Luận án Nghệ nhân quan họ bắc ninh trong đời sống văn hóa đương đại

BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO BỘ VĂN HÓA, THỂ THAO VÀ DU LỊCH VIỆN VĂN HÓA NGHỆ THUẬT QUỐC GIA VIỆT NAM Nguyễn Đắc Toàn NGHỆ NHÂN QUAN HỌ BẮC NINH TRONG ĐỜI SỐNG VĂN HÓA ĐƯƠNG ĐẠI LUẬN ÁN TIẾN SĨ VĂN HÓA HỌC Hà Nội - 2018 BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO BỘ VĂN HÓA, THỂ THAO VÀ DU LỊCH VIỆN VĂN HÓA NGHỆ THUẬT QUỐC GIA VIỆT NAM Nguyễn Đắc Toàn NGHỆ NHÂN QUAN HỌ BẮC NINH TRONG ĐỜI SỐNG VĂN HÓA ĐƯƠNG ĐẠI Chuyên ngành: Văn hóa học Mã số: 9229040 LUẬN ÁN TIẾN SĨ VĂN HÓA HỌC NGƯỜI HƯỚNG

pdf179 trang | Chia sẻ: huong20 | Ngày: 17/01/2022 | Lượt xem: 489 | Lượt tải: 0download
Tóm tắt tài liệu Luận án Nghệ nhân quan họ bắc ninh trong đời sống văn hóa đương đại, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
DẪN KHOA HỌC: PGS.TS BÙI VĂN TIẾN TS LÊ THỊ MINH LÝ Hà Nội - 2018 1 LỜI CAM ĐOAN Tôi xin cam đoan luận án Nghệ nhân Quan họ Bắc Ninh trong đời sống văn hóa đương đại là công trình nghiên cứu do tôi thực hiện. Các số liệu và trích dẫn đều được trích nguồn chính xác và đầy đủ. Kết quả nghiên cứu trình bày trong luận án là trung thực và chưa được công bố trong bất kỳ công trình nghiên cứu nào. Tác giả luận án Nguyễn Đắc Toàn 2 MỤC LỤC LỜI CAM ĐOAN ............................................................................................. 1 DANH MỤC BẢNG CHỮ VIẾT TẮT ............................................................ 3 DANH MỤC CÁC HÌNH, BẢNG TRONG LUẬN ÁN .................................. 4 MỞ ĐẦU ........................................................................................................... 5 Chương 1: CƠ SỞ LÝ LUẬN VÀ TỔNG QUAN VỀ ĐỐI TƯỢNG NGHIÊN CỨU ................................................................................................................. 14 1.1. Tổng quan tình hình nghiên cứu .............................................................. 14 1.2. Các lý thuyết nghiên cứu sử dụng trong đề tài ........................................ 34 1.3. Giới thuyết khái niệm liên quan đến đề tài .............................................. 41 Tiểu kết ............................................................................................................ 50 Chương 2: NGHỆ NHÂN TRONG SINH HOẠT VĂN HÓA QUAN HỌ CỔ TRUYỀN .................................................................................................. 51 2.1. Sinh hoạt văn hóa Quan họ cổ truyền ...................................................... 51 2.2. Nhận diện nghệ nhân Quan họ cổ truyền ................................................. 58 Tiểu kết ............................................................................................................ 73 Chương 3 ......................................................................................................... 74 THỰC TRẠNG NGHỆ NHÂN QUAN HỌ ................................................... 74 TRONG ĐỜI SỐNG VĂN HÓA ĐƯƠNG ĐẠI ............................................ 74 3.1. Nhận diện nghệ nhân Quan họ trong đời sống văn hóa đương đại .......... 74 3.2. Sinh hoạt Quan họ của nghệ nhân sau năm 2009 .................................... 86 Tiểu kết ............................................................................................................ 95 Chương 4: BÀN LUẬN, VAI TRÒ VÀ XU THẾ BIẾN ĐỔI TRONG SINH HOẠT VĂN HÓA QUAN HỌ CỦA NGHỆ NHÂN QUAN HỌ BẮC NINH ...................................................................................................... 97 4.1. Xu hướng biến đổi của nghệ nhân Quan họ trong bối cảnh hiện nay ...... 97 4.2. Vai trò của nghệ nhân Quan họ trong đời sống văn hóa đương đại ...... 116 4.3. Bàn luận về nghệ nhân Quan họ dưới các quan điểm, lý thuyết nghiên cứu ................................................................................................................. 122 Tiểu kết .......................................................................................................... 131 KẾT LUẬN ................................................................................................... 133 DANH MỤC CÁC CÔNG TRÌNH ĐÃ CÔNG BỐ CỦA TÁC GIẢ .......... 135 TÀI LIỆU THAM KHẢO ............................................................................. 136 PHỤ LỤC ...................................................................................................... 145 3 DANH MỤC CHỮ VIẾT TẮT Chữ viết tắt Chữ viết đầy đủ CTQG DSVH ĐHQG GS Chính trị quốc gia Di sản văn hóa Đại học quốc gia Giáo sư KHXH Khoa học xã hội Nxb Nhà xuất bản PGS Phó giáo sư Ths Tp TS Thạc sĩ Thành phố Tiến sĩ UBND UNESCO Uỷ ban nhân dân (United Nations Educational Scientific and Cultural Organization) Tổ chức Giáo dục, Khoa học và Văn hóa của Liên hiệp quốc VHDG Văn hóa dân gian VHNT VHTT Văn hóa nghệ thuật Văn hóa thông tin 4 DANH MỤC CÁC HÌNH, BẢNG TRONG LUẬN ÁN Hình 1: Cấu trúc tâm lý của hoạt động sáng tạo nghệ thuật 35 Hình 2: Tâm điểm vùng văn hóa Quan họ 54 Bảng 1: So sánh giữa danh xưng nghệ nhân và nghệ sĩ 41 Bảng 2: Bảng tổng hợp danh xưng nghệ nhân trong sinh hoạt Quan họ 76 Bảng 3: Một số khác biệt giữa nghệ nhân Quan họ cổ truyền và đương đại 79 5 MỞ ĐẦU 1. Lý do chọn đề tài 1.1. Cho đến thời điểm này, ở nhiều nước trên thế giới đã và đang có những cơ chế, chính sách ứng xử với nghệ nhân dân gian nói chung và nghệ nhân của di sản văn hóa phi vật thể nói riêng, thể hiện qua sự lựa chọn, tôn vinh, đãi ngộ xứng đáng, góp phần quan trọng vào việc bảo vệ và phát huy di sản văn hóa dân tộc trong điều kiện xã hội đương đại. Ở Việt Nam, việc quan tâm đến nghệ nhân nói chung mới được thực hiện trong phạm vi khoảng hai thập niên gần đây và được thể hiện qua việc quan tâm nghiên cứu, xây dựng cơ chế chính sách từ trung ương đến địa phương nhưng hiện nay đã bắt đầu xuất hiện những bất cập trong quan điểm, cơ chế quản lý, chính sách ứng xử. Trong điều kiện xã hội đương đại, thực trạng sinh hoạt của nhiều thế hệ nghệ nhân đã và đang đặt ra nhiều vấn đề bức xúc, cần có sự quan tâm nghiên cứu và giải quyết cả về mặt lý luận và thực tiễn. 1.2. Hát Quan họ là một loại dân ca có lối chơi và lời ca rất độc đáo - biểu hiện rực rỡ của truyền thống văn hóa nghệ thuật Việt Nam. Đó là một tổ chức sinh hoạt tinh thần của quần chúng lao động, có sự lựa chọn kỹ về tài, sắc, được trau dồi công phu về nghệ thuật, có kỷ luật chặt chẽ về sinh hoạt và rất bình đẳng. Việc tìm hiểu về Quan họ Bắc Ninh được nhiều nhà nghiên cứu quan tâm dưới nhiều góc độ, trong đó phần lớn các công trình nghiên cứu về Quan họ Bắc Ninh, cũng như những công trình nghiên cứu về các loại hình âm nhạc dân gian khác chỉ tập trung chủ yếu vào các thành tố như di tích, lịch sử hình thành, truyền thuyết, hình thức sinh hoạt, lề lối hát Quan họ, các làn điệu... mà chưa có nhiều công trình nghiên cứu đề cập làm rõ đến yếu tố “nghệ nhân”, những con người bằng sức lao động của mình đã sáng tạo, truyền bá và trình diễn những làn điệu Quan họ của vùng 6 đất Kinh Bắc. Tìm hiểu tục chơi Quan họ và con người sáng tạo nên loại hình văn hóa này cho phép chúng ta hiểu được không chỉ nét tài hoa, quan điểm thẩm mỹ và khả năng sáng tạo của những người dân bình dị sống trong các xóm làng mà còn hiểu thêm về kinh nghiệm sống, quan niệm về nhân cách, đạo đức và giá trị của mỗi con người trong cộng đồng. Từ những thập niên cuối thế kỷ XX và đầu thế kỷ XXI, Tổ chức Giáo dục, Khoa học và Văn hóa của Liên Hợp Quốc (UNESCO) đã phát động chương trình bảo tồn di sản văn hóa của các nền văn hóa ở các quốc gia trên thế giới, nhất là các di sản văn hóa phi vật thể của nhân loại đang trải qua nhiều biến đổi và có nguy cơ bị mai một, thậm chí mất hẳn. Trong bối cảnh toàn cầu hóa diễn ra mạnh mẽ đòi hỏi mỗi quốc gia cần khẳng định bản sắc văn hóa dân tộc để hội nhập và giao lưu với thế giới thì việc gìn giữ và phát triển các giá trị đặc trưng của văn hóa dân tộc, trong đó có Quan họ Bắc Ninh rất cần được quan tâm đúng mức. Bởi chỉ có việc hiểu biết sâu sắc về loại hình âm nhạc này dưới nhiều phương diện thì chúng ta mới có nhận thức đúng về văn hóa Quan họ Bắc Ninh, trong đó có đội ngũ nghệ nhân và từ đó có được giải pháp cũng như đầu tư một cách thích đáng. 1.3. Với những vấn đề đã đặt ra từ lý luận và thực tiễn, nghiên cứu sinh thực hiện đề tài này với mong muốn tìm hiểu những con người dành cả cuộc đời mình tham gia và góp phần gìn giữ bản sắc riêng của văn hóa Quan họ Bắc Ninh. Nghệ nhân Quan họ đã thích ứng thế nào cho phù hợp trong quá trình biến đổi của văn hóa Quan họ Bắc Ninh trong sự tiếp biến, hội nhập với sự phát triển các loại hình âm nhạc, diễn xướng khác hiện nay? Để có thể trả lời cho những vấn đề trên, nghiên cứu sinh quyết định chọn đề tài Nghệ nhân Quan họ Bắc Ninh trong đời sống văn hóa đương đại làm đề tài nghiên cứu của mình. Nghiên cứu sinh mong muốn đem đến cái nhìn tổng thể về nghệ nhân Quan họ Bắc Ninh qua một số thời kỳ để 7 làm nổi bật các giá trị văn hóa đặc sắc tại địa phương và quan trọng hơn là nhấn mạnh đến yếu tố con người, những chủ nhân thực sự của các làn điệu Quan họ cũng như những đối tượng thụ hưởng các giá trị văn hóa đó. 2. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu 2.1. Mục đích nghiên cứu Mục đích nghiên cứu của luận án là xác định được đặc trưng, bản chất của nghệ nhân Quan họ Bắc Ninh, trong đó làm rõ vai trò của họ trong đời sống văn hóa địa phương, cũng như trong việc truyền bá và giữ gìn giá trị của Quan họ hiện nay. Cùng với đó, luận án sẽ tìm hiểu xu hướng biến đổi và sinh hoạt của nghệ nhân Quan họ trong thời gian tới. 2.2. Nhiệm vụ nghiên cứu Để đạt được mục đích này, nghiên cứu sinh xác định trọng tâm nghiên cứu của luận án ở mỗi chương cụ thể: Trong chương 1, luận án tìm hiểu về vấn đề nghiên cứu nghệ nhân Quan họ trong những công trình nghiên cứu trước đây, lựa chọn một số lý thuyết để làm sáng tỏ những vấn đề đặt ra trong nghiên cứu nghệ nhân Quan họ và xây dựng được khung lý thuyết để lấy làm căn cứ trong khảo cứu ở chương 2 và khảo sát ở chương 3. Trong chương 2, luận án sẽ làm rõ nghệ nhân trong sinh hoạt văn hóa Quan họ cổ truyền, từ danh xưng, lối chơi cho đến những đặc trưng. Nhiệm vụ nghiên cứu trong chương 3: Tìm hiểu thực trạng nghệ nhân Quan họ trong đời sống văn hóa đương đại. Trong chương 4, luận án sẽ làm rõ xu thế biến đổi trong lối chơi Quan họ của nghệ nhân và bàn luận về nghệ nhân dưới các biện giải từ việc vận dụng lý thuyết nghiên cứu. 8 3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu 3.1. Đối tượng nghiên cứu Nghệ nhân Quan họ ở hai tỉnh Bắc Ninh, Bắc Giang. Nghệ nhân ở đây được nhìn tương đối toàn diện về nhiều mặt (nhân thân, con đường vào nghề, quá trình hành nghề, thế giới quan,), đặc biệt vai trò của họ trong đời sống văn hóa địa phương, cũng như trong việc truyền bá và giữ gìn giá trị của Quan họ hiện nay. 3.2. Phạm vi nghiên cứu 3.2.1. Không gian nghiên cứu Ở một số làng Quan họ có nghệ nhân Quan họ. Nghiên cứu sinh tập trung nghiên cứu sâu về một số nghệ nhân tại một số làng trong vùng văn hóa Bắc Ninh (tỉnh Bắc Ninh và tỉnh Bắc Giang). Đây cũng là những nghệ nhân mà nghiên cứu sinh đã có dịp làm quen trong đợt thống kê về các làng Quan họ năm 2008. 