào?
Trả lời:
Điều đầu tiên có thể thấy là màu của vua chúa Việt Nam. Thứ màu vàng
đậm nhất, sang nhất ấy chỉ có hoàng đế, hoàng hậu mới được dùng đúng cái
màu đó, và càng gần màu vàng ấy càng sang hơn. Ngoài ra, màu sắc ấy cũng
có mức độ để người ta có thể phân biệt được người dùng nó quan trọng như thế
nào. Ví dụ như các hoàng tử có thể mặc màu cổ đồng hoặc đỏ còn các ông dưới
thì không thể mặc màu đó được. Khi có quy định này, xã hội người ta nhìn vào
sẽ thấy được ông này là bậc thân vương hay bậc nhất phẩm đại thần. Như vậy
cái ý nghĩa nó thể hiện sự sang trọng tối cao của cấp bậc áo.
Câu hỏi: ông có thể cho biết ngày xưa người ta có quy định thêu như
299
thế nào, thêu cái gì ở vị trí nào không? Tức là những cái mang tính chất ý
nghĩa phía sau. Ví dụ như rồng ở giữa, hay là ở phía dưới gấu áo có tam
quan mây nước thì nó có thể hiện ý nghĩa gì?
Trả lời:
Đứng đầu tứ linh bào là con rồng, rồng 4 móng, thực ra kêu đúng thì nó là
con mãng - con rắn lớn bởi trừ áo của vua mới được gọi là con rồng 5 móng.
Từ ông nhất phẩm trở xuống thất cũng chỉ mặc bộ mãng, từ đông cung thái tử
mới được phép mặc rồng 5 móng nhưng rồng trên nền đỏ, còn vua trên nền
vàng.
Để thể hiện đây là con vật quan trọng nhất trong tứ linh thì nó được đặt ở
giữa áo. Hai bên tay là hai con phượng bởi chúng rất tương xứng. Cái mặt rất
uy nghiêm, bố trí rất hợp lý do tà áo rất rộng và dài vì vậy nếu thêu 2 con rùa
thì nó không hợp lý. Bây giờ con kỳ lân làm đâu thì hợp, hai bên hông, hai con
rùa nằm gàn dưới gấu áo, cho nên là nó rất là cân đối.
Câu hỏi: Trên bộ lễ phục ấy còn hoa văn gì không?
Trả lời:
Bên cạnh các hình tượng chính như tứ linh thì còn vân mây, vân lửa. Ngoài
ra còn có hình sóng, nước ví dụ như nhất phẩm rồng nằm giữ, hai tay phượng
giữ chữ bát, sóng nước, tản vân
Câu hỏi: Trên áo lính có hoa văn không?
Trả lời:
Không có
Câu hỏi: NCS thấy đồ tế giao này hơi giống thời Đường, ông nghĩ như
thế nào về điều này?
Trả lời:
Hồi đó mình mặc theo cổ lễ, tức là thời Nguyễn lên, thì nước mình đầu thế
kỷ 19 thì bên Tàu đang là thời Thanh, cho nên các vua nhà Nguyễn muốn làm
300
cho nó khác biệt đi của Trung Quốc thời Thanh. Học cái cách mà chế cổ mũ,
viền mũ thời Hán Đường về, bởi vì bên Tàu nó đội như như vậy. Thực ra của
mình là bị ảnh hưởng thời Minh nhưng bên Tàu nói đó là nhà Thanh, chuyển
qua phong tục khác mặc áo khác, mũ khác
Câu hỏi: Như vậy lễ phục của bên mình có đặt của nước ngoài làm
không hay mỗi mình làm?
