HỌC VIỆN CHÍNH TRỊ QUỐC GIA HỒ CHI MINH
LA ĐỨC ĐẠI
MÔI TRƯỜNG THẨM MỸ TRONG
CƠ QUAN HÀNH CHÍNH THUỘC THÀNH PHỐ HÀ NỘI
LUẬN ÁN TIẾN SĨ
NGÀNH: MỸ HỌC
\
HÀ NỘI - 2021
HỌC VIỆN CHÍNH TRỊ QUỐC GIA HỒ CHI MINH
LA ĐỨC ĐẠI
MÔI TRƯỜNG THẨM MỸ TRONG
CƠ QUAN HÀNH CHÍNH THUỘC THÀNH PHỐ HÀ NỘI
LUẬN ÁN TIẾN SĨ
NGÀNH: MỸ HỌC
Mã số: 9 22 90 07
NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC:
1. PGS,TS. VĂN ĐỨC THANH
2. TS. LÊ TRUNG KIÊN
\
HÀ NỘI - 2021
LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan công trì
214 trang |
Chia sẻ: huong20 | Ngày: 14/01/2022 | Lượt xem: 324 | Lượt tải: 0
Tóm tắt tài liệu Luận án Môi trường thẩm mỹ trong cơ quan hành chính thuộc thành phố Hà Nội, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
ình nghiên cứu này là của
riêng tôi. Các số liệu trong luận án là trung thực. Những
kết luận trong luận án chưa từng được công bố ở bất cứ
công trình nào khác.
TÁC GIẢ LUẬN ÁN
La Đức Đại
MỤC LỤC
Trang
MỞ ĐẦU 1
Chương 1: TỔNG QUAN TÌNH HÌNH NGHIÊN CỨU LIÊN QUAN ĐẾN
ĐỀ TÀI 6
1.1. Tình hình nghiên cứu về môi trường và môi trường thẩm mỹ 6
1.2. Tình hình nghiên cứu về môi trường và môi trường thẩm mỹ ở Thủ đô
Hà Nội 20
1.3. Những vấn đề đặt ra cần tiếp tục nghiên cứu 24
Chương 2: NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ MÔI TRƯỜNG THẨM MỸ
TRONG CƠ QUAN HÀNH CHÍNH THUỘC THÀNH PHỐ HÀ NỘI 27
2.1. Lý luận về môi trường 27
2.2. Lý luận về môi trường thẩm mỹ 39
2.3. Lý luận về môi trường thẩm mỹ trong cơ quan hành chính 50
2.4. Các yếu tố tác động đến môi trường thẩm mỹ trong cơ quan hành chính 62
Chương 3: NHỮNG VẤN ĐỀ THỰC TIỄN VỀ MÔI TRƯỜNG THẨM MỸ
TRONG CƠ QUAN HÀNH CHÍNH THUỘC THÀNH PHỐ HÀ NỘI 68
3.1. Khái quát về môi trường thẩm mỹ trong cơ quan hành chính nhà nước
hiện nay 68
3.2. Nhận diện môi trường thẩm mỹ trong các cơ quan hành chính thuộc
thành phố Hà Nội 74
3.3. Đánh giá chung 109
Chương 4: PHƯƠNG HƯỚNG VÀ GIẢI PHÁP NÂNG CAO HIỆU QUẢ
MÔI TRƯỜNG THẨM MỸ TRONG CƠ QUAN HÀNH CHÍNH THUỘC
THÀNH PHỐ HÀ NỘI 116
4.1. Phương hướng xây dựng môi trường thẩm mỹ trong cơ quan hành chính 116
4.2. Các giải pháp mang tính định hướng 117
4.3. Các nhóm giải pháp cụ thể nâng cao hiệu quả của việc xây dựng môi trường
thẩm mỹ trong cơ quan hành chính thuộc thành phố Hà Nội 122
4.4. Khuyến nghị 147
KẾT LUẬN 151
DANH MỤC CÔNG TRÌNH ĐÃ CÔNG BỐ CỦA TÁC GIẢ LIÊN QUAN
ĐẾN LUẬN ÁN 153
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO 154
PHỤ LỤC 162
1
MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài
1.1. Trong những năm qua công tác cải cách hành chính được Chính phủ
điều hành đã được triển khai trên diện rộng, đội ngũ cán bộ công chức được đào tạo,
bồi dưỡng chuyên môn nghiệp vụ để hoàn thành công việc được giao. Môi trường
để đội ngũ cán bộ công chức làm việc là một yếu tố đang được quan tâm, nhất là
môi trường thẩm mỹ. Đặc thù của công việc hành chính là giải quyết các thủ tục
mang tính pháp lý, giúp cho hoạt động hành chính nhà nước hoạt động hiệu quả và
vận hành thông suốt, đáp ứng được nhu cầu của thực tiễn. Việc tạo ra môi trường
làm việc cho cán bộ công chức hiện nay cần được hiểu theo những tiêu chí đánh giá
như: nội dung công việc, hình thức thể hiện, sự thân thiện của con người với môi
trường xung quanh, cảm hứng sáng tạo, cảm hứng thẩm mỹ. Để đội ngũ cán bộ
công chức hoàn thành tốt nhiệm vụ của mình, ngoài những yếu tố về trình độ
chuyên môn được đào tạo, có yếu tố rất quan trọng đó là vấn đề văn hóa trong đó
bao hàm cả yếu tố văn hóa thẩm mỹ. Đại hội lần thứ XII của Đảng đã chủ trương:
Xây dựng nền văn hóa và con người Việt Nam phát triển toàn diện,
hướng đến chân- thiện- mỹ, thấm nhuần tinh thần dân tộc, nhân văn, dân
chủ và khoa học. Văn hóa thực sự trở thành nền tảng tinh thần vững chắc
của xã hội, là sức mạnh nội sinh quan trọng bảo đảm sự phát triển bền
vững và bảo vệ vững chắc Tổ quốc vì mục tiêu “dân giàu, nước mạnh,
dân chủ, công bằng, văn minh [30, tr.126].
1.2. Ngày nay, trong sự nghiệp xây dựng và bảo vệ đất nước, xu thế hội nhập
quốc tế đang diễn ra một cách mạnh mẽ và sôi động. Điều này đòi hỏi mỗi công dân
nói chung và mỗi cán bộ công chức hành chính nói riêng cần phải nỗ lực không
ngừng rèn luyện để phát triển toàn diện về trí lực, nhân cách, đạo đức đáp ứng yêu
cầu của thời đại. Tại Đại hội Đảng lần thứ XI đã chỉ rõ: “Tập trung xây dựng đời
sống, lối sống và môi trường văn hóa lành mạnh, coi trọng văn hóa trong lãnh đạo,
quản lý và văn hóa trong ứng xử” [29, tr.126]. Vấn đề đặt ra trong quá trình xây
dựng nền văn hóa tiên tiến đậm đà bản sắc dân tộc hiện nay là phải xây dựng con
người mới mang các yếu tố văn minh hiện đại, tiếp cận được khoa học công nghệ
của thế giới, tiếp thu có chọn lọc và chuyển hóa những tinh hoa của nhân loại phù
2
hợp với văn hóa truyền thống của dân tộc. Xây dựng lối sống, xây dựng văn hóa
cộng đồng thể hiện tình cảm, đạo đức trong sáng, tình nghĩa giữa người với người
tạo nên sự đoàn kết, thống nhất giữa cá nhân với tập thể và cộng đồng tạo nên
những giá trị cao đẹp chân - thiện - mỹ. Tuy nhiên, quá trình toàn cầu hóa và sự vận
hành của nền kinh tế thị trường, nhiều yếu tố tiêu cực từ bên ngoài cũng thâm nhập,
tác động không nhỏ đến tư tưởng, quan điểm, lối sống, đạo đức, nhân cách của con
người nói chung và của mỗi cá nhân cán bộ hành chính nói riêng.
Với những giá trị của cái đẹp, môi trường thẩm mỹ nói chung và môi trường
thẩm mỹ trong cơ quan hành chính nói riêng sẽ tác động tới con người một cách tự
nhiên, hình thành nên những phẩm chất thẩm mỹ mới, điều chỉnh hành vi của con
người. Môi trường thẩm mỹ đánh thức con người không chỉ năng lực thẩm mỹ mà
còn toàn bộ năng lực sáng tạo tiềm ẩn trong hoạt động sản xuất vật chất và tinh
thần. Nhờ đó, môi trường thẩm mỹ tác động đến thế giới tinh thần, tình cảm của con
người, góp phần hình thành và phát triển nhân cách của con người.
1.3. Trong quá trình hiện đại hóa đất nước, Thủ đô Hà Nội - trái tim của đất
nước đang được xây dựng và phát triển một cách toàn diện để có được một diện
mạo mới của văn hóa thủ đô hướng tới “năm 2020, Hà Nội phải trở thành một đô
thị văn minh, hiện đại, thành phố du lịch hấp dẫn của khu vực, phát huy tốt vai trò là
trung tâm lớn về văn hóa, khoa học - công nghệ, giáo dục - đào tạo, kinh tế và giao
dịch quốc tế của cả nước” [88, tr.59]. Với chủ đề công tác năm 2017 của thủ đô là
“Năm kỷ cương hành chính”, trong phiên khai mạc kỳ họp thứ 3, khóa XV (nhiệm
kỳ 2016 - 2020) của Hội đồng nhân dân Hà Nội, Bí thư Thành ủy Hà Nội Hoàng
Trung Hải nhấn mạnh: “Thành phố quyết tâm tăng cường trật tự, kỷ cương hành
chính, nâng cao vai trò nêu gương, đạo đức công vụ, tinh thần, thái độ, ý thức, văn
hóa ứng xử của đội ngũ cán bộ, công chức, viên chức các cấp tại công sở, nơi cư trú
và nơi công cộng” [78]. Để làm được điều này, việc xây dựng môi trường thẩm mỹ
nói chung và môi trường thẩm mỹ trong cơ quan hành chính nói riêng lại quan
trọng hơn bao giờ hết. Xây dựng môi trường thẩm mỹ trong cơ quan hành chính ở
Hà Nội không chỉ làm cho diện mạo của thủ đô văn minh - thanh lịch - hiện đại mà
còn góp phần vào công tác giáo dục thẩm mỹ, tác động một cách trực tiếp đến quá
trình hình thành nhân cách cho cán bộ công chức, đảm bảo sự phát triển bền vững
3
của Thủ đô, tạo nguồn lực nội sinh quan trọng thể hiện lòng tự hào của người dân
thủ đô trước nhân dân cả nước và bè bạn năm châu.
Với những kiến giải trên, chúng tôi chọn đề tài Môi trường thẩm mỹ trong
các cơ quan hành chính nhà nước thuộc thành phố Hà Nội làm đề tài luận án
tiến sĩ chuyên ngành Mỹ học với mong muốn góp phần vào việc xây dựng môi
trường thẩm mỹ cho sự vận hành có hiệu quả của các cơ quan hành chính nhà nước,
đảm bảo cho sự phát triển bền vững của Thủ đô trong quá trình đổi mới và hội nhập
quốc tế hiện nay.
2. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu của luận án
2.1. Mục đích nghiên cứu
Trên cơ sở làm rõ những vấn đề lý luận về môi trường thẩm mỹ trong cơ
quan hành chính, luận án nghiên cứu đánh giá thực trạng môi trường thẩm mỹ trong
các cơ quan hành chính thuộc thành phố Hà Nội, đề xuất phương hướng và giải
pháp góp phần nâng cao chất lượng môi trường thẩm mỹ ở cơ quan hành chính nhà
nước thuộc thành phố Hà Nội hiện nay.
2.2. Nhiệm vụ nghiên cứu
Để đạt được mục đích đề ra, luận án thực hiện các nhiệm vụ sau:
Một là, góp phần làm rõ cơ sở lý luận về môi trường thẩm mỹ và môi trường
thẩm mỹ trong cơ quan hành chính thuộc thành phố Hà Nội.
Hai là, nhận diện về thực trạng môi trường thẩm mỹ tại một số cơ quan
hành chính thuộc thành phố Hà Nội, chỉ ra những mặt tích cực và hạn chế của môi
trường thẩm mỹ trong cơ quan hành chính thuộc thành phố Hà Nội.
Ba là, những vấn đề đặt ra đối với nâng cao chất lượng môi trường thẩm mỹ
tại cơ quan hành chính nhà nước thuộc thành phố Hà Nội.
3. Đối tượng, phạm vi và giới hạn nghiên cứu
Đối tượng nghiên cứu của luận án là môi trường thẩm mỹ trong cơ quan
hành chính thuộc thành phố Hà Nội, các yếu tố tác động đến môi trường thẩm mỹ,
thực trạng môi trường thẩm mỹ trong cơ quan hành chính, các quan hệ thẩm mỹ
được biểu hiện thông qua chủ thể thẩm mỹ, khách thể thẩm mỹ và được gắn với các
giá trị chân - thiện - mỹ.
4
Phạm vi nghiên cứu của đề tài là những cơ quan hành chính nhà nước thuộc
Thành phố Hà Nội bao gồm: các Sở thuộc Ủy ban nhân dân thành phố Hà Nội. Qua
khảo sát thực tế tại Sở Xây dựng, Sở Tài chính, Sở Thông tin và truyền thông, Sở
Lao động - Thương binh và Xã hội, Sở Văn hóa - Thể thao. Đây là những Sở được
lựa chọn ngẫu nhiên theo phương pháp khảo sát xã hội học. Thời gian tiến hành
khảo sát các Sở từ tháng 6/2017 đến tháng 8/2017.
Môi trường thẩm mỹ trong cơ quan hành chính thuộc thành phố Hà Nội là
một khái niệm rộng, bao hàm trong đó toàn bộ hoạt động thực thi công vụ trên cơ
sở quản lý và phục vụ xã hội. Luận án tập trung nghiên cứu môi trường thẩm mỹ
trong phạm vi cơ quan hành chính, các hoạt động hành chính, kết quả của hoạt động
hành chính thông qua lăng kính thẩm mỹ.
4. Cơ sở lý luận và phương pháp nghiên cứu
4.1. Về cơ sở lý luận
Luận án được thực hiện trên cơ sở lý luận của chủ nghĩa Mác - Lênin, Tư
tưởng Hồ Chí Minh và quan điểm của Đảng ta về giáo dục và phát triển con người;
Nguyên lý Mỹ học Mác - Lênin.
4.2. Về phương pháp nghiên cứu
Phương pháp luận nghiên cứu của luận án là chủ nghĩa duy vật biện chứng
và chủ nghĩa duy vật lịch sử. Trên cơ sở phương pháp luận chung đó, luận án sử
dụng các phương pháp cụ thể như:
Phương pháp lịch sử và logic như một phương pháp xuyên suốt của quá trình
thực hiện, giải quyết các nhiệm vụ mà luận án cần giải quyết.
Phương pháp phân tích, tổng hợp: làm rõ các quan điểm có liên quan đến
môi trường thẩm mỹ trong lịch sử, dùng các thao tác phân tích, tổng hợp thành hệ
thống để làm sáng tỏ vấn đề một cách toàn diện.
