Luận án Kiểm soát quyền lực trong đảng cộng sản Việt Nam hiện nay

HỌC VIỆN CHÍNH TRỊ QUỐC GIA HỒ CHÍ MINH HOÀNG VĂN TÚ KIỂM SOÁT QUYỀN LỰC TRONG ĐẢNG CỘNG SẢN VIỆT NAM HIỆN NAY LUẬN ÁN TIẾN SĨ NGÀNH: CHÍNH TRỊ HỌC HÀ NỘI - 2020 HỌC VIỆN CHÍNH TRỊ QUỐC GIA HỒ CHÍ MINH HOÀNG VĂN TÚ KIỂM SOÁT QUYỀN LỰC TRONG ĐẢNG CỘNG SẢN VIỆT NAM HIỆN NAY LUẬN ÁN TIẾN SĨ NGÀNH: CHÍNH TRỊ HỌC Mã số: 9 31 02 01 NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC: 1. TS. Đoàn Trường Thụ 2. PGS,TS. Phạm Minh Tuấn HÀ NỘI - 2020 LỜI CAM ĐOAN Tôi xin cam đoa

pdf215 trang | Chia sẻ: huong20 | Ngày: 14/01/2022 | Lượt xem: 469 | Lượt tải: 1download
Tóm tắt tài liệu Luận án Kiểm soát quyền lực trong đảng cộng sản Việt Nam hiện nay, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
an đây là công trình nghiên cứu của riêng tôi. Các số liệu, kết quả nêu trong luận án là trung thực, có nguồn gốc rõ ràng và được trích dẫn đầy đủ theo quy định. Tác giả Hoàng Văn Tú MỤC LỤC Trang MỞ ĐẦU 1 Chương 1: TỔNG QUAN TÌNH HÌNH NGHIÊN CỨU LIÊN QUAN ĐẾN ĐỀ TÀI LUẬN ÁN 9 1.1. Các công trình nghiên cứu liên quan đến quyền lực và kiểm soát quyền lực 9 1.2. Các công trình nghiên cứu liên quan đến quyền lực của đảng chính trị, quyền lực của Đảng Cộng sản Việt Nam và kiểm soát quyền lực của Đảng Cộng sản Việt Nam 20 1.3. Những nội dung các công trình khoa học đã đề cập 30 1.4. Những nội dung luận án tập trung giải quyết 32 Chương 2: CƠ SỞ LÝ LUẬN VÀ THỰC TIỄN KIỂM SOÁT QUYỀN LỰC TRONG ĐẢNG CHÍNH TRỊ 33 2.1. Các khái niệm cơ bản, mục đích và yêu cầu của kiểm soát quyền lực trong đảng 33 2.2. Chủ thể, đối tượng, nội dung kiểm soát quyền lực trong Đảng Cộng sản Việt Nam hiện nay 44 2.3. Các yếu tố tác động đến kiểm soát quyền lực trong đảng 61 2.4. Nhận thức và thực tiễn kiểm soát quyền lực trong đảng trên thế giới 63 Chương 3: KIỂM SOÁT QUYỀN LỰC TRONG ĐẢNG CỘNG SẢN VIỆT NAM HIỆN NAY-THỰC TRẠNG VÀ NHỮNG VẤN ĐỀ ĐẶT RA 76 3.1. Khái quát và đặc trưng quyền lực của Đảng Cộng sản Việt Nam 76 3.2. Thực trạng kiểm soát quyền lực trong Đảng Cộng sản Việt Nam hiện nay 83 3.3. Những vấn đề đặt ra về kiểm soát quyền lực trong Đảng Cộng sản Việt Nam hiện nay 109 Chương 4: PHƯƠNG HƯỚNG VÀ GIẢI PHÁP KIỂM SOÁT QUYỀN LỰC TRONG ĐẢNG CỘNG SẢN VIỆT NAM THỜI GIAN TỚI 117 4.1. Phương hướng kiểm sát quyền lực trong Đảng Cộng sản Việt Nam thời gian tới 117 4.2. Giải pháp tăng cường kiểm soát quyền lực trong Đảng Cộng sản Việt Nam thời gian tới 122 KẾT LUẬN 144 DANH MỤC CÁC CÔNG TRÌNH ĐÃ CÔNG BỐ CỦA TÁC GIẢ LIÊN QUAN ĐẾN LUẬN ÁN 146 DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO 147 PHỤ LỤC 160 1 MỞ ĐẦU 1. Tính cấp thiết của đề tài Trong bối cảnh quyền lực diễn ra sự phân tán mạnh mẽ như hiện nay, các chủ thể quyền lực chính trị đang đứng trước thách thức lớn, đó là khoảng cách giữa quyền lực thực sự của các chủ thể đang nắm giữ và sự kỳ vọng của người dân đối với các chủ thể, như đảng chính trị, nhà nước, các tổ chức chính trị-xã hội. Đây là nguồn gốc của những áp lực khó khăn nhất mà bất kỳ chủ thể quyền lực chính trị nào phải đối phó. Người dân có xu hướng tin vào chân lý, vào tính chính đáng của người cầm quyền hơn là tin vào lý tưởng sáo rỗng và sự phục tùng sức mạnh, chân lý trở thành thước đo cho sức mạnh cầm quyền của các chủ thể quyền lực. Moisés Naím nhận định trong tác phẩm Sự suy tàn của quyền lực thì nơi nào quyền lực là quan trọng, nơi đó quyền lực đang suy tàn. Quả đúng như vậy, sự lớn mạnh của các tác nhân phi nhà nước đã và đang làm lung lay “tính chính đáng” và sức mạnh của các lực lượng cầm quyền. Dưới những tác động khác nhau, nhiều chủ thể quyền lực chính trị đã không giữ được vị trí của mình, ngay cả những quốc gia có chế độ chính trị đã tồn tại lâu dài, duy trì nền chính trị dựa trên trật tự nhà nước, mà điển hình là nhiều quốc gia Ả rập đã sụp đổ một cách dễ dàng trong “Mùa xuân Ả rập”. Đi tìm nguyên nhân của sự thất bại, sự sụp đổ của các nhà nước, người ta có quyền gán ghép cho nó những nguyên nhân như nghèo tài nguyên, dân số đông, khoa học - kỹ thuật kém phát triển, thậm chí có thể là sự “thoả hiệp”. Nguyên nhân dẫn đến thất bại của nhà nước là từ các vấn đề di dân, ảnh hưởng của chiến tranh, vị trí địa lý không thuận lợi, sự chèn ép của các nước lớn Trong khi đó, bản chất thất bại của các chủ thể quyền lực chính trị lại xuất phát từ việc tổ chức, thực thi quyền lực được cụ thể hóa thành thể chế nhưng chưa phù hợp với sự phát triển của thực tiễn. Một cách cụ thể hơn, cốt lõi của sự thất bại đó là do quyền lực của các chủ thể không được kiểm soát một cách hợp lý. Những người thiết kế ra các thiết chế xã hội hiểu rằng, tự kiểm soát quyền lực của những người đại diện quyền lực công là yếu tố quan trọng nhất. Lịch sử đã 2 chứng minh không thể chối cãi, việc sử dụng quyền lực một cách hiệu quả của lãnh tụ Đảng Bônsêvích do V.I.Lênin lãnh đạo đã làm nên “Mười ngày rung chuyển thế giới” [38, tr.5] với thành công của cuộc Cách mạng Tháng Mười Nga năm 1917, nhưng cũng chính việc sử dụng quyền lực một cách tuỳ tiện, thiếu khoa học của những người nắm quyền lực đã dẫn đến “trận động đất chính trị” [38, tr.6] làm cho hệ thống chủ nghĩa xã hội ở Liên Xô và Đông Âu sụp đổ. Nhìn nhận vấn đề quyền lực chính trị trên diện rộng và xem xét quyền lực trong phạm vi quyền lực chính trị của đảng cầm quyền, tác giả muốn tìm hiểu xem có phải nguyên nhân thất bại của các quốc gia xuất phát từ các đảng chính trị cầm quyền?, sự thiếu kiểm soát quyền lực của đảng cầm quyền hay không?. Ở phạm vi hẹp hơn, tác giả muốn xem xét Đảng Cộng sản cầm quyền khi không kiểm soát được quyền lực trong nội bộ sẽ dẫn đến nguy cơ gì? ảnh hưởng của nó sẽ như thế nào đến hệ thống chính trị và sự phát triển của quốc gia?. Đó là lý do công trình nghiên cứu này sẽ nghiên cứu vấn đề: “kiểm soát quyền lực trong Đảng Cộng sản Việt Nam hiện nay”. Thực tiễn hoạt động chính trị không chỉ dẫn chứng cho những người nghiên cứu về quyền lực nhận ra sự “nan giải” trong cách thức kiểm soát quyền lực mà còn là sự tìm tòi, khảo cứu các phương thức kiểm soát quyền lực hiệu quả. Quá trình khảo cứu, tìm tòi ấy đã phác họa nhiều khía cạnh kiểm soát quyền lực trong các bộ phận của hệ thống chính trị. Trong bất kỳ mô hình hệ thống chính trị nào hiện nay, vai trò của các đảng chính trị luôn giữ vị trí rất quan trọng. Tuỳ vào truyền thống chính trị, triết lý chính trị của mỗi nước mà các nước lựa chọn con đường chính trị theo hình thức có một đảng hay nhiều đảng. Ở các quốc gia theo chế độ một đảng cầm quyền như ở Liên Xô, Trung Quốc, Lào, Triều Tiên, Cu Ba hay Việt Nam, mà tác giả đã khảo sát, vai trò của đảng càng trở nên quan trọng. Ở Việt Nam kể từ khi thành lập cho đến nay, Đảng Cộng sản Việt Nam đã thể hiện được tầm vóc của một đảng chính trị có đủ sức sáng suốt lãnh đạo sự nghiệp cách mạng của dân tộc Việt Nam. Có thể nói, những thành công cho 3 đến nay đều xuất phát từ sự lãnh đạo tài tình của Đảng. Trong quá trình lãnh đạo đất nước, Đảng luôn chăm lo xây dựng, chỉnh đốn Đảng; không chủ quan, lơ là, luôn ý thức nâng cao tính chính đáng cầm quyền của Đảng. Tuy nhiên, điều đó không có nghĩa là trong quá trình lãnh đạo Đảng không có những hạn chế. Điều này được minh chứng bởi những vấn đề tự thân của Đảng, đó là: Việc phân định thẩm quyền, trách nhiệm, mối quan hệ công tác của người đứng đầu với tập thể cấp ủy, lãnh đạo cơ quan, đơn vị chưa rõ ràng; Hiện tượng lạm quyền vấn tiếp tục diễn ra; Công tác kiểm tra trong Đảng còn nhiều bất cập; Việc đánh giá cán bộ, đảng viên còn mang tính hình thức, chưa có bộ tiêu chí khoa học để góp phần kiểm soát nhân sự của Đảng; Chất lượng tự phê bình và phê bình yếu, kỷ cương, kỷ luật chưa nghiêm Tất cả những điều đó cho thấy, kiểm soát quyền lực trong nội bộ là nhu cầu tự thân trong hoạt động của Đảng. Bước đầu khảo cứu thực tiễn kiểm soát quyền lực trong Đảng Cộng sản Việt Nam, tác giả cho rằng, nghiên cứu làm sáng tỏ vấn đề này chắc hẳn là quan trọng và gợi mở nhiều vấn đề lý luận không thể không giải quyết. Thậm chí, ở nhiều nội dung kiểm soát quyền lực hay tổ chức và thực thi quyền lực chính trị ở Việt Nam hiện đang dừng ở bước tìm tòi, khảo cứu. Thực hiện luận án này, tác giả mong muốn đóng góp làm sáng tỏ lý thuyết kiểm soát quyền lực với một số nội dung sau: Một là, phân tích làm sáng tỏ lý luận về sự “ủy quyền” trong tổ chức và thực thi quyền lực. Hai là, làm sáng tỏ sự phong phú của các chủ thể quyền lực chính trị, trong đó có quyền lực của đảng chính trị, quyền lực của Đảng Cộng sản cầm quyền. Ba là, phân tích là sáng tỏ tính tất yếu của kiểm soát quyền lực trong Đảng Cộng sản Việt Nam-vấn đề mà nhiều công trình trước chưa chú ý nghiên cứu, hoặc có thể nhiều người cho rằng không cần nghiên cứu, hoặc nghiễm nhiên quyền lực của Đảng không cần kiểm soát. 4 Bốn là, nghiên cứu chỉ ra các phương thức kiểm soát quyền lực trong Đảng Cộng sản Việt Nam đang thực hiện. Năm là, nghiên cứu chỉ ra những bất cập, hạn chế trong việc thực hiện kiểm soát quyền lực trong Đảng Cộng sản Việt Nam hiện nay. Sáu là, đề xuất định hướng cho những thay đổi hợp lý. Xuất phát từ những nguyên nhân trên, tác giả chọn vấn đề nghiên cứu: “Kiểm soát quyền lực trong Đảng Cộng sản Việt Nam hiện nay” làm luận án tiến sĩ chuyên ngành Chính trị học. 2. Mục đích và nhiệm vụ của luận án 2.1. Mục đích của luận án Trên cơ sở nghiên cứu lý luận và thực tiễn kiểm soát quyền lực trong đảng chính trị, Đảng Cộng sản Việt Nam, mục đích nghiên cứu của luận án là chỉ ra những hạn chế, bất cập trong kiểm soát quyền lực trong Đảng từ đó đề xuất một số giải pháp nhằm tăng cường kiểm soát quyền lực trong Đảng Cộng sản Việt Nam thời gian tới hiệu quả hơn, đúng mục đích hơn. 2.2. Nhiệm vụ của luận án Để đạt được mục đích trên, luận án tập trung giải quyết các nhiệm vụ sau: 1) Định hình một số khái niệm cơ bản như: khái niệm quyền lực, quyền lực của đảng cầm quyền; khái niệm quyền lực trong đảng; khái niệm kiểm soát quyền lực; khái niệm kiểm soát quyền lực trong đảng. Các khái niệm trên thể hiện giác độ tiếp cận, nội dung nghiên cứu của riêng công trình nghiên cứu này. 2) Phân tích, làm rõ một số nội dung về kiểm soát quyền lực trong đảng như: mục tiêu, sự cần thiết, chủ thể, đối tượng, nội dung, phương thức, công cụ 3) Nghiên cứu thực trạng kiểm soát quyền lực trong Đảng Cộng sản Việt Nam hiện nay. 4) Chỉ ra những hạn chế, những vấn đề cần thay đổi về kiểm soát quyền lực trong Đảng Cộng sản Việt Nam hiện nay. 5 5) Đề xuất một số kiến nghị, giải pháp hữu hiệu nhằm tăng cường kiểm soát quyền lực trong Đảng Cộng sản Việt Nam trong thời gian tới. 3. Cơ sở lý luận và phương pháp nghiên cứu 3.1. Cơ sở lý luận Luận án được thực hiện trên cơ sở lý luận của chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh và tiếp thu giá trị khoa học của các học thuyết, lý thuyết chính trị về kiểm soát quyền lực và kiểm soát quyền lực trong đảng. 3.2. Phương pháp nghiên cứu Để làm rõ đối tượng nghiên cứu, luận án sử dụng một số phương pháp nghiên cứu độc lập, phương pháp liên ngành sau: - Phương khảo sát văn bản: Tác giả luận án sử dụng phương pháp này nhằm khảo sát kết quả các công trình nghiên cứu đã được thực hiện liên quan đến