Luận án Nâng cao năng lực tư duy lý luận của đội ngũ cán bộ người dân tộc thiểu số ở tỉnh Tuyên quang hiện nay

VIỆN HÀN LÂM KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM HỌC VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI MA PHÚC DỰ NÂNG CAO NĂNG LỰC TƯ DUY LÝ LUẬN CỦA ĐỘI NGŨ CÁN BỘ NGƯỜI DÂN TỘC THIỂU SỐ Ở TỈNH TUYÊN QUANG HIỆN NAY LUẬN ÁN TIẾN SĨ TRIẾT HỌC HÀ NỘI - 2016 VIỆN HÀN LÂM KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM HỌC VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI MA PHÚC DỰ NÂNG CAO NĂNG LỰC TƯ DUY LÝ LUẬN CỦA ĐỘI NGŨ CÁN BỘ NGƯỜI DÂN TỘC THIỂU SỐ Ở TỈNH TUYÊN QUANG HIỆN NAY Chuyên ngành : CNDVBC & DVLS Mã số : 62 22 03 02 LUẬN ÁN

pdf172 trang | Chia sẻ: huong20 | Ngày: 14/01/2022 | Lượt xem: 400 | Lượt tải: 1download
Tóm tắt tài liệu Luận án Nâng cao năng lực tư duy lý luận của đội ngũ cán bộ người dân tộc thiểu số ở tỉnh Tuyên quang hiện nay, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
N TIẾN SĨ TRIẾT HỌC NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC: PGS. TS. Nguyễn Đình Tường HÀ NỘI - 2016 LỜI CAM ĐOAN Tôi xin cam đoan, đây là công trình khoa học của riêng tôi, dưới sự hướng dẫn khoa học của PGS.TS. Nguyễn Đình Tường. Các trích dẫn và số liệu sử dụng trong luận án là đáng tin cậy và có xuất xứ rõ ràng. Tôi xin hoàn toàn chịu trách nhiệm về công trình nghiên cứu của mình. Hà Nội, năm 2016 Tác giả luận án Ma Phúc Dự MỤC LỤC MỞ ĐẦU ............................................................................................................ 1 Chương 1.TỔNG QUAN TÌNH HÌNH NGHIÊN CỨU..................................... 7 1.1. Đề tài nghiên cứu chung về vấn đề tư duy, tư duy lý luận và năng lực tư duy lý luận ................................................................................................. 7 1.2. Đề tài nghiên cứu về người dân tộc thiểu số, cán bộ người dân tộc thiểu số ................................................................................................................. 16 1.3. Đề tài nghiên cứu về thực trạng và giải pháp nâng cao năng lực tư duy lý luận của đội ngũ cán bộ, đảng viên ......................................................... 22 1.4. Một số vấn đề cần tiếp tục giải quyết trong luận án ............................ 28 Chương 2. NĂNG LỰC TƯ DUY LÝ LUẬN VÀ VAI TRÒ VIỆC NÂNG CAO NĂNG LỰC TƯ DUY LÝ LUẬN CỦA ĐỘI NGŨ CÁN BỘ NGƯỜI DÂN TỘC THIỂU SỐ Ở VIỆT NAM HIỆN NAY ................................................... 30 2.1. Tư duy lý luận và năng lực tư duy lý luận ........................................... 30 2.2. Đội ngũ cán bộ người dân tộc thiểu số và thực chất, vai trò việc nâng cao năng lực tư duy lý luận của đội ngũ cán bộ người dân tộc thiểu số ở Việt Nam hiện nay ...................................................................................... 49 Chương 3. THỰC TRẠNG NĂNG LỰC TƯ DUY LÝ LUẬN CỦA ĐỘI NGŨ CÁN BỘ NGƯỜI DÂN TỘC THIỂU SỐ Ở TỈNH TUYÊN QUANG HIỆN NAY ................................................................................................................. 73 3.1. Khái quát về người dân tộc thiểu số ở tỉnh Tuyên Quang và một số đặc điểm cơ bản của đội ngũ cán bộ người dân tộc thiểu số ở tỉnh Tuyên Quang hiện nay ....................................................................................................... 73 3.2. Đánh giá năng lực tư duy lý luận của đội ngũ cán bộ người dân tộc thiểu số ở tỉnh Tuyên Quang hiện nay ........................................................ 83 Chương 4. QUAN ĐIỂM VÀ MỘT SỐ GIẢI PHÁP CƠ BẢN NHẰM NÂNG CAO NĂNG LỰC TƯ DUY LÝ LUẬN CỦA ĐỘI NGŨ CÁN BỘ NGƯỜI DÂN TỘC THIỂU SỐ Ở TỈNH TUYÊN QUANG HIỆN NAY ....................... 111 4.1. Quan điểm về nâng cao năng lực tư duy lý luận của đội ngũ cán bộ người dân tộc thiểu số ở tỉnh Tuyên Quang hiện nay ............................... 111 4.2. Một số giải pháp cơ bản nhằm nâng cao năng lực tư duy lý luận của đội ngũ cán bộ người dân tộc thiểu số ở tỉnh Tuyên Quang hiện nay ...... 117 KẾT LUẬN .................................................................................................... 145 DANH MỤC CÁC CÔNG TRÌNH NGHIÊN CỨU CỦA TÁC GIẢ ............. 149 TÀI LIỆU THAM KHẢO ............................................................................. 150 1 MỞ ĐẦU 1. Tính cấp thiết của đề tài Theo Chủ tịch Hồ Chí Minh, cán bộ là người triển khai những quan điểm, đường lối của Đảng, chính sách, pháp luật của nhà nước đến với nhân dân, đồng thời cũng là người tổng kết, phản ánh những tâm tư nguyện vọng của quần chúng nhân dân đến Đảng, đến Nhà nước. Như vậy người cán bộ, đảng viên có vai trò rất quan trọng và to lớn - là cầu nối giữa Đảng, Nhà nước với nhân dân và ngược lại. Khi đánh giá về người cán bộ có rất nhiều tiêu chí cũng như phẩm chất, như: trình độ chuyên môn nghiệp vụ, kỹ năng triển khai, xử lý các nhiệm vụ được giao, tuổi tác và kinh nghiệm thực tiễn, Một trong những yêu cầu cũng như tiêu chuẩn đặc biệt nữa không thể thiếu của người cán bộ, giúp cho cán bộ linh hoạt trong giải quyết các công việc được giao đó là phải có năng lực tư duy lý luận. Tư duy là một thuộc tính cơ bản của con người, tư duy nói chung và tư duy lý luận nói riêng là cấp độ cao của quá trình nhận thức, phản ánh những thuộc tính bản chất, tất nhiên, những mối liên hệ có tính quy luật của khách thể nhận thức. Tư duy là sự phản ánh khái quát, chủ động, tích cực và sáng tạo những mối quan hệ bản chất, những quy luật vận động của mọi sự vật hiện tượng trong thế giới khách quan. Kết quả của quá trình tư duy sẽ đem lại cho chủ thể nhận thức những tri thức, sự hiểu biết sâu sắc, toàn diện, đầy đủ, có tính hệ thống về đối tượng nhận thức. Khẳng định vai trò của tư duy lý luận, Ăngghen đã cho rằng: “Một dân tộc muốn đứng vững trên đỉnh cao của khoa học thì không thể không có tư duy lý luận” [43, tr. 489]. Công cuộc đổi mới của đất nước dưới sự lãnh đạo của Đảng đang diễn ra trong điều kiện hoàn cảnh mới. Thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện 2 đại hóa với mục tiêu dân giàu nước mạnh, dân chủ, công bằng và văn minh. Chúng ta đang đứng trước những thời cơ vận hội mới đồng thời cũng đứng trước những khó khăn và thử thách mới. Cách mạng trên thế giới có những bước thăng trầm, con đường đi lên Chủ nghĩa xã hội ở nước ta thường xuyên bị kẻ thù và các thế lực phản cách mạng chống phá trên mọi phương diện, nhất là trên phương diện tư tưởng, văn hóa bằng các âm mưu thủ đoạn khác nhau như: diễn biến hòa bình, xuyên tạc Chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, bôi nhọ uy tín của Đảng, gây chia rẽ kỳ thị dân tộc Để đánh giá, phân tích, kết luận, cảnh giác trước những âm mưu của các thế lực thù địch và các sự kiện chính trị, kinh tế, văn hóa, xã hội vô cùng nhạy cảm, phức tạp này một cách khách quan, đội ngũ cán bộ, đảng viên phải được trang bị một hệ thống lý luận hoàn chỉnh, khoa học, sắc bén để chỉ đạo hoạt động thực tiễn. Muốn được trang bị một hệ thống lý luận, hoàn chỉnh, khoa học sắc bén đó họ phải nâng cao tầm nhận thức mới về lý luận và hạt nhân của vấn đề này chính là nâng cao năng lực tư duy lý luận. Tư duy lý luận với nền tảng nòng cốt là Triết học Mác - Lênin được Đảng và Nhà nước ta vận dụng thực tiễn trong công cuộc đổi mới và đã thu được những thắng lợi mang tính bước ngoặt. Tuy nhiên giữa lý luận và thực tiễn có một khoảng cách khá xa, tình trạng giáo điều, sách vở, xa rời quần chúng, lời nói không đi đôi với việc làm, tư tưởng không nhất quán với hành động vẫn còn khá phổ biến. Do vậy, một số Nghị quyết, chủ trương của Đảng, chính sách pháp luật của Nhà nước khó đi vào cuộc sống. Thậm chí có một số nơi, một số địa phương cán bộ còn hiểu và làm sai lệch chủ trương của Đảng, chính sách pháp luật của Nhà nước dẫn đến những hậu quả nghiêm trọng. Chính vì vậy, Đảng và Nhà nước cần phải chú ý đến phát huy tiềm năng trí tuệ của con người Việt Nam, đẩy mạnh công tác lý luận, đặc biệt là nâng cao năng lực tư duy lý luận cho đội ngũ cán bộ, đảng viên. 3 Tuyên Quang là một tỉnh miền núi phía Bắc của Tổ quốc Việt Nam. Trong những năm gần đây, dưới sự lãnh đạo của Đảng, Nhà nước, Đảng bộ và nhân dân các dân tộc tỉnh Tuyên Quang luôn quyết tâm phấn đấu xây dựng và phát triển tỉnh nhà về mọi mặt, đã thu được nhiều kết quả quan trọng trong các lĩnh vực kinh tế, chính trị, văn hóa, xã hội và các vấn đề xã hội khác. Có được những kết quả đó, một phần là sự quyết tâm của toàn tỉnh, một phần khác là do năng lực hoạt động của đội ngũ cán bộ của tỉnh. Tuy nhiên, thực tế cho thấy, trình độ nhận thức nói chung và năng lực tư duy lý luận nói riêng của đội ngũ cán bộ người dân tộc thiểu số ở tỉnh Tuyên Quang hiện nay (với đặc thù là tỉnh miền núi, đa phần là người dân tộc thiểu số) còn nhiều hạn chế, tình trạng nghĩ và làm việc theo thói quen, kinh nghiệm, giáo điều, trực quan, cảm tính vẫn đang là lực cản trong bản thân đội ngũ cán bộ người dân tộc thiểu số; khả năng dự báo, đánh giá tình hình của một bộ phận cán bộ người dân tộc thiểu số chưa cao, việc nắm bắt thông tin còn chưa nhạy bén, chưa kịp thời; một bộ phận cán bộ người dân tộc thiểu số khi xử lý công việc vẫn còn máy móc, nặng về kinh nghiệm, chưa tổng kết được kinh nghiệm thành lý luận Những hạn chế cơ bản nêu trên của đội ngũ cán bộ người dân tộc thiểu số ở tỉnh Tuyên Quang cần được khắc phục nhằm đáp ứng yêu cầu của thực tiễn đổi mới. Từ kinh nghiệm và thực tiễn công tác tại địa phương, bản thân cũng là một cán bộ người dân tộc thiểu số và với mong muốn góp một phần tiếng nói tâm huyết từ cơ sở với công tác cán bộ ở địa phương Tuyên Quang trong giai đoạn hiện nay, tôi chọn hướng nghiên cứu, cũng như đề tài: “Nâng cao năng lực tư duy lý luận của đội ngũ cán bộ người dân tộc thiểu số ở tỉnh Tuyên Quang hiện nay” làm đề tài Luận án Tiến sĩ Triết học của mình. 2. