Luận án Một số nhân tố chủ yếu chi phối quan hệ quốc phòng Việt Nam – Hoa Kỳ

BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO BỘ NGOẠI GIAO HỌC VIỆN NGOẠI GIAO ----------------- Lại Thái Bình MỘT SỐ NHÂN TỐ CHỦ YẾU CHI PHỐI QUAN HỆ QUỐC PHÒNG VIỆT NAM – HOA KỲ LUẬN ÁN TIẾN SỸ CHUYÊN NGÀNH QUAN HỆ QUỐC TẾ MÃ SỐ: 62.31.02.06 Hà Nội - 2015 BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO BỘ NGOẠI GIAO HỌC VIỆN NGOẠI GIAO ----------------- Lại Thái Bình MỘT SỐ NHÂN TỐ CHỦ YẾU CHI PHỐI QUAN HỆ QUỐC PHÒNG VIỆT NAM – HOA KỲ Chuyên ngành: Quan hệ Quốc tế Mã số: 62.31.02.06 LUẬN ÁN TIẾN SỸ NGÀNH Q

pdf151 trang | Chia sẻ: huong20 | Ngày: 15/01/2022 | Lượt xem: 362 | Lượt tải: 0download
Tóm tắt tài liệu Luận án Một số nhân tố chủ yếu chi phối quan hệ quốc phòng Việt Nam – Hoa Kỳ, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
QUAN HỆ QUỐC TẾ NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC 1. PGS. TS. Nguyễn Phú Lợi 2. PGS. TS. Tạ Minh Tuấn Hà Nội - 2015 3 LỜI CAM ĐOAN Tôi xin cam đoan Luận án là công trình nghiên cứu của riêng tôi. Các số liệu đã nêu trong Luận án có nguồn gốc rõ ràng, kết quả của Luận án là trung thực và chưa được công bố trong bất kỳ công trình nào khác. Người hướng dẫn 1 PGS. TS. Nguyễn Phú Lợi Người hướng dẫn 2 PGS. TS. Tạ Minh Tuấn Tác giả Lại Thái Bình 4 LỜI CẢM ƠN Tôi xin bày tỏ lòng biết ơn sâu sắc đến PGS. TS. Nguyễn Phú Lợi và PGS. TS. Tạ Minh Tuấn về những lời hướng dẫn và động viên chân thành cũng như những công sức quý báu để giúp tôi hoàn thành Luận án này. Tôi cũng xin cảm ơn sự hỗ trợ của hoa ào tạo sau ại học, Học viện Ngoại giao trong thời gian thực hiện Luận án. Tôi xin chân thành cảm ơn những ý kiến đóng góp quý báu và có giá trị của các nhà khoa học, giảng viên, các nhà nghiên cứu trong và ngoài nước trong quá trình trao đổi, hoàn thiện, đánh giá Luận án trong suốt mấy năm qua. Tôi cũng xin chân thành cảm ơn sự hỗ trợ về nhiều mặt của Lãnh đạo và các đồng nghiệp tại Vụ Châu Mỹ, Bộ Ngoại giao và các đơn vị khác cũng như từ phía bạn bè và gia đình – những người đã luôn ủng hộ, tạo điều kiện và cùng chia sẻ những khó khăn trong thời gian tôi thực hiện Luận án. Người hướng dẫn 1 PGS. TS. Nguyễn Phú Lợi Người hướng dẫn 2 PGS. TS. Tạ Minh Tuấn Tác giả Lại Thái Bình 5 DANH MỤC CHỮ VIẾT TẮT Chữ viết tắt Tiếng Anh Tiếng Việt ACM Alliance Coordination Mechanism Cơ chế phối hợp liên minh ADMM + ASEAN Defence Minister's Meeting Plus Hội nghị Bộ trưởng Quốc phòng các nước ASEAN mở rộng AIIB Asian Infrastructure Investment Bank Ngân hàng đầu tư cơ sở hạ tầng Châu Á APEC Asia-Pacific Economic Cooperation Diễn đàn hợp tác kinh tế Châu Á – Thái Bình Dương ARF ASEAN Regional Forum Diễn đàn khu vực ông Nam Á ASEAN Association of Southeast Asian Nations Hiệp hội các quốc gia ông Nam Á ASEAN + 1 Association of Southeast Asian Nations Plus One ASEAN và một đối tác ASEAN + 3 Association of Southeast Asian Nations Plus Three ASEAN và Nhật Bản, Hàn Quốc, Trung Quốc. BRICS Brazil, Russia, India, China and South Africa Brazil, Nga, Ấn ộ, Trung Quốc và Nam Phi CARAT Cooperation Afloat Readiness and Training Tập trận duy trì sẵn sàng chiến đấu của hải quân CPC Country of Particular Concern Các nước cần đặc biệt quan tâm (về tự do tôn giáo) CSIS Center for Strategic and International Studies Trung tâm nghiên cứu quốc tế và chiến lược EAC East Asian Community Cộng đồng ông Á EAS East Asia Summit Hội nghị cấp cao ông Á EEC European Economic Community Khối thị trường chung Châu Âu EU European Union Liên minh Châu Âu FDI Foreign Direct Investment ầu tư trực tiếp nước ngoài G7 Group of Seven Canađa, Pháp, ức, Ý, Nhật, Anh, Mỹ GDP Gross Domestic Product Tổng sản phẩm quốc nội HADR Humanitarian Assistance and Disaster Relief Hỗ trợ nhân đạo và cứu trợ thảm họa 6 IMET International Military Education and Training Chương trình giáo dục và huấn luyện quân sự quốc tế IMF International Monetary Fund Quỹ Tiền tệ Quốc tế IS Islamic State Nhà nước Hồi giáo LCS Littoral Combat Ship Tàu chiến gần bờ MOU Memorandum of Understanding Bản ghi nhớ NATO North Atlantic Treaty Organization Khối quân sự Bắc ại Tây Dương PKO Peacekeeping Operations Hoạt động gìn giữ hòa bình POW/MIA Prisoners of War/Missing in Action Tù binh chiến tranh/Người mất tích PSI Proliferation Security Initiative Sáng kiến an ninh chống phổ biến (vũ khí hạt nhân) RCEP Regional Comprehensive Economic Partnership (Hiệp định) ối tác kinh tế toàn diện khu vực SEACAT Southeast Asia Cooperation and Training (Tập trận) Hợp tác và huấn luyện ông Nam Á SEATO Southeast Asia Treaty Organization Tổ chức Hiệp ước ông Nam Á START Strategic Arms Reduction Treaty Hiệp ước cắt giảm vũ khí chiến lược TMD Theater Missile Defense (Hệ thống) Phòng thủ tên lửa tầm trung TPP Trans-Pacific Partnership (Hiệp định) ối tác xuyên Thái Bình Dương USTR United States Trade Representative ại diện Thương mại Hoa Kỳ WB World Bank Ngân hàng Thế giới WTO World Trade Organization Tổ chức Thương mại Thế giới 7 MỤC LỤC MỞ ẦU .......................................................................................................................... 8 CHƯƠNG 1. MỘT SỐ QUAN IỂM NGHIÊN CỨU CÁC NHÂN TỐ CHI PHỐI QUAN HỆ QUỐC TẾ VỀ QUỐC PHÒNG .................................................................. 17 1.1. Một số quan điểm về quan hệ quốc phòng trong quan hệ quốc tế ...................... 17 1.1.1. Chủ nghĩa hiện thực về hợp tác quốc tế và quốc phòng .............................. 17 1.1.2. Quan điểm của Việt Nam trong quan hệ quốc tế về quốc phòng ................ 27 1.1.3. Quan điểm của Hoa Kỳ trong quan hệ quốc tế về quốc phòng .................... 36 1.2. Một số vấn đề rút ra ............................................................................................ 43 1.2.1. Thực chất các nhân tố chi phối quan hệ quốc phòng ................................... 43 1.2.2. Khác biệt về tư duy chiến lược của Việt Nam và Hoa Kỳ ........................... 45 CHƯƠNG 2. MỘT SỐ NHÂN TỐ CHỦ YẾU CHI PHỐI QUAN HỆ QUỐC PHÒNG VIỆT NAM – HOA KỲ GIAI OẠN 1995 – 2015 ...................................................... 50 2.1. Quan hệ quốc tế, môi trường an ninh khu vực sau Chiến tranh lạnh .................. 50 2.1.1. Quan hệ quốc tế sau Chiến tranh lạnh ......................................................... 50 2.1.2. Môi trường an ninh khu vực sau Chiến tranh lạnh ...................................... 52 2.2. Quan hệ Việt Nam – Hoa Kỳ giai đoạn 1995 - 2015 .......................................... 55 2.2.1. Khuôn khổ quan hệ được củng cố vững chắc .............................................. 55 2.2.2. Sự đan xen lợi ích ngày càng gia tăng ......................................................... 57 2.2.3. Mở rộng hợp tác từ song phương ra khu vực và quốc tế ............................. 59 2.3. iều chỉnh chính sách quốc phòng của Việt Nam và Hoa Kỳ ............................ 60 2.3.1. iều chỉnh chính sách quốc phòng của Việt Nam ....................................... 60 2.3.2. iều chỉnh chính sách quốc phòng của Hoa Kỳ .......................................... 68 2.3.3. Tác động đến quan hệ quốc phòng Việt Nam – Hoa Kỳ giai đoạn 1995 - 2015 ........................................................................................................................ 85 CHƯƠNG 3. DỰ BÁO MỘT SỐ NHÂN TỐ CHỦ YẾU CHI PHỐI QUAN HỆ QUỐC PHÒNG VIỆT NAM – HOA KỲ GIAI OẠN 2016 – 2020 ........................... 94 3.1. An ninh quốc tế, khu vực và xu hướng hợp tác quốc phòng giữa các nước trong tình hình mới .............................................................................................................. 94 3.1.1. An ninh quốc tế giai đoạn 2016 - 2020 ........................................................ 94 3.1.2. An ninh Châu Á – Thái Bình Dương giai đoạn 2016 - 2020 ....................... 99 3.2. Quan hệ Việt Nam – Hoa Kỳ đến năm 2020 .................................................... 110 3.2.1. Những thuận lợi chủ yếu ............................................................................ 110 3.2.2. Một số thách thức ....................................................................................... 112 3.3. iều chỉnh chính sách quốc phòng của Việt Nam và Hoa Kỳ .......................... 114 3.2.1. iều chỉnh chính sách quốc phòng của Việt Nam ..................................... 114 3.2.2. iều chỉnh chính sách quốc phòng của Hoa Kỳ ........................................ 120 3.2.3. Tác động đến quan hệ quốc phòng Việt Nam – Hoa Kỳ giai đoạn 2016 - 2020 ...................................................................................................................... 128 KẾT LUẬN VÀ KIẾN NGHỊ ..................................................................................... 139 DANH MỤC CÁC CÔNG TRÌNH NGHIÊN CỨU Ã CÔNG BỐ ......................... 145 DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO ..................................................................... 146 8 MỞ ĐẦU 1. Lý do chọn đề tài Nghiên cứu quan hệ quốc phòng Việt Nam – Hoa Kỳ là rất cần thiết trong tiến trình nghiên cứu quan hệ quốc tế và kiến nghị chính sách đối ngoại của Việt Nam. Quan hệ quốc phòng Việt Nam – Hoa Kỳ là một trong những bộ phận quan trọng của quan hệ giữa hai nước, đồng thời có mối quan hệ biện chứng với tổng thể quan hệ đối ngoại của Việt Nam (nhất là với các nước lớn và Châu Á – Thái Bình Dương), cũng như có ảnh hưởng nhất định tới tình hình chính trị - xã hội trong nước. ể có thể hiểu được mối quan hệ khá phức tạp này, cần xem xét nó từ nhiều góc độ và trong mối quan hệ với các vấn đề khác có liên quan, trong đó có việc nghiên cứu các nhân tố chủ yếu chi phối mối quan hệ này trong những giai đoạn nhất định. Trong bối cảnh Hoa Kỳ tiếp tục triển khai chính sách “tái cân bằng” và Việt Nam đẩy mạnh hội nhập quốc tế một cách toàn diện, hợp tác quốc phòng Việt Nam – Hoa Kỳ đang có sự thay đổi cả về lượng và chất, có liên quan đến những vấn đề nóng như Biển ông, các nước khu vực tăng cường hợp tác và gia tăng sức mạnh quốc phòng, ứng phó với các thách thức an ninh phi truyền thống Mặt khác, hai bên cũng tiếp tục gặp phải những khó khăn nhất định trong việc thúc đẩy mối quan hệ này do chênh lệch về trình độ phát triển, tính chất nhạy cảm của quan hệ quốc phòng, sự khác biệt về lợi ích của các bên Việc nghiên cứu sâu các nhân tố chủ yếu đã và sẽ chi phối quan hệ quốc phòng Việt Nam – Hoa Kỳ có thể giúp tìm hiểu kỹ hơn các động lực cơ bản, lâu dài và tìm kiếm cơ hội để thúc đẩy một cách hợp lý hơn nữa quan hệ quốc phòng giữa hai nước, đóng góp tích cực cho việc bảo vệ chủ quyền, ổn định khu vực cũng như các lợi ích chính đáng khác của khu vực và Việt Nam. 9 2. Lịch sử nghiên cứu vấn đề Trong bối cảnh quan hệ quốc tế đang có những biến chuyển nhanh chóng và phức tạp, tập hợp lực lượng ở ông Nam Á đang diễn ra sôi động và Việt Nam đang chủ động, tích cực hội nhập quốc tế, ngày càng có nhiều công trình nghiên cứu về quan hệ Việt Nam – Hoa Kỳ nói chung và quan hệ quốc phòng song phương nói riêng. Tuy nhiên, cho đến nay chưa có nhiều ấn phẩm nghiên cứu chuyên