Phương pháp so sánh: nhận diện sự giống nhau và khác nhau giữa môi
trường thẩm mỹ nói chung và môi trường thẩm mỹ trong cơ quan hành chính.
Phương pháp liên ngành: luận án vận dụng những thành tựu của triết học, mỹ
học, văn hóa học và lịch sử để đạt được mục đích đề ra.
Phương pháp gắn lý luận với thực tiễn: Trên cơ sở lý luận về môi trường
thẩm mỹ, luận án tập trung vào môi trường thẩm mỹ trong các cơ quan hành
chính nhà nước thuộc thành phố Hà Nội, từ đó luận án phân tích thực trạng về
5
môi trường thẩm mỹ trong cơ quan hành chính để hoàn thành những nhiệm vụ
nghiên cứu.
Phương pháp điều tra xã hội học: nội dung các câu hỏi tập trung phát hiện
nhận thức, thái độ, hành vi của cán bộ công chức trong thực thi công vụ hành chính.
Tiến hành điều tra, khảo sát ngẫu nhiên có chủ đích phù hợp với đối tượng khảo sát.
Sử dụng phần mềm Spss 20.0 để sử lý số liệu.
5. Đóng góp mới của luận án
- Tổng hợp những vấn đề về môi trường thẩm mỹ theo quan điểm mỹ
học mácxít;
- Làm rõ nội dung về môi trường thẩm mỹ trong cơ quan hành chính nhà
nước và vai trò của nó đối với giáo dục thẩm mỹ trong việc hình thành và phát triển
nhân cách, làm hình thành năng lực hành vi, hành động cao đẹp của mỗi cán bộ
công chức trong cơ quan hành chính;
- Khái quát thực trạng về môi trường thẩm mỹ trong các cơ quan hành chính
nhà nước thuộc thành phố Hà Nội, từ đó bàn luận và khuyến nghị một số giải pháp
xây dựng môi trường thẩm mỹ trong cơ quan hành chính nhà nước thuộc thành phố
Hà Nội hiện nay.
6. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn của luận án
6.1. Ý nghĩa lý luận
Luận án hệ thống hóa các vấn đề lý luận về môi trường thẩm mỹ, cơ cấu, vai
trò của nó và đặc trưng môi trường thẩm mỹ tại cơ quan hành chính nhà nước.
6.2. Ý nghĩa thực tiễn
Luận án khảo sát, phân tích và đánh giá thực trạng môi trường thẩm mỹ
trong cơ quan hành chính trên địa bàn thành phố Hà Nội, đề xuất một số giải pháp
góp phần nâng cao chất lượng, xây dựng môi trường thẩm mỹ trong hoạt động hành
chính trong quá trình cải cách hành chính.
Luận án có thể dùng làm tài liệu tham khảo cho việc nghiên cứu và giảng
dạy môn mỹ học, hành chính học và bồi dưỡng đội ngũ cán bộ công chức; đồng
thời cung cấp cho các cơ quan hành chính những tài liệu tham khảo về lĩnh vực đã
nêu trên.
7. Kết cấu của luận án
Ngoài phần mở đầu, kết luận và phụ lục, nội dung luận án được kết cấu gồm
4 chương, 14 tiết.
6
Chương 1
TỔNG QUAN TÌNH HÌNH NGHIÊN CỨU LIÊN QUAN ĐẾN ĐỀ TÀI
1.1. TÌNH HÌNH NGHIÊN CỨU VỀ MÔI TRƯỜNG VÀ MÔI TRƯỜNG
THẨM MỸ
1.1.1. Những nghiên cứu về môi trường xã hội, môi trường văn hóa
Con người tồn tại không thể tách rời mối quan hệ với môi trường sinh thái và
môi trường xã hội. Đây là vấn đề không chỉ mang tính lý thuyết thuần túy, mà còn
có ý nghĩa rất quan trọng trong quá trình nhận thức và tác động đến thực tiễn phát
triển kinh tế - xã hội của nước ta hiện nay. Trong một thời gian rất dài, con người đã
quan tâm đến khai thác tài nguyên tự nhiên đến sự phát triển kinh tế. Vào những
năm 80 của thế kỷ XX, nhận thức rằng sự phát triển kinh tế không đi liền với phát
triển văn hóa thì đó vẫn là sự phát triển một chiều, cho nên UNESCO đã phát động
thập kỷ phát triển văn hóa để cho kinh tế và văn hóa có sự tương tác. Vào thập niên
đầu của những năm 90, con người nhận thức rằng, thế hệ trước muốn thỏa mãn nhu
cầu của mình thì phải chuẩn bị cho thế hệ sau cùng thỏa mãn tốt nhu cầu của mình,
cho nên, UNESCO đã đề xuất khái niệm phát triển bền vững. Khái niệm này gắn
liền với toàn bộ sự phát triển của con người đến môi trường. Hội nghị Thượng đỉnh
đầu tiên của thế giới về môi trường và phát triển diễn ra ở Rio De Janeiro, Braxin
(từ 3/6- 14/6/1992) đã đề cập toàn diện đến quan điểm chủ yếu, những vấn đề chủ
yếu, các chính sách và giải pháp chủ yếu về mối quan hệ của môi trường với sự
phát triển của hành tinh chúng ta. Các vấn đề này đã được Lê Quý An trình bày cụ
thể trên các tạp chí Thông tin môi trường số 3 năm 1992 và Tạp chí Hoạt động khoa
học số 3 và số 8 năm 1992. Bên cạnh việc Lê Quý An thông tin về những vấn đề
toàn cầu của môi trường, ở nước ta trước đó và tiếp sau có rất nhiều học giả đã
nghiên cứu sâu về các khía cạnh của môi trường. Trong các công trình nghiên cứu
về môi trường nói chung, nhiều nhà nghiên cứu nhìn nhận theo hai khía cạnh: môi
trường sinh thái và môi trường xã hội.
Các công trình nghiên cứu về môi trường sinh thái (môi trường tự nhiên) cần
phải kể đến các công trình như: Môi trường sinh thái, vấn đề và giải pháp của Phạm
7
Thị Ngọc Trầm [101]; Mối quan hệ giữa con người và tự nhiên trong sự phát triển
xã hội của Hồ Sĩ Quý [80]; Môi trường và ô nhiễm của Lê Văn Khoa [59]; Sinh thái
và môi trường của Nguyễn Văn Tuyên [108]; Trong cuốn Mối quan hệ giữa con
người và tự nhiên trong sự phát triển xã hội [80], Hồ Sĩ Quý cho rằng, trước tình
trạng ngày càng xấu đi của môi trường thì vấn đề xây dựng môi trường sinh thái
càng được thế giới đặc biệt coi trọng; hơn thế, còn trở thành một tiêu chuẩn không
thể thiếu của chiến lược phát triển bền vững. Ở Việt Nam, vấn đề đạo đức môi
trường tới thời điểm hiện nay, vẫn chưa thật sự được quan tâm như một vấn đề bức
xúc. Từ đó, ông nhận định: đạo đức môi trường đang dần trở thành một tiêu chuẩn
không thể thiếu đối với các xã hội đi theo xu hướng phát triển bền vững.
Phạm Thị Ngọc Trầm với công trình Quản lý nhà nước đối với tài nguyên
và môi trường vì sự phát triển bền vững dưới góc nhìn xã hội - nhân văn [102] đã
giải quyết những vấn đề cốt lõi nhất của vấn đề môi trường sinh thái ở Việt Nam
giai đoạn hiện nay. Công trình đã khai thác vấn đề thực trạng môi trường sinh thái
và những vấn đề bức xúc của môi trường sinh thái dưới góc nhìn triết học - xã hội
gắn liền với sự phát triển bền vững. Tác giả cũng đưa ra những phân tích sâu sắc về
vai trò của nhà nước và thực trạng của quản lý nhà nước đối với môi trường sinh
thái ở nước ta hiện nay. Từ đó, tác giả đề xuất một số quan điểm lý luận - phướng
pháp luận về cơ sở xã hội - nhân văn trong quản lý Nhà nước đối với môi trường
sinh thái dựa trên nền tảng mối quan giữa phát triển kinh tế, phát triển con người, xã
hội với việc bảo vệ môi trường theo hướng phát triển bền vững ở Việt Nam.
Cuốn sách Văn hóa sinh thái - nhân văn của Trần Lê Bảo [8], trong đó đã đề
cập đến khái niệm, thực chất của vấn đề môi trường sinh thái - nhân văn, cơ sở triết
học - xã hội của mối quan hệ giữa con người, xã hội và tự nhiên, tác động của con
người vào môi trường tự nhiên, truyền thống hòa hợp với thiên nhiên của người
Việt Nam; Trần Lê Bảo đã đề cập đến tác động của con người vào môi trường tự
nhiên, môi trường sinh thái - nhân văn và sự phát triển bền vững, đạo đức sinh thái,
truyền thống hòa hợp với thiên nhiên của người Việt Nam, thực trạng và thách thức
về môi trường sinh thái - nhân văn ở nước ta hiện nay.
8
Năm 2002, Cục Môi trường đã cho xuất bản cuốn Hành trình vì sự phát triển
bền vững 1972 - 1992 [21], công trình này đã trình bày các tuyên bố của thế giới về
môi trường và phát triển bền vững gắn liền với những giải pháp mang tính khả thi
đảm bảo cho sự hài hòa giữa môi trường sinh thái với sự phát triển.
Các công trình nghiên cứu về môi trường xã hội chủ yếu được các nhà khoa
học diễn giải trên các phương diện như môi trường lao động, môi trường nông thôn,
môi trường đô thị, môi trường văn hóa trong đó, môi trường văn hóa được các
nhà nghiên cứu đặc biệt chú trọng. Tiêu biểu có các công trình Văn hóa - một số
vấn đề lý luận của Trường Lưu [69], đã xem xét môi trường văn hóa trong mối quan
hệ thống nhất hữu cơ với môi trường tự nhiên và môi trường xã hội, từ đó đặt ra yêu
cầu trong hoạt động xây dựng môi trường văn hóa cần có sự kết hợp hài hòa, đồng
bộ với nhiệm vụ xây dựng môi trường tự nhiên và môi trường xã hội nhằm phát
triển toàn diện con người, qua đó tác động tới sự phát triển của văn hóa, xã hội.
Hoàng Vinh trong cuốn Mấy vấn đề lý luận và thực tiễn xây dựng môi
trường văn hóa ở nước ta hiện nay [112] nhấn mạnh vai trò của việc tổ chức xây
dựng đời sống văn hóa ở cơ sở - bước đi ban đầu của sự nghiệp xây dựng nền văn
hóa tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc - đưa văn hóa thâm nhập vào cuộc sống hàng
ngày của nhân dân.
Từ việc đi sâu nghiên cứu khái niệm, bản chất, chức năng của văn hóa, Trần
Văn Bính trong Đề cương bài giảng lý luận văn hóa cho hệ đào tạo cao học và
nghiên cứu sinh [9], xem môi trường văn hóa được hình thành bởi các giá trị mà
hoạt động của con người tạo ra.
Trong công trình nghiên cứu Xây dựng môi trường văn hóa ở nước ta hiện
nay từ góc nhìn giá trị học [49], Đỗ Huy đã tiếp cận môi trường văn hóa theo thước
đo giá trị lịch sử - xã hội, làm hiện diện bản chất của môi trường văn hóa như một di
sản có nhiều năng lượng quý hiếm mà tất cả các thế hệ tiếp nối đều phải gìn giữ và
sáng tạo tiếp. Từ đó đề ra việc đánh giá môi trường văn hóa phải được dựa vào một
hệ chuẩn nhất định. Ngoài chương mở đầu và kết luận, công trình đã trình bày một
cách cô đọng môi trường văn hóa Việt Nam vận động một cách logic từ quá khứ
9
đến hiện tại và xuyên suốt tương lai. Đó là các vấn đề về xây dựng môi trường văn
hóa nông thôn truyền thống và hiện đại; sự vận động của môi trường văn hóa nông
thôn trong quá trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa; môi trường văn hóa đô thị ở
nước ta hiện nay; môi trường văn hóa gia đình
Tiếp cận văn hóa như một tổng thể chiều sâu, bề rộng, tầm cao của các giá trị
mang tính nhân văn, Văn Đức Thanh trong cuốn Về xây dựng môi trường văn hóa
cơ sở [87] đã đặt ra yêu cầu nhận thức và vận dụng đúng đắn những vấn đề phương
pháp luận trong quá trình xây dựng môi trường văn hóa cơ sở.
Công trình Con người, môi trường và văn hóa là tập hợp các bài viết (có bổ
sung, sửa chữa) về chủ đề trên của Nguyễn Xuân Kính đã công bố trong các hội
thảo, tạp chí từ năm 1991 đến nay [65]. Thông qua cuốn sách, người đọc sẽ hình
dung về người Việt Nam trong mối quan hệ với môi trường tự nhiên, môi trường xã
hội và với chính mình. Con người Việt Nam với những kiểu dạng cụ thể: người
nông dân, người thành thị, người thợ thủ công, người buôn bán, nhà nho, người trí
thức tân học với các khía cạnh ẩm thực, trang phục, đi lại và làm lụng, với một số
biểu hiện của văn hóa xã hội và văn hóa tinh thần, được tác giả đặt trong những thời
kì, giai đoạn lịch sử cụ thể. Bên cạnh những kiểu người thuộc tầng lớp dân chúng,
người đọc còn thấy thấp thoáng chân dung của vua chúa, quan chức thời quân chủ
độc lập qua những chính sách, việc làm, phát ngôn của họ; thấy cả hậu quả của chủ
nghĩa thực dân Pháp và vai trò của văn hóa Pháp đối với nước ta từ cuối thế kỷ XIX
đến Cách mạng tháng Tám năm 1945.
Ngoài ra, nhiều tác giả không trực tiếp đề cập đến môi trường văn hóa mà
đi sâu nghiên cứu những vấn đề lý luận và thực tiễn về văn hóa như: Văn hóa và
đổi mới của Phạm Văn Đồng [33]; Vấn đề văn hóa và phát triển của tác giả
Hoàng Trinh [103]; Quản lý hoạt động văn hóa của Nguyễn Văn Hy, Phan Văn
Tú và Hoàng Sơn Cường [56]; Xây dựng và phát triển nền văn hóa Việt Nam
tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc của Nguyễn Khoa Điềm [31]; Những vấn đề
văn hóa Việt Nam đương đại của tác giả Bùi Khái Vinh [113]... Đây thực sự là
những công trình nghiên cứu có giá trị, tạo cơ sở cho việc nghiên cứu toàn diện
về môi trường văn hóa.
10
Một số tác giả cũng đã nghiên cứu về môi trường thẩm mỹ, môi trường nghệ
thuật như một biểu hiện đặc trưng của môi trường văn hóa. Trong đó, phải kể đến
các công trình tiêu biểu của Đỗ Huy như: Xây dựng môi trường văn hóa ở nước ta
hiện nay từ góc nhìn giá trị học [51]; Văn hóa Việt Nam trên con đường giải phóng,
đổi mới, hội nhập và phát triển vì chủ nghĩa xã hội [52]; Các giá trị văn hóa Việt
Nam chuyển từ truyền thống đến hiện đại [53] Các công trình của Đỗ Huy đã
phân tích sâu giá trị của môi trường thẩm mỹ với tư cách là một bộ phận của môi
trường văn hóa ở nước ta xoay quanh hệ giá trị của cái đúng, cái tốt, cái đẹp. Tác
giả cho rằng, tiếp cận giá trị học về môi trường văn hóa không thể tách rời khỏi cái
đẹp. Cái chân, cái thiện, cái mỹ trên môi trường văn hóa có mối quan hệ không thể
tách rời. Cái đẹp làm cho môi trường văn hóa luôn luôn sinh động và sống động.