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu của Luận án 2.1. Mục đích nghiên cứu Làm sáng tỏ những vấn đề lý luận về nâng cao năng lực tư duy lý luận 4 của đội ngũ cán bộ người dân tộc thiểu số ở Việt Nam hiện nay; thực trạng năng lực tư duy lý luận của đội ngũ cán bộ người dân tộc thiểu số ở tỉnh Tuyên Quang; đưa ra những quan điểm, giải pháp cơ bản nâng cao năng lực tư duy lý luận của đội ngũ cán bộ người dân tộc thiểu số ở tỉnh Tuyên Quang hiện nay. 2.2. Nhiệm vụ nghiên cứu - Làm rõ được phạm trù năng lực tư duy lý luận, những yếu tố ảnh hưởng tới năng lực tư duy lý luận cũng như vai trò của năng lực tư duy lý luận đối với đội ngũ cán bộ người dân tộc thiểu số ở tỉnh Tuyên Quang trong giai đoạn hiện nay. - Phân tích thực trạng năng lực tư duy lý luận của đội ngũ cán bộ người dân tộc thiểu số ở tỉnh Tuyên Quang hiện nay, nguyên nhân của thực trạng và những vấn đề đặt ra từ thực trạng đó. - Đề xuất một số phương hướng và giải pháp cơ bản nhằm nâng cao năng lực tư duy lý luận của đội ngũ cán bộ người dân tộc thiểu số ở tỉnh Tuyên Quang hiện nay. 3. Cơ sở lý luận và phương pháp nghiên cứu 3.1. Cơ sở lý luận Đề tài dựa trên cơ sở lý luận và phương pháp luận của Chủ nghĩa duy vật biện chứng và Chủ nghĩa duy vật lịch sử, nhất là lý luận nhận thức và logic học mác xít. Luận án cũng dựa trên tư tưởng Hồ Chí Minh, vận dụng các Nghị quyết của Đảng ta về công tác cán bộ và vai trò của tư duy lý luận trong việc nâng cao hiệu quả hoạt động của đội ngũ cán bộ. 3.2. Phương pháp nghiên cứu - Đề tài kế thừa kết quả của những công trình khoa học đã được công bố trong những năm gần đây ở nước ta có liên quan đến đề tài. Sử dụng các tài liệu, số liệu của cấp ủy Đảng, chính quyền từ tỉnh đến các xã qua tổng hợp, thống kê, báo cáo tổng kết hàng năm. 5 - Để tiến hành nghiên cứu, đề tài sử dụng tổng hợp các phương pháp như: phân tích, tổng hợp, lôgic, lịch sử, thống kê 4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu 4.1. Đối tượng Luận án tập trung nghiên cứu thực trạng năng lực tư duy lý luận của đội ngũ cán bộ người dân tộc thiểu số ở tỉnh Tuyên Quang hiện nay và những vấn đề mang tính phương pháp cần thiết để nâng cao năng lực tư duy lý luận của đội ngũ cán bộ người dân tộc thiểu số ở tỉnh Tuyên Quang hiện nay. 4.2. Phạm vi nghiên cứu Đội ngũ cán bộ người dân tộc thiểu số ở tỉnh Tuyên Quang trong những năm gần đây. Các tư liệu, số liệu phục vụ cho nghiên cứu chủ yếu từ năm 2010 đến nay. 5. Đóng góp của Luận án - Làm sáng tỏ thêm về các phạm trù tư duy, tư duy lý luận, năng lực tư duy lý luận; làm rõ được thực chất của việc nâng cao năng lực tư duy lý luận của đội ngũ cán bộ người dân tộc thiểu số ở tỉnh Tuyên Quang. - Làm sáng tỏ được biểu hiện đặc thù về năng lực tư duy lý luận của đội ngũ cán bộ người dân tộc thiểu số ở tỉnh Tuyên Quang. - Chỉ ra được thực trạng và từ đó đưa ra quan điểm, giải pháp góp phần nâng cao năng lực tư duy lý luận của đội ngũ cán bộ người dân tộc thiểu số ở tỉnh Tuyên Quang. 6. Ý nghĩa của Luận án - Kết quả nghiên cứu của Luận án góp phần làm sáng tỏ thực trạng, cung cấp giải pháp nhằm nâng cao năng lực tư duy lý luận của đội ngũ cán bộ người dân tộc thiểu số ở tỉnh Tuyên Quang. - Luận án có thể dùng làm tài liệu tham khảo cho việc xây dựng, hoạch định chiến lược, tổ chức đội ngũ cán bộ người dân tộc thiểu số. 6 - Luận án có thể được dùng làm tài liệu trong nghiên cứu, giảng dạy các vấn đề có liên quan. 7. Kết cấu của Luận án Ngoài phần mở đầu, kết luận; danh mục tài liệu tham khảo và phụ lục, Luận án gồm 4 chương với 10 tiết. 7 Chương 1 TỔNG QUAN TÌNH HÌNH NGHIÊN CỨU 1.1. Đề tài nghiên cứu chung về vấn đề tư duy, tư duy lý luận và năng lực tư duy lý luận Có nhiều công trình khoa học nghiên cứu, làm sáng tỏ những vấn đề về nguồn gốc, bản chất, đặc điểm, lịch sử hình thành của tư duy và tư duy biện chứng duy vật; mối quan hệ giữa nội dung và phương pháp, trình độ và năng lực của tư duy, các nguyên tắc và quy luật của tư duy và tư duy biện chứng duy vật; mối quan hệ giữa tư duy hình thức và tư duy biện chứng, tư duy lý luận và năng lực tư duy lý luận - Tác giả Đào Duy Tùng, “Bàn về đổi mới tư duy”, Nhà xuất bản sự thật, Hà Nội, 1986. Bài viết đã tập trung phân tích sự cần thiết phải đổi mới tư duy, tư duy lý luận về nhận thức con đường đi lên chủ nghĩa xã hội, chỉ ra phương hướng, biện pháp để đổi mới tư duy, đặc biệt là tác giả đã nhấn mạnh sự kết hợp đổi mới nội dung, phương pháp tư duy phải nắm vững tư duy biện chứng mác xít, đẩy mạnh công tác tổng kết thực tiễn, khái quát lý luận, kiểm tra lại hệ thống tri thức; tích cực nghiên cứu lịch sử tư duy dân tộc và tư duy nhân loại. - Hồ Văn Thông, “Một số vấn đề tư duy và đổi mới tư duy hiện nay ở nước ta” (Tạp chí cộng sản, số 10/1987). Tác giả đã đưa ra một số nét cơ bản của tư duy trong mối quan hệ với hoạt động nhận thức và thực tiễn; từ việc chỉ ra vai trò của tư duy đối với hoạt động thực tiễn của con người, tác giả chỉ ra yêu cầu cần thiết về đổi mới tư duy ở nước ta hiện nay. Tác giả cho rằng đổi mới tư duy hiện nay cần quán triệt và vận dụng sâu sắc chủ nghĩa Mác-Lênin, nhất là vận dụng những quy luật cách mạng xã hội chủ nghĩa phù hợp với điều kiện thực tiễn của đất nước. 8 - Nguyễn Ngọc Long, “Năng lực tư duy lý luận trong quá trình đổi mới tư duy” (Tạp chí Cộng sản, số 10/1987) Tác giả đã tập trung phân tích bản chất và những yếu tố cấu thành năng lực tư duy lý luận như: năng lực ghi nhớ, tái hiện những nhận thức do cảm tính đem lại; năng lực trừu tượng hóa, khái quát hoát; năng lực suy luận, suy lý lôgic, phát hiện và xử lý các vấn đề trong nhận thức và hành động. Tác giả cũng luận giải sự cần thiết phải phát triển năng lực tư duy lý luận trong thời kỳ đổi mới đất nước. - Tác giả Nguyễn Văn Linh “Đổi mới tư duy và phong cách tư duy”, Nxb Sự thật, Hà Nội, 1987. Tác giả đã tập trung phân tích và chỉ rõ những hạn chế của tư duy lý luận của Đảng trong thời kỳ tập trung quan liêu bao cấp. Trên cơ sở đó luận giải sự cần thiết phải đổi mới tư duy và phong cách tư duy của Đảng và đội ngũ cán bộ lãnh đạo nước ta; đồng thời tác giả đưa ra những nội dung cần thực hiện đổi mới tư duy. - Nguyễn Bá Dương, “Về đặc trưng của tư duy biện chứng duy vật” (Tạp chí Triết học số 5/1991). Tác giả đã đi sâu phân tích năm đặc trưng cơ bản của tư duy biện chứng duy vật (như tư duy biện chứng là loại hình tư duy phát triển cao nhất so với các hình thức tư duy trong lịch sử; tư duy biện chứng phản ánh hiện thực đang vận động, biến đổi; phản ánh đúng sự vận động, phát triển và những mâu thuẫn vốn có của thế giới khách quan; tư duy biện chứng có tính khách quan; tư duy biện chứng được xem là tư duy khoa học, mang tính cách mạng, có tính chất phê phán và sức chiến đấu cao, luôn tạo ra sản phẩm kép). Trên cơ sở đó đi đến khẳng định vị trí, vai trò và tầm quan trọng của tư duy biện chứng trong nhận thức và cải tạo thế giới. 9 - Tác giả Lê Hữu Nghĩa, Phạm Duy Hải: “Tư duy khoa học trong giai đoạn cách mạng khoa học - công nghệ”, Nhà xuất bản Chính trị quốc gia, Hà Nội, 1998. Tập thể các tác giả đã tập trung phân tích và làm sáng tỏ những vấn đề lý luận về bản chất và đặc điểm chủ yếu của tư duy nói chung và tư duy khoa học nói riêng trên lập trường, cơ sở của Chủ nghĩa Mác-Lênin, các quy luật của lôgic biện chứng, như: tư duy khoa học hướng vào việc nắm bắt những mối liên hệ khách quan có tính bản chất, phát hiện những tính quy luật chi phối quá trình phát triển, vận động, của sự vật hiện tượng, của thế giới khách quan. Từ đó chỉ ra vai trò của tư duy khoa học trong giai đoạn mới của cách mạng khoa học công nghệ. - Trần Đình Thoả, “Một số vấn đề tư duy biện chứng mác xít” (Tạp chí Triết học số 2/2002). Tác giả đã tiếp cận lịch sử hình thành, phát triển của tư duy biện chứng, so sánh tư duy biện chứng với các hình thức tư duy khác để chỉ rõ sự khác biệt của tư duy biện chứng duy vật với các hình thức tư duy khác ở các đặc trưng cơ bản: tính khách quan; tính toàn diện; tính lịch sử; sự thống nhất giữa lịch sử và lôgíc; quá trình đi từ trừu tượng đến cụ thể. Từ đó đi đến khẳng định vị trí, vai trò và tầm quan trọng của tư duy biện chứng mác - xít trong nhận thức và hoạt động thực tiễn của con người. - Lê Doãn Tá, Vũ Trọng Dung, Giáo trình Triết học Mác-Lênin, Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội, 2003. Tài liệu được biên soạn trên cơ sở những bài giảng cho học viên các lớp cao cấp lý luận chính trị và cử nhân chính trị của Học viện Chính trị - Hành chính Khu vực I, Học viện Chính trị - Hành chính Quốc gia Hồ Chí Minh trong những năm gần đây theo tinh thần Nghị quyết Đại hội lần thứ VI, VII, VIII, IX, X và XI của Đảng Cộng sản Việt Nam. Nội dung giáo trình 10 trình bày, phân tích, làm sáng tỏ những khái niệm, phạm trù, nguyên lý, quy luật của Triết học Mác - Lênin nhằm cung cấp cho người đọc những kiến thức cơ bản, có hệ thống và thiết thực. - Đoàn Thế Hùng, “Tìm hiểu sự hình thành tư duy biện chứng mácxít” (Luận văn thạc sĩ Triết học, Hà Nội, 2004). Tác giả đã khái quát lịch sử và điều kiện hình thành, phát triển tư duy biện chứng duy vật từ thời cổ đại đến giai đoạn V.I.Lênin. Trên cơ sở đó, tác giả đã chỉ rõ tiền đề lý luận và vai trò của lôgíc học đối với tư duy biện chứng duy vật; đồng thời phân tích và làm sáng tỏ bản chất, đặc trưng và thực chất của tư duy biện chứng duy vật. - Nguyễn Mạnh Cương, “Về bản chất tư duy” (Tạp chí Triết học số 1/2004). Tác giả đã phân tích, làm rõ nguồn gốc, bản chất, đặc điểm, lịch sử hình thành và phát triển tư duy biện chứng duy vật. Tác giả đã phân tích sự phụ thuộc của tư duy vào hệ thống tri thức và hoạt động thực tiễn của mỗi chủ thể nhận thức. Đặc biệt tác giả đã phân tích, chỉ ra mối quan hệ biện chứng, sự khác nhau giữa tư duy chính xác và tư duy biện chứng duy vật trong quá trình nhận thức. - Trong cuốn sách: “Nửa thế kỷ nghiên cứu và giảng dạy Triết học ở Việt Nam” do Nguyễn Trọng Chuẩn chủ biên (HN,2004). Tác giả Đinh Ngọc Thạch đã có bài viết: “Muốn phát triển hoàn thiện tư duy lý luận cần đánh giá đúng tinh hoa tinh thần của các thời đại trước”. Bài viết đã bàn đến đặc điểm tư duy, lối sống của con người Việt Nam. Tác giả đã nhấn mạnh ý nghĩa lịch sử và ý nghĩa thời đại tư tưởng của Ph.Ăngghen khi cho rằng tư duy lý luận chỉ là một năng lực bẩm sinh của con người. Năng lực ấy cần được phát triển, hoàn thiện và muốn hoàn thiện nó thì cho đến nay không có cách nào khác là nghiên cứu toàn bộ Triết học thời trước... 11 - “Quá trình đổi mới tư duy lý luận của Đảng từ 1986 đến nay”, (Đồng chủ biên PGS.TS. Tô Huy Rứa, GS.TS. Hoàng Chí Bảo, PGS.TS. Trần Khắc Viện, PGS.TS. Lê Ngọc Tòng), Nxb Chính trị Quốc gia, HN, 2006. Các tác giả đã tập trung giải quyết một số nội dung như: - Phân tích bối cảnh xã hội, tình hình trong nước và quốc tế tác động tới quyết sách chiến lược “đổi mới theo định hướng xã hội chủ nghĩa” của Đảng. - Phân tích và đánh giá những thành tựu nổi bật trong đổi mới tư duy lý luận của Đảng từ những nhận thức tổng quát về chủ nghĩa xã hội và con đường đi lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam đến những nhận thức lý luận mới trong các lĩnh vực kinh tế, chính trị, văn hóa, xã hội, quốc phòng, an ninh và đối ngoại của Đảng. Làm rõ giá trị và ý nghĩa của những thành tựu đó từ góc nhìn tư duy lý luận. - Phân tích những hạn chế, những vấn đề đặt ra, nguyên nhân và bài học kinh nghiệm về đổi mới tư duy lý luận của Đảng. - Xác định những quan điểm, phương hướng và những giải pháp chủ yếu nhằm nâng cao chất lượng và hiệu quả công tác nghiên cứu lý luận và tổng kết thực tiễn trong tình hình mới của cách mạng nước ta làm cho lý luận phát huy được vai trò chỉ đạo hoạt động thực tiễn, nâng cao năng lực lãnh đạo và củng cố vững chắc vị trí cầm quyền của Đảng, thực hiện thắng lợi mục tiêu đổi mới và xây dựng chủ nghĩa xã hội ở nước ta. - “Vai trò của Triết học Mác-Lênin trong đổi mới tư duy lý luận ở Việt Nam hiện nay” (Lê Văn Quang, Tạp chí Triết học số 8 (183), 2006). Trong bài viết, tác giả khẳng định rằng, trong hàng loạt nhân tố tạo nên sự thành công của quá trình đổi mới tư duy lý luận ở Việt Nam, triết học Mác- Lênin có vai trò đặc biệt quan trọng. Theo tác giả, trong điều kiện hiện nay, triết học Mác-Lênin vẫn giữ được tính khoa học và đúng đắn, vẫn giữ nguyên giá trị định hướng cho những người cách mạng; nó giúp cho Đảng Cộng sản 12 và nhân dân Việt Nam nhận thức đúng các vấn đề của thời đại có liên quan chặt chẽ đến đổi mới tư duy lý luận; đồng thời, là cơ sở lý luận và phương pháp để tư duy đúng đắn về con đường phát triển của cách mạng Việt Nam. Trên cơ sở đó, tác giả nhấn mạnh rằng, nắm vững các vấn đề cơ bản của triết học mác - xít và không ngừng hoàn thiện phương pháp tư duy có ý nghĩa vô cùng to lớn trong đổi mới nhận thức, đổi mới tư duy lý luận. - Cuốn: “Triết học và đổi mới” - Dương Phú Hiệp (Nxb Chính trị Quốc gia, HN, 2008). Với tuyển tập các bài viết của mình, tác giả Dương Phú Hiệp đã nêu lên sứ mệnh của các nhà triết học là phải góp phần vào đổi mới tư duy, tư tưởng trong sự nghiệp đổi mới hiện nay. Tác giả đưa ra nguyên nhân của sự lạc hậu về nhận thức và sự cần thiết phải quán triệt tư duy biện chứng duy vật, phải khắc phục lối tư duy kinh nghiệm, giáo điều, phải nâng lên tầm tư duy lý luận. - Tác giả Nguyễn Ngọc Hà (2011), “Đặc điểm tư duy và lối sống của con người Việt Nam hiện nay và những vấn đề đặt ra trước yêu cầu đổi mới và hội nhập quốc tế” (Đề tài khoa học cấp Nhà nước). Đề tài tập trung nghiên cứu, làm rõ các đặc điểm của tư duy và lối sống truyền thống của con người Việt Nam, sự biến đổi của tư duy và lối sống trong thời kỳ đổi mới (Bao gồm cả đặc điểm tích cực và đặc điểm tiêu cực), những điều kiện kinh tế-xã hội tác động đến tư duy và lối sống con người Việt Nam, những vấn đề đặt ra về tư duy và lối sống trước yêu cầu đổi mới và hội nhập quốc tế; Đề xuất và phân tích các căn cứ lý lụân và thực tiễn của các phương hướng lớn và các giải pháp cơ bản nhằm tiếp tục xây dựng tư duy và lối sống mới của con người Việt Nam hiện nay theo yêu cầu của đổi mới và hội nhập quốc tế. - “Hồ Chí Minh từ hoạt động thực tiễn đến tư duy lý luận” (Nguyễn Trọng Phúc, Nxb Chính trị - Hành chính, Hà Nội, 2011). 