các nội dung của luận án như: quyền lực, quyền lực của đảng chính trị, quyền lực của Đảng Cộng sản Việt Nam; kiểm soát quyền lực, kiểm soát quyền lực trong đảng, kiểm soát quyền lực trong Đảng Cộng sản Việt Nam. Từ đó, xác định những nội dung mà các công trình đã đề cập, chưa đề cập và xác định định hướng nghiên cứu của luận án. Phương pháp này được tác giả sử dụng chủ yếu trong chương 01 của luận án. - Phương pháp phân tích và tổng hợp lý thuyết: Tác giả sử dụng phương pháp này để nghiên cứu các tài liệu, các lý thuyết liên quan đến đối tượng ghiên cứu của luận án. Bằng cách phân chia đối tượng nghiên cứu thành từng bộ phận để tìm hiểu sâu sắc về vấn đề kiểm soát quyền lực và kiểm soát quyền lực trong Đảng Cộng sản Việt Nam hiện nay; đồng thời tổng hợp các mặt, từng bộ phận thông tin đã được phân tích để tạo ra một hệ thống lý thuyết đầy đủ và sâu sắc về vấn đề kiểm soát quyền lực trong Đảng Cộng sản Việt Nam hiện nay. Phương pháp này được tác giả vận dụng chủ yếu ở chương 02 của luận án. - Phương pháp lịch sử: Phương pháp này được tác giả sử dụng để đi tìm nguồn gốc phát sinh, quá trình phát triển quyền lực của Đảng Cộng sản Việt Nam. Đồng thời, nghiên cứu làm rõ thực tiễn kiểm soát quyền lực trong Đảng 6 thời gian qua, từ đó rút ra bản chất và quy luật của vấn đề kiểm soát quyền lực trong Đảng. Phương pháp này cũng được vận dụng vào việc nghiên cứu ở chương 02 của luận án. - Phương pháp phỏng vấn sâu: Với tính chất phức tạp, nhạy cảm của luận án, việc sự dụng phương pháp này có ý nghĩa rất quan trọng để tìm ra bản chất của vấn đề kiểm soát quyền lực trong Đảng Cộng sản Việt Nam hiện nay. Tác giả sử dụng phương pháp này để khảo sát đảng viên có vị trí khác nhau trong các tổ chức đảng các cấp, kể cả một số đảng viên nắm giữ vị trí quyền lực trong Đảng đã nghỉ hưu, để làm rõ những vấn đề thuộc bản chất không được biểu hiện bằng văn bản, mà bộc lộ qua tư tưởng và hành động của đảng viên, các tổ chức đảng. Phương pháp này được vận dụng vào nghiên cứu vấn đề thực trạng kiểm soát quyền lực trong Đảng ở chương 03 của luận án. Do tính chất phức tạp của đối tượng nghiên cứu nên tác giả chủ yếu sử dụng phương pháp này để khảo sát thực trạng kiểm soát quyền lực trong Đảng Cộng sản Việt Nam hiện nay. - Phương pháp phân tích, tổng kết kinh nghiệm: Phương pháp này được tác giả luận án sử dụng để nghiên cứu và xem xét các cách thức kiểm soát quyền lực trong các đảng chính trị, Đảng Cộng sản Việt Nam; đồng thời, nghiên cứu tổng kết những thành quả thực tiễn trong quá khứ đối với vấn đề kiểm soát quyền lực trong Đảng Cộng sản Việt Nam để rút ra những bài học về kiểm soát quyền lực trong đảng, góp phần định hướng đúng đắn cho cách thức kiểm soát quyền lực trong Đảng Cộng sản Việt Nam thời gian tới. Phương pháp này chủ yếu được sử dụng để nghiên cứu những nội dung ở chương 02 của luận án. - Phương pháp chuyên gia: Vấn đề kiểm soát quyền lực trong đảng, là nội dung khó, đặc biệt có nhiều nội dung mà người nghiên cứu không thể có đủ điều kiện và năng lực để xác định được bản chất vấn đề nên việc sử dụng phương pháp chuyên gia là rất có ý nghĩa. Phương pháp này được tác giả luận án sử dụng trong quá trình nghiên cứu để tham vấn ý kiến của những người am 7 hiểu sâu sắc về quyền lực, quyền lực của Đảng, những nhà hoạt động thực tiễn để hiểu đúng, hiểu sâu về nội dung đang nghiên cứu. Đồng thời, các ý kiến chuyên gia góp phần gợi mở hướng nghiên cứu, hướng giải quyết vấn đề mà luận án đang cố gắng làm rõ. Phương pháp này được sử dụng ở tất cả các chương của luận án. - Phương pháp logic: Đây là phương pháp rất quan trọng trong quá trình thực hiện luận án. Tác giả sử dụng phương pháp này để đưa ra những kết luận quan trọng đối với các nội dung nghiên cứu trên cơ sở phân tích, tổng hợp thực trạng vấn đề nghiên cứu. Phương pháp này được vận dụng ở chương 3 để đánh giá thực trạng vấn đề đặt ra, vận dụng vào chương 4 để đề ra định hướng và các giải pháp nhằm tăng cường kiểm soát quyền lực trong Đảng Cộng sản Việt Nam thời gian tới. Phương pháp nghiên cứu chủ yếu được sử dụng trong luận án là phương pháp nghiên cứu định tính, trong đó phương pháp phỏng vấn sâu là phương pháp chủ đạo. 4. Phạm vi nghiên cứu của luận án - Phạm vi nội dung nghiên cứu: Kiểm soát quyền lực trong Đảng Cộng sản Việt Nam là vấn đề rộng, phức tạp liên quan đến nhiều nội dung. Tuy nhiên luận án chỉ tập trung nghiên cứu các vấn đề kiểm soát quyền lực trong tổ chức bộ máy của Đảng, không nghiên cứu kiểm soát từ bên ngoài đối với quyền lực của Đảng với nội dung chính yếu như: kiểm soát quyền lực đối với các chức danh trong Đảng được ủy nhiệm; quyền lực các cơ quan quyền lực được Đảng ủy nhiệm; kiểm soát quyền lực trong Đảng trong quá trình ra quyết định, kiểm soát quyền lực trong Đảng về quy trình thực hiện các quyết định; kiểm soát quyền lực trong Đảng quy trình kiểm tra giám sát; các phương thức kiểm soát quyền lực trong Đảng; các yếu tố tác động đến kiểm soát quyền lực trong Đảng. - Phạm vi không gian: Luận án nghiên cứu vấn đề kiểm soát quyền lực trong tổ chức bộ máy của Đảng Cộng sản Việt Nam. 8 - Phạm vi thời gian: Luận án nghiên cứu vấn đề kiểm soát quyền lực theo các mốc thời gian là các kỳ Đại hội của Đảng cho đến cuối năm 2019. - Đối tượng nghiên cứu: Luận án nghiên cứu các quyết định, hành vi của các cá nhân, các tổ chức đảng được “ủy nhiệm” trong Đảng. 5. Đóng góp mới của luận án về mặt khoa học Kết quả nghiên cứu của luận án có những nội dung đóng góp mới về mặt khoa học như sau: Thứ nhất, qua công trình nghiên cứu này, luận án góp phần bổ sung một số nội dung lý thuyết về kiểm soát quyền lực và kiểm soát quyền lực trong đảng chính trị với các khái niệm như: quyền lực của đảng chính trị, quyền lực trong đảng, kiểm soát quyền lực, kiểm soát quyền lực trong đảng. Thứ hai, luận án sử dụng “lý thuyết chủ đại diện” trong nghiên cứu vấn đề kiểm soát quyền lực trong thiết chế chính trị. Do đó, qua công trình nghiên cứu này, luận án đã góp phần làm sáng tỏ lý thuyết này trong nghiên cứu trường hợp cụ thể là kiểm soát quyền lực trong Đảng Cộng sản Việt Nam. Thứ ba, luận án góp phần làm rõ một trong những các tiếp cận nghiên cứu về kiểm soát quyền lực. Bên cạnh các tiếp cận về pháp lý, thể chế, nội dung, hình thức kiểm soát quyền lực thì luận án làm rõ cách tiếp cận từ “sự ủy quyền”. 6. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn của luận án Về mặt lý luận: Kết quả công trình nghiên cứu của luận án góp phần làm sâu sắc hơn lý luận về chủ đại diện nói chung và lý luận về kiểm soát quyền lực trong Đảng Cộng sản Việt Nam. Về mặt thực tiễn: Kết quả công trình nghiêu cức có thể dùng làm tài liệu tham khảo trong nghiên cứu, giảng dạy và học tập bộ môn Chính trị học; làm tài liệu tham khảo cho những người hoạt động chính trị thực tiễn. 7. Kết cấu của luận án Ngoài phần mở đầu, kết luận và danh mục tài liệu tham khảo và phụ lục, luận án gồm có 4 chương, 13 tiết. 9 Chương 1 TỔNG QUAN TÌNH HÌNH NGHIÊN CỨU LIÊN QUAN ĐẾN ĐỀ TÀI LUẬN ÁN 1.1. CÁC CÔNG TRÌNH NGHIÊN CỨU LIÊN QUAN ĐẾN QUYỀN LỰC VÀ KIỂM SOÁT QUYỀN LỰC 1.1.1. Các công trình nghiên cứu liên quan đến quyền lực Nghiên cứu về quyền lực là một trong những nội dung chính yếu trong các công trình nghiên cứu lý thuyết và thực tiễn chính trị. Đây là những công trình đóng vai trò nền tảng thiết lập nhận thức của con người về quyền lực và các vấn đề liên quan đến quyền lực. Luận bàn về sự xuất hiện của quyền lực, Aristole trong tác phẩm: Chính trị luận, (Nông Duy Trường dịch) đã chỉ ra rằng, cộng đồng người khi mới xuất hiện, chung sống với nhau thành tổ chức thì đó là tổ chức xã hội. Mối quan hệ giữa con người với con người trong trạng thái xã hội như vậy là mối quan hệ quyền lực, mối quan hệ mà ở đó biểu hiện của mạnh được yếu thua. Để bảo đảm quyền tự do của mỗi, con người cần đến thiết chế để bảo vệ là nhà nước, “nhà nước là do nhiều hộ gia đình tạo nên”. Với câu nói bất hủ: “con người là một sinh vật chính trị” Aristole đã lý giải con người không thể tách khỏi đời sống chính trị của cộng đồng mà họ sinh sống. Chính trị tự nó không xấu, quyền lực cũng không xấu, chỉ có những mô hình và chế độ chính trị do con người tạo nên mới có tốt và xấu, vì không nhận thức rõ được về bản chất của con người. Tiếp tục lý giải về nguồn gốc của quyền lực, John Locke trong cuốn sách (2013): Khảo luận thứ hai về chính quyền [52], Nxb Tri thức khẳng định, quyền lực trước hết là “quyền tự nhiên” của mỗi cá nhân, quyền bất khả xâm phạm. Theo đó, con người có 4 quyền cụ thể: quyền sống, quyền tự do, quyền sức khoẻ và quyền sở hữu. Sự ra đời của nhà nước là để bảo vệ quyền “tự nhiên” của con người. Vì vậy, một trong những nguyên tắc căn bản của quyền lực là quyền lực phải được giới hạn. Bởi, quyền lực của bất kỳ nhà nước nào cũng có nguồn gốc từ nhân dân. 10 Khi đa số nhân dân không hài lòng với sự cai trị của chính phủ, họ có quyền phế truất và hình thành nên nhà nước mới. Tiếp tục phát triển, làm rõ nguyên lý tổ chức quyền lực khi xã hội tổ chức thành nhà nước, Rousseau trong tác phẩm (2010): Bàn về khế ước xã hội [96] (Thanh Đạm dịch), Nxb Đà Nẵng, xác định, quyền lực của đất nước là quyền tối thượng của nhân dân, quyền lực nhà nước chỉ là sự ủy thác của nhân dân. Do đó, nhân dân là người ban hành luật và giữ lại quyền kiểm soát hoạt động của chính phủ qua hội nghị định kỳ của toàn dân. Quá trình thực hiện quyền lực không nhất thiết phải phân quyền, nhưng phải phân công rành mạch chức năng trong bộ máy nhà nước. Điều quan trọng là cơ quan lập pháp phải kiểm soát được cơ quan hành pháp. Nghiên cứu cách thức tổ chức nhằm hạn chế sự lạm quyền của các thiết chế trong hệ thống chính trị cũng được nhiều tác giả quan tâm. Cuốn sách của tác giả Montesquieu (2010): Tinh thần pháp luật [76], Nxb Đà Nẵng, đã luận bàn về cách thức kiểm soát quyền lực trong các bộ phận cấu thành nên bộ máy nhà nước. Theo tác giả, cách tốt nhất để kiểm soát quyền lực là dùng quyền lực để kiểm soát quyền lực. Do đó, bộ máy nhà nước phải được phân chia thành ba quyền độc lập: lập pháp, hành pháp và tư pháp. Tư tưởng dùng quyền lực để kiểm soát quyền lực là tư tưởng độc đáo, đảm bảo không một cá nhân nào, tổ chức nào nằm ngoài sự kiểm soát quyền lực. Nghiên cứu các lý thuyết về tổ chức và thực thi quyền lực đối với sự phát triển của các quốc gia, đa số các nhà tư tưởng đều thừa nhận rằng “thể chế” chính trị là một trong những căn nguyên dẫn đến sự thành công hay thất bại của đất nước. Trong tác phẩm của Daron Acemoglu và James A.Robinson (Người dịch: Nguyễn Thị Kim Chi với sự hợp tác của Hoàng Thạch Quân và Hoàng Ngọc Lan) (2016): Tại sao các quốc gia thất bại [10], Nxb Trẻ, đặt ra giả định: việc các quốc gia có sự cách biệt giàu nghèo phải chăng là do các yếu tố địa lí, văn hóa, trình độ dân trí, sự phong phú hay nghèo nàn của tài nguyên? Bằng phương pháp nghiên cứu thực chứng, các 11 tác giả đã so sánh tiềm năng và thể chế giữa các nước, so sánh sự phát triển để đi đến kết luận: nguồn gốc của sự thành công, sự giàu nghèo là do “thể chế” quy định. Dù có yếu tố ngẫu nhiên của lịch sử, có sức hút mạnh mẽ của vòng xoáy đi xuống từ thể chế chiếm đoạt này sang thể chế