Nhà nghiên cứu còn nêu rõ, trong mọi hoàn cảnh khó khăn, Đảng ta luôn luôn coi
cái đẹp có gốc rễ từ lao động, từ đấu tranh, từ xây dựng cuộc sống. Vì thế, cái đẹp
có ở ngay trong hoạt động lao động, trong đời sống hàng ngày. Vì vậy, để xây dựng
môi trường văn hóa thì chúng ta cần phải tích cực xây dựng môi trường thẩm mỹ
trên cơ sở của cái đẹp bên cạnh cái đúng và cái tốt.
1.1.2. Những nghiên cứu về môi trường thẩm mỹ
Vào những năm 70 của thế kỷ XX, đất nước ta đang trong giai đoạn phát
triển kinh tế tập thể, ưu tiên phát triển công nghiệp, những vấn đề môi trường đặc
biệt là môi trường thẩm mỹ đã được nhiều cơ quan và các nhà nghiên cứu chú ý.
Trên tạp chí Thanh niên số 11 năm 1973 đã xuất hiện các bài viết về Cái đẹp và môi
trường sáng tạo; số 12 năm 1973 có những bài viết về Nhân tố thẩm mỹ của sản
phẩm lao động; số 8 năm 1977 có bài viết về Đưa cái đẹp vào lao động sản xuất.
Trên tạp chí Triết học số 3 năm 1977 có bài viết Đưa cái đẹp vào cuộc sống hằng
ngày. Trên tạp chí Công đoàn số 109, tháng 8 năm 1989 cũng đã đề cập đến vấn đề
văn hóa thẩm mỹ trong quản lý lao động. Ngoài ra, có rất nhiều cuốn sách của các
tác giả chuyên nghiên cứu về mỹ học, mỹ thuật công nghiệp đã đi sâu nghiên cứu
nhiều vấn đề phức tạp của môi trường thẩm mỹ.
* Nhóm công trình nghiên cứu về thẩm mỹ
Trên phương diện khái niệm cũng như bản chất và biểu hiện của lĩnh vực
thẩm mỹ đã thu hút rất nhiều nhà nghiên cứu mỹ học, nghệ thuật học trong và ngoài
11
nước. Các giáo trình, sách chuyên khảo nước ngoài có đề cập vấn đề chung về lý
luận và thực tiễn liên quan đến lĩnh vực thẩm mỹ phải kể đến những công trình
khoa học nghiên cứu như: Nguyên lý mỹ học Mác - Lênin của IU. Lukin, V.C.
Xcacherơsiccốp [68] đã nghiên cứu bản chất của lĩnh vực thẩm mỹ, coi cái thẩm mỹ
là một phương diện quan trọng trong việc xây dựng và phát triển nhân cách con
người. Ngoài ra công trình còn trình bày về biểu hiện của cái thẩm mỹ thông qua ba
phương diện bao gồm khách thể thẩm mỹ với cái đẹp, cái bi, cái hài, cái cao cả
trong đó cái đẹp giữ vị trí trung tâm; chủ thể thẩm mỹ và nghệ thuật.
Đến những năm 80 - 90 của thế kỷ XX ở Liên Xô xuất hiện nhiều công trình:
Mỹ học Mác - Lênin và việc giáo dục bộ đội của Ax. Milôviđốp và B. Xaphrônốp
[73]; Mỹ học Mác - Lênin là một khoa học của P.S. Tơrôphimốp; Mỹ học - khoa học
diệu kỳ của B. A. Eren Grôx; Sáng tạo nghệ thuật, hiện thực, con người (1984) của
M.B. Khraptrenco; Mỹ học cơ bản và nâng cao (2001) của Ốpxiannhicốp Những
công trình này đều bàn về các yếu tố, cung bậc ý thức thẩm mỹ của chủ thể như:
tình cảm thẩm mỹ, nhu cầu thẩm mỹ, thị hiếu thẩm mỹ, lý tưởng thẩm mỹ, quan
điểm thẩm mỹ... được đề cập trong quan hệ với khách thể thẩm mỹ. Đồng thời, các
công trình cũng đề cập đến sự cải biến khách thể gắn với ý thức thẩm mỹ của chủ
thể trong lĩnh vực sáng tạo và thưởng thức nghệ thuật.
Mỹ học cơ bản và nâng cao (Ốpxiannhicốp chủ biên, 2001) đã đề cập các
vấn đề cơ bản của mỹ học như đối tượng, nhiệm vụ của mỹ học; đặc trưng, bản chất
của nghệ thuật, các loại hình nghệ thuật và các khách thể thẩm mỹ như cái đẹp, cái
cao cả, cái bi, cái hài. Tác giả đưa ra định nghĩa và tính phổ biến của cái thẩm mỹ
trong đời sống xã hội và nghệ thuật.
Những công trình khoa học trong nước, nổi bật là công trình của Đỗ Huy
nghiên cứu về Cái đẹp - một giá trị, đã phân tích cơ chế đánh giá của chủ thể thẩm
mỹ và khẳng định: “Không có chủ thể thẩm mỹ, sẽ không có đánh giá, thưởng thức
và sáng tạo những giá trị thẩm mỹ. Không có chủ thể thẩm mỹ không có cái gì được
gọi là cái bi, cái hài, cái đẹp và cái giá trị” [43, tr.183]. Theo tác giả, các phạm trù
thẩm mỹ là sản phẩm tất yếu của sự đánh giá, thưởng thức và sáng tạo những giá trị
thẩm mỹ của chủ thể thẩm mỹ dựa trên trình độ, năng lực thẩm mỹ và những kinh
12
nghiệm thẩm mỹ trong hoạt động thực tiễn. Theo tác giả, cái thẩm mỹ mặc dù có
cội nguồn là thế giới hiện thực nhưng chỉ có thể xuất hiện với tư cách là sản phẩm
phức hợp của sự tương tác biện chứng trực tiếp giữa chủ thể thẩm mỹ với khách thể
thẩm mỹ.
Công trình nghiên cứu Thị hiếu thẩm mỹ trong đời sống của Nguyễn Chương
Nhiếp [74] đã đề cập đến phạm trù thẩm mỹ thông qua việc lý giải và phân tích về
thị hiếu thẩm mỹ trong cấu trúc của nhận thức thẩm mỹ. Trong khi luận giải vai trò
của thị hiếu thẩm mỹ đối với đời sống thẩm mỹ, tác giả đã chỉ ra: thị hiếu thẩm mỹ
với tư cách vừa là nhân tố chủ đạo trong thưởng thức thẩm mỹ, vừa là yếu tố quan
trọng trong hoạt động đánh giá của chủ thể, vừa là một yếu tố cấu thành năng lực
sáng tạo của chủ thể thẩm mỹ. Vì vậy, yếu tố thẩm mỹ rất cần thiết đối với mọi hoạt
động của con người.
Sách Quan hệ giữa cái thẩm mỹ và cái đạo đức trong cuộc sống và trong
nghệ thuật của Nguyễn Văn Phúc [77] đã phân tích tính đặc thù của cái thẩm mỹ,
đồng thời làm rõ sự khác biệt của chủ thể về mặt nhận thức thẩm mỹ (tình cảm
thẩm mỹ, thị hiếu thẩm mỹ, quan điểm thẩm mỹ, lý tưởng thẩm mỹ) trong so sánh
với cái đạo đức và sự tác động qua lại lẫn nhau giữa chúng. Điều này chứng tỏ rằng,
cái thẩm mỹ biểu hiện ở nhận thức thẩm mỹ, tình cảm thẩm mỹ, ý chí thẩm mỹ,
quan điểm thẩm mỹ... không thể tách rời các khía cạnh khác của đời sống kinh tế,
chính trị - xã hội, đạo đức - pháp quyền, khoa học, nghệ thuật, tôn giáo... của từng
thời đại, từng cộng đồng, từng tập đoàn xã hội nhất định, thêm vào đó là cả những
điều kiện sinh hoạt vật chất của xã hội cũng như điều kiện sống riêng của từng cá
nhân. Tiếp cận theo hướng này là rất cần thiết đối với luận án khi nghiên cứu về
mối quan hệ và biểu hiện của mối quan hệ giữa cái thẩm mỹ và cơ quan hành chính
nhà nước.
Bàn về Sự biến đổi của chuẩn mực đánh giá thẩm mỹ trong thời kỳ đổi mới ở
Việt Nam, Vũ Thị Kim Dung [24] đã luận giải đặc điểm cơ bản của chuẩn mực
đánh giá thẩm mỹ trong môi trường văn hoá thẩm mỹ là nằm trong cấu trúc chủ thể
thẩm mỹ, có sự tham gia tổng hợp của các yếu tố: xúc cảm, tình cảm, quan điểm, lý
tưởng thẩm mỹ... Tác giả đã đề cập đến trình độ phát triển của ý thức thẩm mỹ với
13
tư cách năng lực đánh giá thẩm mỹ. Từ đây, Vũ Kim Dung cũng phân tích về sự
chuyển đổi mang tính lệch pha của các chuẩn mực về đánh giá thẩm mỹ trong thời
kỳ đổi mới ở Việt Nam hiện nay. Đây là một công trình có giá trị đánh giá về môi
trường thẩm mỹ trong cơ quan hành chính nhà nước hiện nay ở nước ta.
+ Nhóm công trình nghiên cứu về văn hóa thẩm mỹ
Văn hóa thẩm mỹ là một vấn đề rất quan trọng trong đời sống con người.
Tuy nhiên, khái niệm văn hóa thẩm mỹ chỉ được đề cập và sử dụng phổ biến bắt
đầu từ những năm 60, 70 của thế kỷ XX trong giới nghiên cứu triết học, mỹ học và
văn hóa học ở Liên Xô. Tiêu biểu là các công trình:
- Văn hóa thẩm mỹ của con người Xô viết của M.X.Cagan [12] đã trình bày
bản chất của văn hóa thẩm mỹ, xem giáo dục thẩm mỹ như là một phương diện
hình thành nhân cách và khẳng định vai trò to lớn của môi trường văn hóa thẩm mỹ
trong việc phát triển con người toàn diện.
- Giáo trình Cơ sở lý luận văn hóa Mác - Lênin của A.I.Ácnônđốp [2] đã
dành cả chương XV để trình bày về môi trường văn hóa thẩm mỹ xã hội chủ nghĩa.
Trong chương này, tác giả đã trình bày những quan điểm chung nhất về môi trường
văn hóa thẩm mỹ, chức năng và lĩnh vực biểu hiện của nó. Tác giả cho rằng, môi
trường văn hóa thẩm mỹ có vai trò to lớn trong mọi hoạt động nhận thức, đánh giá,
sáng tạo của con người theo chuẩn mực Chân - Thiện - Mỹ.
- Công trình Văn hoá thẩm mỹ và sự phát triển con người Việt Nam t...Ề MÔI TRƯỜNG
Môi trường từ lâu đã trở thành mối quan tâm của nhiều ngành khoa học
không chỉ ở Việt Nam mà còn nhiều quốc gia trên thế giới. Đây là một khái niệm
trừu tượng mà con người (ở vào thời kỳ muộn, chứ không phải có ngay từ buổi bình
minh của loài người) phải đưa vào trong ngôn ngữ của mình để tư duy và nhận
thức. Theo cách thông thường, môi trường (Environment) được hiểu là một thực tế
khách quan tồn tại bên ngoài, bao quanh con người và nhờ vào đó mà con người tồn
tại và phát triển được. Tuy nhiên môi trường là một khái niệm rộng và tương đối
phức tạp. Chính vì vậy, tùy thuộc vào cách nhìn nhận mối quan hệ của thực thể với
các điều kiện xung quanh và phạm vi xem xét, nghiên cứu, khái niệm môi trường
được cắt nghĩa theo nhiều hướng khác nhau:
Thứ nhất, môi trường được hiểu là toàn bộ thế giới vật chất, với tất cả sự đa
dạng, muôn màu muôn vẻ của nó và luôn tồn tại khách quan. Đó chính là môi
trường toàn cầu, môi trường trái đất và những điều kiện bao quanh trái đất. Nó bao
gồm khí quyển, thủy quyển và thạch quyển. Ở nước ta, những năm 90 của thế kỷ
XX quan niệm này vẫn còn tồn tại khá phổ biến. Trong mục tìm hiểu khái niệm Môi
trường và bảo vệ môi trường của tạp chí Cộng sản và tạp chí Công tác khoa giáo
cũng chỉ nhấn mạnh đến các yếu tố tự nhiên, sinh thái, các yếu tố vật chất nhân tạo
bao quanh con người có ảnh hưởng tới sự tồn tại và phát triển của con người mà
không hề đề cập đến các yếu tố tư tưởng, tinh thần, các yếu tố xã hội - với tư cách là
một bộ phận quan trọng cấu thành môi trường sống của con người [96], [97].
Thứ hai, môi trường được hiểu là không gian sống, là phần của thế giới vật
chất đã và đang tồn tại sự sống, hay còn được gọi là sinh quyển. Môi trường sống
bao gồm trong đó những điều kiện vô cơ và hữu cơ liên quan trực tiếp hoặc gián
tiếp đến sự tồn tại, phát triển của các sinh thể.
28
Thứ ba, môi trường còn được hiểu là không gian bao chứa con người và xã
hội loài người. Nó bao gồm sinh quyển và những điều kiện xã hội. Nói cách khác,
đó là môi trường tự nhiên - xã hội, hay môi trường tự nhiên - người hóa, môi trường
sinh thái nhân văn.
Theo Hồ Sỹ Quý, khi dùng khái niệm môi trường trong lĩnh vực phát triển xã
hội và xây dựng con người, nghĩa là khi phân tích ảnh hưởng của môi trường đến
đời sống của các chủ thể, như cá nhân, nhóm, cộng đồng, đặc biệt khi gắn với các
đặc trưng xã hội và nhân cách, người ta lại thấy thiếu hụt nếu không coi toàn bộ đời
sống xã hội phong phú và phức tạp bên ngoài (các chủ thể đó) như là môi trường có
ảnh hưởng và thường quy định, thậm chí quyết định diện mạo của mỗi chủ thể. Cá
nhân nào cũng ít nhiều là sản phẩm của một xã hội cụ thể, nghĩa là được tạo ra từ
một hệ thống, một cơ chế cụ thể. Xã hội nào cũng để dấu ấn của mình lên đời sống
cá nhân, dù là dấu ấn tích cực hay dấu ấn tiêu cực. Trong những trường hợp như
vậy, khái niệm môi trường xã hội xuất hiện [81].
Như vậy, thông qua các công trình nghiên cứu thì môi trường là toàn bộ
những điều kiện tự nhiên và xã hội bao quanh con người, ảnh hưởng đến sự tồn tại
và phát triển của con người. Ðể phân phân loại môi trường, Trần Quốc Vượng trong
cuốn Cơ sơ văn hóa Việt Nam có phân loại môi trường ra 2 loại: môi trường tự
nhiên và môi trường nhân tạo. Nguyễn Xuân Kính trong cuốn Con người, môi
trường và văn hóa, lại có cách phân loại khác, chia môi trường thành 3 loại: môi
trường sinh thái tự nhiên; môi trường sinh thái nhân văn và môi trường xã hội. Dựa
vào chức năng để phân loại môi trường thì Lưu Ðức Hải trong cuốn Cơ sở khoa học
môi trường, phân loại môi trường có 3 loại: môi trường tự nhiên; môi trường xã hội;
môi trường nhân tạo.
Năm 1981, Tổ chức giáo dục của Liên hợp quốc (UNESCO) đã đưa ra một
định nghĩa về khái niệm này như sau: Môi trường bao gồm toàn bộ các hệ thống tự
nhiên và nhân tạo, trong đó con người sinh sống và bằng lao động của mình đã khai
thác những tài nguyên thiên nhiên hoặc nhân tạo để thỏa mãn những nhu cầu của
mình. Luật Bảo vệ Môi trường của Việt Nam, Ðiều 1: Môi trường bao gồm các yếu
tố tự nhiên và yếu tố vật chất nhân tạo quan hệ mật thiết với nhau, bao quanh con
29
người, có ảnh hưởng tới đời sống, sản xuất, sự tồn tại, phát triển của con người và
thiên nhiên.
Nhà nghiên cứu Hoàng Đức Nhuận khẳng định, khi nghiên cứu về môi
trường của con người thì cần phải được hiểu theo nghĩa rộng:
Nó bao gồm toàn bộ hệ thống tự nhiên và những gì do con người sáng tạo ra
như các hệ sinh thái nhân tạo, những nhóm và những hội môi trường văn hóa...
trong đó con người sống và khai thác bằng lao động của mình, những nguồn lợi tự
nhiên và nhân tạo cho phép thỏa mãn những nhu cầu của con người [75, tr.7].
Đồng tình với ý kiến trên, Nguyễn Anh Tường cũng cho rằng, “môi
trường là tất cả các yếu tố xung quanh gồm vô sinh, hữu sinh, ảnh hưởng trực
tiếp hoặc gián tiếp đến cuộc sống con người, đến sự tồn tại phát triển của các
sinh vật sống. Môi trường bao gồm hai mặt: Môi trường tự nhiên và môi trường
xã hội” [106].
Tác giả Trường Lưu rất có lý khi cho rằng: “Về một định nghĩa chung thì
môi trường là những gì gắn chặt và bao quanh con người; từ đó người ta vận dụng
vào các dạng môi trường khác nhau” [69, tr.241]. Như vậy, có thể thấy: môi trường
là một khái niệm rất rộng dùng để chỉ toàn bộ các điều kiện vô cơ và hữu cơ có liên
quan tới sinh tồn và phát triển của cơ thể sống, bao gồm tất cả những gì đang tồn
tại khách quan với tất cả những hình thức biểu hiện muôn màu của nó. Trong khái
niệm môi trường, các nhà nghiên cứu đã sử dụng để chỉ hai loại môi trường là môi
trường sinh thái và môi trường xã hội.
Môi trường sinh thái (môi trường tự nhiên) bao gồm các yếu tố biotic (hữu
sinh) và abiotic (vô sinh), là tổng hợp những điều kiện tự nhiên có liên quan đến sự
sống của con người, đến sự tồn tại và phát triển của xã hội. Đó là sinh quyển, là một
hệ thống mở về nhiệt động học. Sinh quyển có một phạm vi bao quát rất rộng lớn
như vũ trụ, thế giới vật lý, thế giới sinh học. Chúng là những hiện tượng tự nhiên
như khí quyển, thạch quyền, thủy quyển vốn tồn tại ngoài tác động của con người
và cần thiết cho sự tồn tại và phát triển của con người và mọi sinh vật sống.
Như vậy, môi trường sinh thái là sự tổng hợp những gì tồn tại khách quan, là
cái đương nhiên tồn tại, không phải do ý muốn, hiểu biết và sáng tạo của con người.
30
Đó là toàn bộ thế giới vật chất, là vũ trụ và toàn bộ những hình thức biểu hiện muôn
màu, muôn vẻ của nó, từ các yếu tố vô cơ, đến các sinh vật, vi sinh vật, con người
và xã hội loài người. Con người và xã hội là sản phẩm của tự nhiên xuất hiện một
cách tất yếu, khách quan trong quá trình tiến hóa của tự nhiên, do đó con người là
một bộ phận đặc thù của tự nhiên.
Con người và xã hội là các yếu tố thống nhất trong một chỉnh thể không tách
rời. Trong mối quan hệ chặt chẽ và sự tác động qua lại giữa xã hội và tự nhiên, yếu
tố tự nhiên có ảnh hưởng rất to lớn đối với sự tồn tại, phát triển của con người cũng
như của xã hội loài người. Đối với con người và xã hội loài người, môi trường sinh
thái có một giá trị vô cùng to lớn, không thể thay thế: Nó vừa là nơi tồn tại, sinh
trưởng và phát triển, vừa là nơi con người lao động và hưởng thụ những giá trị văn
hóa vật chất và tinh thần do sự lao động đó tạo nên. Tác giả Phạm Thị Ngọc Trầm
đã nhận định môi trường sinh thái “là môi trường sống của con người và xã hội loài
người, là điều kiện đầu tiên, thường xuyên và tất yếu của quá trình sản xuất ra của
cải vật chất, là một trong những yếu tố cơ bản nhất của tồn tại xã hội” [101, tr.68].
Quan hệ giữa con người với môi trường tự nhiên là quan hệ hết sức gắn bó.
Bởi, con người muốn tồn tại và phát triển không thể không cần đến những điều
kiện cần thiết đối với sự sống như nước, ánh sáng, không khí, thức ăn... Xã hội
loài người cũng không thể phát triển nếu không có những nguồn tài nguyên thiên
nhiên, khoáng sản và các nguồn nguyên vật liệu quan trọng khác. Chỉ có tự nhiên
mới có khả năng cung cấp cho con người tất cả những điều kiện vật chất cần thiết
đó. Với những vai trò đặc biệt quan trọng như vậy, UNESCO đã đánh giá môi
trường sinh thái có ba chức năng chính đối với con người: Thứ nhất, môi trường
sinh thái là nơi cung cấp các nguồn tài nguyên cần thiết đối với sự tồn tại, phát
triển của con người và xã hội loài người. Thứ hai, nó là nơi thu nhận các hoạt
động của con người nhằm phục vụ cho các nhu cầu về đời sống vật chất, tinh thần
cho con người. Thứ ba, môi trường tự nhiên còn là nơi đồng hóa các chất thải do
kết quả của các hoạt động đó [75, tr.7].
Môi trường sinh thái là cơ sở tự nhiên của đời sống con người, là tiền đề của
nền sản xuất xã hội. Trong Bản thảo kinh tế - triết học năm 1844, khi đánh giá vị trí,
31
vai trò của môi trường sinh thái đối với sự phát triển của con người và xã hội,
C.Mác đã khẳng định:
Công nhân không thể sáng tạo ra cái gì nếu không có giới tự nhiên, nếu
không có thế giới hữu hình bên ngoài. Đó là vật liệu, trong đó lao động
của anh ta được thực hiện, trong đó hoạt động lao động của anh ta triển
khai, từ đó và nhờ đó, lao động của anh ta sản xuất ra sản phẩm. Giới tự
nhiên cung cấp cho lao động tư liệu sinh hoạt theo nghĩa là không có vật
để cho lao động tác động vào thì lao động không thể sống được; mặt
khác, chính giới tự nhiên cũng cung cấp tư liệu sinh hoạt theo nghĩa hẹp
hơn, nghĩa là cung cấp tư liệu để tồn tại về thể xác cho bản thân người
công nhân [72, tr.130].
Sự phát triển của cuộc cách mạng khoa học công nghệ hiện đại trong thời đại
ngày nay đã mang lại cho con người những khả năng và sức mạnh to lớn, cho phép
con người có thể tạo ra những vật liệu mới, mà nguyên liệu để sản xuất vốn không
có sẵn trong tự nhiên. Xét đến cùng, những thành phần để tạo nên những vật liệu
mới đó cũng không thể lấy từ đâu khác ngoài giới tự nhiên. Thực ra, dù rằng xã hội
có phát triển tới trình độ hiện đại đến đâu chăng nữa, con người cũng không thể
tách khỏi tự nhiên, biệt lập với tự nhiên; không thể gạt tự nhiên đứng bên lề cuộc
sống của mình. Trái lại, xã hội càng phát triển, con người càng cần đến môi trường
sinh thái, càng gắn bó với nó nhiều hơn. Bởi lẽ, “những thành phần vốn có của tự
nhiên không những là những yếu tố cần thiết đối với sự sống của con người, mà còn
là những nguồn tài lực vô cùng tận cho sự phát triển của xã hội, nếu như con người
biết khai thác và sử dụng nó một cách khôn khéo, hợp lý” [101, tr.72]. Tự nhiên vừa
là nguồn cung cấp tài nguyên, vừa là nơi thu nhận các hoạt động của con người
nhằm cải biến những tài nguyên đó thành các giá trị vật chất và tinh thần phục vụ sự
tồn tại, phát triển của con người, xã hội. Con người, như quan niệm của triết học
mác-xít, vừa là một thực thể tự nhiên, vừa là một thực thể xã hội. Do vậy, tự nhiên
còn là môi trường diễn ra các hoạt động sống của con người, trước hết là hoạt động
lao động sản xuất, và nhờ vậy, con người duy trì được sự tồn tại, phát triển của
chính bản thân mình. Tồn tại trong một chỉnh thể thống nhất, các yếu tố tự nhiên,
con người và xã hội luôn liên hệ chặt chẽ và tác động lẫn nhau. C.Mác quan niệm:
32
Giới tự nhiên... là thân thể vô cơ của con người. Con người sống bằng
giới tự nhiên. Như thế nghĩa là giới tự nhiên là thân thể của con người,
thân thể mà với nó con người phải ở lại trong quá trình thường xuyên
giao tiếp để tồn tại. Nói rằng đời sống thể xác và tinh thần của con người
gắn liền với giới tự nhiên, nói như thế chẳng qua chỉ có nghĩa là giới tự
nhiên gắn liền với bản thân giới tự nhiên, vì con người là một bộ phận
của giới tự nhiên [72, tr.135].
Thông qua quá trình hoạt động thực tiễn, trước hết là quá trình lao động
sản xuất ra của cải vật chất, con người đã nhận được các dòng vật chất,
năng lượng và thông tin từ môi trường tự nhiên, biến đổi chúng cho phù
hợp với nhu cầu sống của mình, với sự tồn tại và phát triển của xã hội.
Nền sản xuất xã hội là phương thức trao đổi chất đặc thù giữa xã hội và
tự nhiên, thông qua chu trình sinh học [70, tr.266].
Thông qua quá trình sản xuất, con người đã tác động vào tự nhiên, khai thác
và lấy đi từ tự nhiên những nguồn tài nguyên cần thiết, cải biến chúng phục vụ nhu
cầu sống của bản thân mình cũng như sự phát triển của xã hội. Mác đã nhận định:
“Lao động trước hết là một quá trình diễn ra giữa con người và tự nhiên, một quá
trình trong đó, bằng hoạt động của chính mình, con người làm trung gian, điều tiết
và kiểm tra sự trao đổi chất giữa họ và tự nhiên” [70, tr.266]. Tuy nhiên, từ chỗ
nhận thức chưa đúng về vai trò của tự nhiên, coi tự nhiên là kho của cải vô tận có
thể mặc sức sử dụng, con người đã tác động mạnh mẽ vào tự nhiên thông qua hoạt
động sản xuất và để lại những hậu quả to lớn nhiều khi không thể lường trước mức
độ cũng như tính chất nghiêm trọng của nó. Nền sản xuất xã hội đã sử dụng một
cách hết sức lãng phí những nguồn tài nguyên thiên nhiên, kể cả những nguồn tài
nguyên có thể và không thể tái tạo được. Đồng thời, nền sản xuất xã hội lại đổ vào
tự nhiên một lượng phế thải quá lớn, hơn nữa, còn độc hại và nguy hiểm. Sự mở
rộng, đẩy mạnh các hoạt động sản xuất của con người cả về quy mô, cường độ...
dựa trên sự phát triển ngày càng cao của lực lượng sản xuất xã hội đã mang lại cho
xã hội những lợi ích vật chất to lớn, như lượng tài nguyên khai thác được ngày càng
nhiều, nền kinh tế tăng trưởng ngày càng nhanh và với tốc độ cao. Đó là những kỳ
33
tích không thể phủ nhận trong tiến trình chinh phục, cải biến tự nhiên vì lợi ích vật
chất của con người. Nhưng, cũng không phải là quá cực đoan khi cho rằng, bắt đầu
từ chỗ tạo ra những cái được gọi là kỳ tích ấy, con người và xã hội loài người đồng
thời phải đối mặt với sự tiềm tàng của những hiểm họa, nguy cơ và thách thức
nghiệt ngã, nếu không nói là bi kịch, của sự phát triển theo kiểu bóc lột tự nhiên.
Tóm lại, môi trường sinh thái có tầm quan trọng đặc biệt đối với cuộc sống
của con người, với sự phát triển bền vững của các cộng đồng, các quốc gia. Quan
niệm mới về sự phát triển, trong đó nguyên tắc chủ đạo là sự đồng tiến hóa giữa con
người và tự nhiên, đòi hỏi trong quá trình mưu cầu hạnh phúc của mình, con người
không chỉ khai thác tự nhiên mà nhiệm vụ không kém phần quan trọng, thậm chí có
ý nghĩa quyết định sự sống còn, là cần phải biết giữ gìn, bảo vệ môi trường sinh
thái; xây dựng mối quan hệ hài hòa giữa tự nhiên và xã hội vì lợi ích chung, lâu dài
của xã hội loài người.
Môi trường xã hội với tư cách là một bộ phận của môi trường chung cũng đã
được rất nhiều nhà nghiên cứu quan tâm. Trên quan điểm triết học, xã hội là hình
thức vận động cao nhất, là đỉnh cao của quá trình tiến hóa của thế giới vật chất.
C Mác đã viết: “Xã hội - cho dù nó có hình thức gì đi nữa - là cái gì? Là sản
phẩm của sự tác động qua lại giữa những con người” [71, tr.657]. Hình thức vận
động của xã hội luôn lấy mối quan hệ qua lại và sự tác động lẫn nhau giữa người và
người làm nền tảng. Xã hội chính là tổng hòa các mối quan hệ giữa người với
người. Con người với tư cách là sản phẩm cao nhất của quá trình tiến hóa lâu dài và
phức tạp của giới tự nhiên thì xã hội không thể là cái gì khác mà chính là một bộ
phận đặc biệt được tách ra một cahcs hợp quy luật trong quá trình tiến hóa của thế
giới vật chất.