Trả lời:
Tất cả các lễ phục đại triều thì là đưa cái mẫu qua bên Tàu đặt gấm đặt
dệt. Quan mà từ nhất phẩm trở lên thì được cấp gấm đoạn để may đại triều
phục, chỉ có thường triều là vải trong nước, áo đại triều từ nhất phẩm trở lên là
đặt bên Tàu, tuy nhiên cái đại triều phục của hoàng đế, hoàng hậu, hoàng thái
hậu đặt gấm bên Tàu về cho các kỹ nhân thêu chứ không cần dệt, thêu bằng chỉ
ngũ sắc, hạt trai nhỏ nhỏ, các thợ chuyên nghiệp thêu trong xưởng hoàng gia.
Câu hỏi: Ngày xưa họ đặt cái tên chất liệu vải như sa, liễu, the, các từ
này có phải xuất phát từ Hán Việt không?
Trả lời:
Đó là Hán, từ đoạn đó là từ tơ tằm bằng lá, nhưng mà chưa có hoa văn,
còn gấm cũng được dệt từ tơ tằm nhưng mà đã có hoa văn. Còn sa là gọi chung
tất cả các đồ được dệt bằng tơ tằm. Có hai loại tơ, một là tơ nhập khẩu từ Trung
Quốc hoặc là các nước phương Tây, còn một loại là dệt trong nước ở Hà Đông
ấy để mà may áo bình thường ấy, ví dụ như cùng vợ vua nhưng có 9 bậc các bà
từ cửu giai đến nhất giai, từ nhất giai cho đến tam giai thì được mặc gấm vóc
màu gì, còn từ tứ giai đến thất giai mặc cái gì, từ thất giai đến cửu giai mặc đồ
trong nước dệt, thì đều có quy định rõ ràng. Còn sa là loại dệt rất mỏng mặc
vào mùa hè cho mát, còn đoạn, nhung là mặc vào mùa đông, mùa thu, nhiễu
thường dùng làm khăn, dây lưng.
Câu hỏi: Ngày xưa đã có nhung?
301
Trả lời:
Có, bởi là vì thời vua Gia Long đã có, ở bên phương tây về, đó là nhung
phục đó. Ông vua Bảo Đại mặc nỉ. Ông mặc nỉ đen bình thường.
Nhà Nguyễn tuy thời đại gần đây thôi nhưng vì các nước thay đổi chế độ,
kinh đô cũng thay đổi từ kinh đô quân chủ sang thủ đô dân chủ, còn nước mình
khi thay đổi quân chủ sang dân chủ thì thay đổi thủ đô tức là từ Huế chuyển ra
Hà Nội, thế từ đó rồi nó xa cách cái góc lại bị một đoạn chia cắt đất nước hẳn
không phải là lâu nhưng cũng thời gian mai một từ năm 40 đến năm 70.
Câu hỏi: NCS có đọc sách của ông Phan Thuận An, lúc viết về đoạn
sử, những cái về người Tây sơn cách viết của ông có hơi ghê. Túc là đào mộ
lên rồi đốt, ngũ mã phanh thây bằng voi, đoạn vua Gia long trả thù đọc hơi
sợ. Ông nghĩ sao về điều này?
Trả lời:
Ông Gia Long là thế này, nhiều người trách ông thậm tệ trong việc trả thù,
nhưng các bạn phải hiểu rằng trên đời này luôn có luật nhân quả. Họ quên đoạn
nhà Tây Sơn đối với tổ tiên ông và thân nhân của ông. Khi nhà Tây Sơn mà
làm vua, là ông Quang Trung đào 9 lăng tẩm của chúa Nguyễn về hủy hoại, vứt
xuống sông vì ông nghe thầy phong thủy nào bảo làm như vậy để con cháu
chúa Nguyễn không phát được lên. Tinh thần mê tín thì nói được vậy nhưng
việc anh mê tín hay anh độc ác phá 9 lăng mô người ta đó là một trọng tội vì
đó là người có công mở cả một đất nước. Bốn triều đại thì mới mở được từ
Quảng Bình đến Quảng Nam đến đời Lý, đến đời Trần, đời Lê mở vô đến
Quảng Nam, còn Chúa Nguyễn vào đây mở từ Phú Yên cho đến Hà Tiên, người
ta đều có công với đất nước mà có tội tình gì đâu lại đi phá mộ của người ta, đó
là tội thứ nhất đi phá mộ người ta. Thứ 2 là cuộc truy sát của vua Quang Trung
với họ Nguyễn gần như là tuyệt diệt, mà ông Gia Long còn sống sót được là
may mắn, nhiều lần vây tóm người cuối cùng để giết. Sau này chúng ta thấy
302
nhà Nguyễn có thêm thắt vào để có vẻ chân mãn đế vương nào thì công đạo,
giông tố nổi lên rồi thì ông Gia Long trốn sang Thái Lan nhưng thực sự cuộc
truy sát là mạnh.