biệt về quan hệ quốc phòng Việt Nam – Hoa Kỳ và những nghiên cứu về mối quan hệ này chủ yếu tồn tại trong các nghiên cứu tổng thể về quan hệ giữa hai nước. Nội dung cơ bản của một số nghiên cứu tiêu biểu trong và ngoài nước bao gồm: - Tác phẩm "Quan hệ quốc tế: Các phương pháp tiếp cận hiện đại” [33] đã đề cập một cách tương đối tổng quát về phương pháp nghiên cứu quan hệ quốc tế, nguồn gốc và bản chất của quan hệ quốc tế, cơ sở lý luận của quan hệ quốc tế, đối tượng và nội dung nghiên cứu của khoa học quan hệ quốc tế cũng như phương pháp luận và lý luận phương Tây về quan hệ quốc tế. Tác phẩm này có thể được sử dụng để làm cơ sở lý luận cũng như cung cấp phương pháp luận cho việc nghiên cứu quan hệ quốc tế nói chung cũng như quan hệ quốc phòng nói riêng, bao gồm cả quan hệ quốc phòng Việt Nam – Hoa Kỳ. - Tác phẩm "Lý luận quan hệ quốc tế” [38] đã đưa ra một cách tương đối cơ bản và hệ thống các quan điểm, phương pháp luận mà học giả Phương Tây sử dụng để xem xét, đánh giá và xử lý các vấn đề quan hệ quốc tế. Việc sử dụng những nội dung của cuốn sách này tạo thêm nền tảng để hiểu nguyên nhân hợp tác/đấu tranh của các quốc gia, tạo cơ sở cho việc phân tích quan hệ quốc phòng Việt Nam – Hoa Kỳ. 10 - Tác phẩm "Một số vấn đề về công tác đối ngoại quốc phòng Việt Nam” [20] cho rằng tư duy đối ngoại quốc phòng trong tình hình mới cần được đặt trên cơ sở thấu hiểu bối cảnh mới của quan hệ quốc tế và khu vực cũng như của các đối tác, đòi hỏi mới của tiến trình xây dựng và bảo vệ đất nước, hình thành nên các mối quan hệ quốc phòng theo các lộ trình khác nhau để nhằm mục tiêu xây dựng môi trường hòa bình, ổn định, phục vụ tích cực cho tiến trình phát triển phù hợp với lộ trình của các hoạt động đối ngoại của Nhà nước. - Tác phẩm "Quan hệ quốc phòng giữa Hoa Kỳ và Việt Nam” [78] mô tả khá chi tiết tiến trình bình thường hóa quan hệ song phương nói chung cũng như quan hệ quốc phòng nói riêng giữa hai nước, tập trung nhiều vào giai đoạn những năm 1990 cũng như đi sâu phân tích nhiều mối quan hệ chủ yếu giữa hai nước và trong lĩnh vực quốc phòng trong giai đoạn này. áng chú ý, tác giả nêu lên những nguyên tắc cơ bản mà Bộ Quốc phòng Hoa Kỳ đặt ra liên quan đến việc thúc đẩy quan hệ quốc phòng với Việt Nam trong giai đoạn đầu sau khi bình thường hóa quan hệ song phương. - Tác phẩm “Về chiến lược an ninh của Mỹ hiện nay” [25] nêu lên những thay đổi trong cục diện an ninh khu vực Châu Á – Thái Bình Dương cũng như việc điều chỉnh chính sách an ninh của Hoa Kỳ đối với khu vực trước và sau giai đoạn 11/9/2001. - Tác phẩm "Các đối thủ: Cuộc chiến quyền lực giữa Trung Quốc, Ấn Độ và Nhật Bản sẽ định hình thế kỷ tiếp theo như thế nào" [67] phân tích sự trỗi dậy của Trung Quốc cũng như những tiến triển gần đây của Ấn ộ và Nhật Bản và mối quan hệ giữa các quốc gia này với nhau cũng như với cục diện Châu Á (các quốc gia khu vực đang có xu hướng tăng cường vị thế của bản thân đi đối với việc tối đa hóa các thế mạnh dài hạn của họ, tạo 11 thuận lợi cho việc tăng cường quan hệ với các cường quốc bên ngoài khu vực, trong đó có cả quan hệ quốc phòng). - Tác phẩm "Quan hệ quốc tế tại Đông Nam Á: Cuộc chiến cho quyền tự trị" [85] phân tích tổng quan về khu vực, các mối quan hệ cơ bản trong và ngoài khu vực cũng như những vấn đề an ninh truyền thống và phi truyền thống tại khu vực ông Nam Á. Trong đó, Hoa ỳ được xem là một trong những nhân tố quan trọng nhất trong việc đóng góp vào sự ổn định trong trật tự khu vực, tạo ra sự cân bằng cần thiết trong khu vực. - Tác phẩm "Xây dựng một cộng đồng an ninh ở Đông Nam Á" [40] bàn luận về khuôn khổ lý thuyết cho việc xây dựng cộng đồng an ninh khu vực, vai trò của ASEAN và các nước ông Nam Á cũng như việc giải quyết và giới hạn của ASEAN trong việc giải quyết một số xung đột khu vực và liên quan đến bên ngoài, bao gồm vấn đề xung đột tại Cămpuchia, can dự tích cực với Myanmar, tranh chấp tại Biển ông... - Tác phẩm nghiên cứu của Quốc hội Hoa Kỳ "Quan hệ quốc phòng và chiến lược của Hoa Kỳ tại Châu Á – Thái Bình Dương" [84] đánh giá những thách thức đối với an ninh khu vực Châu Á – Thái Bình Dương và các mối quan hệ quốc phòng và chiến lược của Hoa Kỳ với khu vực bao gồm các đối tác truyền thống và đối tác mới. - Tác phẩm "Quan hệ đối tác chiến lược trong quan hệ quốc tế: Từ lý thuyết đến thực tiễn" [37] và "Khuôn khổ quan hệ đối tác của Việt Nam" [36] nêu lên các lý thuyết bàn về hợp tác nói chung cũng như mô hình đối tác chiến lược nói riêng; đề cập đến quan hệ đối tác chiến lược giữa các nước lớn (như quan hệ Hoa Kỳ - Nhật Bản), giữa các nước lớn và nước nhỏ (như quan hệ Hoa Kỳ - Pakistan), và giữa các nước nhỏ (như quan hệ Israel – Thổ Nhĩ ỳ). 12 - Tác phẩm "Cách mạng trong quân sự và những vấn đề đặt ra đối với quốc phòng Việt Nam" [11] nêu lên những lý luận về cách mạng trong quân sự, những nội dung cơ bản của cuộc cách mạng trong lĩnh vực quân sự đang diễn ra trên thế giới hiện nay, những yêu cầu và vấn đề đang đặt ra đối với nền quốc phòng Việt Nam. Các tác phẩm tiêu biểu trên cho thấy các công trình nghiên cứu của nước ngoài chủ yếu đề cập môi trường chiến lược đang thay đổi, các mục tiêu và chính sách mang tính chiến lược của Hoa Kỳ trong quan hệ với các khu vực và các nước; trong đó có đề cập đến Việt Nam với tư cách chủ yếu là một mắt xích trong bức tranh tổng thể về các mối quan hệ chiến lược và quốc phòng của Hoa Kỳ với khu vực. Các tác giả chủ yếu chỉ quan tâm nghiên cứu quan điểm của nước lớn và ít đề cập đến những chính sách mà Việt Nam cần theo đuổi trong mối quan hệ quốc phòng với Hoa Kỳ, đặc biệt là liên quan quan hệ với Trung Quốc. Trong khi đó, các công trình nghiên cứu của Việt Nam chủ yếu đề cập nền tảng tổng thể (tương đối cơ bản) của quan hệ quốc phòng Việt Nam – Hoa Kỳ (bối cảnh quốc tế và khu vực, quan hệ chung giữa hai nước), một số diễn biến cụ thể trong mối quan hệ này cũng như đưa ra một số kiến nghị để thúc đẩy quan hệ chung với Hoa Kỳ. ến nay, chưa có nhiều nghiên cứu tìm hiểu sâu các nhân tố bên trong mối quan hệ đó cũng như tác động của nó đến tổng thể quan hệ Việt Nam – Hoa Kỳ và quan hệ đối ngoại của Việt Nam. Các nghiên cứu trên cũng cho thấy những tồn tại chủ yếu sau: Về mặt lý luận, qua khảo sát các nguồn tài liệu, chưa thấy có một hệ thống lý thuyết/lý luận toàn diện để giải thích về quan hệ hợp tác quốc phòng nói chung cũng như về quan hệ quốc phòng Việt Nam – Hoa Kỳ nói riêng. Về mặt nội dung cụ thể, thấy rằng (i) Chưa có sự hệ thống hoá quan hệ quốc phòng Việt Nam – Hoa Kỳ từ trước đến nay một cách tổng thể từ cả hai 13 phía; (ii) Chưa có tài liệu chuyên sâu đánh giá cơ sở của quan hệ quốc phòng Việt Nam – Hoa Kỳ trong lịch sử cũng như trong thời gian tới; (iii) Chưa có kiến nghị chính sách mang tính toàn diện liên quan việc thúc đẩy quan hệ quốc phòng Việt Nam – Hoa Kỳ. Những tồn tại này cho thấy việc chọn đề tài nghiên cứu là cần thiết để hiểu rõ quan hệ quốc phòng Việt Nam – Hoa Kỳ một cách có hệ thống dựa trên cơ sở lý luận và thực tiễn, qua đó góp phần phục vụ tích cực cho thúc đẩy hợp tác quốc phòng giữa hai nước và các nhu cầu nghiên cứu, giảng dậy về chủ đề này. 3. Mục tiêu và nhiệm vụ nghiên cứu Mục tiêu nghiên cứu chính của Luận án là dự báo được chính xác những nhân tố chủ yếu chi phối quan hệ quốc phòng Việt Nam – Hoa Kỳ trong giai đoạn 2016 - 2020. Với mục tiêu như vậy, Luận án thực hiện các nhiệm vụ sau: (i) Làm rõ cơ sở lý luận về các nhân tố phổ biến chi phối quan hệ quốc tế về quốc phòng để định hướng cho việc nghiên cứu các nhân tố này trong quan hệ quốc phòng Việt Nam – Hoa Kỳ; (ii) Khảo sát thực tiễn quan hệ quốc phòng Việt Nam – Hoa Kỳ kể từ khi thiết lập quan hệ ngoại giao để tìm ra các nhân tố chi phối trong giai đoạn này; (iii) Dự báo các nhân tố chủ yếu chi phối quan hệ quốc phòng Việt Nam – Hoa Kỳ trong giai đoạn 2016 – 2020 và đưa ra một số kiến nghị liên quan. 4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu ể đạt mục tiêu nghiên cứu trên, Luận án đi sâu nghiên cứu các nhân tố: (i) Sự thay đổi về môi trường chiến lược của quốc tế và khu vực; (ii) Sự thay đổi của quan hệ Việt Nam – Hoa Kỳ; (iii) Điều chỉnh chính sách của 14 hai nước trong lĩnh vực quốc phòng và sự trùng hợp, khác biệt về chính sách quốc phòng của hai nước. Về phạm vi, Luận án dựa trên một số lý luận chung về hợp tác quốc phòng và thực tiễn quan hệ quốc phòng Việt Nam – Hoa Kỳ kể từ khi hai nước thiết lập quan hệ ngoại giao năm 1995 cho đến 2015 (chuẩn bị kết thúc Chính quyền Tổng thống Obama, đánh dấu giai đoạn đầu chính sách "tái cân bằng") để nghiên cứu các nhân tố chủ yếu chi phối quan hệ quốc phòng Việt Nam – Hoa Kỳ giai đoạn 2016 – 2020 (khi Hoa Kỳ tiếp tục điều chỉnh chính sách trong quan hệ với khu vực và Việt Nam đẩy mạnh hội nhập quốc tế khi an ninh khu vực dự kiến có nhiều diễn biến phức tạp). 5. Phương pháp nghiên cứu Trên cơ sở phương pháp luận khoa học của Chủ nghĩa Mác Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh và quan điểm của ảng Cộng sản Việt Nam được vận dụng trong nghiên cứu, Luận án chủ yếu sử dụng phương pháp lịch sử, lô- gích, phân tích – tổng hợp và đặc biệt coi trọng phương pháp chuyên gia. Luận án dựa trên giả thuyết nghiên cứu chính cho rằng sự phát triển của quan hệ quốc phòng Việt Nam – Hoa Kỳ chịu sự chi phối ngày càng nhiều của các lợi ích ứng phó với thách thức an ninh – quốc phòng chung của Châu Á – Thái Bình Dương. 6. Nguồn tài liệu Nguồn tài liệu chính được dựa trên các tác phẩm tiêu biểu về quan hệ Việt Nam – Hoa Kỳ trong thời gian qua (tiếng Việt và tiếng Anh), các nguồn tài liệu chính thức của Chính phủ Việt Nam và Chính phủ Hoa Kỳ, trao đổi với các chuyên gia về quan hệ quốc phòng của cả 2 nước trong giai đoạn 2010 – 2015. 