13 Giới thiệu khái quát cuộc đời và sự nghiệp của Hồ Chí Minh từ thời thơ ấu đến tuổi thanh niên và quá trình tìm đường cứu nước, lãnh đạo sự nghiệp giải phóng dân tộc. Làm rõ những cống hiến nổi bật của Hồ Chí Minh về tư duy lý luận gắn liền với cương lĩnh, đường lối của Đảng Cộng sản Việt Nam và cách mạng Việt Nam. Tác giả phân tích, đánh giá, làm nổi bật những quan điểm của Chủ tịch Hồ Chí Minh đã soi sáng nhận thức của Đảng Cộng sản Việt Nam trong công cuộc đổi mới, nhận thức rõ hơn về hình thức, bước đi của con đường xây dựng chủ nghĩa xã hội. Tác giả khẳng định đổi mới ở Việt Nam một phần tư thế kỷ qua chính là nhận thức và vận dụng đúng đắn những luận điểm của V.I.Lênin về những đặc trưng của thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội, đặc biệt là quan niệm của chủ tịch Hồ Chí Minh về lựa chọn con đường đi lên chủ nghĩa xã hội phù hợp với thực tiễn Việt Nam. * Đánh giá chung Tất cả các công trình trên đã nghiên cứu được các vấn đề chung về tư duy, tư duy biện chứng, tư duy lý luận trên quan điểm của Chủ nghĩa Mác- Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, qua đó làm rõ được một số điểm quan trọng: Một là, khẳng định được tư duy là sản phẩm cao nhất của một dạng vật chất được tổ chức một cách đặc biệt là bộ não của con người, là quá trình phản ánh tích cực thế giới khách quan trong các khái niệm, phán đoán, suy lý... Tư duy xuất hiện trong quá trình hoạt động sản xuất xã hội của con người và phản ánh thực tại một cách gián tiếp, phát hiện những mối liên hệ hợp quy luật của thực tại. Khẳng định nhận thức là quá trình phản ánh hiện thực khách quan bởi bộ óc con người, là quá trình tạo thành tri thức trong bộ óc con người về hiện thực khách quan “Tư duy là giai đoạn cao của quá trình nhận thức. Ở giai đoạn nhận thức bằng tư duy, sự vật được phản ánh một cách gián tiếp và khái quát trong các khái niệm (phạm trù), lý thuyết. Sức mạnh trừu tượng hóa, khái quát hóa của tư duy được hướng vào việc nắm bắt những mối 14 liên hệ khách quan có tính bản chất, phát hiện những tính quy luật chi phối quá trình vận động của sự vật” [73, tr. 350]; thấy được mối quan hệ giữa tư duy với nhận thức “tư duy không tách rời với nhận thức và nhận thức phải thông qua tư duy”; phân biệt được tư duy với nhận thức “tư duy không phải là toàn bộ nhận thức mà chỉ là giai đoạn cao, là cấp độ cao của nhận thức”. Hai là, từ việc tiếp cận lịch sử hình thành, phát triển của tư duy biện chứng, so sánh tư duy biện chứng với các hình thức tư duy khác; phân loại tư duy, phân tích đặc trưng của tư duy kinh nghiệm, từ đó đi đến xác định khái niệm tư duy lý luận và phân tích làm rõ những đặc trưng cơ bản của tư duy lý luận đó là: tính khoa học; tính sáng tạo; biết xử dụng tự giác bộ công cụ của nhận thức lý tính, vận hành dưới hình thức các phương pháp, biện pháp cụ thể, dựa trên các căn cứ khoa học; gắn liền với thực tiễn, vừa chỉ đạo tực tiễn, vừa dựa trên thực tiễn để vận động. Ba là, khẳng định được vai trò của tư duy, tư duy lý luận, năng lực tư duy lý luận đối với hoạt động của con người trong hoạt động thực tiễn, cải tạo tự nhiên, cải tạo xã hội trước yêu cầu đổi mới và hội nhập quốc tế “Nhận thức cũng như lý luận không có mục đích tự thân. Lĩnh hội và nắm vững học thuyết cũng không phải là cứu cánh. Cái sâu xa, cốt yếu nhất là nắm vững lý luận để cải tạo thực tiễn, vì mục đích phát triển xã hội và hạnh phúc của con người” [68, tr. 148]. Bốn là, các công trình nghiên cứu trên phân tích, đánh giá những thành tựu nổi bật trong đổi mới tư duy lý luận của Đảng (từ những nhận thức tổng quát về chủ nghĩa xã hội và con đường đi lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam đến những nhận thức lý luận mới trong các lĩnh vực kinh tế, chính trị, văn hóa, xã hội, quốc phòng, an ninh và đối ngoại); các tác giả đã tập trung phân tích và chỉ rõ những hạn chế của tư duy lý luận của Đảng trong thời kỳ tập trung quan liêu bao cấp đến nay “Việc đổi mới tư duy lý luận của Đảng những 15 năm vừa qua vẫn còn chậm, vừa chưa đáp ứng được yêu cầu của công cuộc đổi mới vừa chưa theo kịp sự phát triển nhanh chóng, sâu sắc của thực tiễn đất nước và của thế giới trong thời đại ngày nay...” [68, tr. 482]; từ việc đi sâu làm rõ bản chất của tư duy lý luận, vai trò của tư duy lý luận đối với sự nghiệp đổi mới, từ đó khẳng định việc đổi mới tư duy nói chung, đổi mới tư duy lý luận nói riêng là một yêu cầu mang tính tất yếu trong quá trình phát triển của thời đại, trong thời kỳ đổi mới của đất nước “Đảng phải thường xuyên tự đổi mới chính mình để thúc đẩy đổi mới xã hội, mà trước hết là đổi mới tư duy lý luận để nâng cao trình độ và năng lực lý luận của Đảng cầm quyền” [68, tr. 13]. Năm là, khẳng định triết học Mác-Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh có vai trò đặc biệt quan trọng trong điều kiện hiện nay; triết học Mác-Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh vẫn giữ được tính khoa học và đúng đắn, vẫn giữ nguyên giá trị định hướng cho những người cách mạng; nó giúp cho Đảng Cộng sản và nhân dân Việt Nam nhận thức đúng các vấn đề của thời đại có liên quan chặt chẽ đến đổi mới tư duy lý luận; đồng thời, là cơ sở lý luận và phương pháp để tư duy đúng đắn về con đường phát triển của cách mạng Việt Nam. Trên cơ sở đó, nhấn mạnh rằng, nắm vững các vấn đề cơ bản của triết học mác - xít và không ngừng hoàn thiện phương pháp tư duy có ý nghĩa vô cùng to lớn trong đổi mới nhận thức, đổi mới tư duy lý luận. “Nguyên tắc bất di, bất dịch trong sự nghiệp đổi mới đất nước nói chung và đổi mới tư duy lý luận nói riêng ở nước ta là giữ vững độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội. Chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh được xác định là nền tảng tư tưởng của Đảng, của dân tộc, là nguyên tắc và phương pháp luận của sự nghiệp đổi mới. Các nguyên tắc thế giới quan và phương pháp luận trong học thuyết mác - xít, trong hệ thống quan điểm, tư tưởng của Chủ tịch Hồ Chí Minh đã được các lãnh tụ của Đảng, các nhà khoa học, các nhà lý luận nhận thức lại và lựa chọn để vận dụng sáng tạo vào điều kiện mới” [59]. 16 1.2. Đề tài nghiên cứu về người dân tộc thiểu số, cán bộ người dân tộc thiểu số Có nhiều đề tài nghiên cứu về người dân tộc thiểu số và cán bộ người dân tộc thiểu số cả ở nước ngoài và ở trong nước, tuy nhiên chỉ xin điểm qua một số đề tài ở trong nước có liên quan đến Luận án. - Cuốn: “Luận cứ khoa học cho việc nâng cao chất lượng đội ngũ cán bộ trong thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa” - Nguyễn Phú Trọng - Trần Xuân Sầm (Nxb Chính trị Quốc gia, HN, 2001). Trong công...c tiễn. Theo V.I.Lênin, nhận thức là một quá trình “từ trực quan sinh động đến tư duy trừu tượng và từ tư duy trừu tượng đến thực tiễn - đó là con đường biện chứng của sự nhận thức chân lý, của sự nhận thức hiện thực khách quan” [38, tr. 179]. Nhận thức là một quá trình biện chứng, quá trình ấy bao gồm hai giai đoạn là nhận thức cảm tính và nhận thức lý tính. Tuy khác nhau về chất nhưng nhận thức cảm tính và nhận thức lý tính có sự thống nhất hữu cơ, tác động biện chứng với nhau. Chúng bổ sung, hỗ trợ cho nhau, đem lại cho con người những hiểu biết ngày càng đầy đủ hơn, toàn diện hơn và sâu sắc hơn về các sự vật, hiện tượng, quá trình diễn ra trong thế giới. Tóm lại, nhận thức là quá trình phản ánh và tái tạo lại hiện thực trong đầu óc của con người, được quyết định bởi những quy luật phát triển xã hội và gắn liền với hoạt động thực tiễn [106, tr. 407]. Theo triết học, tư duy không phải là hệ ý thức mà là hình thức cao của sự phản ánh tích cực thực tại khách quan của con người, đó là hoạt động phản ánh ở giai đoạn cao nhất của nhận thức. Nếu chỉ bằng cảm giác, tri giác thì nhận thức của con người rất hạn chế, bởi vì con người không thể bằng cảm giác mà nhận thức, mà hiểu được những vấn đề mang tính bản chất của sự vật hiện tượng như: năng lượng mặt trời, năng lượng gió, hố đen, cấu tạo tế bào sống, vận tốc ánh sáng, âm thanh hay những hiện tượng xã hội phức tạp khác... Muốn hiểu được những vấn đề đó không thể có gì thay thế ngoài việc sử dụng sức mạnh của tư duy. Vậy tư duy khác gì với nhận thức? Tư duy là chức năng đặc biệt riêng có của bộ não con người, chỉ có ở con người. Đó chính là quá trình ý thức của con người tiếp cận và nắm bắt được bản chất, quy luật của sự vật, hiện tượng trong thế giới khách quan. Tư 33 duy là dạng hoạt động tri thức diễn ra bên trong ý thức của con người có nguồn gốc từ thực tiễn. Tư duy với tính cách là thuộc tính không thể thiếu được của hoạt động chủ quan của con người được thể hiện rõ nhất, tập trung nhất trong hoạt động sáng tạo và trong việc tiên đoán các sự kiện, hiện tượng của thế giới. Nó cũng được xuất hiện và hiện thực hóa trong quá trình đặt ra những vấn đề của lý luận và thực tiễn của con người. Tư duy là sự phản ánh khái quát và gián tiếp hiện thực khách quan bên trong bộ óc con người. Đó là quá trình năng động, sáng tạo, nó có thể phản ánh được những mối liên hệ bản chất, tất nhiên bên trong của sự vật, đem lại cho quá trình nhận thức những tri thức mới về tính quy luật chi phối sự vận động và phát triển của sự vật. Tư duy phải gắn liền với ngôn ngữ, ngôn ngữ là vỏ vật chất của tư duy, tư duy phải được biểu đạt thành ngôn ngữ, nhờ đó mà con người có thể sáng tạo ra những khái niệm và những phạm trù khoa học, nêu lên những quy luật của các khoa học và do đó hiểu sâu sắc hơn bản chất của các sự vật; nếu không có ngôn ngữ sẽ không có phương tiện để lưu giữ, kế thừa và phát triển tư duy, tư tưởng của loài người. Chủ nghĩa duy tâm cho rằng, tư duy là sản vật của bản nguyên siêu tự nhiên, độc lập, không phụ thuộc vào vật chất, đó là “ý niệm tuyệt đối’, “ý niệm siêu nhiên”... song, sự phát triển của khoa học đã bác bỏ những quan điểm đó và đã chứng minh được rằng tư duy là thuộc tính của một dạng vật chất có tổ chức cao là bộ óc người. Hoạt động của bộ óc người phản ánh hiện thực khách quan bằng các hình thức khái niệm, phán đoán, suy lý... thông qua các phương pháp như so sánh, phân tích, tổng hợp, trừu tượng hóa, khái quát hóa. Như vậy, xét về thực chất, tư duy là sự hoạt động đặc biệt của quá trình con người phản ánh thế giới, là quá trình phản ánh dựa trên sự hoạt động của bộ não nhằm nhận thức bản chất, quy luật vận động của thực tại khách 34 quan và định hướng quan hệ đối với thực tại khách quan đó. Những hình ảnh của sự vật trong thế giới được tư duy chắt lọc loại bỏ những mặt, những yếu tố bề ngoài ngẫu nhiên, trên cơ sở sáng tạo mà tìm ra những mặt cơ bản, tất yếu, những quan hệ bản chất, bền vững. Từ đó hình thành nên những khái niệm, phạm trù tương ứng với các mặt, các quan hệ tất yếu của chúng; dựa vào đó mà xây dựng nên hình ảnh mới, những quy luật khái quát xu hướng vận động và phát triển của các sự vật. Với ý nghĩa đó, tư duy chỉ có ở con người và là trình độ cao nhất của nhận thức con người trong quá trình phản ánh thế giới khách quan. Nhưng đó không phải là sự phản ánh thụ động, phụ thuộc mà con người chủ động tác động và phản ánh chủ động, sáng tạo thế giới hiện thực khách quan. Để có thể tác động, biến đổi hiện thực, trước tiên con người phải tìm cách nhận thức và hiểu biết về nó. Hoạt động tác động, biến đổi hiện thực lại là cơ sở cho nhận thức, tư duy mang tính sáng tạo và phát triển không ngừng. Bởi vì, xuất phát từ hoạt động làm biến đổi hiện thực đó mà các sự vật, hiện tượng trong thế giới hiện thực bộc lộ các thuộc tính, tính chất, quy luật... Trên cơ sở đó con người mới hiểu biết về sự vật, hiện tượng. Đây là quá trình không có giới hạn cuối cùng của hoạt động nhận thức của con người. Hơn nữa, hoạt động của tư duy còn là hoạt động vận dụng, sử dụng, kết hợp các khái niệm để sáng tạo ra các khái niệm mới, phản ánh các quan hệ tất yếu, các quy luật vận động, phát triển của thế giới khách quan. Đồng thời, hoạt động của tư duy cũng là quá trình vận dụng tri thức thu được vào hoạt động thực tiễn của con người, làm cho hoạt động đó phát triển, từ đó mà tư duy lý luận cũng không ngừng phát triển. Chính vì thế, cả nội dung và hình thức của tư duy đều phụ thuộc vào thực tiễn lịch sử - xã hội. Lịch sử không phải bắt đầu từ tư duy mà là từ hoạt động thực tiễn của con người. Trong đó, hoạt động lao động sản xuất của cải vật chất tạo ra nền tảng cho sự tồn tại và phát triển của xã hội là hoạt động cơ bản nhất. Hoạt động này 35 càng phát triển thì tư duy, trí tuệ của con người cũng càng phát triển theo. Ăngghen đã nhận định rằng: “Trí tuệ con người đã phát triển song song với việc người ta đã học cải biến tự nhiên” [43, tr. 720]. Như vậy, thông qua hoạt động thực tiễn của mình, con người đã chủ động nhận thức và cải tạo thế giới khách quan. Tư duy của con người là do hiện thực khách quan quy định; nhưng chính hoạt động thực tiễn của con người lại là cơ sở, động lực cơ bản cho sự xuất hiện và phát triển của tư duy, thực tiễn cũng là tiêu chuẩn để kiểm tra, điều chỉnh quá trình tư duy, xác nhận cho tính đúng đắn của tư duy, loại bỏ những sai lầm, tạo sự phát triển liên tục của tư duy con người. Tóm lại, ta có thể nêu ra một số đặc trưng cơ bản của tư duy như sau: Tư duy của con người luôn mang tính sáng tạo, hoạt động của tư duy luôn vươn tới những nhận thức mới thông qua hoạt động thực tiễn và nhận thức. Hoạt động thực tiễn là cơ sở, động lực của tư duy. Do vậy, khi hoạt động thực tiễn còn ở một trình độ thấp thì ứng với nó là cấp độ tư duy ở trình độ thấp. Khi hoạt động thực tiễn đạt đến trình độ cao hơn thì phương pháp tư duy, trình độ tư duy cũng được nâng lên. Như vậy, tư duy là trình độ cao của quá trình nhận thức nảy sinh trên cơ sở nhận thức cảm tính. Đó là trình độ phản ánh khái quát hóa, trừu tượng hóa, mang tính tích cực sáng tạo, hướng sâu vào nhận thức bản chất, quy luật vận động và phát triển của thế giới khách quan. Tư duy là quá trình suy nghĩ, tìm tòi, vận dụng kết hợp các khái niệm, phạm trù theo các nguyên tắc, quy luật lôgíc hình thức và lôgíc biện chứng nhằm đạt đến chân lý. Tư duy là quá trình sáng tạo lại hiện thực dưới dạng tinh thần, là sự tìm tòi đề xuất những nhận thức mới và không ngừng bổ sung phát triển các nhận thức đó trên cơ sở hoạt động thực tiễn của con người. 36 Ở trình độ tư duy, sự vật được phản ánh khái quát trong các hình thức khái niệm, phán đoán, suy lý. Tư duy luôn gắn liền với ngôn ngữ, ngôn ngữ là cái vỏ vật chất của tư duy, tư duy phải được diễn đạt thành ngôn ngữ bởi vì đó là hiện thực trực tiếp của tư tưởng, là phương tiện để diễn đạt kết quả của sự nhận thức, để lưu giữ và tiếp tục phát triển kết quả của nhận thức đó. Tư duy xuất hiện, biến đổi và phát triển trong quá trình hoạt động thực tiễn của con người. Thực tiễn là cơ sở, động lực và là tiêu chuẩn kiểm tra sự đúng, sai của tư duy. Mục đích của tư duy hướng tới là để phục vụ cho thực tiễn; chính quá trình tư duy sẽ tìm ra những biện pháp, cách thức để hiện thực hóa mình thông qua hoạt động thực tiễn của con người. Tư duy là sản phẩm của lịch sử. Trong những thời đại khác nhau, với những điều kiện phát triển kinh tế - xã hội, văn hóa, khoa học... khác nhau, thì trình độ của tư duy xét cả về nội dung và hình thức cũng ở mức cao, thấp khác nhau. Tư duy của con người không phải là bất biến mà nó cũng có quá trình biến đổi và phát triển ngày càng đạt được trình độ cao hơn. Khi xem xét tư duy như một quá trình, một bản tính phát triển chung của con người thực tiễn xã hội, tư duy thể hiện ra khuynh hướng phát triển tất yếu của nó. Tư duy con người theo Ph.Ăngghen vừa tối cao vừa không tối cao. Xét theo sự thực hiện cá biệt - chủ thể cụ thể của tư duy thì nó không tối cao và có hạn. Xét theo bản tính và khả năng thì tư duy của con người là tối cao và vô hạn. V.I.Lênin khi đề cập về khả năng nhận thức của con người đã cho rằng, chỉ có những cái con người chưa biết chứ không có những cái mà con người không thể biết. Từ những điều trình bày trên đây, chúng ta thấy: ý thức, nhận thức, tư duy là những khái niệm có sự thống nhất hữu cơ với nhau; chúng đều là sự phản ánh hiện thực khách quan bởi bộ óc người, cùng bị chi phối bởi những quy luật sinh học và xã hội trong đó các quy luật xã hội giữ vai trò quyết định. Nhưng chúng không phải là những khái niệm đồng nhất. 37 Trong mối quan hệ nội tại giữa ý thức, nhận thức và tư duy, cần thấy rằng, ý thức là sự phản ánh hiện thực khách quan vào bộ óc người, nó là phạm trù đối lập với vật chất. Nhận thức là quá trình phản ánh đó. Tư duy là trình độ cao của nhận thức. Như thế, nhận thức, tư duy đều là quá trình hoạt động để mang lại tri thức về sự vật. Tư duy cũng thuộc hoạt động nhận thức nhưng là giai đoạn cao của quá trình nhận thức. Nhận thức là quá trình phản ánh hiện thực khách quan bởi con người trên cơ sở hoạt động thực tiễn. * Tư duy kinh nghiệm và tư duy lý luận Tư duy là vấn đề mấu chốt trong hoạt động nhận thức, hoạt động của con người cũng phải dựa trên cơ sở của tư duy. Tùy thuộc vào trình độ tư duy và năng lực tư duy mà đạt tới những kết quả nhất định trong mỗi hoàn cảnh cụ thể. Nhìn chung, trình độ tư duy được xem xét ở các cấp độ như tư duy kinh nghiệm và tư duy lý luận. Quan điểm của những nhà cảm giác, kinh nghiệm chủ nghĩa cho rằng kinh nghiệm là nguồn gốc duy nhất của mọi tri thức. Tư duy kinh nghiệm có đối tượng là những khách thể hiện thực tồn tại trong không gian, thời gian với sự thống nhất giữa chung và riêng, đặc thù và phổ biến... Tư duy kinh nghiệm mang tính chất tác động trực tiếp cải biến khách thể hiện thực; thiên về phản ánh các hiện tượng, nặng về mô tả các sự kiện. Trong khi đó, chủ nghĩa duy vật thừa nhận rằng, nguồn gốc của kinh nghiệm là ở bên ngoài, tồn tại khách quan, độc lập với ý thức con người. Tính trực quan của chủ nghĩa duy vật trước Mác đã thể hiện quan niệm về vấn đề này là kinh nghiệm chỉ được coi như kết quả của sự tiếp thu thụ động thế giới bên ngoài; tự bản thân kinh nghiệm cảm tính không đem lại một tri thức phổ biến và cần thiết mà chỉ nắm lấy mặt bên ngoài, bề mặt của các sự vật, hiện tượng trong thế giới khách quan. Kế thừa những thành tựu triết học trước kia, chủ nghĩa Mác đã khắc phục tính chất trực quan trong trong việc giải thích kinh nghiệm, thừa nhận 38 kinh nghiệm là cái có sau so với hiện thực khách quan, chủ nghĩa Mác coi kinh nghiệm không phải là một nội dung thụ động của ý thức mà là sự tác động thực tiễn của con người đến thế giới bên ngoài. Trong quá trình tác động đó, con người phát hiện ra những mối liên hệ cần thiết, những đặc tính, những tính quy luật của các sự vật, hiện tượng, con người tìm kiếm và thử nghiệm những phương pháp và phương tiện hoạt động phù hợp với thực tiễn đặt ra. Có thể nói rằng tư duy kinh nghiệm được hiểu là sự thể hiện năng lực trừu tượng hóa của trí tuệ con người nhưng còn ở trình độ thấp. Từ kinh nghiệm trong thực tiễn cuộc sống, sản xuất, giao tiếp, người ta có thể rút ra những kết luận có khi khá chính xác về sự vật, hiện tượng riêng lẻ, nhưng chưa thể khái quát được những mối liên hệ bản chất giữa các sự vật, hiện tượng và chưa giải quyết được một cách khoa học về những kết luận ấy. Tư duy kinh nghiệm là tri thức do con người thu được qua thực tiễn sản xuất, đấu tranh xã hội, tiếp nhận trực tiếp từ quan sát sự vật, hiện tượng cụ thể, khách quan, nhưng rời rạc, bề ngoài, riêng lẻ, cục bộ, chưa sâu sắc, chưa đi sâu, khái quát về bản chất, tất yếu bên trong vốn có của sự vật, hiện tượng. Triết học duy vật biện chứng khẳng định, nhận thức là một quá trình từ trực quan sinh động đến tư duy trừu tượng, từ tư duy trừu tượng đến thực tiễn. Trong quá trình đó con người tích lũy, rèn luyện dần dần phát triển từ trình độ tư duy kinh nghiệm hay tiền khoa học rồi được nâng lên để đạt tới trình độ tư duy khoa học phản ánh chính xác hơn, sâu sắc hơn bản chất của sự vật, hiện tượng. Vì vậy trong quá trình nhận thức của con người nếu chỉ dừng ở trình độ kinh nghiệm thì không thể phục vụ tốt cho đời sống hiện thực sinh động đang diễn ra hàng ngày. Ph.