12.2 Ngày 14/09/2017, phỏng vấn ông Nguyễn Phước Vĩnh Cao.
Ông Nguyễn Phước Vĩnh Cao đời thứ 5 vua Minh Mạng, làm ở trung tâm
bảo tồn cố đô Huế (trước là Viện cơ mật tam tòa thười Nguyễn). Nội dung cuộc
trao đổi kéo dài hơn một tiếng với tất cả những thông tin về nghi lễ triều
Nguyễn.
Câu hỏi: Triều Nguyễn được chia làm bao nhiêu lễ và vua thực hiện
những lễ gì?
Trả lời:
Triều Nguyễn được chia làm 2 loại lễ: lễ triều hội và lễ tự hưởng. Vua
thực hiện 3 lễ: lễ đại triều, lễ thường triều và lễ đại tự. Trong đó các lễ đại tự
vua đích thân thực hành nghi như lễ tế Nam Giao, lễ kỵ Thái Miếu.
Câu hỏi: Các lễ này có trang phục riêng không?
Trả lời:
Các lễ thì đều có trang phục riêng, như lễ đại triều thì vua mặc Hoàng bào,
hoàng thái tử, quan đại thần mặc Mãng bào, quan từ tứ phẩm đến tam phẩm thì
văn mặc hoa bào còn võ mặc giao bào. Lễ thường triều, vua mặc Long bào,
quan lại mặc Bổ phục. Lễ tế Nam Giao vua mặc Long cổn, quan mặc cổn phục.
Câu hỏi: Phụ nữ Việt Nam lúc bấy giờ có lễ phục không và có được
tham gia vào các nghi lễ lớn không?
Trả lời:
Các ngày lễ lớn thì không có các bà, nữ thì không được tham gia vào các
nghi lễ lớn, các bà chỉ có thể thờ cúng ông bà ở Phục Thiên, lễ Thiên thu, thượng
thọ, phong tước, chúng đều được thực hiện trong cung của các bà.
Lễ phục chỉ dành cho vua, hoàng tử, hoàng gia và các quan, còn các bà
303
chỉ trang phục chúc mừng như đồ mệnh phụ, áo dài. Có thời gian sau này, vua
Đồng Khánh, Khải Định, Bảo Đại có đưa các bà nhất phẩm phu nhân, hoàng
hậu đi dự hội với người Pháp. Các bà mặc đồ mệnh phụ nhưng đây lại không
phải là lễ phục.
Câu hỏi: Các hoa văn trên lễ phục cung đình triều Nguyễn mang ý
nghĩa về Nho giáo có đúng không?
Trả lời:
Lễ phục cung đình triều Nguyễn được dựa theo thời nhà Minh. Đa số
chúng đều có quy chuẩn về kích thước, có thể tham khảo trong bộ Hội điển
hoặc từ điển nhà Nguyễn. Tất cả các hoa văn trên trang phục đều mang ý nghĩa
về Nho giáo không dính dáng đến Phật giáo.
12.3. Ngày 19/8/2018, phỏng vấn nghệ nhân nhân dân Vũ Giỏi.
Câu hỏi: Đề tài của NCS liên quan đến hoa văn cung đình, nghiên cứu
về kỹ thuật thêu, NCS muốn hỏi về hai kỹ thuật thêu bọc nét và thêu cài bông.
