Luận án Kịch bản tuồng đào tấn – một số vấn đề nội dung và nghệ thuật

1 MỞ ĐẦU 1. Lý do chọn đề tài 1.1. Tuồng là một loại hình nghệ thuật sân khấu cổ truyền của dân tộc Việt Nam. Sự tồn tại và lưu truyền hàng trăm vở tuồng cổ cho đến nay chứng tỏ loại hình sân khấu này có giá trị và được nhiều thế hệ khán giả yêu thích. Theo tác giả Lê Ngọc Cầu, trước đây “Sự nghiên cứu tuồng và chèo hầu như chỉ thu hẹp vào phạm vi sân khấu, mặt văn học ít được chú ý đến. Cách làm như vậy có khuynh hướng làm giảm bớt những giá trị thẩm mỹ của tuồng và chèo, ké

pdf246 trang | Chia sẻ: huong20 | Ngày: 13/01/2022 | Lượt xem: 647 | Lượt tải: 0download
Tóm tắt tài liệu Luận án Kịch bản tuồng đào tấn – một số vấn đề nội dung và nghệ thuật, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
éo nó xuống hàng một nghệ thuật diễn xuất đơn thuần trong đó vai trò của kỹ thuật biểu diễn xâm chiếm ưu thế hơn so với vai trò của nội dung thực sự văn học của tác phẩm” [19, tr.5]. Lâu nay, trong một số công trình nghiên cứu tuồng có đề cập đến phần kịch bản văn học, nhưng các nhà nghiên cứu lại thiên về các vấn đề đặc trưng ngôn ngữ, kết cấu kịch bản chưa có công trình nào nghiên cứu vấn đề nội dung và nghệ thuật hay tác giả tiêu biểu của thể loại này. Có những công trình nghiên cứu lại chỉ giới hạn kịch bản trong khuôn khổ một số yếu tố của nghệ thuật biểu diễn tuồng. Luận án tiếp cận nghiên cứu kịch bản tuồng ở bình diện văn học và đặt chúng trong dòng chảy của văn học trung đại giai đoạn nửa cuối thế kỉ XVIII đến hết thế kỉ XIX (giai đoạn phát triển rực rỡ nhất của tuồng). 1.2. Đào Tấn là một tài năng lớn, toàn diện, “một nhân tài nghệ thuật đặc biệt” (Xuân Diệu) trong lịch sử văn học nghệ thuật Việt Nam. Hơn nữa, Đào Tấn còn được coi là “Hậu tổ” của nghệ thuật tuồng. Ông đã để lại một di sản văn hóa phong phú, đồ sộ, có giá trị cao, có sức sống lâu bền với hơn 40 kịch bản do ông biên soạn và nhuận sắc. Có thể nói, ông là một trong những tác giả tiêu biểu nhất của thể loại tuồng. Cuộc đời và sự nghiệp Đào Tấn đã thu hút mạnh mẽ sự nghiên cứu của các nhà khoa học ngay từ những năm đầu thế kỉ XX. Tuy nhiên, dù có nhiều công trình nghiên cứu về ông - cả sưu tầm, dịch thuật và nghiên cứu nhưng những giá trị kịch bản tuồng của Đào Tấn vẫn chưa được tìm hiểu một cách thấu đáo và có hệ thống. Một phần nguyên nhân là do quy mô của các công trình còn giới hạn, chủ yếu là các bài báo, tham luận, cảm nhận trong các hội thảo với những vấn đề khá tản mát, ngẫu hứng và được tham chiếu dưới nhiều điểm nhìn khác nhau. Vì vậy, cần có một công trình khảo sát, nghiên cứu một cách hệ thống, để có thể đánh giá toàn diện các phương diện kịch bản của ông với tư cách là một thể loại văn học trong tiến trình văn học trung đại Việt Nam. Nghiên cứu kịch bản tuồng Đào Tấn giúp chúng ta có cái nhìn bao quát và chỉnh thể để thấy 2 rõ đặc điểm, chiều hướng vận động, phát triển tư tưởng nghệ thuật của ông qua các thời kì. Đó là cơ sở để khẳng định giá trị sự nghiệp, di sản mà “Hậu tổ tuồng” đã để lại. 1.3. Trong bài nghiên cứu Qua Đào Tấn, ông “Trạng nguyên văn tuồng”, tìm hiểu tuồng về mặt lịch sử văn học, Trần Đình Hượu nhận định “Văn chương tuồng không phải bắt đầu từ Đào Tấn nhưng từ Đào Tấn mới có ý nghĩa thực sự quan trọng. Từ thành công cơ bản của ông, chúng ta có thể nhìn được con đường phát triển về trước và con đường phát triển về sau. Về trước chúng ta phân biệt với tuồng cổ, tuồng pho và về sau chúng ta phân biệt với tuồng Nguyễn Hiển Dĩnh, tuồng đồ. Bằng cách đó, chúng ta hy vọng không những tìm ra lịch sử của văn chương tuồng mà cả sự đổi thay xu hướng của tuồng nữa” [83, tr.243]. Lời nhận định này là gợi mở quan trọng cho chúng tôi nghiên cứu vai trò “nút chuyển” của kịch bản tuồng Đào Tấn trong lịch sử thể loại tuồng cũng như văn học, văn hóa dân tộc. Nghiên cứu một số vấn đề nội dung và nghệ thuật kịch bản tuồng của ông trong tương quan với tuồng cổ, tuồng pho ở giai đoạn trước và tuồng Nguyễn Hiển Dĩnh, tuồng đồ ở giai đoạn sau là một công việc cần thiết giúp chúng ta đánh giá được xu thế vận động phát triển của kịch bản văn học tuồng và vị thế của tuồng Đào Tấn trong văn học Việt Nam trung - cận đại. 1.4. Là một thể loại của văn học trung đại, hơn thế còn là một thể loại văn học đặc thù, có sự gắn kết mật thiết với sân khấu truyền thống và văn hóa dân tộc song lâu nay tuồng vẫn là khoảng trống trong nội dung giảng dạy văn học ở các cấp và khá xa lạ với người học. Ngay cả trong các giáo trình chuyên ngành văn học, văn hóa, nội dung về tuồng được đề cập đến vẫn còn khá dè dặt. Với đề tài này, người viết hi vọng có thể bổ sung thêm một nguồn tư liệu tham khảo giúp cho việc giảng dạy, học tập văn học, văn hóa trong nhà trường được đa dạng và phong phú hơn. Mặt khác, với đề tài này, người viết mong muốn góp phần nhỏ bé vào công cuộc bảo tồn, phát triển nghệ thuật tuồng trở thành “quốc kịch” của Việt Nam và giới thiệu, quảng bá “quốc hồn, quốc túy” của người Việt cùng tên tuổi danh nhân Đào Tấn đến bạn bè quốc tế. 2. Mục đích, nhiệm vụ nghiên cứu 2.1. Mục đích nghiên cứu Luận án đi sâu vào nghiên cứu một số vấn đề về nội dung và nghệ thuật kịch bản tuồng Đào Tấn nhằm đánh giá vị trí, vai trò tuồng bản của ông trong văn học Việt Nam nửa cuối thế kỷ XVIII đến hết thế kỷ XIX. Luận án phần nào so sánh tuồng Đào Tấn với tuồng cổ, tuồng pho trước đó và tuồng Nguyễn Hiển Dĩnh, tuồng hài, tuồng Văn thân sau này để làm sáng rõ hơn quá trình vận động, phát triển của thể loại tuồng và phần nào xác lập tính thể loại của tuồng trong nền văn học dân tộc. 3 2.2. Nhiệm vụ nghiên cứu 2.2.1. Xác lập các luận điểm về một số vấn đề nội dung và nghệ thuật tuồng Đào Tấn trên cơ sở khảo sát 9 kịch bản tuồng hiện tồn của ông. 2.2.2. Tìm hiểu cơ sở tiền đề và những yếu tố ảnh hưởng đến sự phát triển đỉnh cao của thể loại tuồng trong nửa cuối thế kỷ XVIII đến hết thế kỷ XIX, trong đó có tuồng Đào Tấn. 2.2.3. Khái quát một số phương diện nội dung và nghệ thuật kịch bản tuồng Đào Tấn nhìn từ xu hướng vận động của thể loại kịch bản tuồng; trong mối quan hệ đối sánh với các tác giả Nguyễn Diêu, Bùi Hữu Nghĩa, Nguyễn Hiển Dĩnh và một số tác giả khác sau này; trong mối quan hệ với lịch sử nhà Nguyễn giai đoạn nửa cuối thế kỉ XIX; trong giai đoạn có sự chuyển giao mạnh mẽ về văn hóa, văn học. 2.2.4. Phân tích một số cách tân trong kịch bản tuồng Đào Tấn về tư tưởng, chủ đề, cảm hứng, loại hình nhân vật, kết cấu, ngôn ngữ để thấy được những đóng góp nghệ thuật của ông cho nền văn học, văn hóa nước nhà. 3. Đối tượng, phạm vi nghiên cứu 3.1. Đối tượng nghiên cứu Đối tượng nghiên cứu chủ yếu của đề tài là một số vấn đề nội dung và nghệ thuật kịch bản tuồng Đào Tấn, thông qua khảo sát, phân tích 9 kịch bản tuồng hiện tồn của ông gồm: - Các kịch bản tuồng do ông chỉnh lý, nhuận sắc: Sơn Hậu (chủ yếu sửa ở Hồi III), Khuê các anh hùng (chỉnh lý từ Hồi II của Tam nữ đồ vương), Đào Phi Phụng (sửa sơ qua, nhất là Hồi IV). - Các kịch bản tuồng do ông sáng tác: Tân Dã đồn, Diễn võ đình, Cổ Thành, Trầm Hương các, Hộ sinh đàn (viết chung với con trai là Đào Nhụy Thạch), Hoàng Phi Hổ quá Giới Bài quan (lấy từ Hồi II, tuồng Gián thập điều). Theo các nhà nghiên cứu, Đào Tấn sáng tác, chỉnh lý, nhuận sắc hơn 40 kịch bản. Trong luận án này, chúng tôi chọn 9 kịch bản nêu trên vì hầu hết các vở tuồng được ông sáng tác chủ yếu tập trung vào ba giai đoạn: - Khi còn trẻ: Đào Tấn viết Tân Dã đồn . - Khi làm quan dưới thời Tự Đức (1872 – 1878): Ông phụng sắc viết các pho tuồng liên hồi: Đãng khấu, Bình địch, Tam bảo thái giám thủ bửu, Tứ quốc lai vương, Quần trân hiến thụy, Vạn bửu trình tường. - Khi hai lần làm tổng đốc An Tĩnh: Lần thứ nhất (1889-1893): Ông chỉnh lí kịch bản tuồng Sơn Hậu, Khuê các anh hùng, Đào Phi Phụng và sáng tác Diễn võ đình; Lần thứ hai (1898 – 1902): Ông sáng tác Cổ Thành, Trầm Hương các, Hộ sinh đàn, Hoàng Phi Hổ quá Giới Bài quan. 4 Cho đến nay, hầu hết các vở tuồng Đào Tấn viết dưới thời Tự Đức không còn tồn tại một cách nguyên vẹn, đầy đủ. Các cơ quan lưu trữ thời Nguyễn, thân nhân, bạn bè đều không lưu giữ và không sưu tầm lại được nên không rõ diện mạo cụ thể các tuồng bản đó thế nào. Bản thân Đào Tấn cũng ít nhắc đến các tuồng bản phụng sắc viết. Một số hồi của các pho tuồng trên sau này được các nhà nghiên cứu sưu tầm nhưng cũng chỉ được diễn ở Duyệt Thị đường ít lần và về sau không thấy lưu truyền biểu diễn rộng rãi ra bên ngoài nữa. Ngược lại, các kịch bản tuồng do ông sáng tác và chỉnh lí còn tương đối đầy đủ, được lưu giữ trong gia đình Đào Tấn, trong các gánh tuồng, và có trong tay một số nhà sưu tầm. Như vậy, di sản tuồng ông để lại có 40 kịch mục nhưng thực tế chỉ còn 9 kịch bản tuồng tương đối đầy đủ như đã nêu ở trên. Vì thế, các nghiên cứu về tuồng Đào Tấn hiện nay hầu như chỉ có thể dựa vào 9 văn bản này. Hơn nữa, đây là 9 tác phẩm tiêu biểu nhất của ông, mà như Hoàng Chương nhận xét “Đó thật sự là sáng tạo riêng và đó là những vở tuồng làm nên tên tuổi nhà soạn tuồng kiệt xuất Đào Tấn” [33, tr.81]. 