3.2.2. Thời gian nghiên cứu: Từ năm 2009 đến năm 2017. Tác giả lựa chọn thời điểm này bởi 2 lý do: Thứ nhất, đây là thời điểm Dân ca Quan họ Bắc Ninh được UNESCO công nhận Di sản văn hóa phi vật thể đại diện nhân loại. Thứ hai, đây là thời điểm quá trình đô thị hóa, công nghiệp hóa diễn ra nhanh chóng và sâu rộng tại nhiều khu vực trên địa bàn 2 tỉnh Bắc Ninh và Bắc Giang. Nhiều khu công nghiệp xuất hiện đã làm giảm diện tích đất canh tác cũng như chuyển đổi ngành nghề của người dân ở khu vực này. 4. Câu hỏi nghiên cứu và giả thuyết nghiên cứu - Trong xã hội đương đại, chúng ta gọi “họ” là nghệ nhân nhưng trước đây “họ” có được gọi là nghệ nhân không? - Nghệ nhân Quan họ truyền thống và hiện nay có những đặc trưng gì? 9 - Vị trí của nghệ nhân Quan họ trong cộng đồng và cộng đồng nhìn nhận về họ như thế nào trong xã hội truyền thống, cũng như hiện nay như thế nào? - Xu hướng biến đổi của nghệ nhân Quan họ trong đời sống văn hóa đương đại như thế nào? - Phải chăng, con đường trở thành nghệ nhân Quan họ từ truyền thống đến đương đại đều đòi hỏi phải có năng khiếu, quá trình rèn luyện lâu dài, chịu sự tác động của vốn văn hóa, vốn xã hội và sự biến đổi của đời sống văn hóa? Điều này được đặt ra trong bối cảnh hiện nay vì sau khi Quan họ được UNESCO công nhận là di sản văn hóa phi vật thể của thế giới thì cũng cần đánh giá, nhìn nhận những việc đã, đang và chưa làm được đối với loại hình nghệ thuật này, trong đó có những nghệ nhân Quan họ. Trong thực tế những năm gần đây, đội ngũ các nhà quản lý văn hóa tỉnh Bắc Ninh và Bắc Giang đã trực tiếp quan tâm đến vấn đề nghệ nhân, bước đầu đưa ra những quyết định và đối sách ứng xử cụ thể với đối tượng được xem là nòng cốt trong việc gìn giữ những giá trị của văn hóa Quan họ. Tuy nhiên, vẫn còn không ít những vấn đề đặt ra hiện chưa đáp ứng được nhu cầu thực tiễn, chưa xác định chuẩn và tiêu chí nghệ nhân cùng các tiêu mục chính sách khác. Đây cũng chính là những vấn đề khúc mắc cần phải có sự nghiên cứu một cách toàn diện, có hệ thống cả về lý luận lẫn thực tiễn. 5. Cách tiếp cận và phương pháp nghiên cứu 5.1. Cách tiếp cận Để giải quyết những nhiệm vụ nghiên cứu của đề tài, nghiên cứu sinh sử dụng một số cách tiếp cận cụ thể: - Văn hóa học 10 Dưới góc độ văn hóa, luận án tiếp cận đề tài theo cách duy trì các giá trị cũ diễn ra một cách tự nhiên, chứ không phải cố gắng để cho nó tồn tại. Văn hóa là một sự tiếp nối, ngày xưa người ta sống như thế nào thì bây giờ người ta vẫn tiếp tục sống như thế và chỉ thay đổi những gì không thích hợp. Sự tiếp nối này giúp cho văn hóa không bị đứt đoạn, bảo đảm sự ổn định của xã hội. Hay có thể hiểu rằng, những giá trị, chuẩn mực được tạo ra từ rất lâu đời, nếu đột ngột bỏ đi thì tạo ra cú sốc. Do đó, luận án sẽ đi tìm hiểu các giá trị được xác lập ở nghệ nhân Quan họ thông qua lối chơi, tập tục hết sức đặc trưng trong sinh hoạt Quan họ và được lưu truyền từ đời này qua đời khác. - Xã hội học Dưới góc độ xã hội học, luận án sẽ tìm hiểu những mối quan hệ trong bọn Quan họ (đoàn Quan họ), tục kết bạn và phương cách ứng xử truyền thống có bị những tác động của xã hội hiện đại làm cho mai một không hoặc nếu nó bị biến đổi thì chuyển sang hình thái nào? - Nhân học Với cách tiếp cận nhân học, đề tài sẽ quan tâm đến khía cạnh cụ thể của mỗi nghệ nhân và điểm tương đồng, khác biệt giữa truyền thống và đương đại. Hiện nay, tại một số làng Quan họ vẫn duy trì những hoạt động theo các câu lạc bộ hay các tổ, đội Quan họ. Những nhóm này vẫn chủ động gặp nhau cũng như gặp gỡ các nghệ nhân tại địa phương trong việc học, trao đổi kỹ thuật khi gặp các bài cổ, câu khó. Ở các làng Quan họ vẫn còn một số người tham gia bằng niềm đam mê cũng như bằng ý thức duy trì, phát huy vốn cổ của cha ông để lại. Nhưng những ảnh hưởng của lối sống đương đại, của phương thức sản xuất mới đã tác động làm thay đổi cách thức vào nghề, trao truyền và rèn luyện của mỗi nghệ nhân và sự tác động ngoại cảnh này mang tính khách quan, do điều kiện lịch sử nên không 11 thể tránh được. Do đó, trong nghiên cứu của mình nghiên cứu sinh muốn tìm hiểu trong bối cảnh như vậy thì mỗi nghệ nhân Quan họ “đương đại” đã và đang làm gì để thực hiện chức năng trao truyền cho thế hệ sau, bảo tồn những giá trị văn hóa Quan họ. Quan trọng hơn, từ nghiên cứu thực tiễn này để đưa ra những kiến nghị có cơ sở giúp đỡ nhằm tìm ra được giải pháp cho vấn đề này. Có thể nhận định rằng, từ những vấn đề vừa nêu trên có liên quan mật thiết đến rất nhiều chuyên ngành khoa học xã hội khác. Chính lúc này, nghiên cứu tiếp cận liên ngành được đặt ra như một hướng đi mang tính tất yếu. Khi nói đến xu thế thương mại hóa của văn hóa Quan họ nói chung hay nghệ nhân Quan họ Bắc Ninh nói riêng trước tác động của xã hội, đất nước cũng như toàn cầu hóa thì không thể không kết hợp sử dụng các tri thức, phương pháp của văn hóa học. Bàn về mối quan hệ trong các làng Quan họ, bọn Quan họ cần tiếp cận sử dụng phương pháp, kết quả của xã hội học. Tìm hiểu con đường trở thành nghệ nhân Quan họ, sự biến đổi xưa và nay theo nghiên cứu sinh cách tiếp cận nhân học là phù hợp nhất. Tóm lại, trong nghiên cứu văn hóa thì cách tiếp cận liên ngành đóng vai trò quan trọng bởi tính hiệu quả của nó. Những cách tiếp cận này giữ vị trí quan trọng, giúp kết nối mối quan hệ nội tại giữa văn hóa và bản chất con người, giữa văn hóa và ý thức của con người và xác định có hệ thống vị trí của con người trong văn hóa. 5.2. Phương pháp nghiên cứu - Phương pháp điều tra nhân học để làm rõ sự biến đổi, trong đó nghiên cứu sinh khảo sát thực tế bằng hình thức phỏng vấn trực tiếp những nghệ nhân, đối tượng có liên quan để làm rõ về đời sống tinh thần, nhân thân, con đường vào nghề, quá trình hành nghề của một nghệ nhân Quan họ trong những giai đoạn khác nhau. 12 - Phương pháp phân tích văn bản, hồi cứu tài liệu thực tế từ các tài liệu có liên quan, kế thừa kết quả các công trình nghiên cứu về Quan họ từ trước đến nay. Góp phần đưa ra cái nhìn biện chứng về dân ca Quan họ trong truyền thống và sự phát triển hiện nay. - Phương pháp điền dã, quan sát, phỏng vấn trực tiếp những người sống xung quanh nghệ nhân, những người chơi Quan họ với góc độ là người nghiên cứu (không phải người thực hành, thưởng thức Quan họ). - Phương pháp nghiên cứu điển hình: nghiên cứu một số nghệ nhân cụ thể, qua đó để có thể hiểu được phần nào những yếu tố tác động, con đường hình thành nghệ nhân qua những giai đoạn trên cùng một đối tượng. - Phương pháp phân tích, tổng hợp, so sánh, đối chiếu: Phương pháp này cho phép người viết nhìn nhận vấn đề một cách chỉnh thể, từ đó rút ra những kết luận, những tổng kết, đánh giá về vấn đề nghiên cứu. 6. Ý nghĩa khoa học và thực tiễn của luận án 6.1. Ý nghĩa khoa học + Luận án góp phần vào nhận diện một cách khá toàn diện về nghệ nhân Quan họ trong bối cảnh xã hội truyền thống và xã hội đương đại. + Luận án góp phần lý giải con đường trở thành nghệ nhân Quan họ trong truyền thống và trong xã hội hiện nay, chỉ ra xu thế biến đổi của nghệ nhân trong đời sống văn hóa đương đại. + Luận án góp thêm luận cứ về vị trí, vai trò của nghệ nhân trong sinh hoạt Quan họ truyền thống ở địa phương 6.2. Ý nghĩa thực tiễn + Kết quả nghiên cứu của luận án là nguồn tham khảo có sở cứ trong những vấn đề có liên quan đến nghệ nhân Quan họ. + Kết quả nghiên cứu của luận án góp phần khẳng định nghệ nhân Quan họ là “báu vật nhân văn sống” ở nhiều khía cạnh, từ là người thực 13 hành, người gìn giữ và trao truyền di sản văn hóa Quan họ cho những thế hệ nối tiếp, là hạt nhân quan trọng trong sinh hoạt văn hóa Quan họ ở địa phương. + Việc chỉ ra xu thế biến đổi của nghệ nhân trong bối cảnh hiện nay (tâm lý, năng lực biểu diễn, cách tổ chức, nhu cầu thưởng thức của người dân,...) là căn cứ trong việc xây dựng tiêu chí về nghệ nhân Quan họ sau này, cũng như là cơ sở giúp cho các nhà quản lý văn hóa có thể tìm ra được những giải pháp, chính sách hợp lý nhằm thúc đẩy việc bảo tồn, phát huy di sản văn hóa Quan họ đạt kết quả tốt hơn trong tương lai. 7. Bố cục của luận án Ngoài phần Mở đầu (10 trang), Kết luận (2 trang), Tài liệu tham khảo (12 trang) và Phụ lục (28 trang), luận án gồm bốn chương: Chương 1: Tổng quan về đối tượng nghiên cứu và Cở sở lý luận (36 trang). Chương 2: Nghệ nhân trong sinh hoạt văn hóa Quan họ cổ truyền (22 trang). Chương 3: Thực trạng nghệ nhân Quan họ trong đời sống văn hóa đương đại (22 trang) Chương 4: Bàn luận, vai trò và xu thế biến đổi trong văn hóa Quan họ của nghệ nhân Quan họ Bắc Ninh (35 trang) 14 Chương 1 TỔNG QUAN VỀ ĐỐI TƯỢNG NGHIÊN CỨU VÀ CƠ SỞ LÝ LUẬN 1.1. Tổng quan tình hình nghiên cứu 1.1.1. Một số công trình nghiên cứu nước ngoài Công trình nghiên cứu nước ngoài chủ yếu nghiên cứu về nghệ nhân âm nhạc dân gian, một số công trình có thể kể đến: Năm 1948, tác giả Ignace Meyerson viết cuốn Les Fonctions psychologiques et les oeuvres (Chức năng và hành động của tâm lý) [127]. Nội dung cuốn sách này lý giải cơ chế có liên quan đến việc sáng tạo tác phẩm văn học. Đó là họ đã sáng tạo căn cứ vào sự hiểu biết của bản thân, vốn sống và theo quan điểm của riêng họ. Thông qua nghiên cứu một số tác phẩm văn học, tác giả đã nghiên cứu lại công việc đó, nghiên cứu những tác giả (phi chính thống: không phải những nhà văn chuyên nghiệp, được đào tạo bài bản) mà cách sáng tác của họ mang đậm tính cá nhân, ở đó tạo nên những tác phẩm mang tính đặc biệt, Tác giả Roland Barthes viết cuốn Image, Music, Text (Hình ảnh, âm nhạc và chữ viết) [121] vào năm 1977. Trong công trình nghiên cứu của mình, tác giả đã mô tả hình thức thể hiện trong âm nhạc dân gian là một loại thanh nhạc được đặc trưng bởi âm lượng giọng hát và giọng nói, không gian mà ý nghĩa phát sinh “từ trong tiếng nói và bối cảnh tình cảm của nó” và nó được định vị ở cổ họng, lưỡi và răng Hình thức này khác với kỹ thuật thanh nhạc tân kỳ áp dụng trong thể hiện âm nhạc dân gian, khi lấy hơi từ phổi và mặc dầu cũng mang tính biểu cảm nhưng không thể vượt qua được tính văn hóa mà âm nhạc dân gian có được [121, tr.182-183]. Tác giả Ciaran Carson viết cuốn Last Night's Fun: A Book About Irish Traditional Music (Âm nhạc truyền thống Ailen) [123] vào năm 1998. Cuốn sách gồm 31 bài tiểu luận, mà ở đó trình bày khá đầy đủ về văn hoá 15 và nghi thức âm nhạc dân gian Ailen. Tác giả Carson, bằng những trải nghiệm của mình, đã cho người đọc có hiểu biết nhất định về thể loại này, cũng như những người thực hành nó (nghệ sĩ âm nhạc dân gian) sẵn sàng chơi nhạc trên xe buýt và trong các quán rượu, tự sáng tác lời ca và sự biến chuyển của giai điệu mỗi khi một bản nhạc được chơi bởi tính ngẫu hứng. Năm 2007, tác giả Lauren Meeker đã bảo vệ thành công luận án Musical transmissons folk music, mediation and modernity in Northern Vietnam (Sự chuyển tải âm nhạc: âm nhạc dân gian, sự điều chỉnh và quá trình hiện đại hóa ở miền Bắc Việt Nam). Với cách tiếp cận nhân học, luận án đã có nhiều nét mới khi xem xét yếu tố diễn xướng trong âm nhạc dân gian, sự trao truyền, kỹ thuật thể hiện, trong đó có đề cập đến dân ca Quan họ. Năm 2014, tác giả Martin Dowling biên soạn cuốn Traditional Music and Irish Society: Historical Perspectives (Âm nhạc truyền thống và xã hội Ailen: những quan niệm lịch sử) [125]. Đây là một công trình viết về âm nhạc dân gian của người Ailen. Bằng những cứ liệu lịch sử đáng tin cậy, tác giả Dowling bắt đầu với một mô tả về sự biến thiên cùng dòng nhạc dân gian này không chỉ như một nghệ sĩ thực hành mà còn như là một học giả, một sử gia kinh tế, thậm chí là một nhà dân tộc học. Một điểm đáng lưu ý trong công trình này chính là tính ẩn danh trong sáng tác và thừa nhận nghệ sĩ thực hành của thể loại này. Ông cho rằng không có cơ sở để xác định nhạc sĩ sáng tác trong những bản nhạc bởi tiêu chuẩn đương thời về nghệ thuật và những nghệ sĩ thực hành luôn di chuyển lưu động một cách tự phát. Năm 2006, trong Hội thảo quốc tế Bảo tồn và phát huy dân ca trong xã hội đương đại (qua trường hợp Quan họ ở Bắc Ninh), học giả Max Peter Baurmann, đến từ Trường đại học Bamberg – CHLB Đức, có bài viết “Di 16 sản văn hóa phi vật thể - các truyền thống truyền miệng, tính đa dạng và bản thuyết trình toàn cầu về sự hiểu biết liên văn hóa”. Trong bài viết của mình, tác giả Baurmann đã đưa ra quan niệm: Lịch sử của truyền thống âm nhạc dân gian vì thế trước hết là lịch sử của sự thờ ơ. Đồng thời nó luôn là lịch sử của việc trau dồi những giá trị truyền thống tưởng tượng, của sự kính trọng hay vô lễ đối với những biểu đạt của dân tộc cũng như cuộc đấu tranh để được thừa nhận bởi những người ngoài cuộc và những nhóm chi phối họ [63, tr.121]. Liên quan đến việc lý giải cơ chế sáng tạo của nghệ sĩ, nghiên cứu sinh tham khảo một số công trình dưới đây: Năm 1965, tác giả Albert B. Lord viết cuốn The Singer of Tales (Người ca sử thi) [126]. Trong nghiên cứu của mình, thông qua loại hình văn học dân gian là sử thi, tác giả Albert B. Lord đã nghiên cứu những kỹ thuật đặc biệt và yếu tố thẩm mỹ trong việc sáng tác loại hình này. Tiếp đến, dựa trên những nghiên cứu thực địa được thực hiện vào những năm 1930 và 1950 tại những khu vực như Bosnia, Croatia và Serbia, B. Lord phân tích chi tiết những hình thức truyền miệng và ứng tác trong quá trình biểu diễn, để từ đó ông giải thích cho rất nhiều tác phẩm nghệ thuật truyền thống, bao gồm - ngoài các bài hát sử thi của Nam Slavic - Homeric Iliad và Odyssey, Beowulf, Chanson de Roland, và Digiis Akritas - sử thi Byzantine. Công trình The Singer of Tales (Người ca sử thi) cũng là một ví dụ sử dụng phương pháp so sánh trong phê bình văn học trong nghiên cứu văn học dân gian. Năm 1978, tác giả M.A. Nauđrop biên soạn cuốn Tâm lý học sáng tạo văn học [51]. Trong công trình nghiên cứu này, tác giả đã chia tưởng 17 tượng sáng tạo của người nghệ sỹ thành 3 mức độ khác nhau: Tưởng tượng hoang đường; Mức độ nhân cách hóa; Mức độ nhập thân. Tiếp đến, cuốn Tâm lý học nghệ thuật của tác giả L.X. Vưgốtxki, được dịch bởi Hoài Lam, Kiên Giang. Cuốn sách được Nxb Khoa học xã hội và Trường viết văn Nguyễn Du in tái bản lần thứ 2 có sửa chữa và bổ sung vào năm 1995 (in lần đầu năm 1985) [114]. Trong cuốn sách này có những luận điểm khái quát về tâm lý học nghệ thuật, về quan hệ giữa nội dung và hình thức trong nghệ thuật, quan hệ giữa nghệ thuật và cuộc sống. Đây là những căn cứ giúp tôi lý giải con đường hình thành của nghệ nhân Quan họ. Trong năm 2006, Viện Văn hóa – Thông tin (nay là Viện Văn hóa Nghệ thuật quốc gia Việt Nam) tổ chức hội thảo quốc tế Bảo tồn và phát huy dân ca trong xã hội đương đại (qua trường hợp Quan họ ở Bắc Ninh). Hội thảo thu hút sự quan tâm của nhiều nhà nghiên cứu về âm nhạc dân gian trên thế giới như Max Peter Baumann, Marina Roseman, Oshio Satomi, Bountheng Souksavatd 1.1.2. Một số công trình nghiên cứu trong nước Nghiên cứu của các tác giả trong nước như Lê Danh Khiêm, Nguyễn Chí Bền, Trần Minh Chính phân chia tài liệu nghiên cứu theo thời gian, với các mốc: trước năm 1945, sau năm 1945 đến nay. Trong nghiên cứu của luận án, chúng tôi kế thừa kết quả những nghiên cứu liên quan trước đây, tuy nhiên, do đối tượng nghiên cứu chính của đề tài là “nghệ nhân Quan họ” nên chúng tôi chia phần tài liệu nghiên cứu thành các nhóm như sau: - Nhóm tài liệu liên quan đến nghệ nhân âm nhạc dân gian và diễn xướng Năm 1967, tác giả Đinh Gia Khánh có bài viết “Văn học dân gian các địa phương và vai trò của Nghệ nhân dân gian”, đăng trên Tạp chí Văn 18 học số 1 [36]. Trong bài viết của mình, tác giả đã đề cập đến khái niệm nghệ nhân dân gian chính là những người ưu tú trong cộng đồng có khả năng sáng tạo, lưu giữ, trao truyền và hưởng thụ văn hóa dân gian. Năm 1978, tác giả Ninh Viết Giao có bài viết “Nghệ nhân dân gian trong làng hát ví ở Nghệ Tĩnh” đăng trên Tạp chí Văn học số 4 [21], đề cập đến những nhân tố góp phần gìn giữ những giá trị văn hóa truyền thống của dân tộc trong một lĩnh vực cụ thể. Cuốn Sức sống của nền âm nhạc truyền thống Việt Nam [111], của tác giả Tô Vũ, đã cho in lại bài viết “Diễn tấu trong nghệ thuật âm nhạc truyền thống”, viết vào tháng 12.1978. Trong bài viết này, tác giả đã đề cập đến nghệ nhân âm nhạc dân gian và có sự đối sánh với nghệ sĩ để làm rõ về 2 khái niệm này. Trong cuốn Kho tàng diễn xướng dân gian Việt Nam, tác giả Vũ Ngọc Khánh cho rằng có thể hiểu diễn xướng với hai tư cách: Một là, diễn xướng là một phương thức. Nó là cách thức thể hiện, cách giới thiệu và trình bày. Theo đó, hầu hết các thể loại, thành phần của folklore nước ta đều được trình bày, giới thiệu bằng phương thức diễn xướng như: nói, kể, ví, vè, hát, hò, trò, múa, ca, vũ, lễ, nhạc... nếu không dùng phương thức diễn xướng thì không thực sự đến được với tâm hồn người dân. Hai là, diễn xướng là một thể loại. Theo đó, các thể loại văn học dân gian trong quá trình diễn xướng, công bố trước quần chúng dần có những hình thức được phát triển, biến hóa, kết hợp với nhiều hình thức với nhau để thỏa mãn một yêu cầu thẩm mỹ. Lúc đó, bản thân từng thể loại không đáp ứng được yêu cầu phát triển này, nên đã trở thành một dạng thức khác, có tổ chức hơn, có quy củ hơn. Diễn xướng lúc đó không còn là một cách trình bày, mà thực sự đã thành một màn biểu diễn [37, tr.14-18]. 19 Bên cạnh đó, cũng đã có nhiều công trình, tác giả nghiên cứu về nghệ nhân dân gian, đặc biệt trong văn học dân gian như: Đaghetxtan của tôi, tác giả Raxun Gamzatop, bản dịch của Phan Hồng Giang (hoặc của dịch giả Nguyễn Đức Hân và nhà thơ Bằng Việt). Cuốn Sáng tác thơ ca dân gian Nga của tác giả A.M.Novikova, in năm 1983, Nxb Đại học và Trung học chuyên nghiệp. Cuốn sách này được dịch bởi Đỗ Hồng Chung và Chu Xuân Diên. Tuy nhiên, chúng tôi quan tâm nhiều đến nghệ nhân dân gian trong lĩnh vực âm nhạc, bởi đó là đối tượng trọng tâm của đề tài. Trong cuốn Văn hóa làng Việt Nam – Diễn xướng dân gian của tác giả Thái Vũ biên soạn [113], tác giả đã dành hẳn chương 1 để bàn luận về khái niệm diễn xướng và có đề cập đến hát Quan họ [113, tr.127-134]. Liên quan đến thuật ngữ diễn xướng hay trình diễn, tác giả có tham khảo bài viết: “Về vấn đề khái niệm trong nghiên cứu nghệ thuật biểu diễn dân gian: diễn xướng và trò diễn” của tác giả Nguyễn Khắc Xương [117]. Trong bài viết của mình, tác giả Nguyễn Khắc Xương đưa ra luận điểm: diễn xướng là khái niệm sinh ra từ nhận thức khoa học về nguồn gốc và phương thức biểu đạt của văn học và nghệ thuật dân gian [117, tr.35] và diễn xướng là: diễn có âm thanh (diễn + xướng). Tác giả Kiều Trung Sơn trong bài viết “Nhìn lại khái niệm diễn xướng” [77] đã nhấn mạnh đến yếu tố cấu thành của diễn xướng gồm: tính dân gian, ứng diễn và truyền khẩu; tính diễn ngôn chủ đạo và tính mục đích tự thân [77, tr.8-9]. 1.1.2.1. Nhóm tài liệu liên quan đến di sản văn hóa Quan họ Trước năm 1975, các tư liệu thành văn liên quan đến thông tin về Quan họ, như một sinh hoạt cộng đồng, tiêu biểu của dân tộc đã được sưu tầm, ghi chép từ rất sớm. Năm 1928, tác giả Chu Ngọc Chi có công trình Hát Quan họ [13]. Đây được xem là một công trì...ong các hình tượng nghệ thuật. Một hình tượng nghệ thuật muốn thể hiện sự tổng hợp và sự khái quát cao thì trong tư duy của người nghệ sỹ phải gắn liền với tưởng tượng và cảm xúc. Các nhà nghiên cứu cho rằng, tưởng tượng là cấu trúc hạt nhân cùng với cảm xúc tạo nên năng lực sáng tạo của người nghệ sỹ. Hay có thể hiểu rằng cái đích cuối cùng trong tưởng tượng sáng tạo của người nghệ sỹ là tạo ra các hình tượng nghệ thuật, đó là hệ thống các lớp cảm xúc tiêu biểu trong xã hội, là nơi lưu giữ các xúc cảm thẩm mỹ và cũng là nơi truyền đạt những thông điệp thẩm mỹ. Tác giả M.A.Nauđrop trong công trình Tâm lý học sáng tạo văn học [51] đã chia tưởng tượng sáng tạo của người nghệ sỹ thành 3 mức độ khác nhau: - Tưởng tượng hoang đường: Đây có thể coi là giai đoạn thấp nhất trong hoạt động tưởng tượng của người nghệ sỹ. Ở mức độ này, khi tưởng tượng người nghệ sỹ thường thiên về những điều kỳ diệu, khác thường. - Mức độ nhân cách hóa: Đây là giai đoạn người nghệ sỹ chuyển các đặc điểm về tinh thần và tâm trạng, chuyển tất cả những khát vọng hoang đường mà họ đã thực hiện ở giai đoạn trước vào hiện thực vào các vật thể vật chất (các loại hình nghệ thuật khác nhau: âm nhạc, hội hoạ, văn học...). - Mức độ nhập thân: Tiền đề của sự nhập thân được tạo nên bởi các biểu tượng rõ ràng về những con người, những hoàn cảnh xuất thân,... Đây chính là quá trình người nghệ sỹ tưởng tượng ra toàn bộ cuộc sống thực tại trong thế giới ảo về các hình tượng nhân vật mà họ sáng tạo nên. 37 Như vậy, khi tiếp nhận thế giới hiện thực, song song với quá trình nhận thức (tri giác) thì cảm xúc của người nghệ sỹ cũng được trải nghiệm. Chính vì có sự trải nghiệm này mà người nghệ sỹ luôn luôn có sự đam mê, có những khát vọng cháy bỏng tạo nên động lực bên trong, thôi thúc họ thể hiện vào trong tác phẩm của mình. Cảm xúc sáng tạo nghệ thuật của người nghệ sỹ là cảm xúc được hoà nhập với óc tưởng tượng sáng tạo, trong cảm xúc có tưởng tượng, trong tưởng tượng có cảm xúc. Chính vì vậy, cảm xúc trong hình tượng nghệ thuật bao giờ cũng vượt lên những cảm xúc của đời thường, sự mãnh liệt hay u uất của nó cũng được bộc lộ ở các cung bậc cảm xúc khác với cung bậc của người thường. Khi vận dụng quan điểm của tâm lý học đối với sáng tạo nghệ thuật vào nghiên cứu nghệ nhân Quan họ, chúng ta có thể phân tách được quá trình sáng tạo của nghệ nhân cũng như lý giải được con đường hình thành nghệ nhân Quan họ, khiến họ không chỉ là một nghệ sĩ thực hành đơn thuần mà ẩn chứa bên trong họ một khả năng sáng tạo, ứng tác ngay trong lúc chơi Quan họ. 1.2.2. Lý thuyết nghiên cứu vốn văn hóa Lý thuyết này được tác giả Pierre Bourdieu đề cập đến trong cuốn Distinction: A Social Critique of the Judgement of Taste (Sự phân biệt: Phê bình xã hội trong đánh giá sở thích) [122]. Lý thuyết này đề cập đến “văn hóa như một quá trình tạo ý nghĩa và xã hội hóa, và mỗi cá nhân đều có năng lực, khả năng và điều kiện khác nhau để đạt được một trình độ văn hóa nhất định” [85, tr.519]. Theo tác giả Bourdieu: Các thế hệ trước thể hiện vốn văn hóa của mình bằng cách đưa ra những lời khuyên cho những