Trên cơ sở về khái niệm và bản chất của xã hội, chúng ta có thể thấy rằng,
môi trường xã hội chính là môi trường của những mối quan hệ qua lại giữa người
với người. Môi trường xã hội là môi trường mà con người là nhân tố trung tâm,
tham gia và chi phối môi trường. Môi trường xã hội bao gồm: chính trị, kinh tế, văn
hoá, thể thao, lịch sử, giáo dục... xoay quanh con người và con người lấy đó làm
nguồn sống, làm mục tiêu cho mình.
34
Từ sự tác động qua lại giữa con người với con người trong môi trường xã
hội, con người đã hình thành nên những mối quan hệ đặc biệt quan trọng cho sự
sinh tồn và phát triển của mình. Đầu tiên là sự ra đời của mối quan hệ kinh tế đã
làm nền tảng cơ sở hạ tầng cho xã hội. Trên cơ sở hạ tầng kinh tế, con người đã dần
dần xây dựng Nhà nước cùng với các công cụ của nó hay kiến trúc thượng tầng của
xã hội như chính trị, văn hóa, đạo đức, tôn giáo Cơ sở hạ tầng và kiến trúc
thượng tầng của xã hội đã tạo thành cái khung xã hội để con người hoạt động và thể
hiện bản chất xã hội của mình.
Với tính chất quyết định của mình, cơ sở kinh tế đã trở thành nền tảng cho
mối quan hệ giữa người với người trong môi trường xã hội. Tuy nhiên, quan hệ
giữa của con người không chỉ có các quan hệ kinh tế trong sự tồn tại và phát triển
của xã hội. Cùng với việc sáng tạo ra những giá trị vật chất khổng lồ trong quá trình
quan hệ và tác động lên tự nhiên, con người còn tạo ra thế giới giá trị văn hóa đầy
phong phú: văn hóa vật chất (văn hóa vật thể) và văn hóa tinh thần (văn hóa phi vật
thể). Những giá trị văn hóa với những giá trị xã hội do lao động sản xuất và hoạt
động sống tạo ra làm hình thành một dạng môi trường sống mới của con người -
môi trường văn hóa. Đặc biệt, hiểu theo nghĩa môi trường văn hóa thường được
dùng với nghĩa rộng nhất, bao gồm toàn bộ đời sống con người về phương diện văn
hóa, nghĩa là gần như trùng với khái niệm môi trường xã hội về mặt phạm vi, chỉ
khác ở khía cạnh xem xét là văn hóa, chứ không phải là ở các mặt khác. Rất ít khi
môi trường văn hóa chỉ được hiểu là gồm các hoạt động thuần túy văn hóa. Trong
khi đó, các khái niệm khác thuộc môi trường xã hội lại được sử dụng theo nghĩa hẹp
hơn và có phần chặt chẽ hơn, chẳng hạn, môi trường pháp lý, môi trường kinh tế,
môi trường giáo dục
Cùng với môi trường sinh thái, môi trường xã hội -môi trường văn hóa
thường xuyên tác động tới con người, bồi dưỡng tâm hồn, đạo lý, rèn luyện ý chí và
tôi luyện nhân cách con người. Trần Văn Bính trong công trình Đề cương bài giảng
lý luận văn hóa nhận định:
Nếu đại tự nhiên là cái nôi đầu tiên nuôi sống con người, thì văn hóa là
cái nôi thứ hai, ở đó toàn bộ đời sống tinh thần của con người được hình
35
thành, được nuôi dưỡng và phát triển. Con người không thể tồn tại nếu
tách rời đại tự nhiên, cũng như con người không thể thực sự là con người
nếu tách rời môi trường văn hóa [9, tr.65].
Điều đó khẳng định môi trường văn hóa thực sự có ý nghĩa, hàm chứa hệ
thống giá trị nhân văn, vốn tri thức và kinh nghiệm xã hội đã được đúc kết trong
thực tiễn lịch sử, tạo thành môi trường văn hóa lành mạnh nuôi dưỡng con người,
phát triển con người ngày càng hoàn thiện về mọi mặt đức - thể - mỹ.
Môi trường văn hóa là khái niệm đặc biệt của môi trường xã hội. Văn hóa
hình thành và phát triển trước hết trong mối quan hệ giữa con người với môi trường
tự nhiên và môi trường xã hội. Hơn nữa xét về bản chất, văn hóa chính là: “Sự phát
huy các năng lực bản chất của con người, là sự thể hiện đầy đủ nhất chất người, nên
văn hóa trở thành năng lực tinh thần đặc biệt, giúp cho con người hoàn thiện nhân
cách, tâm hồn, đồng thời nâng cao hiệu quả hoạt động của con người” [9, tr.65].
Một khi đã hình thành, văn hóa lại tạo ra môi trường sống, môi trường văn hóa của
con người, góp phần quan trọng trong việc hình thành con người như một thực thể
văn hóa.
Môi trường văn hóa chính là sự vận động của các quan hệ của con người
trong các quá trình sáng tạo, tái tạo, lưu giữ và hưởng thụ các sản phẩm vật chất và
tinh thần của mình. Môi trường văn hóa với tư cách là tổng hòa các mối quan hệ xã
hội - trở thành khách thể, là cái bao quanh con người, tác động trở lại con người một
cách khách quan. Trong cuốn Cơ sở lý luận văn hóa Mác - Lênin do A.I. Ac-nôn-
đốp chủ biên đã đưa ra định nghĩa về môi trường văn hóa như sau:
Môi trường văn hóa là một tổng thể ổn định những yếu tố vật thể và
nhân cách, nhờ đó các cá thể tác động lẫn nhau. Chúng ảnh hưởng tới
hoạt động khai thác và sáng tạo giá trị văn hóa, tới nhu cầu tinh thần,
hứng thú và định hướng giá trị của họ. Môi trường văn hóa không chỉ là
tổng hợp những yếu tố văn hóa vật thể, mà còn có những con người
hiện diện văn hóa [2, tr.75].
Trong những năm gần đây, môi trường văn hóa ở Việt Nam đã được nhà
nghiên cứu đã đề cập và tiếp cận môi trường văn hóa từ nhiều góc độ và cấp độ
khác nhau. Từ góc nhìn giá trị học, nhà nghiên cứu Đỗ Huy khẳng định: “Môi
36
trường văn hóa gắn với toàn bộ hoạt động người. Các lớp và không gian của môi
trường gắn liền với sự đối tượng hóa các năng lực bản chất của con người...” [49,
tr.24] và “môi trường văn hóa chính là sự vận động của các quan hệ của con người
trong các quá trình sáng tạo, tái tạo, đánh giá, lưu giữ và hưởng thụ các sản phẩm
vật chất và tinh thần của mình” [49, tr.35-36]. Theo tác giả, môi trường văn hóa là
một hệ thống các giá trị nhân văn có mối quan hệ mật thiết đối với quá trình hình
thành, phát triển nhân cách con người, phát triển xã hội.
Từ góc nhìn nhân học văn hóa, nhà nghiên cứu Phạm Minh Hạc cho rằng:
“Môi trường văn hóa chính là môi trường xã hội và tự nhiên, bao gồm các quan hệ
người, nhóm, gia đình, tổ tiên, cộng đồng dân tộc, xã hội”. Môi trường văn hóa
theo quan điểm của tác giả là sự vận động của các mối quan hệ giao tiếp, thể hiện
trong ứng xử của từng người và gia phong, lối sống, nếp sống và trật tự kỷ cương
của xã hội.
Công trình nghiên cứu khoa học của Bộ quốc phòng “Nuôi dưỡng giá trị văn
hóa trong nhân cách người chiến sỹ quân đội nhân dân Việt Nam” khi đề cập đến
vấn đề môi trường văn hóa, các tác giả đã nêu rõ: “Môi trường văn hóa là tổng hòa
những thành tố vật chất và tinh thần tương đối ổn định trong một thời gian và không
gian cụ thể, ở đó các cá nhân tác động đến nhau, con người là yếu tố quan trọng
nhất của môi trường văn hóa [98, tr.32].
Trong cuốn sách Quản lý hoạt động văn hóa, từ góc độ lãnh đạo, quản lý
hoạt động văn hóa, tập thể tác giả nhận định: “Môi trường văn hóa là một tổng thể
các sản phẩm văn hóa, chương trình văn hóa, hành vi văn hóa, thiết chế, phương
tiện và cảnh quan văn hóa... mà cá nhân tiếp xúc trong suốt đời mình và có ảnh
hưởng qua lại với mình” [56, tr.77].
Như vậy, có thể thấy rằng, môi trường văn hóa chính là môi trường nhân
hóa theo hình ảnh mong muốn của con người. Môi trường văn hóa là toàn bộ
yếu tố tự nhiên nhân văn và tổng hợp những yếu tố văn hóa - xã hội và nhân
cách văn hóa bao bọc xung quanh con người. Nó tác động biện chứng tới con
người thông qua hệ thống các giá trị, các truyền thống... được kết tinh lại trong
các phong tục, tập quán, khuôn mẫu ứng xử của cộng đồng nhằm phối hợp điều
37
hòa, kiểm soát cuộc sống, thế ứng xử của các thành viên trong gia đình, gia tộc
và của cả cộng đồng.
Môi trường văn hóa là một bộ phận quan trọng, một phương diện cốt lõi của
văn hóa, phản ánh bản chất, trình độ phát triển của nền văn hóa trong xã hội đó,
“môi trường văn hóa là thành quả kết tinh văn hóa của một thời đại cụ thể” [49,
tr.67]. Văn hóa là một trong những yếu tố quan trọng định hướng, chi phối bản chất,
trình độ phát triển của môi trường văn hóa. Bởi, văn hóa không dừng lại ở các hoạt
động. Các hoạt động sẽ tạo ra các giá trị. Giá trị chính là hạt nhân tạo nên văn hóa,
là hòn đá thử vàng để phân biệt các hoạt động văn hóa với các hoạt động phản văn
hóa. Các giá trị này, đến lượt nó, lại hình thành nên khái niệm mà ta gọi là môi
trường văn hóa. Giá trị là hạt nhân tạo nên văn hóa và môi trường văn hóa. Nhưng
môi trường văn hóa không trực tiếp sáng tạo ra các giá trị mà nó chỉ tạo ra các điều
kiện, tiền đề cần thiết và thuận lợi để các giá trị luôn được sản sinh ra trong đời sống
xã hội, thúc đẩy văn hóa phát triển. Sự thâm nhập của hệ thống các giá trị, các
chuẩn mực đó vào các thiết chế gia đình, nhà trường, xã hội; vào các lĩnh vực của
đời sống xã hội như: khoa học, giáo dục - đào tạo, đạo đức, thẩm mỹ... sẽ tạo ra một
môi trường văn hóa tương ứng, góp phần nuôi dưỡng, hình thành một kiểu mẫu
nhân cách sáng tạo đáp ứng yêu cầu đặt ra của đời sống xã hội. Thông qua sự vận
động và phát triển của nền văn hóa hiện tồn, môi trường văn hóa luôn được bồi đắp
các giá trị mới, các giá trị nhân văn, nhân bản hiện đại, đảm bảo sự phát triển tiếp
nối các giá trị truyền thống, tạo ra tính đa dạng, linh hoạt và rộng mở của môi
trường văn hóa theo bộ ba giá trị chân - thiện - mỹ bởi:
Theo Đỗ Huy:”Môi trường văn hóa của chúng ta là môi trường mà ở đó con
người giao tiếp với tự nhiên, phát triển hài hòa với tự nhiên. Môi trường văn hóa
của chúng ta là môi trường mà ở đó con người với con người được sống bình đẳng
trong tự do và hạnh phúc và bộ giá trị chân - thiện - mỹ là hướng vận động cơ bản”
[49, tr.24].
Trong mỗi môi trường văn hóa thường được chi phối bởi các hệ chuẩn mực
cơ bản: Thứ nhất, là hệ chuẩn mực trong lao động chi phối các hoạt động văn hóa
lao động sản xuất, các quan hệ giữa con người với tự nhiên và giữa con người với
38
con người. Thứ hai, là hệ chuẩn mực trong giao tiếp chi phối giao tiếp văn hóa của
con người. Thứ ba, là hệ chuẩn mực gia đình điều chỉnh các quan hệ văn hóa trong
môi trường gia đình. Thứ tư, là hệ chuẩn mực phát triển nhân cách điều chỉnh lối
sống cho con người. Các hệ chuẩn mực này đan kết nhau, định hướng cho các hành
vi của cá nhân, các nhóm xã hội, xác định các mẫu mực, các hình thức ứng xử, tạo
nên diện mạo của các môi trường văn hóa.
Các chuẩn mực xã hội và các giá trị xã hội với tư cách là những nhân tố cơ
bản của môi trường văn hóa đã có vai trò to lớn và quyết định đến cách ứng xử hay
văn hóa ứng xử của con người với môi trường sinh thái và môi trường xã hội.
Môi trường văn hóa có cấu trúc hết sức phức tạp, có thể tiếp cận ở nhiều góc
độ, nhiều phương diện khác nhau. Trên khía cạnh không gian, môi trường văn hóa
được phân chia thành ba cấp độ.
Thứ nhất, cấp độ vi mô bao gồm môi trường văn hóa gia đình, dòng tộc,
nhóm xã hội. Đây là môi trường văn hóa đầu tiên của con người, nơi diễn ra sự
chuyển tiếp quan trọng biến con người từ một sinh vật trở thành một con người xã
hội, một thực thể văn hóa. Môi trường văn hóa gia đình, dòng tộc không chỉ đảm
nhiệm chức năng duy trì nòi giống mà còn là môi trường cơ bản của xã hội đảm
nhận chức năng bảo tồn và trao truyền các giá trị văn hóa, là nơi hình thành các giá
trị nhân văn của xã hội, lưu truyền và phát triển các giá trị của con người.
Thứ hai, cấp độ trung mô bao gồm môi trường văn hóa làng xã, khối phố,
trường học; môi trường văn hóa công sở, cơ quan, đơn vị công tác, sản xuất... Đây
là môi trường gắn bó với quá trình sinh hoạt, học tập, công tác, phấn đấu trưởng
thành của mỗi cá nhân và cộng đồng, để tiếp tục phát triển, hoàn thiện những năng
lực sáng tạo, kỹ năng nghề nghiệp, khả năng cống hiến, tính tích cực chính trị của
mỗi công dân, tạo nền tảng vững chắc cho sự ổn định và phát triển xã hội.
Thứ ba, cấp độ vĩ mô bao gồm môi trường văn hóa vùng miền, môi trường
văn hóa quốc gia, môi trường văn hóa nhân loại - nơi những giá trị văn hóa, hoạt
động văn hóa và giao tiếp văn hóa của mỗi cá nhân và cộng đồng được mở rộng với
những mối quan hệ rộng lớn hơn.
39
Trên cơ sở của các hệ chuẩn chi phối và các yếu tố cơ bản cấu thành, môi
trường văn hóa được các nhà nghiên cứu đã trình bày cấu trúc văn hóa bao gồm môi
trường khoa học; môi trường giáo dục - đào tạo; môi trường đạo đức; môi trường
thẩm mỹ.