3.2. Phạm vi nghiên cứu 3.2.1. Phạm vi nội dung: Luận án giới thiệu, mô tả những nét khát quát về Đào Tấn và các kịch bản tuồng hiện tồn của ông thông qua việc khảo sát, phân tích, đánh giá 9 tuồng bản tiêu biểu. Luận án khái quát một số vấn đề về nội dung và nghệ thuật kịch bản tuồng Đào Tấn trên các phương diện: ý thức hệ chi phối tác phẩm, tư tưởng, chủ đề, cảm hứng, kết cấu, nhân vật, không gian, thời gian nghệ thuật, văn thể từ đó đánh giá vị trí, vai trò của kịch bản tuồng của ông đối với thể loại tuồng cũng như với văn học, văn hóa Việt Nam. 3.2.2. Phạm vi tư liệu: Hiện nay các kịch bản tuồng của Đào Tấn xuất hiện rải rác trong một số hợp tuyển. Tư liệu chính mà chúng tôi sử dụng trong Luận án là công trình Đào Tấn, tuồng hát bội, (Vũ Ngọc Liễn biên khảo, nhà xuất bản Sân khấu ấn hành năm 2005). Chúng tôi chọn công trình này vì: Tuồng là nghệ thuật sân khấu truyền thống có phương thức lưu truyền chủ yếu bằng diễn xướng và truyền miệng nên vấn đề dị bản là không tránh khỏi. Việc lựa chọn văn bản chính xác nhất để khảo sát các giá trị kịch bản tuồng Đào Tấn gặp rất nhiều khó khăn. Cho đến nay, công trình Đào Tấn, tuồng hát bội do Vũ Ngọc Liễn biên khảo là công trình tập hợp đầy đủ nhất các tác phẩm tuồng hiện tồn của ông. Tư liệu dùng để phiên âm, khảo dị, hiệu đính, chú thích được lấy từ các nguồn đáng tin cậy như các bản sưu tầm, chép tay của Quách Tấn, Đào Chi Tiên, Trúc Tiên, Mạc Như Tòng, Tống Phước Phổ, Phan Hiền, 5 Phạm Hoàng Chinh, Phạm Phú Tiết, Đỗ Văn Hỷ Đây là công trình khá phổ biến trong học giới, và đã được nhiều người lựa chọn làm văn bản cơ sở khi nghiên cứu Đào Tấn. Vì vậy, để thống nhất trong việc trích dẫn ngữ liệu khi phân tích, chúng tôi chỉ dùng văn bản trong công trình do Vũ Ngọc Liễn biên khảo. Để phục vụ cho việc so sánh, chúng tôi sử dụng thêm tư liệu thơ và từ của Đào Tấn, một số kịch bản tuồng của Nguyễn Diêu, Bùi Hữu Nghĩa, Nguyễn Hiển Dĩnh, một số kịch bản chèo, kịch bản kịch nói hiện đại khác. 4. Phương pháp nghiên cứu Để thực hiện đề tài này, chúng tôi sử dụng một số phương pháp sau: 4.1. Phương pháp nghiên cứu theo thể loại Kịch bản tuồng được tiếp cận một cách hệ thống dưới góc nhìn thể loại với những tiêu chí riêng về nội dung và nghệ thuật. Cũng như các thể loại khác, kịch bản tuồng được xác định với những nguyên tắc tổ chức nghệ thuật đặc thù (thi pháp tác giả, thi pháp nội dung tư tưởng, thi pháp kết cấu, thi pháp ngôn ngữ, thi pháp nhân vật, thi pháp không gian, thời gian), nhưng nó không tĩnh tại mà biến đổi không ngừng theo sự vận động, phát triển của quan niệm văn học và xã hội mỗi giai đoạn lịch sử. Trong quá trình tồn tại, kịch bản tuồng không đứng đơn lẻ, biệt lập mà có sự giao thoa với các thể loại khác. Phương pháp nghiên cứu theo thể loại là chìa khóa quan trọng cho phép người nghiên cứu không chỉ nhận diện bản chất mà cả tính lịch sử của kịch bản tuồng, vị trí của tuồng bản Đào Tấn trong dòng chảy thể loại kịch hát dân tộc và văn học trung đại Việt Nam. 4.2. Nghiên cứu văn học từ góc độ thi pháp học Theo Từ điển thuật ngữ văn học: “Thi pháp học là khoa học nghiên cứu thi pháp, tức hệ thống các phương thức, phương tiện, thủ pháp biểu hiện đời sống bằng hình tượng nghệ thuật trong sáng tác văn học. Mục đích của thi pháp học là chia tách và hệ thống hóa các yếu tố của văn bản nghệ thuật tham gia vào sự tạo thành thế giới nghệ thuật, ấn tượng thẩm mỹ và chiều sâu phản ánh của sáng tác nghệ thuật” [60, tr.304]. Nói cách khác, hình thức nghệ thuật mang giá trị nội dung là đối tượng chiếm lĩnh chủ yếu của thi pháp học. Vì vậy, nghiên cứu kịch bản tuồng Đào Tấn ở bình diện văn học không thể tách rời lý thuyết thi pháp học. 4.3. Phương pháp tiếp cận liên ngành Bằng phương pháp tiếp cận liên ngành, chúng tôi vận dụng các thành tựu nghiên cứu của các bộ môn khoa học xã hội như: Văn bản học, Hán Nôm, Sử học, Văn hóa học, 6 Lý luận và phê bình sân khấu, Tâm lý học, Xã hội học nhằm nghiên cứu một số vấn đề nội dung và nghệ thuật kịch bản tuồng Đào Tấn ở nhiều phương diện khác nhau để đánh giá một cách toàn diện di sản tuồng quý báu mà ông để lại. Cùng với những phương pháp nghiên cứu trên, luận án còn sử dụng kết hợp các phương pháp và các thao tác nghiên cứu khoa học khác như so sánh, thống kê, phân loại, phân tích, tổng hợp, miêu tả, đánh giá, cấu trúc, hệ thống 5. Đóng góp của luận án - Thứ nhất, luận án khảo sát và phân tích 9 tuồng bản hiện tồn trên nhiều phương diện khác nhau để chỉ ra một số vấn đề nội dung và nghệ thuật tiêu biểu của kịch bản tuồng Đào Tấn. - Thứ hai, luận án góp phần khẳng định tài năng và những đóng góp của Đào Tấn trên phương diện văn học, giúp cho việc nghiên cứu sự nghiệp, di sản “Hậu tổ tuồng” một cách toàn diện và có hệ thống hơn. Mặt khác, đặt Đào Tấn trong tiến trình phát triển của thể loại tuồng, luận án góp phần xác lập vị trí, vai trò của ông đối với thể loại văn học này cũng như đối với nền văn hóa, văn học Việt Nam. - Thứ ba, luận án chỉ ra xu hướng “chuyển dịch”, “thử nghiệm” và “tự đổi mới” trong các sáng tác tuồng của Đào Tấn. Đây là một trong những phát hiện mới làm phong phú thêm cho đặc điểm thi pháp nghệ thuật tuồng của tác giả này. Có thể nói, ở một chừng mực nhất định, thông qua việc khảo sát kịch bản tuồng Đào Tấn, luận án chỉ ra được một số điểm đáng chú ý về dấu hiệu tan rã của ý thức hệ Nho giáo; sự khẳng định dần của cái tôi cá nhân; sự xuất hiện của thời gian đồng hiện, không gian phi vật lý trong các tác phẩm của ông. Những dấu hiệu đó khiến chúng ta hình dung đến sự chuyển mình và tiệm cận dần của văn học trung đại sang văn học cận – hiện đại. 6. Cấu trúc của luận án Ngoài phần mở đầu, phần kết luận, danh mục các công trình nghiên cứu của tác giả có liên quan đến đề tài luận án, thư mục tài liệu tham khảo và phụ lục, nội dung chính của luận án được triển khai thành bốn chương: Chương 1: Tổng quan vấn đề nghiên cứu Chương 2. Tiền đề cơ bản của kịch bản tuồng Đào Tấn Chương 3. Nội dung cơ bản kịch bản tuồng Đào Tấn Chương 4. Một số phương diện nghệ thuật kịch bản tuồng Đào Tấn 7 NỘI DUNG Chương 1: TỔNG QUAN VẤN ĐỀ NGHIÊN CỨU Chương này giới thuyết các khái niệm liên quan trực tiếp đến cách tiếp cận vấn đề của luận án. Chúng tôi điểm lại một cách khái quát các công trình nghiên cứu văn học, nghệ thuật liên quan đến Đào Tấn đặc biệt là hướng nghiên cứu tuồng ở phương diện kịch bản văn học. Ở đây, chúng tôi cũng đưa ra các tiền đề lý thuyết làm cơ sở cho việc triển khai nghiên cứu của đề tài. 1.1. Khái quát chung về tuồng 1.1.1.Tuồng trong văn học sử Việt Nam Nếu văn học sân khấu mặc nhiên được thừa nhận là một bộ phận cơ hữu của văn học sử các quốc gia trên thế giới cũng như trong văn học cận – hiện đại Việt Nam (văn học viết bằng chữ Quốc ngữ) thì việc thừa nhận hay không thừa nhận vai trò của tuồng trong văn học trung đại Việt Nam vẫn còn là một vấn đề chưa được thống nhất. Có thể thấy rõ điều này qua việc điểm xét các bộ văn học sử, các giáo trình lịch sử văn học. Những học giả không đề cập đến kịch bản tuồng trong văn học có thể kể đến Nguyễn Đổng Chi (Việt Nam cổ văn học sử, 1942) [23], Ngô Tất Tố (Việt Nam văn học, 1942) [259] và sau này Lê Văn Siêu (Văn học sử Việt Nam, 2006) [192] cũng chỉ nhắc đến hát nói chứ không đề cập đến tuồng. Đặc biệt, Phạm Thế Ngũ (Việt Nam văn học sử giản ước tân biên, quyển II – Văn học lịch triều: Việt văn, 1996), khi bàn về các thể loại văn Nôm, ông đã coi hát nói như bước tiến cuối cùng của thể cách văn Nôm [154, tr.45]. Một số tác giả đã thừa nhận sự tồn tại của tuồng trong văn chương Việt Nam nhưng lại không cho nó một vị trí đáng kể nào khi phân tích tiến trình văn học hay tuyển chọn các tác phẩm tiêu biểu để giới thiệu. Có thể kể đến Phạm Văn Diêu (Văn học Việt Nam, 1960) [38], Nguyễn Văn Sâm (Văn học Nam Hà, 1971) [189] Trong những giáo trình này có đôi chỗ nhắc đến tuồng và các tác phẩm Sơn Hậu, An trào kiếm, Tam nữ đồ vương nhưng không đi sâu vào vấn đề văn chương tuồng và tác gia tuồng tiêu biểu như những thể loại khác. Nhóm các nhà nghiên cứu quan tâm đến sự tồn tại của tuồng trong lịch sử văn học đầu tiên phải kể đến Dương Quảng Hàm (Việt Nam văn học sử yếu, 1943) [59]. Ở đây, kịch bản văn học (chủ yếu là kịch bản tuồng) lần đầu tiên được đề cập đến với tư cách một trong năm yếu tố cấu thành nên văn học Việt Nam (triết học, lịch sử, thi văn, kịch bản và tiểu thuyết). Ngoài ra, ông còn giới thiệu một số đoạn trích minh họa cho phần lý thuyết được rút ra từ các vở Sơn Hậu, Giang Tả cầu hôn, Tân diễn, Đệ bát tài tử hoa 8 tiên ký, Tống Địch Thanh, Nguyễn chúa phù Lê hoàng, Tượng kỳ khí xa và đề cập đến Bùi Hữu Nghĩa, Hoàng Cao Khải với tư cách là tác gia văn học tuồng. Tuy nhiên, bức tranh đầy đủ về quá trình hình thành và phát triển cùng các kịch bản tuồng tiêu biểu qua từng thời kỳ chưa được làm rõ. Hai tác gia được nhắc tới khó có thể được coi là đại diện nổi bật nhất cho tuồng Việt Nam. Văn chương tuồng cũng mới dừng lại ở những nhận xét chung chung chứ chưa có khảo cứu và đánh giá xác đáng. Sau này, vị trí của kịch bản tuồng trong văn chương Việt Nam ngày càng được cải thiện hơn bằng nhiều hình thức khác nhau. Trong sách Sơ khảo lịch sử văn học Việt Nam (Viện văn học, Văn Tân chủ biên, 1960) đã có mục viết về văn chương tuồng hát với nhận định “Hát tuồng là một nghệ thuật sân khấu có tác dụng giáo dục lớn. Các vua nhà Nguyễn rất có ý thức cho việc tuyên truyền cho chế độ mà họ đã dựng ra, tất nhiên, họ phải nắm lấy nghệ thuật hát tuồng để tuyên truyền cho họ. Nhờ vậy mà thể văn hát tuồng phát triển”[201, tr.9]. Đặc biệt, trong giáo trình Văn học Việt Nam (nửa cuối thế kỷ XVIII đến hết thế kỷ XIX, 2004) do Nguyễn Lộc chủ biên đã xếp tuồng hát bội như một thể loại văn học của giai đoạn này và khái quá nguồn gốc quá trình phát triển, nội dung những vở tuồng hát bội tiêu biểu [130]. Tiếp đó, Tổng tập văn học Việt Nam (1993) [172] đã dành riêng 2 quyển số 14A và 14B cho văn chương tuồng hát để giới thiệu một số văn bản tuồng tiêu biểu và sau này được Hoàng Châu Ký gộp lại trong tập 15 – Tuồng cổ [94]. Trong Kịch bản tuồng dân gian, Xuân Yến cũng tuyển chọn và giới thiệu 19 văn bản tuồng dân gian tiêu biểu [285]... Tuồng hát bội cũng được đưa vào chương trình trung học phổ thông qua giới thiệu đoạn trích Sơn Hậu ở phần đọc thêm sách Ngữ văn lớp 11, bộ nâng cao. Sau này, Phạm Đức Duật trong chuyên khảo “Văn học tuồng nước ta từ hình thành đến hết thế kỉ XIX” in trong Văn học Việt Nam thế kỷ X-XIX những vấn đề lý luận và lịch sử (Trần Ngọc Vương chủ biên, 2007) [274] cũng có những dụng ý muốn đặt văn chương tuồng vào đời sống văn học dân tộc. Tuy nhiên, sau đó, chưa thấy thêm công trình nào đề cập đến việc xác định vị trí, vai trò của tuồng trong văn học sử Việt Nam. Khi đưa ra nguyên nhân cho vấn đề này, có ý kiến cho rằng sở dĩ tuồng chưa được đặt đúng vị trí, vai trò trong văn học sử Việt Nam do thiếu vắng thông tin về văn bản Nôm, ít văn bản được dịch ra chữ quốc ngữ. Một số ý kiến khác lại khẳng định nguyên nhân chính khiến tuồng chưa được thừa nhận là một bộ phận của văn học Việt Nam là do tuồng chưa được nghiên cứu nhiều, đặc biệt là trên bình diện thể loại và tác gia tiêu biểu. Trong bối cảnh này, chúng tôi mong muốn từ việc nghiên cứu khai thác một số vấn đề