chiếm đoạt khác, có yếu tố quyết định của thời cơ và cá nhân lãnh đạo, nhưng thịnh vượng hay đói nghèo không phải do định mệnh quy định cho mỗi quốc gia, mà là do cách thức tổ chức và thực thi quyền lực của quốc gia đó. Nghiên cứu đề xuất cơ sở cho việc thay đổi thể chế, Chomsky (tác giả được trích dẫn nhiều nhất trong các nghiên cứu chính trị thế kỷ XXI) trong tác phẩm: Nhận diện quyền lực (2012) (Hoàng Văn Vân dịch, Đinh Hoàng Thắng hiệu đính) [7], Nxb Tri thức, đã đánh nghiên cứu tổng kết các sự kiện chính trị trên thế giới với hệ thống các luận cứ cụ thể và được các nhà nghiên cứu tổng kết qua các cuộc trò chuyện với ông. Đây là công trình đồ sộ được trình bày dưới dạng hỏi đáp. Với kết cấu đặc biệt và hình thức độc đáo, tác phẩm đã soi rọi những giá trị dân chủ, lòng khoan dung, tính công khai minh bạch, quyền tự do và quyền con người. Đó là những cơ sở quan trọng trong việc xây dựng quyền lực công. Bàn về phương thức cầm quyền là chủ đề rất được quan tâm trong các nghiên cứu chính trị. Tác giả Janie Tay (2016) với tác phẩm: Lý Quang Diệu bàn về cầm quyền [49] (Nguyễn Phan Nam An dịch) Nxb Trẻ, là cuốn sách tuyển tập các phát biểu của Lý Quang Diệu về nhiều lĩnh vực khác nhau gắn liền với các hoàn cảnh, điều kiện cụ thể từ thực tiễn quá trình xây dựng và phát triển đất nước ở Singapore. Vấn đề kiểm soát quyền lực được đề cập trong cuốn sách này là vấn đề tự kiểm soát của người cầm quyền. Lý Quang Diệu cho rằng: “kinh nghiệm của tôi về sự phát triển ở châu Á đã dẫn tôi đến kết luận rằng chúng ta cần những người tốt để cầm quyền tốt. Dù hệ thống chính quyền có tốt đến mấy mà những người cầm quyền tồi thì sẽ gây hại cho nhân dân mình” [49, tr.26]. Nguyên tắc của người cầm quyền là “chúng ta được giao phó vận mệnh của nhân dân. Bổn phận đầu tiên của người lãnh đạo 12 là phải đáp ứng lòng tin đó dù có nguy hiểm cho cá nhân anh ta, nếu không anh ta không nên nhận vị trí đó” [49, tr.33]. Những quan điểm của Lý Quang là một trong những cách nhìn về vấn đề kiểm soát, tự kiểm soát quyền lực của những người cầm quyền đảng lãnh đạo và nhà nước. Phạm vi nghiên cứu về tổ chức thực thi quyền lực trong hệ thống chính trị được mở rộng ra trong các công trình nghiên cứu tổng kết thực tiễn ở các quốc gia. Cuốn sách của tác giả Zhongqing Yin (2012): China’s Political System (Hệ thống chính trị của Trung Quốc) [150], Cengage Learning Asia Pte Ltd, đã phân tích, đánh giá toàn diện về hệ thống chính trị Trung Quốc. Trong công trình nghiên cứu này, tác giả đã trình bày những thành tựu lớn trong quá trình đổi mới hệ thống chính trị Trung Quốc, cụ thể là những thành tựu trong cách thức tổ chức quyền lực. Việc tổ chức quyền lực có mức độ dân chủ cao được biểu hiện rõ trong bầu cử, cách thức tổ chức hệ thống chính trị đã phát huy tốt chế độ đại biểu dân cử, vấn đề hợp tác đa đảng trong tổ chức và thực thi quyền lực chính trị là những vấn đề quan trọng trong thực thi quyền lực. Cuốn sách của tác giả William Storey (2007): US Government and Politics (Chính phủ Hoa Kỳ và Chính trị) [151], Edinburgh University Press, nghiên cứu một vấn đề quan trọng là mức độ bình đẳng về cơ hội cho tất cả người dân trong hệ thống chính trị Mỹ. Tác giả đã trình bày những tư tưởng trong quá trình lập hiến từ khi hệ thống chính trị sơ khai được hình thành. Tác giả đặc biệt chú ý đến các cơ chế được tạo ra nhằm ngăn chặn việc lạm dụng quyền lực; đồng thời phân tích những phương thức mà các nhánh bầu cử của chính phủ thực hiện quyền lực ở nước Mỹ hiện nay. Theo tác giả việc tổ chức và thực thi quyền lực chắc chắn không thể không tính đến yếu tố tác động từ bên ngoài. Luận án tiến sĩ của Đỗ Quang Khắc (2000): Thực thi quyền lực chính trị của nhân dân lao động trong tiến trình đổi mới hệ thống chính trị ở nước ta hiện nay [59], Học viện Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh, đã phân tích hiện trạng thực thi quyền lực chính trị của nhân dân lao động ở nước ta trong thời kỳ đổi mới; xác định nguyên nhân những hạn chế trong việc thực thi 13 quyền lực đó và bước đầu tìm một số giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả thực thi quyền lực chính trị của nhân dân ở Việt Nam hiện nay. Đề tài khoa học cấp Nhà nước: Phân công, phối hợp và kiểm soát quyền lực trong xây dựng nhà nước pháp quyền XHCN Việt Nam (mã số KX.04-28/06-10) của Trần Ngọc Đường và cộng sự (2010) [29] thuộc Chương trình khoa học công nghệ “Nghiên cứu khoa học lý luận chính trị gia đoạn 2006 - 2010” (mã số KX04/06-10), đã phân tích và chỉ rang rằng, trong các cơ quan nhà nước cần có sự phân công phối hợp phối hợp và kiểm soát quyền lực nhà nước. Nghiên cứu đã làm rõ thực trạng phân công, phối hợp và kiểm soát quyền lực nhà nước trong các thời kỳ: thời kỳ Hiến pháp năm 1946, thời kỳ Hiến pháp năm 1959, thời kỳ Hiến pháp năm 1980, thời kỳ Hiến pháp năm 1992 (sửa đổi một số điều năm 2001) đến nay. Đề tài khoa học cấp Bộ: “Xây dựng cơ c89hế kiểm soát quyền lực Nhà nước ở Việt Nam hiện nay” của Lưu Văn Quảng [89], Học viện Chính trị - Hành chính quốc gia Hồ Chí Minh (2009). Nội dung đề tài tập trung nghiên cứu và làm rõ những vấn đề lý luận về cơ chế kiểm soát quyền lực nhà nước cùng với những thực trạng và vấn đề đặt ra. Qua đó đưa ra phương hướng và giải pháp xây dựng cơ chế kiểm soát quyền lực ở Nhà nước Việt Nam hiện nay. Đồng thời đề tài nghiên cứu, làm rõ cơ chế kiểm soát quyền lực nhà nước ở Việt Nam là cơ sở tham chiếu cho vấn đề kiểm soát quyền lực của các chủ thể khác trong hệ thống chính trị. Một số bài viết của tác giả Lưu Văn Quảng như: Hệ thống bầu cử ở Anh, Mỹ và Pháp-Lý thuyết và hiện thực [88] (Nxb Chính trị Quốc gia, 2008), bài viết Một số vấn đề về hệ thống bầu cử ở Anh hiện nay [87] (Tạp chí Nghiên cứu châu Âu, số 5/2006), Cơ chế thực hiện dân chủ nội bộ của các đảng cầm quyền ở Vương quốc Anh (Tạp chí Lý luận chính trị, số 2/2014); và Cơ chế thực hiện dân chủ trong các đảng chính trị ở Mỹ (Qua nghiên cứu trường hợp đảng Dân chủ và đảng Cộng hòa) (Tạp chí Nghiên cứu châu Mỹ ngày nay, số 1/2014), đã nghiên cứu vấn đề tổ chức quyền lực ở các nước Anh, Pháp và Mỹ, trong đó tập trung vào phân tích một số vấn đề, như bầu cử, dân chủ nội bộ, hoạch định chính sách,... 14 Các nghiên cứu về quyền lực không chỉ lý giải nguồn gốc, cách thức tổ chức thực thi quyền lực, mà còn lý giải cho những biến đổi của quyền lực. Cuốn sách của Moisés Naím (Trần Trọng Hải Minh dịch) (2016): Sự suy tàn quyền lực [75], Nxb Hồng Đức, là cuốn sách được viết bởi nhà chính trị thực tiễn người Venezuela. Tác giả đã trình bày về sự vận động của quyền lực với cương vị thực tiễn là một Bộ trưởng. Quyền lực thực tế, quyền lực danh nghĩa, cái làm nên những sự phồn vinh, sự bạo lực đường phố, đói nghèo hay bất bình đẳng là do sự biến đổi của quyền lực. Nó chính là biểu hiện của những trạng thái của quyền lực cho nên hiểu về quyền lực nhất là những người nắm quyền lực. Dẫn lời Tổng thống Brazil Fernado Henrique Cardoso “Tôi luôn ngạc nhiên về việc mọi người nghĩ tôi quyền lực như thế nào” [75, tr.6] đã cho thấy điều đó. Sự ca thán về việc thiếu quyền lực của người cầm quyền đã cho thấy quyền lực đang bị xói mòn xã hội ngày nay. Vậy, điều gì đang chi phối quyền lực và kiểm soát quyền lực của những người cầm quyền? Lẽ dĩ nhiên là sự phân tán quyền lực mà tầng lớp trung lưu và những người lao động là nguyên nhân chính. Cuốn sách của Joseph S.Nye, Jr (Tâm Hiền dịch) (2016): Tương lai của quyền lực [56], Nxb Thông tin và Truyền thông, là công trình nghiên cứu những biến đổi của quyền lực trong thời đại toàn cầu hóa. Xoay quanh vấn đề thăng trầm quyền lực của nước Mỹ, Joseph S. Nye đã cung cấp cho người đọc những dự liệu rất phong phú, khách quan và có thể kiểm chứng về những biến đổi vị thế quyền lực của nước Mỹ. Trên cơ sở phân tích thực tiễn đầy sinh động, tác giả đã đặt ra những nội dung xoay quanh nòng cốt của vấn đề là: “Làm thế nào để Hoa Kỳ vẫn giữ được ảnh hưởng tốt đẹp nơi cộng đồng thế giới trong thế kỷ X... Điều lệ Đảng quy định về xử lý kỷ luật đảng viên. Đây là cuốn sách trình bày các quan điểm của Đảng và những vấn đề mới của đất nước 29 được đề cập trong Đại hội XII về vấn đề chính trị, tư tưởng, đạo đức lối sống của đảng viên, vấn đề cán bộ, vấn đề kiểm soát quyền lực Đây là cơ sở để xác định giới hạn quyền lực của cán bộ, đảng viên và việc thi hành kỷ luật đảng viên, một trong những hình thức kiểm soát quyền lực đối với cán bộ, đảng viên. Kiểm soát quyền lực là việc kiểm soát bất kỳ nơi nào có sự trao quyền, trong đó công tác giải quyết khiếu nại, tố cáo cũng cần được kiểm soát. Cuốn sách của đồng chủ biên Cao Văn Thống - Đỗ Xuân Tuất - Dương Trung Ý (2016): Giải pháp nâng cao chất lượng giải quyết khiếu nại kỷ luật trong Đảng [112], Nxb Lý luận chính trị, đã trình bày những vấn đề lý luận quan trọng về công tác giải quyết khiếu nại trong Đảng-một trong những hình thức để kiểm soát quyền lực của các tổ chức Đảng đối với đảng viên. Qua công trình nghiên cứu các tác giả đã phân tích những nội dung quan trọng về nội dung, hình thức, tiêu chí đánh giá chất lượng thi hành kỷ luật, khiếu nại, các nhân tố ảnh hưởng đến giải quyết khiếu nại Theo các tác giả, khiếu nại là một trong những quyền mà khi thực hiện nó được đầy đủ sẽ góp phần làm cho tính dân chủ trong Đảng được tốt hơn. Kiểm soát quyền lực trong Đảng là quá trình tự kiểm soát, do đó, việc năng cao năng lực lãnh đạo của Đảng là vấn đề then chốt để kiểm soát quyền lực trong Đảng tốt hơn, từ đó, nâng cao tính chính đáng của Đảng. Bài viết của Mai Thế Hởn: Đổi mới phương thức lãnh đạo của Đảng trong phát triển kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam [43] xác định đổi mới phương thức lãnh đạo của Đảng trước hết phải thực hiện sự lãnh đạo của Đảng đảm bảo tính khoa học phù hợp với thực tiễn; sự hình thành các đường lối của Đảng phải trên cơ sở các quy luật khách quan; Đảng cũng không bao biện làm thay đối với các chức năng của Nhà nước. Đó là những giải pháp quan trọng nhằm đảm bảo giới hạn quyền lực của Đảng trong những không gian nhất định. Tiếp tục làm sáng tỏ vai trò lãnh đạo của Đảng đối với hệ thống chính trị, tác giả bài viết: Nâng cao năng lực lãnh đạo của Đảng - yếu 30 tố quyết định chất lượng hoạt động của hệ thống chính trị nước ta hiện nay [47] Nguyễn Văn Huyên khẳng định sự lãnh đạo của Đảng là nhân tố quyết định thắng lợi của cách mạng Việt Nam. Do đó, để Đảng mạnh thì Đảng cần tự nâng cao năng lực của mình bằng việc nâng cao cái tâm của Đảng. Cái tâm của Đảng thể hiện ở đạo đức cách mạng, lý tưởng cách mạng, ở bản lĩnh chính trị của Đảng, người lãnh đạo dám hy sinh cho nhân dân, cho dân tộc, chí công vô tư; nâng cao năng lực của Đảng còn là nâng cao cái tầm của Đảng. Cái tầm của Đảng biểu hiện ở sự nâng cao trí tuệ, tài năng, nâng cao tầm hiểu biết, tầm nhìn, tầm quyết định những vấn đề của đất nước. Trong thực tế hoạt động của tổ chức đảng các cấp ở Việt Nam vai trò người đứng đầu rất quan trọng, vì vậy, cần có cơ chế kiểm soát quyền lực của họ một cách hiệu quả. Điều đó đòi hỏi cần gắn liền quyền lực của người đứng đầu với trách nhiệm mà họ đảm nhận. Bài viết: Bí thư - chủ tịch là một người và vấn đề kiểm soát quyền lực, [113, tr.41-44], Tạp chí Xây dựng Đảng, số 11, 2013 của tác giả Bùi Văn Tiếng đã luận bàn về vấn đề kiểm soát quyền lực khi bí thư và chủ tịch hoạt động theo phương thức kiêm nhiệm. Theo tác giả, khi Bí thư - chủ tịch là một người sẽ đòi hỏi phải có cơ chế kiểm soát quyền lực hữu hiệu, tránh tình trạng lộng quyền. Do đó, kiểm soát quyền lực là nhằm ngăn chặn, hạn chế nguy cơ xảy ra tình trạng chuyên quyền, lộng quyền, lạm quyền. 