Ăngghen viết: “Sự quan sát dựa vào kinh nghiệm tự nó không bao giờ có thể chứng minh được đầy đủ tính tất yếu” [43, tr. 718]. Do đó nhận thức của con người không thể dừng lại ở những kinh nghiệm thu nhận được trực tiếp từ thực tiễn mà phải nâng lên thành lý luận. 39 Trái lại với tư duy kinh nghiệm, nói đến tư duy lý luận là nói đến tư duy ở trình độ khái quát hóa, trừu tượng hóa, phản ánh gián tiếp sự vật hiện tượng một cách sâu sắc về mối liên hệ bản chất, tính tất yếu, tính quy luật của sự vật, hiện tượng. Theo PGS. Bùi Thanh Quất thì lý luận là biểu hiện cao nhất của nhận thức, mà kết quả của nhận thức chính là tri thức và do đó, tư duy lý luận là hệ tri thức - hệ tri thức này gắn bó chặt chẽ với nhau về mặt logic, tạo thành quan niệm hoàn chỉnh phản ánh bản chất, các quy luật hoạt động và phát triển của khách thể nghiên cứu - đang hoạt động sản sinh ra tri thức mới, có khả năng chỉ đạo hoạt động thực tiễn. Như vậy, tư duy lý luận có những đặc trưng cơ bản sau: thứ nhất là tính khoa học; thứ hai tính sáng tạo; thứ ba biết sử dụng tự giác bộ công cụ của lý tính, như khái niệm, phạm trù, phán đoán, suy lý, các lý thuyết khoa học và vận hành dưới dạng các phương pháp, biện pháp cụ thể dựa trên các căn cứ khoa học; thứ tư gắn liền với thực tiễn, chỉ đạo hoạt động thực tiễn. Tư duy lý luận khoa học là hoạt động trí tuệ của con người theo các quy luật nhận thức để nắm được các thuộc tính căn bản của sự vật, hiện tượng, những mối liên hệ cơ bản giữa chúng, để ngày càng hiểu sâu bản chất của sự vật, hiện tượng, thấy được những mâu thuẫn và chiều hướng phát triển khách quan của chúng. Tư duy lý luận khoa học là tư duy về phương pháp và phương pháp luận. Do đó, tư duy lý luận khoa học chính là trình độ phát triển cao của năng lực tư duy con người. Người có tư duy lý luận khoa học là người có ý thức thường xuyên rèn luyện những phương pháp tư duy khoa học, thường có tính độc lập, sáng tạo trong hoạt động trí tuệ và hoạt động thực tiễn. Tư duy lý luận phản ánh hiện thực khách quan bằng hệ thống khái niệm, phạm trù, quy luật; vì thế nó đem lại hiểu biết sâu sắc về bản chất, những quy luật vận động và phát triển của sự vật và hiện tượng khách quan. 40 Tư duy lý luận, xét về bản chất là quá trình sáng tạo lại hiện thực khách quan dưới dạng tinh thần, theo con đường từu tượng hóa, khái quát hóa, đi sâu vào nhận thức những mối quan hệ nội tại, bản chất, quy luật của sự vật và hiện tượng. Vì vậy, tư duy lý luận có khả năng dự báo khoa học về xu hướng vận động và phát triển của sự vật, hiện tượng. Cũng chính vì vậy, tư duy lý luận đóng vai trò rất quan trọng trong sự phát triển của khoa học cũng như trong chỉ đạo hoạt động thực tiễn của xã hội loài người. 2.1.2. Năng lực tư duy lý luận Năng lực tư duy lý luận là một trong những phạm trù quan trọng của nhận thức luận. Đã có những công trình, những bài viết đề cập đến bản chất, cấu trúc và vai trò của năng lực tư duy lý luận hướng tới việc làm sâu sắc thêm lý luận nhận thức và làm cơ sở lý luận cho việc nâng cao năng lực tư duy lý luận cho con người Việt Nam hiện nay. Khi bàn về khái niệm năng lực tư duy, có ý kiến cho rằng, “năng lực tư duy là tổng hợp những phẩm chất trí tuệ đáp ứng yêu cầu nhận thức thế giới và bảo đảm cho hành động sáng tạo của con người”. Năng lực đó “được biểu hiện ở khuynh hướng nhận thức và hành động, ở kết quả xử lý thông tin và nhất là kết quả hoạt động. Phương pháp tiếp cận vấn đề khác nhau chính là biểu hiện trình độ khác nhau của năng lực tư duy” [41, tr. 48]. Trong quan điểm trên, vấn đề trung tâm, bản chất của năng lực tư duy là tổng hợp những phẩm chất trí tuệ và trên cơ sở phẩm chất trí tuệ mới có hành động sáng tạo. Tác giả Hồ Bá Thâm xem năng lực tư duy là “khả năng biến tri thức thành phương pháp và sử dụng thành thạo chúng để tiếp tục nhận thức, tìm ra bản chất, quy luật, xu hướng tất yếu của sự vật và vận dụng đúng đắn các quy luật đó trong cuộc sống”. Khả năng ấy được cụ thể: “Năng lực tư duy là tổng hợp những khả năng ghi nhớ, tái hiện trừu tượng hóa, khái quát hóa, liên tưởng, luận giải và xử lý trong quá trình phản ánh, phát triển tri thức và vận 41 dụng chúng vào thực tiễn trên cơ sở quy luật khách quan mang lại những kết quả nhất định” [96, tr. 15 - 18]. Tác giả cũng đã đề cập đến ba yếu tố cơ bản cấu thành năng lực tư duy trong sự phân biệt với năng lực cảm giác đó là: Năng lực ghi nhớ, tái hiện những hình ảnh bằng ngôn ngữ khái niệm, hình ảnh, do nhận thức cảm tính đem lại; năng lực trừu tượng hóa, khái quát hóa trong phân tích và tổng hợp; năng lực tưởng tượng, suy luận, liên tưởng để nhận biết, phát triển, lựa chọn xử lý trong nhận thức và hành động. Như đã trình bày ở phần trên, tư duy là một quá trình nhận thức ở trình độ cao, phản ánh những thuộc tính bản chất, những mối liên hệ có tính quy luật của đối tượng mà trước đó chưa biết. Tư duy bao giờ cũng mang tính khái quát và tính gián tiếp. Với những đặc trưng đó, quá trình hoạt động của tư duy phải dựa trên những phương pháp khác nhau và phải tuân theo một trật tự lôgic nhất định. Những phương pháp đó là phân tích, tổng hợp, so sánh, trừu tượng hóa, khái quát hóa... Trong quá trình hoạt động của tư duy, những phương pháp ấy không nhất thiết phải được kết hợp với nhau một cách tuần tự mà có thể chúng đồng thời được tiến hành trong sự tương hỗ lẫn nhau giữa các phương pháp. Bởi vì, mỗi phương pháp tuy có nội dung, tác dụng khác nhau nhưng lại quan hệ chặt chẽ với các phương pháp khác. Phương pháp này là điều kiện, tiền đề để phương pháp khác phát huy hiệu quả. Chẳng hạn khi phân tích, tổng hợp các thuộc tính của sự vật thì đòi hỏi phải có trừu tượng hóa để tách cái chung khỏi cái riêng v.v... Tuy nhiên, mỗi phương pháp khi được tiến hành theo những cách thức đặc trưng của nó thì cũng được xem là một thao tác của quá trình tư duy. Như vậy, quá trình tư duy được tiến hành trong sự huy động sức mạnh của mỗi phương pháp tư duy và sự kết hợp các phương pháp ấy theo một trật tự lôgíc phù hợp với lôgíc vốn có của đối tượng nhận thức. Quá trình tư duy được thể hiện ở các hình thức như khái niệm, phán đoán, suy lý. Những hình thức này quan hệ mật thiết với nhau và giữ vai trò 42 quan trọng trong tư duy khoa học. Chính vì thế, năng lực tư duy còn thể hiện ở năng lực lựa chọn các vấn đề có liên quan để liên kết các hình thức tư duy mà tìm ra các kết luận nhất định. Chẳng hạn, năng lực lựa chọn các khái niệm để hình thành một phán đoán đúng và liên kết các phán đoán để có suy lý đúng nhằm phát hiện khái niệm mới. Như vậy, năng lực tư duy bao gồm cả năng lực lựa chọn, sắp xếp, kết hợp các phương pháp, hình thức tư duy và khả năng sử dụng thành thạo, nhuần nhuyễn mỗi phương pháp, mỗi hình thức tư duy theo những cách thức, tác dụng riêng của nó cho phù hợp với tính quy định khách quan của các đối tượng nhận thức. Năng lực tư duy là khả năng sử dụng một cách thành thạo, nhuần nhuyễn cả nội dung và phương pháp của tư duy để phát hiện vấn đề và xây dựng được những phương án tối ưu để giải quyết vấn đề đó. Năng lực tư duy thường được tiếp cận ở các góc độ: Năng lực tư duy thực hành, năng lực tư duy hình tượng và năng lực tư duy lý luận... Xét theo cấp độ phát triển của năng lực tư duy có thể phân ra thành năng lực tư duy kinh nghiệm và năng lực tư duy lý luận. Năng lực tư duy lý luận khác với năng lực tư duy kinh nghiệm. Năng lực tư duy lý luận là khả năng tư duy về những vấn đề chung, tổng thể, toàn vẹn, nắm bắt đối tượng trong tính chỉnh thể của sự tồn tại, vận động và phát triển. Đó là khả năng tư duy khoa học, sáng tạo trong sử dụng các khái niệm phạm trù để phân tích, so sánh, tổng hợp, trừu tượng hóa, khái quát hóa đem lại những tri thức mang tính chính xác, sâu sắc, chặt chẽ, lôgíc và hệ thống, phù hợp với tính quy luật khách quan của hiện thực. Hơn nữa, năng lực tư duy lý luận còn có sức mạnh đưa lý luận vào cuộc sống, cụ thể hóa lý luận thành mục tiêu, phương hướng, giải pháp cụ thể để giải quyết các vấn đề của cuộc sống có hiệu quả cao. Như vậy, năng lực tư duy lý luận còn được thể hiện ở khả năng xác lập tri thức, khả năng xác lập quan hệ giữa các 43 tri thức và khả năng đối tượng hóa tri thức. Năng lực tư duy lý luận và trình độ tư duy lý luận là những phạm trù dùng để chỉ những mặt của quá trình hoạt động thống nhất của tư duy. Trình độ tư duy là trình độ trừu tượng hóa, khái quát hóa trong phân tích và tổng hợp, là trình độ tưởng tượng, phán đoán, suy lý để liên tưởng và phát hiện, khám phá lựa chọn, xử lý trong nhận thức và hành động. Còn năng lực tư duy là bản thân sự trừu tượng hóa, khái quát hóa, liên tưởng, luận giải... Như vậy, trình độ tư duy gần với kết quả của quá trình rèn luyện năng lực tư duy. Vì thế, có thể hiểu trình độ tư duy như là cấp độ của khả năng hoạt động nhạy bén của các yếu tố cấu thành năng lực tư duy và khả năng liên kết sử dụng các yếu tố đó như là những phương pháp tư duy khoa học. Tuy vậy, sự phân biệt năng lực tư duy và trình độ tư duy chỉ là tương đối. Năng lực tư duy nào thì thể hiện một trình độ tư duy như thế ấy. Trình độ tư duy là mức độ đạt được về nội dung và phương pháp tư duy. Để đạt đến trình độ tư duy lý luận cao đòi hỏi phải không ngừng phấn đấu nâng cao năng lực tư duy lý luận. Tác giả Nguyễn Đình Trãi cho rằng: “Năng lực tư duy lý luận là tổng hợp các phẩm chất trí tuệ của chủ thể đáp ứng yêu cầu phát hiện, nhận thức (ở trình độ lý luận) nhanh, nhạy, đúng đắn và sáng tạo đối với hiện thực, nhờ vậy, có những đề xuất sắc bén góp phần nâng cao hiệu quả hoạt động thực tiễn của con người” [101, tr.28]. Tác giả Nguyễn Văn Dũng quan niệm, “Năng lực tư duy lý luận của một chủ thể nhất định (cá nhân, giai cấp, dân tộc) là tổng hòa các yếu tố tạo nên khả năng tư duy lý luận của chủ thể ấy, thể hiện ở việc phát hiện, nhận thức đúng đắn bản chất, quy luật của hiện thực và có những đề xuất sắc bén, đáp ứng định hướng và quy định chất lượng hoạt động thực tiễn của chủ thể” [19, tr. 31]. Tuy có nhiều cách hiểu và diễn đạt khác nhau, nhưng các tác giả đều thống nhất ở những điểm cơ bản về năng lực tư duy lý luận: 44 - Năng lực tư duy lý luận phụ thuộc vào chủ thể tư duy, là tổng hợp những yếu tố chủ quan của chủ thể như phẩm chất trí tuệ, phẩm chất sáng tạo tri thức khoa học, kinh nhiệm thực tiễn - Năng lực tư duy lý luận là những khả năng sử dụng nội dung, hình thức, phương pháp, thao tác tư duy khoa học nhằm đáp ứng sự nhận thức ở trình độ lý luận và sáng tạo ra tri thức mới. - Đó là khả năng vận dụng những tri thức lý luận vào hoạt động thực tiễn mang lại hiệu quả, đồng thời có khả năng dự báo khoa học. Như vậy có thể hiểu: Năng lực tư duy lý luận là tổng hợp các phẩm chất trí tuệ của chủ thể nhất định, đáp ứng yêu cầu phát hiện, nhận thức đúng đắn bản chất, quy luật của sự vật, hiện tượng, quá trình ở trình độ lý luận nhanh, nhạy bén, sáng tạo và có những dự báo, đề xuất thiết thực góp phần nâng cao hiệu quả hoạt động nhận thức và hoạt động thực tiễn của con người. Năng lực tư duy có nhiều cấp độ phát triển, nhiều loại hình khác nhau. ở mỗi người lại mạnh về một loại hình tư duy riêng, với cấp độ phát triển cao thấp khác nhau. Điều đó không phải chỉ do sự chi phối của lịch sử, mà ngay trong cùng một điều kiện môi trường cũng diễn ra sự khác nhau đó. Năng lực tư duy lý luận là sự phát triển cao của năng lực tư duy con người, có vai trò to lớn trong nhận thức cũng như cải tạo thực tiễn. Tùy vào mỗi cấp độ, phạm vi và đối tượng mà năng lực tư duy lý luận được thể hiện ra. Chính vì thế, năng lực tư duy lý luận không chỉ bị ảnh hưởng bởi các điều kiện chung mà còn do các yếu tố chủ quan của mỗi người chi phối. Trước hết, năng lực tư duy lý luận phụ thuộc vào yếu tố bẩm sinh, di truyền của từng người. Đó là những yếu tố sinh ra đã có và do thế hệ trước di truyền lại như cấu tạo của hệ thần kinh, gen... Những yếu tố này đóng vai trò chính trong việc tạo ra năng khiếu thông minh, trí nhớ, khả năng trực giác, nhạy cảm. Đó là cơ sở, tiền đề, là điều kiện của năng lực trí tuệ nói chung và 45 năng lực tư duy lý luận nói riêng. Như thế, tố chất bẩm sinh di truyền mới chỉ là những khả năng tiềm tàng nó cần phải được khơi dậy phát triển, rèn luyện thường xuyên, nếu không sẽ dẫn đến mai một. Như Ph. Ăngghen đã viết: “Tư duy lý luận chỉ là một đặc tính bẩm sinh dưới dạng năng lực của người ta mà có thôi” [43, tr. 487]. Thứ hai, quá trình giáo dục, đào tạo, quá trình học tập rèn luyện một