Luận án Một số giải pháp nhằm nâng cao năng lực quản lý nhà nước đối với phát triển thể thao thành tích cao ở Việt Nam trong giai đoạn hội nhập

BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO BỘ VĂN HÓA, THỂ THAO VÀ DU LỊCH VIỆN KHOA HỌC THỂ DỤC THỂ THAO ––––––––––––––––––––––– NGUYỄN THỊ PHƯƠNG LOAN MỘT SỐ GIẢI PHÁP NHẰM NÂNG CAO NĂNG LỰC QUẢN LÝ NHÀ NƯỚC ĐỐI VỚI PHÁT TRIỂN THỂ THAO THÀNH TÍCH CAO Ở VIỆT NAM TRONG GIAI ĐOẠN HỘI NHẬP LUẬN ÁN TIẾN SĨ KHOA HỌC GIÁO DỤC HÀ NỘI – 2018 BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO BỘ VĂN HÓA, THỂ THAO VÀ DU LỊCH VIỆN KHOA HỌC THỂ DỤC THỂ THAO ––––––––––––––––––––––– NGUYỄN THỊ PHƯƠNG LOAN MỘT SỐ GIẢI PHÁP NHẰM

pdf266 trang | Chia sẻ: huong20 | Ngày: 15/01/2022 | Lượt xem: 462 | Lượt tải: 0download
Tóm tắt tài liệu Luận án Một số giải pháp nhằm nâng cao năng lực quản lý nhà nước đối với phát triển thể thao thành tích cao ở Việt Nam trong giai đoạn hội nhập, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
NÂNG CAO NĂNG LỰC QUẢN LÝ NHÀ NƯỚC ĐỐI VỚI PHÁT TRIỂN THỂ THAO THÀNH TÍCH CAO Ở VIỆT NAM TRONG GIAI ĐOẠN HỘI NHẬP Chuyên ngành: Huấn luyện thể thao Mã số: 62140104 Cán bộ hướng dẫn khoa học : CBHD 1: PGS. TS Lê Đức Chương CBHD 2: TS. Trần Đức Phấn HÀ NỘI - 2018 LỜI CAM ĐOAN Tôi xin cam đoan, đây là công trình nghiên cứu của riêng tôi. Các số liệu, kết quả trong luận án là trung thực và chưa tác giả nào công bố trong bất kỳ công trình nào khác. Tác giả luận án Nguyễn Thị Phương Loan MỤC LỤC Trang Trang bìa Trang phụ bìa Lời cam đoan Mục lục Danh mục chữ viết tắt Danh mục bảng, sơ đồ, biểu đồ PHẦN MỞ ĐẦU 1 CHƯƠNG I: TỔNG QUAN CÁC VẤN ĐỀ NGHIÊN CỨU 4 1.1. Những vấn đề cơ bản của quản lý và quản lý nhà nước về thể dục thể thao 4 1.1.1. Năng lực quản lý nhà nước 1.1.2. Cơ sở lý luận về quản lý 1.1.3. Yếu tố cấu thành hoạt động quản lý quản lý nhà nước về thể dục thể thao 4 6 8 1.2.Quản lý nhà nước đối với thể thao thành tích cao và thể thao chuyên nghiệp 11 1.2.1. Khái niệm và nội hàm của thể thao thành tích cao 11 1.2.2. Hệ thống cơ quan quản lý nhà nước về thể thao thành tích cao 14 1.2.3. Nội dung quản lý nhà nước trong lĩnh vực thể thao thành tích cao 1.2.4. Quản lý huấn luyện viên 1.2.5. Quản lý cán bộ lãnh đạo và nhân viên nghiệp vụ 1.2.6. Quản lý vận động viên và quản lý quá trình huấn luyện 15 20 25 27 1.3. Chính sách đầu tư, tài chính cho thể thao thành tích cao 35 1.3.1.Chính sách đầu tư 35 1.3.2. Chính sách tài chính 39 1.4. Kinh nghiệm đầu tư cho thể thao thành tích cao một số quốc gia trên thế giới 41 1.5. Các công trình nghiên cứu liên quan 44 1.5.1.Tình hình nghiên cứu ngoài nước 44 1.5.2. Tình hình nghiên cứu trong nước 46 CHƯƠNG II. ĐỐI TƯỢNG, PHƯƠNG PHÁP VÀ TỔ CHỨC NGHIÊN CỨU 50 2.1.Đối tượng nghiên cứu 50 2.2. Phương pháp nghiên cứu 50 2.2.1. Phương pháp tổng hợp và phân tích tài liệu 2.2.2. Phương pháp nghiên cứu lịch sử 2.2.3. Phương pháp phân tích SWOT 50 51 51 2.2.4. Phương pháp điều tra cơ bản 51 2.2.5. Phương pháp chuyên gia 2.2.6. Phương pháp thống kê mô tả 2.2.7. Phương pháp toán học thống kê 52 52 55 2.3. Tổ chức nghiên cứu 55 2.3.1. Thời gian nghiên cứu 55 2.3.2. Địa điểm nghiên cứu 56 CHƯƠNG III: KẾT QUẢ NGHIÊN CỨU VÀ BÀN LUẬN 55 3.1. Đánh giá thực trạng quản lý nhà nước đối với phát triển thể thao thành tích cao và thể thao chuyên nghiệp tại Việt Nam 57 3.1.1. Đánh giá thực trạng hệ thống văn bản pháp luật về thể thao thành tích cao 57 3.1.2. Tác động của quản lý nhà nước đối với phát triển thể thao thành tích cao 58 3.1.3. Đánh giá hệ thống chính sách đầu tư, tài chính hiện hành đối với thể thao thành tích cao 70 3.1.4. Đánh giá thực trạng lập kế hoạch và thực hiện chính sách đầu tư, tài chính thể thao thành tích cao 3.1.5. Phân tích SWOT về thực trạng hệ thống chính sách 3.1.6. Bàn luận mục tiêu 1 73 74 76 3.2. Một số giải pháp cơ bản góp phần nâng cao hiệu quả quản lý nhà nước đối với phát triển thể thao thành tích cao và thể thao chuyên nghiệp tại Việt Nam một cách bền vững. 83 3.2.1. Cơ sở đề xuất hệ thống giải pháp phát triển thể thao thành tích cao 83 3.2.2. Đề xuất hệ thống giải pháp phát triển thể thao thành tích cao 92 3.2.3. Xây dựng hệ thống chính sách đặc thù đầu tư, tài chính các môn thể thao Olympic 3.2.4. Bàn luận mục tiêu 2 98 115 KẾT LUẬN VÀ KIẾN NGHỊ DANH MỤC CÁC CÔNG TRÌNH CÔNG BỐ LIÊN QUAN ĐẾN LUẬN ÁN TÀI LIỆU THAM KHẢO PHỤ LỤC 129 DANH MỤC CÁC CHỮ VIẾT TẮT CĐ Chế độ CLB Câu lạc bộ CS Chính sách GP Giải pháp HLTT Huấn luyện thể thao HLV Huấn luyện viên TDTT Thể dục thể thao TT Thực trạng TTCN Thể thao chuyên nghiệp TTHLTT Trung tâm huấn luyện thể thao TTTTC Thể thao thành tích cao TVH Thế vận hội VĐV Vận động viên XHCN Xã hội chủ nghĩa DANH MỤC BẢNG, SƠ ĐỒ, BIỂUĐỒ Tên bảng Trang 3.1 Số liệu chi cho đầu tư phát triển giai đoạn 2011 – 2015 70 3.2 Số liệu các mục chi cho sự nghiệp thể dục thể thao Sau trang 70 3.3 Kết quả so sánh chênh lệch giữa giá trị trung bình mức độ quan trọng và hiện trạng thực hiện các chính sách, chế độ cho HLV và VĐV Sau trang 73 3.4 Các môn thể thao Olympic và khả năng phát triển ở Việt Nam Sau trang 86 3.5 Phân loại các môn thể thao Olympic trong các nhóm 87 3.6 Các môn thể thao chuyên nghiệp hoàn toàn doanh nghiệp đầu tư. 90 3.7 Các môn thể thao chuyên nghiệp do nhà nước và xã hội liên kết đầu tư. 90 3.8 Các môn thể thao chuyên nghiệp gắn liền với hoạt động giải trí do xã hội đầu tư 91 3.9 Các giải pháp phát triển các môn thể thao Sau trang 93 3.10 Các giải pháp hoàn thiện và phát huy vai trò chủ đạo của nhà nước Sau trang 94 3.11 Các giải pháp cải cách và hoàn thiện hệ thống thi đấu Sau trang 94 3.12 Các giải pháp đổi mới công tác quản lý và huấn luyện Sau trang 95 3.13 Các giải pháp đào tạo nhân tài thể thao Sau trang 95 3.14 Các giải pháp tăng cường bồi dưỡng, nâng cao trình độ Sau trang 96 3.15 Giải pháp tăng cường giáo dục văn hóa và bảo đảm an sinh xã hội Sau trang 96 3.16 Các giải pháp tăng cường công tác giáo dục chính trị tư tưởng và phẩm chất đạo đức Sau trang 97 3.17 Kiểm nghiêm tương quan giữa cấp thiết và tính khả thi của các giải pháp phát triển thể thao thành tích cao Sau trang 98 3.18 Phân tích nhân tố cho thang đo mức độ quan trọngcủa các chính sách, chế độ đặc thù cho các môn thể thao Olympic Sau trang 99 3.19 Chế độ chính sách đặc thù về dinh dưỡng Sau trang 104 3.20 Chế độ chính sách đặc thù về thực phẩm chức năng cho VĐV Sau trang 105 Tên bảng Trang 3.21 Chế độ chính sách đặc thù về tiền công VĐV Sau trang 105 3.22 Chính sách chế độ hợp đồng và chế độ tiền lương cho HLV, chuyên gia, bác sỹ, kỹ thuật viên Sau trang 105 3.23 Chính sách tập luyện nước ngoài theo chương trình tập huấn đặc thù Sau trang 106 3.24 Chính sách chế độ bảo hiểm, trợ cấp cho VĐV, HLV Sau trang 106 3.25 Chế độ trang bị cá nhân cho VĐV, HLV Sau trang 106 3.26 Chính sách, chế độ cung cấp trang thiết bị tập luyện và thi đấu đặc thù theo môn thể thao Sau trang 106 3.27 Chính sách, chế độ sử dụng thiết bị khoa học trong quá trình tập luyện Sau trang 107 3.28 Chế độ đảm bảo tiện nghi nơi ăn, ở, sinh hoạt cho VĐV, HLV, chuyên gia, bác sỹ của các đội tuyển quốc gia Sau trang 107 3.29 Chế độ chăm sóc sức khỏe, y tế, chữa trị chấn thương cho VĐV Sau trang 107 3.30 Chế độ kiểm tra đánh giá trình độ tập luyện và giám định khoa học VĐV Sau trang 108 3.31 Chế độ đảm bảo hồi phục sau tập luyện cho các đội tuyển quốc gia Sau trang 108 3.32 Chính sách, chế độ học tập văn hóa và hướng nghiệp cho VĐV Sau trang 108 3.33 Chế độ đảm bảo các hoạt động giáo dục, giải trí cho VĐV Sau trang 108 3.34 Chế độ dã ngoại cho các đội tuyển quốc gia Sau trang 109 3.35 Chính sách chế độ khen thưởng thành tích đạt huy chương, kỷ lục, đạt chuẩn Olympic Sau trang 109 3.36 Chế độ khen thưởng cho HLV, chuyên gia theo thành tích của VĐV Sau trang 109 3.37 Chính sách ưu đãi về nhà đất, khen thưởng bằng hiện vật cho VĐV Sau trang 110 3.38 Chính sách khuyến khích thông qua quảng cáo, tài trợ theo danh hiệu VĐV Sau trang 110 3.39 Các giải pháp hoàn thiện chính sách tài chính liên quan đến đối tượng thụ hưởng Sau trang 110 3.40 Các giải pháp hoàn thiện chính sách tài chính liên quan đến các điều kiện đảm bảo Sau trang 111 Tên bảng Trang 3.41 Các giải pháp đầu tư tài chính của nhà nước Sau trang 112 3.42 Các giải pháp đầu tư tài chính của xã hội Sau trang 113 3.43 Các giải pháp tài trợ, quảng cáo Sau trang 113 3.44 Các giải pháp về bản quyền hình ảnh Sau trang 114 3.45 Các giải pháp về tổ chức sự kiện Sau trang 114 3.46 Kiểm chứng tương quan giữa tính cấp thiết và tính khả thi của các giải phápđầu tư, tài chính đặc thù các môn thể thao Olympic Sau trang 115 Tên sơ đồ trang 1.1 Cấu trúc các thành phần của một hệ thống quản lý 8 1.2 Hệ thống quản lý thể thao thành tích cao ở nước ta 14 1.3 Mô hình hoạch định mục tiêu và quy hoạch đầu tư của nhà nước 40 3.1 Hệ thống các tổ chức quản lý đào tạo VĐV ở Việt Nam 63 3.2 Mô hình hoàn cảnh thị trường câu lạc bộ thể thao chuyên nghiệp 88 3.3 Định hướng nội dung trong các giải pháp phát triển thể thao thành tích cao và thể thao chuyên nghiệp 91 3.4 Trình độ chuyên gia được lựa chọn trưng cầu ý kiến 93 Tên biểu đồ 3.1 Giá trị trung bình của mức độ quan trọng các chính sách, chế độ trong nhóm chính sách chế độ cho con người 101 3.2 Giá trị trung bình của mức độ quan trọng các chính sách, chế độ đầu tư vật chất 102 3.3 Giá trị trung bình của các mức độ quan trọng trong nhóm chính sách, chế độ đầu tư, tài chính cho các lĩnh vực phục vụ và điểu kiện đảm bảo 103 3.4 Giá trị trung bình của các mức độ quan trọng trong nhóm chính sách, chế độ khen thưởng khuyến khích điều kiện đảm bảo. 104 1 PHẦN MỞ ĐẦU Trong bối cảnh đất nước ta đang trên con đường hội nhập sâu rộng vào nền kinh tế thế giới, với những thời cơ và vận hội mới, đồng thời cũng có nhiều khó khăn và thách thức, nhiệm vụ từng bước nâng cao hiệu lực và hiệu quả quản lý nhà nước là mối quan tâm hàng đầu của Đảng và Nhà nước [2],[84]. Với mục tiêu phát triển nhanh và bền vững thì vai trò quản lý nhà nước ngày càng trở nên bức thiết. Song trên thực tế vấn đề nâng cao năng lực, hiệu quả quản lý nhà nước đã và đang đặt ra nhiều vấn đề mới cần phải nghiên cứu để hoàn thiện cả về lý luận và thực tiễn hoạt động. Trong đó, quản lý nhà nước ngành TDTTcủa nước ta cũng rất cần có bước phát triển mới để đáp ứng những yêu cầu phát triển của xã hội [14],[15],[16]. Thực tế cho thấy, TDTT của nước ta trong những năm đất nước đổi mới đã có những thành tựu đáng tự hào, tuy nhiên chưa xứng tầm với tiến trình phát triển của toàn xã hội trong giai đoạn hội nhập quốc tế hiện nay và chưa đáp ứng được yêu cầu, nhiệm vụ của sự nghiệp đổi mới [7],[8],[62]. Điều đó do nhiều nguyên nhân, một trong những nguyên nhân chính là do những hạn chế trong quản lý nhà nước, cụ thể là hệ thống văn bản quy phạm phạm pháp luật, cơ chế chính sách mang tính đặc thù còn thiếu, nhiều văn bản không có tính khả thi khi vận dụng, những bất cập tuyển dụng, sử dụng, đào tạo đội ngũ công chức, tình trạng hẫng hụt về cơ cấu, chưa hợp lý ngành nghề, chất lượng đội ngũ cán bộ công chức chưa đáp ứng được yêu cầu công việc; cơ sở vật chất phục vụ còn hạn