người mới ra nhập nhóm xã hội này về những cách thức ứng xử phù hợp với một nền văn hóa thông qua cách làm mẫu cho họ xem, làm cho người mới gia nhập có 38 thể học hỏi một thứ văn hóa hợp pháp này theo cách vô thức nhất [85, tr.521]. Với cách tiếp cận này, vốn văn hóa không chỉ là tài sản của cá nhân mà còn là tài sản của một cộng đồng và những biểu hiện này được thể hiện các di sản, phong tục tập quán, lối sống, Trong nghiên cứu nghệ nhân Quan họ, nghiên cứu sinh vận dụng quan điểm này để nghiên cứu về các yếu tố hội tụ trong mỗi nghệ nhân Quan họ, thông qua những sự thể hiện, thực hành diễn xướng cũng như lối sống, ứng xử trong đời sống hàng ngày. Áp dụng lý thuyết này trong nghiên cứu để trả lời những câu hỏi sau: - Các thể chế của văn hóa Quan họ như những quy định về lề lối, phong tục, tập quán của Quan họ, có tác động thế nào để tạo nên nét đặc trưng của nghệ nhân Quan họ? - Yếu tố dẫn đến sự hình thành của văn hóa Quan họ và con đường trở thành nghệ nhân Quan họ? Theo đó, chúng ta có thể hiểu: Văn hóa Quan họ được ra đời bởi thời gian và điều kiện nhất định, chỉ những người sống ở thời gian và địa điểm đó mới tiếp cận được nền văn hóa đó một cách đầy đủ nhất. Cho nên khi những điều kiện này không còn nữa thì văn hóa Quan họ phải có sự biến đổi cho phù hợp với nền văn hóa đang sống. Như vậy, với lý thuyết này, nghệ nhân Quan họ Bắc Ninh được nghiên cứu với tư cách là “cái tổng thể”, hay có thể hiểu là việc nghiên cứu, nhận dạng văn hoá Quan họ theo từng thành tố, tiến trình đã từng tồn tại, vận động và sự biến đổi kế tiếp giữa chúng trong khung cảnh chung của điều kiện lịch sử. Khi nghiên cứu về nghệ nhân Quan họ Bắc Ninh, một thành tố của văn hóa Quan họ, thì cách tiếp cận theo lý thuyết vốn văn hóa rất quan trọng vì nó xác lập cho tác giả luận án biết được những yếu tố hình thành, con đường dẫn đến những nét đặc trưng của nghệ nhân Quan họ. Đây là vấn đề quan trọng để 39 có cơ sở xác định nghệ nhân Quan họ là ai? Để thành một nghệ nhân gồm một quá trình hay chỉ là danh phong? Với quan điểm của lý thuyết này sẽ giúp nghiên cứu sinh lý giải theo hướng văn hóa là một quá trình được tích tụ, hợp thành và cần có thời gian để tồn tại và vận động. Một sự vật, hiện tượng khó có thể xác lập là có giá trị văn hóa một cách nhanh chóng mà cần có sự trải nghiệm qua thời gian. Ví dụ như hát Quan họ thì trở thành phổ biến và hầu như ai cũng có thể hát được một hai làn điệu nhưng để có thể trở thành nghệ nhân Quan họ thì không hề đơn giản, mà phải là sự phấn đấu rèn luyện qua năm tháng với những quy định, lề lối, phong tục đặc trưng riêng của nó. 1.2.3. Lý thuyết về truyền thống và biến đổi của văn hóa dân gian Trong nghiên cứu của mình về nghệ nhân Quan họ, với tư cách là một thành tố quan trọng của văn hóa Quan họ, nghiên cứu sinh nhìn nhận sự biến đổi như là một đặc điểm tất yếu trong quá trình vận động. Để có định hướng trong việc xác định về sự biến đổi, nghiên cứu sinh đã vận dụng lý thuyết về truyền thống và biến đổi của văn hóa dân gian của tác giả Roger Janelli (sinh năm 1943). Năm 1987, trong buổi nói chuyện tại Đại học Indiana [130], ông đưa ra lý thuyết về tính liên tục của văn hóa, trong đó tập trung vào khái niệm “truyền thống” và cái gọi là “hình thái gốc” của các tập tục và sinh hoạt văn hóa dân gian. Về khái niệm “truyền thống”, ông cho rằng các tập tục và sinh hoạt văn hóa cổ truyền thực ra vẫn đang thay đổi trong cộng đồng sở hữu văn hóa đó, và khi họ nói đó là truyền thống thì cũng không có nghĩa là nó vẫn đang còn ở trạng thái gốc mà thông thường thì đã có sự thay đổi từ trước đó rất lâu rồi. Lý thuyết này đặt ra mấy vấn đề cần nghiên cứu về nghệ nhân Quan họ. Nếu đặt ra vấn đề bảo tồn những giá trị văn hóa Quan họ xưa được hiện tồn qua nghệ nhân Quan họ ngày nay thì di sản văn hóa 40 Quan họ trở thành một cái gì đó thiếu sức sống, mất đi tính linh hoạt và năng lực sáng tạo. Nhưng nếu chấp nhận sự biến đổi của văn hóa Quan họ như hiện nay thì thế hệ sau có thể không có cơ hội tìm lại được những giá trị của nguồn cội văn hóa Quan họ. Lý luận về tính liên tục của văn hóa dân gian mà Janelli nói tới ở trên có một ý nghĩa quan trọng đặc biệt trong nghiên cứu các di sản văn hóa phi vật thể và tìm kiếm giải pháp bảo tồn. Quan điểm của Janelli được kế thừa từ thuyết Tân tiến hóa luận (Neoevolutionism) mà ở đó các nhà tân tiến hóa cho rằng “tiến hóa hay biến đổi chưa hẳn đã đồng nghĩa với tiến bộ”[130]. Quan điểm này cũng được Giáo sư Oscar Salemink đưa ra với cách hiểu truyền thống và văn hóa liên tục tái tạo trong một hoàn cảnh luôn thay đổi. Ông cho rằng: “không có một truyền thống ban đầu, cố định đang dần dần bị thay thế bởi một nền văn hóa toàn cầu” [74, tr.152]. Theo ông, quá trình này dẫn đến một sự tái tạo các nền văn hóa. Tác giả Oscar Salemink cũng đề cập đến việc nghiên cứu chủ nhân của những giá trị văn hóa đã và đang hiện hữu trong không gian văn hóa: “Không phải chỉ văn hóa mới là chủ yếu mà chính những người sống trong văn hóa đó. Không thể nào tôn trọng văn hóa mà không tôn trọng những con người đang chuyển tải văn hóa” [74, tr.262]. Đây cũng là một giả thuyết khoa học giúp nghiên cứu sinh cân nhắc trong việc đưa ra những giải pháp sao cho hai quan điểm: sự biến đổi mang tính khách quan với việc cần bảo tồn, phát huy những giá trị văn hóa truyền thống, từ đó lập nên các quy định để ngăn chặn sự thâm nhập của các yếu tố văn hóa mới. Như vậy, đề tài của nghiên cứu sinh chú trọng đến sự biến đổi trong văn hóa Quan họ và được thể hiện qua đối tượng là nghệ nhân Quan họ, bởi đây là một xu thế tất yếu đi liền với xu thế công nghiệp hóa, toàn cầu hóa như hiện nay. 41 1.3. Giới thuyết khái niệm liên quan đến đề tài 1.3.1. Nghệ nhân Nghệ nhân là từ gốc Hán Việt, trong đó “nhân” có nghĩa là người, và “nghệ” ở đây được hiểu là nghệ thuật hoặc tài nghệ, giỏi nghệ. Khái niệm này được hiểu là người tài giỏi về một nghề nhất định và thường được dùng trong lĩnh vực nghệ thuật. Theo Đại Từ điển Tiếng Việt: “nghệ nhân” là người có tài trong một ngành nghệ thuật như biểu diễn nghệ thuật hoặc làm thợ thủ công [119, tr.1193]. Tuy nhiên, đa số chúng ta không dùng từ này để chỉ người làm nghệ thuật nói chung, mà từ này chủ yếu đối với người làm nghề thủ công mĩ nghệ như: gốm, kim hoàn, và một số hình thái diễn xướng dân gian như Ca trù, Quan họ,... Bảng 1: So sánh giữa danh xưng nghệ nhân và nghệ sĩ Nghệ nhân Nghệ sĩ Hình thức đào tạo Truyền nghề. Trường lớp, truyền nghề. Lĩnh vực Thủ công mĩ nghệ và diễn xướng dân gian. Nghệ thuật, sân khấu. Hình thức hoạt động Biểu diễn, trao truyền. Nghệ thuật biểu diễn, điện ảnh, sân khấu hoá, Phương thức hoạt động Chuyên nghiệp, bán chuyên, không theo kịch bản. Chuyên nghiệp, theo kịch bản có sẵn. Lưu ý: bảng so sánh chỉ mang tính tương đối, thuận tiện cho việc nghiên cứu của đề tài. 42 Trong nghiên cứu văn hóa dân gian, tác giả Đinh Gia Khánh được xem là người đầu tiên sử dụng khái niệm “nghệ nhân dân gian”. Trong bài “Văn học dân gian các địa phương và vai trò của nghệ nhân dân gian”, đăng trên tạp chí Văn học số 1 năm 1967, ông đã cho rằng nghệ nhân dân gian là: “những người ưu tú nổi trội trong làng xã, trong phường hội, trong từng lĩnh vực của văn hóa dân gian”. Cụ thể hơn nữa, trong phần viết về nghệ nhân dân gian, tác giả Nguyễn Xuân Kính cho rằng nghệ nhân dân gian có những điểm chung sau: Thứ nhất, họ là những người có năng khiếu, có khả năng hơn những người khác. Thứ hai, ở họ thường có sự tiếp nối giữa các thế hệ trong một gia đình, dòng họ. Thứ ba, họ là những người có lòng say mê nghề nghiệp, có lương tâm nghề nghiệp, có phẩm chất tốt được cộng đồng mến phục, tin yêu [38, tr.633 – 645]. Hiện nay, những người được xác định là nghệ nhân (theo những tiêu chí do Nhà nước, Hội Văn nghệ dân gian Việt Nam) sẽ được trao tặng những danh hiệu như: Nghệ nhân nhân dân, nghệ nhân ưu tú, nghệ nhân dân gian. Theo đó, những nghệ nhân được phong tặng là những người có thành tích đóng góp trong việc bảo tồn và phát huy những giá trị của văn hóa phi vật thể, giữ vai trò quan trọng trong sáng tạo, sở hữu, bảo tồn và truyền dạy các giá trị văn hóa dân gian ở nhiều lĩnh vực khác nhau, như hát chèo, ca trù, Quan họ, hát xoan, chầu văn, Đa phần nghệ nhân sinh sống gắn với nông nghiệp, ngư nghiệp, thủ công nghiệp và hầu như không có nghệ nhân làm việc và hưởng lương từ ngân sách nhà nước. Trên thế giới, khái niệm “nghệ nhân” cũng đã được đề cập. Năm 1993, UNESCO ra quyết định về việc thiết lập hệ thống “Báu vật nhân văn sống” theo Quyết định số 142 EX/1993/UNESCO của Đại hội đồng. Theo đó, báu vật nhân văn sống (Living Human Treasures) được hiểu là: một người có trình độ cao về kiến thức và kỹ năng cần thiết để thực hiện hoặc 43 tái tạo các yếu tố cụ thể của di sản văn hoá phi vật thể. Ở Nhật Bản, năm 1950, khái niệm nghệ nhân được hiểu với nghĩa “người nắm giữ những di sản văn hóa phi vật thể quan trọng, để chỉ những cá nhân (hoặc nhóm người) đang nắm giữ và phổ biến những kỹ năng và bí quyết nhằm lưu truyền những tài sản văn hóa phi vật thể của đất nước cho tương lai” [84]. Ở Hàn Quốc, trong Đạo Luật số 961 về bảo vệ tài sản văn hóa đã xác định nghệ nhân sở hữu tài sản văn hóa phi vật thể trọng yếu “là những cá nhân hay tập thể là hiện thân các tài sản văn hóa phi vật thể trọng yếu có giá trị to lớn về lịch sử, nghệ thuật và hàn lâm” [84]. Ở khu vực Đông Nam Á, khái niệm “nghệ nhân” cũng được sử dụng để vinh danh những người có tay nghề nổi tiếng trong các làng nghề thủ công mỹ nghệ truyền thống. Ở Thái Lan, nghệ nhân (National Artist) được sử dụng để vinh danh những nghệ nhân lành nghề, người có khả năng sáng tạo nên những tác phẩm nghệ thuật vô giá, vì lợi ích và những mục đích cao đẹp. Tuy nhiên, khái niệm này tương đồng nhiều hơn với danh xưng “nghệ sĩ” được Nhà nước Việt Nam phong tặng, như Nghệ sĩ nhân dân, nghệ sĩ ưu tú. “National Artist” cũng được chính phủ Philipin sử dụng để gọi những người có công trong lĩnh vực bảo tồn và phát triển các loại hình văn hóa nghệ thuật của dân tộc. Ở Trung Quốc, danh xưng để gọi những người “kế thừa kiệt xuất của văn hóa dân gian” là: Bậc thầy thủ công nghệ thuật truyền thống. Có thể nhận thấy rằng, có nhiều danh xưng khác nhau cho một khái niệm “nghệ nhân” và được sử dụng ở nhiều khía cạnh khác nhau liên quan đến những người thực hành, bảo tồn, gìn giữ, phát huy và trao truyền những giá trị văn hóa phi vật thể ở mỗi quốc gia. Trong phạm vi luận án, khái niệm “nghệ nhân” được sử dụng theo nghĩa hẹp, đó là: những người có nghề và có công trong việc bảo tồn và phát huy giá trị trong một lĩnh vực văn hóa phi vật thể nhất định, được cộng đồng công nhận. 44 1.3.2. Nghệ nhân Quan họ Trong nghiên cứu về văn hóa Quan họ, khái niệm “nghệ nhân Quan họ” cũng chỉ mới xuất hiện gần đây. Năm 1978, trong cuốn Quan họ nguồn gốc và quá trình phát triển [72], nhà nghiên cứu Trần Linh Quý đã dành cả chương 5 đề viết về người nghệ sĩ Quan họ. Bài viết này được in lại trong cuốn Vùng Văn hóa Quan họ Bắc Ninh [61] và được in thành một mục trong cuốn Trên đường tìm về Quan họ. Tác giả dùng khái niệm “nghệ sĩ Quan họ” để nói về: Đội ngũ đông đảo liền anh, liền chị Quan họ hiện còn sống và đang tiếp tục đến một mức độ nào đấy những hoạt động của sinh hoạt văn hóa Quan họ cổ truyền trong một bối cảnh xã hội hoàn toàn khác trước, kể từ 1945 đến nay và đây là đội ngũ cuối cùng còn lại của Quan họ cổ truyền [61, tr.610-611]. Tuy nhiên, trong đội ngũ những nghệ sĩ Quan họ, tác giả Trần Linh Quý cũng chia ra những thang bậc khác nhau về trình độ và sự cống hiến nghệ thuật: 1. Tuyệt đại bộ phận dừng lại ở mức độ “ca đủ lối, đủ câu”, hoặc “không thua một lối, không kém một câu”. 