15 7. Những đóng góp của Luận án Luận án có thể được xem là công trình nghiên cứu mang tính hệ thống đầu tiên về những nhân tố chủ yếu chi phối quan hệ quốc phòng Việt Nam – Hoa Kỳ, bổ sung và kết nối các công trình khoa học liên quan đến mối quan hệ này tại Việt Nam và trên thế giới. Luận án đã: (i) Xem xét những lý luận phổ biến về quan hệ quốc phòng qua khảo sát Chủ nghĩa hiện thực, quan điểm của Việt Nam và Hoa Kỳ trong lĩnh vực này và cho rằng những nhân tố chính chi phối hợp tác quốc phòng Việt Nam – Hoa Kỳ có thể bao gồm sự thay đổi của môi trường quốc tế, khu vực, quan hệ giữa hai nước và những điều chỉnh chính sách quốc phòng của mỗi bên; (ii) Khảo sát thực tiễn quan hệ quốc phòng Việt Nam – Hoa Kỳ trong giai đoạn 1995 – 2015 và thấy rằng do tình hình khu vực, quan hệ song phương và hướng điều chỉnh chính sách quốc phòng thận trọng của mỗi bên, mối quan hệ này có tiến triển vừa mức và tạo nền tảng quan trọng cho giai đoạn sau, song chưa phù hợp với khuôn khổ Quan hệ Toàn diện giữa hai nước; (iii) Dựa trên một số dự báo phổ biến trong và ngoài nước về triển vọng quan hệ quốc tế, cho rằng 2016 – 2020 là giai đoạn có nhiều điểm thuận để hai nước tăng cường hợp tác quốc phòng, đặc biệt là do nhu cầu của mỗi bên trong việc hợp tác ứng phó với các thách thức an ninh chung tại khu vực; đồng thời, đưa ra một số kiến nghị để tiếp tục thúc đẩy hợp tác quốc phòng Việt Nam – Hoa Kỳ trong thời gian tới. Luận án có thể được sử dụng để làm luận cứ khoa học trong hoạch định chính sách đối ngoại, đặc biệt là trong lĩnh vực quan hệ quốc phòng Việt Nam – Hoa Kỳ. ồng thời, Luận án có thể được sử dụng làm tài liệu nghiên cứu và giảng dậy trong lĩnh vực quan hệ quốc tế về quốc phòng và trong nghiên cứu quan hệ Việt Nam – Hoa Kỳ. 16 8. Bố cục của Luận án Bố cục của Luận án gồm: Mở đầu, 3 chương chính (Một số quan điểm nghiên cứu các nhân tố chi phối quan hệ quốc tế về quốc phòng; Một số nhân tố chủ yếu chi phối quan hệ quốc phòng Việt Nam – Hoa Kỳ giai đoạn 1995 – 2015; Dự báo một số nhân tố chủ yếu chi phối quan hệ quốc phòng Việt Nam – Hoa Kỳ giai đoạn 2016 – 2020), Kết luận và kiến nghị, Danh mục các công trình khoa học đã được công bố của tác giả và Danh mục tài liệu tham khảo. 17 CHƯƠNG 1. MỘT SỐ QUAN ĐIỂM NGHIÊN CỨU CÁC NHÂN TỐ CHI PHỐI QUAN HỆ QUỐC TẾ VỀ QUỐC PHÒNG Như đề cập trong phần Mở đầu, đã có nhiều nghiên cứu về quan hệ quốc tế về quốc phòng (bao gồm quan hệ quốc phòng Việt Nam – Hoa Kỳ); song đến nay chưa có tổ chức, cá nhân nào đưa ra được lý thuyết tương đối toàn diện để giải thích cho các nhân tố chi phối quan hệ hợp tác quốc tế về quốc phòng. ể có cơ sở tìm hiểu những nhân tố chủ yếu chi phối quan hệ quốc phòng Việt Nam – Hoa Kỳ giai đoạn 2016 - 2020, Luận án xem xét những lý luận phổ biến liên quan quan hệ quốc tế về quốc phòng và thực tiễn đã diễn ra trong giai đoạn 1995 – 2015 trong quan hệ Việt Nam – Hoa Kỳ. Trong Chương 1, tác giả xem xét 3 quan điểm chính liên quan quan hệ quốc tế về quốc phòng là Thuyết Hiện thực, quan điểm của Việt Nam và quan điểm của Hoa Kỳ về vấn đề này. 1.1. Một số quan điểm về quan hệ quốc phòng trong quan hệ quốc tế 1.1.1. Chủ nghĩa hiện thực về hợp tác quốc tế và quốc phòng Chủ nghĩa hiện thực là một lý luận có ảnh hưởng mạnh mẽ về cách hiểu quan hệ quốc tế cũng như hành vi của các quốc gia. Xem xét những nội dung cơ bản của Chủ nghĩa hiện thực phần nào giúp hiểu hơn về các động lực của các quốc gia trong hợp tác quốc phòng. Những nội dung quan trọng của Chủ nghĩa hiện thực về hợp tác quốc tế và quốc phòng là: Quan hệ quốc tế và quan hệ quốc tế về quốc phòng bắt nguồn và xuyên suốt vì lợi ích quốc gia, dân tộc. Theo thuyết Hiện thực (đặc biệt là theo các nhà lý luận kinh điển của thuyết này như Thucydides1, Niccolo Machiavelli2, Thomas Hobbes3, 1 Thucydides (471 – 400 TCN), một vị tướng của Athens, tác phẩm tiêu biểu “Cuộc chiến tranh Pelopones” tường thuật về 21 trong 28 năm của cuộc chiến tranh giữa Athens và Sparta (và đồng minh của họ) trong thế kỷ 5 TCN. 18 Hugo Grotius 4 , Carl von Clausewitz 5 , Edward Hallet Carr 6 , Hans J. Morgenthau 7), các quốc gia là chủ thể quan trọng nhất trong quan hệ quốc tế và việc nghiên cứu quan hệ quốc tế cần tập trung vào việc nghiên cứu các quốc gia và mối quan hệ qua lại giữa chúng. Các chủ thể phi quốc gia như các công ty đa quốc gia và các tổ chức quốc tế không có vai trò quan trọng như các quốc gia, mặc dù cũng có những tác động nhất định tới quan hệ quốc tế. Trường phái này cũng nhấn mạnh vai trò của các cường quốc, coi sức mạnh của các cường quốc tạo thành thứ bậc trong quan hệ quốc tế. Theo đó, các cường quốc chi phối quan hệ quốc tế, tạo ra các trung tâm quyền lực. Thí dụ: vai trò của Tây Ban Nha, Bồ ào Nha thế kỷ thứ XV - XVI, của Hà Lan thế kỷ XVII, của Anh từ thế kỷ XVIII đến 1945, của Hoa Kỳ trong và sau Chiến tranh lạnh [23], [33], [38]. Các quốc gia thường được coi là đơn nhất về quyền lực, tức nhà nước có quyền đại diện quốc gia trên thế giới và không có thực thể chính trị nào trong quốc gia có quyền hành cao hơn. Nếu trong quốc gia có sự khác biệt giữa các nhóm người về quan điểm, sự khác biệt này sẽ phải được thu xếp để cuối cùng quốc gia đó có một tiếng nói thống nhất trong quan hệ với bên ngoài. ồng thời, các quốc gia hành động một cách duy lý mà không phụ thuộc vào loại hình của nhà nước, tức là có tính toán trong khi tham 2 Niccolo Machiavelli (1469 – 1527), nhà triết học chính trị người Italia, tác phẩm tiêu biểu “Bậc quân vương” giới thiệu cách tranh giành, duy trì và khuyếch trương quyền lực; trong đó cho rằng có thể sử dụng mọi biện pháp cần thiết miễn là đạt được mục đích cuối cùng là an ninh quốc gia. 3 Thomas Hobbes (1588 – 1679), nhà triết học chính trị người Anh, tác phẩm tiêu biểu “ ấng quyền năng” nói về lý luận đại cương trong chính trị, trong đó nêu lên quan niệm bi quan về bản chất con người và chứng minh sự cần thiết phải có một quyền lực chính trị trung ương mạnh mẽ. 4 Hugo Grotius (1583 – 1645), người Hà Lan, tác phẩm tiêu biểu “Luật pháp về chiến tranh và hòa bình” gồm 3 tập bàn về chiến tranh và những vấn đề an ninh quốc gia. 5 Carl von Clausewitz (1780 – 1831), một tướng Phổ, tác phẩm tiêu biểu “Bàn về chiến tranh” tập trung bàn về chiến tranh, các vấn đề an ninh quốc gia, cho rằng quân sự là một phương tiện của chính trị. 6 Edward Hallet Carr (1892 – 1982), một nhà sử học, ngoại giao, nhà báo, nhà lý luận của chủ nghĩa hiện thực người Anh, tác phẩm tiêu biểu “Cuộc khủng hoảng 20 năm” cố gắng phân tích nguyên nhân sâu xa và quan trọng của chiến tranh. 7 Hans J. Morgenthau (1904 - 1980), nhà lý luận chủ nghĩa hiện thực người Mỹ gốc ức, tác phẩm tiêu biểu “Chính trị giữa các quốc gia” được xem như một nền móng cho chủ nghĩa hiện thực thời kỳ hiện đại. 19 gia quan hệ quốc tế mà chủ yếu là áp dụng chính sách cân bằng sức mạnh/quyền lực dựa vào thực lực của mình để thực hiện các lợi ích quốc gia. Những giả định về tính đơn nhất và duy lý vừa nêu xuất phát từ quan niệm cho rằng quốc gia cũng như con người, có bản chất tự nhiên là ích kỷ, để sinh tồn nên luôn mong muốn mạnh hơn và vượt qua người khác, và những điều này là không đổi theo thời gian. Tính chất đơn nhất và duy lý của quốc gia khiến cho các quốc gia đặc biệt quan tâm đến việc đạt được lợi ích quốc gia, dân tộc trong khi tham gia vào quan hệ quốc tế (đặc biệt là quyền lực và an ninh quốc gia) [23], [38]. Các học giả và nhà nghiên cứu theo các trường phái lý thuyết khác (nhất là những người theo thuyết Tự do8) phê phán rằng các nhà Hiện thực đã quá chú trọng đến các quốc gia mà bỏ qua vai trò ngày càng quan trọng của các chủ thể phi quốc gia trong đời sống quan hệ quốc tế hiện đại; và do đó đã quá chú trọng vai trò của lợi ích quốc gia trong quan hệ quốc tế mà coi nhẹ lợi ích của các nhóm người, các tập hợp, các diễn đàn khu vực và quốc tế Thêm vào đó, các nhà Hiện thực do quá quan tâm đến vai trò của nhân tố quyền lực và an ninh quốc gia nên đã có xu hướng xem nhẹ các quan tâm khác như kinh tế, văn hoá, ô nhiễm môi trường... vốn cũng có vai trò ngày càng quan trọng trong quan hệ quốc tế, và có mức độ giao thoa ngày càng lớn với chính khái niệm “quyền lực” hay “an ninh quốc gia”. Các nhà phê bình cho rằng việc quá chú trọng đến các quốc gia và các vấn đề như “quyền lực” và “an ninh” làm các nhà Hiện thực mất đi những công cụ mạnh trong việc lý giải đầy đủ và khoa học hơn về bản chất của quan hệ quốc tế hiện đại. Hơn nữa, các phân tích về chủ thể của trường phái Hiện thực dựa trên giả định về con người bị cho là không hợp lý vì 8 Các nhân vật nổi tiếng của trường phái này bao gồm nhà triết học John Locke (người Anh, thế kỷ 17), luật sư/triết gia chính trị Baron de Montesquieu (người Pháp, thế kỷ 18), Tổng thống Thomas Jefferson (người Mỹ, thế kỷ 18) 20 các nhà phê bình cho rằng bản chất con người không hoàn toàn xấu và con người có thể thay đổi tích cực theo thời gian; và điều tương tự cũng có thể áp dụng cho các quốc gia khi nhận thức chung về cuộc sống và các chủ thể tăng lên theo thời gian [38]. Sức mạnh của tiềm lực quốc phòng chi phối các nội dung, phương pháp quan hệ quốc tế và quan hệ quốc tế về quốc phòng Một giả định quan trọng được các học giả của thuyết Hiện thực (nhất là Thucydides, Hobbes, Grotius) nhấn mạnh là việc tồn tại tình trạng “vô chính phủ... các nước trong khu vực, tiếp tục kiềm chế sức cạnh tranh của đối thủ tiềm tàng. Trong đó, Việt Nam là một 36 trong những nước trong khu vực được Hoa Kỳ quan tâm thúc đẩy quan hệ [50] do có sự ổn định về chính trị - kinh tế - xã hội, thi hành chính sách đối ngoại độc lập, tự chủ và có vị thế mạnh trong khu vực. Việc xác định đúng mức những cơ hội và thách thức là rất quan trọng trong việc thúc đẩy hợp lý quan hệ quốc phòng với Hoa Kỳ. 1.1.3. Quan điểm của Hoa Kỳ trong quan hệ quốc tế về quốc phòng Cho đến nay, các nhà nghiên cứu vẫn tiếp tục tranh luận về các cơ sở lý luận chi phối vấn đề hợp tác quốc tế về quốc phòng của Hoa Kỳ. Tuy nhiên, các tác phẩm viết về chính sách đối ngoại, thực tế triển khai chính sách đối ngoại của Hoa Kỳ và nhiều chuyên gia về quốc phòng của Hoa Kỳ về cơ bản cho thấy một số quan điểm chung của quốc gia này về quan hệ quốc tế về quốc phòng như sau: Quan hệ quốc tế và quan hệ quốc tế về quốc phòng phải do Hoa Kỳ chủ đạo và vì lợi ích của Hoa Kỳ Theo đó, các nhà lý luận và hoạch định chính sách của Hoa Kỳ thừa nhận giả định cho rằng hệ thống quan hệ quốc tế tồn tại trong tình trạng nửa vô chính phủ, hay là sự thiếu vắng một cơ quan quyền lực chung trong quan hệ quốc tế (đây là giả định tương tự như giả định được các nhà lý luận theo thuyết Hiện thực ủng hộ. Các nhà lý luận theo chủ nghĩa tự do và chủ nghĩa kiến tạo cũng đồng ý với giả định này). Nếu như các nhà lý luận kinh điển cho rằng không có một cơ quan quyền lực nào được công nhận trong lĩnh vực quốc tế thì các nhà lý luận của Hoa Kỳ (như Robert J. Lieber 15 ) suy nghĩ trung dung hơn khi cho rằng dù về cơ bản thế giới không tồn tại một chế định/nhân vật có quyền lực buộc các quốc gia phải 15 Robert J. Lieber (sinh năm 1941), giáo sư khoa học chính trị người Mỹ, giảng viên tại ại học Georgetown, tác giả của nhiều công trình nghiên cứu về quan hệ quốc tế. Ý tưởng trên được đề cập trong sách “ hông có quyền lực chung: Thấu hiểu quan hệ quốc tế” xuất bản năm 1988. 