chế; cộng với việc đào tạo, bồi dưỡng đội ngũ cán bộ, huấn luyện viênchưa gắn với việc sử dụng, đồng thời chưa có chính sách thoả đáng để thu hút đội ngũ cán bộ quản lý có trình độ cao [37],[39],[40],[53]. Trong đó, các văn bản hiện hành về chính sách phát triển các môn thể thao Olympic nói chung và chính sách đầu tư, tài chính nói riêng vẫn 2 còn nhiều bất cập. Một số văn bản chậm được ban hành hoặc sửa đổi, hoặc đã được ban hành nhưng đã bị lạc hậu, chưa đáp ứng được yêu cầu đặc thù phát triển các môn thể thao Olympic. Một số quy định chưa đảm bảo rõ ràng, chặt chẽ và hiệu quả đối với từng nhiệm vụ cụ thể trong quản lý; chưa xác định rõ yêu cầu quản lý nhà nước về hoạt động đầu tư, tài chính và nội dung quản lý trong các khâu quy hoạch, kế hoạch, chuẩn bị đầu tư, triển khai thực hiện dự án, quản lý sử dụng vốn, quản lý khai thác dự án, còn thiếu các chế tài cụ thể để đảm bảo chấp hành kỷ cương, kỷ luật trong hoạt động đầu tư, tài chính của ngành; quy định hiện hành về phân bổ cơ cấu đầu tư, tài chính còn phân tán, chưa hợp lý nên hiệu quả đầu tư chưa cao. Một số chính sách về xã hội hóa thu hút các nguồn lực cho phát triển các môn thể thao Olympic chưa được ban hành cụ thể, vẫn còn những vướng mắc, chưa tạo được môi trường khuyến khích các nhà tài trợ đầu tư cho các VĐV cấp cao, cũng như đầu tư phát triển cơ sở vật chất các môn thể thao Olympic [10], [18]. Để khắc phục những tồn tại nêu trên, thực hiện các mục tiêu phấn đấu có nhiều VĐV có trình độ thế giới, vượt qua vòng loại các đại hội Olympic đạt huy chương tại các kỳ đại hội Olympic, cần thiết có những đổi mới trong hoạt động quản lý nhà nước đối với TTTTC, nghiên cứu xây dựng cơ chế, chính sách đầu tư, tài chính đặc thù trong việc đào tạo VĐV cấp cao các môn thể thao Olympic, phù hợp với chủ trương, đường lối của Đảng, Nhà nước và pháp luật Việt Nam; Điều chỉnh, bổ sung những chính sách đã ban hành cho phù hợp với thực tiễn; loại bỏ những chính sách, chế độ không còn phù hợp, cản trở sự phát triển. Đây là một nhiệm vụ quan trọng cấp bách và cần thiết, xuất phát từ yêu cầu đó, tôi chọn đề tài nghiên cứu: “Một số giải pháp nhằm nâng cao năng lực quản lý nhà nước đối với phát triển thể thao thành tích cao ở Việt Nam trong giai đoạn hội nhập”. 3 MỤC ĐÍCH NGHIÊN CỨU Đánh giá thực trạng, nhằm đề xuất một số giải pháp góp phần khắc phục những tồn tại, hạn chế trong quản lý nhà nước đối với TTTTC và nâng cao năng lực quản lý nhà nước đối với lĩnh vực này, từng bước đáp ứng yêu cầu phát triển của sự nghiệp thể dục thể thao nước ta trong bối cảnh hội nhập quốc tế sâu rộng. MỤC TIÊU NGHIÊN CỨU Mục tiêu 1: Đánh giá thực trạng quản lý nhà nước đối với phát triển TTTTC và thể thao chuyên nghiệp tại Việt Nam. Mục tiêu 2: Một số giải pháp cơ bản góp phần nâng cao hiệu quả quản lý nhà nước đối với phát triển TTTTC và thể thao chuyên nghiệp tại Việt Nam theo hướng phát triển bền vững. 1.4. Giả thuyết khoa học của đề tài Các mục tiêu nghiên cứu nêu trên nếu hoàn thành và được ứng dụng thành công trong quản lý nhà nước đối với TTTTC sẽ góp phần nâng cao hiệu quả năng lực quản lý nhà nước về TTTTC và nâng cao thành tích thể thao. 4 CHƯƠNG I TỔNG QUAN CÁC VẤN ĐỀ NGHIÊN CỨU 1.1. Những vấn đề cơ bản của quản lý và quản lý nhà nước về thể dục thể thao 1.1.1. Năng lực quản lý nhà nước: Năng lực thể hiện công lực, sức mạnh của sự tác động, điều khiển hay định hướng mục tiêu của chủ thể điều khiển tới các đối tượng bị điều khiển. Năng lực quản lý nhà nước chính là công lực nhà nước thể hiện quyền lực của bộ máy nhà nước chi phối xuống các đối tượng bị quản lý trong hệ thống bằng những công cụ pháp lý, chính sách, quyết định phù hợp với những quy luật khách quan nhằm đạt mục tiêu quản lý và thỏa mãn nhu cầu thực tiễn xã hội [3]. Trong phạm vi nhất định, năng lực quản lý của nhà nước thể hiện tập trung trong việc hoạch định chính sách, quyết định quán xuyến hoạt động thực thi một cách nghiêm ngặt theo khuôn khổ nhất định nhằm đạt mục tiêu quản lý như mong muốn. Như vậy, năng lực quản lý của nhà nước liên quan tới nhiều khâu cơ bản trong chu trình quản lý, gồm: (i) Con người với tư cách nhân vật trọng tâm trong các khâu của chu trình; (ii) Nội dung chính sách, quyết định gắn với thực tiễn; (iii) Cơ chế, công cụ và tiền đề kinh tế - kỹ thuật bảo đảm hoạt động thực thi và giám sát, xử lý [78]. Cần phải nhận thức rằng các chính sách, quyết định là kết quả nhận thức các quy luật và vận dụng các quy luật, đặc biệt những quy luật kinh tế để quản lý nền kinh tế vận động theo một định hướng, mục tiêu đã lựa chọn hay đáp ứng tốt những nhu cầu thực tiễn đòi hỏi. Khả năng nhận thức ảnh hưởng quyết định tới chất lượng chính sách, quyết định. Nếu chủ thể ra quyết định vượt qua cấp độ nhận thức cảm tính, kinh nghiệm lên cấp độ lý tính, những quyết định đưa ra sẽ đúng đắn, vững chắc và sát thực hơn. Khi đó “nguyên tắc tương hợp” sẽ phát huy năng lực cao. Tức là, mục tiêu quản 5 lý của nhà nước sẽ được hiện thực hóa trên cơ sở biết vận dụng phù hợp các quy luật thị trường [45]. Nếu chỉ đưa ra chính sách, quyết định đúng đắn thì chưa đủ phản ánh năng lực quản lý nhà nước. Năng lực quản lý nhà nước còn thể hiện ở việc lựa chọn thời điểm và quá trình kinh tế - xã hội phù hợp để đưa chính sách vào cuộc sống một cách tốt nhất, thỏa mãn những yêu cầu thực tiễn đang đòi hỏi. Ngược lại, việc vận dụng chính sách, quyết định vào cuộc sống đúng vào thời điểm có nhiều khó khăn hay thiếu các công cụ bổ trợ cần thiết sẽ không đem lại hiệu quả cao, tức là năng lực của chính sách đó cũng giảm đáng kể so với yêu cầu thực tiễn. Một trong những điểm mấu chốt của năng lực quản lý là xác định đúng và đầy đủ những điều kiện để hiện thực hóa chính sách, quyết định phù hợp với hoàn cảnh cụ thể. Nói cách khác, “khả năng thanh toán” của chính sách, quyết định là tiền đề tiên quyết bảo đảm tính năng lực quản lý của nhà nước. Tức là, các chính sách, quyết định quản lý cần phải xây dựng dựa trên những nền tảng cơ sở kinh tế - kỹ thuật hiện thực chứ không phải dựa trên những “cái vô hư, không khí”. Nếu thiếu những tiền đề đó, mọi quyết định hay chính sách chỉ là suông, “hô khẩu hiệu” mà không bao giờ trở thành hiện thực. Rõ ràng, mục tiêu chính sách, quyết định cần phải dựa trên những nghiên cứu khoa học tin cậy, xuất phát từ nhu cầu thực tiễn kinh tế - xã hội, không thể duy ý chí [3], [45]. Bộ máy quán xuyến toàn bộ chu trình quản lý đóng vai trò quan trọng trong việc khẳng định tính năng lực của hệ thống quản lý nhà nước. Về lý thuyết, hai mối tương quan quản lý thuận - nghịch cần được vận hành trôi chảy, nhất quán đối với từng mắt xích thông tin quản lý bởi đội ngũ công chức chuyên môn sâu, công tâm và trách nhiệm cao. Dòng thông tin thuận từ trung tâm trên xuống bảo đảm mệnh lệnh điều khiển hành vi tuân thủ và giám sát, điều chỉnh. Dòng thông tin nghịch từ dưới lên phản ánh sự 6 phản hồi, kết quả thực thi mệnh lệnh. Những dòng thông tin quản lý này đòi hỏi chính xác, công khai, minh bạch và dân chủ. Việc đánh giá và xem xét lại thường xuyên những dòng thông tin quản lý là cần thiết nhằm có những điều chỉnh kịp thời, đáp ứng tốt hơn nhu cầu xã hội. Một điểm quan trọng nữa bảo đảm tính năng lực quản lý của nhà nước là xác định và thực thi chuỗi trách nhiệm quản lý xuyên suốt cả hệ thống quản lý nhà nước. Trách nhiệm gắn liền với quy định luật pháp và các nguyên tắc đạo đức, theo đó những người chịu trách nhiệm phải tuân thủ khi thực hiện nhiệm vụ của mình. Trách nhiệm tổ chức và trách nhiệm cá nhân công chức là “chất xúc tác và chất kết dính” trong tất cả mọi khâu của bộ máy quản lý nhà nước [78]. Về lý thuyết, thực hiện tốt trách nhiệm quản lý làm cho bộ máy nhà nước có năng lực và chu đáo hơn bởi xác định rõ ràng chức năng, quyền hạn và nhiệm vụ cụ thể của từng đối tượng quản lý và bị quản lý, của từng tổ chức và cá nhân. Trách nhiệm được quy định cụ thể và rõ ràng đối với từng tổ chức và cá nhân trong tổ chức đó thông qua quy chế và hệ thống phân công nhiệm vụ tương ứng với vị trí trong bộ máy. Công tác đánh giá năng lực công chức cũng gắn liền với những quy định này. Thực hiện tốt nhiệm vụ hay chưa hoàn thành nhiệm vụ phải được phân định công minh bằng các hành động thưởng-phạt kịp thời và chính đáng. Việc thực thi trách nhiệm phải được giám sát bằng luật pháp, quy tắc chuẩn mực, vì thế công chức không thể hành động tùy tiện vô tổ chức và thiếu lương tâm nghề nghiệp [45]. 1.1.2. Cơ sở lý luận về quản lý: Quản lý (Management) là hoạt động của những người điều khiển, điều tiết tổ chức thực hiện mọi công việc của đơn vị vì mục tiêu chung; là sự giao nhận những trách nhiệm cá nhân để đạt được những mục tiêu cụ thể và rõ ràng [3],[6]. 7 Management là phương thức tác động vào con người khiến họ sẵn sàng nhận trọng trách để thực hiện các mục tiêu đã được đề ra và coi nó là nhiệm vụ chung cần phải hoàn thành; Management là quá trình triển khai, phân công trách nhiệm trong việc lập kế hoạch và kiểm tra các nguồn lực (con người, cơ sở, công trình) trong nội bộ của một tổ chức, đơn vị nhằm thực hiện những mục tiêu nhất định [44],[46]. Quản lý được định nghĩa là một công việc mà một người lãnh đạo học suốt đời không thấy chán và cũng là sự khởi đầu của những gì họ nghiên cứu. Quản lý được giải thích như là nhiệm vụ của một nhà lãnh đạo thực thụ, nhưng không phải là sự khởi đầu để họ triển khai công việc. Như vậy, có bao nhiêu nhà lãnh đạo tài ba thì có bấy nhiêu kiểu định nghĩa và giải thích về quản lý [94],[95]. Xét trên phương diện nghĩa của từ, quản lý thường được hiểu là chủ trì hay phụ trách một công việc nào đó. Bản thân khái niệm quản lý có tính đa nghĩa nên có sự khác biệt giữa nghĩa rộng và nghĩa hẹp. Hơn nữa, do sự khác biệt về thời đại, xã hội, chế độ, nghề nghiệp nên quản lý cũng có nhiều giải thích, lý giải khác nhau. Xuất phát từ những góc độ nghiên cứu khác nhau, rất nhiều học giả trong và ngoài nước đã đưa ra giải thích không giống nhau về quản lý. Cho đến nay, vẫn chưa có một định nghĩa thống nhất về quản lý. Đặc biệt là kể từ thế kỷ XXI, các quan niệm về quản lý lại càng phong phú. Quản lý trở thành chức năng và vai trò của tổ chức xã hội, nó cũng sẽ thông qua các doanh nghiệp góp phần xây dựng chế độ xã hội mới để đạt được mục tiêu lý tưởng là "một xã hội tự do và phát triển". Nếu không có quản lý hiệu quả thì doanh nghiệp không thể tồn tại và từ đó không thể xây dựng một xã hội tự do và phát triển [78],[93]. Cơ cấu các thành phần của một hệ thống quản lý, trình bày ở sơ đồ 1.1. 