1.3. NHỮNG NỘI DUNG CÁC CÔNG TRÌNH KHOA HỌC ĐÃ ĐỀ CẬP * Về lý luận kiểm soát quyền lực và kiểm soát quyền lực trong Đảng Cộng sản Việt Nam Các công trình nghiên cứu trong nước và nước ngoài đã đề cập nhiều đến vấn đề lý luận về quyền lực, kiểm soát quyền lực ở nhiều giác độ khác nhau, trong đó biểu hiện ở 02 nội dung cơ bản sau: Một là, trong tất cả các công trình nghiên cứu mà tác giả đã khảo sát, nhóm các công trình nghiên cứu về quyền lực, tổ chức quyền lực là nhóm công trình được đề cập nhiều nhất. Những nội dung cơ bản được đề cập đó là: 31 tính tất yếu của sự xuất hiện của quyền lực, quyền lực chính trị trong đời sống xã hội và những biến đổi của nó; nguồn gốc và cách thức tổ chức thực thi quyền quyền lực chính trị của các quốc gia, các thời kỳ lịch sử; quá trình vận động và phát triển quyền lực; thành công, thất bại của các mô hình quyền lực nhà nước; cách thức kiểm soát quyền lực nhà nước Các công trình nghiên cứu về kiểm soát quyền lực nhà nước vẫn là chủ đạo. Hai là, lý luận về kiểm soát quyền lực của đảng chính trị nói chung và lý luận về kiểm soát quyền lực trong Đảng Cộng sản Việt Nam nói riêng chưa được đề cập trực tiếp, mà chỉ được đề cập một cách tản mạn ở những khía cạnh khác nhau thông qua các nội dung: kiểm tra, giám sát, chất vấn, nhiệm kỳ, lấy phiếu tín nhiệm, chống chạy chức chạy quyền, chạy quy hoạch... Như vậy, về mặt lý luận, những nghiên cứu về kiểm soát quyền lực trong Đảng Cộng sản Việt Nam là vấn đề còn ít được đề cập đến, chưa có những công trình nghiên cứu trực tiếp về vấn đề này. * Về thực trạng kiểm soát quyền lực và kiểm soát quyền lực trong Đảng Cộng sản Việt Nam Các công trình nghiên cứu về thực trạng kiểm soát quyền lực khá đa dạng, đa chiều cạnh, song chủ yếu xoay quanh chủ thể chính là nhà nước. Nhiều hình thức kiểm soát quyền lực nhà nước được đề cập như: kiểm soát bằng hiến pháp, kiểm soát thông qua nhân dân, kiểm soát thông qua Mặt trận Tổ quốc, cơ chế tự kiểm soát, kiểm soát bằng truyền thông Tuy nhiên, chưa có công trình nào trực tiếp nghiên cứu thực trạng kiểm soát quyền lực trong Đảng Cộng sản Việt Nam. * Về các giải pháp kiểm soát quyền lực và kiểm soát quyền lực trong Đảng Cộng sản Việt Nam Các công trình đã nghiên cứu đều tập trung vào các giải pháp kiểm soát quyền lực nhà nước với các nhánh quyền lực là lập pháp, hành pháp, tư pháp. Các công trình nghiên cứu các giải pháp kiểm soát quyền lực trong Đảng Cộng sản Việt Nam gần như chưa được đề cập đến hoặc chỉ được đề cập đến 32 ở các giác độ như: giải pháp kiểm tra giám sát, giải pháp thực thiện nêu gương, giải pháp thực hiện quy chế chất vấn, giải pháp thực hiện thi hành kỷ luật trong Đảng, giải pháp phê bình và tự phê bình 1.4. NHỮNG NỘI DUNG LUẬN ÁN TẬP TRUNG GIẢI QUYẾT * Những nội dung lý luận về kiểm soát quyền lực trong Đảng Cộng sản Việt Nam cần làm rõ Để thực hiện thành công luận án cần tập trung giải quyết các vấn đề lý luận cơ bản sau: nghiên cứu lý thuyết đại diện, lý luận về kiểm soát quyền lực, kiểm soát quyền lực trong Đảng Cộng sản Việt Nam và tính tất yếu của kiểm soát quyền lực trong Đảng; xác định được chủ thể, đối tượng kiểm soát, nội dung kiểm soát, phương thức kiểm soát, môi trường kiểm soát; kinh nghiệm kiểm soát quyền lực trong đảng ở các quốc gia. * Những nội dung về thực trạng kiểm soát quyền lực trong Đảng Cộng sản Việt Nam cần làm rõ Trong nội dung này, luận án tập trung làm rõ những vấn đề sau đây: nghiên cứu thực trạng hệ thống pháp lý về kiểm soát quyền lực của Đảng Cộng sản Việt Nam hiện nay; thực trạng thực hiện các phương thức kiểm soát quyền lực trong Đảng Cộng sản Việt Nam; những vấn đề đặt ra đối với kiểm soát quyền lực trong Đảng Cộng sản Việt Nam hiện nay. * Những nội dung về giải pháp kiểm soát quyền lực trong Đảng Cộng sản Việt Nam cần làm rõ Ở nội dung này, luận án tập trung vào các giải pháp sau: những thay đổi cần thiết trong nhận thức về kiểm soát quyền lực, kiểm soát quyền lực trong Đảng Cộng sản Việt Nam; những giải pháp liên quan đến thể chế kiểm soát quyền lực; giải pháp xây dựng, thực hiện cơ chế kiểm soát quyền lực; mô hình kiểm soát phù hợp với điều kiện một đảng cầm quyền ở Việt Nam. 33 Chương 2 CƠ SỞ LÝ LUẬN VÀ THỰC TIỄN KIỂM SOÁT QUYỀN LỰC TRONG ĐẢNG CHÍNH TRỊ 2.1. CÁC KHÁI NIỆM CƠ BẢN, MỤC ĐÍCH VÀ YÊU CẦU CỦA KIỂM SOÁT QUYỀN LỰC TRONG ĐẢNG 2.1.1. Các khái niệm cơ bản 2.1.1.1. Khái niệm quyền lực Quyền lực, cũng như nhiều khái niệm cơ bản khác, luôn tạo ra sự tranh luận trong giới nghiên cứu, đồng thời còn nhiều điểm chưa thống nhất trong cách hiểu của những người sử dụng nó. Không có một định nghĩa nào duy nhất và lựa chọn định nghĩa nào có thể phản ánh hết được sở thích cũng như chuẩn mực của người chọn. Trong từ điển, quyền lực được hiểu là “quyền định đoạt mọi công việc quan trọng về mặt chính trị và sức mạnh để bảo đảm việc thực hiện quyền lực ấy” [83, tr.843]. Định nghĩa này chỉ ra nội hàm quan trọng của quyền lực chính là cái mà xã hội hay pháp luật thừa nhận cho tổ chức hay cá nhân được hưởng, được làm, được đòi hỏi; các quyền ấy xuất phát từ địa vị hay chức vụ mà được giao. Do đó, quyền lực là thứ được thừa nhận. Từ đây, nhiều người cho rằng, quyền lực cần phải được sự thừa nhận. Điều này đúng nhưng chưa cho thấy được “bối cảnh” (phạm vi và lĩnh vực) phát sinh và ảnh hưởng của quyền lực. Ví dụ, Đức giáo hoàng có quyền lực đối với những người theo cơ đốc giáo nhưng không có quyền lực đối với những người khác (chẳng hạn, với người theo Đạo Tin lành). Như vậy, quyền định đoạt mọi công việc quan trọng về mặt chính trị cũng phụ thuộc vào bối cảnh và sức mạnh để thực hiện. Kết quả cuối cùng của quyền lực là mục đích, từ đó có người quan niệm, mục đích của quyền lực chính là “khả năng tác động người khác để có được kết quả mong muốn” [56, tr.29]. Bản thân việc tác động người khác để có được kết quả mong muốn cũng rất đa dạng nhiều khi là sự phá hoại đơn thuần mà không quan tâm đến suy nghĩ của nạn nhân. Chẳng hạn, Pol Pot đã giết hại hàng triệu 34 công dân Campuchia [56, tr.31]. Nhiều quan điểm cho rằng, việc sử dụng vũ lực như vậy không phải là quyền lực. Bởi vì, không có mối quan hệ hai chiều ở đây (chỉ huy + phục tùng), nhưng nếu xét trong bối cảnh và động cơ của chủ thể chỉ đơn thuần là ác dâm và khủng bố thì việc sử dụng vũ lực của Pol Pot phù hợp với cách hiểu quyền lực là tác động người khác để có được kết quả mong muốn. Tuy nhiên, các mối quan hệ quyền lực đều phụ thuộc rất nhiều vào suy nghĩ của nạn nhân. Người lãnh đạo muốn trừng trị người bất đồng chứng kiến với mình và cho rằng, đó là thực thi quyền lực. Tuy nhiên, người lãnh đạo đó đã nhầm nếu người bất đồng chính kiến thật sự muốn hy sinh để thúc đẩy lý tưởng cho ông ta. Một hành động của quốc gia có nền kinh tế mạnh có thể làm thiệt hại hoặc làm giàu cho quốc gia nhỏ, nhưng đây không phải đây là quyền lực đạt được kết quả mong muốn. Người Canada thường than phiền rằng, sống bên cạnh Mỹ như ngủ với Voi, sự trở mình của con thú sẽ là vấn đề lớn đối với họ, nhưng sẽ chẳng phải lo gì nếu nó cứ ngủ yên. Do đó, đặt quyền lực trong bối cảnh cụ thể để ta biết ai được gì, bằng cách nào, ở đâu và khi nào mới thấy được các khía cạnh của quyền lực. Các nhà nghiên cứu luôn có đam mê làm rõ quyền lực, đông thời làm cho nghĩa của quyền lực lại càng phong phú hơn. Từ thời cổ đại, Plato đã quan niệm: quyền lực là cái mà người có nó có khả năng buộc người khác hành động theo ý chí của mình. Cơ sở của quyền lực chính là ai sở hữu sức mạnh bạo lực và sức mạnh trí tuệ hơn người khác. Nghiên cứu về biểu hiện của quyền lực từ cách tiếp cận đồng thuận hoặc cưỡng bức hành vi, M.Weber cho rằng: “Quyền lực là phương tiện để cưỡng bức được sử dụng trong quá trình xung đột. Quyền lực là khả năng dựa trên bất kỳ cơ sở nào của một chủ thể trong mối quan hệ xã hội sẽ ở vào một vị thế thực hiện được ý chí của mình bất chấp sự phản kháng tại vị trí để thực hiện ý chí” [68, tr.31]. Quan điểm của M.Weber xuất phát từ các hình thức biểu hiện của quyền lực, bởi hình thức biểu hiện của quyền lực cơ bản là cưỡng bức và bạo lực. Tuy nhiên, ông cũng thừa nhận nhận vai trò của chính kiến, ảnh hưởng, uy tín 35 Ngày nay, các nhà nghiên cứu về quyền lực càng làm sáng tỏ hơn tính chất phức tạp của nó, Lipson cho rằng, “quyền lực là khả năng đạt tới kết quả nhờ hoạt động phối hợp” [79, tr.105], Joseph S.Nye, Jr cho rằng, “quyền lực là khả năng tác động tới hành vi của những người khác để có được kết quả mà bạn muốn” [55]. Theo G.Wassrman, “quyền lực là khả năng gây ảnh hưởng đến hành vi của người khác, là khiến cho người khác làm một việc mà họ không muốn làm” [31, tr.8]. Trong khi đó, Nguyễn Khắc Viện cho rằng, “quyền lực là năng lực được một người hay nhóm người sử dụng để buộc những cá nhân hay những nhóm người khác phải có những hành vi nhất định” [79, tr.105]. Theo Lưu Văn Sùng, “quyền lực là mối quan hệ giữa các chủ thể hành động của đời sống xã hội, trong đó chủ thể này có thể chi phối hoặc buộc chủ thể khác phải phục tùng ý chí của mình nhờ có sức mạnh, vị thế nào đó trong quan hệ xã hội” [121, tr.236]. Sự phong phú và đa dạng của khái niệm quyền lực chắc chắn chưa dừng lại ở các nghiên cứu trên. Nó sẽ còn tiếp tục được nhìn nhận đa dạng hơn ở các công trình nghiên cứu khác, song về cơ bản được nhận diện với những dấu hiệu cơ bản: Một là, quyền lực là quan hệ giữa hai chủ thể: chi phối và bị chi phối; chỉ huy, ra lệnh và tuân thủ phục tùng; Hai là, dấu hiệu của sự tồn tại quyền lực và quan hệ quyền lực là chủ thể này (cá nhân hay nhóm người) này có thể bắt buộc người khác (cá nhân hay nhóm người) phải tuân theo những mệnh lệnh, ý chí của mình bất kể sự kháng cự (đối tượng); Ba là, quyền lực là mối quan hệ xã hội đặc biệt, ai chi phối được nó thì buộc người khác phải phục tùng; Bốn là, việc vận dụng có kết quả mối quan hệ quyền lực sẽ cho phép đạt được mục tiêu nhờ hoạt động phối hợp; Năm là, việc nắm giữ và sử dụng mối quan hệ đó sẽ cho phép chủ thể có tác động tới hành vi, phẩm hạnh của người khác. 36 Từ những phân tích trên, có thể rút ra khái niệm về quyền lực như sau: Quyền lực là khả năng đề ra và thực hiện được các chiến lược chuyển đổi các nguồn lực để đạt được kết quả mong muốn, có tác động đến hành vi, phẩm hạnh của người khác trong quá trình phối hợp hành động chung. TÓM TẮT KHÁI NIỆM QUYỀN LỰC Quyền lực = Các nguồn lực  Chiến lược chuyển đổi  Các kết quả mong muốn 2.1.1.2. Khái niệm quyền lực trong đảng, quyền lực trong Đảng Cộng sản Việt Nam * Khái niệm quyền lực trong đảng Đảng chính trị là tổ chức của những người cùng chung mục tiêu, lý tưởng. Hoạt động của đảng chính trị là giành, giữ và thực thi quyền lực nhà nước. Với tư cách là một tổ chức chính trị, quyền lực của