2. Một số anh, chị đạt đến mức “đặt câu, bẻ giọng” hoặc có “giọng hát vang, rền, nền, ngọt” trở thành những con chim đầu đàn của một làng, của một cụm làng trong sinh hoạt Quan họ. 3. Một số rất ít, vài ba bốn người, có những cống hiến xuất sắc cho nghệ thuật Quan họ, được dư luận toàn vùng Quan họ suy tôn, trở nên những liền anh, liền chị Quan họ nổi tiếng một thời. Những người này không những tiêu biểu cho công sức làm giàu, làm đẹp không ngừng cho hệ thống bài ca Quan họ, cho việc hình thành một phương pháp thanh nhạc Quan họ, mà nhiều khi còn 45 tạo nên những chuyển biến về chất đối với nghệ thuật Quan họ, [73, tr.221-222]. Như vậy, nội hàm khái niệm “nghệ sĩ Quan họ” của tác giả Trần Linh Quý mang nội hàm rộng hơn và cũng theo tác giả thì những người ở thang bậc thứ 3 mới là những nghệ nhân Quan họ (theo cách gọi hiện nay). Trong cuốn Làng và nghệ nhân Quan họ Bắc Ninh, tác giả Lê Danh Khiêm có đưa ra các tiêu chí xác định nghệ nhân Quan họ, trong đó ông cho rằng: “nghệ nhân Quan họ chính là các liền anh, liền chị Quan họ ngày xưa đã có “nghề chơi Quan họ” mà ngày nay vẫn phát huy được vai trò của mình trong việc bảo tồn, phát huy văn hóa Quan họ của quê hương”[64, tr.426]. Cũng theo tác giả Lê Danh Khiêm, nghề chơi Quan họ có hai nghĩa: - Muốn “chơi Quan họ” được thì phải có nghề, nghĩa là phải tu dưỡng, học tập rất công phu trong đó bao gồm cả tu thân và tu trí. - Chính vì là “nghề” nên “chơi Quan họ” phải là những người chuyên tâm, chuyên nghiệp. Tuyệt đối không phải ai có giọng hát, thuộc nhiều bài đã có thể “có nghề” để đi “chơi Quan họ” được [64, tr. 425-426]. Trong công trình Sinh hoạt văn hóa Quan họ làng (qua trường hợp làng Quan họ Viêm Xá), tác giả Trần Minh Chính đã đưa ra khái niệm “Nghệ nhân Quan họ” là: người nghệ nhân, hay nói theo kiểu người Quan họ là anh Hai – chị Hai, anh Ba – chị Ba, có những tiêu chí riêng để có thể được thừa nhận. Điều đặc biệt là những tiêu chí đó không thành văn nhưng lại hết sức chặt chẽ, và về cơ bản là nhất quán từ trong truyền thống [15, tr.27]. 46 Qua nghiên cứu khái niệm của những nhà nghiên cứu về nghệ nhân Quan họ, chúng ta có thể nhận thấy những điểm chung. Theo đó, nghệ nhân Quan họ, cách gọi chung cho nghệ nhân Quan họ Bắc Ninh, là những liền anh, liền chị sinh hoạt Quan họ cổ truyền (hay có nghề chơi Quan họ) và có vai trò trong việc gìn giữ và phát huy giá trị văn hóa Quan họ, được cộng đồng công nhận. Đây cũng là nội hàm khái niệm về nghệ nhân Quan họ mà nghiên cứu sinh sử dụng trong luận án này. 1.3.3. Diễn xướng dân gian Diễn xướng dân gian là sinh hoạt văn nghệ của người dân sáng tạo ra trong quá trình lao động, tiếp xúc với thiên nhiên. Bằng lối: nói, kể, ví, vè, hát, hò, trò, múa, ca, vũ, lễ, nhạc, họa,... họ thể hiện tất cả những tâm trạng trong lúc vui, lúc buồn của cuộc sống sinh hoạt hàng ngày. Diễn xướng dân gian đã thể hiện rất phong phú và đa dạng cuộc sống của người dân,... Tuy nhiên, đây là thuật ngữ có nhiều cách hiểu với những nội hàm khác nhau. Nhà nghiên cứu Nguyễn Khắc Xương trong bài “Về vấn đề khái niệm trong nghiên cứu nghệ thuật biểu diễn dân gian: diễn xướng và trò diễn” [117] đã bàn khá kĩ về vấn đề này. Theo tác giả, khái niệm “diễn xướng” ra đời từ nhận thức khoa học về nguồn gốc và phương thức biểu đạt của văn học và nghệ thuật dân gian. Đây cũng là cơ sở để xác định nguồn gốc khái niệm “diễn xướng” gắn liền với nghiên cứu văn hóa dân gian ở Việt Nam hay nói cách khác diễn xướng là khái niệm đã được quen dùng cho văn hóa dân gian. Nhà nghiên cứu Nguyễn Khắc Xương giải thích khái niệm “diễn xướng” như sau: diễn xướng tức là diễn + xướng. Xướng là nói âm thanh, là phương thức biểu diễn cảm thụ thẩm mĩ qua cảm thụ thính giác,... Khái niệm Xướng chỉ có thể hiểu là thanh nhạc, tiếng nói có nhịp điệu, tiết tấu của con người, không thể đặt vào đây thanh âm của nhạc 47 khí,... Diễn là một vế hợp thành của thuật ngữ “diễn xướng”, bao gồm cả phương thức diễn chỉ có động tác và diễn có cả động tác với âm thanh. Tác giả Kiều Trung Sơn có bài viết “Nhìn lại khái niệm diễn xướng” [77] đã đưa ra nội hàm của diễn xướng, đó là: Tính dân gian, ứng diễn và truyền khẩu: “Diễn xướng không bao giờ tuân theo một kịch bản cố định, sản phẩm của một tác giả cụ thể, không bao giờ tuân theo một âm hình giai điệu cố định như một bản nhạc cho trước” [77, tr.8]. Tính diễn ngôn chủ đạo: “không có sự diễn ngôn không phải là diễn xướng và sự diễn ngôn đó phải đang diễn ra để đối tượng khác trực tiếp chứng kiến bằng cả nghe và xem” [77, tr.9]. Tính mục đích tự thân: “là lý do tồn tại trong hiện thực của một hiện tượng diễn xướng luôn phải đảm bảo để thực hiện một mục tiêu nhất định trong một điều kiện, hoàn cảnh xác định” [77, tr.9] Từ ba đặc điểm này, tác giả Kiều Trung Sơn cho rằng: Diễn xướng là một loại hình nghệ thuật dân gian, ứng diễn, truyền khẩu, sử dụng tổng hợp nhiều yếu tố nghệ thuật, trong đó diễn ngôn là yếu tố chủ đạo, nhằm đáp ứng nhu cầu văn hóa của con người trong việc giải quyết các mối quan hệ giữa con người với tự nhiên, siêu nhiên và xã hội (trong giao tiếp, giao duyên, thực hiện các nghi lễ phong tục, tín ngưỡng tôn giáo) [77, tr.10]. Về khái niệm này, tác giả Richard Bauman trong bài “Diễn xướng” [96] có quan điểm cho rằng: theo một cách hiểu phổ biến, diễn xướng là sự thực hiện một hành động đối lập với năng lực, kiểu mẫu hay những yếu tố khác thể hiện tiềm năng đối với hành động đó hoặc một sự trừu tượng hóa từ hành động đó. Cũng theo tác giả Richard Bauman, diễn xướng trong văn hóa có những đặc trưng sau: 48 - Được lên lịch, dàn dựng và được chuẩn bị từ trước. - Có giới hạn về thời gian với một thời điểm bắt đầu và kết thúc xác định. Có giới hạn về không gian, diễn ra trong không gian đã được lựa chọn một cách tượng trưng. - Kịch bản chương trình có cấu trúc Và 4 đặc điểm này phục vụ cho một cái có tính truyền thống, vốn là một phần của thực chất các cuộc diễn xướng văn hóa, cụ thể chúng là những dịp công khai có sự phối hợp, được mở ra cho cử tọa dự khán và cho sự tham gia cụ thể. Như vậy, theo nghiên cứu sinh, khái niệm “diễn xướng” theo cách tiếp cận của phương Tây nhấn mạnh đến đặc trưng của thuật ngữ, còn theo cách diễn giải của các học giả Việt Nam chú trọng đến từng thành phần của nó. Tựu trung lại thì “diễn xướng” nói đến những hành động nhằm biểu đạt một loại hình nghệ thuật mang tính truyền thống và có sự tham gia của người xem. 1.3.4. Đương đại và đời sống văn hóa đương đại Thuật ngữ “đương đại” (contemporary) trong cụm từ “đời sống văn hóa đương đại” được sử dụng như một tính từ chỉ yếu tố thuộc về thời gian hoặc thời kỳ đang nói tới hay có thể hiểu là từ dùng để xác định về mặt thời gian. Trong cuốn Công tác xây dựng đời sống văn hóa ở cơ sở, đời sống văn hóa được hiểu là “bộ phận cấu thành tích hợp trong đời sống chung của con người, xã hội” [58, tr.8]. Nếu như đời sống xã hội là toàn bộ những hoạt động nhằm thỏa mãn các nhu cầu của con người trong một xã hội, thì đời sống văn hóa được hiểu là “một phức hợp những ứng xử thành nếp, điển hình nhằm thỏa mãn nhu cầu văn hóa của các thành viên một xã hội” [58, tr.8]. 49 Trong luận án, đời sống văn hóa đương đại được hiểu là toàn thể các hoạt động sống của con người nhằm làm thỏa mãn nhu cầu văn hóa, hướng con người đến các giá trị chân, thiện, mỹ. Như vậy, khi nghiên cứu nghệ nhân Quan họ trong đời sống văn hóa đương đại là tác giả luận án muốn đề cập đến một phạm trù để phân biệt với xã hội truyền thống ở hàng loạt đặc điểm như: sự phụ thuộc của việc tổ chức đời sống xã hội, tính chất phát triển có chu kỳ, tính chất cộng đồng của xã hội,... và những yếu tố này tác động đáng kể đến sự tồn tại và vận động của các nghệ nhân Quan họ một cách khách quan. Hiện nay, bối cảnh xã hội ở vùng văn hóa Quan họ Bắc Ninh có nhiều biến động và chịu tác động của quá trình đô thị hóa, công nghiệp hóa. Tỉnh Bắc Ninh mặc dù có diện tích tự nhiên nhỏ nhất nhưng lại là tỉnh có mật độ khu công nghiệp, khu chế xuất lớn nhất ở nước ta hiện nay. Do đó, diện tích đất canh tác nông nghiệp dần thu hẹp, cùng với đó là không gian văn hóa cũng dần biến mất bởi sự chuyển dịch cơ cấu lao động trên địa bàn. Nhiều người lao động ở các nơi khác tập trung về làm công nhân tại các khu công nghiệp, kết hợp với người dân trong khu vực tạo nên sự tiếp biến văn hóa theo hướng đa dạng nhưng không còn giữ được bản sắc của vùng văn hóa giàu truyền thống mà những giá trị này đã và đang chuyển sang một hình thái mới, với những cách biểu đạt khác nhau. 1.3.5. Biến đổi văn hóa Biến đổi là một thuộc tính, đồng thời cũng là phương thức tồn tại của mọi sự vật và hiện tượng trong thế giới khách quan. Tuy nhiên, sự biến đổi của các sự vật và hiện tượng không hề giống nhau và ngay trong một sự vật hiện tượng thì sự biến đổi cũng khác nhau ở mỗi nơi, mỗi lúc. Biến đổi văn hóa được hiểu là quá trình vận động của cả xã hội. Sự biến đổi văn hóa diễn ra rất đa chiều và nhiều yếu tố (chính trị, kinh tế, giao lưu văn hóa,), cũng như tùy thuộc vào chính cộng đồng cũng như có ảnh hưởng đáng kể 50 đối với người dân ở chính cộng đồng đó. Theo thời gian, quá trình biến đổi văn hóa tác động làm thay đổi những khuôn mẫu của hành vi, lối sống, quan hệ xã hội, thiết chế văn hóa,Có thể nhận định rằng, biến đổi văn hóa cũng là một quá trình mang tính chủ động, không dự định, có tính tự nhiên và khách quan. Có nhiều nguyên nhân dẫn đến sự biến đổi văn hóa như sự phát triển của khoa học kỹ thuật, kinh tế thị trường, truyền giáo, du lịch, hôn nhân dị chủng, di dân, nhu cầu của con người, Theo đó, việc nhìn nhận “văn hóa không phải là một hiện tượng cố định mà trái lại sự chuyển biến về văn hóa là chuyện bình thường” [23, tr.280]. Tiểu kết Dân ca Quan họ Bắc Ninh bắt đầu được nghiên cứu, sưu tầm và giới thiệu rộng rãi tới công chúng từ khoảng thập kỷ thứ 2 của thế kỷ XX trở đi và là một hiện tượng văn hóa dân gian nhận được sự quan tâm khoa học. Đã có những nghiên cứu về diễn xướng Quan họ và nghệ nhân Quan họ từ nhiều góc độ khác nhau, và bước đầu tạo nên một diện mạo về người nghệ nhân Quan họ trong sinh hoạt Quan họ cổ truyền. Trong chương 1, kết quả nghiên cứu của luận án đã làm rõ một số nội dung sau: Tìm hiểu về tình hình nghiên cứu về nghệ nhân Quan họ để từ đó chỉ ra một số vấn đề còn bỏ ngỏ cần nghiên cứu làm rõ hơn. Đưa ra được quan điểm, lý thuyết làm nền tảng, cơ sở trong những nghiên cứu của luận án. Giới thuyết một số khái niệm có liên quan đến đề tài như: nghệ nhân và nghệ nhân Quan họ; Diễn xướng và diễn xướng Quan họ và một số khái niệm có liên quan đối tượng