8 Sơ đồ 1.1: Cơ cấu các thành phần của một hệ thống quản lý 1.1.3. Yếu tố cấu thành hoạt động quản lý nhà nước về thể dục thể thao: Với những phân tích trên mọi hoạt động quản lý đều phải do 4 yếu tố cơ bản sau cấu thành: Chủ thể quản lý, trả lời câu hỏi: do ai quản lý? Khách thể quản lý, trả lời câu hỏi: quản lý cái gì? Mục đích quản lý, trả lời câu hỏi: quản lý vì cái gì? Môi trường và điều kiện tổ chức, trả lời câu hỏi: quản lý trong hoàn cảnh nào? [4],[91]. Vì bản thân hành vi quản lý là do 4 yếu tố trên tạo thành, do vậy 4 yếu tố đó đương nhiên cần được thể hiện trong định nghĩa về quản lý. Tiếp theo, do hoạt động quản lý đích thực cần vận dụng chức năng và phương pháp quản lý để đạt được mục đích quản lý đề ra, nên điều này cũng cần được thể hiện trong định nghĩa về quản lý. Tuy nhiên, có tác giả trong định nghĩa quản lý đã trực tiếp chỉ ra rằng: Quản lý chính là lập kế hoạch, tổ chức, thực hiện, chỉ huy, tiến hành, kiểm soát và nếu lý giải một cách đơn giản như vậy thì quản lý lại trở thành một hành động cụ thể mà mất đi bản chất thống nhất của nó [56],[70],[82]. Định nghĩa quản lý nên phản ánh khách quan đặc trưng cơ bản của hoạt động quản lý, thể hiện bản chất quản lý, hay có thể nói, trong định nghĩa về quản lý nhất định phải đề cập đến bản chất của quản lý là theo đuổi năng suất, hiệu quả. Dựa trên tác dụng, vai trò của những yếu tố trong quản lý kể trên và quan hệ lôgic giữa chúng, có thể khái quát ý nghĩa cơ bản của quản lý. 9 Thông thường mà nói, quản lý là hành vi mà những thành viên trong tổ chức thực hiện ở một môi trường nhất định nhằm nâng cao năng suất công việc, để đạt được mục đích của tổ chức [92],[96],[98]. Quản lý TDTT là thể hiện chức năng quản lý Nhà nước thông qua các thể chế và các tổ chức của ngành TDTT để chỉ đạo, quản lý các hoạt động TDTT. Quản lý nhà nước về TDTT là tác động tổng hòa của quản lý hành chính Nhà nước về TDTT và quản lý tổ chức xã hội về TDTT (trong đó quản lý hành chính Nhà nước về TDTT đóng vai trò giám sát - kiểm tra - chỉ đạo hành chính đối với quản lý tổ chức xã hội về TDTT) đối với các quá trình xã hội và hành vi hoạt động mang tính bắt buộc cũng như tự nguyện liên quan đến tập luyện - thi đấu - hưởng thụ TDTT của các tầng lớp nhân dân trong các tổ chức cơ sở do Nhà nước bảo đảm và do các tổ chức xã hội về TDTT bảo đảm [81], [90]; Trong đó: Chủ thể quản lý TDTT: Các cơ quan Nhà nước và viên chức lãnh đạo, các chuyên gia trong các cơ quan Nhà nước về TDTT từ Trung ương đến cơ sở đơn vị bắt buộc. Các Ban chấp hành và chuyên gia của các Liên đoàn, Hiệp hội TDTT từ Trung ương đến đơn vị cơ sở tự nguyện [25],[28]. Khách thể quản lý TDTT: Những người nằm trong hệ thống tổ chức cơ sở TDTT theo ngành nghề, theo lãnh thổ, địa bàn trên cả nước (Người tập luyện bắt buộc; người tập luyện tự nguyện) [24], [27], Quan hệ quản lý: Theo hệ thống tổ chức với chương trình tập luyện - thi đấu - hưởng thụ TDTT bắt buộc của Nhà nước. Theo hệ thống tổ chức với chương trình tập luyện - thi đấu - hưởng thụ TDTT tự nguyện của các Liên đoàn - Hiệp hội TDTT. Nội dung quản lý nhà nước về TDTT: Trong quá trình lãnh đạo cách mạng, Đảng và Nhà nước ta luôn quan tâm lãnh đạo phát triển TDTT, coi thể thao là một lĩnh vực hoạt động quan trọng trong đời sống xã hội. Dưới 10 sự lãnh đạo của Đảng và Nhà nước, trong 70 năm xây dựng và phát triển nền TDTT. Ngành TDTT nước ta ngày càng đạt được những thành tựu to lớn và có những đóng góp xứng đáng vào sự nghiệp cách mạng qua từng thời kỳ. Luật thể dục, thể thao đã được Quốc hội nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam khóa XI, kỳ họp thứ 10 thông qua ngày 29 tháng 11 năm 2006, điều 6 đã nêu rõ về cơ quan quản lý nhà nước về TDTT và các nội dung cơ bản về quản lý nhà nước về TDTT cụ thể như sau [57]: Xây dựng, ban hành và tổ chức thực hiện chiến lược, quy hoạch, kế hoạch, chính sách phát triển TDTT, các văn bản quy phạm pháp luật về TDTT. Tổ chức, chỉ đạo công tác đào tạo, bồi dưỡng nhân lực cho TDTT. Kiểm tra, đánh giá phát triển TDTTquần chúng và hoạt động thi đấu thể thao. Tổ chức, chỉ đạo hoạt động nghiên cứu, ứng dụng khoa học và công nghệ trong lĩnh vực TDTT. Huy động, quản lý, sử dụng các nguồn lực phát triển sự nghiệp TDTT. Tổ chức, chỉ đạo công tác thi đua khen thưởng trong hoạt động TDTT. Tổ chức, chỉ đạo thực hiện hợp tác quốc tế về thể thao. Thanh tra, kiểm tra, giải quyết khiếu nại, tố cáo và xử lý vi phạm pháp luật về TDTT. Chức năng quản lý nhà nước về TDTT: Ở nước ta phát triển TDTT được coi là một chính sách xã hội mà Nhà nước có vai trò chủ đạo và quyết định. Chức năng chính của Nhà nước trong lĩnh vực này trước hết là những định hướng bằng những chính sách và luật pháp; đảm bảo những 11 điều kiện cơ bản cho sự phát triển TDTT (cán bộ, cơ sở vật chất, khoa học kỹ thuật); thực hiện sự kiểm soát và thống nhất quản lý công tác này ở các cấp, các ngành và các tổ chức xã hội. Để thực hiện chức năng đó, Nhà nước có nhiệm vụ tiến hành công tác dự báo, lập quy hoạch, kế hoạch phát triển dài hạn, ngắn hạn; ban hành các luật pháp, các chính sách và quy chế của Nhà nước có liên quan đến hoạt động TDTT [62], [65], [67], [68]. Hướng dẫn, kiểm tra việc thực hiện các chính sách, luật pháp trong các hoạt động trên; trực tiếp phát triển và điều hành các cơ quan, tổ chức sự nghiệp TDTT của Nhà nước; các cơ sở đào tạo, bồi dưỡng cán bộ; cơ sở nghiên cứu khoa học; các cơ sở tập luyện TDTT quần chúng và cơ sở đào tạo VĐV; các công trình thể thao chủ yếu ở các cấp; phối hợp với các tổ chức xã hội, tổ chức điều hành một số hoạt động thể thao quan trọng [29],[30],[61]. 1.2. Quản lý nhà nước đối với thể thao thành tích cao và thể thao chuyên nghiệp 1.2.1. Khái niệm và nội hàm của thể thao thành tích cao: TTTTC là sự phát huy, nâng cao giới hạn tiềm lực tối đa của cá nhân và tập thể về hình thái cơ thể, chức năng sinh lý, phẩm chất tâm lý, tố chất thể lực và kỹ - chiến thuật để đạt thành tích thi đấu xuất sắc, thông qua huấn luyện, thi đấu một cách hệ thống, khoa học [55], [59], [75]. Từ khái niệm trên cho thấy đặc điểm của TTTTC là: có tính nghệ thuật thi đấu cao, đòi hỏi VĐV trải qua nhiều năm huấn luyện nghiêm khắc, có tính khó xác định của kết quả thi đấu; tuân thủ nghiêm ngặt các luật lệ, quy tắc thi đấu; thành tích thi đấu được xã hội công nhận; VĐV thường đại diện cho tổ chức, quốc gia hay địa phương thi đấu với mục đích rõ ràng. Ở góc độ xem xét TTTTC ngày nay đã trở thành hiện tượng văn hóa xã hội quan trọng của thế giới, thì khái niệm TTTTC “Là hoạt động huấn 12 luyện thi đấu thể thao nhằm đạt được đến thành tích kỷ lục thể thao cao nhất, được coi là giá trị văn hóa, là sức mạnh, tinh hoa, năng lực sáng tạo của con người” [99]. Các bộ phận chính cấu thành TTTTC: Tuyển chọn tài năng thể thao trẻ; Huấn luyện VĐV TTTTC hay gọi là huấn luyện thể thao; Thi đấu thể thao; Các điều kiện đảm bảo nâng cao thành tích thể thao (công nghệ huấn luyện, hồi phục, dinh dưỡng, cơ sở vật chất – kỹ thuật, nguồn tài chính, môi trường); Quản lý TTTTC. Ngoài các bộ phận cấu thành nêu trên còn có các điều kiện đảm bảo phát triển TTTTC: nguồn nhân lực, sự đảm bảo y học thể thao, văn hóa - giáo dục [86], [87], [88]. Đặc trưng cơ bản của TTTTC: TTTTC lấy tính tương đối độc lập làm thành một trong ba lĩnh vực lớn của TDTT hiện đại, bởi vì đặc trưng cơ bản của nó có khác biệt, rõ ràng với các lĩnh vực khác của TDTT. Tính thi đấu của TTTTC rõ ràng hơn: Đặc trưng chủ yếu nhất của TTTTC là biểu hiện rõ tính thi đấu, bởi vì mục đích cơ bản của chúng ta khi tham gia TTTTC được quyết định bởi phương thức biểu hiện và nội dung hoạt động cơ bản của TTTTC. Yêu cầu của TTTTC đối với người tham gia: Trình độ kỹ thuật cao siêu, chức năng cơ thể và tâm trí cao hơn người bình thường. Sự phối hợp tập luyện thể thao được trải qua các quá trình chuẩn bị tỉ mỉ. Người tham gia TTTTC cố gắng hết sức giành được thành tích cao nhất. Vì đặc trưng này, TTTTC, thể thao trường học và thể thao quần chúng có sự khác biệt rất lớn [42], [52]. Thi đấu là hình thức biểu hiện cơ bản của TTTTC, mà luật thi đấu là văn bản mang tính pháp luật đảm bảo cho các điều kiện thi đấu của hai bên được ngang bằng, sự cạnh tranh được công bằng. Nếu không, ý nghĩa của việc thi đấu sẽ mất đi, TTTTC cũng không có phương pháp nào phát triển, 13 thậm chí không còn tồn tại. Tính giải trí của TTTTC: TTTTC là sản vật văn minh cao độ của loài người. Người tham gia và người quan sát đều thu được hiệu quả giải trí, thư giãn trong quá trình tham gia TTTTC...qua tập thử để kiểm tra, phân tích các số liệu ban đầu. Hình thức thường dùng là tập nghiệp dư hoặc tập trung, bán tập trung trong các kỳ nghỉ hè với thời gian khoảng 3 đến 6 tháng. Các kỳ kiểm tra theo định kỳ, ít nhất ba lần, để đủ số liệu ban đầu cho phân tích, đánh giá để đưa vào đào tạo hệ thống. Với các môn thể thao đồng đội, thời gian tập thử, tuyển chọn ban đầu có thể dài hơn [81], [95], [97]. Sau khi tuyển chọn ban đầu, đưa vào tập luyện tập trung tại các trung tâm, các lớp thể thao để tuyển chọn chính thức, xác định toàn diện năng lực theo nguyên tắc phù hợp và thích nghi để chuẩn bị giai đoạn hai của quá trình huấn luyện. Các bước tuyển chọn năng lực chuyên sâu hóa được kiểm tra chặt chẽ theo nhiều mặt về sinh học, năng lực vận động, tâm lý, thần kinh, dự báo khă năng phát triển, dự báo khả năng về chức năng... và cả tương quan giữa chúng. Cẩn trọng về dự báo năng lực, có khi dùng cả "linh cảm" của HLV (tập thể HLV) để kết luận một cá thể nhằm tránh bỏ sót. Chỉ dựa vào kết quả đo định kỳ mà không chú ý xu hướng phát triển để dự báo là chưa đủ chính xác. Sau khi xác định được khả năng phát triển xa, đưa vào huấn luyện chuyên sâu và hoàn thiện thể thao chưa phải đã kết thúc quá trình tuyển chọn. Sai sót lớn của quá trình tuyển chọn ở giai đoạn này ít xảy ra, 30 mà thường sai sót về dự báo khả năng phát triển, nhất là giới hạn tối đa cá thể có thể đạt tới [55], [71]. Kế hoạch huấn luyện: Công việc này phải đi trước một bước, tạo cơ sở cho việc hoàn thành kế hoạch và lập tiến độ thực hiện. Kế hoạch và chương trình huấn luyện gồm kế hoạch dài hạn (nhiều năm), kế hoạch năm, kế hoạch chu kỳ, tuần giáo án. Kế hoạch là bắt buộc với nội dung qui định; gồm nhiệm vụ, mục tiêu, phân tích đối tượng và điều kiện, phân tích khả năng và tầm phát triển, nội dung huấn luyện, các giải pháp về thời gian, chu kỳ, lượng vận động thi đấu, phương pháp huấn luyện, điều kiện đảm bảo (kinh phí, trang thiết bị, y học, dinh dưỡng, sinh hoạt, văn hóa...). Đây là căn cứ quyết định cho điều khiển thực hiện quá trình huấn luyện. Quy định rõ các mặt giáo dục tư tưởng - tác phong, tâm lý, ý chí, phẩm chất... Cần nhấn mạnh, trước hết mục tiêu phải rõ, phân tích so sánh tình hình phải sâu, phân bố thời gian và giải pháp thực hiện phải đúng, nhất là nội dung huấn luyện và giải pháp về lượng vận động. Thi đấu vừa là giải pháp vừa là mục tiêu. Chú ý tính khả thi của kế hoạch, tránh hình thức và không cụ thể. Nếu cần có thể dự báo và điều chỉnh. Điều khiển quá trình huấn luyện: Dựa vào kế hoạch để định ra tiến độ, kế hoạch, thể hiện bằng hệ thống công việc theo thứ tự thời gian ngày, tuần, tháng, giai đoạn, chu kỳ, năm. Kiểm tra định kỳ và thường xuyên (thi đấu, y học) để đánh giá số lượng và chất lượng hoàn thành kế hoạch, kịp thời bổ sung điều chỉnh. Khi điều khiển quá trình huấn luyện phải chú ý quản lý việc thực thi qui trình công nghệ đào tạo - huấn luyện. Qui trình huấn luyện hiện đại thực chất là trình tự hệ thống các tiêu chuẩn xác định "đầu vào" và "đầu ra" của sản phẩm đào tạo trong mối liên hệ hữu cơ thống nhất. Phải chú ý các đặc trưng qui trình công nghệ của đào tạo, tính tiêu chuẩn, tính hệ thống, tính thời gian và tính dao động sinh học. Kiểm