Liệu hai kỹ thuật đó có tồn tại ko? Thời Lê trung Hưng kỹ thuật thêu này
cũng có, nhưng đến thời kỳ nhà Nguyễn kỹ thuật thêu tinh xảo hơn và đính
Kim Sa. Và hỏi về kỹ thuật thêu nổi. Đây là những đặc điểm có giá trị nghệ
thuật cao.
Trả lời:
Anh kết hợp với anh Trịnh Bách từ năm 1992, đến 2004 thì kết thúc.
Quá trình làm rất lâu, anh không phải nhà nghiên cứu nhưng có tìm tòi vì
trước đây là nghê gia truyền. Đá ngược dòng thời gian về thời hậu Lê và Lý
Trần, có đính kim tuyến nhưng khác xa bây giờ.
Các cụ truyền miệng lại không gọi là bọc nét mà là bắt nét, nếu dùng không
đúng thợ làng nghề không hiểu. Chỉ nên gọi là bắt nét, khi kết thúc quá trình
thêu một họa tiết hoa văn thì cần phải tiến hành bo lại bằng kim tuyến. Không
có thêu cài bông mà chỉ dệt hoa bông trên vải. Kiểu dệt được mặc định sẵn để
304
tạo ra họa tiết hoa văn. Chỉ có thêu bắt nét. Thêu để sao cho nổi các cụ có nhiều
kiểu thêu? Cái thêu kể cả thời bây giờ đang thêu, nói chung đều là mấy mũi
thêu cơ bản.
Tại sao nó nổi lên?
Có cách trong độn chỉ, hoặc thêu độn chỉ tăng phần trăm các mũi thêu lên
Hoặc Các cụ dùng rơm vì dùng rơm không bao giờ bị xẹp mà thêu nhẹ và
dễ, bông dễ xẹp Lấy phần lá. Phơi nắng cho xốp, rồi đem nhồi vào mũi, hàm,
sọ, mình. Họ không nhồi bông vì thêu khó. Thêu ghệch- độn, ghệch những mép,
những phần mũi để ghìm thẳng xuống. Ví dụ thêu cái hàm con rồng, thì thêu
gệch kéo thẳng xuống, bên trong độn trông tạo ra như hàm thật Thêu quắn,
đâm xô, thêu ngang tầm, thêu quắn, thêu bó, thêu đột mũi, thêu móc, thêu vặn.
Cơ bản xưa các cụ thêu ghệch độn, bắt nét, ngang tầm (thêu đều chằn chặn,
không có kích thước mũi dài ngắn). Giờ thị trường thương mại hóa không còn
quy định kích thước mũi chỉ.
Câu hỏi: Được biết gia đình nghệ nhân Vũ Giỏi có bốn đời nối nghiệp
nghề thêu cung đình? Bốn đời đều làm cho cung đình phải không?
Trả lời:
Các cụ có truyền lại, những cụ thợ giỏi (nghệ nhân) tuyển đi làm “đám”.
Một đám ngồi làm để chuyên sản xuất đồ thêu cống vào trong cung đình, phục
vụ cung đình theo người vẽ mẫu. Người đi làm đám được miễn sưu thuế, được
bao ăn ở. Đến thời bố nghệ nhân, vì nhà đông con đến 7 người nên mới duy trì
được nghề. Nhà ít con thì đi làm ruộng, làm việc làng xã nên mới mất đi nghề.
Từ nhỏ, Vũ Giỏi đã được bố uốn cho thêu từ những miếng vải nhỏ, là con thứ
5 nhưng rất yêu nghề thêu và duy trì nghề thêu của gia đình.