đảng chính trị ban đầu thuộc về “quyền lực công”, tức quyền lực cá nhân đóng góp để trở thành tổ chức, thông qua hành động “ủy quyền” cho tổ chức, cá nhân nhất định nào đó đại diện cho cộng đồng thực hiện ý chí và lợi ích chung. Như vậy, quyền lực trong đảng là sự biểu hiện của quyền lực chỉ được thực hiện và có phạm vi tác động trong tổ chức của đảng đó. Trong giới hạn này, có thể thấy, quyền lực trong đảng được tổ chức dựa trên các yếu tố cơ bản sau: Một là, quyền lực trong đảng phải được tổ chức thành sức mạnh thông qua các thiết chế. Các thiết chế là tổ chức bộ máy, đại diện cho sức mạnh quyền lực tập thể của đảng. Bên cạnh các thiết chế, quyền lực trong đảng còn được biểu hiện ở quyền lực của những cá nhân nắm quyền trong các tổ chức đảng, những người nhận được sự “ủy quyền” của các đảng viên. Tuy nhiên, quyền lực của tổ chức đảng, đảng viên không phải tự nhiên mà có, sự hình thành quyền lực của tổ chức đảng, đảng viên xuất phát từ quyền lực của các đảng viên trong đảng, thông qua bầu cử đảng viên thực hiện “trao quyền” cho cá nhân và lập nên tổ chức đảng. Như vậy, nguồn gốc quyền lực của đảng xuất phát từ quyền lực của đảng viên, đảng viên là chủ thể quyền lực của đảng. 37 Hai là, quyền lực trong đảng là quyền lực được biểu hiện thông qua thể chế được thực hiện trong nội bộ đảng. Theo đó, các quy định, các nguyên tắc tổ chức, vận hành những nội dung như: đề ra chính sách, chủ trương, đường lối, công tác nhân sự, hoạt động tuyên truyền, vận động, tranh cử, kiểm tra, giám sát..., bắt buộc các đảng viên của đảng phải chấp hành. Ba là, quyền lực trong đảng còn được biểu hiện ở cơ chế thực hiện quyền lực trong đảng. Cơ chế thực thi quyền lực trong đảng được biểu hiện ở mối quan hệ giữa các chủ thể quyền lực trong đảng. Thông qua mối quan hệ này thể chế quyền lực trong đảng được thực hiện nhằm đạt được mục tiêu mà đảng đề ra. Từ những đặc điểm riêng của quyền lực trong đảng, có thể khái quát khái niệm quyền lực trong đảng như sau: quyền lực trong đảng là sức mạnh của các chủ thể và hệ thống các cơ chế được thực hiện trong đảng nhằm bảo đảm việc thực thi quyền lực của đảng đúng mục đích và hiệu quả. * Quyền lực trong Đảng Cộng sản Việt Nam Quyền lực trong Đảng Cộng sản Việt Nam là quyền lực của tổ chức chính trị, tổ chức của những người tự nguyện, đại diện cho lợi ích của giai cấp công nhân, nhân dân và của cả dân tộc Việt Nam. Quyền lực trong Đảng bắt nguồn từ quyền lực của những đảng viên trong Đảng. Biểu hiện quyền lực của đảng viên là quyền lựa chọn hay phế truất quyền lực của những người nắm giữ quyền lực trong các tổ chức đảng. Quyền này được đảng viên thực hiện trong các kỳ Đại hội của Đảng. Đại hội là cơ quan quyền lực cao nhất trong hệ thống tổ chức quyền lực của Đảng và được chia thành các cấp khác nhau bao gồm: Đại hội Chi bộ, Đảng bộ cơ sở, Đảng bộ cấp huyện, Đảng bộ cấp tỉnh, Đại hội đại biểu toàn quốc. Khi Đại hội được tiến hành, đảng viên có quyền bầu ra Ban Chấp hành các cấp (gọi tắt là cấp ủy). Đại hội đảng các cấp được tổ chức 5 năm/lần. Đại hội đại biểu toàn quốc do Ban Chấp hành Trung ương triệu tập thường lệ 5 năm một lần; có thể triệu tập sớm hoặc muộn hơn, nhưng không quá 1 năm. Khi Ban Chấp hành Trung ương thấy cần hoặc khi có hơn một 38 nửa số cấp ủy trực thuộc yêu cầu thì Ban Chấp hành Trung ương triệu tập Đại hội đại biểu bất thường. Giữa 2 kỳ Đại hội, Ban Chấp hành là cơ quan quyền lực cao nhất trong các tổ chức Đảng thực hiện quyền lực thay Đại hội. Như vậy, quyền lực trong Đảng thực chất được biểu hiện ở quyền lực của Ban Chấp hành các cấp. 2.1.1.3. Khái niệm kiểm soát quyền lực Thuật ngữ “kiểm soát” là khái niệm có nội hàm khá rộng. Theo Từ điển Tiếng Việt, “kiểm soát” được hiểu theo hai nghĩa: thứ nhất: “Xem xét để phát hiện, ngăn chặn những gì trái với quy định”; thứ hai: “đặt trong phạm vi quyền hành của mình” [83, tr.547]. Luận bàn về “kiểm soát” đã được thực hiện bởi các nhà nghiên cứu từ rất sớm trong lịch sử tư tưởng chính trị. Với hàm nghĩa kiểm soát là sự “tự kiểm soát”, John Loke cho rằng: “Trạng thái tự do, đây không phải là một trạng thái lộn xộn. Dù trong trạng thái này người ta có cái quyền tự do không có sự kiểm soát, để sắp đặt con người hay tài sản của mình, nhưng vẫn không được tự do hủy diệt bản thân và ngay cả đối với bất kỳ sinh vật nào mà mình sở hữu” [52, tr.35]. Từ giác độ kiểm soát là sự tác động của chủ thể này với chủ thể khác, hành động mà Montesquieu gọi là “ngăn cản” được ông diễn giải: “chức năng ngăn cản là quyền làm cho quyết định của người khác trở thành vô hiệu” [76, tr.113]. Ở cách diễn đạt khác, kiểm soát có nghĩa tương tự như “xem xét hay giám sát”. Montesquieu viết: “Nếu cơ quan hành pháp không có quyền ngăn cản cơ quan lập pháp thì cơ quan lập pháp sẽ trở thành chuyên chế”, và: “Nếu cơ quan lập pháp không có quyền ngăn cản cơ quan hành pháp thì nó phải có chức năng xem xét (hay có thể hiểu là giám sát) các đạo luật đã ban hành được thực hiện như thế nào” [76, tr.115]. Ngày nay, nghiên cứu về khái niệm kiểm soát, hầu hết các công trình chủ yếu đề cập đến vấn đề kiểm soát quyền lực của nhà nước với các vấn đề chủ yếu là: giới hạn quyền lực nhà nước để bảo vệ quyền con người, quyền công dân; thực hiện phân quyền để kiềm chế, đối trọng lẫn nhau giữa các nhánh quyền lập pháp, hành pháp và tư pháp; thiết lập cơ chế, cân bằng trong 39 các thành tố: nhà nước pháp quyền, kinh tế thị trường và xã hội dân sự. Ở Việt Nam, các công trình nghiên cứu về kiểm soát quyền lực cũng tập trung vào kiểm soát quyền lực nhà nước với các nội dung như: kiểm soát quyền lực lập pháp, kiểm soát quyền lực hành pháp, kiểm soát quyền lực tư pháp, kiểm soát quyền lực trong hệ thống chính trị, đảng thực hiện sự kiểm soát đối với nhà nước Các công trình nghiên cứu trên cơ bản đều thống nhất cách hiểu về kiểm soát quyền lực là khả năng phát hiện, ngăn ngừa và hạn chế các hành vi của các chủ thể mà việc sử dụng quyền lực của các chủ thể đó vượt ra ngoài khuôn khổ phạm vi quyền lực của họ được trao quyền hoặc thừa nhận. Trên cơ sở kế thừa nhận thức chung về kiểm soát quyền lực, có thể khái quát khái niệm kiểm soát quyền lực như sau: kiểm soát quyền lực là khả năng phát hiện, ngăn chặn những hành vi vượt quá giới hạn được ủy quyền của các chủ thể nắm quyền lực, buộc các chủ thể này phải thực hiện đúng mục đích mà chủ thể trao quyền đặt ra bằng các công cụ, thể chế hay cơ chế nhất định. 2.1.1.4. Khái niệm kiểm soát quyền lực trong đảng Kiểm soát quyền lực trong đảng là hoạt động được thực hiện trong nội bộ cơ cấu tổ chức đảng. Đây là quá trình được thực hiện bởi chủ thể trao quyền là đảng viên, tổ chức đảng kiểm soát quyền lực của những đảng viên được trao quyền và các tổ chức đảng. Việc kiểm soát quyền lực trong đảng cần xác định rõ các nội dung sau: Thứ nhất, nếu kiểm soát quyền lực trong đảng chỉ được hiểu là khả năng phát hiện và ngăn chặn thì câu hỏi đặt ra là: có phải kiểm soát quyền lực trong đảng chỉ mang tính chất nhắc nhở, khuyên can đối với những sai phạm của những tổ chức, cá nhân vi phạm giới hạn quyền lực? Thứ hai, nếu chủ thể kiểm soát không đủ sức mạnh liệu có thể kiểm soát được quyền lực của những người được trao quyền? Ở giác độ này, có thể thấy, nếu chủ thể kiểm soát không đủ mạnh việc kiểm soát sẽ trở thành vô hiệu. Thứ ba, chủ thể kiểm soát nếu có sức mạnh vượt trên sức mạnh của chủ thể được trao quyền thì việc kiểm soát quyền lực có hiệu quả? Ở giác độ này 40 cho thấy, khi chủ thể kiểm soát quyền lực có sức mạnh vượt quá sức mạnh của chủ thể được trao quyền sẽ dẫn đến tình trạng lạm quyền của chủ thể kiểm soát và chủ thể nắm quyền lực sẽ không thực hiện được quyền hạn của họ. Đây chính là vấn đề nan giải của “sự ủy quyền”. Điều này đặt ra yêu cầu, hiểu khái niệm kiểm soát quyền lực trong đảng phải đặt nội hàm trọng tâm vào bản chất quyền lực. Có thể đưa ra khái niệm về kiểm soát quyền lực trong đảng từ cách tiếp cận xuất phát trừ sự “ủy quyền” như sau: Kiểm soát quyền lực trong đảng là việc các tổ chức đảng, đảng viên của đảng sử dụng các công cụ, các quy định của thể chế hay cơ chế nhằm bắt buộc các tổ chức đảng, đảng viên được trao quyền phải thực hiện quyền lực được ủy nhiệm đúng với mục tiêu, tôn chỉ ban đầu của đảng. Với cách hiểu về kiểm soát quyền lực trong đảng như trên, có thể xác định rõ việc nghiên cứu vấn đề kiểm soát quyền lực trong đảng cần đặt trọng tâm vào các nội dung chính yếu sau: Một là, quyền lực trong đảng là quyền lực của đảng viên và các tổ chức đảng. Thông qua hành vi “trao quyền” quyền lực của đảng viên, tổ chức đảng trở thành quyền lực đại diện. Về mặt nguyên tắc của “sự ủy quyền” thì ai trao quyền người ấy có quyền kiểm soát người được trao quyền. Tuy nhiên, vấn đề quan trọng là chủ thể kiểm soát quyền lực trong đảng có thể kiểm soát quyền lực của mình khi đã trao quyền hay không. Trên thực tế, trao quyền rất dễ bị mất quyền, người được ủy quyền có xu hướng lạm dụng quyền lực và trở nên “xa lạ” với cái ban đầu đã sinh ra nó. Do đó, để nghiên cứu làm sáng tỏ được nội dung kiểm soát quyền lực cần làm rõ được vấn đề này. Hai là, khi thực hiện kiểm soát quyền lực các đảng viên, tổ chức đảng với tư cách là chủ thể quyền lực có đủ sức mạnh để thực hiện sự kiểm soát hay không? Khi chủ thể kiểm soát thực hiện quyền của mình mà sức mạnh không tương xứng với sức mạnh của người bị kiểm soát thì kiểm soát trở nên vô hiệu. Trong trường hợp người chịu sự kiểm soát vẫn được tự do hành động theo ý 41 chí cá nhân, sự tùy tiện vẫn thường xuyên xuất hiện thì sự kiểm soát chẳng có ý nghĩa nào. Nhưng, sức mạnh của chủ thể kiểm soát quyền lực mạnh hơn người bị kiểm soát thì điều này trở nên bất hợp lý, bởi quyền lực ủy nhiệm phải đủ mạnh, vượt qua sự kháng cự thì mới có thể thực hiện được mục tiêu chính trị. Vì vậy, nghiên cứu vần đề kiểm soát quyền lực trong đảng phải làm sáng tỏ được sức mạnh trong mối quan hệ giữa chủ thể và đối tượng. Ba là, việc kiểm soát quyền lực trong đảng có thật sự hiệu quả hay không được biểu hiện ở sự tuân thủ cái ban đầu sinh ra quyền lực. Có thể nhận thấy, việc kiểm soát quyền lực trong đảng hiệu quả hay không được biểu hiện qua sự điều chỉnh hành vi, quyết định của những người được trao quyền, khi ý chí cá nhân được hạn chế đến mức hợp lý, sức mạnh đại diện phù hợp với cái ban đầu thì kiểm soát quyền lực trong đảng đang được thực hiện tốt và ngược lại. 2.1.2. Mục đích và yêu cầu của kiểm soát quyền lực trong đảng 2.1.2.1. Mục đích của kiểm soát quyền lực trong đảng Kiểm soát quyền lực trong đảng là quá trình tự kiểm soát trong cơ cấu tổ chức đảng. Mục đích của kiểm soát quyền lực trong đảng được cụ thể hóa với các nội dung sau: Một là, kiểm soát quyền lực để thực hiện quyền lực đúng mục đích. Khi quyền lực của các tổ chức đảng, đảng viên được kiểm soát tốt, các cá nhân, tổ chức đảng thực hiện đúng giới hạn quyền lực và trách nhiệm của mình, các nhiệm vụ chính trị đề ra được thực hiện có hiệu quả, đáp ứng được yêu cầu của thực tiễn, góp phần thúc đẩy sự phát triển kinh tế - xã hội tốt hơn là làm cho quyền lực chính trị của đảng thực hiện có chất lượng hơn. Từ đó, xây dựng niềm tin vững chắc đối với nhân dân vào sự nghiệp