tra 31 việc thực hiện các nguyên tắc huấn luyện, kết hợp với huấn luyện chung và huấn luyện chuyên môn, huấn luyện liên tục không ngừng, không gián đoạn, với LVĐ cao, về phương pháp huấn luyện như liên tục, lặp lại, giãn cách, vòng tròn, thi đấu và trò chơi, giáo dục tư tưởng - tác phong và tâm lý... Cũng cần tiến hành kiểm tra và thường xuyên theo dõi, qua hồ sơ, nhật ký tập luyện, giáo án, trao đổi, tìm hiểu, phỏng vấn, kiểm tra năng lực, kiểm tra y học, hồi phục. Cần thống kê theo dõi bằng biểu bảng, bằng số liệu có thể phân tích so sánh, dự báo để kịp thời bổ sung, điều chỉnh hoặc loại bỏ sai sót. Giáo dục chính trị, tư tưởng cho VĐV: Giáo dục chính trị - tư tưởng, bồi dưỡng phong cách cho VĐV là công việc thường xuyên và quan trọng trong giai đoạn hiện nay, do tác động không lành mạnh và hiểu sai về cơ chế thị trường, nên không ít các nhà quản lý, HLV và VĐV ... coi thường, bỏ qua và cho là cứng nhắc, không cần giáo dục về chính trị - tư tưởng. Hiểu sai mục đích giáo dục của TDTT trong xã hội, với quần chúng, muốn xóa vai trò của chính trị của TDTT XHCN ở nước ta dưới sự lãnh đạo của Đảng. Nên nhiều năm qua tiến hành công việc này một cách hình thức, hời hợt, thậm chí mắc những sai lệch dẫn đến biểu hiện coi thường, thậm chí phi chính trị trong hoạt động TDTT và TTTTC. Cần nhấn mạnh rằng, dù trong bất kỳ tình huống nào, cũng không được coi nhẹ, bỏ qua, chiếu lệ công tác giáo dục chính trị - tư tưởng, tác phong vì rằng chính nó luôn làm sáng tỏ mục đích của TTTTC, từ đó dẫn đến tính năng động và tự giác của con người mới, dấn đến sự hoàn thành chất lượng cao của quá trình đào tạo người tài năng thể thao. Đó là trách nhiệm của cả hệ thống quản lý, mà trước tiên là những nhà quản lý chiến lược và sau đó là những nhà quản lý trực tiếp luôn thường xuyên tiếp xúc với VĐV [59], [71]. Quản lý học văn hóa, nâng cao trình độ hiểu biết cho VĐV: Học tập văn hóa, nâng cao trình độ hiểu biết là mặt giáo dục không được thiếu hoặc 32 coi nhẹ trong quá trình quản lý VĐV. Đó là vì mặt này có tác dụng lớn đến phát triển toàn diện con người, nâng cao tri thức, tầm hiểu biết, nâng cao trình đội khoa học cho VĐV, là mặt hữu cơ của giáo dục, đào tạo VĐV. Tổ chức học văn hóa là phần việc cần tiến hành có kế hoạch thường xuyên và bố trí hợp lý. Do sự lưu động và tính thời vụ của TTTTC, lại thêm do tập trung huấn luyện cao của VĐV, nhất là lúc còn trẻ, nên việc học có trở ngại nhất định. Do có khác biệt về tuổi tác, thời gian huấn luyện và thi đấu theo kế hoạch nên khó thực hiện việc học văn hóa liên tục. Nhà quản lý khi tiến hành việc này cần chú ý: Học tập văn hóa là phải được bố trí hợp lý, phù hợp với tiến trình huấn luyện và thi đấu. Cần căn cứ vào mục tiêu đào tạo và huấn luyện để thực hiện quản lý hệ thống, không hình thức. Nhất thiết phải gắn liền học tập của VĐV với sở giáo dục và có những qui định chung. Cần có tỷ lệ thời gian học văn hóa và chuyên môn hợp lý, hệ thống ngay từ lúc tham gia huấn luyện tập trung, bảo đảm tính liện tục của học văn hóa. Chương trình học phải hợp lý về nội dung và hình thức. Nội dung học cần được Nhà nước cho phép, vì vđv là người tài của một lĩnh vực có những đặc điểm hoạt động khác với nhiều lĩnh vực khác. Có thể dùng hình thức học tập trung, bán tập trung, chính qui, bổ túc, lớp chuyên TDTT, học tại trường phổ thông hoặc tại trường văn hóa thể thao. Có nước, khi VĐV trẻ đi tập huấn dài hạn nước ngoài, ngành TDTT đã đưa nhóm giáo viên đi theo để giảng dạy các môn chính yếu, qui định. Nhìn chung nội dung học cần có sự tính toán hợp lý. Phải quản lý chặt chẽ việc học văn hóa một cách hệ thống, hoàn chỉnh theo quá trình huấn luyện. Chế độ và qui định học tập là bắt buộc (dân trí, hiến pháp). Giáo dục và động viên học tập nghiêm chỉnh, kiểm tra theo dõi học lực đều đặn, có thưởng phạt. Giáo dục tinh thần tự giác học tập văn hóa vì quyền lợi của chính bản thân và sự phát triển tương lai ổn định. Các vấn đề khác như chế độ bồi dưỡng học tập, hợp 33 đồng giảng dạy, sách giáo khoa, xếp lịch học tập, tổ chức thi và kiểm tra... đều cần quan tâm đúng mức [71]. Quản lý đời sống, sinh hoạt của VĐV: Đời sống và sinh hoạt của VĐV là vấn đề quản lý theo đúng nghĩa quan tâm con người, cũng như vì mục đích huấn luyện chất lượng cao. Sinh hoạt của VĐV nhìn chung lành mạnh, vui tươi, thỏa mái. Với số lượng VĐV tập trung huấn luyện thì mặt quản lý đời sống, sinh hoạt cá nhân và tập thể phải lấy lịch huấn luyện và thi đấu làm cơ sở để xếp đặt hợp lý, chặt chẽ, phù hợp. Cần xác định rõ lịch huấn luyện và sinh hoạt, hội họp, nghỉ ngơi, của cá nhân và tập thể. Cần có thời gian thích đáng cho sinh hoạt cá nhân và có kiểm tra giám sát theo định kỳ [71]. Hồi phục sau huấn luyện và thi đấu là khâu hữu cơ của quá trình huấn luyện. Tuy nó thuộc ngoài giờ huấn luyện, nhưng nằm trong quá trình quản lý huấn luyện. Các qui định về bố trí ăn uống, nghỉ ngơi, vệ sinh cá nhân, kiểm tra sức khỏe và dùng các biện pháp hồi phục là bắt buộc với tinh thần tự giác cao. Phải phối hợp chặt chẽ với các nhà tâm lý, dinh dưỡng và chăm sóc, nhà y học, nhà khoa học... để định ra lịch cụ thể với điều kiện phù hợp. Dinh dưỡng, ăn uống là nhân tố cơ bản cho nâng cao năng lực vận động của VĐV, giúp hồi phục nhanh chóng và đầy đủ, phù hợp yêu cầu chuyên môn và với lượng vận động. Chú ý là sau lúc tập với lượng vận động lớn, nhiều VĐV, nhất là các em nhỏ và nữ ít muốn ăn, chỉ muốn uống, muốn nghỉ ngay. Nhà dinh dưỡng và nhà khoa học, HLV phải bám sát yêu cầu cụ thể của huấn luyện và thi đấu để tiến hành hồi phục nhanh, đầy đủ, cụ thể, hợp đối tượng để có đủ sức cho các buổi huấn luyện tới [83]. Quản lý VĐV khi thi đấu: Thi đấu là một hoạt động có tính mục đích, tính kiểm tra và tính xã hội của TTTTC. Qua thi đấu đánh giá chất lượng 34 quá trình huấn luyện, phát hiện tài năng, kiểm tra năng lực thi đấu và chỉ đạo thi đấu, năng lực tổ chức thi đấu và tác động xã hội của nó. Nhà quản lý cần chú ý đặc biệt đến đặc điểm thi đấu thể thao và tính mục đích của nó. Đó là quá trình tranh tài gay go, căng thẳng, yêu cầu hết sức cao về mọi mặt, nhất là năng lực thể chất, sinh lý, tâm lý, tác động với xã hội... Nên người quản lý phải coi đây là một khâu quyết định trong quản lý TTTTC. Quản lý thi đấu TTTTC: Thi đấu thể thao là hoạt động cuối cùng, quan trọng nhất, công khai trước công chúng và xã hội, là khâu đánh giá chất lượng toàn bộ của công tác huấn luyện TTTTC, trong đó VĐV giữ vai trò diễn viên chính và trọng tài, ban tổ chức... giữ vai trò tổ chức, tạo điều kiện. Mục tiêu của quản lý thi đấu TTTTC là tổ chức, điều khiển thi đấu một cách khoa học, hiệu quả kinh tế cao. Toàn bộ việc tổ chức thi đấu phải tiêu chuẩn hóa, tạo sự thống nhất cao về đánh giá trình độ thể thao. Do đó cần có sự chỉ đạo chặt chẽ về phương hướng, chức năng, tổ chức, kế hoạch và các giải pháp cụ thể, có hệ thống. Mục tiêu thi đấu cần phải quản lý chặt chẽ theo cấp quản lý cuộc thi (ủy quyền tổ chức) và cấp bậc cuộc thi đó, như thi hữu nghị, giải mời, thi cấp tỉnh-thành-ngành, cấp quốc gia, quốc tế, khu vực. Cuộc thi đấu phải nhằm mục đích đánh giá hiệu quả, chất lượng, trình độ của đội hoặc cá nhân, quốc gia, khu vực... Cuộc đấu cũng phải hấp dẫn và có tính văn hóa - nghệ thuật để ngoài mục tiêu tranh tài ra góp phần ổn định môi trường xã hội làm phong phú, đa dạng các hoạt động văn hóa - xã hội, góp phần xây dựng cuộc sống mới văn minh. Một khía cạnh khác là qua thi đấu, tăng cường xã hội hóa TDTT, góp phần có hiệu quả cho kinh tế TDTT và kinh tế chung (quảng cáo...), củng cố và tăng cường các trọng điểm TTTTC về cơ sở vật chất và năng lực tổ chức, lãnh đạo [74]. 35 Tùy theo cấp phụ trách mà tính chất cuộc thi có qui định khác nhau. Cấp quốc tế, quốc gia thường do trung ương phụ trách hoặc ủy quyền; cấp tỉnh, thành, khu vực có yêu cầu khác; cấp quận, huyện, cơ sở cũng có yêu cầu phù hợp. Nếu ở cấp quốc tế và quốc gia thi cuộc thi tranh tài ở mức cao nhất; cấp tỉnh/thành/ngành lại nhằm chủ yếu vào đánh giá trình độ thể thao khu vực hoặc lực lượng hậu bị, cấp cơ sở chủ yếu nhằm vào lực lượng trẻ học sinh và mở rộng phong trào quần chúng. 1.3. Chính sách đầu tư, tài chính cho TTTTC 1.3.1. Chính sách đầu tư: Chính sách là chuỗi những hoạt động mà cơ quan quyền lực lựa chọn làm hay không làm với tính toán và chủ đích rõ ràng, có tác động đến mọi thành phần trong xã hội và hầu hết các chính sách được thể hiện dưới dạng văn bản pháp luật. Chính sách là nội dung, còn văn bản luật là vỏ bọc chứa đựng chính sách đó dưới dạng ngôn ngữ và hình thức pháp lý. Nếu nhìn nhận chính sách như một hiện tượng tĩnh và tương đối độc lập thì chính sách được hiểu là những tư tưởng, những định hướng, những mong muốn cần hướng tới, cần đạt được. Còn chiến lược hay kế hoạch, thậm chí pháp luật chẳng qua chỉ là hình thức, là phương tiện để chuyển tải, để thể hiện chính sách [44], [45], [51]. Chính sách là sự thể hiện cụ thể của đường lối chính trị chung. Dựa vào đường lối chính trị chung, cương lĩnh chính trị của đảng cầm quyền mà định ra chính sách. Chính sách là cơ sở nền tảng để chế định nên pháp luật. Hay nói cách khác, pháp luật là kết quả của sự thể chế hóa chính sách [89]. Có thể có chính sách chưa được luật pháp hóa (thể chế hóa), hoặc cũng có thể không bao giờ được luật pháp hóa vì nó không được lựa chọn để luật pháp hóa khi không còn phù hợp với tư tưởng mới hay sự thay đổi của thực tiễn. Nhưng sẽ không có pháp luật phi chính sách hay pháp luật 36 ngoài chính sách. Theo nghĩa đó, chính sách chính là linh hồn, là nội dung của pháp luật, còn pháp luật là hình thức, là phương tiện thể hiện của chính sách khi nó được thừa nhận, được “nhào nặn” bởi “bàn tay công quyền”, tức là được ban hành bởi nhà nước theo một trình tự luật định [94],[100]. Như vậy, chính sách luôn gắn liền với quyền lực chính trị, với đảng cầm quyền và với bộ máy quyền lực công – nhà nước. Chúng ta vẫn thường nói đến một nguyên tắc của tổ chức thực thi quyền lực chính trị là “Đảng đề ra đường lối, chính sách, Nhà nước thể hóa đường lối, chính sách của Đảng thành pháp luật”. Đường lối, chính sách của Đảng có thể được cụ thể hóa trong pháp luật nhưng nó cũng có thể được điều chỉnh, được hoàn thiện trong quá trình thể chế hóa để phù hợp với tư tưởng mới hay đáp ứng yêu cầu mới của thực tiễn xã hội. Nhà nước xây dựng và ban hành pháp luật là thể chế hóa chính sách của Đảng thành pháp luật nhưng cũng là một bước xây dựng và hoàn thiện chính sách. Và vì vậy, chính sách và pháp luật là hai phạm trù rất gần gũi và có những điểm giao nhau, là cơ sở tồn tại của nhau trong một chế độ nhà nước pháp quyền [37], [38]. Tuy nhiên, thực tiễn hoạt động thế chế hóa chính sách thời gian qua trong lĩnh vực quản lý chuyên ngành của Bộ Văn hoá, Thể thao và Du lịch đã đồng nhất quy trình hoạch định và xây dựng chính sách với quy trình xây dựng văn bản quy phạm pháp luật (vốn được điều chỉnh theo Luật ban hành văn bản quy phạm pháp luật). Chúng ta đang lồng ghép hai quy trình cũng có thể nói là hai giai đoạn: xây dựng chính sách và xây dựng văn bản quy phạm pháp luật. Chính vì lý do đó mà nhiều chính sách đã không đưa vào cuộc sống và ngược lại nhiều văn bản quy phạm pháp luật chưa hoàn toàn xây dựng trên những cơ sở thực sự khoa học và sát với thực tiễn [39]. Về mặt lý thuyết, khái niệm về đầu tư là phần sản lượng được tích luỹ để tăng năng lực sản xuất trong thời kỳ sau của nền kinh tế. Sản lượng ở đây bao gồm phần sản lượng được sản xuất trong nước và nhập khẩu từ 37 nước ngoài, dưới hình thức hữu hình như công trình xây dựng, máy móc thiết bị và cả hình thức vô hình như bằng phát minh sáng chế. Những sản lượng này sẽ được sử dụng đầu tư cho chu kỳ sản xuất tiếp theo. Đầu tư là việc nhà đầu tư bỏ vốn bằng các loại tài sản hữu hình hoặc vô hình để hình thành tài sản tiến hành các hoạt động đầu tư theo quy định của luật và các quy định khác của pháp luật có liên quan [47], [48], [51]. Đầu tư được hiểu là bỏ vốn vào một doanh nghiệp, một công trình hay một sự nghiệp bằng nhiều biện pháp như cấp phát ngân sách vốn tự có, liên doanh, hoặc vay dài hạn để mua sắm thiết bị, xây dựng mới, hoặc thực hiện việc hiện đại hoá, mở rộng xí nghiệp nhằm thu doanh lợi hay phát triển phúc lợi công cộng [43], [49]. Do những quan điểm khác nhau về đầu tư nên cũng có những nảy sinh sự khác biệt trong việc việc xác định các loại hình đầu tư. Có quan điểm cho rằng trong nền kinh tế, tài sản tồn tại dưới nhiều hình thức và vì vậy cũng có nhiều loại đầu tư, thường tập trung vào ba nhóm sau: Đầu tư vào tài sản cố định: bao gồm đầu tư vào nhà xưởng, máy móc, thiết bị, phương tiện vận tải...