Cũng mất thời gian cơm áo gạo tiền nên nghệ nhân Vũ Giỏi đã nghỉ đi bộ
đội đến năm 91 về làm nghề. Đến năm 1993 làm cùng với Trịnh Bách. Năm
1998, thành công một cái áo bào. Nghệ nhân Vũ Giỏi chia sẻ: “Trịnh bách là
305
một người tâm huyết”, nghiên cứu trang phục, còn Nghệ nhân Vũ Giỏi nghiên
cứu về cách thêu phục dựng.
Câu hỏi: Những khó khăn khi phục dựng lại bộ trang phục cung đình
Trả lời:
NN chia sẻ gặp rất nhiều khó khăn, rất ít người biết thêu, những người biết
thêu thì đã già, mắt kém. Thêu này có quy định, lề lối. Ngay cả hoa văn họa tiết
trên áo không phải chỉ cho đẹp mà nó còn có ý nghĩa chúc phúc. Nhìn trên áo
Hoàng bào, hình tượng con rồng đóng vai trò quan trọng trong việc thể hiện uy
quyền, trời đất, ngọc thể (con rồng) chính là ông.
Ngược lại, người viết phải biết chắc lọc lại để cho đúng. Cái áo Hoàng
bào, thể hiện cả một bầu trời trong áo, ngọc thể là ông vua, bao bọc tất hoa, lá
cỏ cây đều được cai quản bởi ông ý.
Diễn giải
Có trời mới có vân mây. Biển nước, biển thủy, thủy ba, núi, lửa. Trong
núi có nước trong nước có lửa để giữ cái ôn hòa giữa trời và đất. Có âm dương
để giữ cho sự thăng bằng. Chứ không chỉ có nước và sóng (sóng thần), bị lệch.
Phần thân trên áo, được coi Ngọc thể vua, nên con rồng ngự trị nới vị trí
đó. Của vua, của thái hậu hình vạn thọ, họa tiết hoa văn trên quan đều trong bộ
ngũ phúc để thể hiện cho danh vọng, tiền bạc.
Câu hỏi: Trên áo Hoàng bào của Nghệ nhân phục chế có quy định chỉ
thêu.
Trả lời:
Có nhiều quy định ngặt nghèo.
Màu sắc: quy định vua, thái hậu màu vàng chính sắc; của hoàng tử vàng
thuần theo quy định ngặt nghèo bộ lễ. Chỉ thêu ko có nhiều loại chỉ nhiều màu,
phân biệt. Bên vua, quan, hoàng tử, thiên về màu vàng. Bà có màu đỏ, tím,
hồng sen, hồng quế. Long bào có màu vàng chính sắc. Ngoài ra còn thêu kim
306
sa trên áo, chính sa đó hoàn toàn bằng vàng, kim tuyến, chỉ, vải, ngọc, ngọc
trai, bạc. Mắt rồng bằng cườm.
Tỷ lệ cỡ chỉ: Áo Long bào, Long cổn. Long bào cổ tròn, Long cổn cổ chéo.
Có tìm lại các tài liệu. Vải sa lam dệt theo kiểu cách một bỏ một thêu chỉ to
mới nổi lên.
Áo của bà thêu bằng chỉ nhỏ để phân biệt chỉ se một chiều và chỉ se hai
chiều. Chỉ se một chiều ngày xưa gọi là tơ nát, to nát nên chập vào se với nhau.
Se 2 chiều là se hai cái ngược nhau, chập lại rồi se tiếp để cuộn vào nhau. Long
bào long cổn họa tiết hoa văn cực to nên cần chỉ chập to để thêu nổi lên. Áo bà
thường là áo dài, áo sa (sa kép) chỉ thưa nhìn xuyên thấu nên cần dùng chỉ mỏng
như tơ lát để không bị nổi cục, nặng nề
Có cỡ chỉ: thường có 3-5 loại. Hoàn thiện một cái áo thường dùng 15-20
loại cỡ chỉ. Ví dụ họa tiết sườn rồng, họa tiết san hô dùng chỉ thêu to. Mắt dùng
chỉ nhỏ để di tạo đường viền tinh gọn, sắc nét. Lông chim, lông tơ dùng chỉ nhỏ
tạo sự mềm mại, tinh xảo, ống cảnh dùng chỉ to
Màu sắc: Vua, thái hậu, hoàng hậu dùng màu chính vàng
Câu hỏi: Tỉ lệ hoa văn trên áo như thế nào, có quy định gì không?