lãnh đạo của đảng đối với đất nước, trước những khó khăn, thử thách của thời đại mới. Hai là, kiểm soát quyền lực trong đảng là để thực hiện quyền lực của đảng hiệu quả hơn. Thông qua những nội dung, phương thức kiểm soát quyền 42 lực buộc các chủ thể phải thực hiện đúng nhiệm vụ và quyền hạn của mình, không vượt quá giới hạn quyền lực cho phép, thực hiện đúng trách nhiệm được giao sẽ góp phần làm cho quá trình tổ chức và thực thi nhiệm vụ chính trị được thực hiện một cách đầy đủ. Đặc biệt, các chủ trương, đường lối của đảng được cụ thể hóa một cách có hiệu lực, hiệu quả, đi vào đời sống và phát triển đời sống hiện thực. Ba là, kiểm soát quyền lực trong đảng nhằm củng cố sức mạnh của đảng, làm cho đảng mạnh hơn. Kiểm soát quyền lực là phát hiện, ngăn chặn việc lạm dụng quyền lực, vượt quá phạm vi được trao quyền của những người được ủy quyền. Sự lạm dụng quyền lực sẽ dẫn đến bên trong nội bộ đảng thì chuyên quyền, mất đoàn kết, thiếu dân chủ, thui chột đi động lực của đảng viên; bên ngoài thì sự lãnh đạo của đảng kém hiệu quả, niềm tin của nhân dân, các giai tầng trong xã hội đối với đảng suy giảm. Bởi vì, sức mạnh của đảng phụ thuộc vào uy tín của đảng viên, nên khi uy tín đảng viên suy giảm thì uy tín của đảng cũng giảm. Do đó, kiểm soát tốt quyền lực trong đảng sẽ góp phần nâng cao hiệu quả lãnh đạo của đảng, củng cố niềm tin của các bộ phận nhân dân đối với đảng làm cho sức mạnh của đảng được củng cố hơn. 2.1.2.2. Yêu cầu của kiểm soát quyền lực trong Đảng Để kiểm soát quyền lực trong đảng được thực hiện tốt cần thực hiện các yêu cầu sau: Một là, phải phát huy được sức mạnh của chủ thể kiểm soát quyền lực trong đảng. Chủ thể kiểm soát quyền lực trong đảng là đảng viên, tổ chức đảng. Quyền lực lớn nhất của đảng viên được biểu hiện ở Đại hội Đảng. Ở đó, người đảng viên có quyền lựa chọn những cá nhân, tổ chức nắm giữ quyền lực trong đảng. Điều đó cho thấy quyền lực của đảng viên chỉ được phát huy tối đa khi họ có quyền lựa chọn những vị trí cao nhất trong tổ chức đảng, đó là lãnh tụ của đảng, bầu trực tiếp Ban Chấp hành và Ủy ban Kiểm tra. Ngoài ra quyền lực của đảng viên chỉ thật sự có hiệu lực khi đại hội trở thành nơi trực tiếp quyết 43 định các chủ trương, chính sách hay các vấn đề trọng đại của Đảng. Có như vậy, Ban Chấp hành mới thật sự chỉ là bộ phận chấp hành quyền lực của Đại hội. Cũng từ đây có thể thấy, nếu Đại hội chỉ được tiến hành với sự triệu tập của Ban Chấp hành Trung ương với thời gian theo nhiệm kỳ quá dài thì sức mạnh quyền lực của đảng viên sẽ dễ dàng bị vô hiệu. Bởi vì, khi Đại hội không được tổ chức, quyền lực của đảng viên sẽ không đước phát huy. Do đó, để đảm bảo quyền lực của đảng viên được phát huy, Đại hội phải được tổ chức trong một thời gian phù hợp, với khoảng cách giữa các kỳ Đại hội hợp lý. Hai là, kiểm soát quyền lực trong đảng phải bảo đảm các phương thức kiểm soát được áp dụng có khả năng ngăn chặn, xử lý được các hành vi lạm quyền của các chủ thể được trao quyền trong tổ chức đảng, đảng viên. Để thực hiện được điều này cơ chế kiểm soát quyền lực trong đảng phải bảo đảm việc các chủ thể nắm quyền lực phải chịu trách nhiệm giải trình trước tổ chức đảng về các hành vi, quyết định của mình. Xu hướng của những người nhận được sự ủy quyền có nhãn quan chính trị riêng và thường bị chi phối bởi nhãn quan ấy, vì thế các quyết định họ đưa ra rất dễ sai khác với các mục tiêu của đảng và do đó không thể không quy trách nhiệm đối với người nắm quyền lực trong đảng. Ba là, phải đảm bảo các vị trí quyền lực trong đảng có thể bị thay thế khi không thực hiện được mục tiêu mà đảng phân công. Phế truất, thay thế những vị trí quyền lực có xu hướng tha hóa, thiếu năng lực, thiếu phẩm chất là vấn đề hệ trọng trong tổ chức quyền lực trong đảng. Để tránh sự lạm quyền hay phế truất vị trí quyền lực trong đảng phải đảm bảo các phương tiện, công cụ hay thể chế đủ mạnh. Nguyên lý đơn giản để ... đề tế nhị. PVV: Điều gì khiến anh e ngại khi phát biểu trước hội nghị Đảng? TL: Ngại nhất là phải nhìn trước, ngó sau xem khi mình nói gì đó có đụng đến ai không. Đụng chạm là mệt nhất. PVV: Theo anh, giải trình thảo luận trong hội nghị Đảng có quan trọng không? TL: Có chứ em. PVV: Quan trọng như thế nào? TL: Để mọi người nắm được sự thật của vấn đề. Có nhiều chuyền chuyên môn khác tụi anh đâu nắm hết được. Họp hành suốt có được nghe thì mới biết được chứ. PVV: Khi nào thì cần giải trình? TL: Khi có chất vấn. PVV: Và sai phạm nữa chứ? TL: Không hẳn đã sai phạm. Có sai phạm thì phải giải trình là đúng rồi, nhưng có khi là giải đáp các câu hỏi thôi. PVV: Theo anh, giải trình trong hội nghị đảng có thực chất không? TL: Cơ bản thôi. PVV: Có nghĩa là vấn có sai? TL: Thật ra là không thể nói hết, chuyện này phức tạp lắm. Nói hết, nói đúng thì sai phạm sao phải điều tra. PVV: Như vậy, anh có cho rằng thảo luận trong hội nghị Đảng là dân chủ không? TL: Tương đối em. PVV: Điều gì theo anh là chưa dân chủ? 196 TL: Nói chung là nhiều thứ lắm, có cả sự né tránh, có cả sự ảnh hưởng nên không gì là tuyệt đối cả. PVV: Theo anh triển khai thực hiện các quyết định trong Đảng là triển khai những quyết định nào? TL: Nhiều lắm em ạ. Đủ thứ cả, nào là chỉ thị, nghị quyết, nào là chương trình, kết luận, nào là quyết định, quy định... nhiều lắm. PVV: Theo trình tự thì triển khai thực hiện các quyết định bắt đầu từ đâu vậy anh? TL: Khi có nghị quyết mới, Thường trực sẽ tham mưu Ban Thường vụ về kế hoạch triển khai, hoặc là Ban Chấp hành, sau khi Ban Thường vụ hay Ban Chấp hành cho ý kiến thì giao các ban xây dựng kế hoạch. PVV: Ai là người có quyền quyết định chỉ đạo việc xây dựng kế hoạch thực hiện các quyết định? TL: Thường vụ em. PVV: Xây dựng kế hoạch thực hiện quyết định (nghị quyết chẳng hạn) có quy trình không? TL: Quy trình thì thì cứ như thường lệ em ạ. Có những cái đâu có quy định bằng văn bản đâu. PVV: Kế hoạch là do ai xây dựng? TL: Kế hoạch thực hiện nghị quyết là do các ban xây dựng hết em ạ, Thường vụ chỉ cho ý kiến thôi, làm xong thì trình Thường vụ PVV: Ai là người phân công xây dựng kế hoạch? TL: Cấp ủy thì là thường trực phân công, các cơ quan phục trách thì thủ trưởng cơ quan phân công. PVV: Còn ở các công ty thì ai phân công? TL: Công tác đảng ở công ty do đảng ủy thực hiện em ạ. Thường vụ Đảng ủy sẽ phân công các đơn vị chức năng xây dựng kế hoạch. PVV: Các kế hoạch được thông qua bằng cách nào? TL: Kế hoạch phải được Thường vụ hay Ban Chấp hành thông qua; Hình thức để thông qua kế hoạch là họp, góp ý, biểu quyết. PVV: Ai là người ký quyết định? 197 TL: Kế hoạch do Bí thư hoặc do Phó Bí thư thường trực ký, mà gần như là chỉ Bí thư ký thôi. PVV: Theo anh thì việc thông qua kế hoạch thực hiện quyết định có ai lạm dụng quyền lực không? TL: Anh nghĩ là không em ạ. Cơ quan nào phụ trách lĩnh vực đó nên chuyện lạm dụng quyền lực để phân công trai chuyện môn, trái lĩnh vực là quá hiểm. PVV: Có phải các loại quyết định do Đảng ban hành đều được triển khai đến đảng viên không anh? TL: Chắc chắn là không em ạ. Triển khai đến toàn bộ đảng viên thì cơ bản là các nghị quyết, chỉ thị. Nói chung là có giới hạn nhất định thôi. Cụ thể là triển khai thực hiện nghị quyết, chỉ thị, là do cấp ủy cấp trên yêu cầu. Khi có yêu cầu đến đâu thì thực hiện đến đó. PVV: Việc tổ chức học tập, quán triệt quyết định do ai quyết định?, nhiệm vụ các cá nhân, cơ quan như thế nào? TL: Triển khai thực hiện là thực hiện chỉ đạo của cấp trên nên cấp ủy là người quyết đinh kế hoạch. Tiếp theo là triển khai thực hiện thì cơ quan nào được giao nhiệm vụ sẽ thực hiện nhiệm vụ của cơ quan đó. PVV: Theo anh, thì khi nào thực hiện kiểm tra, giám sát? TL: Kiểm tra, giám sát có kiểm tra, giám sát định kỳ có giám sát bất thường. Kiểm tra bất thường được thực hiện khi có dấu hiệu vi phạm, khi có đơn thư khiếu nại thì thực hiện. PVV: Theo anh ai là người quyết định nội dung kiểm tra, giám sát? TL: Thường vụ kết hợp với ủy ban kiểm tra sẽ xem xét nội dung kiểm tra, giám sát. PVV: Trên thực tế thì ai là người được cử đi kiểm tra, giám sát?, ai quyết định danh sách đoàn kiểm tra, giám sát? TL: Việc đưa ai vào danh sách đoàn kiểm tra quan trọng lắm em ạ. Người ta có thể đưa những người phù hợp với nội dung, đơn vị kiểm tra để giải quyết mối quan hệ. Còn chuyện quyết định danh sách thì phải thường vụ quyết. PVV: Trong quá trình kiểm tra, giám sát anh có cho rằng đoàn kiểm tra có quyết định quan trọng đến nội dung, kết quả kiểm tra, giám sát không? TL: Tất nhiên là có chứ em. Khi thực hiện nhiệm vụ đoàn kiểm tra có thể tùy cơ ứng biến cơ mà. 198 PVV: Khi nào thì một đảng viên bị kỷ luật? Ai có quyền quyết định hình thức kỷ luật?, ai thi hành? TL: Tất nhiên là khi vi phạm thì mới kỷ luật em a. Tùy vào mực độ vi phạm nữa. Quyết định kỷ luật đảng viên là quyết định tập thể. Còn thi hành thì giao cho ủy ban kiểm tra và các cơ quan chuyên trách. PVV: Theo anh, điều gì là quan trọng nhất trong quy trình ra quyết định (chủ trương, đường lối, nghị quyết) trong Đảng? Có cần kiểm soát quyền lực trong bước này không? TL: Theo anh thì đã gọi là đường lối thì cứ phải đúng cái đã. Mà muốn đúng thì phải phát huy được trí tuệ tập thể, không bị chi phối bởi ý chí cá nhân. PVV: Anh công tác ở địa phương nhiều năm rồi. Vậy, theo anh, các báo cáo có mức độ chính xác như thế nào? Có thể đúng bao nhiêu % so với thực tế? TL: cũng khó mà định lượng được. Nhưng khó chính xác lắm. Báo cáo ư?... (cười)... 60% là cao nhé, có khi ở nơi đó xảy ra 30 vụ trộm mà chỉ làm báo cáo 10 thôi, chứ không thì mất thi đua à. PVV: Theo anh điều gì chi phối chất lượng của các báo cáo? TL: Nhiều thứ chi phối lắm em ạ. Số liệu, mục tiêu, thi đua, chính trị... PVV: Anh có cho rằng, các nghiên cứu khoa học có ý nghĩa quan trọng đối với việc ra quyết định trong Đảng không? TL: Tất nhiên là khoa học rất quan trọng đối với việc ra quyết định chứ em. Xã hội hiện nay là xã hội của tri thức mà. Khoa học giúp con người phân tích chính sách, định lượng các mục tiêu. May mắn anh đã có lần được đi nghiên cứu ở Mĩ thấy trình độ khoa học của họ phát triển thật. Ngay cả hành vi chính trị mà họ còn có phân tích được, các hoạt động quản lý của nhà nước hầu như đều được quản lý bằng công nghệ. Anh thấy rằng, cần tăng cường ứng dụng khoa học công nghệ thật nhiều vào trong các hoạt động chính trị hơn nữa là phù hợp. PVV: Có nhiều quan điểm cho rằng, trong mối quan hệ giữa Đảng và Nhà nước ở nước ta, Đảng có xu hướng làm thay Nhà nước anh đánh giá như thế nào về nhận định trên? TL: Anh cho rằng họ nói đúng. Không ít thì nhiều. Chuyện này anh nghe than phiền nhiều rồi. Bao năm nay khó mà thay đổi. Nhưng dần nó đã trở thành thứ gần như là mặc định rồi em ạ. PVV: Tại sao lại như vậy? 199 TL: Vì có ai thay đổi được đâu. Do một phần thể chế đem lại mà. Muốn thay đổi được điều đó phải thay đổi từ thể chế. PVV: Nguyên nhân vì sao những người nắm quyền lại không muốn thay đổi? TL: Thực tế ai cũng muốn củng cố quyền của mình cả, do ham muốn quyền lực mà ra, người ta càng có quyền thì những cái đi kèm cũng từ đó gia tăng theo. Nên khó mà thay đổi được. Muốn thay đổi phải có quyết tâm chính trị lớn mới làm nổi. PVV: Anh nhận định như thế