Đầu tư dưới dạng này chính là đầu tư để nâng cao năng lực sản xuất. Khả năng đạt được tốc độ tăng trưởng cao hay thấp phụ thuộc vào loại đầu tư này; Đầu tư vào tài sản lưu động: bao gồm nguyên vật liệu thô, bán thành phẩm và thành phẩm tồn kho. Như vậy lượng đầu tư vào tài sản lưu động là sự thay đổi về khối lượng của các nhóm hàng hoá nêu trên trong một thời gian nhất định; Xét trên tầm vĩ mô của nền kinh tế, có một dạng đầu tư tài sản cố định rất quan trọng, đó là đầu tư vào cơ sở hạ tầng. Đặc điểm của loại đầu tư này là cần một lượng vốn lớn, lâu thu hồi vốn. Tuy nhiên, việc đầu tư vào cơ sở hạ tầng có tác dụng thúc đẩy sự phát triển chung của tất cả các ngành trong nền kinh tế [51]. Về mặt thực tiễn có thể hiểu hoạt động đầu tư là một quá trình chi tiêu cho các dự án để đạt được những mục đích cụ thể. Trong đó các nguồn 38 lực được huy động và sử dụng với mục đích thu được lợi ích tương lai lớn hơn chi phí ban đầu bỏ ra. Tùy theo góc độ tiếp cận của các chủ thể khác nhau liên quan đến đầu tư mà lợi ích và chi phí của đầu tư được đánh giá khác nhau. Đối với toàn bộ xã hội thì chỉ những hoạt động đầu tư mang lại các giá trị mới hoặc giá trị tăng thêm dưới góc độ toàn bộ nền kinh tế xã hội thì mới được coi là là đầu tư phát triển [51]. Chính sách đầu tư, là hệ thống những biện pháp sử dụng các công cụ và đòn bẩy kinh tế tác động vào những hoạt động đầu tư của các chủ thể kinh tế nhằm định hướng chúng theo chiến lược định trước. Các chính sách đầu tư thường gắn với những mục tiêu nhất định, bao gồm những mục tiêu bộ phận (các mục tiêu gần, cụ thể) và những mục tiêu tổng thể (mục tiêu có tính dài hạn). Trong hoạch định và thực hiện, điều chỉnh chính sách đầu tư cần chú ý đến mối quan hệ giữa các mục tiêu bộ phận và mục tiêu trực tiếp và mục tiêu gián tiếp, các chính sách, biện pháp ngắn hạn có thể phục vụ mục tiêu bộ phận nhưng phải linh hoạt điều chỉnh để không mâu thuẫn với các chính sách, biện pháp phục vụ mục tiêu tổng thể. Chính sách đầu tư là một chính sách có cấu trúc phức tạp, bao gồm rất nhiều công cụ, biện pháp tác động hướng đích đến nhiều mục tiêu. Chính sách bảo đảm đầu tư bao gồm các biện pháp thiết lập môi trường pháp lý, chính trị, hành chính ổn định, tin cậy để các chủ thể đầu tư có thể yên tâm bố trí nguồn lực đầu tư dài hạn. Chính sách bảo đảm đầu tư mặc dù có vai trò rất quan trọng, nhưng nó mới chỉ bảo đảm cho hoạt động đầu tư tiến hành bình thường (nếu không có cơ chế chính sách đảm đầu tư thì các hoạt động đầu tư không thể thực hiện được) chứ không có tác dụng kích thích đầu tư theo các định hướng chiến lược. Do vậy, cần có bộ phận thứ hai của chính sách đầu tư, đó là chính sách khuyến khích đầu tư. Đây là những bộ phận chính sách tác động theo hướng khuyến khích, thúc đẩy hoặc kìm hãm, hạn chế đầu tư tùy theo các mục đích của tác động chính 39 sách. Tính phức tạp, đa dạng của chính sách đầu tư đã khiến nó trở thành một chính sách liên ngành và trên thực tế được phân công cho nhiều bộ phận chức năng cùng phối hợp điều hành [39]. Vai trò của đầu tư từ vốn ngân sách nhà nước: Thông qua mục đích như đã nêu trên, việc đầu tư từ ngân sách thế hiện một số vai trò chủ yếu sau: Vai trò đối với chủ đầu tư (dân chúng): Khi vốn ngân sách được đầu tư đúng hướng, có hiệu quả, của cải toàn xã hội gia tăng, dân chúng được giàu có lên thêm. Vai trò đối với nền kinh tế: Với một đồng vốn đầu tư thông thường, hiệu ứng của nó sẽ lan toả đến sự tăng trưởng của nền kinh tế. Có rất nhiều mô hình chứng minh tác động của đầu tư đến tăng trưởng kinh tế; nhưng tựu trung lại, tăng trưởng kinh tế có tương quan thuận với việc tăng cường đầu tư. Mặt khác, với nội dung thứ hai của mục đích đầu tư từ ngân sách, khi các tác động ngoại vi được xét đến, đồng vốn đầu tư từ ngân sách sẽ có tác động mạnh hơn đồng vốn đầu tư thông thường do tác động bổ trợ đầu tư xã hội, tác động truyền dẫn kích thích đầu tư gia tăng, kích thích tăng trưởng kinh tế; và như thế, vai trò kích thích tăng trưởng kinh tế của đồng vốn đầu tư từ ngân sách lại càng mạnh mẽ. 1.3.2. Chính sách tài chính: Khác với đầu tư là một khái niệm mang tính thực tiễn cao, tài chính lại là một phạm trù kinh tế khách quan, mang tính trừu tượng. Dưới góc độ kinh tế chính trị học, tài chính là các quỹ tiền tệ tập trung và không tập trung được hình thành và sử dụng trong quá trình phân phối lại tổng sản phẩm quốc dân và tài sản xã hội, gắn liền với quá trình phân phối nguồn lực trong xã hội. Xét dưới góc độ chu chuyển trong nền kinh tế, tài chính được đặc trưng bởi sự vận động của tiền tệ trong chức năng phương tiện 40 thanh toán, cất trữ, trong quá trình hình thành phân phối và sử dụng các quỹ tiền tệ đại diện cho những sức mua nhất định của các chủ thể kinh tế xã hội. Như vậy, tài chính thực chất là quá trình bơm, hút các dòng tiền tệ dưới sự tác động của các chủ thể kinh tế trong xã hội, trong đó Nhà nước có vai trò quyết định, kết quả là hình thành các quỹ tiền tệ trong xã hội nhằm thực hiện những mục tiêu khác nhau [39]. Đối tượng chịu tác động của chính sách tài chính rất rộng, bao gồm tất cả các chủ thể trong hệ thống kinh tế xã hội. Để huy động và sử dụng có hiệu quả các nguồn lực tài chính bên trọng và bên ngoài quốc giá nhằm thực hiện mục tiêu kinh tế xã hội, Nhà nước sử dụng các biện pháp, cách thức, công cụ như thuế, chi ngân sách, trình bày ở sơ đồ 1.3. Sơ đồ 1.3: Mô hình hoạch định mục tiêu và quy hoạch đầu tư của nhà nước [22] 41 Hệ thống các biện pháp công cụ đó là chính sách tài chính. Chính sách tài chính, là một chính sách mang tính tổng hợp bao gồm chính sách huy động nguồn lực vào ngân sách nhà nước (chính sách thu thông qua thuế, phí), chính sách chi ngân sách, chính sách tài chính doanh nghiệp, chính sách tài chính dân cư, chính sách tài chính đối ngoại. Chính sách đầu tư thường được xem xét trong mối quan hệ chặt chẽ với chính sách tài chính do mối quan hệ hữu cơ, ràng buộc nhau giữa hai phạm trù này. Chính sách đầu tư thúc đẩy sự tăng trưởng phát triển của kinh tế xã hội, trong khi đó chính sách tài chính sẽ góp phần tạo cơ chế (thúc đẩy hoặc kìm hãm) các hoạt động đầu tư [39]. Nhà nước là cơ quan hoạch định mục tiêu cho nền kinh tế và vạch ra lộ trình đầu tư để đưa nền kinh tế đi đến mục tiêu đã xác định. Như vậy, bất kỳ một khoản đầu tư nào cũng đều được xem xét dưới lăng kính mục tiêu của nền kinh tế và lộ trình đầu tư đã được vạch ra. Như vậy, nếu được ví nền kinh tế như một cơ thể thì quy hoạch đầu tư được xem là khung xương của cơ thể, nếu phần da thịt (các dự án đầu tư) phù hợp với khung xương (đi theo quy hoạch) đã định sẵn, khi đó, cơ thể có điều kiện để tăng trưởng, nếu không cơ thế sẽ trở nên dị hình dị dạng, nền kinh tế phát triển bất cân xứng, ảnh hưởng đến tính ổn định, tính bền vững của toàn bộ nền kinh tế. Tuy nhiên, ở một khía cạnh khác, khi quy hoạch không xác định rõ ràng hoặc xác định không đúng với yêu cầu và điều kiện khách quan, tính bền vững, tính cân đối của cơ thế nền kinh tế sẽ bị triệt tiêu ngay từ ban đầu [97]. Tóm lại, hai nội dung trên đã thể hiện rõ nét mục đích của việc đầu tư vốn ngân sách với nội dung thứ nhất thể hiện tính hiệu quả cục bộ, còn nội dung thứ hai thể hiện tính hiệu quả toàn cục. 1.4. Kinh nghiệm đầu tư cho thể thao thành tích cao một số quốc gia trên thế giới 42 Trung Quốc: Trong giai đoạn 5 năm trước (2006 - 2010), thể thao Trung Quốc đã gặt hái được những thành tích ấn tượng, ở cả đấu trường khu vực lẫn thế giới, với 634 chức vô địch tại các giải quốc tế, thiết lập 88 kỷ lục thể thao thế giới mới. Đặc biệt có thể kể đến thành tích tại Thế vận hội Bắc Kinh 2008, với 51 HCV, đoàn thể thao Trung Quốc lần đầu tiên đứng đầu bảng tổng sắp huy chương một kỳ Thế vận hội. Cho đến thời điểm hiện tại, Trung Quốc vẫn đang có những đầu tư tiếp tục dành cho việc phát triển cơ sở hạ tầng, cơ sở vật chất phục vụ nhu cầu luyện tập thể thao của người dân và đội ngũ HLV, VĐV. Lãnh đạo ngành thể thao Trung Quốc đang nỗ lực cố gắng để có thể đưa ra được những cách thức quản lý phù hợp, đồng thời tận dụng tối đa được hệ thống cơ sở vật chất đã hoàn thiện để nâng cao được chất lượng dịch vụ tại các địa điểm luyện tập thể thao [58]. Hàn Quốc: Chương trình đào tạo và hỗ trợ tài năng VĐV đã được Ủy ban Olympic Hàn Quốc thực hiện từ nhiều năm nay, với mục tiêu đầu tư tăng cường, giúp các VĐV giành được thành tích xuất sắc nhất tại Thế vận hội mùa hè và Thế vận hội mùa đông. Theo số liệu thống kê thì đến cuối năm 2010, số lượng VĐV tham dự Chương trình đào tạo và hỗ trợ tài năng là 1.300 người, ở 28 môn thể thao. Đây là nguồn VĐV chủ chốt trong đội tuyển quốc gia Hàn Quốc tham gia thi đấu. Hầu như các VĐV này đều là các VĐV được lựa chọn ở trường trung học cơ sở, trung học phổ thông, do có năng khiếu hoặc đạt thành tích thi đấu thể thao xuất sắc tại các giải khu vực, giải thành phố, giải quốc gia. Bên cạnh việc hỗ trợ VĐV trong suốt thời gian tập luyện và đào tạo, Ủy ban Olympic Hàn Quốc còn mang đến nhiều lợi ích khác cho các VĐV như chương trình học bổng giành cho các VĐV có thành tích thi đấu xuất sắc, kết quả học tập tại trường năng khiếu xuất sắc, hay chương trình bảo 43 trợ xã hội, bảo vệ quyền cá nhân để họ chuyên tâm vào luyện tập và trau dồi kinh nghiệm thi đấu. Nguồn chi khổng lồ từ ngân sách và khu vực tư nhân cho thể thao đã đưa Hàn Quốc giành được thành tích cao tại Thế vận hội Olympic London 2012 và Hàn Quốc cũng hy vọng các khoản đầu tư đó sẽ được hoàn trả khi Pyeongchang đăng cai tổ chức Thế vận hội Olympic mùa Đông 2018. Ngoài nguồn ngân quỹ lớn từ Chính phủ, các tập đoàn của Hàn Quốc cũng dành ngân quỹ riêng của họ để tài