Trả lời:
Hoa văn quy định ngặt nghèo
Rồng ở giữa từ móng, mắt, mặt hay tảng vân xung quanh đều có tỷ lệ.
Câu hỏi: Căn cứ vào đâu để biết và đối sánh các tỉ lệ đó?
Trả lời:
Ngày xưa anh và anh Trịnh Bách có những tài liệu bằng ảnh mà ảnh thời
đó Việt Nam chưa có, chủ yếu bên Pháp và Mỹ sau đó ta sẽ chụp. Về ta lấy
hình ảnh đó căn tỉ lệ chiều dài, chiều rộng, chiều ngang tất cả các chiều để tính
toán ra và căn lại họa tiết nó ở tỉ lệ như thế nào bởi nó là toán học, nhân chia ra
và bọn anh phải tính lại từng chi tiết đó.
307
Ví dụ: Một chiếc áo trong ảnh đã cân lên tỉ lệ chiều dài biết chiều dài trong
ảnh nhân mẫu người của một ông vua, không phải là đọc hình ảnh mà cân tỉ lệ
toán học trong ảnh chụp đấy. Ở ngực, áo long bào thường là từ 58-60, họa tiết
trong đó, trong phạm vi ngực là mặt rồng, một khúc cổ cùng với chân, tay,
móng và một quả ngọc châu. Và bắt buộc ta phải đặt hết các họa tiết vào và
đảm bảo các họa tiết phải tương ứng, tỉ lệ phải chuẩn.
Câu hỏi: Hồi ấy nghệ nhân dùng chất liệu làm nên áo là sa tanh hay là
chất liệu gì?
Trả lời:
Ngày xưa, trên trang phục chỉ, nguyên liệu đều chế biến từ tơ tằm ngoài
một số cái như vàng bạc, kim tuyến, ngọc trai, cườm từ cái khác, còn lại cơ bản
từ tơ tằm kéo ra, sợi tơ có chỉ số kĩ thuật chuẩn nhất trong dệt. Những sợ tơ gốc,
tơ lái se làm chỉ, tất cả từ tơ tằm ra.
Một số của quan, lính trận từ vải bâu dệt từ bông hoặc gai.
Long bào, một số trang phục mặt như áo dài, thường triều, thiết triều, ngày
đại cát đại hỉ cơ bản đều chế từ tơ tằm và dệt theo nhiều kiểu. Mỗi kiểu các cụ
đặt cho một cái tên khác nhau: lụa, gấm, đoạn (sa tanh)
Đoạn bát ti: 8 sợi chập vào nhau để se, đủ độ dày
Sa nam: chập 16 sợi dệt, dệt 2 bỏ 1 dệt 2 bỏ 1 thành những đường khác
Lụa cát: lụa mỏng nổi cát lên
Sa: dệt những sợi tơ nhỏ nhất, mỏng nhất, chuẩn nhất dệt thành sa. Nó
thưa, dệt long mốt nhìn xuyên qua được. Sa kép là hai lớp
Câu hỏi: NCS thấy trên sa đều thêu chìm có phải không?
Trả lời:
Tùy vào họa tiết, hoa văn trên trang phục, có cả thêu nổi và thêu chìm
nhưng thường là thêu hai mặt.
Câu hỏi: Thêu chìm là thêu như thế nào? Có những quy định gì khi
308
thêu chìm?
Trả lời:
Thực ra không phải là thêu chìm bởi đã là thêu thì không có cái nào chìm
mà chỉ có nổi ít hay nổi nhiều. Sợi chỉ đè lên vải thì sẽ nổi.