cách tự giác để nâng cao trình độ tri thức, trí tuệ có ảnh hưởng trực tiếp, đóng vai trò quyết định đến năng lực tư duy lý luận. Trình độ tri thức, trí tuệ là điều kiện tiên quyết để con người phát triển năng lực của mình về mọi mặt. Để đạt được một trình độ tri thức, trí tuệ nhất định, không có con đường nào khác ngoài việc phải thông qua quá trình giáo dục, đào tạo và tự đào tạo. Quá trình này mang lại cho con người không chỉ nội dung các tri thức mà còn là những phương pháp tư duy khoa học ngày một hoàn thiện hơn. Đó chính là nền tảng, là cơ sở để con người mài dũa khả năng tư duy, rèn luyện năng lực tư duy nhạy bén sáng tạo. Nếu bị hạn chế về tri thức, trí tuệ thì không thể nâng cao được năng lực tư duy lý luận. Thứ ba, môi trường kinh tế - xã hội, nền tảng văn hóa, khoa học của xã hội có ảnh hưởng quan trọng đến năng lực tư duy lý luận của con người. Sự phát triển về năng lực tư duy lý luận phụ thuộc vào môi trường kinh tế - xã hội mà trong đó chủ thể tư duy sống và hoạt động. Đó là toàn bộ những điều kiện, hoàn cảnh khách quan liên quan đến đời sống, đến quá trình học tập, rèn luyện và công tác của mỗi người. C.Mác đã chỉ rõ, “con người là sản phẩm của hoàn cảnh”, hoàn cảnh kinh tế - xã hội như thế nào sẽ sản sinh ra con người thực tiễn như thế ấy. Bản thân tư duy cũng là sự phản ánh của tồn tại xã hội, là sản phẩm của lịch sử - xã hội. Cơ chế tập trung quan liêu bao cấp đã góp phần hình thành thói lười suy nghĩ, tìm tòi, tư tưởng thụ động, trông chờ, ỷ lại. Cơ chế kinh tế thị trường dễ hình thành được phong cách tư duy năng 46 động, sáng tạo... Năng lực tư duy lý luận của con người đặc biệt phụ thuộc vào nền tảng văn hóa, khoa học mà xã hội đạt được. Thật vậy, năng lực tư duy lý luận chịu sự chi phối chặt chẽ bởi sự phát triển của bản thân khoa học và trình độ văn hóa xã hội. Nền tảng văn hóa với sức mạnh cuốn hút của cái chân, thiện, mỹ, có tác động mạnh mẽ đến sự phát triển các tư chất đặc thù của mỗi người, mở rộng, khơi sâu thêm nền tảng tâm sinh lý, khơi dậy mọi năng lực tiềm ẩn của con người. Cùng với sự phát triển của khoa học, năng lực tư duy lý luận cũng có quá trình phát sinh, phát triển của mình; nó không phải là một cái gì vĩnh viễn, sinh ra và mãi mãi như vậy. Khi đánh giá về sự phát triển của năng lực tư duy lý luận, Ăngghen nhận xét: “Tư duy lý luận của mỗi một thời đại, cũng có nghĩa là cả thời đại chúng ta là một sản phẩm lịch sử mang những hình thức rất khác nhau trong những thời đại khác nhau và do đó có một nội dung rất khác nhau” [43, tr. 487]. Điều đó có nghĩa là, ứng với mỗi giai đoạn khác nhau trong sự phát triển của khoa học, tư duy của con người cũng có những loại hình khác nhau. Ngày nay, do sự phát triển mạnh mẽ của khoa học và công nghệ, sự nâng cao trình độ văn hóa, khoa học, sự phát triển nhanh chóng của các phương tiện thông tin hiện đại... nên việc nâng cao năng lực tư duy lý luận lại càng gắn liền với sự phát triển của khoa học. Vì vậy, nâng cao năng lực tư duy lý luận trước hết phải nâng cao trình độ tri thức khoa học, phương pháp tư duy khoa học, đặc biệt là phương pháp tư duy biện chứng. Thứ tư, hoạt động thực tiễn là yếu tố cơ bản ảnh hưởng trực tiếp đến năng lực tư duy lý luận của con người. Ph.Ăngghen đã chỉ rõ, “chính việc người ta biến đổi tự nhiên, chứ không phải một mình giới tự nhiên với tính cách giới tự nhiên, là cơ sở trực tiếp nhất, chủ yếu nhất của tư duy con người, và trí tuệ con người đã phát triển song song với việc người ta đã học cải biến tự nhiên” [43, tr. 720]. Như vậy, con người quan hệ với thế giới bắt đầu 47 không phải bằng lý luận mà bằng thực tiễn. Chính thông qua hoạt động thực tiễn mà con người có được những hiểu biết, nhữ...êu trên chỉ có tính độc lập tương đối. Trên thực tế, chúng có mối quan hệ hữu cơ, tác động qua lại lẫn nhau. Do vậy, muốn nâng cao năng lực tư duy lý luận cho đội ngũ cán bộ dân tộc thiểu số trong điều kiện hiện nay, nhất thiết phải thực hiện đồng bộ các giải pháp. Tuy vậy, để thực hiện việc nâng cao năng lực tư duy lý luận cho đội ngũ cán bộ người dân tộc thiểu số thì điều quan trọng là sự nỗ lực, cố gắng của bản thân đội ngũ cán bộ này để vượt lên chính mình, khắc phục mọi khó khăn để rèn luyện không ngừng nâng cao năng lực tư duy lý luận; đồng thời, phải có một cơ chế khuyến khích học tập, trau dồi, tự vươn lên của cán bộ; phải có cơ chế, chính sách kịp thời tạo niềm tin, phấn khởi, tạo động lực trong học tập, rèn luyện, phấn đấu của đội ngũ cán bộ người dân tộc thiểu số tỉnh Tuyên Quang. 145 KẾT LUẬN Tư duy là trình độ cao của quá trình nhận thức nảy sinh trên cơ sở nhận thức cảm tính. Đó là trình độ phản ánh khái quát hóa, trừu tượng hóa, mang tính tích cực sáng tạo, hướng sâu vào nhận thức bản chất, quy luật vận động và phát triển của sự vật hiện tượng và thế giới khách quan; là quá trình suy nghĩ, tìm tòi, vận dụng kết hợp các khái niệm, phạm trù theo các nguyên tắc, quy luật lôgíc hình thức và lôgíc biện chứng nhằm đạt đến chân lý; là quá trình sáng tạo lại hiện thực dưới dạng tinh thần, là sự tìm tòi đề xuất những nhận thức mới và không ngừng bổ sung phát triển các nhận thức đó trên cơ sở hoạt động thực tiễn của con người. Ở trình độ tư duy, sự vật được phản ánh khái quát trong các hình thức khái niệm, phán đoán, suy lý. Tư duy luôn gắn liền với ngôn ngữ, ngôn ngữ là cái vỏ vật chất của tư duy, tư duy phải được diễn đạt thành ngôn ngữ bởi vì đó là hiện thực trực tiếp của tư tưởng, là phương tiện để diễn đạt kết quả của sự nhận thức, để lưu giữ và tiếp tục phát triển kết quả của nhận thức đó. Năng lực tư duy lý luận là phạm trù dùng để chỉ những mặt của quá trình hoạt động thống nhất của tư duy. Năng lực tư duy lý luận là tổng hợp các phẩm chất trí tuệ của chủ thể đáp ứng yêu cầu phát hiện, nhận thức (ở trình độ lý luận) nhanh, nhạy, đúng đắn và sáng tạo đối với hiện thực, nhờ vậy, có những đề xuất sắc bén góp phần nâng cao hiệu quả hoạt động thực tiễn của con người. Năng lực tư duy có nhiều cấp độ phát triển, nhiều loại hình khác nhau. ở mỗi người lại mạnh về một loại hình tư duy riêng, với cấp độ phát triển cao thấp khác nhau. Điều đó không phải chỉ do sự chi phối của lịch sử, mà ngay trong cùng một điều kiện môi trường cũng diễn ra sự khác nhau đó. Chính vì thế, năng lực tư duy lý luận không chỉ bị ảnh hưởng bởi các điều kiện chung mà còn do các yếu tố chủ quan của mỗi người chi phối. 146 Năng lực tư duy lý luận của đội ngũ cán bộ người dân tộc thiểu số ở tỉnh Tuyên Quang hiện nay có nhiều ưu điểm tích cực đó là có bản lĩnh chính trị vững vàng, nắm bắt được bản chất cách mạng, khoa học của chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh; có thế mạnh về kinh nghiệm thực tiễn, vận dụng sáng tạo đường lối đổi mới của Đảng vào thực tiễn của tỉnh, đưa ra được các chủ trương phát triển kinh tế - xã hội phù hợp với điều kiện địa phương; từng bước đấu tranh, phê phán những cái sai, đẩy lùi cái lạc hậu, bảo thủ; bảo vệ cái đúng, cái tiến bộ; luôn vượt qua khó khăn, thử thách, từng bước nâng cao năng lực tổ chức, động viên, giáo dục, thuyết phục, tập hợp cán bộ, quần chúng nhân dân thực hiện thắng lợi sự nghiệp cách mạng của tỉnh. Tuy nhiên đội ngũ cán bộ người dân tộc thiểu số ở tỉnh Tuyên Quang vẫn còn biểu hiện một số hạn chế, yếu kém nhất định như vẫn còn cán bộ người dân tộc thiểu số có tư tưởng nặng về tập quán truyền thống; khi xử lý công việc vẫn còn máy móc, nặng về kinh nghiệm, chưa tổng kết được kinh nghiệm thành lý luận; khả năng dự báo, đánh giá tình hình của một bộ phận cán bộ người dân tộc thiểu số chưa cao, việc nắm bắt thông tin còn chưa nhạy bén, chưa kịp thời. Nguyên nhân tạo nên ưu điểm và hạn chế về năng lực tư duy lý luận của đội ngũ cán bộ người dân tộc thiểu số ở tỉnh Tuyên Quang hiện nay xuất phát từ nhiều yếu tố, trong đó có những nguyên nhân mang tính phổ biến mà đội ngũ cán bộ, đảng viên hiện nay đều tồn tại, nhưng cũng có những nguyên nhân xuất phát từ một tỉnh miền núi có nhiều đồng bào người dân tộc thiểu số sinh sống. Chính vì vậy, yêu cầu của sự nghiệp đổi mới đất nước nói chung, đổi mới tư duy nói riêng đang đặt ra yêu cầu cho đội ngũ cán bộ người dân tộc thiểu số ở tỉnh Tuyên Quang phải phát huy được những ưu điểm, tích cực và khắc phục được những yếu kém, hạn chế trong năng lực tư duy lý luận. Có như thế đội ngũ cán bộ người dân tộc thiểu số ở tỉnh Tuyên Quang mới đáp ứng được những yêu cầu, nhiệm vụ trong giai đoạn hiện nay. 147 Nâng cao năng lực tư duy lý luận của đội ngũ cán bộ người dân tộc thiểu số ở tỉnh Tuyên Quang hiện nay thực chất là một quá trình tạo ra và vận dụng những điều kiện khách quan và chủ quan để không ngừng nâng cao trình độ, năng lực tổ chức thực tiễn của đội ngũ cán bộ người dân tộc thiểu số. Cần phải xác định nâng cao năng lực tư duy lý luận của đội ngũ cán bộ người dân tộc thiểu số là một quá trình liên tục, lâu dài, quá trình đó phải được đặt trong tổng thể của sự nghiệp đổi mới ở địa phương với những phương hướng và giải pháp cơ bản. Việc nâng cao năng lực tư duy lý luận cần đặt trong tổng thể của quá trình củng cố kiện toàn và đổi mới nội dung trong các hoạt động quản lý. Trong đội ngũ cán bộ tại tỉnh thì cán bộ là người dân tộc thiểu số chiếm một vị trí đặc biệt quan trọng, thể hiện một cách trực tiếp quyền tham chính của đồng bào và cũng là lực lượng tổ chức lãnh đạo điều hành phát triển kinh tế - xã hội. Thực tiễn tại tỉnh Tuyên Quang chỉ ra rằng nơi nào cán bộ người dân tộc thiểu số năng động sáng tạo phát huy tốt mọi nguồn lực cho sự phát triển thì ở đó đời sống đồng bào được cải thiện và ngược lại nơi nào không có được cán bộ như vậy thì sẽ không phát huy được thế mạnh và nhiều khi còn dẫn đến tình trạng lãng phí. Thực chất của việc nâng cao năng lực tư duy lý luận cho đội ngũ cán bộ người dân tộc thiểu số hiện nay là làm cho đội ngũ này trở thành động lực để thực hiện các mục tiêu đã đặt ra; là nâng cao các phẩm chất trí tuệ (tri thức, văn hóa, năng lực tư duy biện chứng, tư duy khoa học, tư duy sáng tạo) nhanh, nhạy, đúng đắn và sáng tạo đối với hiện thực, từ đó hình thành bản lĩnh chính trị, năng lực thực tiễn, góp phần nâng cao hiệu quả hoạt động nhận thức và hoạt động thực tiễn của người cán bộ dân tộc thiểu số. Những quan điểm và giải pháp nhằm nâng cao năng lực tư duy lý luận của đội ngũ cán bộ người dân tộc thiểu số xuất phát từ thực tiễn của địa phương. Hệ thống các giải pháp đưa ra bước đầu mang tính cơ bản nhưng 148 trước hết là phải nhận thức được rõ vị trí, vai trò, đặc điểm của đội ngũ cán bộ người dân tộc thiểu số, những đặc thù hoạt động, đặc điểm, điều kiện sống và thực trạng của năng lực tư duy lý luận của đội ngũ này trên cơ sở “công tác thực tế, kinh nghiệm thực tế” và quán triệt những quan điểm chỉ đạo của Đảng ta về xây dựng đội ngũ cán bộ thời kỳ đẩy mạnh Công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước. Các giải pháp nêu trong luận án chỉ có tính độc lập tương đối. Trên thực tế, chúng có mối quan hệ hữu cơ, tác động qua lại lẫn nhau. Do vậy, muốn nâng cao năng lực tư duy lý luận của đội ngũ cán bộ dân tộc thiểu số trong điều kiện hiện nay, nhất thiết phải thực hiện đồng bộ các giải pháp. Tuy vậy, để thực hiện việc nâng cao năng lực tư duy lý luận của đội ngũ cán bộ người dân tộc thiểu số thì điều quan trọng là sự nỗ lực, cố gắng của bản thân đội ngũ cán bộ này để vượt lên chính mình, khắc phục mọi khó khăn để rèn luyện, không ngừng nâng cao năng lực tư duy lý luận; đồng thời, phải có một cơ chế khuyến khích học tập, trau dồi, tự vươn lên của cán bộ; phải có cơ chế, chính sách kịp thời tạo niềm tin, phấn khởi, tạo động lực trong học tập, rèn luyện, phấn đấu của đội ngũ cán bộ người dân tộc thiểu số tỉnh Tuyên Quang. Có như thế đội ngũ cán bộ người dân tộc thiểu số ở tỉnh Tuyên Quang mới thực sự đủ năng lực và phẩm chất để cùng Đảng bộ và nhân dân các dân tộc tỉnh Tuyên Quang thực hiện thắng lợi mục tiêu: Dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh. 149 DANH MỤC CÁC CÔNG TRÌNH NGHIÊN CỨU CỦA TÁC GIẢ ĐÃ CÔNG BỐ CÓ LIÊN QUAN ĐẾN ĐỀ TÀI 1. Ma Phúc Dự (2015), Vấn đề nâng cao năng lực tư duy lý luận của đội ngũ cán bộ, đảng viên trong giai đoạn hiện nay, Tạp chí Lý luận chính trị và Truyền thông, (5). 