nội dung và nghệ thuật kịch bản tuồng Đào Tấn có thể góp phần nào đó vào việc xác lập vị trí của thể loại kịch bản tuồng trong văn chương cổ điển Việt Nam. 9 1.1.2. Khái niệm “kịch bản tuồng” Trong lĩnh vực sân khấu, yếu tố trước tiên phải kể đến là kịch bản. Đối với thể loại kịch hát dân tộc như tuồng, ở giai đoạn đầu đều dựa vào các “tích” để diễn “trò”, chính vì vậy mới có câu “có tích mới dịch ra trò” hoặc “tích nào, trò đó”. Đến các giai đoạn sau, kịch bản tuồng tồn tại dưới dạng tuồng cương, một dạng cốt truyện sơ lược mà căn cứ vào đó người diễn viên có thể vừa sáng tác vừa biểu diễn. Do vậy kịch bản tuồng lúc này chưa được cố định mà tùy ý được thay đổi theo cảm hứng của người diễn. Hầu hết các tuồng cương đều khuyết danh và được lưu truyền như những tác phẩm văn học dân gian. Thế kỷ XVI - XVII, với chính sách phát triển văn hóa của chúa Nguyễn ở Đàng Trong và vai trò của Đào Duy Từ (1572 – 1634), tuồng bắt đầu được định hình và cố định thành văn bản, tuy nhiên do quá trình lưu truyền, biểu diễn, tuồng giai đoạn này tồn tại nhiều dị bản khác nhau và chủ yếu vẫn là tuồng khuyết danh. Từ nửa cuối thế kỉ XVIII trở đi kịch bản tuồng mới được hoàn thiện và phát triển đạt đến đỉnh cao với nhiều tác phẩm kinh điển như Ngũ Hổ bình Liêu, Hồ Nguyệt Cô hóa cáo, Hộ sinh đàn, Vạn bửu trình tường, Quần trân hiến thụy... và sự xuất hiện của các nhà soạn tuồng chuyên nghiệp như Nguyễn Diêu, Bùi Hữu Nghĩa, Lê Văn Duyệt, Diên Khánh Vương, Nguyễn Hiển Dĩnh,... đặc biệt là Đào Tấn. Khái niệm kịch bản tuồng đã được nhắc đến trong các nghiên cứu của Phạm Phú Tiết, Hoàng Châu Ký, Hà Văn Cầu, Lê Ngọc Cầu, Nguyễn Lộc, Hoàng Chương dưới các tên gọi: tuồng bản, tuồng cương, kịch bản tuồng, kịch bản bi hùng... nhưng chưa có tác giả nào đưa ra nội hàm cụ thể cho khái niệm này. Khi nghiên cứu Những vấn đề thẩm mỹ, đạo lý xã hội trong tuồng cổ, Xuân Yến nhấn mạnh ý nghĩa văn học của kịch bản tuồng và khẳng định nó là một thể loại văn học của thời kỳ trung đại:“Kịch bản tuồng trước khi được các nghệ sĩ trình diễn trên sân khấu nó đã có một văn bản tương đối hoàn chỉnh” [284, tr.9]. Thông qua ngôn từ, người đọc cảm thụ được nội dung cốt truyện, chủ đề tư tưởng và những cảm xúc thẩm mỹ do các hình tượng nghệ thuật đem lại. Trong khi phản ánh hiện thực đời sống, các tác giả tuồng chịu sự chi phối của một hệ tư tưởng cũng như lý tưởng thẩm mỹ của một thời đại nhất định. Với phương thức phản ánh hiện thực riêng, kịch bản tuồng có một cấu trúc văn bản tương đối chặt chẽ. Nhiều thể loại văn học được sử dụng làm phương tiện phản ánh trong kịch bản tuồng. Kịch bản tuồng là một tác phẩm văn học thực sự, nó tồn tại như một thể loại văn học của thời kỳ trung đại. Kịch bản tuồng chẳng những chứa đựng những giá trị thẩm mỹ chung của một tác phẩm văn học mà nó còn có những giá trị riêng của loại hình văn học sân khấu. Trong Khảo luận về tuồng “Quần phương tập khánh”, Nguyễn Tô Lan đưa ra khái niệm phân định khá rạch ròi kịch bản văn học và kịch bản biểu diễn của tuồng: 10 “Kịch bản văn học được dùng để chỉ loại kịch bản được sáng tác hoặc nhuận sắc theo chiều hướng văn học hóa, chủ yếu phục vụ cho việc thưởng thức văn học, vì vậy lời văn thường chú ý chau chuốt về mặt văn học mà không quá câu nệ vào việc lời kịch bản, (nhất là thanh điệu) có phù hợp với điệu hát trong thực tế hay không. Kịch bản văn học thường có dung lượng lớn, khó có thể đáp ứng nhu cầu thực tế của việc biểu diễn. Kịch bản biểu diễn được dùng chỉ loại kịch bản phục vụ trực tiếp cho biểu diễn. Loại này chia làm hai loại chính, loại vốn dĩ là kịch bản để diễn và loại cải biên từ kịch bản văn học...” [106, tr.26] Có thể thấy, theo cách hiểu của Nguyễn Tô Lan, kịch bản văn học và kịch bản biểu diễn có mối quan hệ mật thiết nhưng cũng có sự độc lập tương đối với nhau. Kịch bản văn học hướng tới chức năng đọc, thưởng thức hơn là diễn xướng. Ngược lại, kịch bản biểu diễn dù được cải biên từ kịch bản văn học nhưng lại lược bớt các yếu tố rườm rà để phù hợp với các điệu hát, điệu múa tuồng. Cho dù hiểu theo cách nào thì cũng phải khẳng định rằng, trước khi tồn tại trên sân khấu, kịch bản tuồng phải tồn tại bằng hình thức ngôn từ (dạng viết hoặc dạng nói). Trong quá trình gia công kịch bản với mục đích khác nhau (để đọc hay để biểu diễn) mà tồn tại những loại kịch bản khác nhau. Trong luận án này, chúng tôi nghiên cứu kịch bản tuồng Đào Tấn theo hướng tiếp cận nghiên cứu văn bản với mục đích để thưởng thức vẻ đẹp ngôn từ của tác phẩm văn học trong mối liên hệ với nghệ thuật biểu diễn. Vì vậy, có thể hiểu “kịch bản tuồng là thành phần ngôn ngữ được cố định trong văn bản là cơ sở để tổ chức diễn xướng tuồng”. Không giống với kịch bản sân khấu bị chi phối bởi các yếu tố ngoài ngôn ngữ như điệu hát, điệu múa, biểu cảm, hành động, bối cảnh, trang phục..., kịch bản tuồng được xem như một tác phẩm văn học, một sản phẩm của nghệ thuật ngôn từ và chịu tác động bởi các yếu tố ngôn ngữ và văn học như tư tưởng, chủ đề, hình tượng, kết cấu, văn thể, không gian – thời gian nghệ thuật... 1.1.3. Phân loại kịch bản tuồng Việc phân loại tuồng cho đến nay vẫn còn là vấn đề nan giải. Riêng về tên gọi các loại tuồng hiện nay có hơn ba mươi tên gọi: tuồng cổ, tuồng thầy, tuồng pho, tuồng cung đình, tuồng kinh, tuồng ngự, tuồng truyền thống, tuồng liên hồi, tuồng Văn thân, tuồng tiểu thuyết, tuồng lịch sử, tuồng cải lương, tuồng dân gian, tuồng đồ, tuồng hài, tuồng cận đại, tuồng hiện đại, tuồng cải biên, tuồng cách mạng Và ở mỗi vùng miền lại có tên gọi khác nhau cho các loại tuồng như ở miền Bắc nhân dân gọi tuồng hiện đại là tuồng áo ngắn, ở miền Nam gọi là tuồng mới Theo cách gọi lâu nay của ngành tuồng, thì một vở tuồng có thể thuộc nhiều loại khác nhau, như Sơn Hậu có thể xếp vào tuồng cổ, tuồng pho, tuồng truyền thống, tuồng kinh (vì đã được diễn nhiều lần ở Huế), tuồng ngự (vì thường diễn cho vua chúa xem), tuồng thầy (vì tác phẩm thường đem dạy cho các diễn viên mới vào nghề), tuồng liên hồi (vì vở có bốn hồi) 11 Sở dĩ có tình trạng trên vì việc phân loại tuồng không có một hệ thống các tiêu chí nhất định và thống nhất. Việc này gây khó khăn trong nghiên cứu và tìm hiểu loại hình nghệ thuật truyền thống này. Lê Ngọc Cầu cũng thừa nhận hiện tượng nói trên:“Phải nói dứt khoát rằng cách phân loại các vở tuồng của người xưa rất tùy tiện và không dựa trên một khái niệm rành mạch về từng loại”[19]. Tuy nhiên trong cuốn Tuồng hài [20], ông vẫn chưa đưa ra được một cách phân loại khoa học. Lê Ngọc Cầu chia các vở tuồng trước năm 1945 thành hai loại: tuồng cổ điển (tuồng thầy) và tuồng dân gian. Cách phân loại như vậy chưa thực sự hợp lý vì có nhiều vở ra đời trước năm 1945 nhưng không phải tuồng cổ điển như Kim Thạch kỳ duyên của Bùi Hữu Nghĩa, Tượng kỳ thí xa của Hoàng Cao Khải, Trưng Vương của Phan Bội Châu những vở nói trên không phải tuồng cổ cũng chẳng phải tuồng thầy. Việc gộp các vở tuồng theo thời gian để phân loại sẽ rất khó khăn trong việc nghiên cứu các đặc trưng của từng loại tuồng vì mỗi giai đoạn lịch sử tuồng có sứ mệnh và nội dung phản ánh khác nhau. Phủ nhận quan điểm “Kịch bản tuồng cổ mang tính cổ điển chủ nghĩa, tuồng tân thời mang tính lãng mạn chủ nghĩa”, Hoàng Châu Ký dựa vào thời gian xuất hiện, tác giả sáng tác và nội dung phản ánh để phân loại tuồng như sau: tuồng cổ, tuồng cung đình, tuồng dân gian, tuồng đồ, tuồng Văn thân, tuồng tân thời, tuồng cận đại, tuồng hiện đại, tuồng lịch sử [92; tr.6-8]. Sự phân loại này cũng chưa hợp lý vì không đưa ra một bộ tiêu chí phân loại bao quát được tất cả các tác phẩm tuồng. Theo Xuân Yến, “Nếu dựa vào tính chất thì chỉ nên chia làm hai loại tuồng: Thứ nhất là tuồng bác học, từ bác học được dùng theo nghĩa phân biệt với bình dân. Tuồng bác học có thể được gọi là tuồng thành văn, đó là những vở được cố định tương đối trong các văn bản và tác giả của chúng chắc chắn thuộc tầng lớp trí thức. Thứ hai là tuồng dân gian gồm những vở được sáng tác tập thể, lưu truyền miệng” [284; tr.29-31]. Tiêu biểu cho tuồng bác học là các vở Sơn Hậu, Đào Phi Phụng (khuyết danh), Trầm Hương các (Đào Tấn), Võ Hùng vương (Nguyễn Hiển Dĩnh), Trảm Trịnh Ân (Phạm Xuân Thận) ở thời kỳ trung đại. Nguyễn Trãi (Từ Diễn Đông), Trưng vương (Phan Bội Châu), Kim Thạch kỳ duyên (Bùi Hữu Nghĩa) ở thời cận đại. Trần Hưng Đạo (Kính Dân), Đề Thám (Bửu Tiến), Chu Văn An (Xuân Yến), Chị Ngộ (Nguyễn Lai) ở thời hiện đại. Tuồng dân gian có thể kể đến các vở như Nghêu – Sò - Ốc – Hến, Trương Ngáo, Hồn Trương Ba da hàng thịt Như vậy, việc phân loại tuồng cho đến nay vẫn còn nhiều quan điểm khác nhau. Coi tuồng của Đào Tấn là những tác phẩm tiêu biểu cho thể loại kịch bản tuồng trong thời kỳ trung đại, chúng tôi sử dụng cách phân loại tuồng theo tính chất của Xuân Yến, xếp các văn bản tuồng của Đào Tấn vào loại tuồng bác học với hai đề tài chủ yếu là quân quốc và thế sự, chịu sự chi phối của ý thức hệ Nho giáo và các phạm trù thẩm mỹ của văn học trung đại. 12 1.2. Lịch sử vấn đề nghiên cứu Được suy tôn là danh nhân văn hóa của dân tộc, cuộc đời và sự nghiệp của Đào Tấn được nghiên cứu trên nhiều bình diện khác nhau. Ở đây, chúng tôi khái quát những nét cơ bản lịch sử nghiên cứu về “Hậu tổ tuồng” trên các phương diện như: tình hình nghiên cứu chung về tác giả, con người, cuộc đời, thơ, từ, tuồng, lý luận sân khấu... để có thể xem xét một cách tổng thể bức tranh nghiên cứu về Đào Tấn cho đến nay. Chúng tôi đặc biệt đi sâu vào khai thác lịch sử nghiên cứu kịch bản tuồng Đào Tấn ở phương diện nội dung và nghệ thuật làm cơ sở triển khai những luận điểm trong phần nội dung của luận án. 1.2.1. Khái quát tình hình nghiên cứu chung về Đào Tấn Trước kháng chiến chống Pháp, Đào Tấn được nhắc đến trong một số bài viết về nghệ thuật Hát bội của Đoàn Nồng [165], Huỳnh Lý [99, tr.131-140] với sự ghi nhận ban đầu ông là “nhà soạn tuồng tiêu biểu nhất” và “nhà soạn tuồng xuất sắc hàng đầu ở thế kỷ XIX”, song những đánh giá đó còn chủ quan và chưa có những cứ liệu thật thuyết phục. Năm 1960, Quách Tấn giới thiệ...trong tác phẩm. Mặc dù chưa có tác giả nào khái quát nên hệ thống tư tưởng trong tuồng Đào Tấn mà chỉ đi vào