Thứ nhất, môi trường khoa học; môi trường giáo dục - đào tạo là tổng hòa
các mối quan hệ, các điều kiện dạy - học, nghiên cứu, ứng dụng các thành tựu khoa
học, công nghệ... theo chuẩn mực của cái đúng, góp phần nâng cao trình độ học
vấn, sự hiểu biết, khám phá và sáng tạo của con người trong thực tiễn đời sống,
nâng cao trình độ làm chủ của con người đối với tự nhiên, xã hội và bản thân.
Thứ hai, môi trường đạo đức là sự tổng hòa các mối quan hệ nhân tính, nhân
văn, các chuẩn mực xã hội... có chức năng điều chỉnh mọi hành vi hoạt động, ứng
xử, quan hệ lợi ích của con người theo chuẩn mực của cái thiện tạo ra một đời sống
tinh thần. Môi trường đạo đức có ảnh hưởng, tác động đến sự hình thành phẩm
hạnh, lương tâm, tính thiện của con người.
Thứ ba, môi trường thẩm mỹ là tổng hòa các mối quan hệ thẩm mỹ. Môi
trường thẩm mỹ có vai trò quan trọng trong việc giáo dục hình thành nhân cách theo
định hướng chuẩn mực của cái đẹp.
Từ lý luận chung về môi trường đã khái quát cho thấy phạm vi của môi
trường là toàn bộ không gian trong đó chưa đựng môi trường tự nhiên và môi
trường xã hội. Môi trường thẩm mỹ chỉ là một góc nhỏ của môi trường xã hội
nhưng nó chỉ được nhắc đến khi trình độ nhận thức của con người đạt đến các giá trị
của cái đẹp. Trong môi trường xã hội thông qua lao động con người sáng tạo ra các
giá trị trong đó có giá trị thẩm mỹ.
2.2. LÝ LUẬN VỀ MÔI TRƯỜNG THẨM MỸ
2.2.1. Nguồn gốc của môi trường thẩm mỹ
Trong mọi thời đại con người luôn hướng đến cái đẹp, cảm thụ và hiểu biết
và sáng tạo cái đẹp. Có thể nói, con người luôn mong muốn vươn tới môi trường
sống của mình ngày càng đẹp hơn. Môi trường thẩm mỹ trước hết phải là một môi
trường đẹp, là một bộ phận hữu cơ của văn hóa hàm chứa một năng lực sáng tạo
40
đặc biệt ở những giá trị thẩm mỹ trước những hiện tượng tự nhiên và xã hội, là
thước đo để đánh giá trình độ văn hóa của con người.
Môi trường thẩm mỹ là một lĩnh vực rộng lớn trong toàn bộ đời sống tinh
thần của xã hội con người. Nó có một lịch sử phát triển rất lâu đời, không nhất
thành bất biến, được biến đổi qua rất nhiều thời đại khác nhau. Mỗi thời đại lịch sử,
môi trường thẩm mỹ có những diện mạo khác nhau do hoạt động cải tạo tự nhiên,
xây dựng xã hội và phát triển của bản thân con người tạo nên. Trong lịch sử phát
triển của khoa học mỹ học, môi trường thẩm mỹ được nhìn nhận theo các quan
niệm khác nhau, thế giới quan khác nhau. Từ thời cổ đại cho đến ngày nay, ở
phương Đông và phương Tây, có những giải thích khác nhau ...bảo đảm thông gió tự nhiên và có biện
pháp chống nóng (các kết cấu chống nắng, mái hắt, tấm chắn nắng,).
11.2. Khi thiết kế hệ thống thông gió và điều hòa không khí cần có các giải pháp
công nghệ, giải pháp kiến trúc và kết cấu một cách hợp lý nhằm đảm bảo yêu cầu
vệ sinh, tiêu chuẩn kỹ thuật, sử dụng tiết kiệm và hiệu quả năng lượng như trong
quy định về sử dụng hiệu quả năng lượng trong các công trình xây dựng.
11.3. Trang bị quạt máy, máy điều hòa nhiệt độ, các biện pháp thông gió cơ khí theo
yêu cầu sử dụng và mức độ tiện nghi cần được cấp có thẩm quyền phê duyệt trong
Báo cáo đầu tư.
11.4. Khi thiết kế, lắp đặt hệ thống thông gió, điều hòa không khí cho công sở cần
tuân theo quy định trong TCVN 5687:2010 và TCXD 232: 1999
Các tham số thiết kế về nhiệt độ, độ ẩm trong phòng tham khảo phụ lục D của tiêu
chuẩn này.
11.5. Trong những phòng đặc biệt sử dụng điều hòa không khí quanh năm, như
phòng máy tính và quản trị mạng, tổng đài điện thoại, trung tâm điều khiển của tòa
nhà (bao gồm trung tâm điều khiển chữa cháy), cần phải bố trí hệ thống điều hòa
độc lập.
197
11.6. Đối với khu vực để xe trong tầng hầm, cần thiết kế hệ thống thông gió cơ khí
nhằm đảm bảo cho sàn đỗ xe trong tầng hầm luôn nằm trong vùng áp suất âm để
tránh hiện tượng lan truyền khí mônôxít cácbon (CO) sang các không gian liền kề
có người sử dụng.
12. Yêu cầu về tiếng ồn
12.1. Tính toán độ ồn cho các phòng làm việc trong công sở được lấy
theo TCXDVN 175:2005. Cấp tiếng ồn cho phép từ 40 dB đến 55 dB.
12.2. Giếng thang máy và phòng máy, thiết bị sinh ra tiếng ồn không được bố trí
bên cạnh phòng làm việc, phòng họp. Trường hợp đặc biệt phải có biện pháp cách
âm, tiêu âm hoặc giảm âm.
13. Yêu cầu thiết kế hệ thống điện nhẹ
(điện thoại, mạng internet, truyền hình cáp, truyền thanh, camera bảo vệ, chuông
báo động,)
13.1. Hệ thống điện nhẹ bố trí trong công sở cơ quan hành chính nhà nước bao gồm
các loại:
- Hệ thống điện thoại (bên ngoài, nội bộ);
- Hệ thống điện truyền thanh (thành phố, nội bộ);
- Hệ thống tín hiệu báo cháy, sự cố và bảo vệ;
- Hệ thống thiết bị khuếch đại âm thanh trong hội trường;
- Hệ thống truyền hình khép kín;
- Hệ thống phiên dịch đồng bộ ra ba đến năm thứ tiếng trong phòng hội nghị quốc tế.
Tiêu chuẩn tính toán các hệ thống điện nhẹ theo yêu cầu sử dụng, cấp công trình và
được phê duyệt trong Báo cáo đầu tư.
13.2. Thiết kế, lắp đặt hệ thống thông tin liên lạc, phát thanh truyền hình phải đảm
bảo an toàn, thuận tiện cho việc khai thác sử dụng và đấu nối với các dịch vụ của
các nhà cung cấp, có khả năng thay thế, sửa chữa và phải đảm bảo khoảng cách tối
thiểu tới các đường ống kỹ thuật khác.
13.3. Các ổ cắm đặt ngầm trong tường được bố trí ở độ cao không nhỏ hơn 0,5 m
tùy theo kiến trúc nội thất.
13.4. Mạng thuê bao điện thoại được thiết kế theo sơ đồ nguyên lý mạnh hình tia.
13.5. Cho phép bố trí cột ăngten thu sóng truyền thanh, truyền hình trên mái nhà.
Trường hợp cần thiết, cho phép bố trí ở tầng áp mái các thiết bị thu sóng truyền
hình. Công trình thông tin liên lạc khác và công trình điện nhẹ phải có nối tiếp đất
bảo vệ, tiếp đất công tác cho thiết bị và mạng.
198
13.6. Trung tâm kỹ thuật vận hành, kiểm tra các thiết bị, hệ thống điện, điều hòa
không khí, âm thanh, ánh sáng phải có hệ điều khiển độc lập, đảm bảo yêu cầu bí
mật, tiết kiệm, thuận lợi cho hoạt động theo chức năng của cơ quan.
14. Yêu cầu về sân vườn, nội thất và hoàn thiện
14.1. Tùy điều kiện cụ thể và vị trí xây dựng được bố trí vườn hoa, cây cảnh, tiểu
cảnh phù hợp với không gian và cảnh quan thiên nhiên. Có thể bố trí các tượng
nghệ thuật, biểu tượng cơ quan, tạo cảnh quan đẹp cho công sở.
14.2. Diện tích cây xanh, sân vườn trong công trình không được nhỏ hơn 30 %
tổng diện tích khu đất xây dựng. Phải dành tỷ lệ thích đáng để thiết kế cây xanh
trong và ngoài nhà: phòng làm việc, phòng tiếp khách, phòng nghỉ, hành lang, tiền
sảnh, sân vườn.
Không được trồng các loại cây dễ gẫy, dễ mối mọt, có hoa quả thu hút ruồi, muỗi,
có mùi khó chịu trong cơ quan.
CHÚ THÍCH: Quy hoạch cây xanh sử dụng trong công trình cần tham khảo TCVN
9257: 2012.
14.3. Các phòng tiếp khách, phòng họp, sảnh chính, hội trường và phòng làm việc
của lãnh đạo cao nhất trong cơ quan cần được lắp đặt các trang thiết bị theo quy định.
14.4. Vật liệu trang trí nội ngoại thất có chất lượng tốt, màu sắc đẹp, phù hợp,
không độc hại hoặc gây mệt mỏi cho người làm việc.
14.5. Hình thức kiến trúc, màu sắc, vật liệu hoàn thiện công sở hài hòa với kiến trúc
khu vực, điều kiện tự nhiên, bản sắc văn hóa của vùng, miền.
14.6. Khi sử dụng các loại cửa sổ, cửa đi, tường và vách ngăn, bằng kính trong suốt
hoặc kính mờ, một phần hoặc toàn bộ để lấy ánh sáng cần phải sử dụng kính an
toàn. Các vách kính trong suốt đặt tại nơi có người thường xuyên qua lại cần phải
được được gắn các dấu hiệu để nhận biết.
14.7. Không nên thiết kế quá nhiều cửa kính nhất là tường ở phía Tây và Đông.
Trường hợp đặc biệt thì nên dùng kính có hệ số xuyên qua nhỏ hoặc phản quang.
14.8. Cửa phòng làm việc của tài vụ, kho tài liệu và gian để các thiết bị quan trọng
phải có biện pháp chống trộm, trong phòng bố trí thiết bị cảnh báo để chống trộm.
14.9. Bề mặt ngoài công trình nên sử dụng màu sáng, có hệ số hấp thụ nhiệt bức
xạ mặt trời nhỏ nhằm giảm thiểu bức xạ nhiệt tác động vào tường nhà mùa hè.
Cần bố trí các vị trí treo giữ, các phương tiện kỹ thuật để bảo dưỡng, sửa chữa mặt
đứng tòa nhà.
14.10. Cần có các biện pháp chống ẩm cho tường, sàn, kết cấu tiếp xúc với đất nền
theo TCXD 230: 1998. Các biện pháp chống thấm cho các kết cấu mái, sàn tiếp xúc
với nước cần tham khảo TCVN 5718.
199
14.11. Vật liệu hoàn thiện phần mái cần đảm bảo yêu cầu chống nóng, chống ồn,
chống thấm, chống ăn mòn, chống mưa hắt và chịu được gió bão. Yêu cầu thiết kế
và hướng dẫn lắp đặt tuân theo TCVN 8052-1: 2009 và TCVN 8053: 2009.
14.12. Sử dụng kết cấu gỗ trong công sở phải có giải pháp chống mối mọt theo quy
định trong TCVN 7958: 2008.
14.13. Công tác hoàn thiện công trình được thực hiện theo TCVN 5674.
14.14. Chế độ bảo trì công sở, trách nhiệm của các chủ thể, trình tự thực hiện đối
với hoạt động bảo trì công sở các cơ quan hành chính nhà nước phải được thực hiện
theo quy định hiện hành. Chế độ bảo trì công sở bao gồm các chế độ sau:
- Chế độ bảo trì thường xuyên;
- Chế độ bảo trì định kỳ;
- Chế độ bảo trì đột xuất.
Chế độ bảo trì thường xuyên là chế độ bảo trì phòng ngừa hư hỏng cho công sở; chế
độ bảo trì định kỳ và đột xuất để bảo trì khôi phục chất lượng cho công sở.
14.15. Mọi kết cấu, bộ phận của công sở cần được thực hiện chế độ bảo trì theo cấp
bảo trì trong suốt tuổi thọ công trình kể từ khi bắt đầu đưa công sở vào sử dụng.
Phụ lục A
(Tham khảo)
Tiêu chuẩn, định mức sử dụng diện tích làm việc
của cán bộ, công chức trong cơ quan nhà nước
Bảng A.1 - Tiêu chuẩn diện tích một chỗ làm việc của cán bộ, công chức
trong cơ quan nhà nước
Chức danh
Tiêu chuẩn diện
tích từ tối thiểu
tới tối đa cho 1
chỗ làm việc
m2/người
Ghi chú
1. Trưởng ban của Đảng ở Trung ương, Chánh Văn phòng
Trung ương và các chức vụ tương đương, Chủ tịch Hội
đồng dân tộc của Quốc hội, Ủy viên Ủy ban Thường vụ
Quốc hội, Chủ nhiệm Ủy ban của Quốc hội, Viện trưởng
Viện Kiểm sát nhân dân tối cao, Chánh án Tòa án nhân
dân tối cao, Chủ nhiệm Văn phòng Quốc hội, Chủ nhiệm
Văn phòng Chủ tịch nước, Bộ trưởng và các chức vụ
tương đương Bộ trưởng, Bí thư, Chủ tịch Hội đồng nhân
dân, Chủ tịch Ủy ban nhân dân thành phố Hà Nội và thành
phố Hồ Chí Minh.
Từ 40 đến 50 Tiêu chuẩn diện
tích này bao gồm:
- Diện tích làm
việc;
- Diện tích tiếp
khách.
200
2. Phó Trưởng ban của Đảng ở Trung ương, Phó Văn
phòng Trung ương Đảng và các chức vụ tương đương,
Phó Chủ tịch Hội đồng dân tộc của Quốc hội, Phó Chủ
nhiệm Ủy ban của Quốc hội, Phó Viện trưởng Viện Kiểm
sát nhân dân tối cao, Phó chánh án Tòa án nhân dân tối
cao, Phó Chủ nhiệm Văn phòng Quốc hội, Phó Chủ nhiệm
Văn phòng Chủ tịch nước, Thứ trưởng và các chức vụ
tương đương Thứ trưởng, Phó Bí thư, Phó Chủ tịch Hội
đồng nhân dân, Phó Chủ tịch Ủy ban nhân dân thành phố
Hà Nội và thành phố Hồ Chí Minh, Bí thư, Chủ tịch Hội
đồng nhân dân, Chủ tịch Ủy ban nhân dân tỉnh, thành phố
trực thuộc Trung ương (trừ thành phố Hà Nội và thành
phố Hồ Chí Minh) và các chức vụ có hệ số phụ cấp chức
vụ lãnh đạo từ 1,25 trở lên.
Từ 30 đến 40 Tiêu chuẩn diện
tích này bao gồm:
- Diện tích làm
việc;
- Diện tích tiếp
khách.