37 tuân theo giống như một bản Hiến pháp, một cơ quan hành pháp, một tòa án tối cao hay một Tổng thống, quan hệ quốc tế cũng vẫn bị chi phối phần nào bởi hệ thống luật pháp quốc tế (dù còn khá lỏng lẻo và có nhiều hạn chế) cũng như một hệ thống thể chế quốc tế như Liên hợp quốc và các cơ quan liên quan, các thể chế tài chính quốc tế như Ngân hàng Thế giới và Quỹ Tiền tệ Quốc tế... [23], [38]. Một số nhà lý luận và hoạch định chính sách của Hoa Kỳ (Kissinger, Waltz) cũng cho rằng quan hệ quốc tế có cấu trúc mang tính hệ thống dựa trên sự phân bố quyền lực của các quốc gia, trong đó các cực là các quốc gia chủ chốt có khả năng chi phối quan hệ quốc tế. Như vậy, hệ thống đơn cực có đặc trưng là tồn tại quốc gia có tính ưu thế vượt trội, hệ thống lưỡng cực có đặc trưng là sự răn đe, hệ thống đa cực có đặc trưng là sự cân bằng quyền lực giữa các quốc gia chủ chốt của hệ thống. Trong khi cách nhìn quan hệ quốc tế theo cấu trúc hệ thống cho phép chúng ta dễ hình dung về nhiều vấn đề, trên thực tế cách nhìn này cũng bộc lộ nhiều điểm bất cập như có thể dẫn đến những quan niệm cứng nhắc về các đặc tính của hệ thống cũng như một số suy luận dường như mang tính tất yếu khi nghiên cứu quan hệ quốc tế. Ví dụ như cho đến nay, mọi người vẫn thường tranh cãi về việc Chiến tranh lạnh kéo dài có phải do hệ quả của thế lưỡng cực trong quá khứ, hay nó có thể rút ngắn lại do quyết định của các bên có liên quan trong thời gian đó. Nói cách khác, việc hình dung quan hệ quốc tế mang tính cấu trúc hệ thống không phải lúc nào cũng dễ dàng tạo điều kiện cho các nhà nghiên cứu và hoạch định chính sách đối ngoại suy luận về quyết định lựa chọn chính sách trong đối ngoại [23]. Các nhà lý luận và hoạch định chính sách của Hoa Kỳ (nhất là Waltz) cũng thường chú trọng vào vị trí của quốc gia trong hệ thống quốc tế với suy nghĩ cho rằng vị trí đó tác động tới những gì mà đất nước đó có thể 38 làm hoặc không làm trong lĩnh vực đối ngoại. Nguyên lý chung được nhiều chuyên gia của Hoa Kỳ thừa nhận là vị trí của một quốc gia trong cấu trúc hệ thống về cơ bản cho ta biết được chiều hướng của chính sách đối ngoại mà quốc gia đó theo đuổi trong quan hệ quốc tế. Theo đó, với vị trí là cường quốc hàng đầu thế giới, Hoa Kỳ là quốc gia có khả năng chi phối nhiều nhất đến quan hệ quốc tế. Cách suy nghĩ này cho phép chúng ta hình dung khá rõ ràng về các nhân tố chi phối quan hệ quốc tế, bao gồm cả lĩnh vực hợp tác về quốc phòng khi biết được các thách thức và cơ hội từ bên ngoài cũng như vị trí của quốc gia trong cấu trúc hệ thống quan hệ quốc tế. Tuy nhiên, trên thực tế việc xem xét các nhân tố chi phối đến hợp tác quốc tế (chung và về quốc phòng) nếu chỉ dựa trên những nhân tố này là tương đối khó khăn vì hệ thống cấu trúc quốc tế có vai trò ảnh hưởng quan trọng song không mang tính quyết định. Có nhiều nhân tố khác chi phối các quyết định về đối ngoại, nhất là đối với hợp tác quốc tế trong lĩnh vực quốc phòng, trong đó phải kể đến việc nhân tố chính trị nội bộ có vai trò rất lớn trong đoán định hành vi điều chỉnh chính sách của Hoa Kỳ. Theo đó, trong nhiều trường hợp, do sức ép của chính trị nội bộ Hoa Kỳ, mọi quan hệ quốc tế quan trọng nhất đối với quốc gia này (bao gồm lĩnh vực quốc phòng) phải xuất phát và vì lợi ích của Hoa Kỳ. Không giống nhiều nước khác trên thế giới, khi cái gọi là “lợi ích quốc gia” là một khái niệm tương đối không rõ ràng và thay đổi nhiều theo thời gian, việc xác định lợi ích quốc gia của Hoa Kỳ là khá cụ thể và thường được phân loại theo 3 nhóm chính là quyền lực/an ninh, kinh tế và dân chủ/nhân quyền16. 16 Theo nghiên cứu công bố năm 2000 của Hội đồng nghiên cứu lợi ích quốc gia của Mỹ, lợi ích quốc gia của Mỹ có thể được phân ra theo các cấp độ “lợi ích sống còn” ("vital interests"), “lợi ích đặc biệt quan trọng” ("extremely important interests"), “lợi ích quan trọng” ("important interests") và “lợi ích kém quan trọng hơn/thứ cấp” ("less important or secondary interests). Trên thực tế, cách phổ biến để xem xét lợi ích quốc gia của Mỹ vẫn là phân theo 3 lĩnh vực như trên. 39 Trong số các lợi ích đó, quyền lực/an ninh là nhân tố được giới hoạch định chính sách và các chính trị gia của Hoa Kỳ quan tâm đặc biệt [23], [38]. Lấy sức mạnh kinh tế và tiềm lực quân sự làm vũ khí răn đe để giải quyết quan hệ quốc tế về quốc phòng phục vụ cho chiến lược quốc phòng của Hoa Kỳ Mặc dù có nhiều lý thuyết chi phối việc hoạch định và triển khai chính sách đối ngoại của Hoa Kỳ, trên thực tế việc làm này chịu ảnh hưởng khá lớn của thuyết Hiện thực. Và như vậy, nhiều nhà hoạch định chính sách đối ngoại và các chính trị gia của Hoa Kỳ tin tưởng vào một hệ thống quan hệ quốc tế "tự cứu", trong đó Hoa ỳ cần phải chủ động, tích cực trong việc dựa vào chính mình và mối quan hệ tích cực với các đồng minh, đối tác để thúc đẩy hợp tác quốc tế nói chung cũng như trong quốc phòng nói riêng. Với quan niệm "quan hệ quốc tế là cuộc đấu tranh giành quyền lực. Các chính trị gia suy nghĩ và hành động theo lợi ích, mà lợi ích đó được xác định là quyền lực" (theo quan điểm của Hans Morgenthau), quyền lực vừa là một cấu thành quan trọng của các lợi ích quốc gia mà Hoa Kỳ theo đuổi, vừa được nhiều nhà hoạch định chính sách của Hoa Kỳ xem là cấu phần quan trọng nhất trong số các mục tiêu mà Hoa Kỳ cần theo đuổi trong quan hệ đối ngoại. Hiểu theo một cách chung nhất, quyền lực là khả năng tạo dựng môi trường cho bản thân để phản ánh những lợi ích của mình, quyền lực là yêu cầu then chốt đối với các mục tiêu cụ thể quan trọng nhất của chính sách đối ngoại, quốc phòng và bảo đảm độc lập và chủ quyền lãnh thổ của Hoa Kỳ17. Trên thực tế, việc theo đuổi các mục tiêu về quyền lực tạo điều kiện quan trọng để Hoa Kỳ có được những lợi ích then chốt cũng như tạo điều kiện để Hoa Kỳ đạt được những lợi ích 17 ây là quan điểm được Giáo sư Samuel Huntington (1927 – 2008, nổi tiếng với tác phẩm “Sự xung đột giữa các nền văn minh”) đề xuất trong bài báo đăng trên tạp chí An ninh quốc tế 1993. 40 khác trong quan hệ quốc tế. iều này là do những quan điểm cho rằng nền hòa bình thực sự hay việc tồn tại một thế giới trong đó các quốc gia không cạnh tranh quyền lực khó có khả năng trở thành hiện thực do cho rằng hợp tác giữa các quốc gia luôn có những hạn chế nhất định [23], [33], [38]. Tuy rằng quyền lực là điều được nhiều chuyên gia và các nhà hoạch định chính sách quan tâm theo đuổi, điều này không dễ dàng đạt được và cho đến nay, các chuyên gia của Hoa Kỳ vẫn còn luôn tranh cãi về phương thức đạt quyền lực một cách tối ưu trong quan hệ với các quốc gia bên ngoài 18 . Về mặt bản chất, nếu cho rằng quyền lực là khả năng chi phối hành vi của các quốc gia khác theo hướng có lợi cho mình, điều này không hề dễ dàng đạt được trong quan hệ quốc tế, nhất là trong bối cảnh thế giới không còn chia rõ thành các cực riêng biệt, sự phụ thuộc lẫn nhau ngày càng tăng lên và Hoa ỳ đang suy giảm sức mạnh tương đối so với các quốc gia khác trên thế giới. Về mặt phương thức, có thể đạt được quyền lực nhờ các biện pháp cưỡng chế ngoại giao (bày tỏ phản đối, rút ại sứ, đình chỉ quan hệ ngoại giao...), trừng phạt kinh tế và các biện pháp cứng rắn khác về kinh tế, hành động bí mật Tuy nhiên, biện pháp phổ biến nhất trong việc giành quyền lực trong quan hệ quốc tế vẫn là thông qua lực lượng quân sự; và cũng chính việc điều chỉnh lực lượng quân sự tạo nền tảng cho hợp tác về quốc phòng của Hoa Kỳ [23]. Trong những năm qua, việc kết hợp 2 sức mạnh chủ chốt là kinh tế và quân sự là một lựa chọn được Hoa Kỳ ưu tiên trong quan hệ với nhiều quốc gia khác. Chi phối các tổ chức và liên minh kinh tế và quân sự để giải quyết các vấn đề quốc tế và khu vực trong quan hệ quốc tế về quốc phòng 18 ây cũng là một điều bình thường trong bối cảnh một xã hội đa nguyên như của Hoa ỳ và khi các lý thuyết quan hệ quốc tế vẫn còn nhiều điểm khác biệt nhau. 41 Chính sách cơ bản nhất trong chiến lược quốc phòng của Hoa Kỳ là duy trì một lực lượng phòng vệ mạnh và có khả năng răn đe đáng tin cậy. Trong suốt lịch sử quan hệ quốc tế của Hoa Kỳ, việc xây dựng một lực lượng phòng vệ mạnh có ý nghĩa quan trọng nhằm mục tiêu răn đe xâm lược và khi răn đe thất bại thì bảo đảm việc phòng thủ cho đất nước. Việc phòng vệ cụ thể của Hoa Kỳ, theo thời gian, biến đổi cùng các nhân tố (i) Sự thay đổi của các đối thủ tiềm ẩn (như Anh trong giai đoạn đầu của lịch sử, ức trong hai cuộc chiến tranh thế giới, Liên Xô trong Chiến tranh lạnh), (ii) Tiềm lực quốc gia trong việc tăng cường năng lực sức mạnh của mình, (iii) Sự thay đổi của khoa học công nghệ và kỹ thuật liên quan đến quân sự. Sự biến đổi của các nhân tố này kéo theo sự biến đổi về quân đội, vũ khí, cách tiến hành răn đe... Có thể nói việc răn đe không mang lại nhiều lợi ích thực chất, song nó cũng có những tác động nhất định tới hành vi các nước, đồng thời mang lại nhiều động lực chính trị nội bộ thông qua hành vi sản xuất vũ khí cũng như trang thiết bị để hiện đại hóa nền quốc phòng Hoa Kỳ [23], [38]. Chính sách tiếp theo là thiết lập các liên minh chống lại kẻ thù chung của Hoa Kỳ. Các liên minh này có thể tồn tại ở nhiều dạng khác nhau, từ mức độ cao như đồng minh theo hiệp ước cho đến quan hệ đối tác chiến lược hay đơn giản chỉ là quan hệ đối tác. Các liên minh mang tính chặt chẽ thường được tổ chức trong giai đoạn có chiến tranh như liên minh giữa Hoa Kỳ với Pháp năm 1778 để chống lại kẻ thù chung là Anh trong cuộc chiến giành độc lập của Hoa Kỳ, liên minh Hoa Kỳ - Anh – Pháp trong Chiến tranh thế giới thứ nhất, liên minh Hoa Kỳ - Anh – Liên Xô trong Chiến tranh thế giới thứ hai, liên minh giữa Hoa Kỳ với 26 quốc gia khác trong cuộc chiến tranh vùng Vịnh năm 1990 – 1991. Trong thời kỳ Chiến tranh lạnh, Hoa Kỳ cũng tạo ra một mạng lưới liên minh toàn cầu với nòng 42 cốt là những liên minh đa phương như hối hiệp ước Bắc ại Tây Dương (NATO), Khối hiệp ước ông Nam Á (SEATO), hối hiệp ước Rio (với các nước Mỹ Latinh) và các liên minh song phương với Nhật Bản, Hàn Quốc, ài Loan, Thái Lan, Philippines, Israel, Iran... Chiến lược cơ bản liên quan các liên minh là giữ các mối liên hệ chặt chẽ về chính trị - ngoại giao, phối hợp trong hành động, cung cấp viện trợ quân sự như vũ khí, cố vấn, tài chính hoặc các hình thức viện trợ khác cho các quốc gia này. Khi thế và lực của Hoa Kỳ suy giảm tương đối trong tương quan với một số cường quốc khác và xu thế hợp tác cùng phát triển tiếp tục là chiều hướng lớn trong quan hệ quốc tế, việc chi phối các liên minh kinh tế và quân sự để giải quyết các thách thức về an ninh vẫn là ưu tiên quan trọng của Hoa Kỳ và điều này chi phối rất lớn quan hệ quốc phòng của Hoa Kỳ [23]. Một chính sách phổ biến khác nhằm đạt mục tiêu quyền lực là tiến hành chiến tranh, phương pháp mà theo nhà chiến lược Phổ cuối thế kỷ XIX Karl von Clausewitz là "sự tiếp nối của chính trị bằng những phương tiện khác", "một hành động bạo lực có chủ ý nhằm buộc đối phương phải tuân theo ý chí của chúng ta". Trên thực tế, Hoa Kỳ đã tiến hành nhiều cuộc chiến tranh lớn nhỏ nhằm các mục tiêu quyền lực, và trong số hàng trăm cuộc chiến mà Hoa Kỳ đã tiến hành, trên thực tế chỉ có một số cuộc được Quốc hội Hoa Kỳ tuyên bố thực sự là chiến tranh, còn lại không được Hoa Kỳ thực sự xem là "chiến tranh" mà chỉ là sự can thiệp quân sự tại các quốc gia khác. Có thể nói, trong chính trị Hoa Kỳ, khái niệm "can thiệp quân sự" là rất phổ biến; đó là việc sử dụng lực lượng quân sự một cách hạn chế, nhất là trong việc lật đổ các Chính phủ bị xem là đối nghịch với lợi ích của Hoa Kỳ và trong việc bảo vệ hay dựng lên các nhà lãnh đạo thân với Hoa Kỳ [23], [38]. Hoa Kỳ đã tiến hành việc này rất nhiều lần trong quá khứ, nhất là trong Chiến tranh lạnh. Gần đây nhất, Hoa Kỳ tiếp 43 tục can thiệp vào Iraq, Afghanistan, Trung ông – Bắc Phi với các mục tiêu tương tự. ể sẵn sàng cho việc tham gia chiến tranh, Hoa Kỳ cũng đang tiếp tục ưu tiên hợp tác quốc tế về quốc phòng với các đồng minh và đối tác mới trong các tính toán chính sách của mình. 1.2. Một số vấn đề rút ra 1.2.1. Thực chất các nhân tố chi phối quan hệ quốc phòng Qua việc xem xét một số quan điểm về hợp tác quốc phòng, có thể thấy về bản chất, các nhân tố chi phối quan hệ quốc phòng chính là các nhân tố thuộc về tư duy chiến lược. Có thể hiểu một cách khái quát rằng tư duy chiến lược là quá trình nhận thức lý tính về các vấn đề mang tính vĩ mô của một quốc gia (hay một tổ chức kinh tế - xã hội lớn) nhằm đi sâu tìm hiểu bản chất, quy luật vận động, tình hình vĩ mô và hoạch định chính sách nhằm đạt được các mục tiêu chiến lược của quốc gia (hoặc tổ chức kinh tế - xã hội đó). Trong đó, chiến lược thường được hiểu là trình độ mưu lược ở cấp vĩ mô, toàn cục, rộng lớn và lâu dài. Tư duy chiến lược hiện hữu trong tiến trình hoạch định và triển khai chính sách của tất cả các nước lớn nhỏ và trong mọi lĩnh vực của đời sống xã hội, với sự phổ biến ngày càng sâu rộng trong các lĩnh vực mang tính phát triển; tuy nhiên, nguyên nghĩa của nó và tính cần thiết, quan trọng của tư duy chiến lược bắt nguồn từ và tồn tại chủ yếu trong lĩnh vực quốc phòng – an ninh như một khái niệm có tầm quan trọng sống còn đối với tiến trình phát triển của các quốc gia. Cho dù có nhiều khác biệt cụ thể, trong hoạch định và triển khai chính sách quan hệ về quốc phòng của các quốc gia, tư duy chiến lược bắt đầu bằng việc xem xét sự phát triển của môi trường an ninh quốc tế, khu vực và quốc gia. Theo đó, tư duy chiến lược đòi hỏi phải nhận thức, phản ánh được bản chất, xu hướng vận động, phát triển của tình hình quốc tế, khu 44 vực, quốc gia trên các lĩnh vực trong từng thời kỳ cũng như sự tác động qua lại giữa các nhân tố này; qua đó rút ra được những cơ hội và thách thức cho việc hoạch định chính sách quốc phòng nói chung cũng như hợp tác quốc tế về quốc phòng nói riêng. Việc làm này về bản chất là làm rõ điều kiện khách quan của sự phát triển mang tính vĩ mô để làm nền tảng cho việc hoạch định và triển khai chính sách hợp tác về quốc phòng. Ví dụ, việc tìm hiểu, phân tích và nhận thức của các quốc gia về thời kỳ sau Chiến tranh lạnh là thế giới đã chuyển từ xu hướng đối đầu là cơ bản sang xu thế hòa bình, hợp tác để phát triển. Trên cơ sở những nhận thức về môi trường an ninh quốc tế, khu vực và quốc gia, mỗi nước lại có những điều chỉnh tương ứng trong chính sách quốc phòng của mỗi nước, bao gồm hợp tác quốc tế về quốc phòng. Những điều chỉnh chính sách này thường bao gồm các nội dung chính sau: (i) Xác định các mục tiêu, nhiệm vụ chính trị của quốc gia (trên các lĩnh vực kinh tế - xã hội, quốc phòng – an ninh, đối ngoại) cho phù hợp với tình hình quốc tế, khu vực và quốc gia trong bối cảnh mới; (ii) Các chiến lược, kế hoạch cụ thể nhằm tranh thủ cơ hội, hóa giải thách thức, nâng cao hiệu quả điều hành vĩ mô của quốc gia, đạt các lợi ích chiến lược cụ thể. Nói cách khác là sự hình thành các cách thức hành động từ khái quát đến cụ thể để nhằm đạt các mục tiêu về lợi ích quốc gia trong từng giai đoạn nhất định. Với Hoa Kỳ chẳng hạn, trong giai đoạn những năm 2000 dưới thời Tổng thống Bush đã tồn tại chiến lược "đánh đòn phủ đầu" đối với các quốc gia "thù địch", trong khi đó dưới thời Tổng thống Obama chính sách tăng cường hợp tác đa phương lại được chú trọng hơn; từ đó, có các tác động tương ứng đối với việc hợp tác quốc tế về quốc phòng; (iii) Xác định các nguồn lực cần thiết (nhân lực, vật lực, tài lực...) cho việc triển khai các chính sách phù hợp với các mục tiêu về lợi ích quốc gia đó. 45 1.2.2. Khác biệt về tư duy chiến lược của Việt Nam và Hoa Kỳ Hoa Kỳ là một nước lớn tiêu biểu và các chuyên gia cũng như các nhà hoạch định của Hoa Kỳ cũng thường quen với lối tư duy theo hướng áp đặt, thiết lập trật tự thế giới dưới sự chi phối của mình, vừa tìm cách mở rộng không gian sinh tồn của Hoa Kỳ trên phạm vi toàn cầu, vừa tìm cách duy trì vị thế lãnh đạo toàn cầu của Hoa Kỳ, về cơ bản kiềm chế, làm phương hại hoặc đe dọa sự tồn tại của các quốc gia lớn, nhỏ khác. Tư duy chiến lược này bắt nguồn từ sự tồn tại khách quan về tương quan sức mạnh giữa Hoa Kỳ trên bàn cờ chính trị quốc tế (Hoa Kỳ có sức mạnh vượt trội về chính trị, quân sự, kinh tế trên toàn thế giới trong suốt nhiều thập kỷ và dự kiến sẽ còn tiếp tục chiều hướng này một cách lâu dài), từ những đặc thù trong bộ máy hoạch định chính sách của Hoa Kỳ (là sản phẩm của một tiến trình phát triển lịch sử, văn hóa, pháp lý khác biệt so với nhiều quốc gia khác – đặc biệt là dưới tác động của văn hóa chính trị "tam quyền phân lập" kiểu Châu Âu), cũng như những quan niệm về lợi ích (một phần do tác động của quá trình xâm chiếm và mở rộng lãnh thổ mà hình thành nên Hoa Kỳ như hiện nay). Thực tiễn cho thấy suốt trong thế kỷ XX và hiện nay, với lối tư duy chiến lược, những chính sách cụ thể và nguồn lực của mình, Hoa Kỳ tiếp tục là quốc gia chi phối (i) Cục diện quan hệ quốc tế (bao gồm trật tự 2 cực trong thời kỳ Chiến tranh lạnh, thế giới mới 1 cực hay đa cực trong thời kỳ sau Chiến tranh lạnh), (ii) Quan hệ giữa các nước lớn (Hoa Kỳ, Trung Quốc, Nga, Nhật Bản, Ấn ộ, Liên minh Châu Âu...), (iii) Quan hệ trong các tổ chức quốc tế lớn, và phần nào đó là các tổ chức khu vực (Hội đồng Bảo an Liên hợp quốc, Ngân hàng Thế giới, Quỹ Tiền tệ Quốc tế... Trong nhiều năm, mục tiêu chiến lược hàng đầu của Hoa Kỳ trong "Chiến lược an ninh quốc gia" là duy trì vị trí cường quốc số một và lãnh đạo thế giới, đưa các giá trị dân chủ Phương Tây vào các quốc gia 46 khác thông qua sức mạnh vượt trội của Hoa Kỳ, duy trì chiến lược tăng cường gây sức ép với các quốc gia khác trên nhiều phương diện. Tư duy chiến lược với đặc trưng như vậy cũng làm cho việc Hoa Kỳ tăng cường quan hệ quốc phòng với các quốc gia khác có nhiều điểm khác biệt so với các quốc gia khác, ít nhất là bao gồm (i) Có tầm nhìn chiến lược toàn cầu song thường quan niệm bản thân là quốc gia lãnh đạo có vai trò không thể thiếu được trên mọi phương diện, nhất là về quyền lực; (ii) Chú trọng và chủ động thúc đẩy hợp tác quốc phòng trong quan hệ với các quốc gia, tổ chức khu vực và toàn cầu; (iii) Tính chất và mức độ hợp tác chịu sự chi phối nhiều bởi nguồn lực vật chất (ví dụ thời gian qua, Hoa Kỳ đã điều chỉnh mạnh hợp tác quốc phòng theo hướng tăng chia sẻ trách nhiệm và rủi ro với các nước đồng minh, đối tác). Trong khi đó, tư duy chiến lược của Việt Nam thường nhằm vào việc bảo vệ quyền lợi của quốc gia, dân tộc, bảo vệ ảng, bảo vệ nhân dân trước sự chi phối kiềm chế của các nước lớn, trước những biến động của quan hệ quốc tế cũng như các thách thức an ninh truyền thống và phi truyền thống. Nguyên nhân của lối tư duy này thường là do các nhân tố sau quyết định: (i) Lịch sử dựng nước và giữ nước hàng nghìn năm của Việt Nam phải trải qua rất nhiều cuộc chiến chống giặc ngoại xâm (cho đến tận thế kỷ 20) nên tư duy cơ bản của Việt Nam là phải luôn chú trọng độc lập tự chủ, hòa hiếu và liên kết sức mạnh để chống lại những kẻ thù mạnh hơn mình nhiều lần để gìn giữ và phát triển đất nước; (ii) Văn hóa và bản chất con người Việt Nam yêu chuộng hòa bình, chú trọng việc tăng cường quan hệ với cả bên trong và bên ngoài; (iii) Thế và lực của Việt Nam khi so sánh với nhiều quốc gia lớn vẫn thường ở thế yếu hơn nhiều, nhất là trong so sánh các nguồn lực vật chất cụ thể, do vậy cách ứng xử trong đối ngoại, kể cả trong đối ngoại quốc phòng, cũng phải có sự linh 47 hoạt, mềm dẻo. Vì thế, trong hoạch định và triển khai quan hệ đối ngoại nói chung cũng như đối ngoại quốc phòng nói riêng, Việt Nam thường (i) Rất chú trọng việc tìm hiểu cục diện quốc tế (nhất là quan hệ giữa các nước lớn), vị trí của Việt Nam trong cục diện đó, tác động của các nhân tố bên ngoài đối với sự tồn tại và phát triển của Việt Nam; (ii) Xác định lợi ích của quốc gia phù hợp với vị trí của quốc gia trong hệ thống và tính đến lợi ích của các nước khác (nhất là các nước lớn, các nước láng giềng); (iii) ịnh ra chiến lược tồn tại và phát triển phù hợp với đất nước, trong đó chú trọng đồng thời các việc đoàn kết trong nước và quốc tế. Lối tư duy này cũng có nhiều nét tương đồng với lối tư duy của các nước ông Nam Á, các nước nhỏ ở Châu Âu... dù rằng cũng luôn có những nét đặc thù khác biệt (Việt Nam không bị rơi vào nhóm các nước có chính sách đối ngoại và quốc phòng quá mềm dẻo dẫn đến nhiều khi mất nguyên tắc; ngược lại, cũng không rơi vào nhóm quá cứng nhắc, hiếu chiến...) Tiểu kết Là một lý thuyết có sức ảnh hưởng lớn trong nghiên cứu quan hệ quốc tế hiện nay, Chủ nghĩa hiện thực giúp hơn về động lực của các quốc gia trong hợp tác quốc tế về quốc phòng. Theo đó, quan hệ quốc tế và quan hệ quốc tế về quốc phòng bắt nguồn và xuyên suốt vì lợi ích quốc gia, dân tộc. Sức mạnh của tiềm lực quốc phòng chi phối các nội dung, phương pháp quan hệ quốc tế và quan hệ quốc tế về quốc phòng. Hợp tác quốc phòng trong quan hệ quốc tế liên quan nhiều đến việc cân bằng quyền lực trong một thế giới đa cực. Việc xem xét các nhân tố này giúp chúng ta hiểu hơn về quan điểm phổ biến trên thế giới về hệ thống quan hệ quốc tế, hành vi của các quốc gia cũng như xu hướng thúc đẩy hợp tác quốc phòng để đảm bảo an ninh quốc gia ngày càng trở nên quan trọng trong bối cảnh thế giới đa cực ngày càng được định hình rõ rệt. 48 Việc nghiên cứu thực tiễn cũng cho thấy đến nay, Việt Nam đã xác định các nguyên tắc cơ bản trong tăng cường hợp tác quốc tế về quốc phòng là (i) Kiên trì nguyên tắc kết hợp chặt chẽ giữa chính sách đối ngoại và quốc phòng – an ninh (cùng với các chiến lược phát triển khác của ảng và Nhà nước) để tạo ra sức mạnh tổng hợp trong việc giải quyết bài toán xây dựng và bảo vệ Tổ quốc; (ii) Tiếp tục cải cách tổ chức và hoạt động của các cơ quan quyền lực nhà nước theo tinh thần nhà nước pháp quyền, tăng cường năng lực nội tại cũng như sự phối hợp ngày càng hiệu quả giữa hai nhóm cơ quan đối ngoại và quốc phòng – an ninh; (iii) Phối hợp chặt chẽ để xử lý linh hoạt các vấn đề liên quan tới đối ngoại, quốc phòng, an ninh phù hợp với sự phát triển liên tục và đa dạng của tình hình thực tế để đạt hiệu quả và sự hợp lý cao nhất trong bối cảnh quan hệ quốc tế thay đổi liên tục, phức tạp và đa dạng. Trong khi đó, Hoa ỳ rất quan tâm đến tính chủ động can thiệp vào tiến trình hợp tác quốc tế của các quốc gia (nhất là các cường quốc), chú trọng nhân tố quyền lực trong quan hệ quốc tế, đồng thời tiếp tục chú trọng điều chỉnh chính sách quốc phòng liên tục theo cả 3 hướng là năng cường năng lực, chú trọng xây dựng và lãnh đạo các liên minh kinh tế - quân sự (nhất là khi phải ứng phó với các nguy cơ an ninh lớn), tham gia vào các cuộc chiến khi thực sự cần thiết (xu hướng thời gian qua là tiếp tục tăng cường chia sẻ trách nhiệm và nguồn lực khi tham chiến). Qua việc xem xét một số quan điểm về quan hệ quốc tế về quốc phòng, thấy rằng về lý luận, các nhân tố chính chi phối hợp tác quốc phòng Việt Nam – Hoa Kỳ có thể bao gồm: (i) Sự thay đổi của môi trường quan hệ quốc tế, khu vực; (ii) Bản thân quan hệ song phương Việt Nam – Hoa Kỳ; (iii) Những điều chỉnh cụ thể của hai nước trong lĩnh vực hợp tác quốc phòng, có tính đến những đặc thù liên quan đến sự phát triển kinh tế - xã 49 hội, tổ chức bộ máy, mức độ hội nhập quốc tế của từng nước. Bất kỳ sự thay đổi nào trong số các nhân tố này đều có thể kéo theo sự thay đổi nhất định trong quan hệ quốc phòng giữa hai nước. 2 chương tiếp theo sẽ xem xét các nhân tố cụ thể đã chi phối quan hệ quốc phòng Việt Nam – Hoa Kỳ giai đoạn 1995 – 2015 cũng như dự báo cho giai đoạn 2016 – 2020 dựa trên cơ sở giả định chính là những nhân tố chi phối quan hệ quốc phòng Việt Nam – Hoa Kỳ là sự nối tiếp của những nhân tố chi phối trong thời gian qua được điều chỉnh phù hợp với sự biến chuyển của môi trường quan hệ quốc tế và khu vực ngày càng đa cực và có nhiều thách thức an ninh hơn trước. 