2. Ma Phúc Dự (2015), Phát triển và vận dụng sáng tạo di sản tư tưởng của V.I. Lênin vào thực tiễn cách mạng Việt Nam, Tạp chí Lý luận chính trị, (5). 3. Nguyễn Quốc Phẩm, Ma Phúc Dự (2015), Phải chăng Việt Nam nên chuyển hẳn sang con đường “dân tộc và dân chủ, Tạp chí Lý luận chính trị, (6). 4. Ma Phúc Dự (2015), Quan niệm của Hồ Chí Minh về nguyên tắc tính thống nhất giữa lý luận và thực tiễn nhằm ngăn ngừa, khắc phục bệnh kinh nghiệm, giáo điều của cán bộ, đảng viên, Tạp chí Nhân lực Khoa học Xã hội, (8). 150 TÀI LIỆU THAM KHẢO 1. Trần Ngọc Ánh (2008), Bản chất khoa học và cách mạng là cội nguồn sức sống của chủ nghĩa Mác - Lênin, Tạp chí Khoa học và công nghệ, (3). 2. Ban Chấp hành Đảng bộ Tỉnh Tuyên Quang (2000), Lịch sử Đảng bộ tỉnh Tuyên Quang (1940 - 1975), Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội. 3. Ban Chấp hành Đảng bộ Tỉnh Tuyên Quang (2014), Địa chí Tuyên Quang, Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội. 4. Ban Chấp hành Đảng bộ tỉnh Tuyên Quang (2015), Báo cáo Chính trị tại Đại hội đại biểu Đảng bộ tỉnh lần thứ XVI. 5. Ban Dân vận Tỉnh ủy Tuyên Quang (2014), Báo cáo công tác lãnh đạo của cấp ủy đối với công tác dân vận ở vùng đồng bào dân tộc thiểu số (từ năm 1986 đến nay). 6. Ban Thường vụ Tỉnh ủy Tuyên Quang (2012), Báo cáo kiểm điểm tự phê bình và phê bình của Ban Thường vụ Tỉnh ủy thực hiện Nghị quyết Hội nghị lần thứ tư Ban Chấp hành Trung ương Đảng khóa XI “Một số vấn đề cấp bách về xây dựng Đảng hiện nay”. 7. Hoàng Chí Bảo (1988), Từ tư duy kinh nghiệm tới tư duy lý luận, Tạp chí lý luận, (6). 8. Lê Đức Bình (2002), Về đánh giá cán bộ lãnh đạo quản lý, Tạp chí Cộng sản, (8). 9. Nguyễn Thị Bình (2008), Sứ mạng giáo dục - đào tạo trước yêu cầu đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa trong bối cảnh hội nhập quốc tế sâu rộng, Tạp chí Cộng sản, (787). 10. Lò Thị Bình (2015), Kinh nghiệm về xây dựng đội ngũ cán bộ cấp xã người dân tộc thiểu số, Tạp chí Thanh niên, (37). 151 11. Trịnh Quang Cảnh (2002), Trí thức người dân tộc thiểu số ở Việt Nam trong công cuộc đổi mới (chủ yếu ở vùng dân tộc thiểu số phía Bắc), LATS Triết học, Hà Nội. 12. Phạm Như Cương (2004), Tiếp tục đổi mới tư duy lý luận - một đòi hỏi bức xúc hiện nay của đất nước và của thời đại, Nxb Hà Nội. 13. Nguyễn Mạnh Cương (2004), Về bản chất của tư duy, Tạp chí Triết học, (1). 14. Tiên Châu (1955), Những bước tiến của đồng bào dân tộc thiểu số, Oxb Sự thật, Hà Nội. 15. Nguyễn Trọng Chuẩn (2004), Nửa thế kỷ nghiên cứu và giảng dạy Triết học ở Việt Nam, Kỷ yếu hội thảo. 16. Phan Hữu Dật (2001), Mấy vấn đề lý luận và thực tiễn cấp bách liên quan đến mối quan hệ dân tộc hiện nay, Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội. 17. Phan Hữu Dật, Triệu Quang Tiến, Vũ Văn Quân (2006), Xây dựng đội ngũ cán bộ dân tộc Việt Nam trong thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa - luận cứ và giải pháp, Nxb Văn hóa thông tin, Hà Nội. 18. Nguyễn Văn Dũng (2001), Phát triển năng lực tư duy lý luận của cán bộ chính trị cấp trung đoàn quân đội nhân dân Việt Nam hiện nay, LATS Triết học, Hà Nội. 19. Nguyễn Văn Dũng (2012), Phát triển năng lực tư duy lý luận của chính ủy trung đoàn trong Quân đội nhân dân Việt Nam hiện nay, Nxb Quân đội Nhân dân, Hà Nội. 20. Nguyễn Bá Dương (1991), Về đặc trưng của tư duy biện chứng duy vật, Tạp chí Triết học, (5). 21. Bế Việt Đẳng (1996), Các dân tộc thiểu số trong sự phát triển kinh tế - xã hội ở miền núi, Nxb Văn hóa dân tộc, Hà Nội. 152 22. Dương Minh Đức (2006), Nâng cao năng lực tư duy lý luận của cán bộ lãnh đạo chủ chốt cấp tỉnh vùng đồng bằng sông Hồng hiện nay, LATS Triết học, Hà Nội. 23. Nguyễn Tĩnh Gia (2002), Bồi dưỡng, nâng cao năng lực tư duy lý luận cho đội ngũ cán bộ lãnh đạo quản lý cấp tỉnh, Tạp chí lý luận chính trị, (2). 24. Nguyễn Ngọc Hà (2011), Đặc điểm tư duy và lối sống của con người Việt Nam hiện nay và những vấn đề đặt ra trước yêu cầu đổi mới và hội nhập quốc tế, Đề tài khoa học cấp Nhà nước. 25. Trương Thị Thu Hà (2010), Vấn đề phát huy nguồn nhân lực trẻ các dân tộc thiểu số ở tỉnh Tuyên Quang hiện nay, Luận văn thạc sỹ Triết học. 26. Phạm Duy Hải (1994), Tìm hiểu một số nét mới của tư duy khoa học hiện đại, LATS Triết học, Hà Nội. 27. Lương Đình Hải (2006), Triết học và năng lực tư duy của con người trong kỷ nguyên toàn cầu, Tạp chí Giáo dục Lý luận chính trị quân sự, (4). 28. Vũ Văn Hiền (2007), Xây dựng đội ngũ cán bộ lãnh đạo, quản lý nhằm đáp ứng yêu cầu của sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước, Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội. 29. Dương Phú Hiệp (2008), Triết học và đổi mới, Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội. 30. Lê Thị Duy Hoa (2002), Thông tin và vấn đề tiếp nhận, xử lý thông tin của tư duy người Việt Nam, LATS Triết học, Hà Nội. 31. Đoàn Thế Hùng (2004), Tìm hiểu sự hình thành tư duy biện chứng mácxít, Luận văn thạc sĩ Triết học, Hà Nội. 32. Đinh Thế Huynh, Phùng Hữu Phú, Lê Hữu Nghĩa, Vũ Văn Hiển, Nguyễn Viết Thông (2015), 30 năm đổi mới và phát triển ở Việt Nam, Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội. 153 33. Bùi Ỉnh (1988), Vấn đề xây dựng thế giới quan duy vật biện chứng đối với cán bộ, đảng viên là người dân tộc thiểu số trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội ở nước ta, LATS Triết học, Hà Nội. 34. Vũ Ngọc Khánh (2006), Truyền thống các dân tộc thiểu số Việt Nam, Nxb Thanh niên, Hà Nội. 35. Phạm Hương Lan (2002), Những giải pháp cho công tác đào tạo nguồn cán bộ dân tộc thiểu số ở miền núi, Tạp chí giáo dục lý luận, (1). 36. V.I.Lênin (1976), Toàn tập, tập 44, Nxb Tiến bộ, Mátxcơva. 37. V.I.Lênin (1980), Toàn tập, tập 18, Nxb Tiến bộ, Mátxcơva. 38. V.I.Lênin (1981), Toàn tập, tập 29, Nxb Tiến bộ, Mátxcơva. 39. V.I.Lênin (1984), Toàn tập, tập 37, Nxb Tiến bộ, Mátxcơva. 40. Nguyễn Văn Linh (1987), Đổi mới tư duy và phong cách tư duy, Nxb Sự thật, Hà Nội. 41. Nguyễn Ngọc Long (1987), Năng lực tư duy lý luận trong quá trình đổi mới tư duy, Tạp chí Cộng sản, (10). 42. K.Marx - F.Engels (1993), Toàn tập, tập 23, Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội. 43. K.Marx - F.Engels (1994), Toàn tập, tập 20, Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội. 44. K.Marx - F.Engels (1994), Toàn tập, tập 12, Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội. 45. Hồ Chí Minh (2002), Toàn tập, tập 2, Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội. 46. Hồ Chí Minh (2009), Toàn tập, tập 5, Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội. 47. Hoàng Đức Nghi (2001), Về công tác dân tộc trong 10 năm đổi mới (1990-2000), Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội. 48. Lê Hữu Nghĩa, Phạm Duy Hải (1998), Tư duy khoa học trong giai đoạn cách mạng khoa học - công nghệ, Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội. 154 49. Trần Nhâm (2004), Tư duy lý luận với sự nghiệp đổi mới, Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội. 50. Lường Thị Pó (2007), Phát huy nguồn nhân lực các dân tộc thiểu số ở Việt Nam trong sự nghiệp đổi mới hiện nay (Qua thực tế tỉnh Điện Biên), Luận văn thạc sỹ Triết học, Hà Nội. 51. Nguyễn Quốc Phẩm, Trình Quốc Tuấn (1999), Mấy vấn đề lý luận và thực tiễn về dân tộc và quan hệ dân tộc ở Việt Nam, Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội. 52. Trần Văn Phòng (2001), Học tập phong cách tư duy Hồ Chí Minh, Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội. 53. Trần Văn Phòng (2014), Tăng cường tổng kết thực tiễn để trau dồi tư duy biện chứng duy vật cho cán bộ, Tạp chí Khoa học Chính trị, (6). 54. Nguyễn Trọng Phúc (2007), Rèn luyện nâng cao đạo đức cách mạng – một nội dung quan trọng trong xây dựng, chỉnh đốn Đảng hiện nay, Tạp chí Cộng sản, (775). 55. Nguyễn Trọng Phúc (2010), Hồ Chí Minh - từ thực tiễn đến tư duy lý luận về chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam, Tạp chí Lịch sử Đảng, (5). 56. Nguyễn Trọng Phúc (2011), Hồ Chí Minh từ hoạt động thực tiễn đến tư duy lý luận, Nxb Chính trị - Hành chính, Hà Nội. 57. Vũ Văn Phúc (2011), Giải pháp quan trọng để rèn luyện đạo đức cách mạng cho đội ngũ cán bộ, đảng viên, Tạp chí Cộng sản, (823). 58. Lê Văn Phụng (2003), Thực trạng tổ chức, bộ máy và đội ngũ cán bộ của hệ thống chính trị cấp huyện, xã các tỉnh miền núi phía Bắc, Giải pháp đổi mới hoạt động của hệ thống chính trị ở các tỉnh miền núi nước ta hiện nay, Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội. 59. Lê Văn Quang (2006), Vai trò của Triết học Mác-Lênin trong đổi mới tư duy lý luận ở Việt Nam hiện nay, Tạp chí Triết học, (8). 155 60. Bùi Thanh Quất (2010), Góp thêm một vài suy nghĩ về lý luận nhận thức biện chứng duy vật, Tạp chí Triết học, (11). 61. Phạm Hồng Quý (2004), Tìm hiểu thêm về khái niệm tư duy, Tạp chí Tâm lý học, (11). 62. Phạm Hồng Quý (2005), Các thành tố trong tư duy giải quyết tình huống quản lý của người cán bộ chủ chốt cấp huyện, LATS Tâm lý học, Hà Nội. 63. Hồ Sỹ Quý (2003), Con người và phát triển con người trong quan niệm của Mác và Ăngghen, Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội. 64. Nguyễn Đức Quyền (2010), Nâng cao năng lực tư duy lý luận cho đội ngũ cán bộ chủ chốt cấp huyện ở tỉnh Lạng Sơn hiện nay, LATS Triết học, Hà Nội. 65. Trần Văn Riễn (2009), Phát triển tư duy biện chứng duy vật của học viên đào tạo sĩ quan khoa học kỹ thuật quân sự hiện nay, LATS Triết học, Hà Nội. 66. Tô Huy Rứa (1999), Xây dựng và thực hiện tốt công tác quy hoạch cán bộ trong thời kỳ mới, Tạp chí Cộng sản, (3). 67. Tô Huy Rứa (2005), Tăng cường sự lãnh đạo của Đảng vì công cuộc đổi mới, NXB Chính trị Quốc gia, Hà Nội. 68. Tô Huy Rứa, Hoàng Chí Bảo, Trần Khắc Việt, Lê Ngọc Tòng (2006), Quá trình đổi mới tư duy lý luận của Đảng từ năm 1986 đến nay, Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội. 69. Nguyễn Dũng Sinh (1996), Công tác lý luận của Đảng cộng sản Việt Nam trong điều kiện Đảng cầm quyền ở nước ta hiện nay, LATSKH Lịch sử, Hà Nội. 70. Nguyễn Thanh Sơn (2010), Quá trình thực hiện quy chế dân chủ ở xã trong vùng đồng bào dân tộc thiểu số Tây Bắc Việt Nam thời kỳ đổi mới, LATS Triết học, Hà Nội. 156 71. Sở Nội vụ Tuyên Quang (2014), Báo cáo Việc thực hiện chính sách, pháp luật trong đào tạo, sử dụng đối với đội ngũ cán bộ, công chức, viên chức người dân tộc thiểu số. 72. Sở Kế hoạch và đầu tư Tuyên Quang (2014), Báo cáo kết quả thực hiện nhiệm vụ phát triển kinh tế - xã hội, quốc phòng - an ninh năm 2014; kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội, quốc phòng - an ninh năm 2015. 