3. Phó Bí thư, Phó Chủ tịch Hội đồng nhân dân, Phó Chủ
tịch Ủy ban nhân dân tỉnh, thành phố trực thuộc Trung
ương (trừ thành phố Hà Nội và thành phố Hồ Chí Minh)
và các chức vụ có hệ số phụ cấp chức vụ lãnh đạo từ 1,05
đến dưới 1,25.
Từ 25 đến 30
4. Vụ trưởng, Cục trưởng (Cục ngang Vụ), Chánh Văn
phòng, Trưởng Ban của Đảng tại địa phương, Giám đốc
Sở, Trưởng Ban, ngành cấp tỉnh, Bí thư, Chủ tịch Ủy ban
nhân dân quận, huyện, thị xã, thành phố trực thuộc tỉnh và
các chức vụ có hệ số phụ cấp chức vụ lãnh đạo từ 0,9 đến
dưới 1,05.
Từ 20 đến 25
5. Phó Vụ trưởng, Phó Cục trưởng (Cục ngang Vụ), Phó
Chánh Văn phòng, Phó Trưởng Ban của Đảng ở địa
phương, Phó Giám đốc Sở, Phó trưởng Ban, ngành cấp
tỉnh, Phó Bí thư, Phó Chủ tịch Ủy ban nhân dân quận,
huyện, thị xã, thành phố trực thuộc tỉnh, chuyên viên cao
cấp và các chức vụ có hệ số phụ cấp chức vụ lãnh đạo từ
0,7 đến dưới 0,9.
Từ 12 đến 15
6. Trưởng, Phó phòng, ban các cấp, chuyên viên chính và
các chức danh tương đương.
Từ 10 đến 12
7. Chuyên viên và các chức danh tương đương. Từ 8 đến 10
8. Cán sự, nhân viên thực hành nghiệp vụ kỹ thuật. Từ 6 đến 8
9. Nhân viên làm công tác phục vụ. Từ 5 đến 6
CHÚ THÍCH:
1- Tiêu chuẩn diện tích cho các nhân viên thực hành chưa tính đến diện tích bố trí thiết bị sử
dụng chung trong phòng (máy tính, máy sao chụp, telex)
2- Trường hợp đặc biệt có thể tăng thêm 10 % tiêu chuẩn diện tích đã nêu trong Bảng.
3- Có thể tham khảo các trị số cho trong Bảng này khi thiết kế trụ sở hay nhà làm việc của các
cơ quan khác.
201
Phụ lục B
(Tham khảo)
Thiết kế phòng họp lớn (phòng hội nghị) và hội trường
B.1. Tiêu chuẩn phòng hội nghị
1. Khi phòng hội nghị được trang bị ghế bành hay ghế tựa: 0,8 m2/chỗ ngồi.
2. Khi phòng hội nghị được trang bị bàn viết: 1,8 m2/chỗ ngồi.
3. Bên cạnh phòng hội nghị được tiêu chuẩn thiết kế từ 1 đến 2 phòng dành cho Chủ
tịch Đoàn. Diện tích mỗi phỏng không lớn hơn 24,0 m2 và một phòng phục vụ diện
tích từ 9 m2 đến 12 m2.
4. Phòng hội nghị cần được trang bị hệ thống phiên dịch đồng bộ. Diện tích các
phòng máy theo yêu cầu sử dụng thiết bị.
B.2. Tiêu chuẩn hội trường
1.Tiêu chuẩn diện tích không kể sân khấu: 0,8 m2/chỗ ngồi. Chiều sâu sân khấu
không được nhỏ hơn 5,0 m.
2. Bên cạnh sân khấu được thiết kế một hoặc hai phòng chờ diễn ở hai phía sân
khấu, diện tích mỗi phòng 30 m2. Trong phòng có bố trí màn hình và loa phóng
thanh nối với camera đặt ở sân khấu để tiện theo dõi. Phải có điện thoại nội bộ.
3. Hội trường trên 500 chỗ được thiết kế có phòng máy chiếu phim. Thành phần và
diện tích các phòng máy chiếu phim, các thông số tính toán màn ảnh, tầm nhìn,
những yêu cầu phòng cháy cần được xác định theo các quy định có liên quan.
4. Hội trường thiết kế hợp khối trong công sở liên cơ quan phải có lối ra vào
độc lập.
B.3. Các khu vệ sinh của phòng hội nghị, hội trường:
- Được tính với 100 % số chỗ (50 % là nam, 50 % là nữ).
- Tiêu chuẩn số lượng thiết bị quy định như sau:
100 người một xí 50 người một xí
35 người một tiểu 300 người một phòng rửa
Vệ sinh nam:
Từ 1 đến 3 xí có một
bồn rửa tay
Vệ sinh nữ:
Từ 1 đến 3 xí một bồn rửa
tay
202
Phụ lục C
(Tham khảo)
Thiết kế phòng lưu trữ, thư viện kĩ thuật chuyên ngành
C.1. Phòng lưu trữ được thiết kế khi có số lượng tài liệu lưu trữ dưới 12 nghìn đơn
vị bảo quản.
C.2. Kho lưu trữ được thiết kế hợp lý, liên hoàn phù hợp với các loại hình tài liệu và
các quy trình nghiệp vụ lưu trữ.
C.3. Diện tích sàn kho bảo quản tài liệu được tính theo công thức:
Diện tích sàn kho = (C.1)
C.4. Giá để tài liệu được lắp thành hàng giá hai mặt, mỗi hàng giá không dài quá 10 m.
Các hàng giá được đặt vuông góc với cửa sổ, cách mặt đường từ 0,4 m đến 0,6 m. Lối
đi giữa các hàng giá từ 0,7 m đến 0,8 m, lối đi giữa hai đầu giá từ 1,2 m đến 1,4 m.
C.5. Chiều cao thông thủy của kho lưu trữ tối thiểu 2,4 m. Diện tích cửa sổ chiếm
khoảng 1/10 diện tích mặt tường kho.
C.6. Phòng lưu trữ đặc biệt bảo quản các tài liệu mật phải bố trí ở nơi biệt lập và có
biện pháp bảo vệ. Thiết bị bảo vệ, bảo quản tài liệu gồm: camera quan sát; thiết bị
báo động; thiết bị báo cháy, chữa cháy tự động; thiết bị chống đột nhập
C.7. Số lượng bản sách, báo, tạp chí trong thư viện của các cơ quan Nhà nước được
lấy theo Bảng C.1.
Bảng C.1 - Số lượng vốn tài liệu tối thiểu ban đầu của thư viện
các cơ quan nhà nước
Số lượng vốn tài liệu tối thiểu ban đầuLoại thư viện
Số lượng bản sách Số báo, tạp chí
- Thư viện của cơ quan nhà nước, tổ chức
chính trị, tổ chức chính trị - xã hội, tổ chức
xã hội, tổ chức xã hội - nghề nghiệp, tổ
chức kinh tế, đơn vị sự nghiệp.
+ Cấp Trung ương 10 000 20
+ Cấp cơ sở 2 000 5
C.8. Tiêu chuẩn diện tích phòng đọc được tính 1,8 m2/chỗ. Tiêu chuẩn diện tích của
một nhân viên phục vụ 6 m2/người.
C.9. Các phòng lưu trữ, thư viện phải được bố trí ở nơi khô ráo, có các biện pháp
chống ẩm, mối mọt, tia tử ngoại và phòng chống cháy nổ.
203
Phụ lục D
(tham khảo)
Tiết kiệm năng lượng trong công sở
Bảng D.1 - Các thông số về chỉ tiêu nhiệt độ, độ ẩm trong phòng
và tiếng ồn cho phép
Mùa hè Mùa đông Tên phòng
Nhiệt độ
oC
Độ ẩm
tương đối
%
Nhiệt độ
oC
Độ ẩm tương
đối
%
Tiêu chuẩn
tiếng ồn cấp
âm (A)
dB
1. Phòng làm việc
thông thường
Từ 26 đến 28 < 60 Từ 18 đến 20 Không quy
định
Từ 40 đến 55
2. Phòng làm việc
cao cấp
Từ 24 đến 27 < 60 Từ 20 đến 22 ≤ 35 Từ 30 đến 40
3. Phòng khách,
phòng họp
Từ 25 đến 27 < 65 Từ 16 đến 18 Không quy
định
Từ 40 đến 50
4. Phòng tổng đài
điện thoại
Từ 25 đến 27 < 65 Từ 16 đến 18 Không quy
định
Từ 55 đến 60
5. Phòng máy tính Từ 24 đến 28 ≤ 60 Từ 18 đến 20 Không quy
định
Từ 55 đến 65
6. Phòng in ấn Từ 24 đến 28 ≤ 55 Từ 18 đến 20 Không quy
định
Từ 55 đến 60
- Vấn đề tiết kiệm năng lượng trong công sở được thực hiện chủ yếu bằng các giải
pháp quản lý sử dụng và giải pháp thiết kế an toàn vệ sinh vi khí hậu nơi làm việc.
- Cần căn cứ vào phân vùng khí hậu xây dựng của khu vực xây dựng công trình để
định ra giải pháp cho vi khí hậu trong nhà.
- Việc xác định nhiệt lượng do bức xạ mặt trời chiếu vào nhà qua cửa sổ nên tham
khảo cách tính trong các tiêu chuẩn sau:
TCVN 4605: 1988 - Kỹ thuật nhiệt. Kết cấu ngăn che. Tiêu chuẩn thiết kế.
TCVN 5687: 2010 - Thông gió, điều hòa không khí. Tiêu chuẩn thiết kế.
QCXDVN 09: 2005 - Quy chuẩn xây dựng Việt Nam - Các công trình xây dựng sử
dụng năng lượng có hiệu quả.
204
THƯ MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO
[1] QCVN 03:2009/BXD Quy chuẩn kỹ thuật quốc gia về phân loại, phân cấp công
trình dân dụng, công nghiệp và hạ tầng kỹ thuật đô thị.
[2] QCVN 06:2010/BXD Quy chuẩn kỹ thuật quốc gia về an toàn cháy do nhà và
công trình.
[3] QCXDVN 01:2008/BXD Quy chuẩn xây dựng Việt Nam - Quy hoạch xây dựng.
[4] Quyết định số 170/2006/QĐ-TTg ngày 18/7/2006 của Thủ tướng Chính phủ về
tiêu chuẩn, định mức về trang thiết bị và phương tiện làm việc của cán bộ, công
chức trong các cơ quan hành chính nhà nước.
[5] TCVN 264: 2002 Nhà và công trình - Nguyên tắc cơ bản xây dựng công trình
để đảm bảo người tàn tật tiếp cận sử dụng.
[6] QCXDVN 09:2005 Quy chuẩn xây dựng Việt Nam - Các công trình xây dựng
sử dụng năng lượng có hiệu quả.
MỤC LỤC
1. Phạm vi áp dụng
2. Tài liệu viện dẫn
3. Thuật ngữ - định nghĩa
4. Phân loại và phân cấp công sở các cơ quan hành chính nhà nước
4.1 Phân loại
4.2 Phân cấp công trình
5. Yêu cầu chung
6. Yêu cầu về khu đất xây dựng và qui hoạch tổng mặt bằng
7. Yêu cầu về nội dung công trình và giải pháp thiết kế
8. Yêu cầu về phòng cháy và chống cháy
9. Yêu cầu về chiếu sáng và thiết bị điện
10. Yêu cầu về cấp thoát nước và trang thiết bị vệ sinh
11. Yêu cầu về thông gió, điều hòa không khí
12. Yêu cầu thiết kế hệ thống điện nhẹ (điện thoại, mạng internet, truyền hình cáp,
truyền thanh, camera bảo vệ, chuông báo động,)
13. Yêu cầu về tiếng ồn
14. Yêu cầu về sân vườn, nội thất và công tác hoàn thiện.
Phụ lục A (tham khảo) Tiêu chuẩn, định mức sử dụng diện tích làm việc của cán bộ,
công chức trong cơ quan nhà nước
Phụ lục B (tham khảo) Thiết kế phòng họp lớn (phòng hội nghị) và hội trường
Phụ lục C (tham khảo) Thiết kế phòng lưu trữ, thư viện kĩ thuật chuyên ngành
205
QUYẾT ĐỊNH
CỦA BỘ XÂY DỰNG SỐ 21/2007/QĐ-BXD NGÀY 28/5/2007
VỀ VIỆC BAN HÀNH QUY ĐỊNH CÁC YÊU CẦU VỀ TIÊU CHUẨN
XÂY DỰNG CÔNG SỞ CÁC CƠ QUAN HÀNH CHÍNH NHÀ NƯỚC
BỘ TRƯỞNG BỘ XÂY DỰNG
Căn cứ Luật Xây dựng ngày 26 tháng 11 năm 2003;
Căn cứ Nghị định số 36/2003/NĐ-CP ngày 04 tháng 4 năm 2003 của Chính
phủ quy định chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn và cơ cấu tổ chức của Bộ Xây dựng;
Căn cứ Nghị định số 16/2005/NĐ-CP ngày 07 tháng 02 năm 2005 của
Chính phủ về quản lý dự án đầu tư xây dựng công trình; Nghị định số
112/2006/NĐ-CP ngày 29 tháng 9 năm 2006 của Chính phủ về sửa đổi, bổ sung
một số điều của Nghị định số 16/2005/NĐ-CP ngày 07 tháng 02 năm 2005;
Căn cứ Nghị định số 209/2004/NĐ-CP ngày 16 tháng 12 năm 2004 của
Chính phủ về quản lý chất lượng công trình xây dựng;
Căn cứ Nghị định số 29/2007/NĐ-CP ngày 27 tháng 02 năm 2007 của
Chính phủ về quản lý kiến trúc đô thị;
Căn cứ Quyết định số 136/2001/QĐ-TTg ngày 17 tháng 9 năm 2001 của Thủ
tướng Chính phủ phê duyệt Chương trình tổng thể cải cách hành chính nhà nước
giai đoạn 2001 - 2010;
Căn cứ Quyết định số 169/2003/QĐ-TTg ngày 12 tháng 8 năm 2003 của Thủ
tướng Chính phủ phê duyệt Đề án đổi mới phương thức điều hành và hiện đại hoá
công sở của hệ thống hành chính nhà nước giai đoạn I (2003-2005);
Căn cứ Văn bản số 1724/VPCP-CN ngày 03 tháng 4 năm 2007 của Văn
phòng Chính phủ thông báo ý kiến của Thủ tướng Chính phủ giao Bộ Xây dựng ban
hành Quy định về mô hình công sở mẫu và các yêu cầu về tiêu chuẩn xây dựng
công sở các cơ quan hành chính nhà nước;
Xét đề nghị của Vụ trưởng Vụ Khảo sát, Thiết kế xây dựng,
QUYẾT ĐỊNH:
Điều 1. Ban hành kèm theo Quyết định này “Quy định các yêu cầu về tiêu
chuẩn xây dựng công sở các cơ quan hành chính nhà nước”.
Điều 2. Quyết định này có hiệu lực sau 15 ngày, kể từ ngày đăng Công báo.