Thêu bó một chi tiết theo một chiều nhất định dán vào vải. Có những cái
nghệch lên, nghệch lên chập đôi sợi hoặc độn nổi lên bên trong xong viền kim
tuyến.
Thêu hai mặt là mặt trước và mặt sau như nhau.
Câu hỏi: Trong mấy năm lại đây, đạo mẫu được vinh danh, sản phẩm
từ phía ông đồng, bà đồng ngày một nhiều. Tác động từ ông đồng bà đồng
trong việc can thiệp vào màu sắc, kiểu dáng thiết kế có nhiều không?
Trả lời:
Thực tế tác động rất nhiều. nói cho chuẩn mực
Thợ thêu trong làng nghề tạo ra sản phẩm làm thương mại, tác động do
khách hàng, khách hàng yêu cầu như thế này mới trả tiền nên bắt buộc phải
theo khách hàng.
Đôi khi anh thấy, để anh làm, bây giờ anh làm cho hầu đồng là chính để
sống nhưng thực chất anh biết tới đâu tư vấn cho người ta tới đó. Bởi người
làm của anh có một trình độ nhất định. Họ có căn rất lâu, truyền lại, biết qua
sách vở, được truyền lại từ thầy của họ truyền lại.
Câu hỏi: Từ lúc nghệ nhân làm nghề được 30 năm nay, con rồng, con
phượng, chữ thọnó có bị tác động, thay đổi so cới cái cách đây 30 năm
hoặc từ thời bố nghệ nhân đã làm không?
Trả lời:
Thật ra rất ít thay đổi
Chữ thọ: có rất nhiều loại chữ thọ
Trước kia khi đào tạo, các cụ làm rất nhiều bản thử, mô típ vẫn thế, hình
309
thể vẫn thế có điều bây giờ một số người ta chế ra, hoặc từ những vị học thư
pháp nên nó lệch lạc một chút, nó làm đẹp lên gọi là thư pháp. Chữ thọ định
vẫn là như thế, có thể to lên hoặc bé đi, thêu lên thời trang hơn.
Trong mắt nghệ nhân mọi cái làm chưa có gì thay đổi ngược với những
thứ ngày xưa. Các cụ ngày xưa không máy móc, không công nghệ nhưng tính
toán với thiên thời địa lợi nhân hòa, âm dương cực chuẩn. Các cụ làm bằng tâm
trạng và nghệ nhân cũng vậy. Bản thân đồ vật đẫ ăn sâu vào trong đầu, mọi thứ
đều là tự nhiên sắp đặt. Các cụ nghệ nhân xưa cũng vậy sự tưởng tượng cực kì
phong phú và bây giờ một số người cũng có. Một số thế hệ trẻ trong ngành hội
họa cũng có sự tưởng tượng phong phú.
Câu hỏi: Cái tâm trạng nghệ nhân nói thì ngay bản thân các cụ hình
mẫu con rồng, con phượng đã ăn sâu vào tâm thức, những cái sáng tạo chỉ
trên trục đấy thôi?
Trả lời: Sáng tạo trên trục đấy và thêm bớt
Từ năm 88-89 đến 2000-2002, nghệ nhân có những kiến thức nhất định
về triều Nguyễn, nghệ nhân chỉ có sản xuất mà không phải đi tìm hiểu. Lúc tâm
huyết đi tìm hiểu lại những họa tiết, hoa văn của Lý, Tiền Lê, nghệ nhân ngược
lại tìm hiểu dựng lại tranh (tranh thêu) họa tiết hoa văn của Lý, Trần, Lê.
Tại sao so sánh rồng thời Lý với rồng thời Trần, đừng nói con này đẹp hơn
con kia đẹp hơn. Theo một trục thẳng, qua mỗi thời kì đều có biến tấu. Có cái
hoàn thiện được thêm vào cũng có cái bớt đi nhưng trục rồng vẫn không thay
đổi.