nội dung trong các tác phẩm riêng biệt nhưng các nghiên cứu của các học giả đi trước cho chúng tôi nhiều gợi mở và phát hiện mới về quá trình biến đổi nhận thức, tư tưởng của ông qua các thời kỳ. Về hình tượng nhân vật: Hầu hết các nhà nghiên cứu đều thống nhất nhận định, cũng như tuồng cổ, tuồng Đào Tấn là “sân khấu của những người anh hùng”. Hình tượng người anh hùng là hình tượng chủ đạo xuyên suốt các tác phẩm của ông. Nguyễn Thế Khoa nhận định tuồng Đào Tấn là “Khúc tráng ca của những người anh hùng nước mất nhà tan” [32, tr.356]; những người anh hùng với lòng “yêu nước, chuộng nghĩa là động lực để hành động” [32, tr.357]; với họ “chiến công lớn nhất là thắng nỗi cô đơn bền lòng vững chí” [32, tr.360] và hình ảnh đẹp nhất là những người “anh hùng chân đất” [32, tr.362]. Bài viết Đào Tấn, người nghệ sĩ tuồng lớn của nghệ thuật tuồng (Tạp chí Sân khấu số 1/1978) khái quát: “Những tác phẩm của Đào Tấn đã để lại trong lòng quần chúng những điển hình nhân vật không phai mờ. Những điển hình về con người khẳng khái, bất khuất, không chịu đầu hàng trước những điều bất công, bất nghĩa; điển hình về người anh hùng biết đau, biết giận, biết hành động bất chấp gian nan. Tác phẩm của ông mang tính thời sự rõ rệt, tuy nói chuyện xưa nhưng chính là nói đến thời đại của ông”[115, tr.122]. Tiếp cận ở một góc độ khác, Phan Trọng Thưởng cho rằng: gắn với sự chuyển biến về tư tưởng xuất hiện kiểu nhân vật “ra đi” trong tuồng Đào Tấn [252]. Đây cũng là một biểu hiện khác của hình tượng người anh hùng. Nhìn chung, vì quá tập trung cho hình tượng người anh hùng nên những hình tượng khác thể hiện quan niệm mới của Đào Tấn về con người như hình tượng người phụ nữ, hình tượng người dân... chưa được các học giả nghiên cứu một cách sâu sắc. Về giá trị hiện thực và nhân đạo: Các nhà nghiên cứu đều khẳng định giá trị hiện thực và nhân đạo sâu sắc trong các kịch bản tuồng của Đào Tấn. Trong bài viết Dấu ấn thời đại trong tuồng Đào Tấn, Văn Sử khẳng định tuồng Đào Tấn là bức tranh hiện thực giai đoạn cuối thế kỉ XIX. Cụ thể hơn, Mịch Quang phân tích “Đáng chú ý nhất trong tư tưởng của Đào Tấn với thời cuộc là dụng tâm chống thuyết “quyền biến giả, đầu hàng thật của bọn nhà Nho, quan lại phản quốc đương thời mà đại biểu là Tôn Thọ Tường ở trong Nam, Nguyễn Thân ở miền Trung và Hoàng Cao Khải ở 23 ngoài Bắc” [99, tr.38]. Tiếp cận ở một khía cạnh khác, Hồ Sĩ Vịnh cho rằng “Nhà soạn tuồng đã vẽ lên bức tranh ảm đạm, u ám, phơi bày những hiện tượng sa đọa của những hôn quân, bạo chúa, những yêu nữ dâm dật, những tên quan lại bán nước cầu vinh trong cái cung cấm đời nhà Thương mà ai xem cũng hiểu được ngụ ý thời nhà Nguyễn mục nát” [32, tr.138]. Coi mỗi tác phẩm là một mảnh ghép của bức tranh hiện thực xã hội đương thời, Nguyễn Thế Khoa khái quát nội dung của từng văn bản: “Tân Dã đồn – chữ hiếu nặng hơn chữ trung” [32, tr.317], “Cổ Thành – Bản án về thuyết quyền biến và một Trương Phi Việt Nam” [32, tr.319], “Trầm Hương các – Yêu ma nhập triều và quyết tâm trừ diệt quỷ ma” [32, tr.325], “Hoàng Phi Hổ quá Giới Bài quan – Lời khai tử một chữ Trung” [32, tr.334], “Diễn võ đình – Một câu hỏi lớn và một cái kết lửng” [32, tr.341], “Hộ sinh đàn – Kiệt tác muôn đời” [32, tr.345]. Ông nhận định: “Nếu thơ và từ được coi như nhật ký tâm hồn của Đào Tấn, ông dành riêng nó cho mình và bằng hữu. Thì ông đã dành tuồng hát, phần sáng tạo vĩ đại nhất, nơi hội tụ tất cả tinh hoa, tình yêu, trí tuệ và tài năng của mình cho nhân dân còn lầm than, đất nước đang bị nô lệ” [32, tr.306]. Đi trực tiếp vào khai thác giá trị hiện thực và nhân đạo trong tuồng Đào Tấn, Bùi Hoàng Oánh kết luận: “Hầu hết các tác phẩm tuồng của Đào Tấn đều xuất phát từ các điểm nóng của cuộc đời” [32, tr.234]. Cái lớn của Đào Tấn chính là tình thương. Vì chính tình cảm da diết đó mà các vở tuồng của ông đều mang một sự day dứt sâu đậm đối với cuộc đời [32, tr.235]. Đánh giá tính hiện thực trong tuồng Đào Tấn qua đề tài tư tưởng, Tất Thắng cho rằng:“Giã từ đề tài quân quốc, Đào Tấn đã tiếp cận những đề tài đời thường. Giã từ cái thiêng liêng, Đào Tấn đến với cái phàm tục, đời thường. Và để diễn tả cái phàm tục, cái đời thường ấy, ông đã đến với bút pháp hiện thực... Chính ông là một nhân chứng cho xu thế văn học nghệ thuật cuối thế kỉ XIX đầu thế kỉ XX, xu thế tiếp cận chủ nghĩa hiện thực” [32, tr.174]. Tổng kết về tính hiện thực trong tuồng của Đào Tấn, Hoàng Chương khái quát: “Có thể nói, chưa bao giờ sân khấu Việt Nam phản ánh được bộ mặt xã hội thời đại mình sâu sắc và đa dạng như trong tuồng của Đào Tấn. Đó là một xã hội đầy mâu thuẫn giữa chính quyền và nhân dân, giữa người trung và bọn nịnh thần, bọn bán nước cầu vinh. Đào Tấn đã tóm thu vào tác phẩm của mình và sáng tạo nên những điển hình sâu sắc” [32, tr.23]. Do hạn chế của việc vận dụng cứng nhắc thế giới quan Mác xít vào nghiên cứu ở giai đoạn những năm trước đổi mới nên việc sử dụng yếu tố tâm linh như một phương tiện thể hiện giá trị nhân đạo trong tuồng Đào Tấn còn là vấn đề tranh luận của nhiều học giả. Huỳnh Lý phủ nhận sự xuất hiện của yếu tố tâm linh trong tuồng của Đào Tấn và khẳng định: “Như một nhà Nho chính thống, Đào Tấn tránh sự hoang đường, thần bí”[99, tr.137-138]. Một số khác thừa nhận sự tồn tại của yếu tố tâm linh nhưng cho đó là một hạn chế tư tưởng của Đào Tấn: “Thế giới quan của tác giả còn nhiều yếu tố mê tín. Đó là điều không thể khác được trong thời ấy. Tuy ở đây tác giả không nhằm mục đích tuyên truyền tôn giáo mê tín, mà rõ ràng với cái thế 24 giới quan hạn chế ấy của ông, tác giả đã dùng những yếu tố thần phật để một mặt bày tỏ tấm lòng ưu ái của ông với những con người xấu số, bạc phận...” [99, tr.59]. Với cách tiếp cận từ góc nhìn văn hóa và nhân văn, chúng tôi không cho rằng đây là sự mê tín hay hạn chế tư tưởng của ông. Chúng tôi sẽ luận giải rõ hơn về vấn đề này trong Chương 3 và Chương 4 của luận án. Có thể thấy, giá trị hiện thực và nhân đạo trong tuồng Đào Tấn đã được các nhà nghiên cứu đề cập đến trong các bài viết của mình. Tuy nhiên, giá trị hiện thực thường được các tác giả quy đồng với hiện thực lịch sử Việt Nam giai đoạn nửa cuối thế kỉ XIX; giá trị nhân đạo mới được khai thác những giá trị mang tính phổ quát chứ chưa tiếp cận sâu sắc ở góc độ nhân sinh. Yếu tố tâm linh, yếu tố kỳ ảo chưa được đánh giá một cách xác đáng. Kế thừa và phát triển thành tựu nghiên cứu của các học giả đi trước, luận án sẽ luận giải cụ thể hơn về những tồn tại trong nghiên cứu về giá trị hiện thực, nhân đạo của tuồng bản Đào Tấn. Như vậy, vấn đề nội dung kịch bản tuồng Đào Tấn đã được các học giả nghiên cứu bao quát ở nhiều lĩnh vực và phương diện khác nhau. Tuy nhiên, do tác động của các yếu tố khách quan và chủ quan, những luận điểm các học giả đưa ra cần có sự đánh giá và nhận thức lại. Việc nghiên cứu tuồng của ông còn đặt ra những yêu cầu tranh biện, bổ sung để đưa ra đánh giá toàn diện phương diện nội dung kịch bản tuồng. Vấn đề nghệ thuật: Các nhà nghiên cứu tập trung vào khẳng định giá trị văn học của tuồng bản Đào Tấn, những cách tân điển hình của ông đối với thi pháp tuồng. Bàn về đặc điểm nghệ thuật tuồng Đào Tấn, Mịch Quang nhận định: “Giá trị văn học của của các kịch bản tuồng Đào Tấn không phải giá trị tác phẩm văn học độc lập mà là giá trị văn học thông qua sân khấu, nói rõ hơn là văn học sân khấu kịch” [99, tr.60]. Đặt trong mối quan hệ với các yếu tố sân khấu, Mịch Quang chỉ ra các giá trị về mặt bố cục, nhân vật, ngôn ngữ, phương pháp hiện thực ngụ ngôn trong tuồng của Đào Tấn đồng thời khẳng định Đào Tấn là nhà cách tân về sân khấu tuồng của dân tộc [99, tr.87]. Coi kịch bản tuồng như một sinh thể độc lập ngoài sân khấu, Nguyễn Thế Khoa cho rằng: “Kịch bản tuồng - di sản nghệ thuật lớn nhất, có tác động sâu rộng nhất của Đào Tấn” [32, tr.303]. Đánh giá cao giá trị văn chương nghệ thuật kịch bản tuồng Đào Tấn, Bùi Hoàng Oánh viết “Tuồng của ông không những hay về văn chương mà khéo về kết cấu xây dựng, khó mà sửa chữa hay bắt bẻ được” [32, tr.234]. Theo tác giả này “Các tác phẩm của Đào Tấn còn trường tồn và sống mãi là do ông sáng tạo ra phương pháp sáng tác mới... Đào Tấn hiện đại hóa sân khấu tuồng từ cấu trúc kịch bản đến xây dựng hình tượng và ngôn ngữ...” [32, tr.235]. Sau khi đưa ra các dẫn chứng để chứng minh, Bùi Hoàng Oánh nhận định “Với nghệ thuật cấu trúc, cách khắc họa nội tâm nhân vật, lời văn giàu chất thơ và nhạc, Đào Tấn đã làm cho vở tuồng có đầy đủ tư cách là một tác phẩm văn học mẫu mực” [32, tr.235]. Ông còn nhấn mạnh “Đào Tấn đặc biệt chú ý đến ba yếu tố khi viết kịch bản tuồng là xây dựng nhân vật kịch, ngôn ngữ kịch, kết cấu kịch” [32, tr.236]. 