nghiên cứu của đề tài như: đời sống văn hóa đương đại, biến đổi văn hóa và sinh hoạt văn hóa Quan họ. Những kết quả nghiên cứu này rất cần thiết bởi đó là những công cụ trong việc tổng hợp, phân tích, đánh giá cũng như khảo sát để làm rõ về diện mạo của nghệ nhân Quan họ trong sinh hoạt Quan họ cổ truyền và trong đời sống văn hóa đương đại. 51 Chương 2 NGHỆ NHÂN TRONG SINH HOẠT VĂN HÓA QUAN HỌ CỔ TRUYỀN 2.1. Sinh hoạt văn hóa Quan họ cổ truyền 2.1.1. Không gian văn hóa Quan họ cổ truyền Theo những tài liệu nghiên cứu sử học thì vùng văn hóa Quan họ Bắc Ninh được xác định nằm ở khu vực đồng bằng Bắc Bộ, thời Hùng Vương thuộc Bộ Vũ Ninh (gồm địa giới cả hai tỉnh Bắc Giang và Bắc Ninh hiện nay). Thời nhà Tần (214-207 TCN) thuộc quận Giao Chỉ. Thời Ngô (226 – 280) thuộc quận Giao Châu. Thời Tiền Lê (980 – 1009) vùng Bắc Ninh thuộc một bộ phận của Bắc Giang. Thời nhà Trần (1225-1413) cả vùng đất rộng lớn này thuộc lộ Bắc Giang và cái tên trấn Kinh Bắc xác lập từ năm 1241. Sau nhiều lần điều chỉnh tên gọi và địa giới hành chính, thời Minh Mạng năm thứ 3 (1822) đặt tên khu vực này là Bắc Ninh trấn, đến năm thứ 12 (1831) đổi là Bắc Ninh tỉnh. Ngày 10 tháng 10 năm 1895, tỉnh Bắc Giang được bao gồm phủ Lạng Giang, phủ Đa Phúc và các huyện Kim Anh, Yên Dũng, Việt Yên, Hiệp Hòa, Yên Thế và một số tổng nằm ở phía nam sông Lục Nam. Tỉnh lỵ là Phủ Lạng Thương (nay là thành phố Bắc Giang), đây là những địa giới của Bắc Ninh tỉnh., và như thế, “khái niệm Quan họ Bắc Ninh được dân gian truyền tụng bao gồm phần đất rộng lớn thuộc cả phía Nam và phía Bắc sông Cầu” [80, tr.313-314]. Không gian văn hóa này đa dạng về địa hình như núi, sông, đồng bằng rộng và bằng phẳng nên là mảnh đất phù hợp để phát triển nền sản xuất nông nghiệp lúa nước. Cũng chính điều kiện tự nhiên và kinh tế thuận lợi nên vùng văn hóa này không chỉ nhiều ngành nghề thủ công mà còn là mảnh đất màu mỡ cho những loại hình văn hóa dân gian phát triển. Có thể thấy rằng, vùng văn hóa Kinh Bắc có những điều kiện lịch sử riêng của nó, tạo cho con người của vùng đất này một thế ứng xử hài hòa với môi trường 52 tự nhiên cũng như mối quan hệ giữa con người với nhau để từ đó tạo nên những giá trị văn hóa phi vật thể độc đáo, mang sắc thái riêng của vùng đất này. Như vậy, vùng văn hóa Kinh Bắc là một vùng đất cổ kính, có sự hiện diện của con người từ thời Đá cũ, thời Kim khí, có một nền tảng văn hóa, văn minh là Đông Sơn - Cổ Loa, cũng như tiếp nối với các trung tâm văn hóa như Luy Lâu, Long Biên, với các địa danh như Phật Tích, chùa Dâu, Thiên Thai, Bút Tháp,... Các làng Quan họ ra đời trong cái nôi văn hóa Kinh Bắc, đây cũng được xem điều kiện lý tưởng để sản sinh và nuôi dưỡng văn hóa người Việt ở đồng bằng Bắc Bộ. Dưới cách tiếp cận Địa - Văn hóa, sự ra đời của dân ca Quan họ Bắc Ninh trong cái nền văn hóa Kinh Bắc như là yếu tố tất yếu. Liên quan đến vấn đề này, năm 1971, nghiên cứu về vùng lan tỏa của văn hóa Quan họ, nhà nghiên cứu Trần Linh Quý công bố danh sách 49 làng Quan họ gồm: 44 làng ở các huyện Yên Phong, Tiên Du, Từ Sơn, thị xã Bắc Ninh thuộc tỉnh Bắc Ninh và 5 làng ở huyện Việt Yên, tỉnh Bắc Giang. Căn cứ để tác giả Trần Linh Quý đưa ra danh sách này là: Thứ nhất, làng có Quan họ đi kết bạn và hát với Quan họ nơi khác liên tục từ hai hoặc ba lớp (thế hệ) trở lên. Thứ hai, làng được các Quan họ nơi khác thừa nhận [57]. Số lượng 49 làng Quan họ được các công trình nghiên cứu sau này thừa nhận và có những khảo sát cụ thể. Năm 2008, trong cuốn Làng và nghệ nhân Quan họ Bắc Ninh [64] đã liệt kê đủ 44 làng Quan họ trên địa bàn tỉnh Bắc Ninh và cuốn Kiểm kê di sản văn hóa phi vật thể dân ca Quan họ Bắc Ninh [65] cũng đã liệt kê đầy đủ 49 làng Quan họ trên địa bàn 2 tỉnh Bắc Ninh và Bắc Giang. Tuy nhiên, năm 2012, tác giả Bùi Quang Thanh trong cuốn Bảo tồn và Phát huy di sản Quan họ Bắc Giang [66] có ý kiến cho rằng: 53 cho đến nay, quả thực, chúng tôi vẫn chưa hiểu được vì sao gần nửa thế kỷ qua, hầu hết các công trình nghiên cứu, giới thiệu di sản văn hóa Quan họ trên sách báo T...ào Xá 3 Cụ Ngô Thị Tư Làng Lũng Giang 4 Cụ Ngô Thế Vịnh Làng Thị Cầu 5 Cụ Tư La Làng Thị Cầu 6 Cụ Sáu Căn Làng Thị Cầu 7 Cụ Sáu Tương Làng Y Na 8 Cụ Sáu Huyền Làng Y Na 9 Cụ Hựu Làng Viêm Xá 10 Cụ Ruộng Làng Viêm Xá 11 Cụ Hoạch Làng Viêm Xá 12 Cụ Thơ Làng Bồ Sơn 13 Cụ Quế Làng Bịu Trung 14 Cụ Thất Làng Bịu Trung 15 Cụ Duyên Làng Trâm Khê 16 Cụ Sỏi Làng Bò Sơn 153 Phụ lục 3 Danh sách một số nghệ nhân Quan họ cuối thế kỷ XIX đầu thế kỷ XX của các làng Quan họ thuộc huyện Việt Yên, Bắc Giang Nguồn [73, tr.217-219]. STT Nghệ nhân Quê quán 1 Cụ Trần Hữu Na Làng Sen Hồ 2 Cụ Trần Trọng Vi Làng Sen Hồ 3 Cụ Trần Hữu Tiệp Làng Sen Hồ 4 Cụ Trần Hữu Tảo Làng Sen Hồ 5 Cụ Trần Hữu Kính Làng Sen Hồ 6 Cụ Trần Hữu Chũng Làng Sen Hồ 7 Cụ Bùi Huy Chiêu Làng Sen Hồ 8 Cụ Bùi Huy Thiều Làng Sen Hồ 9 Cụ Bùi Huy Ích Làng Sen Hồ 10 Cụ Trần Hữu Thỉnh Làng Sen Hồ 11 Cụ Trần Hữu Lực Làng Sen Hồ 12 Cụ Bùi Huy Tự Làng Sen Hồ 13 Cụ Trần Thị Dung Làng Sen Hồ 14 Cụ Bùi Thị Ất Làng Sen Hồ 15 Cụ Nguyễn Thị Lựu Làng Sen Hồ 16 Cụ Nguyễn Thị Lụa Làng Sen Hồ 17 Cụ Phĩu Làng Sen Hồ 18 Cụ Đó Làng Mai Vũ 19 Cụ Sừ Làng Mai Vũ 20 Cụ Tè Làng Mai Vũ 21 Cụ Vện Làng Mai Vũ 22 Cụ Lập Làng Mai Vũ 23 Cụ Nguyễn Thị Thanh Làng Hữu Nghi 24 Cụ Đoàn Thị Nhi Làng Hữu Nghi 25 Cụ Đoàn Thị Cõn Làng Hữu Nghi 26 Cụ Đoàn Thị Tình Làng Hữu Nghi 27 Cụ Đoàn Thị Dưỡng Làng Nội Ninh 28 Cụ Đoàn Thị Ô Làng Hữu Nghi 29 Cụ Nguyễn Thị Giàng Làng Hữu Nghi 30 Cụ Phạm Thị Nhỡ Làng Hữu Nghi 154 Phụ lục 4 Danh sách 25 nghệ nhân Quan họ tiêu biểu Nguồn [64, tr.443-445] STT Nghệ nhân Quê quán 1 Nguyễn Thị Lựu Làng Thị Cầu, tp Bắc Ninh 2 Nguyễn Văn Bảo Làng Thị Cầu, tp Bắc Ninh 3 Vũ Thị Chịch Làng Y Na, tp Bắc Ninh 4 Nguyễn Thị Tịnh Làng Y Na, tp Bắc Ninh 5 Nguyễn Thị Nguyên Làng Khả Lễ, tp Bắc Ninh 6 Đỗ Thị Tước Làng Khả Lễ, tp Bắc Ninh 7 Nguyễn Thị Nguyên Làng Bồ Sơn, tp Bắc Ninh 8 Mai Văn Sỹ Làng Xuân Ổ, tp Bắc Ninh 9 Nguyễn Thị Tiền Làng Châm Khê, tp Bắc Ninh 10 Nguyễn Thị Thới Làng Viêm Xá, tp Bắc Ninh 11 Nguyễn Thị Nhậm Làng Viêm Xá, tp Bắc Ninh 12 Ngô Văn Sự Làng Viêm Xá, tp Bắc Ninh 13 Trần Thị Phụng Làng Viêm Xá, tp Bắc Ninh 14 Nguyễn Văn Thị Làng Viêm Xá, tp Bắc Ninh 15 Ngô Thị Lịch Làng Viêm Xá, tp Bắc Ninh 16 Ngô Thị Nhi Làng Viêm Xá, tp Bắc Ninh 17 Nguyễn Thị Các Làng Viêm Xá, tp Bắc Ninh 18 Nguyễn Thị Bé Làng Đào Xá, tp Bắc Ninh 19 Nguyễn Thị Hồng Làng Đào Xá, tp Bắc Ninh 20 Nguyễn Văn Nhập Làng Đào Xá, tp Bắc Ninh 21 Nguyễn Thị Khướu Làng Ngang Nội, huyện Tiên Du 22 Nguyễn Văn Bích Làng Hoài Thị, huyện Tiên Du 23 Nguyễn Sỹ Tăng Làng Hoài Thị, huyện Tiên Du 24 Dương Văn Quyến Làng Hoài Trung, huyện Tiên Du 25 Dương Thị Tiếp Làng Hoài Trung, huyện Tiên Du 155 Phụ lục 5 Nghệ nhân ưu tú trong lĩnh vực di sản văn hóa phi vật thể Quan họ trên địa bàn tỉnh Bắc Ninh và Bắc Giang (được xét phong tặng đợt 1, năm 2015) Nguồn [64, tr.443-445]. T T T Nghệ nhân Năm sinh Thời gian bắt đầu thực hành Quan họ Quá trình tham gia thực hành Quan họ Bắc Ninh 1. 1 Ngô Thị Nhi (đã mất) 1923 năm 16 tuổi (năm 1939). Học hát Quan họ từ ông bà, bố mẹ, cũng với thế hệ anh, chị hai Quan họ thời kỳ trước 2. 2 Ngô Thị Lịch 1927 năm 18 tuổi (1945). Học hát Quan họ từ bố. 3. 3 Trần Thị Phụng 1923 năm 15 tuổi (1938) Học hát Quan họ từ bố mẹ, cũng với thế hệ anh, chị hai Quan họ thời kỳ trước. 4. 4 Đỗ Thị Tước 1922 năm 14 tuổi (1936) Tham gia bọn Quan họ và tự rèn luyện trong môi trường văn hóa Quan họ. 5. 5 Nguyễn Thị Bàn 1932 năm 11 tuổi (1943) Học hát Quan họ từ bà ngoại. 6. 6 Nguyễn Thị Thiệp 1929 năm 21 tuổi (1950) Học hát Quan họ từ anh trai, chị gái. Bắc Giang 7. 1 Trần Thị Thịnh 1915 năm 20 tuổi Học hát Quan họ từ các nghệ nhân lão thành trong làng, xã, vùng. 8. 2 Hoắc Công Chờ 1936 năm 15 tuổi (1951) Học hát Quan họ từ bố mẹ, anh chị em và bạn Quan họ. 9. 3 Hoắc Thị Có 1935 năm 12 tuổi (1947) Tham gia bọn Quan họ và tự rèn luyện trong môi trường văn hóa Quan họ. 10. 4 Đoàn Thị Cõn 1925 năm 12 tuổi Học hát Quan họ từ mẹ. 156 (1937) 11. 5 Hoắc Thị Chướng 1929 năm 7 tuổi (1936) Học hát Quan họ từ bố mẹ. 12. 6 Nguyễn Thị Gái 1920 năm 15 tuổi (1935) Họ hát Quan họ từ gia đình, làng. 13. 7 Nguyễn Phú Hiệp 1962 năm 27 tuổi (1989) Học hát Quan họ từ các nghệ nhân lão thành trong làng, xã, vùng. 14. 8 Nguyễn Đăng Nam 1966 năm 23 tuổi (1989) 15. 9 Đoàn Thị Tình 1927 năm 10 tuổi (1937) Học hát Quan họ từ mẹ và chị. 16. 1 Nguyễn Thị Nhung 1931 năm 15 tuổi (1946) Học hát Quan họ từ mẹ và người thân. 17. 1 Nguyễn Thị Nguyên (đã mất) 1922 năm 15 tuổi (1937) Học hát Quan họ từ bố mẹ. 157 Phụ lục 6 Hình ảnh nhà chứa Quan họ xưa và nay Nguồn: Nghiên cứu sinh chụp (8-2017) Hình 6.1. Nhà chứa Quan họ cổ - Làng Diềm Hình 6.2. Nhà chứa Quan họ làng Diềm mới 158 Phụ lục 7 Cảnh sinh hoạt Quan họ làng Diềm tại nhà chứa mới Nguồn: Nghiên cứu sinh chụp (8 – 2017) Hình 7.1. Hình 7.2. 159 Phụ lục 8 Đền vua Bà – thủy tổ Quan họ Nguồn: Nghiên cứu sinh chụp (8 – 2017) Hình 8.1. Hình 8.2. 160 Phụ lục 9 Một số hình ảnh nhà văn hóa, nơi sinh hoạt Quan họ ngày nay Nguồn: Nghiên cứu sinh chụp (8 – 2017) Hình 9.1. Nhà văn hóa khu Đương Xá, xã Vạn An, TP Bắc Ninh Hình 9.2. Nhà văn hóa thôn Nội Ninh, xã Ninh Sơn, huyện Việt Yên, tỉnh Bắc Giang 161 Hình 9.3. Nhà văn hóa thôn Viêm Xá Hình 9.4. Nhà chứa Quan họ thôn Lũng Giang, TT Lim, huyện Tiên Du, Bắc Ninh 162 Phụ lục 10 Một số hình ảnh nghệ nhân ưu tú trong lĩnh vực Quan họ Nguồn: Nghiên cứu sinh chụp (8 – 2017) Hình 10.1. Nghệ nhân Nguyễn Thị Bàn – Làng Diềm, Bắc Ninh Hình 10.2. Nghệ nhân Trần Thị Phụng – làng Diềm, Bắc Ninh 163 Hình 10.3. Nghệ nhân Ngô Thị Lịch – Làng Diềm, Bắc Ninh Hình 10.4. Nghệ nhân Nguyễn Phú Hiệp – làng Thổ Hà, Bắc Giang 164 Phụ lục 11 Biên bản phỏng vấn sâu một số nghệ nhân Biên bản phỏng vấn nghệ nhân ưu tú Đoàn Thị Tình Địa điểm phỏng vấn: làng Nội Ninh – Ninh Sơn – Việt Yên – Bắc Giang Thời gian phỏng vấn: 8 tháng 2 năm 2017 Nội dung phỏng vấn: Sinh hoạt Quan họ của nghệ nhân sau năm 2009 Câu hỏi: Sau năm 2009 Quan họ Bắc Ninh được UNESCO công nhận là di sản văn hoá phi vật thể đại diện của nhân loại và năm 2015, sau khi bà nhận được danh hiệu Nghệ nhân ưu tú của Chủ tịch nước phong tặng bà có nhận được sự quan tâm, đãi ngộ, hỗ trợ gì của các cấp chính quyền khác với trước khi bà nhận danh hiệu này không? Ví dụ như trợ cấp hàng tháng; hỗ trợ cho việc sinh hoạt Quan họ; hỗ trợ trong việc trao truyền Quan họ,? Trả lời: Mỗi một năm, vào tháng Hai thì mừng tuổi tôi. Năm ngoái (2016) thì về tặng tôi danh hiệu Nghệ nhân ưu tú. Giằm tháng hai âm lịch thì tặng chúng tôi tiền mừng tuổi. Khi nhận được danh hiệu Nghệ nhân ưu tú thì tôi nhận được hơn 10 triệu, còn hàng tháng thì không được. Câu hỏi: Là một nghệ nhân hát Quan họ, công tác trao truyền bây giờ thì bà còn hoạt động không? Trả lời: Trước thì tôi cũng được mời đi dạy, có thể hàng tuần, hay thong thả, dạy ở cái chỗ hội trường rộng. Hiện tại thì tôi không truyền dạy nữa. Khoảng 2 năm nay là tôi không truyền dạy nữa. Câu hỏi: Bà có mấy người con? Và trong những người con của bà thì có ai theo bà hát Quan họ cổ cho đến ngày hôm nay không? Trả lời: Tôi có 