Trục vẫn là con rồng nhưng biểu hiện của phóng tác sáng tạo ra mới nhìn
ra bản chất chủa triều đại đấy. Rồng triều Nguyễn hầm hố, tập trung vào quyền
lực về phía trung ương.
Nhiều người nói con rồng ảnh hưởng từ Trung Quốc là đúng nhưng bảo
là theo hoàn toàn trung quốc là sai. Rồng Trung Quốc cố tình làm dữ dằn, quyền
310
uy kiểu trên dập một không có thương lượng. Rồng Việt Nam uy nghi, phúc
hậu, tuy có phần dữ dằn nhưng vẫn hiền hòa.
Câu hỏi: NCS vẽ ra so sánh rồng Trung Quốc và rồng Việt Nam thấy
khác nhau hoàn toàn, NCS thấy sừng rồng Trung Quốc nhọn còn ở Việt
Nam sừng có hai khấc. Nghệ nhân cho nhận xét
Trả lời:
Không nên so sánh nhiều sừng nhọn hay không nhọn. Ở Việt Nam cũng
có nhưng phải xem ở thể nào, là thể kiến trúc hay ở trên áo nào, áo vua hay
quan chứ không phải hai khấc như sừng hươu.
Qua quá trình làm từng trang phục, trang phục nào thiết triều, đại triều,
tịch điền, trang phục nào họa tiết đấy. Ví dụ áo nam giao cũng có rồng, quả
ngọc châu cũng là của vua nhưng chỉ để lễ nam giao
Trên kiễn trúc rồng khác, thêu khác nhưng nhìn kĩ vẫn là một. Bởi trên áo
thêu là dùng chỉ tạo nên còn trong điêu khắc là đục trạm, tạo hình nó gồ lên.
Câu hỏi: NCS có so sánh để thấy sự xuyên suốt
Trả lời:
Sau những năm Nghệ nhân nghiên cứu về Lý, Trần, Tiền Lê, thấy quả vân
của tiền Lê và Lý - Trần nhất là Lý - Trần phân biệt rất rõ bao giờ cũng một
hình dạng, vân vuông có một dải bay. Của Lý là những dải mây hồng không
thành vân. Của Nguyễn uốn lượn chùm, thành chùm xoáy ốc tròn. Hậu Lê chùm
vân 4-5 quả bốn góc có dải bay ra.
12.4. Nghệ nhân Phạm Khắc Hà, phỏng vấn ngày 15/10/2018
Câu hỏi: Nghề dệt thủ công truyền thống nay được thay bằng các máy
hiện đại kỹ thuật dệt hoa Jacka có ưu điểm là gì?
Trả lời:
Công nghệ dệt Jacka này cũng giống với kiểu dệt cài bông xưa kia nhưng
chỉ cần vẽ thiết kế và đưa vào máy thì máy sẽ tạo ra khuôn chứ không phải làm
311
ra khuôn giấy đỡ vất vả hơn trước mà vẫn giữ gìn và phát huy được nghề dệt
truyền thống ở làng nghề Vạn Phúc.
Câu hỏi: Theo ông thì những mẫu hình trên lễ phục cung đình triều
Nguyễn sẽ được dệt như thế nào?
Trả lời: Cái đó cầu kỳ lắm, các cụ nghệ nhân ngày xưa quá giỏi. Tôi nghĩ
theo quy trình thì trước tiên là họ sẽ tạo khuôn giấy và xác định các vị trí hoa
văn dệt. Để làm được bộ khuôn đó phải mất sáu tháng đến một năm, mà dệt
được vải áo thì chắc cũng mất cả năm mới thành.
Câu hỏi: Ông có thể cho biết về cách phân biệt vải gấm và vải satin?
Trả lời: Do số lượng se sợi mà nên, vải gấm càng dày thì số sợi càng
nhiều, vải satin thì số lượng ít hơn có thể từ 4 đến 6 sợi chập lại.
Câu hỏi: Thưa ông có phải đoạn đậu bát ti là vải gấm không?
Trả lời: Đúng rồi.