25 Về kết cấu: Theo Nguyễn Thế Khoa, Hoàng Chương và nhiều học giả khác, cách tân lớn nhất về kết cấu của kịch bản tuồng Đào Tấn là “từ tuồng pho đến tuồng một hồi” [32, tr.369] để phù hợp với điều kiện và thị hiếu của người xem thời bấy giờ. Đó là cách tiếp cận nghiên cứu theo bố cục – một yếu tố hình thức của kết cấu, chứ chưa đi sâu vào kết cấu nội dung và xem xét mối quan hệ nội tại của các yếu tố hình thành nên tác phẩm. Cốt truyện, mô típ, không gian, thời gian nghệ thuật trong tuồng của Đào Tấn cũng chưa được các nhà nghiên đề cập đến. Do đó, trong luận án này, chúng tôi tiếp cận nghiên cứu kết cấu tuồng Đào Tấn ở các phương diện: cốt truyện, phương thức xây dựng xung đột qua mô típ, không gian - thời gian nghệ thuật. Về nghệ thuật xây dựng nhân vật: Cũng như tuồng cổ, hệ thống nhân vật trong tuồng Đào Tấn được chia thành các nhân vật chính diện và phản diện. Các nhà nghiên cứu đã đi sâu vào phân tích hai loại nhân vật để chỉ ra đặc trưng tiêu biểu trong cách xây dựng nhân vật của Đào Tấn. Theo Đoàn Minh Tuấn,“Hệ thống nhân vật phản diện trong tuồng Đào Tấn cũng gần thống nhất một phong cách miêu tả và khắc họa tính cách vừa gian hùng vừa tàn bạo, vừa có pha chất hài hước” [32, tr.84]. Còn Trường Lưu khi bàn về nhân vật phản diện trong tuồng thì cho rằng “Đào Tấn rất đề cao tiếng cười trên sân khấu” [32, tr.223]. Các nhân vật phản diện thường gắn với cái hài sâu cay châm biếm. Chúng gần giống như các nhân vật trong hài kịch của Molie. So sánh với tuồng cổ, Hoàng Châu Ký cho rằng “Đào Tấn xây dựng được những nhân vật gắn với cuộc sống hơn” [99, tr.360]. Nhìn chung, những nghiên cứu về nghệ thuật xây dựng nhân vật trong kịch bản tuồng Đào Tấn bước đầu đã chỉ ra những đặc trưng cơ bản như kiểu nhân vật chính diện, kiểu nhân vật phản diện... Tuy nhiên, việc chi tiết hóa các yếu tố tham gia vào việc xây dựng nhân vật lại chưa được khai thác sâu. Trên cơ sở khảo sát lịch sử nghiên cứu về nhân vật trong tuồng Đào Tấn, luận án chỉ ra cách thức xây dựng nhân vật trong tuồng. Về văn thể: : Bàn về đặc điểm của văn học tuồng, Mịch Quang nhận định “Tuồng là một loại kịch thơ hợp thể gồm văn xuôi trong lời hường, văn vần trong nói lối, các thể thơ trong lời hát” [178, tr.55]. Khái quát về các thể loại cấu thành nên kịch bản tuồng, Hoàng Châu Ký [92] khẳng định kịch bản tuồng là sự kết hợp của ba thể loại: văn xuôi, biền văn và thơ... Thơ trong kịch bản tuồng thường gắn với các điệu hát nhằm bộc lộ vị thế, tâm trạng, lý tưởng, cảm xúc của nhân vật trong những hoàn cảnh nhất định. Nếu kịch bản tuồng thiếu đi chất thơ sẽ không khác gì kịch nói. Kịch bản tuồng giàu chất thơ là kịch bản chứa đựng những giá trị tinh thần sâu sắc, với thế giới nội tâm phong phú của các nhân vật. Theo Nguyễn Thế Khoa, một trong những cách tân nổi bật nhất của Đào Tấn là “Nâng cao ngôn ngữ thơ và đưa ngôn ngữ đời thường vào sân khấu” [32, tr.371]. Cũng với ý như vậy, Văn Trọng Hùng nhận định: “Văn tuồng Đào Tấn rất giàu thanh điệu và thấm đẫm chất thơ. Chất thơ là đặc điểm quan trọng nhất góp phần tạo nên phong cách riêng của Đào Tấn không lẫn với bất kỳ ai 26 được. Ngôn ngữ tuồng Đào Tấn đằm thắm mà trữ tình sâu sắc, triết lý mà gần gũi, có tầm khái quát cao và đạt đến ngôn ngữ bác học” [32, tr.132]. Có thể thấy, khi nghiên cứu về văn thể tuồng, các học giả có xu hướng đề cao giá trị của thơ trong tuồng và coi đây như một đặc trưng tiêu biểu nhất cho ngôn ngữ tuồng Đào Tấn. Đi theo xu hướng này, Hoàng Chương cho rằng cho rằng“Thơ là điểm xuất phát đến với tuồng vì kịch bản tuồng là một bài thơ dài hợp thể” và“không biết làm thơ thì không thể sáng tác tuồng” [32, tr.23]. Như vậy, đối với loại kịch hát như tuồng, thơ là một trong những tiêu chí quan trọng nhất để đánh giá văn chương tuồng. Tuy nhiên những yếu tố khác như biền văn, văn xuôi, sự kết hợp các thể loại,... cũng có những giá trị nhất định trong ngôn ngữ văn học tuồng lại chưa được các học giả quan tâm sâu sắc. Với mục đích khái quát các đặc điểm văn thể trong kịch bản tuồng Đào Tấn, trên cơ sở những luận điểm của các nhà nghiên cứu đi trước về thơ, chúng tôi sẽ chỉ ra sự liên kết văn thể và sự chêm xen các thể loại khác trong kịch bản tuồng của ông. Về những cách tân nghệ thuật của Đào Tấn, đáng chú ý là bài viết của Hoàng Chương và Hoàng Châu Ký. Trong tiểu luận Cái lớn của Đào Tấn, Hoàng Châu Ký đánh giá những cách tân nghệ thuật của Đào Tấn ở các phương diện quan niệm sáng tác và phương pháp sáng tác: “Ông đã phá vỡ quan điểm “văn dĩ tải đạo” vốn in dấu đậm từ lâu đời trong kịch bản tuồng. Đào Tấn không viết tác phẩm văn học đơn thuần mà nâng văn học tuồng lên trình độ bác học. Đào Tấn lớn và trường tồn ở chỗ ông sáng tạo được một phương pháp sáng tác mới, phương pháp này vừa kế thừa vốn cổ, vừa phát triển cái mới” [99, tr.360-366]. Hoàng Chương trong tiểu luận Đào Tấn - nhà cách tân sân khấu tuồng cũng khẳng định: Đào Tấn đã mạnh dạn cách tân tuồng từ phương pháp sáng tác đến cách xử lý nghệ thuật biểu diễn. Đào Tấn đã hiện đại hóa sân khấu tuồng từ cấu trúc kịch bản đến xây dựng hình tượng và ngôn ngữ. Phá bỏ công thức “vua băng nịnh tiếm”, giết nịnh định đô và không theo lối kết thúc có hậu của tuồng cổ. Ông đã đưa một quan niệm mới vào sân khấu tuồng là đề cao người phụ nữ, đề cao hành động của những người mà giai cấp phong kiến cho là giặc cỏ. Kịch bản tuồng của ông đều xây dựng trên hai tuyến xung đột căng thẳng và chất trữ tình thiết tha, hai tuyến ấy luôn quyện vào nhau, tạo sự hài hòa và hấp dẫn liên tục [99, tr. 386-400]. Bên cạnh xu hướng khẳng định và tôn vinh những giá trị nghệ thuật của kịch bản tuồng Đào Tấn, vẫn còn một số ý kiến trái chiều. Mặc dù không đề cao con người và sự nghiệp của Đào Tấn, nhưng Huỳnh Lý cũng phải thừa nhận những giá trị văn chương trong tuồng của ông “Nói cho đúng, những vở ấy (chỉ những tác phẩm do Đào Tấn sáng tác) về nội dung tư tưởng không nêu một vấn đề gì lớn về cuộc sống, một vấn đề gì mới về con người lâu dài hay con người trong cuộc chiến đấu vì lẽ mất còn của tổ quốc. Nhưng nó đã phát huy bằng những hình tượng rất đạt một số quan hệ tình cảm mà quần chúng nhân dân Việt Nam thường đánh giá rất cao: nghĩa bè bạn (Cổ Thành), tình vợ 27 chồng (Hộ sinh đàn, Hoàng Phi Hổ quá Giới Bài quan), lòng trọng nghĩa (Hoa dung lộ). Đào Tấn đã đem vào quy cách tuồng những cái mới, những sáng kiến của mình làm cho vở tuồng trở nên có đủ tính cách một tác phẩm văn học và thành mẫu mực cho người đương thời và người sau học tập” [99, tr.134]. Nhìn chung, các nghiên cứu về vấn đề nghệ thuật kịch bản tuồng Đào Tấn đã làm sáng tỏ được một số nội dung liên quan đến nghệ thuật xây dựng nhân vật, bố cục, kết cấu, ngôn ngữ kịch bản tuồng. Tuy nhiên các yếu tố đặc trưng như cốt truyện, mô típ, văn thể chưa được đề cập đến và luận giải một cách sâu sắc. Đặc biệt, nghiên cứu không gian, thời gian nghệ thuật trong kịch bản tuồng Đào Tấn là vấn đề còn bỏ ngỏ khi xem xét tuồng như một tác phẩm văn học. Những vấn đề này sẽ được phân tích cụ thể trong Chương 4 của luận án. Tổng kết lịch sử vấn đề nghiên cứu về “Hậu tổ tuồng” cho đến nay (chủ yếu là qua các Hội thảo), Hoàng Chương cho rằng những nghiên cứu đó “mới xốc lên và nêu ra một số vấn đề cơ bản nhưng hầu như chưa có luận điểm khoa học nào thật sự đủ tầm cỡ và chưa đi sâu về tư tưởng, nhân cách, thi pháp Đào Tấn. Vị trí của danh nhân Đào Tấn trong sự nghiệp văn hóa dân tộc chưa được khẳng định rõ ràng, nhất là giai đoạn cuối thế kỷ XIX đầu thế kỷ XX” [32, tr.31-32]. Từ đó ông đi đến nhận định “Đào Tấn là một nghệ sĩ vĩ đại, là một danh nhân văn hóa lớn của dân tộc đã để lại cho chúng ta một di sản khổng lồ cả về sáng tác tuồng, thơ, từ và lý luận sân khấu nhưng việc nghiên cứu và phổ biến về Đào Tấn còn quá ít so với các danh nhân khác” [32, tr. 31]. Có lẽ, những nhận xét trên của Hoàng Chương dường như quá khắt khe đối với những nghiên cứu về ‘Hậu tổ tuồng”. Nhưng cũng phải thấy rằng, so với tầm vóc con người và di sản Đào công để lại thì những công trình nghiên cứu đã công bố mới chỉ khai thác được “phần nổi của tảng băng chìm”. Đặc biệt là về di sản tuồng của ông, có rất nhiều nghiên cứu về lĩnh vực này, song hầu hết quy mô đều dừng lại ở các bài báo, các bài tham luận, tiểu luận in trong các báo, tạp chí, tổng tập chứ chưa có một công trình chuyên khảo nào nghiên cứu một cách hệ thống giá trị văn học các kịch bản tuồng của ông. Thực hiện luận án Kịch bản tuồng Đào Tấn – Một số vấn đề nội dung và nghệ thuật, chúng tôi hy vọng cùng với Luận án Thế giới nghệ thuật thơ chữ Hán Đào Tấn (Nguyễn Đình Thu [247] sẽ phần nào khỏa lấp những khoảng trống trong nghiên cứu di sản văn học của “Trạng nguyên văn tuồng”. 1.3. Cơ sở lý thuyết của đề tài 1.3.1. Tiếp cận kịch bản tuồng Đào Tấn từ góc nhìn thể loại Thể loại (genre) là một thuật ngữ bắt nguồn từ tiếng Pháp, có nguồn gốc Latinh (genus), được dùng để chỉ sự phân loại văn học. Nói đến thể loại là nói đến kiểu cấu tạo văn bản, loại hình văn bản mà ở đó, các tác phẩm không chỉ thống nhất về hình thức kết cấu, hình thức diễn đạt mà còn có những dấu hiệu tương đồng. M. Bakhtin cho rằng: “Không thể có tác phẩm nằm ngoài thể loại. Tác phẩm chỉ tồn tại trong một hình thức thể loại cụ thể” [171, tr.144]. Theo 28 ông, “nhân vật chính yếu” của lịch sử văn học là thể loại; lịch sử văn học là lịch sử đấu tranh giữa các thể loại, chứ không phải là lịch sử trào lưu và trường phái” [7, tr.27-28]. Như đã nói ở trên, các nhà văn học sử đã phần nào đề cập đến tuồng như một thể loại của văn học cổ điển Việt Nam nhưng mới dừng lại ở thao tác mô tả chứ chưa đi sâu vào nghiên cứu bản chất thể loại của tuồng. Từ đầu thế kỉ XX, bắt đầu với Phan Kế Bính với Việt - Hán văn khảo [16] xếp tuồng vào môn loại diễn kịch, coi đó là thể loại Hán văn của Việt Nam. Sau đó Dương Quảng Hàm [59] đã dành riêng một chương để viết về ca Huế và hát bội tập trung chủ yếu giới thiệu về kịch bản tuồng từ phương diện thể loại văn học thuộc mảng Việt văn (dùng chữ Nôm để sáng tác) hay như Maurice Durand và Pierre Huard với Connaissance du Vietnam hoặc Bùi Kỷ [98] coi tuồng là thể loại “Hán - Việt dụng thể” thì việc nghiên cứu tính thể loại của văn học tuồng cơ hồ chưa có hình hài một cách rõ nét. Một nghiên cứu hiếm hoi về thể loại của tuồng của Nguyễn Thị Nhung [163] thì lại đứng từ góc độ của nghệ thuật biểu diễn. Vì vậy, tính thể loại của kịch bản sân khấu vẫn chưa được đề cập đến một cách trực tiếp. Tính thể loại của văn học tuồng ít nhiều đã được Trần Đình Hượu gián tiếp đề cập đến khi so sánh “trình độ văn học” của người viết truyện Nôm và người viết tuồng trên cùng một văn liệu là tiểu thuyết Trung Hoa:“Những người viết truyện Nôm chỉ có thể sử dụng nguyên vẹn nội dung của tiểu thuyết, chỉ dùng ngôn ngữ khác và thể thơ dân tộc để kể lại. Người viết tuồng muốn diễn truyện phải chuyển nó thành cảnh, thành nhân vật sân khấu, phải chuyển thể tiểu thuyết sang sân khấu” [84, tr.127]. Hơn thế nữa “Vốn văn chương chung của họ là nghệ thuật viết thơ phú và dân ca. Người viết truyện Nôm rút ra được ở đó kinh nghiệm gọt rũa lời thơ, chữ và âm điệu. Còn trong tuồng, các nhân vật tự thể hiện bằng những lời bạch, lời xướng, lời ngâm, lời thán, lời oán có thể vận dụng rất đắc địa kinh nghiệm vịnh cảnh, tức sự, thuật hoài, ngôn chí của thơ phú và cũng chính bằng thể loại thất ngôn và phú” [191, tr12]. Đây là cơ sở để tác giả kết luận tuồng chính là một thành phần của văn học Việt Nam cùng với các thể loại ra đời trước đó là thơ Nôm, ngâm khúc, truyện Nôm và hát nói. Việc soi chiếu kịch bản tuồng Đào Tấn dưới góc nhìn thể loại là một trong những nghiên cứu góp