4 người con, tôi truyền hết cho con gái và con dâu. Con gái tôi còn là đội trưởng đội Quan họ ở thôn. Nội Ninh được 2 nghệ nhân được phong tặng Nghệ nhân ưu tú nhưng 1 cụ do tuổi cao vừa mới mất. 165 Biên bản phỏng vấn nghệ nhân Đàm Thị Bùi (con gái nghệ nhân Đoàn Thị Tình) Địa điểm phỏng vấn: làng Nội Ninh – Ninh Sơn – Việt Yên – Bắc Giang Thời gian phỏng vấn: 8 tháng 2 năm 2017 Nội dung phỏng vấn: Sinh hoạt Quan họ trong đời sống đương đại Câu hỏi: Trước và sau khi được Unesco công nhận Quan họ Bắc Ninh là di sản văn hoá phi vật thể thì công tác lau truyền, sinh hoạt, truyền dạy của những chị hai anh hai chơi Quan họ như cô có gì khác không? Trả lời: Mấy năm trước (2-3 năm) thì làng có 2 cụ là cụ Cõn và cụ Tình thì đội (đội Quan họ của thôn) thường sinh hoạt vào tối thứ 7 và chủ nhật hàng tuần. Những bài cổ thì 2 cụ vẫn truyền dạy. Câu hỏi: Giữa thế hệ của mẹ cô và thế hệ của cô thì cô có thấy sinh hoạt Quan họ có khác gì không? Trả lời: Các cụ ngày xưa thì đi các hội hè, kết chạ thì thường xuyên sang làng của nhau hát. Đến thời các cô thì sinh hoạt theo đôi định kỳ vào tối thứ 7 và chủ nhật. Câu hỏi: Trong các buổi sinh hoạt vào tối thứ 7 và chủ nhật của đội Quan họ thì nội dung diễn ra như thế nào? Trả lời: Chúng tôi làm một nắm phiếu sau đó gắp thăm, trong phiếu có ghi tên các bài Quan họ cổ, ai bắt được tên bài nào thì phải hát bài đó, nếu không hát được thì nộp 3.000 đ vào quỹ sinh hoạt chung của đội, lâu lâu lại tổng kết 1 lần. Chủ yếu trong buổi sinh hoạt là những bài Quan họ cổ. Câu hỏi: Các nét văn hoá trong Quan họ cổ hiện giờ có còn không? Nếu không còn hoặc có khác trước đây thì khác như thế nào? Trả lời: Vẫn còn được duy trì những nét văn hoá cũ, ví dụ như tập tục của lễ hội làng. Mai mùng 6 là ngày hội thì tối mùng 5 là mời các hội đến hát giao 166 lưu. Trước các cụ chủ yếu đi hát “chạ” với nhau thôi, còn bây giờ chủ yếu sinh hoạt định kỳ. Câu hỏi: Trong buổi sinh hoạt định kỳ, ngoài hát các bài Quan họ cổ thì công việc truyền dạy cho thế hệ trẻ, các em bé trong làng có được diễn ra không? Trả lời: Trong đội trước dạy được 7 cháu nhưng bây giờ các cháu đi học đại học, trung cấp hết. Tuy nhiên bây giờ vẫn dậy 5-7 em. Số lượng các em theo học bây giờ ít, cả thôn còn 5-7 cháu có độ tuổi 7-8 tuổi theo học. Câu hỏi: Đãi ngộ của các cấp từ cấp xã cho đến nhà nước đối với câu lạc bộ thôn mình thì cô có thấy trước sau khi Unesco công nhận có khác không? Ví dụ như về kinh phí sinh hoạt, trang thiết bị hỗ trợ, địa điểm? Cô có tâm tư nguyện vọng gì không? Trả lời: Từ năm 2009 (thời điểm được công nhận), câu lạc bộ được tặng 1 bộ tăng âm khoảng 40 triệu. Nhưng dùng được thời gian ngắn đã hỏng. Bộ trang âm đó giờ không sử dụng được. Hiện tại thì thôn cho 1 bộ tăng âm khác để cho chị em tập luyện. Bộ cũ là của tỉnh, bộ mới thì là của thôn. Câu hỏi: Cô là đội trưởng đội Quan họ của thôn thì hàng tháng cô có được hỗ trợ gì thêm không? Và ai phong đội trưởng đội cho cô? Trả lời: Không. Ban lãnh đạo thôn họp và phân công cô. Câu lạc bộ cũng không được chế độ thường xuyên gì. Câu hỏi: Với vai trò là người đội trưởng của câu lạc bộ thì trong công tác trao truyền và dạy Quan họ cụ thể ở làng mình, cô có nguyện vọng gì? Trả lời: Tôi rất muốn cấp trên quan tâm, nhất là về kinh phí. Để trong đội có sự duy trì, không bị mai một. Trong sinh hoạt thường ngày, hàng tháng, hàng quý thì mong có sự hỗ trợ kinh phí. Nếu được cấp trên quan tâm thì cũng rất muốn được có một phòng riêng, vì trong Quan họ cũng có rất nhiều thứ để gìn giữ như quần áo, mũ nón, dụng cụ, bộ tăng âm, Mỗi năm đi về cũng có 167 những ảnh kỷ niêm, cũng muốn lưu giữ những kỷ niệm cho con cháu nhìn vào tự hào. Câu hỏi: Cá nhân cô nắm bắt được bao nhiêu phần từ những gì cô được truyền dạy từ mẹ cô hay các thế hệ đi trước? Trả lời: Đến giờ phút này thì cô nắm bắt đc khoảng 80%. Câu hỏi: Nhìn vào con số thì những làn điệu Quan họ cổ đang bị mai một. Cô là một người sinh ra và lớn lên trong các nôi Quan họ, bản thân cô cũng thừa nhận là đến thế hệ mình cũng đã mai một. Như vậy nó sẽ ngày càng mai một tiếp qua thế hệ tiếp theo? Vậy bản thân cô nghĩ gì về việc này? Nguyên nhân nào dẫn đến việc này? Trả lời: Đây cũng là một điều trăn trở của cô. Cô cũng nói với các bạn ít tuổi hơn trong câu lạc bộ rằng cố gắng duy trì học và nắm bắt được các làn điệu. Vừa rồi cũng nhờ một anh (nghệ nhân Nguyễn Phú Hiệp) ở Thổ Hà về truyền dạy được khoảng nửa tháng, nhưng mà cũng có được 7 bài, vì là những bài khó. Câu hỏi: Thôn mình có sử dụng kỹ thuật ghi âm qua băng, đĩa để ghi lại những làn điệu Quan họ cổ do chính các cụ hát không? Trả lời: Có. Trước khi đi thi thì thường xuyên ôn lại. Câu hỏi: Về các di tích trên địa phương mình liên quan đến Quan họ thì cô có thấy được cấp kinh phí để sửa chữa không? Trả lời: Không thấy hỗ trợ gì. Đình của làng chuẩn bị được sửa cũng vì xuống cấp quá nên được tu sửa. Câu hỏi: Sao cô không đề xuất với chính quyền địa phương để có phương án xin kinh phí tu bổ hay xây mới những di tích gắn liền với sinh hoạt Quan họ xưa? Trả lời: Cô cũng có nghĩ đến nhưng thấy nó xa với. Vì bản thân sinh hoạt hàng ngày cũng khó được hỗ trợ. Còn bản thân cô cũng có mong muốn đó. 168 Tuy nhiên cấp huyện thì cũng có quan tâm, có những đơn vị hỗ trợ hỗ trợ theo kiểu xã hội hoá. Câu hỏi: Câu lạc bộ Quan họ của làng bây giờ sinh hoạt tại đâu? Trả lời: Trước đây là sinh hoạt ở nhà cô. Nhưng hiện nay thì sinh hoạt tại nhà văn hoá thôn (từ năm 2016). Biên bản phỏng vấn nghệ nhân ưu tú Nguyễn Phú Hiệp Địa điểm phỏng vấn: làng Thổ Hà – Vân Hà – Việt Yên – Bắc Giang Thời gian phỏng vấn: 8 tháng 2 năm 2017 Nội dung phỏng vấn: Sinh hoạt Quan họ trong đời sống đương đại Câu hỏi: Những ngày đầu Xuân thì chú có hay đi hỗ trợ các làng khác hay tham gia vào các lễ hội hay cuộc thi hát Quan họ không? Trả lời: Chú có đi. Năm nay lại chuẩn bị cho hội làng Thổ Hà nên chú cũng tham mưu cho Ban tổ chức để loại hình canh hát truyền thống được giữ lại. Chú cũng muốn đưa lối chơi Quan họ lên sân khấu để đáp ứng cho công chúng, để mọi người tiếp cận được gần hơn. Câu hỏi: Như vậy là chú cũng muốn sân khấu hoá Quan họ? Trả lời: Chú không ủng hộ nhưng cách làm nó khác đi. Đến bây giờ riêng Thổ Hà mới duy trì được canh hát truyền thống. Câu hỏi: Theo chú các làng Quan họ còn giữ được hình thức sinh hoạt Quan họ xưa không? Trả lời: Hiện nay thì lối chơi Quan họ đã bị biến tấu, thương mại hoá, chạy theo thị trường. Người ta bảo chủ bảo thủ trong Quan họ, nhưng chú nghĩ nói đến Quan họ là phải nói đến lối chơi Quan họ và chú là người như vậy. Hiện nay học trò của chú đều nổi danh cả, ngay cả NSND Thuý Hường cũng học chú. Có thể bây giờ nhiều người trẻ không đồng tình với chú. Bản thân chú khi được mời đi dậy thì chú phân tích cho học trò hiểu Quan họ cổ nó vẫn là 169 cái gốc, còn lên sân khấu nó chỉ là cái cành. Vì vậy phải nắm vững được cái gốc thì mới phát triển được. Câu hỏi: Đối tượng đến với chú theo học Quan họ chủ yếu là những ai? Trả lời: Cơ bản là chú dạy truyền thống, chú có thể dạy được hình thức khác nhưng tôi chỉ dạy truyền thống cơ bản, nói nôm na là hát đối đáp, dạy vốn Quan họ cổ. Các bạn đến với chú cũng vì điều đó. Có những bạn trẻ tìm đến chú cũng vì điều đó vì học trong trường ít có những điều đó. Chú hiện vẫn hát theo lối của các cụ. Câu hỏi: Chú được truyền lại các làn điệu và lối hát Quan họ từ ai? Trả lời: Ngày xưa chú học của một số các nghệ nhân như cụ Son, cụ Thà ở làng Chọi – Bắc Ninh bây giờ (trước là tỉnh Hà Bắc). Các cụ là những người nổi tiếng của vùng Quan họ thời kỳ trước và sau Cách mạng tháng Tám. Câu hỏi: Cách trao truyền ngày xưa của các cụ cho chú có khác gì với cách hiện nay chú truyền lại cho các bạn trẻ không? Trả lời: Ngày xưa các cụ dạy cơ bản, mang tính truyền khẩu. Thế hệ bọn chú đi học thì các cụ vẫn còn nghi ngờ, chỉ dạy cơ bản, đến khi hát cho các cụ nghe rồi các cụ thấy được rồi mới dạy tiếp. Tuy nhiên dạy một số thôi, sau khi đi lại nhiều, thật tâm thì các cụ mới dốc lòng để truyền dạy. Chú là một người may được học hầu hết các nghệ nhân nổi tiếng cuối thế kỷ 20. Dạy các lớp bây giờ có khác một chút, nhưng vẫn trên căn bản, cái cốt lõi đấy. Hiện nay các bạn không quá “say” như mình ngày xưa, thậm chí khó quá là họ bỏ. Câu hỏi: Như vậy nhân xét chung về thực trạng các bạn đến với Quan họ hiện nay là họ không “say” lắm với Quan họ cổ. Trả lời: Chính xác, đó là tình trạng chung của vùng Quan họ hiện nay. Có những bạn tìm đến những nghệ nhân nổi tiếng để học để lấy thương hiệu đi hành nghề. 170 Câu hỏi: Với một người từng đi dạy rất nhiều nơi, từ trường chính quy đến đội Quan họ các làng thì chú có trăn trở gì trong việc phát huy vốn cổ của Quan họ trong cộng đồng? Trả lời: Đãi ngộ với những người đi truyền dạy cho chú chưa được quan tâm đến. Mình có tâm và yêu nghề nhưng nhiều cấp vẫn chưa hiểu. Ngay trong các trường chính quy, theo chương trình thì có đến 90 tiết học nhưng chú chỉ được dạy khoảng 20 tiết về lối Quan họ cổ thôi. Ngay cả trình độ những người truyền dạy không đủ tầm cũng có thể dẫn đến hiện tưởng “tam sao thất bản”. Muốn truyền bá được văn hoá Quan họ cổ thì ngay từ gốc, trong nhà trường phải chú trọng. Đừng đổ lỗi cho lớp trẻ, chú vẫn luôn bảo vệ rằng lỗi một phần của bọn chú, nhưng bọn chú không có cơ hội làm việc đó. Những người tạo điều kiện cho bọn chú làm lại tìm cách biến tướng thì rất khó cho bọn chú. Thương mại là một vấn đề, đi đến đâu họ nghe vài bài Quan họ thì họ lại nghĩ hoá ra Quan họ là như thế này thì là không chính xác. Chính chú muốn đưa Quan họ cổ ra giới thiệu thì lại không được. Tiếng hát Quan họ là tiếng hát của nỗi niềm, không gian Quan họ là cây đa, bến nước sân đình, trăng thanh gió mát. Đưa Quan họ vào quán thì không phù hợp, không đúng bản chất. Phải nhớ là “chơi” Quan họ, Quan họ “quán” là nhất thời. Nhưng rất ít người chia sẻ với chú điều đó. Bây giờ ai mời đi tập huấn thì chú vẫn đi. Khi chú đi dạy, đến đâu chú vừa dạy hát vừa nói chuyện về văn hoá Quan họ cổ. Đầu tiên phải dạy về văn hoá Quan họ sau đó mới dạy hát Quan họ, kể cả ở các làng gốc. Câu hỏi: Những tài liệu, giáo trình mà khi chú đi dạy thì có được ai hỗ trợ không hay vẫn tự bản thân chú sưu tầm và chuẩn bị? Trả lời: Vẫn là tự chú, chú đang chuẩn bị làm một quyển sách về hệ thống cách bài đối trong Quan họ. Có cả phần giải lời thơ. Để lại cho các thế hệ sau. 171 Câu hỏi: Bản thân chú có sinh ra trong một gia đình có truyền thống Quan họ không? Trả lời: Chú không sinh ra trong gia đình Quan họ. Chú đi bộ đội đến khoảng năm 27 tuổi mới về và học Quan họ. Câu hỏi: Chú có tham gia công tác trao truyền Quan họ tại địa phương mình thường xuyên không? Trả lời: Có thể nói là chú tham gia rất thường xuyên, còn với người khác như nào chú không được biết. Hiện nay chú đang là chủ nhiệm Câu lạc bộ Quan họ Thổ Hà. Câu lạc bộ được cấp xã ra quyết định thành lập hẳn hoi, tiền thân là đội văn nghệ từ năm 1989. Chú là người sáng lập, làm sống lại phong trào hát Quan họ tại đây. Câu lạc bộ có trên 20 thành viên sinh hoạt liên tục. Sau chú là còn 2 thế hệ nữa, trẻ nhất là 18-19 tuổi. Kinh phí câu lạc bộ thì bọn chú hoàn toàn