73. Lê Doãn Tá, Vũ Trọng Dung (2003), Giáo trình Triết học Mác-Lênin, Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội. 74. Lê Doãn Tá (2004), Một số vấn đề về triết học Mác-Lênin - lý luận và thực tiễn, Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội. 75. Tài liệu học tập lý luận chính trị phổ thông: Dành cho cán bộ, Đảng viên người dân tộc thiểu số (1998), Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội. 76. Nguyễn Đức Tài (2003), Đổi mới tư duy lý luận về Chủ nghĩa xã hội qua thực tiễn Việt Nam, LATS Triết học, Hà Nội. 77. Nguyễn Đức Tài (2005), Đổi mới tư duy lý luận của chúng ta, Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội. 78. Nguyễn Thanh Tân (2005), Lôgic vận động của khái niệm trong tư duy lý luận, LATS Triết học, Hà Nội. 79. Tạ Ngọc Tấn (2005), Phương hướng giải pháp lớn nhằm đẩy mạnh, nâng cao chất lượng công tác nghiên cứu lý luận, đổi mới tư duy lý luận của Đảng trong những năm tới, Nxb Lý luận chính trị, Hà Nội. 80. Trần Hữu Tiến (2003), Triết học Mác-Lênin và khoa học tự nhiên hiện đại, Tạp chí Lý luận chính trị, (2). 81. Đặng Hữu Toàn (2007), Một số vấn đề lý luận - thực tiễn qua tổng kết 20 năm đổi mới trong các văn kiện Đại hội X của Đảng, Tạp chí Triết học, (8). 82. Lô Quốc Toản (2009), Phát triển nguồn cán bộ dân tộc thiểu số ở các tỉnh miền núi phía Bắc nước ta hiện nay, LATS Triết học, Hà Nội. 157 83. Trần Thiên Tú (2006), Vấn đề nâng cao năng lực tư duy lý luận của đội ngũ cán bộ chủ chốt cấp tỉnh ở Bắc Trung Bộ - qua thực tế tỉnh Quảng Trị, Luận văn Thạc sĩ Triết học, Hà Nội. 84. Hoàng Tùng (1987), Đổi mới tư duy lý luận và công tác xây dựng Đảng, Nxb Sự thật, Hà Nội. 85. Đào Duy Tùng (1986), Bàn về đổi mới tư duy, Nxb Sự thật, Hà Nội. 86. Phạm Văn Thạch (1995), Khắc phục bệnh giáo điều ở đội ngũ cán bộ nước ta trong quá trình xây dựng chủ nghĩa xã hội, Luận án PTS Triết học, Học viện Chính trị Quốc gia Hồ Chí Minh, Hà Nội. 87. Trần Thành (2002), Tư duy lý luận của đội ngũ cán bộ lãnh đạo, quản lý cấp tỉnh hiện nay - thực trạng và giải pháp, Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội. 88. Trần Thành (2003), Tư duy lý luận với hoạt động của người cán bộ lãnh đạo, chỉ đạo thực tiễn, Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội. 89. Trần Thành (2004), Một số vấn đề phương pháp luận trong tổng kết thực tiễn, Tạp chí Lý luận chính trị, (2). 90. Trần Thành (2006), Bản lĩnh chính trị với năng lực của cán bộ lãnh đạo quản lý trong hệ thống chính trị ở nước ta hiện nay, NXB Chính trị Quốc gia, Hà Nội. 91. Bế Trường Thành, Phan Hữu Dật, Lê Ngọc Thắng (2002), Vấn đề dân tộc và định hướng xây dựng chính sách dân tộc trong thời kỳ công nghiệp hóa, hiện đại hóa, Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội. 92. Lê Phương Thảo, Nguyễn Cúc, Doãn Hùng (2006), Xây dựng đội ngũ cán bộ dân tộc Việt Nam trong thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa - Luận cứ và giải pháp, Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội. 93. Nguyễn Thế Thắng (1999), Chủ nghĩa Mác-Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh về vấn đề dân tộc, Nxb Lao Động, Hà Nội. 158 94. Lê Ngọc Thắng (2002), Chính sách dân tộc trong chiến lược Đại đoàn kết toàn dân của Đảng ta, Tạp chí Cộng sản, (14). 95. Lê Viết Thắng (2005), Một số vấn đề về dân tộc và phát triển, Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội. 96. Hồ Bá Thâm (1994), Nâng cao năng lực tư duy của đội ngũ cán bộ lãnh đạo chủ chốt cấp xã hiện nay (qua thực tế tỉnh Kiên Giang), LATS Triết học, Hà Nội. 97. Trần Đình Thoả (2002), Một số vấn đề tư duy biện chứng mác xít, Tạp chí Triết học, (2). 98. Hồ Văn Thông (1987), Một số vấn đề tư duy và đổi mới tư duy hiện nay ở nước ta, Tạp chí cộng sản, (10). 99. Nguyễn Thị Bích Thủy (2001), Vai trò của tư duy biện chứng đối với cán bộ lãnh đạo kinh tế trong quá trình đổi mới ở nước ta hiện nay, LATS Triết học, Hà Nội. 100. Nguyễn Thị Phương Thúy (2001), Thực hiện chính sách dân tộc ở Việt Nam trong thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa, LATS Triết học, Hà Nội. 101. Nguyễn Đình Trãi (2001), Nâng cao năng lực tư duy lý luận cho cán bộ giảng dạy lý luận Mác-Lênin ở các trường Chính trị tỉnh, LATS Triết học, Hà Nội. 102. Hoàng Trang, Phạm Ngọc Anh (2004), Tư tưởng nhân văn Hồ Chí Minh với giáo dục đội ngũ cán bộ, đảng viên hiện nay, Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội. 103. Nguyễn Phú Trọng (2005), Đảng Cộng sản Việt Nam trong tiến trình đổi mới đất nước, Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội. 104. Nguyễn Phú Trọng (2005), Đổi mới tư duy lý luận vì sự nghiệp xây dựng chủ nghĩa xã hội, Tạp chí Cộng sản, (3). 159 105. Lê Quang Trung (2008), Phát huy vai trò của đội ngũ cán bộ chủ chốt cấp cơ sở vùng dân tộc thiểu số miền núi phía Bắc nước ta hiện nay, LATS Triết học, Hà Nội. 106. Từ điển Triết học (1986), Nxb Sự thật, Hà Nội. 107. Uỷ ban nhân dân tỉnh Tuyên Quang (2014), Kế hoạch triển khai chương trình hành động thực hiện chiến lược công tác dân tộc đến năm 2020. 108. Uỷ ban nhân dân tỉnh Tuyên Quang (2014), Kế hoạch thực hiện Đề án tăng cường hợp tác quốc tế hỗ trợ phát triển kinh tế - xã hội vùng đồng bào dân tộc thiểu số giai đoạn 2014-2020 trên địa bàn tỉnh Tuyên Quang. 109. Văn kiện Đại hội toàn quốc lần thứ IX (2001), Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội. 110. Văn kiện Đại hội toàn quốc lần thứ X (2006), Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội. 111. Văn kiện Đại hội toàn quốc lần thứ XI (2011), Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội. 112. Văn kiện Hội nghị lần thứ bảy Ban Chấp hành Trung ương Đảng khóa IX (2003), Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội. 113. Vấn đề dân tộc và phát triển miền núi của nhà nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam (1999), Nxb Văn hóa dân tộc, Hà Nội. 114. Vấn đề dân tộc và chính sách dân tộc của Đảng Cộng sản Việt Nam: Chương trình chuyên đề dùng cho cán bộ, Đảng viên ở cơ sở (2001), Nxb Giáo dục, Hà Nội. 115. Vũ Văn Viên (2006), Tư duy lôgic - bộ phận hợp thành của tư duy khoa học, Tạp chí Triết học, (12). 160 116. Vũ Văn Viên (2007), Nâng cao năng lực tư duy khoa học cho đội ngũ cán bộ lãnh đạo - một yếu tố quan trong để nâng cao năng lực lãnh đạo của Đảng, Tạp chí Triết học, (12). 117. Trần Quốc Vượng (1981), Về truyền thống dân tộc, Tạp chí Cộng sản, (2). 118. Ngô Đình Xây (2002), Ăngghen bàn về những điều kiện hình thành tư duy lý luận, Tạp chí Triết học, (1). 119. Nguyễn Bình Yên (1999), Ảnh hưởng tiêu cực của tư tưởng phong kiến trong cán bộ lãnh đạo, quản lý và những hướng khắc phục, LATS Triết học, Hà Nội. 161 Phụ lục 1: Biểu tổng hợp số lượng cán bộ, công chức, viên chức tỉnh Số cán bộ công chức, Tổng số cán bộ, công STT Nội dung viên chức là người dân Tỷ lệ % chức, viên chức tộc thiểu số 1 Cấp tỉnh 6.346 1.876 29,56 2 Cấp huyện 11.523 4.415 38,31 3 Cấp xã 2.893 1.448 50,05 Tổng cộng 20.762 7.739 37,27 Nguồn: Sở Nội vụ 162 Phụ lục 2: Biểu tổng hợp kết quả đánh giá, phân loại cán bộ, công chức, viên chức Trong đó Hoàn thành nhiệm vụ nhưng Năm/ nội Hoàn thành Không STT Tổng số Hoàn thành còn hạn chế về dung xuất sắc hoàn thành tốt nhiệm vụ năng lực (hoàn nhiệm vụ nhiệm vụ thành nhiệm vụ với viên chức) 1 Năm 2010 18,524 4,441 10,497 3,504 82 Cán bộ, - 4,208 1,251 2,404 530 23 công chức Công chức - đơn vị sự 547 375 154 18 nghiệp - Viên chức 13,769 2,815 7,939 2,956 59 2 Năm 2014 19,947 4,989 12,388 2,496 74 Cán bộ, - 4,704 1,054 3,294 331 25 công chức Công chức - đơn vị sự 570 348 194 28 nghiệp - Viên chức 14,673 3,587 8,900 2,137 49 Nguồn: Sở Nội vụ 163 Phụ lục 3: Biểu tổng hợp đảng viên chia theo dân tộc và trong các tôn giáo (Có đến 31/12/2014) TT Tên dân tộc, tôn giáo Tổng số Tỷ lệ (%) I Đảng viên chia theo dân tộc 49.221 100,00 1 Kinh 28.165 57,22 2 Tày 14.383 29,22 3 Thái 9 0,02 4 Hoa 112 0,23 5 Khơme 1 0,002 6 Mường 46 0,09 7 Nùng 605 1,23 8 Mông 359 0,73 9 Dao 3.067 6,23 10 Gia Rai 2 0,004 11 Ê – Đê 2 0,004 12 Ngái 1 0,002 13 Sán Chay 2.001 4,07 14 Sán Dìu 403 0,82 15 H’Rê 1 0,002 16 Giáy 7 0,014 17 La Chí 5 0,010 18 Pà Thẻn 45 0,09 19 Bố Y 1 0,002 20 Pu Péo 4 0,008 21 Dân tộc khác 2 0,004 II Đảng viên theo tôn giáo 571 100,00 Đạo Thiên Chúa 413 72,33 Đạo Tin Lành 74 19,96 Đạo Phật 84 14,71 Ghi chú: Đảng viên trong các tôn giáo, so với tổng số đảng viên, chiếm 1,16% Nguồn: Ban Tổ chức - Tỉnh ủy 164 Phụ lục 4: Biểu thống kê vị trí công tác của cán bộ, công chức, viên chức các đơn vị cấp huyện của tỉnh (Thời điểm 31/12/2013) TT Đơn vị Cấp ủy Công chức Viên chức Đại biểu HĐND UBND(CT, PCT) Lãnh đạo cấp phòng Tổng Dân tộc Tổng Dân tộc Tổng Dân tộc Tổng Dân tộc Tổng Dân tộc Tổng Dân tộc 1 Huyện Lâm Bình 30 12 153 114 519 443 29 24 3 2 57 46 2 Huyện Na Hang 28 21 193 136 803 599 30 5 4 2 58 47 3 Huyện Chiêm Hóa 40 25 248 137 1.675 1.012 40 33 3 1 71 43 4 Huyện Hàm Yên 33 10 229 60 1.478 435 39 22 4 1 60 27 5 Huyện Yên Sơn 41 12 264 50 2.173 693 42 16 4 1 53 14 6 Huyện Sơn Dương 42 4 286 54 2.244 552 44 19 4 1 50 6 8 Thành phố Tuyên 34 5 213 17 1.045 113 30 8 4 1 43 Quang Tổng 248 89 1.586 568 9.937 3.847 254 147 26 12 392 198 Nguồn: Sở Nội vụ 165 Phụ lục 5: Biểu thống kê chất lượng cán bộ DTTS (Thời điểm 31/12/2013) TT Đơn vị Ngạch công chức Trình độ chuyên môn Lý luận chính trị Cán Chuyên Chuyên Chuyên viên Tiến Thạc Đại Cao Trung Sơ Cử Cao Trung Chưa sự viên viên cao cấp sĩ sĩ học đẳng cấp cấp nhân cấp cấp đào tạo chính 1 Huyện Lâm Bình 23 8 3 11 1 22 4 30 2 Huyện Na Hang 25 6 6 1 11 25 6 31 3 Huyện Chiêm Hóa 37 25 1 1 27 37 4 57 3 4 Huyện Hàm Yên 19 7 3 10 19 4 25 5 Huyện Yên Sơn 26 14 1 15 1 25 41 6 Huyện Sơn Dương 35 10 2 12 35 3 42 2 8 Thành phố Tuyên 1 1 1 2 1 1 2 Quang Tổng 143 63 14 1 1 77 1 142 59 147 5 Nguồn: Sở nội vụ 166 Phụ lục 6: Biểu thống kê thực trạng đội ngũ cán bộ, công chức, viên chức DTTS (Thời điểm 31/12/2013) TT Tên cơ quan, đơn vị, Tổng số cán bộ, công Số cán bộ, công chức, viên chức là người DTTS tổ chức chức, viên chức Tổng Số cán bộ, công chức, viên chức đạt Số cán bộ, công chức, viên chức đạt cộng chuẩn theo ngạch, vị trí việc làm chưa chuẩn theo ngạch, vị trí việc làm cần đào tạo, bồi dưỡng 1 Huyện Lâm Bình 48 38 38 2 Huyện Na Hang 58 46 46 3 Huyện Chiêm Hóa 66 48 47 1 4 Huyện Hàm Yên 55 18 18 5 Huyện Yên Sơn 61 16 16 6 Huyện Sơn Dương 65 17 17 7 Thành phố Tuyên Quang 54 3 3 Nguồn: Sở Nội vụ 167 Phụ lục 7: Biểu thống kê cán bộ lãnh đạo, đảng viên là DTTS (Thời điểm 31/12/2013) Khối Đảng Chính quyền Đoàn thể Đảng viên Tổng số Tên cơ quan, cán bộ, TT đon vị, tổ Cấp Trưởng Trưởng Trưởng Trưởng Trưởng lãnh đạo Cấp Tổng Dân tộc chức Trưởng, phó phó phó phó phó DTTS ủy/nữ số thiểu số phó ban/nữ phòng/nữ ngành/nữ phòng/nữ ngành/nữ phòng/nữ 1 Cấp tỉnh 187 20/6 11/2 10/5 21/5 112/37 7/4 6/2 3.645 611 2 Cấp huyện 279 69/21 63/20 87/18 60/22/ 6.710 2.700 3 Cấp xã 738 163/10 140/7 435/123 1.431 790 Nguồn: Ban Tổ chức Tỉnh ủy

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • pdfluan_an_nang_cao_nang_luc_tu_duy_ly_luan_cua_doi_ngu_can_bo.pdf
Tài liệu liên quan