phần khẳng định tính thể loại của tuồng trong văn học Việt Nam. Có thể xác lập thể loại của tuồng trên các phương diện sau: Về thể tài: Kịch bản tuồng thuộc thể loại bi hùng kịch phương Đông. Không giống như các loại hình sân khấu khác như cải lương, chèo..., tuồng mang theo âm hưởng hùng tráng với những con người xả thân báo quốc, hy sinh vì đại nghĩa, khái quát những triết lý về lẽ ứng xử của con người giữa cái riêng và cái chung, giữa tổ quốc và gia đình. Đặc trưng thẩm mỹ cơ bản của tuồng là chất bi hùng. Có thể nói tuồng là “sân khấu của những người anh hùng”. Trong những hoàn cảnh đầy xung đột bạo liệt bi ai và mâu 29 thuẫn gay gắt, các nhân vật chính diện của tuồng đã vượt lên khỏi sự chế ngự của hoàn cảnh, hành động một cách dũng cảm, trở thành một tấm gương, một tượng đài cho người đời ngưỡng mộ noi theo. Nếu theo tiêu chuẩn của một số bi kịch cổ điển phương Tây mà thông thường kết thúc bằng một sự đổ vỡ hoàn toàn của phe chính diện, họ chỉ để lại một tinh thần trong sáng, những tình cảm đáng kính yêu, thì có thể nói tuồng cổ không phải là bi kịch. Kết thúc của các kịch bản tuồng cổ đều lạc quan, đều đi đến thắng lợi cuối cùng của phe chính nghĩa sau những tổn thất nặng nề. Vì vậy, thực sự tuồng cổ là những bi kịch có hậu. Tuồng vừa mang đặc trưng sang trọng của văn học bác học, vừa mang cái hồn hậu của văn học dân gian. Theo chúng tôi, kịch bản tuồng cổ không hẳn thuộc thể tài bi kịch mà đó là những bi kịch lạc quan. Về đề tài và nội dung, tư tưởng: Kịch bản tuồng chịu sự chi phối mạnh mẽ của ý thức hệ Nho giáo. Lấy đề tài “quân quốc” là trung tâm, nội dung của kịch bản tuồng cổ phản ánh đời sống và những chuyện xảy ra trong cung đình, những chuyện “quốc gia đại sự” đồng thời ngợi ca những phẩm chất đạo đức Nho giáo và đặc biệt thượng tôn đạo trung quân. Mặc dù có những phá cách về đề tài và nội dung tư tưởng, nhưng về cơ bản kịch bản tuồng Đào Tấn vẫn được xây dựng trên nền tảng Nho giáo. Về cốt truyện: Cốt truyện là phần quan trọng nhất với kịch bản tuồng và là cơ sở quan trọng nhất để phân biệt các kịch bản tuồng với nhau. Theo Nguyễn Tô Lan, xét từ nguồn gốc cốt truyện, đại bộ phận tuồng bản truyền thống Việt Nam có thể chia thành hai lại chính: Cải biên và độc sáng [106, tr.171]. Loại thứ nhất: Cải biên (creativity) lại tiếp tục được chia thành hai loại nhỏ: - Cải biên nguyên vẹn cốt truyện từ văn liệu ngoại lai (đa phần là Trung Hoa và một số ít từ sân khấu châu Âu như vở Lộ Địch của Ưng Bình Thúc Dạ thị phóng tác từ vở Le Cid của Pierre Corneille). - Tiếp thu một số tình tiết câu chuyện từ văn liệu ngoại lai, kể cả trường hợp sử dụng một tích truyện ngoại lai nhưng đã có nhiều sửa đổi cơ bản. Tuồng của Đào Tấn cơ bản là thuộc loại này. Loại thứ hai: Độc sáng (originality). Chữ “độc sáng” ở đây theo Nguyễn Tô Lan được hiểu theo hai nghĩa. Một là từ cốt truyện đến nhân vật đều có nguồn gốc từ văn liệu Việt Nam. Hai là tuy có sử dụng một số yếu tố ngoại lai nhưng không tác động nhiều tới cốt truyện như việc vay mượn một số danh từ riêng chỉ quốc gia, nhân vật... Vở Diễn võ đình của Đào Tấn về cơ bản có thể xếp vào loại này. Về kết cấu và quy luật vận động kịch: Kết cấu chuẩn của kịch bản tuồng gồm ba hồi và diễn tiến theo trình tự thời gian. Hồi đầu thường giao đãi tình hình và giới thiệu nhân vật. Xung đột kịch được xảy ra ở hồi thứ hai và được giải quyết ở hồi thứ ba. Tuy nhiên, tuồng Đào Tấn thường là tuồng một hồi, phù hợp với một đêm diễn. Ở đây, chúng tôi không đề 30 cập đến tuồng trường thiên. Xung đột kịch trong tuồng Đào Tấn thường được bộc lộ ngay từ lúc khai màn và kéo dài suốt cả tác phẩm. Mỗi lớp tuồng đều có sự đấu tranh khốc liệt và thường là mâu thuẫn trong nội tâm hơn là thể hiện qua xung đột hành động. Về nhân vật: Nhân vật chính diện phải là vua chúa, tể tướng, quan lại, hoàng tử, công chúa Các tầng lớp thuộc nhân dân lao động hoàn toàn ở địa vị phụ thuộc trong tác phẩm: lính hầu, gia đinh, thể nữ, nữ tỳ Đó là những nhân vật không có tên, nhân vật tình tiết trong kịch bản tuồng. Các nhân vật được chia thành hai tuyến chính diện và phản diện và được mô thức hóa cao. Hầu như không có sự biến đổi phẩm chất của nhân vật trong tuồng cổ. Trong các tuồng bản của Đào Tấn, nhân vật vẫn được chia thành hai phe chính diện và phản diện với những xung đột gay gắt. Tuy nhiên, phạm vi lựa chọn nhân vật được mở rộng hơn, xung đột trực tiếp qua đối thoại được chuyển dần vào xung đột nội tâm qua độc thoại. Nhân vật ít nhiều có sự biến chuyển do tác động của hoàn cảnh chứ không hoàn toàn “bất biến”. Về văn thể trong kịch bản tuồng: “Văn thể” là khái niệm được sử dụng rộng rãi từ trước đến nay trong văn học sử Việt Nam nhưng dường như vẫn thiếu vắng một lý thuyết thống nhất để phân loại chúng. Có ba khuynh hướng chính: Dựa trên tiêu chí ngôn ngữ sáng tác chia thành: Văn học chữ Hán và văn học chữ Nôm. Dựa trên tiêu chí văn thể chia thành văn thể Hán và văn thể thuần Việt. Dựa trên tiêu đề tác phẩm để phân chia theo thể loại như: Chinh phụ ngâm khúc, Ai tư vãn, Thiên Nam ngữ lục, Đại Nam quốc sử diễn ca... Tuy nhiên, bức tranh văn học Việt Nam trung đại không đơn giản như thế. Bởi một tác phẩm, nếu đứng từ nhiều khuynh hướng có thể xếp vào nhiều “ô” khác nhau. Như Văn tế thập loại chúng sinh (Nguyễn Du), xét về tiêu chí tiêu đề nó thuộc thể văn tế – một thể thuần Hán, xét về thể loại sáng tác là song thất lục bát lại là một thể loại thuần Nôm (văn tế thường được viết bằng văn xuôi hoặc biền văn), về mặt ngôn ngữ là văn học Nôm nhưng văn liệu lại sử dụng nhiều ngữ liệu của văn hóa Hán... Đây là một vấn đề được đặt ra trong nghiên cứu văn học cổ Việt Nam và tương tự đặt ra với văn học tuồng hát. Sớm nhất có Phan Kế Bính [16], năm 1930 đã đề cập đến thể loại diễn kịch trong trước tác của mình. Tuy nhiên, ngay từ tiêu đề cuốn sách là Việt - Hán văn khảo đã cho thấy quan điểm của tác giả cho rằng diễn kịch (tức là bài tuồng) Việt Nam thuộc về Hán thể, nhưng là Hán thể của người Việt Nam. Quan điểm này cũng được nhiều học giả sau đó chia sẻ khi cho rằng tuy viết bằng chữ Nôm nhưng sử dụng các thể văn Hán. Cách phân loại này quá thiên về các thể văn Hán được dẫn dụng trong văn chương tuồng mà thiếu chú ý đến các văn thể đặc trưng mà chỉ văn Nôm hay văn tuồng mới có như thể lục bát, thể Nam, tản văn Nôm... Phương thức tư duy phân loại này còn được kế thừa bởi các học giả sau đó như Dương Quảng Hàm [59], Nghiêm Toản [257] đã bóc tách các thể loại được dẫn dụng trong tuồng mà không coi tuồng là một chỉnh thể có tính thể loại. Đến Ưu Thiên Bùi Kỷ trong Quốc văn cụ thể [98], việc định danh thể loại cho văn học tuồng 31 đã có một bước tiến đáng kể khi coi hí kịch (gồm tuồng và chèo) là một thể loại văn học trong văn thể quốc văn Việt Nam và xếp vào môn loại Hán - Việt dụng thể. Theo Bùi Văn Nguyên, Hà Minh Đức, vè được coi là một thể loại văn học dân gian chứ không xem xét dưới góc độ văn thể. Theo hai tác giả này, các thể thơ dân tộc bao gồm: thơ lục bát, thơ song thất lục bát, thơ bốn từ (thường được sử dụng trong vè, dân ca, ca dao, đồng dao) [155, tr.154]. Trước khi có được lý luận cụ thể về vấn đề này, chúng tôi tạm thời kết hợp dùng quan điểm của Bùi Kỷ, Bùi Văn Nguyên, Hà Minh Đức để phân tích kịch bản tuồng Đào Tấn dưới góc độ văn thể. Về Hán văn thể, gồm có vận văn, biền văn và văn xuôi chữ Hán. Về Việt văn thể, gồm có lục bát, song thất lục bát, thơ bốn từ và văn xuôi Nôm. Có thể khái quát văn thể trong kịch bản tuồng Đào Tấn như sau: Văn thể Thơ Biền văn Văn xuôi Vận văn Biền văn Văn xuôi Hán văn thể (thất ngôn đường luật, thất ngôn (Phú, Từ) chữ Hán tứ tuyệt, ngũ ngôn tứ tuyệt) Lục bát Các cặp đối ngẫu (song Văn xuôi Việt văn thể Song thất lục bát quan, cách cú, gối hạc) chữ Nôm Thơ bốn từ Về “tính tuồng” (chất tuồng): Bàn về đặc trưng của nghệ thuật tuồng, Mịch Quang đã nêu ra rất nhiều vấn đề về “tính tuồng”, “chất tuồng” và đưa ra những biện giải cho vấn đề này. Theo ông, “Hạt nhân của đặc trưng tuồng là cách tái hiện người và cuộc sống theo “kiểu tuồng... hay nói cách khác đó là việc sử dụng tuồng vào việc tái hiện cuộc sống, con người” [179, tr. 5-6]. Ông cho rằng “Quy luật hình thành hình thức tuồng là mối quan hệ hữu cơ giữa quan điểm sân khấu, phương thức diễn đạt và ngôn ngữ nghệ thuật” [179, tr. 6]. Xét trên phương diện ngôn ngữ, “tính tuồng” được biểu hiện qua tính biểu trưng, ước lệ, tính cô đọng, hàm súc và tính tiết điệu, nhạc điệu. Như vậy, có thể xác lập tính thể loại của tuồng hát dựa trên các tiêu chí về đề tài, nội dung tư tưởng, cốt truyện, kết cấu, nhân vật, văn thể, ngôn ngữ. Chúng tôi sẽ phân tích sâu hơn biểu hiện tính thể loại trong tuồng bản Đào Tấn ở các chương sau của Luận án. 1.3.2. Nghiên cứu kịch bản tuồng Đào Tấn từ góc nhìn văn hóa Theo Trần Lê Bảo: “Văn học là sự tự ý thức văn hóa” [9]. “Văn học chẳng những là một bộ phận của văn hóa, chịu sự chi phối ảnh hưởng trực tiếp của văn hóa mà còn là một trong những phương tiện tồn tại và bảo lưu văn hóa. Văn học chịu ảnh hưởng trực tiếp từ môi trường văn hóa thời đại và truyền thống văn hóa độc đáo của một dân tộc, đồng thời thể hiện cả nội hàm tâm lý văn hóa độc đáo của một thời đại và một cộng đồng dân tộc. Cùng với...14 Gan anh hung cát đoạn khuê ly Sanh Khánh Sanh Dứt tình kẻ ở người đi Kiều lên đường đi E khi mưa nắng ngại bề chông gai quang trốn sự truy sát Vương của Bàng Thôi đừng thở ngắn than dài Quý Hồng Nam Chữ Nôm Lục bát Khuyên con lui gót khuyên người lên yêng Kỳ mãn địa, pháo huyên thuyên Ba nhân Cùng Chữ Nôm Lục bát Dứt tình ân ái tách miền sơn khê vật Nam 216 Ngôn TT Thơ Nhân vật Bối cảnh Điệu hát Thể loại Trang ngữ 5. Ti ền lộ du du miến vọng tần Khánh Khánh Sanh Tẩu Chữ Hán Thất 417 Hồi đầu phong hạc bán khi nhân Sanh trên đường trốn ngôn cổ Nam nhi tự hữu kỳ phùng xứ chạy khỏi sự phong Khẳng ba ly sầu nhận tác chân truy bắt của (Nhìn về nẻo trước đường xa thẳm Bàng Hồng Gió thổi, chim kêu, cảnh ghẹo người Kỳ ngộ thân trai rồi sẽ gặp Nỗi sầy ly biệt dễ gì nguôi) Sách mã hoàng hoàng tuấn bộ khinh Tẩu Chữ Hán Thất 417 Khiếu tha tặc tử mạc đào sinh ngôn Sơn hà chấn động quân thanh hưởng Đường Thử nhật cầm cừ hiểm ngã