nào về câu “sếp là số một”? TL: Câu này đâu phải ngẫu nhiên nó xuất hiện, mà đó là sự tổng kết của lịch sử rồi. Làm chính trị ai chẳng thuộc lòng câu đó. Anh thấy rằng để thay đổi được nhận thức này còn lâu lắm. PVV: Anh có thể giúp em làm sáng tỏ hơn chuyện người lãnh đạo trong tổ chức đảng không muốn phân định quyền lực khi nắm quyền trong các cơ quan nhà nước. Có phải do lợi ích không? TL: Đúng vậy. Việc không xác định rõ quyền lực cầm quyền của người nắm quyền trong các tổ chức đảng lại có lợi cho họ nên tại sao họ phải nói ra cái bất lợi cho họ. PVV: Hành vi lạm dụng quyền lực của những người nắm giữ quyền lực tại tổ chức đảng là gì? TL: Có nhiều hình thức lắm. Trong sinh hoạt đảng, công tác cán bộ, chính sách đào tạo, bồi dưỡng, can thiệp công việc chuyên môn PVV: Theo anh kiểm soát quyền lực trong Đảng là kiểm soát đối tượng nào? TL: Chuyện này theo anh là khó lắm. Bởi vì, thể chế của mình như vậy cũng khó. Quyền lực của người đứng đầu cấp ủy lớn quá, gần như bao trùm nên khó kiểm soát được. Còn chuyện quyết định tập thể nữa, chỉ cần khác ý sếp là khó sống rồi, nên quyết định tập thể có khi không đủ mạnh để thực hiện việc chung. PVV: Cảm ơn anh đã hỗ trợ cho em giải đáp các thắc mắc trên! TL: Ok em. 200 HỌC VIỆN CHÍNH TRỊ QUỐC GIA HỒ CHÍ MINH VIỆN CHÍNH TRỊ HỌC * PHẦN B BIÊN BẢN PHỎNG VẤN SÂU 07 Đảng viên, cấp huyện ủy, Ban Tổ chức, 32 tuổi PVV: Chào em! TL: Dạ, em chào anh! PVV: Rất vui được gặp em. Cảm ơn em đã bớt chút thời gian để trò chuyện với anh chiều nay! TL: Dạ, không có gì đâu anh ạ. PVV: Em công tác ở cơ quan này được lâu chưa? TL: Em công tác ở đây được gần 9 năm anh ạ. PVV: Em hiện nay đang giữ chức vụ gì trong cơ quan không? TL: Dạ, không anh. Em là đảng viên thường thôi anh. PVV: Em cho anh hỏi, em tham dự sự kiện lớn trong Đảng là sự kiện nào? Em có tham gia tham luận ý kiến của mình trong sự kiện đó không? TL: Dạ dịp lớn nhất được tham dự của em là được tham gia đại hội Đảng anh ạ. Em cũng mới được tham dự một lần, chủ yếu là ngồi nghe chứ đâu có phát biểu gì đâu anh. PVV: Sao em lại không phát biểu? Em sợ gì vậy? TL: Dạ, sợ thì không, nhưng trong Đại hội toàn các cô, chú, anh chị có kinh nghiệm và hiểu biết cả, họ phát biểu chứ em phát biểu ai nghe anh. PVV: Là họ không nghe người cấp dưới sao? TL: Ý em không phải là họ coi thường tụi nhỏ như em đâu anh ạ, mà thực chất là ý kiến của tụi nhỏ như em thì cũng không phải là cái gì to tát. Trong các dịp quan trọng như vậy nên nhường lời cho những người có tiếng nói thôi anh ạ. PVV: Vậy, theo em Đại hội thảo luận có dân chủ không? TL: Em nghĩ là dân chủ anh. Mọi người đều có quyền ý kiến tham luận và trình bày ý kiến tham luận. PVV: Vậy, khi biểu quyết thông qua các quyết nghị em thấy có sự chỉ đạo không? TL: Dạ, không anh. Biểu quyết công khai bằng giơ thẻ Đảng mà. Em thấy như vậy là công khai, minh bạch mà. 201 PVV: Thế ngoài việc tham gia vào Đại hội Đảng, em còn tham gia vào các hoạt động gì của Đảng không? TL: Dạ họp chi bộ anh. PVV: Còn gì nữa không? TL: À, còn tham gia sinh hoạt 76 ở địa phương nữa PVV: Khi tham gia sinh hoạt Đảng em tham gia như thế nào? TL: Nghe báo cáo, có ý kiến thì phát biểu, không thì thôi anh ạ. PVV: Vậy còn học nghị quyết thì sao? TL: À, học nghị quyết thì khi nào được triệu tập thì đi thôi anh. Đảng viên như em không phụ trách mảng đó cứ gọi thì đi học, còn những người bên tuyên giáo thì nhiều việc hơn. PVV: Nhiều việc là việc gì em? TL: Thì sếp chỉ đạo tổ chức học tập, quán triệt đó anh. Giao nhiệm vụ gì thì thực hiện nhiệm vụ đó chứ sao anh. PVV: Công việc hằng ngày em đang làm là gì? TL: Dạ, em làm bên Ban Tổ chức anh ạ. Mảng của em là công tác cán bộ, chính sách cho cán bộ đảng viên. PVV: Theo em, quyền của đảng viên lớn không? TL: Dạ, có quyền gì đâu anh? Là đảng viên như bọn em là làm theo sự chỉ đạo chứ đâu có quyền chỉ đạo ai đâu. PVV: Tức là mọi công việc đều theo sự phân công sao? TL: Đúng rồi anh. Lớn nhất là Bí thư, Phó Bí thư thường trực PVV: Thế còn tổ chức đảng thì sao? Tổ chức nào có quyền lực lớn nhất? TL: Tất nhiên là Thường trực là lớn nhất anh ạ. Còn nếu quyết định trong Đảng bộ là Thường vụ rồi mới đến các ban. PVV: Vậy, trong quá trình thực hiện nhiệm vụ thì ai phân công em? TL: Như em thì là do sếp em. Có việc chung, lớn thì Thường vụ yêu cầu sếp điều động thì tụi em tham gia anh. PVV: Có nghĩa là phụ thuộc vào cấp trên? TL: Dạ, đúng. PVV: Em có thể tóm tắt quyền của em trong cơ quan không? TL: Dạ quyền của em là đảng viên thì làm việc theo sự phân công thôi anh ạ. Làm xong trình lên cấp trên, có sửa thì sửa lại cho đến khi xong việc có thế thôi. Tóm lại: Đảng viên thì làm việc theo sự phân công thôi anh ạ. Làm xong trình lên cấp trên, có sửa thì sửa lại cho đến khi xong việc. PVV: Cảm ơn em! TL: Dạ anh! 202 BIÊN BẢN PHỎNG VẤN SÂU 08 Đảng viên, Ban Tuyên giáo, 43 tuổi PVV: Chào anh! TL: Chào em! PVV: Anh cho em hỏi anh công tác ở cơ quan mình được bao lâu rồi? TL: Trước khi anh về đây công tác, anh đã từng nhập ngũ rồi đi làm chỗ này chỗ khác rồi mới về. Làm ở đây mới được khoảng 07 năm thôi em ạ. PVV: Dạ như vậy là cũng có kinh nghiệm nghề nghiệp lắm rồi đấy ạ. Em hỏi hơi tế nhị chút, anh hiện đang giữ chức vụ gì trong cơ quan ạ? TL: Hahaha chức nhiều lắm em ạ. Chức trong quy hoạch đó. 2,3, chỗ luôn chứ ít đâu. PVV: Dạ vậy anh cho em hỏi anh tham gia vào các dịp trọng đại trong đảng là các dịp nào ạ? TL: Nói về dịp trọng đại thì chỉ có chuyện đại hội thôi em ạ. PVV: Trong đại hội anh có tham gia phát biểu ý kiến về các dự thảo văn kiện, báo cáo, quyết nghị không ạ? TL: Đại hội chi bộ thì có ý kiến em ạ. Còn đại hội cấp trên thì không. PVV: Tại sao đại hội cấp trên anh không tham gia phát biểu ạ? TL: Phát biểu hay không cần phải cân nhắc chứ em. Cần biết mình là ai mà nói năng chứ. Mình tham dự đại hội cấp trên tuổi gì mà nói. PVV: Vậy anh tham gia xây dựng Đảng bằng hình thức nào ạ? TL: Cũng có nhiều cách em ạ. Đảng viên tham gia xây dựng Đảng trong các buổi sinh hoạt Đảng hoặc có ý kiến đóng góp dự thảo các văn kiện của tổ chức đảng, thực hiện quyền bầu cử, tự ứng cử, thực hiện tự phê bình và phê bình, kể cả thực hiện tốt nhiệm vụ được giao và tham gia các phong trào do tổ chức đảng phát động cũng là xây dựng Đảng. PVV: Như anh công tác trên thực tế, khi triển khai thực hiện các quyết định của cấp ủy, đảng viên có những quyền gì? TL: Thực hiện các quyết định cấp ủy thì đảng viên thực hiện được nhiệm vụ phân công thôi em ạ. PVV: Người lãnh đạo thực hiện sự lãnh đạo như thế nào ạ? TL: Lãnh đạo thì dễ mà, chỉ nói chứ có làm đâu. Một số lĩnh vực khó khăn, nhạy cảm thường né tránh trách nhiệm. Cách an toàn nhất họ làm là cho ý kiến 203 thôi, còn trách nhiệm là người làm chịu. Nói vui vậy chứ lãnh đạo cho ý kiến cấp dưới theo đó thực hiện thôi em. PVV: Ai là người phân công xây dựng thực hiện các quyết định ạ? TL: Phân công xây dựng thực hiện các kế hoạch của cấp ủy đương nhiên Thường vụ sẽ quyết định rồi em ạ. Thường vụ phân công cho các cơ quan chức năng phụ trách thực hiện các công việc chuyên môn. PVV: Vậy quyền của đảng viên trong xây dựng kế hoạch là gì? TL: Đảng viên thực hiện sự phân công em và thực phải hoàn thành nhiệm vụ được phân công. PVV: Trong tổ chức học tập, quán triệt nghị quyết đảng viên có quyền gì ạ? TL: Hihi chắc là quyền được học, được nghe. PVV: Khó khăn lớn nhất mà theo anh trong thực hiện sự chỉ đạo của cấp trên là gì? Có bao giờ cấp trên chỉ đạo sai không? TL: Khó khăn lớn nhất là có những việc không được chuẩn chỉnh lắm không muốn làm nhưng không làm không được em ạ. Nói thật, nhiều khi làm cũng căng không làm lại càng căng hơn. Mệt mỏi, làm chẳng được mấy đồng mà áp lực đủ kiểu. PVV: Anh đánh giá như thế nào về quyền lực của những người đứng đầu cấp ủy? TL: Quyền lực của người đứng đầu thì lớn rồi. “Sếp là số một mà”. PVV: Theo anh thì có cần kiểm soát quyền lực của người đứng đầu cấp ủy không ? nếu có thì thực hiện như thế nào ạ ? TL: Chuyện này khó lắm em ạ. Anh thấy rằng quyền lực của họ lớn quá, lĩnh vực nào họ cũng có khả năng quyết định nên thật sự là khó để kiểm soát được họ. Để hạn chế được quyền lực của những người này theo anh là phải làm sao để họ phải chịu trách nhiệm trước đối với sự lãnh đạo, chỉ đạo của họ kìa. Chú cư chung chung như vậy thì không thể hạn chế được đâu. PVV: Còn tổ chức đảng thì sao ạ ? vai trò của tổ chức đảng theo anh như thế nào ? TL: Tổ chức đảng quan trọng lắm em ạ. Quyết định gì đều là quyết định mang tính tập thể mà. Nên vai trò của cấp rất quan trọng. Nhưng nhìn sâu hơn thì cấp ủy cũng là do người đứng đầu chi phối nên ở nhiều nơi anh thấy cấp ủy thậm chí bị vô hiệu hóa hết. PVV: Có cần kiểm soát quyền lực của cấp ủy không ạ? TL: Anh không biết làm cách nào để kiểm soát quyền lực của tổ chức cả. Thực tế là phải vận động từng người chứ làm sao được. PVV: Dạ cảm ơn anh ạ. TL: Không có gì em! 204 BIÊN BẢN PHỎNG VẤN SÂU 09 Đảng viên, cấp tỉnh ủy, Ủy ban Kiểm tra, 41 tuổi PVV: Dạ chào chị ạ! TL: Chào em! PVV: Chị cho em hỏi hiện nay chị giữ chức vụ gì trong cơ quan ạ? TL: Em hỏi làm chị ngại ghê. Chị có chức vụ gì đâu em. Chi bộ chị nhiều người có tài năng hơn, kinh nghiệm hơn em ạ, nên đảng viên ưu tú là được rồi. Hihi PVV: Dạ chị. Là đảng viên cũng tốt mà chị. TL: Thì tốt mà em. PVV: Vậy chị cũng đã tham gia vào các sự kiện trọng đại của Đảng rồi chứ ạ? TL: Sự kiện trọng đại trong Đảng thì chị chỉ được tham gia đại hội chi bộ thôi em. Có gì đâu mà em dùng từ ghê thế? PVV: Ngoài ra còn sự kiện gì nữa không ạ TL: Không em ạ PVV: Vậy chị tham gia cây dựng Đảng bằng các hình thức nào ạ? TL: Hình thức xây dựng Đảng thì cũng nhiều em ạ. Có thể đóng góp dự thảo văn kiện, tham gia ý kiến tại các cuộc họp, sinh hoạt chi bộ, sinh hoạt đảng ở địa phương theo quy định 76, rồi các cuộc vận động nữa em. Nhiều mà. PVV: Dạ PVV: Khi tham dự đại hội Đảng, đảng viên có quyền gì ạ? TL: Quyền của đảng viên là quyền lớn nhất mà em. Đảng viên có quyền đưa ra quyết định quan trọng để thành lập nên hệ thống lãnh đạo của chi bộ, đảng bộ mà. Trong đại hội đảng viên có quyền đóng góp ý kiến và thảo luận các văn kiện quan trọng của cấp ủy. Nhưng theo chị cơ bản đảng viên tham gia xây dựng Đảng trong các buổi sinh hoạt Đảng hoặc có ý kiến đóng góp dự thảo thì đóng góp thôi em ạ. PVV: Trong khi triển khai thực hiện các quyết định của cấp ủy đảng viên có những quyền gì vậy chị? TL: À triển khai thực hiện thì quyền của đảng viên là thực hiện đúng sự phân công em ạ. Ai được phân công cái gì thì làm cái đó và chịu trách nhiệm về việc của mình làm chứ có gì nữa đâu em. PVV: Trong quá trình lãnh đạo, chỉ đạo chị thấy cách thức thực hiện của người lãnh đạo cấp uy được thực hiện như thế nào ạ? 205 TL: Như em nói đó, lãnh đạo, chỉ đạo thì ban hành ra quyết định, khẩu dụ để cấp dưới nắm thông tin và thực hiện thôi em ạ. PVV: Có sự chỉ đạo bằng văn bản chứ ạ. TL: Tất nhiên là có chứ. Nhưng khi đã chỉ đạo bằng văn bản thì là chỉ đạo mang tính chất tập thể rồi chứ đâu phải chỉ đạo cá nhân nữa. PVV: Họ có lạm dụng quyền lực cá nhân không ạ ? TL: Câu hỏi khó thế. Đó là chuyện tế nhị em ạ PVV: Nhưng chắc là có sự ảnh hưởng lớn đến các quyết định của tổ chức đảng và