chủ động. Thỉnh thoảng đi thi thì được hỗ trợ được mấy trăm nghìn. Câu lạc bộ sinh hoạt khoảng 2 buổi/tuần, hàng thàng có tổng kết để rút kinh nghiệm. Trong các buổi sinh hoạt thì ngoài nói chuyện về Quan họ thì chủ yếu là dậy các lớp sau các câu hát cổ, các câu khó trong Quan họ. Câu hỏi: Sau khi được Unesco công nhận, chú có thấy sự đổi khác gì trong sự quan tâm đến Quan họ từ các cấp không? Trả lời: Nói không thì không phải, nhưng đúng là chưa được là bao. Cái được là hàng năm mở những lớp tập huấn theo chương trình, nhưng đấy chỉ là hình thức. Khi thành lập 25 năm thành lập câu lạc bộ, các anh trên cũng hỗ trợ 1 khoản tiền là 10 triệu. Còn lại hoàn toàn là do anh em Câu lạc bộ tự lo. Câu hỏi: Từ khi được phong Nghệ nhân ưu tú chú có đc hỗ trợ gì thêm không? Trả lời: Đợt đấy, chú nhận được 10,5 triệu đồng sau đó nhận được kỷ niệm chương và thêm được mấy trăm nghìn, còn ngoài ra không có thêm được gì. Chú cũng như những người bình thường, cũng có tình cảm tâm tư, nhưng 172 đọng lại vẫn có chút chạnh lòng, nhưng chú không nặng nề về vấn đề đó. Với chú Quan họ như một “định mệnh”. Câu hỏi: Con của chú có theo hát Quan họ như chú không? Trả lời: Con của chú có tố chất nhưng chú không ép, tuy nhiên em bây giờ cũng không theo hát Quan họ như chú. Câu hỏi: Chú có giải pháp nào giúp Quan họ cổ ngày càng được nhiều người biết đến hơn không? Vì cứ xem hát Quan họ trên sân khấu, tại các nhà hàng, đám cưới, lâu dần nhiều người sẽ hiểu Quan họ chỉ có vậy mà không được biết đến một văn hoá Quan họ cổ tinh tuý và sâu sắc hơn rất nhiều? Trả lời: Điều đó là một trăn trở của những nhà quản lý thực sự. Theo chú, một là phải có những chuyên gia và thực hành Quan họ cổ đó phải “toàn tâm” để đưa Quan họ cổ đến công chúng người nghe qua các phương tiện đại chúng. Thậm chí có những cuộc nói chuyện về Quan họ trên truyền hình, vừa nói chuyện vừa minh hoạ luôn, để cho công chúng hiểu được cách hát qun họ cổ. Có thể làm những số truyền hình về dân ca, ví dụ số này về Quan họ, số này về ca trù truyền bá cho nhân dân. Hai nữa là nói chuyện về Quan họ trên đài phát thanh, nói chuyện rồi dẫn giải. Đằng sau lời hát thì phải diễn giải ý nghĩa, đó là một trong những nét rất đẹp trong văn hoá Quan họ. Thế mới thu hút được công chúng đón nhận. Câu hỏi: Chú có thu âm lại những lối hát cổ trong Quan họ bằng file âm thanh không? Trả lời: Chú có nhưng không nhiều, chú có mong muốn nhưng chưa có điều kiện. Câu hỏi: Chú có phản đổi Quan họ “đài” không? Trả lời: Chú cũng hát được Quan họ có nhạc đệm. Chú không phản đối, ở đâu đó, tuỳ không gian thì cho nó phù hợp. Khi trình diễn Quan họ thì có nhạc cho đỡ chìm. Nhưng phải hiểu cái chính vẫn phải là theo lối cổ. 173 Biên bản phỏng vấn nghệ nhân ưu tú Nguyễn Thị Bàn Địa điểm phỏng vấn: làng Diềm – Viêm Xá – Hòa Long – Bắc Ninh Thời gian phỏng vấn: 20 tháng 9 năm 2017 Nội dung phỏng vấn: Sinh hoạt Quan họ trong đời sống đương đại Câu hỏi: Bà có thấy sinh hoạt Quan họ thời của bà và thời của thế hệ sau này có khác gì nhiều không? Trả lời: Khác nhiều lắm. Khác ở chỗ như thế này: Trước chúng tôi ví dụ đến gặp người chơi Quan họ, có thể tôi già thế này nhưng gặp người ít tuổi hơn vẫn phải nói nhẹ nhàng “em gửi lời chào anh hai ạ”, chứ không phải nói oang oang như bây giờ. Sau đó bên khách lại trả lời “em xin gửi lời chào chị hai”. Mời vào nhà nhau cũng nhẹ nhàng: “Em xin được mời anh hai anh ba, chả mấy khi mấy kỳ không quản ngại đường xá xa xôi bớt chút thời giờ vàng ngọc mà vào thăm gia đình em, thì là em xin mời anh hai anh ba xơi nước xơi giầu, để cầu vui cho đôi ba lối, cho nhà em xin lộc”. Cứ mời đi đáp lại phải dăm ba lời thì mới bắt đầu hát. Bao giờ chủ nhà cũng phải hát trước, chủ hát xong thì khách đối. Nhưng mà phải đối đúng câu đúng giọng. Ví dụ nhà là “mong người như cá mong mưa” thì bên khách phải đối là “nhẽ ra em cũng ở nhà”. Hai bên thì xưng “em” với nhau chứ không phải xưng tôi với tớ như bây giờ. Câu hỏi: Trong sinh hoạt Quan họ xưa thì thường diễn ra vào thời điểm nào? Trả lời: Thời điểm 6/8 âm lịch là một 6/2 âm lịch. Quan họ cổ thì không bao giờ chơi từ sáng. Bao giờ cũng mời từ tối. Ví dụ tôi mời khách từ đêm mùng 5, hát suốt đêm mùng 5 đến sáng mùng 6. Đêm thì ăn cháo gà hoặc xôi chè. Sáng lại ăn gì rồi lại hát cho đến chiều, khách chưa xin về thì mình cũng chưa “giã bạn”, có khi đến sáng mùng 7 mới “giã bạn”. Quan họ cũ thì trước 1 canh thì ra đình hát 3 câu sau đó mới về nhà đám hát. Một canh hát có thể là 2 đêm 1 ngày như thế. Còn bây giờ thì chỉ lên 1 chốc rồi lại về, lên cả sang hoặc 174 chiều. Trước đây lên đình xong về nhà cụ đám là đã có người sắp cơm còn bây giờ thì chính quyền thường mời ra trụ sở ăn. Ở làng Diềm trước đây có tới mười mấy “bọn”, bắt đầu từ khoảng năm 1990 thì chính quyền mới gộp lại thành 1 bọn, bầu tôi làm trưởng. Tôi làm đến 2004 tôi mới nghỉ. Câu hỏi: khi đi dạy Quan họ, thì bà thường dạy ở đâu? Trả lời: Tôi thường dạy ở các điểm. Ví dụ điểm ở nhà chị này, điểm ở nhà anh kia,... Bây giờ tôi già ít sinh hoạt thì dạy ở đâu thì tôi ko rõ. Hiện nay thì tôi chỉ dạy cho vài bà dưới tuổi tôi chút thôi, gọi là sinh hoạt cho vui. Các cô trẻ thì bây giờ lại có các cô trẻ khác để dậy. Câu hỏi: Tục rủ bọn trong Quan họ hiện nay còn giữ được ở làng mình không? Trả lời: Bây giờ gộp vào thành một bọn rồi nên tục rủ bọn không còn nữa. Câu hỏi: Bà có thể cho biết thời của bà thì việc sáng tác và đi thi Quan họ như thế nào? Trả lời: Tôi cũng sáng tác được nhiều, trước làng tôi ít câu đối, sau đó tôi cũng sáng tác các câu đối để đi thi. Những năm đầu tiên khoảng năm 1992- 1993 (khi mới phục hồi lại thi Quan họ) tôi đi thi thì được giải nhất. Sau đó tôi thường dẫn quân đi thi. Tôi cũng tham gia làm giám khảo nhiều năm ở các cuộc thi huyện và tỉnh. Hiện nay tôi vẫn sáng tác được và dạy ngay được. Tôi thuộc khoảng 400 câu nhưng khi đăng ký làm hồ sơ tôi chỉ ghi có 200 câu. Tôi từ 7 tuổi đã thuộc nhiều câu Quan họ cổ, ở nhà chứa của bà. Bà tôi dạy mọi người hát nhưng tôi cũng học và thuộc ngày càng nhiều câu Quan họ cổ. Vừa rồi tôi cũng được mời vào ban hội đồng xét nghệ nhân cấp địa phương cho đợt năm 2018 sắp tới. Câu hỏi: Hiện nay lối hát cửa đình có còn được diễn ra không? Trả lời: Mùng 6/8 âm lịch làng vào đám thì vẫn hát cửa đình. Ví dụ khách vào thì chủ chúng tôi hát câu Chúc đình, khách lại hát 1 câu đối như thế, giọng 175 đấy nhưng mà lời khác. Bao giờ vào đình cũng phải có câu vào đình. Câu vào đình xong mới đến Lề lối, 5 câu ra – 5 câu đối thành 10 rồi mới muốn hát gì thì hát. Biên bản phỏng vấn nghệ nhân Phương – Phụ trách CLB Quan họ làng Diềm Địa điểm phỏng vấn: làng Diềm – Viêm Xá – Hòa Long – Bắc Ninh Thời gian phỏng vấn: 20 tháng 9 năm 2017 Nội dung phỏng vấn: Sinh hoạt Quan họ trong đời sống đương đại Câu hỏi: Chú có thể giới thiệu về câu lạc bộ Quan họ làng Diềm? Trả lời: Câu lạc bộ Quan họ làng Diềm hiện nay có 70 thành viên, gồm 3 thế hệ. Thế hệ măng non là chưa kể, vì các cháu đang tuổi đi học, bao giờ có việc gì lớn mới tham gia. Một là thế hệ lứa tuổi từ 18-25, hai là thế hệ có lứa tuổi từ 25-40; thứ ba là từ 40 trở lên. Trước kia cứ tối thứ 7 hàng tuần mời các thành viên ra Đền Vua Bà để tập hát và truyền dạy. Do tập thể cũng đông và đợi chờ mất thời gian nên gần đây chuyển sang là nếu các đôi nào, các em nào, thành viên nào cần học thì chúng tôi sẽ đưa đến các cụ nghệ nhân, các anh hai chị hai lớn tuổi để truyền dạy. Câu hỏi: hiện nay việc truyền dạy Quan họ có gặp khó khăn gì không? Trả lời: Nói chung là gặp rất nhiều khó khăn. Nhất là kinh phí, tuy nhiên chúng tôi cũng không đòi hỏi gì. Chúng tôi đi sau có trách nhiệm giữ gìn và truyền lại cho các thế hệ đi sau nữa. Câu hỏi: Chú có đề xuất gì với các cấp chính quyền? Trả lời: Sau khi hoàn thành nhà chứa Quan họ tại làng Diềm, chúng tôi sẽ tập luyện và truyền dạy quy mô hơn. Trước đây, việc dạy diễn ra ở Đền Vua Bà nên cũng ảnh hưởng đến việc lễ thờ. Bây giờ có nhà chứa Quan họ thì cũng là một điều thuận tiện cho chúng tôi. Mong được các cấp chính quyến quan tâm 176 về kinh phí, và giao cho một người trông nom nhà chứa để khi cần có thể mở cửa cho chúng tôi sử dụng thường xuyên. Câu hỏi: Về chương trình hát giao lưu trên thuyền vào tối thứ 7 hàng tuần do tỉnh tổ chức, ông thấy có ý nghĩa như thế nào? Trả lời: Tôi thấy tỉnh tổ chức hát Quan họ trên thuyền mỗi tối thứ 7 là rất sáng suốt cho các anh hai chị hai, thậm chí toàn thể người dân tỉnh Bắc Ninh. Điều này giúp chúng ta giữ gìn được vốn Quan họ cổ ngày xưa, vì ngày xưa cũng có hát thuyền. Chúng tôi hoàn toàn ủng hộ công tác bảo tồn chính đáng này. Câu hỏi: Sắp tới câu lác bộ mình có chuẩn bị gì cho chương trình này? Trả lời: Câu lạc bộ Quan họ làng Diềm chúng tôi chuẩn bị 2 bài là Tứ hải giao tình và Cây trúc xinh. Chúng tôi đã tập luyện và chuẩn bị rất chu đáo cho chương trình lần này. Có 4 chị hai trẻ đã được nghệ nhân Sang, chị Thềm kèm cặp hát rất thành thạo và thuần thục rồi. Biên bản phỏng vấn nghệ nhân Nguyễn Thị Sang Địa điểm phỏng vấn: làng Diềm – Viêm Xá – Hòa Long – Bắc Ninh Thời gian phỏng vấn: 20 tháng 9 năm 2017 Nội dung phỏng vấn: Sinh hoạt Quan họ trong đời sống đương đại Câu hỏi: Cô có thể chia sẻ con đường đến với Quan họ của mình? Trả lời: Tôi được học dân ca Quan họ từ nhỏ. Cha mẹ tôi đều là những người chơi Quan họ. Mẹ tôi chơi Quan họ từ năm 13 tuổi, khi đó các cụ chơi thành từng nhóm với nhau và kết nghĩa với các nhóm ở làng khác. Chúng tôi sau này lớn lên thì mang âm hưởng của các cụ từ nhỏ nên 8-9 tuổi chúng tôi đã học và hát được Quan họ. Câu hỏi: Việc sinh hoạt của câu lạc bộ có diễn ra thường xuyên không và việc dạy các thế hệ măng non hát thì diễn ra như thế nào? Trả lời: Câu lạc bộ ra đời từ rất lâu. Ngày xưa thì chơi Quan họ theo bọn, cứ 5-7 người thành 1 nhóm, tự học và tự tập luyện. Đến năm 1990 thì gộp lại 177 thành Đội Quan họ và đến nay gọi là câu lạc bộ Quan họ. Từ thế hệ này truyền cho các thế hệ kia vẫn diễn ra, trước chúng tôi học của các cụ. Bây giờ các cụ già thì chúng tôi lại truyền dạy cho thế hệ trẻ và những cháu măng non yêu thích dân ca Quan họ. Có những người 40-50 tuổi đam mê chúng tôi vẫn truyền dạy. Câu hỏi: Theo cô, để cần có những chính sách như thế nào để thế hệ sau gắn bó và phát triển Quan họ như thế hệ các cụ đi trước? Trả lời: Theo tôi nghĩ các cụ nghệ nhân đã mai một và mất rất nhiều. Để dân ca Quan họ trường tồn mãi mãi thì theo tôi: thứ nhất là đưa Quan họ vào nhà trường. Thứ hai là tất cả các câu lạc bộ đều có thể mở các lớp truyền dậy các em trong dịp hè. Thứ ba, theo tôi dân ca Quan họ không phải ai cũng thích, có những người đam mê, có những người yêu thích, nhưng mục đích chính mà để cho lan toả được thì các cấp các ngành đều phải quan tâm. Quan tâm về kinh tế, về lĩnh vực tình cảm, như thăm nom, rót kinh phí về cho làng. Chúng tôi thì rất là đam mê, chúng tôi truyền dạy nhiều thế hệ nhưng chưa được hỗ trợ một chút kinh phí nào. Muốn để được vững thì mình cần có một chút kinh phí cho các làng, các thầy cô.

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • pdfluan_an_nghe_nhan_quan_ho_bac_ninh_trong_doi_song_van_hoa_du.pdf
Tài liệu liên quan