50 CHƯƠNG 2. MỘT SỐ NHÂN TỐ CHỦ YẾU CHI PHỐI QUAN HỆ QUỐC PHÒNG VIỆT NAM – HOA KỲ GIAI ĐOẠN 1995 – 2015 Trên cơ sở nền tảng lý luận mà Chương 1 đã đặt ra, Chương 2 tập trung khảo sát những nhân tố chủ yếu đã chi phối quan hệ quốc phòng Việt Nam – Hoa Kỳ trong giai đoạn 1995 – 2015. Chương này sẽ sử dụng những dữ kiện thực tế trong lịch sử quan hệ Việt Nam – Hoa Kỳ trong 20 năm qua để tìm ra những nhân tố chủ yếu đứng sau chi phối quan hệ quốc phòng giữa hai nước. 2.1. Quan hệ quốc tế, môi trường an ninh khu vực sau Chiến tranh lạnh 2.1.1. Quan hệ quốc tế sau Chiến tranh lạnh Sau Chiến tranh lạnh, tồn tại 4 xu thế lớn trong quan hệ quốc tế: (i) Xu thế hòa bình, hợp tác và phát triển – xuất hiện do thế đối đầu hai cực đã chấm dứt với sự sụp đổ của Liên Xô; (ii) Xu thế khách quan về sự phát triển của khoa học công nghệ - xuất hiện do những tiến bộ mạnh mẽ của khoa học công nghệ và tác động đến tổ chức sản xuất kinh tế cũng như quan hệ quốc tế; (iii) Xu thế toàn cầu hoá và khu vực hoá – xuất hiện cùng với sự phát triển mạnh mẽ của khoa học công nghệ và tiến trình tăng cường trao đổi thương mại và giao lưu trên các lĩnh vực khác; (iv) Xu thế gia tăng của các thách thức an ninh phi truyền thống – xuất hiện do các nguyên nhân đa dạng cả về tự nhiên và xã hội (trở nên đa cực hơn) [13], [14], [15], [16]. Chiến lược An ninh Quốc gia (2/1995) của Hoa Kỳ nhận định Chiến tranh lạnh kết thúc với sự sụp đổ của Liên Xô đã làm thay đổi môi trường an ninh. Vai trò lãnh đạo của Hoa Kỳ được củng cố với lợi thế vượt trội về tiềm lực quân sự và ảnh hưởng lớn về kinh tế và chính trị. Hoa Kỳ không còn phải theo đuổi mục tiêu kiềm chế sự lan rộng của Chủ nghĩa cộng sản 51 và ngăn chặn chiến tranh hạt nhân, song phải đối phó với nhiều thách thức an ninh mới nổi lên như: (i) Xung đột sắc tộc bùng phát, đe dọa ổn định khu vực ở nhiều nơi; (ii) Vấn đề ngăn chăn tình trạng phổ biến vũ khí hủy diệt hàng loạt; (iii) Môi trường bị hủy hoại nghiêm trọng, đe dọa ổn định chính trị ở nhiều quốc gia và khu vực [79]. Chiến lược cũng xác định cùng với sự tan rã của Liên bang Xô viết là quá trình quá độ về kinh tế, chính trị và sự xuất hiện nhiều nền dân chủ mới tại khu vực Trung và ông Âu. Việc 12 nước thành viên hối thị trường chung châu Âu (EEC) ký kết Hiệp ước Maastricht (ngày 7/2/1992) đánh dấu thành công ban đầu của các nước Châu Âu trong nỗ lực thiết lập một Châu Âu ổn định, gắn kết, mở cửa với thế giới và trở thành một chủ thể quan hệ quốc tế, có tiếng nói trong nhiều vấn đề quốc tế. Trong khi đó, Trung Quốc và Nhật Bản không ngừng củng cố thực lực và mở rộng ảnh hưởng tại các khu vực lân cận và vươn ra nhiều khu vực khác trên trên thế giới. Ấn ộ cũng không ngừng vươn lên mạnh mẽ về kinh tế, quân sự và chính trị, dần trở thành một nước lớn, một cường quốc có ảnh hưởng đáng kể ở khu vực. Những thay đổi cơ bản trong môi trường quan hệ quốc tế giai đoạn sau Chiến tranh lạnh khiến cho các nước một mặt thoát khỏi sức ép của không khí Chiến tranh lạnh, mặt khác phải tích cực điều chỉnh chính sách đối ngoại theo hướng tăng cường hợp tác trên các lĩnh vực (bao gồm hợp tác về quốc phòng) để thích ứng với tình hình mới. hông khí thù địch và sự nghi kỵ giảm xuống khiến các nước yên tâm hơn trong quá trình ra quyết sách và tăng cường hợp tác để tăng cường năng lực và phục vụ cho các nhu cầu phát triển đa dạng; tuy nhiên, tâm lý đề phòng vẫn còn tác động đến hợp tác trong những lĩnh vực nhạy cảm như an ninh – quốc phòng, nhất là giữa những nước đã từng là đối thủ của nhau trong thời Chiến tranh lạnh. Hợp tác quốc phòng Việt Nam – Hoa Kỳ cũng chịu ảnh hưởng nhất 52 định của không khí đó theo nghĩa cả hai bên đều ... trang; nhất là khi Hoa Kỳ đã dỡ bỏ một phần lệnh cấm vận vũ khí sát thương đối với Việt Nam (10/2014). ây là lĩnh vực hợp tác rất tiềm năng và có tính khả thi cao trong 5 năm tới. Những tác động tiêu cực Trong tăng cường hợp tác đa phương Do cạnh tranh nước lớn, các nước đều muốn tranh thủ sự ủng hộ giải quyết các điểm nóng theo hướng có lợi, gây ra sự nghi kỵ trong phối hợp tại các diễn đàn. ặc biệt trên vấn đề Biển ông, mặc dù tiếng nói của Hoa Kỳ có vai trò quan trọng, tác động ở mức độ nhất định tới hướng giải quyết vấn đề; song việc Việt Nam thúc đẩy mạnh vấn đề, tranh thủ tiếng nói của Hoa Kỳ tại các diễn đàn đa phương và khu vực, có thể tạo ra sự nghi kỵ từ một số nước (không chỉ riêng Trung Quốc), khiến các nước này cho rằng Việt Nam đang lôi kéo Hoa Kỳ nhằm làm phức tạp vấn đề, triển 134 vọng này không có lợi cho sự hợp tác giữa Việt Nam với các nước liên quan nhằm giải quyết vấn đề thông qua các biện pháp hòa bình, trên cơ sở các nguyên tắc của luật pháp quốc tế. Việt Nam cũng cần tránh để Hoa Kỳ lôi kéo vào tập hợp lực lượng để chống lại nước khác, phục vụ cho các ý đồ của Hoa Kỳ. Mặc dù các quan chức cấp cao của Hoa Kỳ luôn khẳng định chiến lược tăng cường quan hệ với Châu Á - Thái Bình Dương không nhằm kiềm chế Trung Quốc; song thực tế cho thấy mọi chính sách của Hoa Kỳ đối với khu vực luôn tính đến nhân tố Trung Quốc. Chính vì vậy, bên cạnh sự phát triển mạnh mẽ của chính khu vực Châu Á - Thái Bình Dương và nhu cầu tăng cường quan hệ với khu vực nhằm tạo cơ hội thúc đẩy sự phát triển của nền kinh tế trong nước, một phần nguyên nhân của việc Hoa Kỳ điều chỉnh chính sách, tăng cường quan hệ với khu vực, đặc biệt là với các nước đồng minh và đối tác, cũng bắt nguồn từ sự lớn mạnh không ngừng của Trung Quốc, đe dọa tới lợi ích của Hoa Kỳ và đồng minh. Do đó, trong hợp tác đa phương tại các diễn đàn, thể chế có sự tham gia của cả Hoa Kỳ và Trung Quốc, Việt Nam cần tránh rơi vào tập hợp của Hoa Kỳ nhằm chống lại Trung Quốc. Trong tăng cường hợp tác song phương Do vẫn tồn tại nghi kỵ, quá trình xây dựng lòng tin còn cần thời gian. Mặc dù quan hệ Việt Nam – Hoa Kỳ đã phát triển mạnh mẽ và có những bước tiến thực chất trong thời gian qua, song trong nội bộ hai nước vẫn còn tồn tại nghi kỵ lẫn nhau (đặc biệt trên các vấn đề liên quan tới ý thức hệ, vấn đề dân chủ - nhân quyền, vấn đề “diễn biến hòa bình” và “chống diễn biến hòa bình”), cũng như những di sản của chiến tranh (giải quyết hậu quả chiến tranh, vấn đề chất độc da cam) đã có tác động tiêu cực tới quá trình xây dựng lòng tin giữa hai nước. ây chính là nguyên nhân gây 135 cản trở cho việc thúc đẩy quan hệ song phương Việt Nam – Hoa Kỳ lên tầm “đối tác chiến lược”, dù thực chất quan hệ giữa hai nước đã đạt đến mức chiến lược trong một số lĩnh vực cụ thể. Một số các vấn đề hợp tác cụ thể còn mang tính nhạy cảm và khó khăn từ chính trị nội bộ Hoa Kỳ như: vấn đề bán vũ khí cho Việt Nam, vấn đề dân chủ - nhân quyền. Mặc dù luôn khẳng định dân chủ - nhân quyền là một giá trị Hoa Kỳ cần theo đuổi, trên thực tế các Chính quyền Hoa Kỳ luôn sử dụng vấn đề này như một “chiêu bài” để tham gia vào công việc nội bộ của các nước khác ở các mức độ khác nhau. Thời gian qua, nhiều chính trị gia và các nhóm hoạt động xã hội của Hoa Kỳ đã nêu công khai và liên tục việc phải gắn bỏ cấm vận bán vũ khí sát thương (cũng như kết thúc đàm phán TPP với Việt Nam) trên cơ sở Việt Nam phải có các cam kết cao hơn trong vấn đề dân chủ, nhân quyền. Việc Hoa Kỳ tiếp cận hoặc xây dựng căn cứ quân sự trên lãnh thổ Việt Nam là một vấn đề nhạy cảm. Với vị trí địa - chiến lược đặc biệt quan trọng của Việt Nam trong khu vực, trong quá trình Hoa Kỳ triển khai chiến lược tăng cường quan hệ với khu vực, việc tăng cường sự hiện diện quân sự tại Việt Nam luôn là một nhu cầu hoặc ít nhất có trong tính toán chính sách với khu vực, đặc biệt là việc tìm cách tiếp cận hoặc xây dựng căn cứ quân sự trên lãnh thổ Việt Nam. Việc Bộ trưởng Quốc phòng Panetta chọn Vịnh Cam Ranh làm nơi dừng chân đầu tiên trong chuyến thăm Việt Nam (tháng 6/2012) là tín hiệu mang tính biểu tượng cho thấy có thể Hoa Kỳ tiếp tục tìm cách tiếp cận cảng biển quan trọng, có ý nghĩa chiến lược này. Nếu điều này trở thành một vấn đề quá quan trọng đối với cả 2 bên trong tiến trình tăng cường hợp tác và trong khi chưa có được giải pháp hợp lý, vấn đề này hoàn toàn có thể làm ảnh hưởng đến sự phát triển lành mạnh quan hệ quốc phòng Việt Nam – Hoa Kỳ trong 5 năm tới. 136 Trong củng cố năng lực và khả năng hợp tác Cũng như đối với các mảng hợp tác khác trong quan hệ quốc phòng Việt Nam – Hoa Kỳ, những di sản của chiến tranh cũng như việc trong nội bộ 2 nước vẫn tồn tại nhiều ý kiến phản đối sự hợp tác tạo khó khăn cho tiến trình hợp tác quốc phòng nói chung và quá trình tăng cường củng cố năng lực và khả năng hợp tác quốc phòng nói riêng. Luật Hoa Kỳ liên quan tới việc kiểm soát xuất khẩu vũ khí đặt ra những quy định khó khăn trong việc thúc đẩy Hoa Kỳ sớm bỏ lệnh cấm bán vũ khí cho Việt Nam. Ngay cả khi đã dỡ bỏ một phần lệnh cấm vận bán vũ khí sát thương cho Việt Nam, tại Hoa Kỳ vẫn còn nhiều người lên tiếng đòi Việt Nam cần có tiến bộ về nhân quyền như một điều kiện tiên quyết để Hoa Kỳ có thể dỡ bỏ hoàn toàn cấm vận vũ khí. Trong khi đó, Việt Nam đề nghị Hoa Kỳ bỏ hoàn toàn cấm vận vũ khí cho Việt Nam và không gắn vấn đề dân chủ, nhân quyền, tự do tôn giáo với vấn đề này như một minh chứng cho lòng tin lẫn nhau cũng như phản ánh thực chất hơn sự tiến triển trong quan hệ toàn diện giữa hai nước, nhất là để phù hợp với những phát biểu chính sách của Lãnh đạo hai nước trong 10 năm qua. Trong quá trình hai bên thúc đẩy, tăng cường quan hệ quốc phòng, vấn đề Hoa Kỳ bán vũ khí cho Việt Nam có thể được một số nhóm nội bộ, cá nhân từ phía Hoa Kỳ sử dụng để gây sức ép, can thiệp vào công việc nội bộ của Việt Nam, và lợi dụng điều này để nhằm đạt các mục đích chiến lược khác mà chưa chắc đã phù hợp với lợi ích của Việt Nam. Tiểu kết Tình hình quan hệ quốc tế, triển vọng quan hệ Việt Nam – Hoa Kỳ và dự kiến điều chỉnh chính sách quốc phòng của hai nước trong 5 năm tới về cơ bản là thuận cho việc hai bên tăng cường quan hệ quốc phòng: (i) Khó 137 có thể xẩy ra chiến tranh trên quy mô lớn và hợp tác vẫn là xu thế chủ đạo của quan hệ quốc tế, các quốc gia tiếp tục phải đối mặt với nhiều vấn đề an ninh khu vực; (ii) Hai nước tiếp tục đưa quan hệ ối tác toàn diện đi vào chiều sâu với việc tăng cường nhiều quan hệ thực chất, cùng có lợi; (iii) Hai nước tiếp tục điều chỉnh chính sách quốc phòng theo hướng chú trọng hơn nữa hợp tác với khu vực để đảm bảo tăng cường khả năng tác chiến linh hoạt, gọn nhẹ, hiệu quả để ứng phó với các thách thức truyền thống và phi truyền thống trong bối cảnh mới. Những thuận lợi là chính sẽ tạo ra nhiều cơ hội để hai nước thúc đẩy nhanh hơn những mảng hợp tác sau: (i) Tăng cường hợp tác đa phương để xây dựng một cấu trúc an ninh khu vực đủ mạnh cho giai đoạn mới, giải quyết vấn đề Biển ông, ứng phó với các thách thức an ninh phi truyền thống; (ii) Tăng cường hợp tác song phương trên nhiều lĩnh vực, bao gồm cả những trụ cột của hợp tác quốc phòng trong 20 năm qua như hợp tác nhân đạo, tìm kiếm người mất tích...; (iii) Tiếp