danh luật (Nhẹ nhàng giục ngựa phi tới đây Bảo cho tên giặc mày đừng chạy trốn Non sông vang dội tiếng quân reo Hôm nay bắt nó cho nổi danh ta) 217 Ngôn TT Thơ Nhân vật Bối cảnh Điệu hát Thể loại Trang ngữ 6. Khai huyệt trung mai tang hàm râu Hề Bàng Hồng bị Nam Chữ Nôm STLB 422 - Lên tuấn mã trông chừng Sơn Hậu Triệu phu nhân 423 Sơn Hậu tới đâu ngủ đó nhổ mất râu. Thương ông này chưa có hàm râu 7. Xăn tay lần gỡ sợi sầu Triệu Trên đường tha Nam Chữ Nôm Lục bát 423 Tóc lo đã trổ trên đầu hung anh Khánh hương chốn Khôn lau nước mắt thương tình Sanh chạy Nỗi ai ngơ ngác nỗi mình bâng khuâng Cô hồng thiên viễn, cận Tán Chữ Hán Ngũ 427 - Sất mã lộ tây, đông ngôn CP 428 Kíp lần dò điểu tích, hồ tung Nam Chữ Nôm STLB Mau lánh trốn long đàm hổ huyệt (Cánh chim hồng lẻ loi ở ven trời lúc xa lúc gần Thớt ngựa ruổi rong trên đường lúc xuôi lức ngược Lần theo dấu chân chim chân cáo Nhanh chốn khỏi ao rồng hang cọp) Lánh trốn long đàm hổ huyệt Bước lạc loài sương tuyết nài bao 218 Ngôn TT Thơ Nhân vật Bối cảnh Điệu hát Thể loại Trang ngữ Giọt ly dầm dã chinh bào Rừng thu gió rét ào ào biết đâu Thê thê thu sắc mộ Tán Chữ Hán Ngũ Lạc lạc lữ hoài cô ngôn cổ Chinh chiến kỷ nhân hồi phong Túy ngọa sa trường quân mạc tiếu Hương quan hà xứ thị? Yên ba giang thượng sử nhân sầu (Trời thu chiều ảm đạm/ Đất lạ khách bơ vơ Chinh chiến mấy ai về, ra trận dẫu say xin chớ trách Quê hương đâu đó tá, trên sông khói song giục cơn sầu) Chút thân liều gửi cung dâu Nam Chữ Nôm Lục bát Đố con lương mã biết đâu là nhà V Khuê các anh hùng 1. Khách lộ giả người điên dại Phương Phương Cơ từ Nam Chữ Nôm STLB 456 - Gẫm sự tình lụy sái san san Cơ giã cha lên 457 Thương vì chút phận hồng nhan kinh cứu Gỡ cơn bí nước vượt đàng chông gai Ngọc Lân Hoàng hậu Cha già tựa cửa hôm mai 219 Ngôn TT Thơ Nhân vật Bối cảnh Điệu hát Thể loại Trang ngữ Nữa ai dâng ngọt, nữa ai quạt nồng Phương Đã lòng hẹn với non sông Cơ Gió càng thổi mạnh cánh hồng càng cao Kinh địa phăm phăm lướt dặm Ngọc Lân Đoái thung đường đoạn thẳm khôn ngăn Mịt mù khói tỏa non xuân Phương Bơ vơ gót ngọc ngập ngừng giọt châu Cơ Biết về đâu mây sầu nước chảy Vọi vọi nhìn cách mấy sơn khê 2. - Khi đầu thiếp tính đi về Phương Phương Cơ giả Lý Chữ Nôm Lục bát 460 - Bây giờ thiếp đã liệu bề đi qua Cơ điên qua ải 462 Khi đầu thiếp tính đi ra Bây giờ thiếp phải về nhà cho yên - Con cu bay bổng qua song Hỏi thăm em bậu có chồng hay chưa Quân lính - Có chồng năm ngoái ngày xưa Năm nay chồng chết như chưa có chồng Phương - Có chồng không nói qua hay Cơ 220 Ngôn TT Thơ Nhân vật Bối cảnh Điệu hát Thể loại Trang ngữ Qua cho thúng nếp cho khay trầu nguồn - Khen ai tấc lưỡi kéo dài Quân lính Cắt lìa trung ái như mài lưỡi gươm Trách ai đặng cá quên nôm Phương Hổ riêng với nước tủi thầm cùng trăng Cơ Thương ai công nghiệp nửa chừng Cây im khi gió, lửa hừng khi mưa Sầu ai, ai biết hay chưa Trăm năm đới lệ một giờ thương tang - Ta nay trở lại thiên đàng Đem oan ồn uổng tử, phát hoàn cho nhân gian Hồn này hồn Lý Văn An Năm xưa đi thú trên ngàn bị chông Phương Hồn này hồn ở bên sông Cơ Con gái chưa chồng gánh nước, nghén ra Hồn này hồn ở phương xa Bởi đi buôn thượng mắc ma trên Lào Hồn này, hồn lũ tầm phào 221 Ngôn TT Thơ Nhân vật Bối cảnh Điệu hát Thể loại Trang ngữ Một đoàn ngất ngưởng khi tao với mày Hồn ơi hồn ở lại đây Trèo lên trượt xuống trôi thây xuống đồng 3. Viễn khứ trông chừng viễn lộ Phương Bỏ chạy khỏi Nam Chữ Nôm STLB 463 - Đố ai tường long mỗ thực hư Cơ ải 464 Sao tàn đôi đốm lưa thưa Bóng tiều lướt song, tiếng ngư vang rừng Kiểng dạ tuần mỉa mai quan tái Cơ hội này phải dại mới khôn 4. Vâng lệnh bà hỏa Lục nguyệt phi sương Phương Phương cơ giả Lý Chữ Nôm Vè 468 - Đi bắt thầy tu Tam niên bất võ Cơ dại tại kinh 469 Mày cười tao ngu Nực cười khỉ nọ thành Tao chê mày dại Thảm bấy rồng kia Ông bùa lại cái Kêu khóc đêm khuya Thằng phỗng ra đời Thở than ngày vắng Ta hát ta chơi Nhân tâm tư Hán Ai hay ai biết Thiên ý vong Tần Mây che bóng nguyệt Cân quắc phu nhân 222 Ngôn TT Thơ Nhân vật Bối cảnh Điệu hát Thể loại Trang ngữ Bụi lấp đài gương Tu mi nam tử? 5. Nội lục xung xăng nhẹ trổi Phương Khi biết tin Nam Chữ Nôm STLB 482 Chí hằng mong giúp hội hồng mây Cơ Hoàng hậu bị Thịt đi thây chạy bời bời gian tà bắt vu Lộc vua ăn uổng cột trời để xiêu vạ Bước nhặt biêu lên cao xuống thấp Cánh hộc hồng lưới rập mà chi 6. - Trúc tự mau mau trực chỉ Ngọc Lân Hai cha con Nam Chữ Nôm Lục bát 485 Quyết ra tài khử ngụy phò chơn gặp lại nhau - Chen vai gánh vác kiền khôn Phương bàn nhau tìm Miếu đường cật đỡ, giang sơn tay bồng Cơ Tư Cung cứu - Dặm ngàn gai góc lướt xông Hoàng hậu Cánh hồng thuận gió, cửa rồng vén mây Ngọc Lân 7. - Song phũ cứu lai Chánh hậu Tư Cung Tư Cung và Nam Chữ Nôm STLB 490 - Ngửa vái trời xin thấu lòng ngay Ngọc Lân bàn 491 Xét thân hổ với cao dầy kế đến thành Phơi gan giúp chúa chau mày phụ cha Trường An Tưởng oan gia càng sa nước mắt cứu Hoàng hậu 223 Ngôn TT Thơ Nhân vật Bối cảnh Điệu hát Thể loại Trang ngữ Gan anh hung trổ mặt từ bi - Khai vân lộ lộ tốc bôn hành Ngọc Lân Khách Chữ Hán Thất Thống giả hoàng phi áo não tình ngôn Trực hướng quan đầu tang bửu kỵ Đường Phò nguy tế hiểm ủy bình sinh luật (Mở đường mây vội vã đưa chân Đau long vì tình cảnh ảo não của Hoàng phi Thẳng tới nơi đầu ải cất giấu ngựa tốt Phò nguy giúp nạn là việc làm an ủi đời ta) 8. Đãn ước lương gian thùy tiểu yến Khắc Chọn người giả Thán Chữ Hán Thất 495 Thùy tri khái hạ xuất linh kỳ Minh làm Hoàng hậu ngôn cổ (Những mong con én nhỏ rủ cánh trên rường nhà phong Ai ngờ dưới chuồng xuất hiện con ngựa bay) 9. - Phủ dục ơn sâu dốc báo Bích Hà Từ biệt Bích Nam Chữ Nôm Lục bát 497 Giữ một long ngay thảo nào sai Hà giả làm - Hạt sầu lợt đợt cành mai Xuân Hoàng hậu Nam Bơ vơ chiếc nhạn lạc loài kêu sương Hương chịu tội - Thủy khứ hoa lưu trường ảo não Tán Chữ Hán 224 Ngôn TT Thơ Nhân vật Bối cảnh Điệu hát Thể loại Trang ngữ Sinh ly tử biệt trọng quan hoài Chánh Thất Thông thông thượng mã biệt quân khứ cung ngôn cổ Cô nhạn nhất thanh thiên ngoại lai phong (Nước chảy hoa trôi ảo não triền miên Nặng nỗi long sống lìa chết biệt Mau mau lên ngựa từ giã ra đi Tiếng nhạn lẻ loi từ phương trời vọng lại) Dư sinh còn đội ơn người Nam Chữ Nôm Đài mây dốc tạc muôn đời rạng danh Lục bát - Khuyên con nhẹ bước trường chinh Nam Vuốt gan ai oán mở vành gian nguy Nỗi biệt ly, kẻ đi người ở Khắc STLB Dứt ân tình lên ngựa, lui chân Minh 10. Phúc bồn đã lờ gương nhật nguyệt Bích Hà Tú Hà giả làm Thán Chữ Nôm Thất 500 U cốc đành khuất bóng dương quang (trong vai Chánh cung bị ngôn cổ Khéo trầm trồ lời quan dã tràng chánh bắt tống ngục phong Thêm réo rắt tiếng ve Tây lục cung) Nam Lục bát Tây lục ve kêu réo rắt Gẫm oan tình ruột cắt đòi cơn 225 Ngôn TT Thơ Nhân vật Bối cảnh Điệu hát Thể loại Trang ngữ Nghìn năm uống oán ăn hờn Chung lo nghiệp chúa, riêng than nỗi mình 11. - Viễn tỵ thoát vòng hoạn nạn Xuân Đưa Chánh Nam Chữ Nôm Lục bát 501 - Nhẹ cánh hồng bao quản xông sương Hương hậu đi trốn 502 - Gái hay đền nợ quân vương Chánh hậu Nực cười những kẻ miếu đường khoanh tay Khương - Một nhà con thảo tôi ngay Hoàn Phơi gan trải đất, xăn tay đỡ trời Xuân - Vóc ngọc ngùi thương nỗi chúa Hương Bước ghập ghềnh lối cũ đường xưa Chánh hậu - Nhạn chiều chen đám mây thưa Khương Loi thoi chiếc bóng bơ thờ tiếng kêu Hoàn - Gian nan chút phận đã liều Cả ba Cô đăng gió tạt bảng kiều sương rơi nhân vật - Bước đường mai phong ai bao sá Đoái quê nhà phút đã gần nơi 226 Ngôn TT Thơ Nhân vật Bối cảnh Điệu hát Thể loại Trang ngữ 12. Yên tỏa Hàn sơn sương ỉu ỉu Tú Hà Tú Hà trong Thán Chữ Hán Thất 502 - Lộ ngưng Tương thủy tuyết ai ai (trong vai ngục ngôn cổ 503 Ẩm hận trường thiên tư Bắc khuyết Chánh phong Hàm sầu bạch nhật khấp Tây đài hậu) (Khói lửa non Hà sương mịt mịt Móc đọng sông Tương tuyết rơi rơi Uống hận đêm dài nhớ mong nơi cửa khuyết phía Bắc/Ngậm sầu ngày trắng khóc Tây đài) Tuyết ai ai tuyền đài ẩn tước Nam Chữ Nôm STLB Vọi vọi nhìn kìa nọ nước trăng Mơ màng ngút giải mây giăng Tang thương phút đỗi lệ hàng khôn thay 13. - Đoạt lộ trông chừng sơn tự Ngọc Lân Ngọc Lân, Tư Nam Chữ Nôm Lục bát 511 - Gẫm cha lành con dữ phải mang Cung cứu được 512 - Nuốt hờn nhà giận cười khan Bích Hà Bích Hà đưa về Binh thua nhóm mạnh cờ tàn nước cao quê - Non Tùng sóng vỗ lao xao Tư Cung Chung mừng riêng hổ biết bao nhiêu tình 227 Ngôn TT Thơ Nhân vật Bối cảnh Điệu hát Thể loại Trang ngữ VI Cổ Thành 1. Mạc nại phong sương phi sất mã Bài Quân Phụng mệnh Khách Chữ Hán Thất 534 Bất phân trú dại đáo quan thành Tào Tháo ngôn Cổ Tiết phong mộc võ thiên sơn lộ mang cờ lệnh phong Đới nguyệt phi tinh vạn lý trình tới các cửa ải (Chẳng nài gió bụi lao thân ngựa Không quản ngày đêm tới ải quan Dầm dãi gió mưa ngàn đỉnh núi Mang sao đội nguyệt vượt muôn trùng) 2. Cái thế anh hùng mạc dữ kinh Quan Vũ Quá quan Bạch Chữ Hán Thất 535 - Phong sương vạn lý triển bằng trình ngôn 537 Ngũ quan trực quá phò xa trượng Đường Sơn hải gian nguy nhược lý bình luật (Dưới thế anh hùng dễ mấy ai Gió sương muôn dặm cánh chim trời Xông pha năm ải phò hai chị Đạp núi san bằng mọi hiểm nguy) Dao sơn viễn thủy thân như diệp Quan Vũ Khách Chữ Hán 228 Ngôn TT Thơ Nhân vật Bối cảnh Điệu hát Thể loại Trang ngữ Bắc thụ nam vân lụy thâm bào Thất (Nước non xa thẳm thân như lá ngôn Cổ Mây khói mịt mù lụy thấm bâu) phong Đòi phen đội nguyệt mang sao Nhị tẩu Nam Chữ Nôm Ân tình dốc vẹn gian lao dễ nài Lục bát Thế sự hung suy vô định cuộc Tôn Kiền Khách Chữ Hán Nhân sinh tán tụ trọng quan hoài Thất (Suy thịnh sự đời ai đoán được ngôn Cổ Hợp tan cuộc sống cứ đeo hoài) phong Lướt xông giữa cuộc trần ai Nhị Tẩu Nam Chữ Nôm Mắt xa thắm thoát dặm dài bơ vơ Lục bát Phong võ mỗi lao hồ điệp mộng Quan Vũ Khách Quan hà dao trướng nhận ngư thư Thất (Hồn bướm gió mưa vờn giấc mộng ngôn Cổ Cánh hồng song nước ngóng tin thư) phong Nhạn chiều chen đám mây thưa Nhị tẩu Nam Loi thoi chiếc bóng, bơ thờ giọng kêu Lục bát 229 Ngôn TT Thơ Nhân vật Bối cảnh Điệu hát Thể loại Trang ngữ 3. Ngang ngang khí khái dục lăng tiêu Hạ Hầu Ải Hạ Hầu đôn Bạch Chữ Hán Thất 537 - Khả hiệp thái sơn bắc hải siêu đôn Hạ Hầu Đôn tự ngôn 538 (Khí khái hiên ngang muốn