trợ cho các VĐV và hỗ trợ cho các môn thể thao cụ thể. Ví dụ, tập đoàn ô tô Hyundai đã có một mối quan hệ hợp tác lâu dài với môn Bắn cung và sự hỗ trợ tài chính của tập đoàn này đã được coi là một nhân tố quan trọng tạo nên sự vượt trội của thể thao Hàn Quốc tại các Thế vận hội Olympic trong 20 năm qua [100]. Nhật Bản: Nhật Bản đã ban hành đạo luật cơ bản về thể thao mà trong đó tăng cường vai trò của chính quyền trung ương trong việc thúc đẩy sự phát triển của thể thao Nhật Bản. Chính phủ Nhật Bản cũng đang xem xét lại hoạt động của các Trung tâm huấn luyện thể thao quốc gia và sẽ hỗ trợ tối đa nhằm đảo bảo cho thành công lâu dài của các VĐV. Ngoài ra, dự kiến, Uỷ ban thể thao quốc gia Nhật Bản cũng sẽ xem xét việc cho ra đời một cơ quan thể thao chuyên trách nhằm phát triển điều kiện thể chất trong các môn thể thao. Nhiều HLV giỏi đã có mặt để giúp huấn luyện và tuyển chọn các VĐV môn bơi trên khắp đất nước. Các VĐV bơi hàng đầu được tham gia một khóa đào tạo sau đó được chuyển tới một trung tâm huấn luyện tại Viện Khoa học Thể thao Nhật Bản ở Tokyo. Sau khi được khoa học phân tích, các VĐV này có thể hiểu rõ hơn về thế mạnh của mình để chuẩn bị cho Thế vận hội. Một khoản ngân sách của chính phủ nhằm tăng cường cho các môn thể thao khác nhau đã được phê duyệt ngay trong năm tài chính này; 2,7 tỷ Yên đã được phân bổ cho Bộ Giáo dục, Văn 44 hóa, Thể thao, Khoa học và Công nghệ cho một dự án hỗ trợ được xây dựng để giúp các VĐV từ nhiều khía cạnh khác nhau [80]. Singapore: Các giải thưởng được tài trợ bởi Công ty cá cược và Xổ số Singapore Pools (Pte). Các giải thưởng sẽ được trao cho các VĐV thuộc các Hiệp hội thể thao quốc gia tương ứng. Các giải thưởng bắt buộc thực hiện nghĩa vụ đóng thuế. Trong chương trình này, Singapore cũng xây dựng những quy định bắt buộc đối với các VĐV giành giải thưởng: phải dành lại 20% tiền thưởng khi đạt huy chương tại SEA Games, Asian Games và 50% tại các giải đấu thuộc Hiệp hội Thể thao quốc gia nhằm tái đầu tư cho công tác đào tạo và huấn luyện thể thao trong tương lai. Khoản kinh phí lên tới 138,9 triệu đô-la sẽ được sử dụng trong các hoạt động đầu tư và phát triển thể thao [80]. Thái Lan: Thái Lan không học theo cách làm của Trung Quốc về việc huấn luyện những VĐV đẳng cấp thế giới, nhưng học cách tài trợ cho VĐV để có thể tập trung luyện tập mà không phải lo lắng về việc làm thế nào để sống và để thúc đẩy VĐV tập luyện và thấy tự hào khi mình là đại diện cho nước nhà. Mục tiêu là đưa thể thao chuyên nghiệp Thái Lan phát triển một cách toàn diện nhất ở khu vực và Châu lục [80]. 1.5. Các công trình nghiên cứu liên quan 1.5.1. Tình hình nghiên cứu ngoài nước Sự hình thành lý luận quản lý cổ điển Phương Tây khởi nguồn từ thế kỷ 19 tới đầu thế kỷ 20 ở Mỹ, Đức, Pháp. Cho đến nay thế giới đã quan tâm và sáng tạo rất nhiều về lý luận quản lý, đặc biệt trong lĩnh vực kinh tế (quản lý kinh tế TDTT). Đã có nhiều nhà khoa học nước ngoài đã viết sách “Quản lý TDTT” và xuất bản sách “Quản lý kinh tế TDTT”, “Quản lý TTTTC” Nhưng chưa thấy sách chuyên về Quản lý nhà nước về TDTT của nước ngoài, cũng vì lý do có một số nước tiên tiến trên thế giới như Mỹ nghiên cứu rất 45 sâu về quản lý nhà nước và quản lý nhà nước về TDTT nhưng lại không có cơ quan quản lý nhà nước về TDTT. Nhiều học giả nghiên cứu về quản lý cũng đã đưa ra nhiều khái niệm về quản lý rất thú vị phù hợp với từng giai đoạn phát triển và bối cảnh lịch sử như: Quản lý là quá trình thông qua các khâu như kế hoạch, tổ chức, thống kê, khích lệ và lãnh đạo để phối hợp nhân lực, vật lực và tài lực để hoàn thành mục tiêu của tổ chức tốt nhất hoặc quản lý là một quá trình tác động gây ảnh hưởng của chủ thể quản lý đến khách thể quản lý nhằm đạt được mục tiêu chung. Có rất nhiều khái niệm về quản lý, với những công cụ khác nhau nhưng đều hướng tới mục tiêu một cách hiệu quả nhất, khoa học nhất [3], [5], [23], [32] Trong những năm đầu của Thế kỷ XXI nhiều nhà nghiên cứu về quản lý nhà nước và quả...11 Về “Chế độ dinh dưỡng đặc thù đối với huấn luyện viên, vận động viên thể thao” 1. Đối tượng và phạm vi áp dụng: 1. Đối tượng: a- Vận động viên, huấn luyện viên thể thao đang tập luyện, huấn luyện tại các trung tâm đào tạo, huấn luyện thể thao, các trường năng khiếu thể thao, các câu lạc bộ thể thao chuyên nghiệp; b- Vận động viên, huấn luyện viên thể thao đang làm nhiệm vụ tại các giải thể thao thành tích cao quy định tại Điều 37 Luật Thể dục thể thao (Đại hội thể thao khu vực, châu lục; giải vô địch từng môn thể thao khu vực, châu lục và thế giới tổ chức tại Việt Nam; Đại hội thể dục thể thao toàn quốc; giải vô địch quốc gia; giải trẻ quốc gia hàng năm của từng môn thể thao; giải vô địch từng môn của tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương). 2. Phạm vi áp dụng: a- Đội tuyển quốc gia; b- Đội tuyển trẻ quốc gia; c- Đội tuyển tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương, ngành (gọi là đội tuyển tỉnh, ngành); d- Đội tuyển năng khiếu các cấp; e- Đội tuyển quận, huyện, thị xã, thành phố thuộc tỉnh. 3. Thời gian áp dụng: là số ngày có mặt thực tế tập trung tập luyện và tập trung thi đấu theo quyết định của cấp có thẩm quyền. 4. Nguồn kinh phí chi trả cho chế độ quy định tại Thông tư này được bố trí trong dự toán chi ngân sách hàng năm của các Bộ, ngành, địa phương theo quy định hiện hành của Nhà nước về phân cấp ngân sách nhà nước. 5. Nhà nước khuyến khích các Liên đoàn, Hiệp hội Thể thao quốc gia, các đơn vị quản lý vận động viên, huấn luyện viên và các tổ chức liên quan khai thác các nguồn thu hợp pháp khác để bổ sung thêm chế độ dinh dưỡng cho vận động viên, huấn luyện viên thể thao. 2. Chế độ dinh dưỡng được tính bằng tiền cho một ngày tập trung tập luyện, thi đấu của một vận động viên, huấn luyện viên. Mức quy định cụ thể như sau: 1. Chế độ dinh dưỡng đối với vận động viên, huấn luyện viên trong thời gian tập trung tập luyện: a- Tập luyện ở trong nước: là số ngày vận động viên, huấn luyện viên có mặt thực tế tập trung tập luyện theo quyết định của cấp có thẩm quyền: Đơn vị tính: (đồng/người/ngày) STT Vận động viên, huấn luyện viên đội tuyển Mức ăn hàng ngày 1 Đội tuyển quốc gia 200.000 2 Đội tuyển trẻ quốc gia 150.000 3 Đội tuyển tỉnh, ngành 150.000 4 Đội tuyển trẻ tỉnh, ngành 120.000 5 Đội tuyển năng khiếu các cấp 90.000 b- Đối với vận động viên, huấn luyện viên thể thao thành tích cao thuộc nhóm có khả năng giành huy chương được hưởng chế độ dinh dưỡng đặc biệt trong thời gian tập trung tập luyện để chuẩn bị tham dự Đại hội thể thao Đông Nam Á (SEA Games), Đại hội thể thao châu Á (Asiad), Đại hội thể thao thế giới (Olympic Games) được hưởng mức ăn hàng ngày là 300.000 đồng/người/ngày, trong thời gian tối đa là 90 ngày. Trong thời gian hưởng chế độ này các vận động viên, huấn luyện viên không được hưởng chế độ quy định tại điểm a khoản này. c- Tập luyện ở nước ngoài: là số ngày thực tế theo quyết định phê duyệt của cấp có thẩm quyền trên cơ sở thư mời hoặc hợp đồng đào tạo, tập huấn được ký kết giữa cơ sở được giao nhiệm vụ đào tạo vận động viên, huấn luyện viên thể thao ở trong nước với nước ngoài và cân đối trong khuôn khổ dự toán ngân sách nhà nước chi cho sự nghiệp thể dục thể thao được cấp có thẩm quyền thông báo đầu năm.Trong thời gian đi tập huấn ở nước ngoài các vận động viên, huấn luyện viên không được hưởng chế độ quy định tại điểm a khoản này. 2. Chế độ dinh dưỡng đối với vận động viên, huấn luyện viên trong thời gian tập trung thi đấu: Đơn vị tính:(đồng/người/ngày) STT Vận động viên, huấn luyện viên đội tuyển Mức ăn hàng ngày 1 Đội tuyển trẻ quốc gia 200.000 2 Đội tuyển tỉnh, ngành 200.000 3 Đội tuyển trẻ tỉnh, ngành 150.000 4 Đội tuyển năng khiếu các cấp 150.000 Trong thời gian tập trung thi đấu tại Đại hội thể thao khu vực, châu lục, thế giới và các giải thể thao quốc tế khác, vận động viên, huấn luyên viên được hưởng chế độ dinh dưỡng theo quy định của Điều lệ tổ chức giải (không được hưởng mức ăn hàng ngày quy định tại Khoản 2 Điều này) Căn cứ tình hình thực tế, Bộ Văn hóa, Thể thao và Du lịch quy định cụ thể việc sử dụng số tiền theo chế độ dinh dưỡng trên đây cho phù hợp. Thông tư liên tịch số 149/2012/TTLT -BTC- BLĐTBXH- BVHTTDL ngày 12/09/2012 Về “Một số chế độ đối với huấn luyện viên, vận động viên thể thao được tập trung tập huấn và thi đấu” Tiền công đối với huấn luyện viên, vận động viên không hưởng lương từ ngân sách nhà nước Huấn luyện viên, vận động viên không hưởng lương từ ngân sách nhà nước được cơ quan sử dụng huấn luyện viên, vận động viên trả công bằng tiền theo ngày trong thời gian tập trung tập huấn và thi đấu theo mức quy định tại khoản 1 Điều 1 Quyết định số 32/2011/QĐ-TTg. Tiền công đối với huấn luyện viên, vận động viên hưởng lương từ ngân sách nhà nước 1) Trong thời gian tập trung tập huấn và thi đấu, huấn luyện viên, vận động viên được hưởng nguyên lương (lương chuyên môn nghiệp vụ và phụ cấp lương nếu có) tại cơ quan quản lý huấn luyện viên, vận động viên. Trường hợp mức tiền lương theo ngày của huấn luyện viên, vận động viên thấp hơn mức tiền công quy định tại khoản 1 Điều 1 Quyết định số 32/2011/QĐ-TTg thì cơ quan sử dụng huấn luyện viên, vận động viên chi trả thêm phần chênh lệch để đảm bảo bằng mức tiền công tương ứng theo quy định tại khoản 1 Điều 1 Quyết định số 32/2011/QĐ-TTg . Mức tiền lương theo ngày của huấn luyện viên, vận động viên được xác định bằng tiền lương của tháng liền kề trước khi huấn luyện viên, vận động viên được triệu tập tập trung tập huấn và thi đấu chia cho 22 ngày (số ngày làm việc tiêu chuẩn trong một tháng). 2) Trường hợp huấn luyện viên, vận động viên có số ngày thực tế tập huấn và thi đấu cao hơn số ngày làm việc tiêu chuẩn trong tháng (nhiều hơn 22 ngày/tháng) thì cơ quan sử dụng huấn luyện viên, vận động viên chi trả tiền công bằng mức quy định tại khoản 1 Điều 1 Quyết định số 32/2011/QĐ- TTg cho những ngày vượt số ngày làm việc tiêu chuẩn trong tháng. 3) Khoản tiền chi trả thêm do chênh lệch giữa tiền lương theo ngày và tiền công theo quy định tại khoản 1 và tiền công trả cho số ngày thực tế tập huấn và thi đấu vượt số ngày làm việc tiêu chuẩn trong tháng quy định tại các khoản 2 của Điều này không dùng đề tính đóng và hưởng các chế độ bảo hiểm y tế, bảo hiểm xã hội, bảo hiểm thất nghiệp. Chế độ đối với huấn luyện viên, vận động viên thuộc đối tượng tham gia bảo hiểm xã hội bắt buộc, bảo hiểm thất nghiệp, bảo hiểm y tế bắt buộc 1. Đối với huấn luyện viên, vận động viên hưởng lương từ ngân sách nhà nước trong thời gian tập trung tập huấn và thi đấu, cơ quan quản lý huấn luyện viên, vận động viên vẫn có trách nhiệm trích nộp kinh phí đóng bảo hiểm xã hội, bảo hiểm y tế, bảo hiểm thất nghiệp theo quy định. 2. Đối với huấn luyện viên, vận động viên không hưởng lương từ ngân sách nhà nước trong thời gian tập trung tập huấn và thi đấu, cơ quan sử dụng huấn luyện viên, vận động viên có trách nhiệm chuyển cho cơ quan quản lý huấn luyện viên, vận động viên khoản kinh phí để nộp bảo hiểm xã hội, bảo hiểm y tế, bảo hiểm thất nghiệp theo quy định (bao gồm phần trách nhiệm đóng của người sử dụng lao động và phần trách nhiệm đóng của người lao động). 