tục thúc đẩy hợp tác củng cố năng lực của hai bên một cách thực chất trên các lĩnh vực khác nhau, bao gồm chuyển giao công nghệ và mua bán thiết bị quân sự. Tuy nhiên, với những đặc thù và khác biệt trong hệ thống chính trị - xã hội của hai nước, bối cảnh khu vực tiếp tục có nhiều tiến triển phức tạp, hai nước vẫn phải chú ý tới một số vấn đề có thể gây cản trở như chính trị nội bộ Hoa Kỳ, lòng tin, những di sản do chiến tranh để lại, mối quan hệ nhạy cảm với các nước láng giềng khu vực... iều rất đáng chú ý trong dự báo quan hệ quốc phòng thời gian tới là: Trong khi quan hệ quốc phòng song phương đã có được những nền móng khá vững chắc và sẽ tiếp tục phát triển khá nhanh hơn trong 5 năm tới, quan hệ quốc phòng Việt Nam – Hoa Kỳ liên quan đến các vấn đề khu vực 138 và quốc tế dù mới bắt đầu trong mấy năm gần đây song có thể sẽ phát triển rất nhanh, mạnh do tình hình khu vực và sự trùng hợp về lợi ích chiến lược của hai bên quyết định. Mối quan hệ này là tương đối thuận chiều với việc các nước đều chú trọng tăng hợp tác quốc phòng đa phương để ứng phó với các thách thức chung trong khu vực, bảo vệ các lợi ích chiến lược của quốc gia, phù hợp với các quy định của luật pháp quốc tế. Mặt khác, hai bên cũng vẫn tiếp tục phải thận trọng trong thúc đẩy các mối quan hệ này do các nhân tố nội bộ và khu vực, đặc biệt là Trung Quốc. ể tranh thủ tình thế về cơ bản là thuận lợi này trong việc thúc đẩy hơn nữa hợp tác quốc phòng trong 5 năm tới, hai bên cần tiếp tục làm sâu sắc thêm, cụ thể hóa các nền tảng hợp tác đang đặt ra hiện nay trong cả song phương và đa phương, nhất là các lĩnh vực khuôn khổ quan hệ quốc phòng, vấn đề niềm tin, xử lý một số vấn đề nội bộ từ cả hai phía (giải quyết hậu quả chiến tranh, xử lý vấn đề “dân chủ - nhân quyền”...) 139 KẾT LUẬN VÀ KIẾN NGHỊ 1. Các kết luận của Luận án: - Cho đến nay, chưa có một lý thuyết toàn diện để lý giải các nhân tố chủ yếu chi phối quan hệ quốc phòng giữa các quốc gia nói chung và giữa Việt Nam và Hoa Kỳ nói riêng. Qua xem xét các quan điểm của thuyết Hiện thực, quan điểm của Việt Nam và Hoa Kỳ về các nhân tố chi phối quan hệ quốc phòng, có thể khái quát chúng thành các nhân tố khách quan (sự thay đổi của môi trường an ninh quốc tế, khu vực cũng như quan hệ chung giữa hai nước) và các nhân tố chủ quan (việc điều chỉnh chính sách quốc phòng của từng nước). Khác với nhiều lĩnh vực hợp tác khác, vai trò của các nhân tố chủ quan trong hợp tác quốc phòng là rất lớn do quốc gia là chủ thể chủ yếu trong hợp tác quốc phòng, đây là lĩnh vực nhạy cảm liên quan đến nhiều vấn đề như niềm tin, di sản chiến tranh, mối quan hệ với các nước thứ 3 cũng như việc hợp tác quốc phòng gắn liền với các lợi ích và tính toán chiến lược của các bên... Trong hoạch định và triển khai chính sách quốc phòng, các quốc gia đặc biệt chú trọng đến việc việc hướng tới các lợi ích quốc gia cơ bản về quốc phòng, bao gồm nhu cầu tăng cường năng lực của mỗi bên, hợp tác quốc phòng để củng cố quan hệ song phương, nhu cầu tăng cường hợp tác quốc phòng để giải quyết các thách thức an ninh truyền thống và phi truyền thống... - Kể từ khi thiết lập quan hệ ngoại giao năm 1995, quan hệ quốc phòng Việt Nam – Hoa Kỳ có một số tiến triển tích cực song thận trọng. Hai bên tập trung chủ yếu vào các hợp tác nhân đạo và khắc phục hậu quả chiến tranh, trao đổi đoàn, bước đầu hợp tác xây dựng năng lực cho quân đội. áng chú ý, một số thỏa thuận hợp tác quốc phòng song phương (đặc biệt là Bản ghi nhớ 9/2011) đã mở ra một giai đoạn mới cho hợp tác quốc 140 phòng nói riêng và góp phần hình thành nội hàm của mối Quan hệ ối tác Toàn diện Việt Nam – Hoa Kỳ xác lập 7/2013. Nói chung trong giai đoạn 1995 – 2015, quan hệ quốc phòng Việt Nam – Hoa Kỳ có tiến triển vừa mức và tạo cơ sở nền tảng quan trọng cho giai đoạn sau, song chưa phù hợp với khuôn khổ Quan hệ Toàn diện giữa hai nước. Nguyên nhân cơ bản của tình trạng trên là mặc dù hai bên chia sẻ ngày càng nhiều quan tâm về khu vực và các lợi ích chiến lược, vấn đề lòng tin, khả năng hợp tác thực chất giữa hai bên trong một số lĩnh vực mới, sự nhạy cảm trong mối quan hệ với Trung Quốc và các nước khu vực khiến cho cả 2 bên phải thận trọng trong mối quan hệ này... - Qua nghiên cứu các dự báo phổ biến trong và ngoài nước, đặc biệt là qua trao đổi với các chuyên gia về quốc phòng của cả hai nước, về cơ bản các đánh giá đều cho rằng 2016 - 2020 là giai đoạn có nhiều điểm thuận để hai nước tăng cường hợp tác quốc phòng (nhất là việc tăng hợp tác để ứng phó với các thách thức an ninh truyền thống và phi truyền thống) do các nguyên nhân sau: (i) Thế giới tiếp tục xu hướng đa cực và các mối đe dọa an ninh truyền thống và phi truyền thống ngày càng phức tạp, trong khi đó cấu trúc an ninh khu vực (có xu hướng vẫn tiếp tục lấy ASEAN làm trung) chưa đủ mạnh để ứng phó khiến các nước lớn nhỏ đều chú trọng tăng cường đồng thời các mối quan hệ đa phương và song phương, trong đó có hợp tác quốc phòng; (ii) Hoa Kỳ tiếp tục là cường quốc mạnh nhất thế giới, đang tăng mạnh quan hệ với Châu Á – Thái Bình Dương trong dài hạn, chú trọng tăng hợp tác với đồng minh và các đối tác mới phù hợp với thế và lực đang suy giảm tương đối. Quan hệ Việt Nam – Hoa Kỳ đi vào giai đoạn sâu sắc và cụ thể hóa khuôn khổ ối tác Toàn diện; (iii) Việt Nam và Hoa Kỳ tiếp tục chú trọng hợp tác quốc tế và thúc đẩy hợp tác quốc phòng song phương vì có sự trùng hợp về lợi ích chiến lược trong 141 việc tăng hợp tác để xử lý vấn đề Biển ông cũng như nhiều vấn đề an ninh phi truyền thống. Dự kiến trong giai đoạn 2016 – 2020, hợp tác quốc phòng Việt Nam – Hoa Kỳ sẽ phát triển mạnh mẽ trong các vấn đề khu vực và quốc tế, có bước tiến mới với việc củng cố hợp tác song phương (bao gồm việc tạo dựng các khuôn khổ pháp lý thực chất hơn), hai bên có thể đẩy mạnh hơn nữa các hợp tác cụ thể trong lĩnh vực xây dựng năng lực cho quân đội của cả hai nước. 2. Các kiến nghị của tác giả: - ể tiếp tục thúc đẩy quan hệ quốc phòng Việt Nam – Hoa Kỳ nhằm phục vụ tích cực cho các mục tiêu xây dựng và bảo vệ Tổ quốc trong tình hình và các xu hướng đã nêu, cần: (i) Gắn kết hơn nữa hợp tác quốc phòng song phương với việc giải quyết các vấn đề của khu vực và thế giới. Về lâu dài, việc xây dựng một cấu trúc khu vực ổn định, có khả năng xử lý các thách thức an ninh lớn tại khu vực, hỗ trợ tích cực cho sự phát triển của các quốc gia khu vực là lợi ích chung của các nước trong và ngoài khu vực. Việc Hoa Kỳ thúc đẩy các sáng kiến khu vực, tăng hợp tác với các đồng minh và đối tác mới, không để một quốc gia nào nổi lên thao túng khu vực là phù hợp với lợi ích của Việt Nam. Là một nước thành viên tích cực và chủ động trong ASEAN, Việt Nam có cơ hội để đóng góp vào thành công chung của ASEAN, thúc đẩy vai trò trung tâm ASEAN trong cấu trúc mới ở khu vực. Việt Nam cần tiếp tục phối hợp chặt chẽ với Hoa Kỳ và các thành viên ASEAN trong vấn đề xây dựng cấu trúc khu vực, trước hết là sớm thiết lập Quan hệ ối tác chiến lược Hoa Kỳ - ASEAN và phối hợp tại các diễn đàn đa phương trong khuôn khổ ASEAN, các diễn đàn tiểu khu vực. Hợp tác quốc phòng song phương là một kênh quan trọng để trao đổi thông tin, xây dựng niềm 142 tin, thúc đẩy các hợp tác cụ thể để tạo thành một cấu phần quan trọng của cấu trúc khu vực mới. Bên cạnh đó, Việt Nam cần tiếp tục tăng cường hợp tác quốc phòng với Hoa Kỳ trong vấn đề Biển ông trên các phương diện tăng cường năng lực (an ninh biển), chia sẻ thông tin toàn diện qua các kênh hợp tác quốc phòng, thúc đẩy hòa bình giải quyết các tranh chấp trên cơ sở luật pháp quốc tế. Ngoài ra, cần thúc đẩy các lĩnh vực hợp tác mới như tăng hợp tác Việt Nam – Hoa Kỳ liên quan việc tham gia sâu thêm vào hoạt động gìn giữ hòa bình, an ninh không gian, an ninh mạng, quản lý tài nguyên biển... (song phương và đa phương). (ii) Tiếp tục tạo dựng khuôn khổ quan hệ quốc phòng tương xứng với nội hàm Đối tác Toàn diện Việt Nam – Hoa Kỳ thông qua các biện pháp sau: iều chỉnh/nâng cấp Bản ghi nhớ 9/2011 thành một thỏa thuận chung có tầm nhìn chiến lược hơn và các nội hàm hợp tác thực chất, cụ thể hơn; trao đổi và ký kết các thỏa thuận để làm cơ sở thúc đẩy hợp tác trong một số lĩnh vực cụ thể (cả song phương và khu vực); tiếp tục duy trì, coi trọng và phát triển các cơ chế trao đổi thông tin thường xuyên, nhất là cơ chế ối thoại chính trị - an ninh - quốc phòng Việt Nam - Hoa Kỳ và cơ chế ối thoại quốc phòng thường niên cấp Thứ trưởng để xây dựng lòng tin và trao đổi sâu về tình hình khu vực, kinh nghiệm các nước trong quan hệ quốc phòng và trao đổi các biện pháp tăng cường hợp tác quốc phòng Việt Nam – Hoa Kỳ; tiếp tục các hoạt động giao lưu quốc phòng (tàu hải quân thăm cảng, thăm viếng tàu quân sự, giao lưu các binh chủng...) đi đôi với tháo gỡ những mặt không thuận cho quan hệ quốc phòng như giải tỏa các vấn đề về “dân chủ, nhân quyền”, hội chứng chiến tranh... (iii) Chú trọng đẩy mạnh hợp tác xây dựng tiềm lực quốc phòng đối với cả hai bên. Trong khi Hoa Kỳ có thể quan tâm việc phối hợp chính sách, khả năng phối hợp tác chiến, trao đổi thông tin tình báo Việt Nam cần 143 tiếp tục đề nghị Hoa Kỳ phối hợp chặt chẽ để thúc đẩy hợp tác trên các lĩnh vực: Hỗ trợ nhân đạo; khả năng đối phó với thảm họa thiên nhiên (khảo sát, đánh giá; đào tạo, xây dựng năng lực; quan sát diễn tập tìm kiếm cứu nạn; tổ chức diễn tập chung về tìm kiếm cứu nạn). Việt Nam thúc đẩy Hoa Kỳ tăng cường hợp tác, cung cấp thông tin về dự báo thời tiết và một số sự cố, thiên tai để Việt Nam chủ động phòng chống vì những thông tin này của Hoa Kỳ có độ chính xác và tin cậy cao; tiếp tục đào tạo tiếng Anh, quân y và các nghiệp vụ quốc phòng; hợp tác tăng cường năng lực bảo vệ an ninh mạng, an ninh biên giới, chống tội phạm ma túy và các loại tội phạm xuyên quốc gia, chống khủng bố...; vận động Hoa Kỳ bỏ hoàn toàn lệnh cấm vận bán vũ khí sát thương đối với Việt Nam (mà không đi kèm các điều kiện vô lý về “dân chủ, nhân quyền”...). Trong tiến trình này, cần tăng cường tranh thủ các hỗ trợ từ các chương trình tài trợ quân sự của Hoa Kỳ cũng như sự phối hợp với các cơ quan khác nhau của Hoa Kỳ. - Trong bối cảnh Việt Nam đẩy mạnh hội nhập quốc tế một cách toàn diện, xin kiến nghị sử dụng những kết quả của Luận án để: (i) Làm cơ sở bổ sung cho công tác hoạch định chính sách đối ngoại nói chung cũng như trong quan hệ với Hoa Kỳ. (ii) Phục vụ công tác hoạch định và triển khai quan hệ quốc phòng với Trung Quốc, Lào và Cămpuchia. (iii) Làm tài liệu cho việc nghiên cứu và giảng dậy về quan hệ quốc tế, quan hệ Việt Nam – Hoa Kỳ, quan hệ giữa Việt Nam với các nước láng giềng và khu vực. - Kiến nghị một số hướng nghiên cứu tiếp theo như sau: (i) Nghiên cứu sâu các khuôn khổ lý thuyết để rút ra các nhận định có tính chất sâu rộng và chặt chẽ hơn về các nhân tố chủ yếu chi phối quan hệ 144 quốc phòng song phương nói chung cũng như trong mối quan hệ quốc phòng giữa Việt Nam và Hoa Kỳ nói riêng. (ii) Xem xét kỹ hơn những nhân tố thực tế chi phối quan hệ quốc phòng Việt Nam – Hoa Kỳ giai đoạn 1995 – 2015, nhất là việc chính trị nội bộ của mỗi nước (bao gồm những nghi kỵ từ cả hai phía do sự khác biệt về hệ thống chính trị, sự thiếu hụt niềm tin từ cả 2 bên, những tác động tiêu cực do lịch sử để lại, liên quan đến mối quan hệ tế nhị với các quốc gia láng giềng...) tác động đến điều chỉnh chính sách đối ngoại quốc phòng. (iii) Nghiên cứu sâu quan hệ quốc phòng giữa Hoa Kỳ với các quốc gia trong khu vực và giữa các quốc gia này với nhau (để hiểu thêm môi trường chiến lược và hợp tác quốc phòng tại khu vực)./. 