Điều 3. Bộ trưởng, Thủ trưởng các cơ quan ngang Bộ, cơ quan thuộc Chính
phủ, Chủ tịch Uỷ ban nhân dân các cấp và Thủ trưởng các cơ quan có liên quan
chịu trách nhiệm thi hành Quyết định này./.
BỘ TRƯỞNG
Nguyễn Hồng Quân
206
QUY ĐỊNH
CÁC YÊU CẦU VỀ TIÊU CHUẨN XÂY DỰNG
CÔNG SỞ CÁC CƠ QUAN HÀNH CHÍNH NHÀ NƯỚC
(Ban hành kèm theo Quyết định số 21/2007/QĐ-BXD
ngày 28 tháng 5 năm 2007 của Bộ trưởng Bộ Xây dựng)
Điều 1. Phạm vi và đối tượng áp dụng
1. Văn bản này quy định các yêu cầu đối với việc lập tiêu chuẩn thiết kế công
sở các cơ quan hành chính nhà nước các cấp, bao gồm:
a) Công sở của Bộ, cơ quan ngang Bộ, cơ quan thuộc Chính phủ (sau đây gọi
chung là công sở cấp Bộ);
b) Công sở của Hội đồng nhân dân và Uỷ ban nhân dân tỉnh, thành phố trực
thuộc Trung ương (sau đây gọi chung là công sở cấp tỉnh);
c) Công sở của Hội đồng nhân dân và Uỷ ban nhân dân huyện, quận, thị xã,
thành phố trực thuộc tỉnh (sau đây gọi chung là công sở cấp huyện);
d) Công sở của Hội đồng nhân dân và Uỷ ban nhân dân xã, phường, thị trấn
(sau đây gọi chung là công sở cấp xã).
2. Về các tiêu chuẩn xây dựng khác liên quan đến công sở các cơ quan hành
chính nhà nước (thi công, nghiệm thu, bảo trì...) sử dụng tiêu chuẩn xây dựng chung
cho các công trình dân dụng.
Điều 2. Các nội dung chính của tiêu chuẩn thiết kế công sở cơ quan
hành chính nhà nước
Tiêu chuẩn thiết kế công sở các cơ quan hành chính nhà nước quy định các
nội dung và giải pháp thiết kế, bao gồm:
1. Lựa chọn địa điểm xây dựng, quy hoạch tổng mặt bằng công sở.
2. Các yêu cầu về thiết kế kiến trúc, các bộ phận công trình của công sở.
3. Các yêu cầu về thiết kế hệ thống kỹ thuật công trình: cấp điện, cấp nước,
thoát nước, phòng cháy chữa cháy, trang thiết bị kỹ thuật, thông tin liên lạc...
4. Phụ lục về các quy định chi tiết thiết kế một số bộ phận chuyên dụng của
công sở.
Điều 3. Các yêu cầu chung đối với tiêu chuẩn thiết kế công sở cơ quan
hành chính nhà nước
1. Đáp ứng chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn, cơ cấu tổ chức và biên chế của
cơ quan hành chính nhà nước mà công sở phục vụ.
2. Đảm bảo tính hợp lý về dây chuyền hoạt động của cơ quan, thuận lợi cho
các hoạt động đối nội và đối ngoại.
207
3. Hệ thống kỹ thuật hiện đại, đạt tiêu chuẩn tiên tiến, đáp ứng yêu cầu khai
thác công nghệ thông tin.
4. Đảm bảo các yêu cầu sử dụng, mỹ quan, bền vững, an toàn, tiện nghi, tiết
kiệm phù hợp với điều kiện tự nhiên, khí hậu, văn hoá của khu vực, phù hợp với
tính trang nghiêm, hiện đại của công sở.
5. Quy định các nội dung, giải pháp thiết kế và sử dụng vật liệu hợp lý phù
hợp với cấp công sở; ưu tiên sử dụng vật liệu địa phương.
Điều 4. Các yêu cầu về lựa chọn địa điểm xây dựng công sở cơ quan
hành chính nhà nước
1. Phù hợp với quy hoạch xây dựng được phê duyệt; phù hợp với chức năng,
nhiệm vụ, quyền hạn, yêu cầu sử dụng, tính chất và quy mô hoạt động của cơ quan
hành chính nhà nước mà công sở phục vụ.
2. Phù hợp với điều kiện và yêu cầu sử dụng đất đai của từng địa phương.
3. Thuận lợi cho việc xây dựng đồng bộ hệ thống hạ tầng kỹ thuật, đáp ứng
yêu cầu hiện tại và phát triển trong tương lai.
4. Thuận lợi về giao thông; thuận tiện giao dịch với các cơ quan, với các tổ
chức kinh tế xã hội và tiếp cận với người dân.
5. Đảm bảo an toàn, vệ sinh; hạn chế những tác động bất lợi của thiên nhiên;
thuận lợi cho việc bảo vệ môi trường, phòng cháy chữa cháy.
6. Có khả năng mở rộng và phát triển trong tương lai.
7. Đối với công sở cấp tỉnh và cấp huyện, địa điểm xây dựng phải ở trung
tâm chính trị của tỉnh hoặc của huyện, có đủ diện tích đất để bố trí khu hành chính
tập trung.
8. Nên bố trí công sở gần quảng trường là nơi sinh hoạt chính trị, xã hội của
nhân dân, tạo sự bề thế, trang nghiêm cho công sở.
Điều 5. Các yêu cầu về quy hoạch tổng mặt bằng công sở cơ quan hành
chính nhà nước
1. Quy hoạch tổng mặt bằng tạo được không gian kiến trúc hiện đại cho công
sở; đảm bảo mật độ xây dựng hợp lý cho từng cấp công sở phù hợp với quy chuẩn
xây dựng của Việt Nam; đảm bảo mật độ cây xanh tối thiểu 30%. Khuyến khích
xây dựng công sở nhiều tầng đặc biệt là công sở tại đô thị loại 3 trở lên để tiết kiệm
đất, giảm mật độ xây dựng và tạo sự bề thế, trang nghiêm, hiện đại cho công sở.
2. Quy hoạch tổng mặt bằng tạo được sự hài hoà của công sở với cảnh quan
khu vực, gần gũi môi trường thiên nhiên...; giải quyết tốt mối liên hệ giữa xây dựng
trước mắt và dự kiến phát triển trong tương lai, giữa các công trình xây dựng kiên
cố với các công trình xây dựng tạm.
208
3. Công sở có khoảng lùi hợp lý với các công trình kề bên; đảm bảo
không gian và các hoạt động của cơ quan, đảm bảo các yêu cầu về an toàn phòng
cháy chữa cháy, chiếu sáng, khoảng cách ly vệ sinh, thông gió tự nhiên, chống
ồn, giao thông.
4. Quy hoạch tổng mặt bằng thuận lợi cho việc thiết kế đồng bộ hệ thống hạ
tầng kỹ thuật: cấp điện, cấp nước, thoát nước, thông tin liên lạc, giao thông, sân
vườn... theo yêu cầu sử dụng. Trong khuôn viên xây dựng công sở có chỗ để xe phù
hợp với quy mô và cấp công sở. Công sở cấp Bộ và công sở cấp tỉnh xây dựng tại
đô thị loại 1 trở lên phải có tầng hầm để xe.
5. Công sở các cơ quan chuyên môn thuộc cấp tỉnh, cấp huyện được xây
dựng liên cơ theo khối quản lý, phù hợp với điều kiện cụ thể của địa phương.
Điều 6. Các bộ phận của công sở và yêu cầu về thiết kế kiến trúc công sở
cơ quan hành chính nhà nước
1. Các bộ phận của công sở bao gồm:
a) Bộ phận làm việc: Các phòng làm việc của cán bộ công chức, các nhân
viên thực hành nghiệp vụ kỹ thuật.
b) Bộ phận chức năng, kỹ thuật: Các phòng họp, phòng tiếp khách, phòng
tiếp dân, phòng giao dịch Ộmột cửaỢ, phòng tổng đài điện thoại, thông tin, trung
tâm tích hợp dữ liệu, lưu trữ, thư viện chuyên ngành, phòng truyền thống.
c) Bộ phận phục vụ, phụ trợ: Các sảnh chính, sảnh phụ, hành lang, phòng
bảo vệ, chỗ để xe, khu vệ sinhẦ
2. Các yêu cầu về thiết kế kiến trúc:
a) Công sở được thiết kế liên hoàn theo dây chuyền hoạt động; không phân
chia thành nhiều bộ phận tách rời nhau. Khi thiết kế hợp khối, các bộ phận công
trình được thiết kế theo cùng một cấp.
b) Dây chuyền hoạt động của công sở rõ ràng, phân định rõ diện tích các bộ
phận; không gian làm việc được bố trí hợp lý, dễ trao đổi công việc, thuận tiện thay
đổi khi có nhu cầu; triệt để tận dụng thông gió, chiếu sáng, cách âm, cách nhiệt tự
nhiên, tiết kiệm năng lượng; đảm bảo các chỉ tiêu kinh tế - kỹ thuật trong giải pháp
tổ hợp mặt bằng, hình khối công trình.
c) Công sở được thiết kế hoàn chỉnh, có đầy đủ các bộ phận bên trong và bên
ngoài; bố cục khép kín; đảm bảo yêu cầu bảo mật đối với các khu vực quan trọng và
bảo mật hồ sơ tài liệu.
d) Chỗ làm việc cho các chuyên viên trong một đơn vị bố trí tập trung trong
một không gian mở, linh hoạt; trường hợp làm công tác nghiên cứu bố trí chỗ làm
việc độc lập, yên tĩnh.
209
Cơ cấu các phòng chức năng phù hợp với quy mô và cấp công sở, đáp ứng
các hoạt động đối nội và đối ngoại, phù hợp với yêu cầu cải cách hành chính và cơ
chế “một cửa”.
đ) Các bộ phận có diện tích đáp ứng yêu cầu vận hành của công sở. Tiêu
chuẩn diện tích cho các chức danh cán bộ công chức được xác định hợp lý, phù hợp
với tính chất công việc đảm nhận. Diện tích các phòng họp, phòng tiếp khách được
quy định cụ thể cho từng cấp công sở.
e) Các phòng có tính chất đặc thù như phòng tiếp khách quốc tế, phòng hội
thảo, hội trường, phòng quản trị hệ thống máy tính, phòng lưu trữ bố trí chung cho
khu liên cơ quan; trường hợp bố trí riêng cần quy định cụ thể đối với từng cấp
công sở.
g) Hình thức kiến trúc, màu sắc và vật liệu hoàn thiện công sở hài hoà với
kiến trúc khu vực, điều kiện tự nhiên, bản sắc văn hoá của vùng, miền.
Tuỳ điều kiện cụ thể và vị trí xây dựng được bố trí vườn hoa, cây cảnh, tiểu
cảnh phù hợp với không gian và cảnh quan thiên nhiên.
h) Trong khuôn viên công sở không bố trí bãi chứa hàng, kho tàng, nhà tạm.
i) Khuyến khích sử dụng vật liệu mới, áp dụng công nghệ quản lý và điều
hành tiên tiến đối với công sở từ cấp huyện trở lên.
k) Công sở của Hội đồng nhân dân và Uỷ ban nhân dân cấp xã được thiết kế
hợp khối với cơ quan Đảng uỷ và các tổ chức chính trị xã hội tại cấp xã, thể hiện rõ
là cơ quan công quyền cấp cơ sở, phù hợp với thực tế của địa phương, gần gũi với
dân (phòng tiếp dân đơn giản nhưng thuận lợi để tiếp xúc với dân). Đối với các xã
thuộc vùng sâu, vùng xa có thể bố trí phòng trực của công an, dân quân.
Điều 7. Các yêu cầu về thiết kế hệ thống kỹ thuật công trình của công sở
cơ quan hành chính nhà nước
1. Hệ thống kỹ thuật công trình đạt tiêu chuẩn tiên tiến, đáp ứng yêu cầu khai
thác công nghệ thông tin, mạng tin học trong hoạt động quản lý và điều hành của
các cơ quan hành chính nhà nước các cấp, phù hợp với cấp công sở.
2. Hệ thống kỹ thuật công trình đảm bảo tiện nghi, an toàn và bảo vệ sức
khoẻ cho người sử dụng; triệt để tận dụng thông gió, chiếu sáng, cách âm, cách
nhiệt tự nhiên, tiết kiệm năng lượng.
3. Có trung tâm tích hợp dữ liệu, mạng nội bộ; được nối mạng với Chính phủ
và các địa phương khác.
4. Có hệ thống báo cháy, chữa cháy tự động, hệ thống chiếu sáng khẩn cấp.
Đối với công sở của Uỷ ban nhân dân cấp huyện thuộc vùng sâu, vùng xa và công
210
sở của Uỷ ban nhân dân cấp xã, hệ thống báo cháy, chữa cháy và thiết bị phòng
cháy chữa cháy được thiết kế phù hợp với điều kiện thực tế của địa phương.
5. Trang thiết bị và phương tiện làm việc trong công sở phù hợp với các quy
định tại Quyết định số 170/2006/QĐ-TTg ngày 18/7/2006 của Thủ tướng Chính
phủ ban hành “Quy định tiêu chuẩn, định mức trang thiết bị và phương tiện làm
việc của cơ quan và cán bộ, công chức, viên chức nhà nước”, phù hợp với các tiêu
chuẩn của Việt Nam hiện hành, đảm bảo tiện nghi sử dụng, an toàn, tiết kiệm.
6. Hệ thống kỹ thuật công trình có độ an toàn cao, đảm bảo hoạt động bình
thường khi xảy ra thiên tai, thuận lợi cho việc ứng phó với các tình trạng khẩn cấp,
thuận tiện duy tu, bảo dưỡng.
7. Hệ thống kỹ thuật công trình thuận lợi cho việc tiếp cận của người dân,
đáp ứng yêu cầu tiếp cận sử dụng của người khuyết tật.
Điều 8. Tổ chức thực hiện
1. Trên cơ sở các yêu cầu của Quy định này, Bộ Xây dựng tổ chức nghiên
cứu biên soạn tiêu chuẩn xây dựng công sở các cơ quan hành chính nhà nước các
cấp; tổ chức triển khai áp dụng trong cả nước.
2. Các Bộ, ngành và Uỷ ban nhân dân các cấp đối chiếu với nội dung của
Quy định này rà soát, đánh giá hiện trạng công sở đang quản lý sử dụng, đề xuất kế
hoạch cải tạo sửa chữa, nâng cấp hoặc xây dựng mới nhằm đáp ứng yêu cầu hiện
đại hoá công sở cơ quan hành chính nhà nước.
Điều 9. Điều khoản thi hành
1. Quy định này có hiệu lực sau 15 ngày, kể từ ngày đăng Công báo.
2. Bộ trưởng, Thủ trưởng các cơ quan ngang Bộ, cơ quan thuộc Chính phủ,
Chủ tịch Uỷ ban nhân dân các cấp và Thủ trưởng các cơ quan có liên quan chịu
trách nhiệm thực hiện Quy định này.
3. Trong quá trình thực hiện, nếu có vướng mắc, đề nghị phản ánh về Bộ
Xây dựng để nghiên cứu và hướng dẫn giải quyết./.
BỘ TRƯỞNG
Nguyễn Hồng Quân