3. Huấn luyện viên, vận động viên được hưởng các chế độ bảo hiểm xã hội, bảo hiểm y tế, bảo hiểm thất nghiệp theo quy định của pháp luật. Cơ quan sử dụng huấn luyện viên, vận động viên có trách nhiệm phối hợp cùng cơ quan quản lý huấn luyện viên, vận động viên trong việc giải quyết các chế độ bảo hiểm xã hội, bảo hiểm thất nghiệp và bảo hiểm y tế theo quy định. Chế độ đối với huấn luyện viên, vận động viên không thuộc đối tượng tham gia bảo hiểm xã hội bắt buộc, bảo hiểm y tế bắt buộc Huấn luyện viên, vận động viên không thuộc đối tượng tham gia bảo hiểm xã hội bắt buộc, bảo hiểm y tế bắt buộc trong thời gian tập trung tập huấn, thi đấu nếu bị ốm hoặc bị tai nạn phải nghỉ luyện lập, nghỉ thi đấu hoặc chết thì được cơ quan sử dụng huấn luyện viên, vận động viên giải quyết như sau: 1. Trường hợp huấn luyện viên, vận động viên bị ốm hoặc thực hiện các biện pháp kế hoạch hóa gia đình thì được chi trả toàn bộ chi phí khám, chữa bệnh và được hưởng trợ cấp bằng 75% mức tiền công quy định tại Điều 1 Quyết định số 32/2011/QD-TTg cho những ngày nghỉ ốm hoặc nghỉ do thực hiện các biện pháp kế hoạch hóa gia đình. 2. Trường hợp huấn luyện viên, vận động: viên bị tai nạn trong khi tập luyện, thi đấu thì được chi trả toàn bộ chi phí y tế từ khi sơ cứu, cấp cứu đến khi điều trị ổn định thương tật và được hưởng trợ cấp bằng 100% mức tiền công quy định tại Điều 1 Quyết định số 32/2011/QĐ-TTg cho những ngày điều trị. Sau khi thương tật của huấn luyện viên, vận động viên đã được điều trị ổn định, cơ quan sử dụng huấn luyện viên, vận động viên có trách nhiệm giới thiệu huấn luyện viên, vận động viên đi giám định khả năng lao động. Trường hợp huấn luyện viên, vận động viên bị suy giảm khả năng lao động từ 5% trở lên do bị tai nạn thì được trợ cấp một lần. Mức trợ cấp một lần được quy định như sau: a) Suy giảm 5% khả năng lao động thì được hưởng 05 tháng tiền lương tối thiểu chung, sau đó cứ suy giảm thêm 1% thì được hưởng thêm 0,5 tháng tiền lương tối thiểu chung. b) Ngoài mức trợ cấp quy định tại điểm a khoản này, còn được hưởng thêm khoản trợ cấp tính theo thời gian làm huấn luyện viên, vận động viên tập trung (nếu có thời gian ngắt quãng thì được cộng dồn), từ một năm (đủ 12 tháng) trở xuống được tính bằng 0,5 tháng tiền công (tiền công ngày x 26 ngày), sau đó cứ thêm mỗi năm (dù 12 tháng) được tính thêm 0,3 tháng tiền công. 3. Huấn luyện viên, vận động viên bị chết trong thời gian tập trung tập huấn, thi đấu thì người lo mai táng được nhận trợ cấp mai táng bằng mười tháng lương tối thiểu chung. Trường hợp huấn luyện viên, vận động viên chết do tai nạn trong khi tập huấn, thi đấu hoặc chết trong thời gian điều trị lần đầu do tai nạn trong khi tập huấn, thi đấu thì ngoài trợ cấp mai táng, thân nhân được hưởng trợ cấp một lần bằng ba mươi sáu tháng lương tối thiểu chung, Trợ cấp một lần Huấn luyện viên, vận động viên không thuộc đối tượng tham gia bảo hiểm xã hội khi thôi làm huấn luyện viên, vận động viên (kết thúc sự nghiệp làm huấn luyện viên, vận động viên đỉnh cao) được trợ cấp một lần. Cứ mỗi năm (12 tháng) làm huấn luyện viên, vận động viên tập trung (nếu có thời gian ngắt quãng thì được tính cộng dồn) được hưởng 1,5 tháng (26 ngày/tháng) tiền công trước khi thôi làm huấn luyện viên, vận động viên, nhưng thấp nhất cũng bằng 2 tháng tiền công. Khi tính cộng dồn thời gian làm huấn luyện viên, vận động viên (kể cả thời gian làm huấn luyện viên, vận động viên cấp tỉnh, ngành và cấp quốc gia) để tính hưởng trợ cấp theo quy định tại Điều này, nếu có tháng lẻ dưới 03 tháng thì không tính, nếu đủ từ 3 tháng trở lên đến đủ 06 tháng được tính là 1/2 năm, từ trên 06 tháng đến 12 tháng được tính tròn 01 năm. Khai báo, điều tra tai nạn và trách nhiệm giải quyết chế độ cho người bị nạn 1. Huấn luyện viên, vận động viên bị tai nạn hoặc chết trong khi tập luyện, thi đấu ở trong nước việc khai báo, điều tra tai nạn quy định như sau: a) Đối với tai nạn chết người thì cơ quan sử dụng huấn luyện viên, vận động viên có trách nhiệm khai báo đến cơ quan Công an cấp huyện và Thanh tra Sở Lao động - Thương binh và Xã hội tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương nơi xảy ra tai nạn lao động để tiến hành điều tra theo quy định tại Thông tư liên tịch số 12/2012/TTLT-BLĐTBXH-BYT ngày 21 tháng 5 năm 2012 của Bộ Lao động - Thương binh và Xã hội, Bộ Y tế hướng dẫn việc khai báo, điều tra, thống kê và báo cáo tai nạn lao động. b) Đối với các tai nạn khác thì cơ quan sử dụng huấn luyện viên, vận động viên tổ chức điều tra và khai báo theo quy định tại Thông tư liên tịch số 12/2012/TTLT-BLĐTBXH- BYT ngày 21 tháng 5 năm 2012 của Bộ Lao động - Thương binh và Xã hội, Bộ Y tế hướng dẫn việc khai báo, điều tra, thống kê và báo cáo tai nạn lao động. 2. Huấn luyện viên, vận động viên bị tai nạn hoặc chết trong khi lập luyện, thi đấu ở nước ngoài, thì Trưởng đoàn thể thao có trách nhiệm tổ chức điều tra, lập biên bản trong đó xác định rõ nguyên nhân tai nạn, trách nhiệm của tổ chức, cá nhân liên quan đến tai nạn; cung cấp hồ sơ, tài liệu có liên quan đến vụ tai nạn cho Thanh tra Sở Lao động - Thương binh và Xã hội tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương nơi cơ quan quản lý huấn luyện viên, vận động viên đóng trụ sở chính hoặc nơi huấn luyện viên, vận động viên đang cư trú (nếu huấn luyện viên, vận động viên không thuộc đối tượng tham gia bảo hiểm xã hội, bảo hiểm y tế bắt buộc) để xem xét, lập biên bản điều tra tai nạn theo quy định tại Thông tư liên tịch số 12/2012/TTLT BLĐTBXH-BYT ngày 21 tháng 5 năm 2012 của Bộ Lao động - Thương binh và Xã hội, Bộ Y tế hướng dẫn việc khai báo, điều tra, thống kê và báo cáo tai nạn lao động. 3. Kết quả điều tra tai nạn là căn cứ để xác định trách nhiệm và tính mức bồi thường đối với huấn luyện viên, vận động viên bị tai nạn hoặc thân nhân của huấn luyện viên, vận động viên bị chết do tai nạn. 4. Cơ quan sử dụng huấn luyện viên, vận động viên chủ trì, phối hợp với cơ quan quản lý huấn luyện viên, vận động viên thực hiện chế độ bồi thường đối với huấn luyện viên, vận động viên bị tai nạn hoặc thân nhân của huấn luyện viên, vận động viên bị chết do tai nạn. Chế độ bồi thường tai nạn 1. Huấn luyện viên, vận động viên hưởng lương từ ngân sách nhà nước trong khi tập luyện, thi đấu bị chết hoặc bị tai nạn dẫn đến suy giảm khả năng lao động từ 5% trở lên thì cơ quan quản lý huấn luyện viên, vận động viên có trách nhiệm bồi thường một lần với mức bằng mức tối thiểu quy định tại tiết a, b Điểm 1, Khoản 4 Điều 1 Nghị định số 110/2002/NĐ-CP ngày 27 tháng 12 năm 2002 của Chính phủ về việc sửa đổi, bổ sung một số điều của Nghị định số 06/CP ngày 20 tháng 01 năm 1995 của Chính phủ quy định chi tiết một số điều của Bộ luật Lao động về an toàn lao động, vệ sinh lao động. Tiền lương làm căn cứ tính bồi thường là tiền lương bình quân (bao gồm lương chuyên môn, nghiệp vụ và phụ cấp nếu có) của 6 tháng liền kề trước khi huấn luyện viên, vận động viên được triệu tập tập trung tập huấn và thi đấu. 2. Huấn luyện viên, vận động viên thuộc đối tượng tham gia bảo hiểm xã hội bắt buộc, bảo hiểm thất nghiệp, bảo hiểm y tế bắt buộc và không hưởng lương từ ngân sách nhà nước trong khi tập huấn, thi đấu bị chết hoặc bị tai nạn dẫn đến suy giảm khả năng lao động từ 5% trở lên, thì cơ quan sử dụng huấn luyện viên, vận động viên có trách nhiệm bồi thường một lần với mức bằng mức tối thiểu quy định tại tiết a, b Điểm 1, Khoản 4 Điều 1 Nghị định số 110/2002/NĐ-CP ngày 27 tháng 12 năm 2002 của Chính phủ về việc sửa đổi, bổ sung một số điều của Nghị định số 06/CP ngày 20 tháng 01 năm 1995 của Chính phủ quy định chi tiết một số điều của Bộ luật lao động về an toàn lao động, vệ sinh lao động. Tiền lương làm căn cứ tính bồi thường là tiền lương bình quân theo hợp đồng của huấn luyện viên, vận động viên với cơ quan, tổ chức quản lý huấn luyện viên, vận động viên (bao gồm lương chuyên môn, nghiệp vụ và phụ cấp nếu có) của 6 tháng liền kề trước khi huấn luyện viên, vận động viên được triệu tập tập trung tập huấn và thi đấu. Nếu mức lương và phụ cấp (nếu có) vượt quá mức lương tháng tối đa đóng bảo hiểm xã hội theo quy định của pháp luật về bảo hiểm xã hội tại thời điểm xảy ra tai nạn thì lấy mức lương tháng tối đa đóng bảo hiểm xã hội quy định tại thời điểm xảy ra tai nạn làm căn cứ tính mức bồi thường. 3. Huấn luyện viên, vận động viên không được hưởng lương từ ngân sách nhà nước, không thuộc đối tượng tham gia bảo hiểm xã hội bắt buộc trong khi tập huấn, thi đấu bị chết hoặc bị tai nạn dẫn đến suy giảm khả năng lao động từ 5% trở lên, thì cơ quan sử dụng huấn luyện viên, vận động viên có trách nhiệm bồi thường một lần với mức tối đa theo quy định tại tiết a, b Điểm 1, Khoản 4, Điều 1 Nghị định số 110/2002/NĐ-CP ngày 27 tháng 12 năm 2002 của Chính phủ về việc sửa đổi, bổ sung một số điều của Nghị định số 06/CP ngày 20 tháng 01 năm 1995 của Chính phủ quy định chi tiết một số điều của Bộ luật Lao động về an toàn lao động, vệ sinh lao động Tiền lương làm căn cứ tính bồi thường là mức tiền công theo ngày được trả theo quy định tạiKhoản 1 Điều 1 Quyết định số 32/2011/QĐ-TTg của Thủ tướng Chính phủ nhân với 26 ngày. 4. Trường hợp thời gian làm việc của huấn luyện viên, vận động viên theo quy định tại Khoản 1, Khoản 2 Điều này không đủ 6 tháng, thì lấy mức tiền lương của tháng liền kề trước khi huấn luyện viên, vận động viên được triệu tập tập trung tập huấn và thi đấu để tính bồi thường. 5. Huấn luyện viên, vận động viên tham gia bảo hiểm xã hội bắt buộc bị tai nạn hoặc chết trong khi tập luyện, thi đấu thì ngoài chế độ bồi thường tai nạn quy định tại Điều này còn được hưởng chế độ bảo hiểm xã hội về tai nạn lao động theo quy định của pháp luật về bảo hiểm xã hội. Thưởng đối với vận động viên tại các giải thi đấu quốc tế Vận động viên lập thành tích tại các giải thi đấu quốc tế được hưởng mức tiền thưởng theo quy định tại khoản 1 Điều 3 Quyết định số 32/2011/QĐ-TTg. Môn thể thao thuộc nhóm 1, nhóm II do Bộ Văn hóa, Thể thao và Du lịch quy định trên cơ sở các môn thể thao được đưa vào chương trình thi đấu Đại hội Olympic Mùa hè và Mùa đông gần nhất. Thưởng đối với vận động viên tại các giải thi đấu trẻ quốc tế Vận động viên lập thành tích tại các cuộc thi đấu của giải vô địch trẻ Đông Nam Á, Châu Á và thế giới được thưởng theo mức sau: 1) Giải thể thao dành cho vận động viên đến dưới 12 tuổi: mức thưởng bằng 20% mức thưởng tương ứng quy định tại khoản 1 Điều 3 Quyết định số 32/2011/QĐ-TTg. 2) Giải thể thao dành cho vận động viên từ 12 tuổi đến dưới 16 tuổi: mức thưởng bằng 30% mức thưởng tương ứng quy định tại khoản 1 Điều 3 Quyết định số 32/2011/QĐ-TTg. 3) Giải thể thao dành cho vận động viên từ 16 tuổi đến dưới 18 tuổi: mức thưởng bằng 40% mức thưởng tương ứng quy định tại khoản 1 Điều 3 Quyết định số 32/2011/QĐ-TTg. 4) Giải thể thao dành cho vận động viên từ 18 tuổi đến dưới 21 tuổi: mức thưởng bằng 50% mức thưởng tương ứng quy định tại khoản 1 Điều 3 Quyết định số 32/2011/QĐ-TTg. Thưởng đối với huấn luyện viên tại các giải thi đấu quốc tế, giải thi đấu trẻ quốc tế 1) Đối với thi đấu cá nhân: những huấn luyện viên trực tiếp đào tạo vận động viên lập thành tích trong các cuộc thi đấu thì mức thưởng chung được tính bằng mức thưởng đối với vận động viên. Tỷ lệ phân chia tiền thưởng được thực hiện theo nguyên tắc: Huấn luyện viên trực tiếp huấn luyện đội tuyển được 60%, huấn luyện viên trực tiếp đào tạo vận động viên cơ sở trước khi tham gia đội tuyển được 40%. 