các đảng viên khác chứ ạ? TL: Đường nhiên là sẽ có thôi em ạ. Sếp nào phong trào đó mà, nói chi đến các chuyện khác nữa. PVV: Sự thực hiện quyền lực của người đứng đầu có chịu trách nhiệm trước sự lãnh đạo của họ không ạ? TL: Tất nhiên là có rồi em em ạ. Lãnh đạo mà không chịu trách nhiệm làm sao được. Tuy nhiên, vì là người có tầm ảnh hưởng lớn nên có nhiều cách để họ thực hiện quyền mà em. PVV: Trong quá trình phân công xây dựng kế hoạch thực hiện các quyết định ai là người phân công? Quyền của đảng viên trong xây dựng kế hoạch là gì? TL: Chỉ cần tóm gọn trong một câu thôi em ạ. Đó là “Phân công là do Ban Thường vụ em ạ, đảng viên thực hiện”. PVV: Khi triển khai học tập, quán triệt nghị quyết là đảng viên có những quyền gì vậy chị? TL: Triển khai nghị quyết là việc rất quan trọng trong sinh hoạt đảng đối với đảng viên mà, nên đảng viên có quyền được đi nghe, học tập. Nói vậy chứ, đảng viên được phân công thì thực hiện nhiệm vụ được phân công, còn đảng viên phải chấp hành việc học tập, quán triệt Nghị quyết do cấp ủy triệu tập. PVV: Trong quá trình thực hiện nhiệm vụ theo chỉ đạo của cấp trên, chị thấy điều gì là khó khăn nhất ạ? TL: Mình là lĩnh sếp bảo sao thì làm vậy chứ dám là gì khác đâu em. Nhưng sợ nhất vẫn là sếp chỉ đạo làm không đúng. Cái đó mới chết chứ. Chứ cứ đường đường chính chính mà làm thì đơn giản rồi. PVV: Chị đánh giá như thế nào về quyền lực của sếp ạ? TL: Sếp là số một, sếp không là số một coi lại điều thứ nhất hihi PVV: Dạ cảm ơn chị về buổi nói chuyện này ạ. Kính chúc chị luôn mọi điều tốt đẹp và luôn thuận lợi trong công việc ạ! TL: Cảm ơn em nhiều nhé! PVV: Dạ em chào chị ạ! TL: Chào em! 206 BIÊN BẢN PHỎNG VẤN SÂU 10 Đảng viên, Phòng Tư pháp tỉnh, 45 tuổi PVV: Trước hết xin cảm ơn anh vì đã dành cho em một chút thời gian trò chuyện sáng nay ạ! TL: Không có gì đâu em! PVV: Dạ anh công tác ở đây lâu chưa ạ? TL: Cũng được mười mấy năm rồi em ạ. PVV: Vậy trước đây anh đã từng làm việc ở đâu nữa không ạ? TL: Trước anh làm ở viện kiểm sát em ạ. Anh làm được cũng mấy năm rồi anh xin chuyển về đây cho gần nhà. PVV: Vậy trong quá trình công tác anh đã từng giữ chức vụ gì chưa ạ? TL: Anh chưa có duyên làm lãnh đạo em ơi. Đến giờ vẫn chưa có chút quyền vắt vai nào cả hahaha. PVV: Nhưng anh cũng đã từng tham gia các sự kiện do tổ chức đảng tổ chức chứ ạ? TL: Tất nhiên là có chứ em. PVV: Đó là các sự kiện gì ạ? TL: Đại hội nè, rồi các buổi họp, cuộc thi, cuộc vận động. PVV: Khi tham dự đại hội anh có tham gia ý kiến phát biểu không ạ? TL: Đại hội chi bộ thì có em ạ. Đại hội đại biểu thì không. PVV: Tại sao tại đội đại biểu anh không phát biểu ạ? TL: Đại hội đại biểu khác chứ em. Đó là nơi tập trung nhiều nhân vật quan trọng mà, mình tham gia để lắng nghe là chủ yếu chứ ý kiến làm gì. PVV: Vậy anh tham gia xây dựng Đảng bằng cách nào ạ? 207 TL: Là đảng viên tham gia xây dựng Đảng đâu thiếu gì cách em. Làm tốt nhiêm vụ chính trị được giao đã là một cách, học tập, quán triệt nghị quyết rồi tham gia xây dựng chi bộ vũng mạnh cũng là xây dựng Đảng chứ còn gì. PVV: Trong sinh hoạt Đảng đảng viên có quyền gì ạ? TL: Trong sinh hoạt Đảng nói chung đảng viên có nhiều quyền như: bầu cử, tự ứng cử, đề cử, phát biểu ý kiến, tự phê bình và phê bình PVV: Dạ khi mà cấp ủy ban hành ra các quyết định phải thực hiện, các đơn vị sẽ chịu sự phân công thực hiện. Vậy, trong quá trình thực hiện sự phân công đó thì đảng viên có những quyền gì ạ? TL: Đã là nhận sự phân công thì phải thực hiện thôi chứ gì nữa em. Khi được phận công nhiệm vụ của đảng viên hay không phải là đảng viên đều phải hoàn thành nhiệm vụ được giao. Còn nói về quyền là quyền được phép thực hiện sự phân công, trong trường hợp có sự phối hợp thì mình có quyền chủ động phối hợp với tổ chức cá nhân có liên quan. Nói chung là làm sao cho việc được giao hoàn thành. PVV: Như vậy là người lãnh đạo cấp ủy có quyền quyết định chỉ đạo thực hiện phải không ạ? TL: Người lãnh đạo quyết định là đúng nhưng với hai tư cách là quyết định cá nhân và quyết định mang tính tập thể. PVV: Khi nào họ quyết định tập thể ạ? TL: Đó là khi họ là người đại diện cho cấp ủy quyết định. Chẳng hạn ban thường vụ quyết rồi thì họ là người ký quyết định. PVV: Khi nào thì họ quyết định cá nhân ạ? TL: Cái này thì phong phú lắm. Gọi là “ý sếp” mà. Gần như lúc nào cũng có. Chế độ thủ trưởng thì cái gì chẳng phải xin phép. PVV : Vậy đảng viên có quyền gì à ? TL : Đảng viên có quyền thực hiện công việc theo đúng sự phân công đó em. PVV : Theo anh quyền của đảng viên trong học tập, quán triệt nghị quyết gồm những quyền gì? TL: Anh nghĩ đảng viên có quyền được biết để làm cho đúng đó là quyền trong học tập, quán triệt nghị quyết. 208 PVV: Còn quyền trong triển khai nghị quyết thì sao ạ? TL: Trong triển khai nghị quyết đảng viên đâu có quyền. Đó là quyền của cấp ủy mà em. Việc triển khai thực hiện như thế nào là do thường vụ quyết định chứ đảng viên sao có quyền. PVV: Trong quá trình công tác, khó khăn lớn nhất của anh là gì ạ? TL: Khó khăn lớn nhất trong thực hiện công việc của anh là làm thế nào để vừa làm đúng công việc lại vừa làm đúng ý kiến chỉ đạo của lãnh đạo. Thực tế nhiều khi rất phức tạp em ạ. Anh lấy ví dụ ở cơ quan anh chuyện xử lý vi phạm sai trong xây dựng nông thôn mới, lúc đầu sếp anh kêu làm nghiêm, sau đó lãnh đạo cao nhất có cuộc điện thoại thế là phải xoay chuyển tình thế liền. Nhiều chuyện không nói nên lời em ạ. PVV: Anh đánh giá như thế nào về quyền lực của những người đứng đầu cấp ủy? TL: “Em có nghe câu: thủ trưởng rút lui cuộc vui bất đầu không? ai chẳng sợ sếp hả em?”. PVV: Như vậy là quyền lực của người đứng đầu cấp ủy rất lớn. Theo anh làm thế nào để hạn chế được sự lạm quyền của họ ạ? TL: Anh thấy chuyện này là quá khó. Họ có quá nhiều quyền nên làm sao mà không lạm quyền được. Để hạn chế sự lạm quyền anh nghĩ phải làm sao bắt họ chịu trách nhiệm về sự lãnh đạo, chỉ đạo kìa. Rồi phải có gì đó đối trọng chứ thật ra đâu có gì đối trọng đâu, khi họ nói chẳng có ai dám ý kiến cả thì thôi chứ. PVV: Dạ em cảm ơn anh về buổi nói chuyện này ạ. TL: OK em. 209 BIÊN BẢN PHỎNG VẤN SÂU 11 Đảng viên, Phòng Tài chính huyện, 44 tuổi PVV: Chào anh ạ! TL: Chào em! PVV: Anh cho em hỏi anh hiện đang công tác ở cơ quan nào ạ? TL: Anh hiện đang công tác tại phòng tài chính em ạ. PVV: Anh công tác được bao lâu rồi ạ? TL: Anh công tác được hơn 10 năm rồi em. PVV: Hiện giờ anh đang giữ chức vụ gì trong cơ quan ạ? TL: Do bằng cấp và các chuyện khác nên giờ anh cũng chỉ là nhân viên em ạ. Là người đảng viên chân chính thôi hihi. PVV: Dạ anh là đảng viên vậy anh đã từng tham gia các sự kiện quan trọng nào trong Đảng chưa ạ? TL: Sự kiện lớn trong Đảng thì có ngày thành lập Đảng, đại hội chi bộ thôi em ạ, cồn lại là sinh hoạt Đảng và tham gia các phong trào do chi bộ phát động hay đảng ủy phat động. PVV: Khi tham gia đại hội chi bộ anh có tham gia phát biểu ý kiến không ạ? TL: Có chứ em. Phát biểu mạnh là đằng khác hahaha. Nói chứ chi bộ có mấy người, cũng phải có ý kiến về các dự thảo báo cáo, báo cáo kiểm điểm để hoàn thiện các văn kiện của chi bộ chứ. Làm không ra gì, cấp trên xuống dự phức tạp lắm đâu có đùa được. PVV: Ngoài tham gia đóng góp ý kiến tại đại hội chi bộ anh còn tham gia xây dựng Đảng dưới hình thức nào nữa không ạ? TL: Thì như anh nói nãy đó. Tham gia vào các buổi sinh hoạt chi bộ, đóng góp dự thảo các văn kiện của cấp ủy nếu có, các phong trào, các cuộc vận động kể cả là hoàn thành nhiệm vụ được phân công. PVV: Theo Anh đảng viên có các quyền gì trong tổ chức và sinh hoạt đảng? 210 TL: Quyền lực đảng viên có quyền bầu cử, ứng cử rồi quyền tham gia ý kiến, quyền tham gia xây dựng chính quyền, đoàn thể PVV: Trong quá trình triển khai thực hiện các quyết định của cấp ủy đảng viên có những quyền gì? TL: Thực hiện hả ừ thì thực hiện là đảng viên thực hiện chứ ai nữa em. Cấp ủy phân công thực hiện, đảng viên được giao nhiệm vụ thực hiện thì thực hiện còn không được giao thì không phải làm. PVV: Theo anh trong quá trình thực hiện các quyết định của cấp ủy người lãnh đạo thực hiện sự lãnh đạo, chỉ đạo như thế nào? TL: Người lãnh đạo thực hiện sự chỉ đạo bằng công văn, thông qua sự chỉ đạo đối với người đứng đầu đơn vị, người đúng đầu đơn vị được giao nhiệm vụ thực hiện sự phân công đối với cấp dưới. PVV: Người đứng đầu cấp ủy có chịu trách nhiệm về sự lãnh đạo của mình không ạ? TL: Có chứ e. Lãnh đạo phải chịu trách nhiệm về sự lãnh đạo của mình chứ. PVV: Họ có lạm quyền trong việc thực hiện sự lãnh đạo không ạ? TL: Cái đó làm sao tránh khỏi được em. PVV: Sự lạm quyền được biểu hiện như thế nào ạ? TL: Có nhiều cách lắm em ạ. Người ta có thể thực hiện bằng cách cho ý kiến không chính thức. Khi cho ý kiến như vậy lại tránh được chuyện chịu trách nhiệm, mà người chịu trách nhiệm là người thực hiện. Kiểu như vậy đó PVV: Cách thức như vậy họ dùng khi nào ạ? TL: Nhiều chứ, nhưng cơ bản là các lĩnh vực nhạy cảm. Anh ví dụ như chuyện cho khai thác đá có ai dám ký không, nhưng chỉ đạo để cho tụi nó làm chút đi, hay là chú xem tạo điều kiện cho tịu nó một chút thì ở dưới ai dám chống. Nhưng khi xảy ra chuyện ai chịu trách nhiệm? Chắc chắn là cơ sở rồi, vì cơ sở quản lý mà cho nên cơ sở phải chịu trức tiếp thôi. PVV: Trong quá trình phân công xây dựng kế hoạch thực hiện các quyết định ai là người phân công? TL: Phân công thì như anh nói thường vụ phân công cho các cơ quan chuyên trách, các cơ quan chuyên trách phân công tiếp cho cá nhân. PVV: Đảng viên có quyền gì trong khâu này ạ? 211 TL: Quyền trong khâu này của đảng viên là quyền tham mưu, trình lãnh đạo và tham mưu cho lãnh đạo phương án giải quyết. Đôi khi quyền tham mưu cũng lớn lắm chứ. Đó là quyền lớn nhất còn lại là tuân thủ sự phân công em ạ. PVV: Trong khi triển khai học tập, quán triệt nghị quyết đảng viên có quyền gì ạ? TL: Quyền của đảng viên là quyền được học tập thôi. PVV: Khó khăn lớn nhất mà anh gặp phải trong thực hiện sự chỉ đạo của cấp trên là gì ạ? TL: Khó khăn thì nhiều em ạ. Những cái khó có thể kể ra là làm sao để đạt được chỉ tiêu nè, rồi làm sao cho trúng ý của lãnh đạo, làm sao cho đúng với thực tế công việc. Nói chung cũng như ngồi trên đống lửa vậy. Làm tài chính nhiều khi đau đầu kinh khủng, phải vẽ đủ thứ. PVV: Anh đánh giá như thế nào về quyền lực của những người đứng đầu cấp ủy? TL: Lớn lắm em ạ. Nói một cách ngắn gọn là “Không ai có thể đụng đến Bí thư cả. Bí thư mà còn là chủ tịch nữa thì xin lỗi như vua con vậy”. PVV: Theo anh để hạn chế sự lạm quyền của người đứng đầu cấp ủy thì phải làm gì ạ? TL: Anh cho rằng phải phát huy được sức mạnh tập thể của cấp ủy trong các quyết định, tránh lạm dụng quyền cá nhân, rồi phải làm sao để quy được trách nhiệm đối với việc chỉ đạo của họ, phát huy trách nhiệm giải trình và cuối cùng là tăng cường sự kiểm soát từ cấp trên đối với họ chứ không họ đâu sợ ai. PVV: Dạ cảm ơn anh ạ. TL: Không có gì em.

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • pdfluan_an_kiem_soat_quyen_luc_trong_dang_cong_san_viet_nam_hie.pdf
  • pdfTRANG THONG TIN VE LUAN AN TIEN SI_330fbc807c1a7ffbf0a13d8ac6d134f8.pdf
  • pdfTT _T.Viet_ Hoang Van Tu (nop ra QD cap HV).pdf
Tài liệu liên quan