145 DANH MỤC CÁC CÔNG TRÌNH NGHIÊN CỨU ĐÃ CÔNG BỐ 1. Lại Thái Bình (2014), “Nền tảng của quan hệ quốc phòng Việt Nam – Hoa ỳ từ năm 1997”, Châu Mỹ ngày nay. 2. Lại Thái Bình – Trần im Chi (2014), “Những điều chỉnh chính sách của các nước lớn đối với khu vực Châu Á – Thái Bình Dương”, Tạp chí Cộng sản. 3. Lại Thái Bình (2014), “Quan hệ quốc phòng Việt Nam – Hoa ỳ từ khi bình thường hóa quan hệ ngoại giao (7-1995)”, Lịch sử uân sự. 146 DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO A. Tiếng Việt: 1. Bộ Chính trị (2013), Nghị uyết của Bộ Chính trị về hội nhập uốc tế, ngày 10/4/2013. 2. Bộ Ngoại giao (1997), ỏi đáp về tình hình thế giới và chính sách đối ngoại của Đảng và Nhà nước ta, NXB Chính trị Quốc gia, Hà Nội. 3. Bộ Ngoại giao (2002), Ngoại giao iệt Nam 1945 – 2000, NXB Chính trị Quốc gia, Hà Nội. 4. Bộ Ngoại giao (2005), Tuyên bố chung giữa Cộng hòa xã hội chủ nghĩa iệt Nam và ợp chúng uốc oa Kỳ, ngày 21/6/2005. 5. Bộ Ngoại giao (2008), Tuyên bố chung giữa ợp chúng uốc oa Kỳ và Cộng hòa xã hội chủ nghĩa iệt Nam, ngày 25/6/2008. 6. Bộ Ngoại giao (2013), Tuyên bố chung về uan hệ iệt Nam – oa Kỳ, ngày 25/7/2013. 7. Bộ Ngoại giao (2015), Tuyên bố về tầm nhìn chung iệt Nam – Hoa Kỳ, ngày 7/7/2015. 8. Bộ Quốc phòng (1998), Sách trắng Quốc phòng 1998, Hà Nội. 9. Bộ Quốc phòng (2004), Sách trắng Quốc phòng 2004, Hà Nội. 10. Bộ Quốc phòng (2009), Sách trắng Quốc phòng 2009, Hà Nội. 11. Bộ Quốc phòng (2010), Cách mạng trong uân sự và những vấn đề đặt ra đối với uốc phòng iệt Nam, NXB Chính trị Quốc gia, Hà Nội. 12. Brzezinski, Zbigniew (1999), Bàn cờ lớn, NXB Chính trị Quốc gia, Hà Nội. 13. ảng Cộng sản Việt Nam (1996), ăn iện Đại hội Đại biểu toàn uốc lần thứ III, NXB Chính trị Quốc gia, Hà Nội. 14. ảng Cộng sản Việt Nam (2001), ăn iện Đại hội Đại biểu toàn uốc lần thứ IX, NXB Chính trị Quốc gia, Hà Nội. 15. ảng Cộng sản Việt Nam (2006), ăn iện Đại hội Đại biểu toàn uốc lần thứ X, NXB Chính trị Quốc gia, Hà Nội. 16. ảng Cộng sản Việt Nam (2011), Báo cáo Chính trị của Ban Chấp hành Trung ương Đảng hoá X tại Đại hội đại biểu toàn uốc lần thứ XI, NXB Chính trị Quốc gia, Hà Nội. 147 17. ảng Cộng sản Việt Nam (2011), Chiến lược phát triển đất nước giai đoạn 2011 – 2020, Đại hội Đảng toàn uốc lần thứ XI, NXB Chính trị Quốc gia, Hà Nội. 18. Friedman, G. (2010), Một trăm năm tới: Dự báo cho thế ỷ XXI, NXB Chính trị Quốc gia, Hà Nội. 19. Friedman, Thomas L. (2006), Từng là bá chủ, NXB Trẻ, TP HCM. 20. Nguyễn Huy Hiệu (2008), Một số vấn đề về công tác đối ngoại uốc phòng iệt Nam, NXB Quân đội Nhân dân, Hà Nội. 21. Vũ Dương Huân (2009), Một số vấn đề uan hệ uốc tế - Chính sách đối ngoại và ngoại giao iệt Nam, NXB Chính trị - Hành chính, Hà Nội. 22. Huntington, Samuel (2003), Sự va chạm giữa các nền văn minh, NXB Lao động, Hà nội. 23. Jentleson, B.W. (2004), Chính sách đối ngoại oa Kỳ - Động cơ của sự lựa chọn trong thế ỷ XXI, NXB Chính trị Quốc gia, Hà Nội. 24. Kennedy, P. (1992), ưng thịnh và suy vong của các cường uốc, NXB Thông tin Lý luận, Hà Nội. 25. Lê Linh Lan (chủ biên) (2004), ề chiến lược an ninh của Mỹ hiện nay, NXB Chính trị Quốc gia, Hà Nội. 26. McCormick, Thomas J. (2004), Nước Mỹ nửa thế ỷ: Chính sách đối ngoại của oa Kỳ trong và sau Chiến tranh Lạnh, NXB Chính trị Quốc gia, Hà Nội. 27. Phạm Bình Minh (chủ biên) (2010), Cục diện thế giới đến 2020, NXB Chính trị Quốc gia, Hà Nội. 28. Phạm Bình Minh (chủ biên) (2011), Định hướng chiến lược đối ngoại iệt Nam đến 2020, NXB Chính trị Quốc gia, Hà Nội. 29. Phạm Bình Minh (chủ biên) (2011), Đường lối chính sách đối ngoại iệt Nam trong giai đoạn mới, NXB Chính trị Quốc gia, Hà Nội. 30. Trương Tiểu Minh (2002), Chiến tranh lạnh và di sản của nó, NXB Chính trị Quốc gia, Hà Nội. 31. Lưu Minh Phúc (2011), Giấc mơ Trung Quốc, NXB Văn học, Hà Nội. 32. Ripley, Randall B. và Lindsay, James M. (chủ biên) (2002), Chính sách đối ngoại của oa Kỳ sau Chiến tranh Lạnh, NXB CTQG, Hà Nội. 148 33. oàn Văn Thắng (2003), Quan hệ uốc tế: Các phương pháp tiếp cận hiện đại, NXB Thống kê, Hà Nội. 34. Nguyễn Thị Thanh Thủy (2009), Chiến lược an ninh uốc phòng iệt Nam trong thời ỳ đổi mới, Học viện Ngoại giao, Hà Nội. 35. Nguyễn Vũ Tùng (2007), Chính sách đối ngoại iệt Nam (Tập 2), NXB Thế giới, Hà Nội. 36. Nguyễn Vũ Tùng (2007), Khuôn hổ uan hệ đối tác của iệt Nam, Học viện Quan hệ Quốc tế, Hà Nội. 37. Nguyễn Vũ Tùng và Hoàng Anh Tuấn (2006), Quan hệ đối tác chiến lược trong uan hệ uốc tế: Từ lý thuyết đến thực tiễn, Học viện Quan hệ Quốc tế, Hà Nội. 38. Viotti, Paul R. và Kauppi, Mark V. (2001), Lý luận Quan hệ Quốc tế, Học viện Quan hệ Quốc tế, Hà Nội. 39. Zakaria, F. (2008), Thế giới hậu Mỹ, NXB Tri thức, Hà Nội. B. Tiếng Anh: 40. Acharya, A. (2001), Constructing a Security Community in Southeast Asia: ASEAN and the Problem of Regional Order (Politics in Asia), Routledge, New York. 41. Bader, J.A. (2012), bama and China’s Rise – An Insider’s account of America’s Asia strategy, The Brookings Institution, Washington D.C. 42. Barnett, T.P.M. (2009), Great Powers – America and the World after Bush, G. P. Putnam’s Sons, New York. 43. Berteau, D.J. & Green, M.J. (2012), U.S. Force Posture Strategy in the Asia Pacic Region: An Independent Assessment, CSIS, Washington D.C. 44. Brzezinski, Z., Scowcroft, B. (2008), America and the World, Basic Books, New York. 45. Buckley, R. (2002), The United States in the Asia – Pacific since 1945, Cambridge University Press, Cambridge. 46. Burke, A., McDonald, M. (2007), Critical Security in the Asia – Pacific, Manchester University Press, England. 47. Cameron, F. (2002), U.S. Foreign Policy after the Cold War, Routlege, New York. 48. Clements, K (1993), Peace and security in the Asia – Pacific region, The United Nations University Press and The Dunmore Press, Tokyo. 149 49. Clinton, H. (2010), America’s Engagement in the Asia-Pacific, Department of State, Washington D.C. 50. Clinton, H. (2010), Remarks on Regional Architecture in Asia: Principles and Priorities, 12/1/2010. 51. Clinton, H. (2011), “America’s Pacific Century”, Foreign Policy, November 2011, pp. 56 – 63. 52. Cohen, W.S. (1997), Report of the Quadrennial Defense Review, Department of Defense, Washington D.C. 53. Coicaud, J.M., Wheeler, N.J. (2008), National Interest and International Solidarity, United Nations University Press, New York. 54. Connors, M., Davison R., Dosch, J. (2004), The New Global Politics of the Asia – Pacific, Routledge, New York. 55. Department of Defense (1993), Defense Strategy for the 1990s: The regional defense strategy, January 1993, Washington D.C. 56. Department of Defense (2001), Quadrennial Defense Review Report, September 2001, Washington D.C. 57. Department of Defense (2005), The National Defense Strategy of theUnited States of America, March 2005, Washington D.C. 58. Department of Defense (2006), Quadrennial Defense Review Report, February 2006, Washington D.C. 59. Department of Defense (2008), The National Defense Strategy of theUnited States of America, June 2005, Washington D.C. 60. Department of Defense (2010), Quadrennial Defense Review Report, February 2010, Washington D.C. 61. Department of Defense (2011), The National Military Strategy of the United States of America 2011: Redefining America’s Military Leadership, February 2011, Washington D.C. 62. Department of Defense (2012), Sustaining U.S. Global Leadership: Priorities for 21st Century Defense, January 2012, Washington D.C. 63. Department of Defense (2014), Quadrennial Defense Review Report, March 2014, Washington D.C. 64. Department of Defense (2015), The National Military Strategy of the United States of America 2015, July 2015, Washington D.C. 150 65. Doyle, R. (2009), The Roots of War in the 21st Century: Geography, Hegemony, and Politics in Asia – Pacific, University Press of America, Lanham. 66. Edwards, J. (2007), “Re-engaging with the world”, Foreign Affairs, September/October 2007. 67. Emmott, B. (2009), Rivals: How the Power Struggle Betwwen China, India, and Japan Will Shape Our Next Decade, Harcourt Trade Publishers, California. 68. Haine, J.Y., Lindstrom, G. (2002), An analysis of The National Security Strategy of the United States of America, European Union Institute for Security Studies, Paris. 69. Huisken, R. (2009), The Architecture of Security in the Asia – Pacific, The Australian National University Press, Canberra. 70. Hunter, R.E. (2000), “Think Tanks: Helping to Shape US Foreign Policy and Security”, An Electronic Journal of the U.S. Department of State, Vol. 5, No. 1, Washington D.C. 71. Ikenberry, G.J., Mastanduno, M., International Relations Theory and the Asia – Pacific, Columbia University Press, New York. 72. Jordan, A. A. (1999), American National Security, The Johns Hopkins University Press, Baltimore. 73. Kennedy, P. (1993), Preparing for the 21st Century, Harper Collins, London. 74. Keohane, R.O., Nye, J. (2000), Power and Interdependence: World Politics in Transition, Longman, New York. 75. Kerrey, J.R., Manning, R.A. (2001), The United States and Southeast Asia: A Policy Agenda for the New Administration, The Council on Foreign Relations, New York. 76. Kolodziej, E. (2005), Security and International Relations, Cambridge University Press, Cambridge. 77. McClellan, J.E. & Harold Dorn (2006), Science and Technology in World History: An Introduction, The Johns Hopkins University Press, Maryland. 78. Stern, L.M. (2005), Defense Relations Between The United States and Vietnam: The Process of Normalization 1977 – 2003, McFarland & Company, Inc, Publishers, North Carolina. 151 79. The White House (1995), A National Security Strategy of Engagement and Enlargement, February 1995, Washington D.C. 80. The White House (1998), A National Security Strategy for A New Century, October 1998, October 1995, Washington D.C. 81. The White House (2002), The National Security Strategy of the United States of America, September 2002, Washington D.C. 82. The White House (2006), The National Security Strategy of the United States of America, March 2006, Washington D.C. 83. The White House (2010), The National Security Strategy of the United States of America, May 2010, Washington D.C. 84. The White House (2015), National Security Strategy, February 2015, Washington D.C. 85. Vaugh, B. (2007), U.S. Strategic and Defense Relationships in the Asia – Pacific Region, Congressional Research Service, Washington D.C. 86. Weatherbee, D.E. (2008), International Relations in Southeast Asia: The Struggle for Autonomy, Rowman & Littlefield Publishers, Maryland.

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • pdfluan_an_mot_so_nhan_to_chu_yeu_chi_phoi_quan_he_quoc_phong_v.pdf
Tài liệu liên quan