2) Đối với thi đấu tập thể: những huấn luyện viên trực tiếp đào tạo đội tuyển thi đấu lập thành tích thì được thưởng mức thưởng chung bằng số lượng huấn luyện viên theo quy định nhân với mức thưởng tương ứng đối với vận động viên đạt giải. Số lượng huấn luyện viên của các đội được xét thưởng được quy định theo mức sau: - Đối với các đội thuộc những môn có quy định từ 2 đến 5 vận động viên tham gia thi đấu: Mức thưởng chung tính cho 01 huấn luyện viên. - Đối với các đội thuộc những môn có quy định từ 6 đến 12 vận động viên tham gia thi đấu: Mức thưởng chung tính cho 02 huấn luyện viên. - Đối với các đội thuộc những môn có quy định từ 13 vận động viên trở lên: Mức thưởng chung tính cho 03 huấn luyện viên. 3) Đối với môn thể thao có nội dung thi đấu đồng đội: M thưởng chung cho huấn luyện viên bằng số lượng huấn luyện viên quy định tại Khoản 2 Điều này nhân với 50% mức thưởng tương ứng. Thưởng đối với vận động viên, huấn luyện viên tại giải học sinh, sinh viên quốc tế Đối với huấn luyện viên, vận động viên lập thành tích tại các giải thể thao học sinh, sinh viên thế giới, Châu Á, Đông Nam Á được hưởng mức thưởng bằng 30% mức quy định tại các khoản 1, 2, 3, 4 và 5 Điều 3 Quyết định số 32/2011/QĐ- TTg ngày 06/6/2011 của Thủ tướng Chính phủ. Thưởng đối với vận động viên, huấn luyện viên tại các giải trong nước Mức thưởng cụ thể cho huấn luyện viên, vận động viên khi phá kỷ lục, đạt huy chương vàng, bạc, đồng tại Đại hội thể dục thể thao toàn quốc, giải vô địch quốc gia, giải trẻ quốc gia do Ủy ban nhân dân các tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương và các Bộ, ngành quản lý vận động viên đó quyết định. Thưởng đối với những môn thể thao tập thể Đối với môn thể thao tập thể, Mức thưởng chung bằng số lượng người tham gia môn thể thao tập thể nhân với mức thưởng tương ứng. Thưởng đối với những môn thể thao đồng đội Đối với các môn thể thao có nội dung thi đấu đồng đội (các môn thi đấu mà thành tích thi đấu của từng cá nhân và đồng đội được xác định trong cùng một lần thi), số lượng vận động viên được thưởng khi lập thành tích theo quy định của điều lệ giải. Mức thưởng chung bằng số lượng vận động viên nhân với 50% Mức thưởng tương ứng. Phụ lục 5. Nội dung các quy định, chính sách đặc thù cho các môn thể thao Olympic Văn bản Các quy định, chính sách Quyết định của Bộ trưởng, Chủ nhiệm Ủy ban TDTT số 1058/2007/QĐ- UBTDTT ngày 01/06/2007 “Ban hành danh mục các môn thể thao trong chương trình thi đấu tại Đại hội Olympic (Các môn thể thao nhóm I)” Quyết định đã ban hành danh mục các môn thể thao có trong chương trình thi đấu tại Đại hội Olympic để làm căn cứ chi tiền thưởng cho huấn luyện viên, vận động thể thao lập thành tích tại các giải thi đấu thể thao quốc tế theo quy định tại Điều 3, Quyết định số 234/2006/QĐ-TTg ngày 18 tháng 10 năm 2006 của Thủ tướng Chính phủ về một số chế độ đối với huấn luyện viên, vận động viên thể thao, gồm 25 môn như sau: 1 Nhảy cầu 14 Thể dục dụng cụ 2 Bơi lội 15 Thể dục nghệ thuật 3 Bơi nghệ thuật 16 Bóng ném 4 Bóng nước 17 Judo 5 Bắn cung 18 Rowing 6 Điền kinh 19 Bắn súng (trừ các môn bắn súng quân dụng) 7 Cầu lông 20 Bóng bàn 8 Bóng rổ 21 Taekwondo 9 Quyền anh 22 Quần vợt 10 Canoeing/Kayak 23 Bóng chuyền (bãi biển, trong nhà) 11 Xe đạp (đường trường, địa hình) 24 Cử tạ 12 Đấu kiếm 25 Vật (tự do, cổ điển) 13 Bóng đá Thông tư số 04/2012/TT- BVHTTDL ngày 30/03/2012 “Quy định tiêu chuẩn, định mức, chế độ quản lý sử dụng trang thiết bị tập luyện và thi đấu của các đội tuyển thể thao quốc gia và đội tuyển trẻ thể thao quốc gia” 1. Phạm vi và đối tượng điều chỉnh Thông tư này quy định tiêu chuẩn, định mức, chế độ quản lý, sử dụng trang thiết bị tập luyện thường xuyên, trang thiết bị tập luyện chuyên môn và trang thiết bị thi đấu thể thao (sau đây gọi là trang thiết bị) đối với các vận động viên, huấn luyện viên của các đội tuyển thể thao quốc gia, đội tuyển trẻ thể thao quốc gia (sau đây gọi là đội tuyển quốc gia) từng môn thể thao được tập trung tập huấn và thi đấu theo quyết định của Tổng cục trưởng Tổng cục Thể dục thể thao. 2. Nguyên tắc quản lý, cấp phát và sử dụng trang thiết bị 1. Việc cấp phát và sử dụng trang thiết bị phải căn cứ vào tiêu chuẩn, định mức và công năng sử dụng. 2. Việc cấp phát trang thiết bị được thực hiện theo kế hoạch được cấp có thẩm quyền phê duyệt, đảm bảo tiết kiệm, hiệu quả, đúng mục đích. 3. Nguồn kinh phí mua sắm trang thiết bị 1. Nguồn kinh phí mua sắm trang thiết bị tập luyện và thi đấu cấp cho các đội tuyển quốc gia được cân đối trong dự toán ngân sách hàng năm của Bộ Văn hóa, Thể thao và Du lịch theo quy định hiện hành của Nhà nước. 2. Nhà nước khuyến khích các liên đoàn, hiệp hội thể thao, các đơn vị, sử dụng trang thiết bị khai thác các nguồn trang thiết bị hợp pháp khác để trang bị thêm cho vận động viên, huấn luyện viên. 4. Tiêu chuẩn trang thiết bị 1. Trang thiết bị cấp phát cho đội tuyển quốc gia phải đảm bảo tiêu chuẩn tập luyện và thi đấu thể thao theo quy định của Liên đoàn thể thao quốc gia, Liên đoàn thể thao quốc tế hoặc theo tiêu chuẩn của Luật thi đấu môn thể thao. 2. Đối với những môn thể thao chưa có quy định về tiêu chuẩn trang thiết bị, các Trung tâm huấn luyện thể thao quốc gia căn cứ vào tình hình thực tế và khả năng cân đối ngân sách hàng năm để cung cấp các trang thiết bị phù hợp đảm bảo điều kiện tập luyện và thi đấu cho vận động viên, huấn luyện viên. 5. Mức cấp phát trang thiết bị thường xuyên Định mức cấp phát trang thiết bị tập luyện thường xuyên áp dụng chung cho các đội tuyển quốc gia của tất cả các môn thể thao được quy định cụ thể như sau: TT Trang bị Đơn vị tính Mức cấp phát (số lượng/ người/1năm) Đối tượng được cấp Lần 1 Lần 2 1 Giày tập thể lực Đôi 2 2 VĐV 2 Giày thể thao Đôi 1 1 VĐV-HLV 3 Tất Đôi 2 2 VĐV-HLV 4 Quần áo cộc Bộ 2 2 VĐV-HLV 5 Quần áo Suveterman Bộ 1 1 VĐV-HLV 6 Khăn tắm Chiếc 1 1 VĐV-HLV 7 Túi xách đi thi đấu Chiếc 1 VĐV-HLV 8 Còi Chiếc 1 1 HLV 9 Đồng hồ bấm giây Chiếc 1 HLV 10 Mũ mềm Chiếc 1 1 HLV 6. Định mức cấp phát trang thiết bị cho từng môn thể thao Định mức cấp phát trang thiết bị tập luyện chuyên môn và trang thiết bị thi đấu cho từng môn thể thao được quy định tại Phụ lục ban hành kèm theo Thông tư này. 7. Chế độ và thời gian cấp phát 1. Cấp phát lần 1 (một) khi vận động viên, huấn luyện viên được tập trung tập huấn theo quyết định lần thứ nhất trong năm của Tổng cục trưởng Tổng cục Thể dục thể thao. 2. Cấp phát lần 2 (hai) đối với các vận động viên, huấn luyện viên: a) Tập trung tập huấn một đợt trong năm từ 183 (một trăm tám mươi ba) ngày trở lên. b) Tập trung tập huấn nhiều đợt trong năm với tổng thời gian tập trung tập huấn từ 183 (một trăm tám mươi ba) ngày trở lên. Quyết định số 82/2013/QĐ-TTg Về “Một số chính sách đặc thù với huấn luyện viên, vận động viên thể thao xuất sắc” ngày 31/12/2013 Nội dung chính của quyết định: 1. Phạm vi điều chỉnh 1. Quyết định này quy định về chế độ dinh dưỡng, tiền công, chăm sóc y tế, trang thiết bị tập luyện, thi đấu đối với huấn luyện viên, vận động viên thể thao xuất sắc trong thời gian được tập trung tập huấn và thi đấu. 2. Các chế độ, chính sách khác không được quy định tại Quyết định này thì huấn luyện viên, vận động viên thể thao xuất sắc vẫn được hưởng theo quy định hiện hành. 2. Đối tượng điều chỉnh 1. Vận động viên thể thao xuất sắc là người Việt Nam, được triệu tập tập huấn chuẩn bị tham dự và có khả năng giành huy chương tại Đại hội thể thao châu Á (ASIAD), tham dự vòng loại và tham dự Đại hội thể thao Olympic (Olympic Games), tham dự Đại hội thể thao người khuyết tật Paralympic (Paralympic Games). 2. Huấn luyện viên thể thao xuất sắc là người Việt Nam, trực tiếp huấn luyện vận động viên quy định tại Khoản 1 Điều này. 3. Bộ trưởng Bộ Văn hóa, Thể thao và Du lịch quyết định danh sách huấn luyện viên, vận động viên quy định tại Khoản 1, Khoản 2 Điều này. 3. Chế độ dinh dưỡng 1. Chế độ ăn hàng ngày được quy định như sau: a) Huấn luyện viên, vận động viên thể thao xuất sắc tập huấn ở trong nước được hưởng chế độ ăn với mức tiền 400.000 đồng/người/ngày. Khi giá cả thị trường biến động bằng (=) hoặc lớn hơn (>) 10% theo công bố của Tổng cục Thống kê, Bộ Văn hóa, Thể thao và Du lịch chủ trì, phối hợp với Bộ Tài chính thống nhất điều chỉnh mức tiền ăn cho phù hợp. b) Huấn luyện viên, vận động viên thể thao xuất sắc tập huấn ở nước ngoài được hưởng chế độ ăn theo thư mời hoặc hợp đồng ký kết với cơ sở đào tạo ở nước ngoài và được Bộ Văn hóa, Thể thao và Du lịch phê duyệt trong khung chế độ công tác phí đối với cán bộ, công chức nhà nước đi công tác ngắn hạn ở nước ngoài do ngân sách nhà nước bảo đảm kinh phí. 2. Ngoài chế độ thực phẩm chức năng theo quy định hiện hành, vận động viên thể thao xuất sắc được hưởng chế độ thực phẩm chức năng theo tính chất đặc thù của từng môn thể thao theo quy định của Bộ trưởng Bộ Văn hóa, Thể thao và Du lịch. 4. Chế độ tiền công 1. Huấn luyện viên, vận động viên thể thao xuất sắc không hưởng lương từ ngân sách nhà nước được hưởng chế độ tiền công như sau: a) Huấn luyện viên: 500.000 đồng/người/ngày. b) Vận động viên: 400.000 đồng/người/ngày. 2. Huấn luyện viên, vận động viên thể thao xuất sắc hưởng lương từ ngân sách nhà nước có mức lương thấp hơn mức tiền công quy định tại Khoản 1 Điều này, thì trong thời gian được tập trung tập huấn và thi đấu, được chi trả từ ngân sách nhà nước phần chênh lệch để bảo đảm bằng mức quy định tại Khoản 1 Điều này. 5. Chế độ chăm sóc y tế 1. Vận động viên thể thao xuất sắc được chăm sóc sức khỏe, hồi phục chức năng và chữa trị chấn thương tại các cơ sở y tế trong nước. 2. Trường hợp đặc biệt, Bộ trưởng Bộ Văn hóa, Thể thao và Du lịch quyết định cho vận động viên thể thao xuất sắc bị chấn thương được chữa trị ở nước ngoài. 6. Chế độ trang thiết bị tập luyện, thi đấu Vận động viên thể thao xuất sắc được bảo đảm trang thiết bị tập luyện, thi đấu đạt tiêu chuẩn quốc tế, phù hợp với khả năng đáp ứng của ngân sách nhà nước và được cân đối trong dự toán ngân sách nhà nước hàng năm theo quy định của Luật ngân sách nhà nước. 7. Kinh phí thực hiện 1 1. Kinh phí thực hiện các chính sách quy định tại Quyết định này được bố trí trong dự toán ngân sách của Bộ Văn hóa, Thể thao và Du lịch theo quy định của Luật ngân sách nhà nước. 2. Nhà nước khuyến khích các tổ chức, đơn vị, cá nhân huy động các nguồn kinh phí hợp pháp khác để góp phần nâng cao hiệu quả của các chính sách đặc thù đối với huấn luyện viên, vận động viên thể thao xuất sắc cũng như các chế độ, chính sách khác đối với huấn luyện viên, vận động viên thể thao.

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • pdfluan_an_mot_so_giai_phap_nham_nang_cao_nang_luc_quan_ly_nha.pdf
Tài liệu liên quan