vượt lên trời thẳm giới thiệu Đường Cắp nách hòn Thái Sơn vượt qua biển bắc) luật 4. Cung trần bạc chước Trương Chia tay Tán Chữ Hán NNCP 547 - Hạnh ấp quang nghi Liêu Trương Liêu 549 Chén tương phùng cũng chén tương ly vượt ải Hạ Hầu Thất Người viễn khứ nhớ người viễn vọng Đôn ngôn Cổ (Kính bày bữa rượu xoàng phong May lại gặp được người anh tuấn Chén gặp nhau cũng là chén chia ly Anh ra đi nhớ người ở nhà trông ngóng) Viễn vọng tình nan cát xả Nam Chữ Nôm Giọt ly sầu dầm dã chinh y Lục bát Xót xa thay lúc lâm kỳ Quan Vũ Nam Chữ Nôm Tình kia nghĩa nọ xin ghi tấc long Tịch đương độ cô nhạn Trương Tán Chữ Hán Ngũ Ly quần thanh bán không Liêu ngôn CP 230 Ngôn TT Thơ Nhân vật Bối cảnh Điệu hát Thể loại Trang ngữ (Ánh chiều lưa chiếc nhạn Lìa bầy kêu không trung) Biết đâu là hội trùng phùng Quan Vũ Nam Chữ Nôm STLB Lòng son hẹn với non song dễ mòn Nam quận một đoàn đoạt lộ Tôn Kiền Nam Nợ tang bồng lao khổ còn xa Ẩn ước hành sinh khai nhật ánh Nhị Tẩu Nam Huy trì sất mã bạn sơn a Dấu xe mấy dặm dần dà Quan Vũ Nam Non xanh biển thẳm đâu là hương quan? Đào viên nghĩa xứng ngàn vàng Dẫu phơi tóc trắng há sờn lòng son 5. Đăng chúc hộ tùng xa mã Quan Vũ Đường cô Nam Chữ Nôm Lục bát 550 - Cám nước bèo rời rã hai phương chinh 552 Chi nài đạp tuyết dày sương Nhị Tẩu Nam Ngày dài đã ruổi, đêm trường lại dong Hai vai gánh nặng tang bồng Tôn Kiền Nam Anh hùng tiết rạng giữa bòng gian nguy 231 Ngôn TT Thơ Nhân vật Bối cảnh Điệu hát Thể loại Trang ngữ Mịt mù ngút tỏa sương che Nhị Tẩu Nam Vó cầu lần lữa đường xe gập ghềnh Xót thân đầy dọa đã đành Tôn Kiền Nam Cảm thương vì nỗi sợ tình chia phôi Bao giờ tay bợ giềng trời Quan Vũ Nam Xua tan ngút bạc rạng ngời thức xanh Bước cô chinh linh đinh khứ lộ Nam Đoái sơn tiền lổ đổ vân yên 6. Xa trượng đồng đoàn trực vãng Quan Vũ Nạp Châu Nam Chữ Nôm Lục bát 561 - Đấng anh hung bao quản gian nan Thương cùng 562 Bất bình gươm rửa giữa đường Nhị Tẩu đoàn đi đến Cổ Nam Vì chia gánh nghĩa nên vương sợi sầu Thành Non tùng song vỗ lao xao Quan Vũ Nam Trần ai gửi dấu anh hào còn xa 7. Lạc lạc cô tình chỉ tự bi Trương Tại Cổ Thành Xướng Chữ Hán Thất 564 Hàn châm tiêu tác dạ thanh trì Phi ngôn Hốt văn Hồ mã tê phong cấp Đường Không sử anh hung lụy mãn y luật 232 Ngôn TT Thơ Nhân vật Bối cảnh Điệu hát Thể loại Trang ngữ (Quạnh quẽ tình riêng những ủ ê Chày sương rời rạc tiếng dơi khuya Ngựa Hồ hí gió nghe dồn dập Giọt lệ anh hùng gạt lại đầy) Nhất nhạn hoành phi vân tế lộ Xướng Thất 565 - Cô đăng trường chiếu nguyệt biên thành rượu ngôn Cổ 566 Anh hùng tự hữu quyền nghi xứ phong Khả hận đô vong thủ túc tình (Len lỏi đường mây một cánh nhạn Bên thành trăng rọi ánh cô đăng Anh hùng cũng có khi quyền biến Giận bấy quên đành nghĩa đệ huynh) Thử nhật ưng phi trùng khảm địa Trương Mừng hội ngộ Khách Chữ Hán Thất 573 - Quân thần huynh đệ khánh đoàn viên Phi, Quan ngôn Cổ 574 Tam quốc diễn ca minh Hán thống Vũ, Nhị phong Cửu như hiến tụng chúc Nghiêu niên Tẩu và các (Nguy hiểm từ nay thôi đã hết nhân vật Anh em tôi chúa mừng cuộc đoàn viên khác 233 Ngôn TT Thơ Nhân vật Bối cảnh Điệu hát Thể loại Trang ngữ Tam quốc diễn ca chuyện chính thống nhà Hán Chúc cho có những năm tháng thái bình thịnh trị) VII Tân Dã đồn 1. Thừa dạ độ Nam Giang Tào Nhân hành Bài Chữ Hán Ngũ Trừng ngưng khẩu khí hàn Bả Trạo quân đi Tân ngôn 597 - Giang vân diêu bố hộ Dã đồn đánh Đường 598 Kỳ ảnh diệu ba giang Lưu Bị luật (Ban đêm qua song phía Nam Hơi nước sóng mùa gió bấc bốc lạnh Mây bủa trên song dày dặc Bóng cờ xao theo lượn sóng) Một màu thủy bích, sơn thanh Nam Chữ Nôm Lục bát Ngù sâm gió lướt, hơi kình sóng xao Huy trạo nhập thương ba Bả Trạo Bài Chữ Hán Ngũ Đào thanh tráng viễn hà ngôn Hoành giang đồng khoái ẩm Đường Dự tẩu khải hoàn ca luật (Ủi mái chèo lao vào lượn sóng 234 Ngôn TT Thơ Nhân vật Bối cảnh Điệu hát Thể loại Trang ngữ Tiếng sóng rền sông xa Giăng ngang thuyền trên song cùng chè chén Chuẩn bị hát khúc khải hoàn ca) Khải hoàn ca tiêu ma phân tiết Tào Nhân Nam Chữ Nôm Lục bát Tân Dã đồn bóng nguyệt xa xa 2. Viên môn xuất mã biệt Tân thành Quan Vũ Đem quân Khách Chữ Hán Thất 601 - Thống lãnh tỳ hưu, đoạt đạo thành đánh Phàn ngôn 602 Tập thủ Phàn thành qui Hán thất thành Đường Bất giao tặc bối tự tung hoành luật (Cửa tướng ra trận tạm biệt thành Tân Dã Chỉ huy cánh quân mạnh, hành quân nhanh chóng Tập kích chiếm Phàn thành đem về cho nhà Hán Không để cho giặc tào tự ý ngang dọc) 3. Đề thương xuất trận khí lăng không Triệu Tử Nghênh chiến Khách Chữ Hán Thất 603 Đáo thử nam nhi thỉ vị hung Vân Tào Nhân tại ngôn Khiếu nể gian đồ tu khí giáp đồn Tân Dã 235 Ngôn TT Thơ Nhân vật Bối cảnh Điệu hát Thể loại Trang ngữ Thường sơn Triệu tướng tự thân cân Đường (Cầm cương ra trận, khí thế bừng bừng luật Làm trai có được như vậy mới gọi là bậc anh hùng Bảo lũ gian ham tua bỏ vũ khí Có tướng Triệu ở Thường Sơn đích thân xuất trận) 4. Lách ngọn chèo đủng đỉnh sông Tương Ông Chài Trên sông Nam Chữ Nôm STLB 605 Gieo tay lưới nghêu ngao dòng bích Tương xuân Dòng bích mụ chèo tôi thả Nước vừa chừng tăn cá le the Cá mừng đặng nước xo xe Bà Chài Nam Trăng lau mến thú, ngơ bề lợi danh xuân Yên cảnh vẽ vời văn đại khối Ông Chài Tán Thất Giang hồ lai láng đất ngư ông ngôn Cổ Nước lên ròng mặc thế phập phồng phong Thuyên trôi nổi dầu ta thong thả Thong thả cười mây cợt nước Một chữ nhàn nửa phước nửa duyên 236 Ngôn TT Thơ Nhân vật Bối cảnh Điệu hát Thể loại Trang ngữ 5. Rượu tương tư nửa chén nghiêng triền Từ Thứ Từ Thứ từ giã Nam Chữ Nôm STLB 621 Lời tâm ước vài câu dan díu Lưu Bị Dan díu cạn lời chung thủy Tạ chúa công, khanh sĩ dời chân 6. Thiên nhai hải giác ký tương tư Lưu, Tiễn biệt Ngâm Chữ Hán Thất 621 - Bích thủy xuân hoa ngâm biệt cú Quan ngôn 622 Nhất chướng ly bôi tống tử hành Trương Đường Cô sầu ám ám lụy thùy linh Từ Thứ luật Kim bôi ngọc dịch hà kham thưởng Lưu quan Bắc nhạn, Nam hồng tối khả liên Trương (Góc biển chân trời ghi sâu nỗi thương nhớ Nước biêc hoa xuân cùng ngâm bài thơ tiễn biệt Rót chén rượu chia ly tặng người lên đường Nỗi sầu cô đơn nặng nề, nước mắt rơi lã chã Chén vàng, rượu ngọc làm sao uống được nữa Cánh nhạn phía Bắc, chim hồng phía Nam thật thảm thương) Thế sự nhân tình khéo khéo Nam Lục bát Với hỏi người toàn hiếu, toàn trung? 237 Ngôn TT Thơ Nhân vật Bối cảnh Điệu hát Thể loại Trang ngữ Lộ viễn vân thiên lý Lưu, Tán Chữ Hán NNCP Hồn tiêu tửu nhất chi Quan, Mẫu tử chi tình quân ý nhiệt Trương Thất Giang sơn cựu ước ngã tâm di ngôn CP (Ngàn dặm tấm mây xa/Một chén rượu đau lòng Ngài đang nóng lòng về tình mẹ con Lời thề núi sông giữa chúng ta đã có sự đổi dời) Ngậm ngùi kẻ ở người đi Nam Chữ Nôm Lục bát Tình ly tơ vướng, chén ly lụy dầm Bớt cơn sầu cúi đầu từ tạ Từ Thứ Giục vó lừa quay quã dời chân 7. Lụy lâm ly nửa đi, nửa ở Từ Thứ Tiến cử Nam Chữ Nôm Lục bát 623 Nặng chút tình vì nợ quân thần Khổng Minh Vạn kim bửu kiếm tang thu thủy Quan, Đồng Chữ Hán Thất 626 Mã mã xuân sầu chức bố yêng Vân, khách ngôn Cổ Thể phụng tường lân nhân võ tế Trương phong Bích vân hương thảo mộng hồn biên (Gươm báu muôn vàng chứa trong nước mùa thu 238 Ngôn TT Thơ Nhân vật Bối cảnh Điệu hát Thể loại Trang ngữ Nỗi buồn mùa thu đẫm đầy lưng ngựa, dệt nên tấm vải lót yêng Phụng đẹp cùng lân lành bênh cạnh mưa nhân Mây biêc và cỏ thơm quanh bên giấc mơ) VIII Đào Phi Phụng (hồi 4) 1. Vạn lý trông chừng cúi lạy Đào Phi Tại miếu Quan Nam Chữ Nôm STLB 645 Trung hiếu này ai biết ai hay Phụng công Những năm tiết nghĩa bia bài Quân, thần dốc gánh hai vai nặng quằng 2. Hùng binh vạn đội cấp đăng trình Diệm Cửu Đi tìm Hoàng Khách Chữ Hán Thất 647 Diện từ bắc địa vọng Đông thành Quỳ tử ngôn Nhất triêu ngư thủy quân thần hội Đường Thiên tải phong vân tiết nghĩa danh luật (Muôn đội binh lạnh lên đường gấp Xoay mặt từ giã đất Bắc, ngóng về thành Đông Ngày nào vua tôi cá nước họp lại Gió mây ngàn dặm nêu cao tiết nghĩa) 3. Thiên sinh anh chúa trị Đường Ngu Đào Phi Đi thi tại triều Ngâm Chữ Hán Thất 656 Phục nghĩa trừ tàn phản tặc tru Phụng đình Cát ngôn Cổ Tẩy liễu càn khôn thanh uế đức (mang tên Thượng phong Trung hương vũ trụ mãn thiên thu Nguyên 239 Ngôn TT Thơ Nhân vật Bối cảnh Điệu hát Thể loại Trang ngữ Vạn Chung) 4. Biến, quyền một thuở, hiếu trung muôn trời Vạn Trên đường đi Nam Chữ Nôm Lục bát 663 - Đồng thành đoái đã gần nơi. Chung đến Đồng 664 Nhè nhẹ tới nơi quan ải thành Đấng anh hung dễ nại tồn vong San không hề tử dã không Sống không danh lợi, thác xong nợ đời Khỏi ba tấc đất thời rồi Lão bành chẳng gặp Nhan Hồi cũng ưng 5. Bất trụ nỗi tình trung hiếu Liễu Gặp Đào công Nam Chữ Nôm Lục bát 676 Gánh cang thường nặng trĩu hai vai Nguyệt ngoài trận mạc Cản sát tặc nhi, binh điệp điệp Tâm Khách Chữ Hán Thất 681 Triển khai thần kiếm võ oanh oanh ngôn Cổ Tu mi mạc đạo anh hùng chí phong Tiếu ngã hồng nhân phụ nữ danh (Chặn đường giết giặc, binh đông lớp lớp Múa gươm thần sáng lấp lánh Các chàng chớ vội khoe anh hùng Buồn cười ta lại mang danh là con gái) 240 Ngôn TT Thơ Nhân vật Bối cảnh Điệu hát Thể loại Trang ngữ IX Sơn Hậu (hồi 3) 1. Phản mã hồi thành tự điểu phi Tạ Ôn Trở về triều Khách Chữ Hán Thất 699 Cung thân triều nội đắc tương tri Đình đình báo công ngôn Bách chiến bách thành giai bách thắng sau khi chém Đường Thanh danh vạn đại hiển kỳ công Linh Tá, đuổi luật (Quay ngựa về thành nhanh như chim bay Kim Lân ra Trình bày cho đình thần biết Sơn Hậu Đánh trăm trận, phá trăm thành đều thắng Tiếng tăm muôn đời rạng rỡ công lao) 2. Phải vậy làm sao biết được Thứ phi Trên đường Nam Chữ Hán Lục bát 704 Luống ngậm ngùi vận nước nỗi non thất lạc 3. Bảy chục thân già chi sá Đổng mẫu Tâm sự nhớ Nam Chữ Nôm Lục bát 718 Nghiến rang cười ha hả trời ơi! con bị Hổ Bôn lừa bắt ra thành Sơn Hậu 4. Ngọn cờ tiếng trống bơ thờ Kim Lân Trở về Sơn Nam Chữ Nôm Song thất 729 Thảo thân, ngay chúa, sững sờ hai vai Hậu lục bát Lướt đường mai, phong ai bao sá Sơn Hậu thành đoái đã gần đây 241 242 7.2. Khảo sát hiện tượng mượn thơ văn cổ Trung Hoa trong kịch bản tuồng Đào Tấn TT Mượn thơ/văn Nguồn gốc, ý nghĩa Trang I Hoàng Phi Hổ quá Giới Bài quan - “Hồn lai phong lâm thanh” gốc từ câu thơ Hồn lai phong lâm thanh phiêu của Đỗ Phủ trong bài Mộng Lý Bạch. phiêu hồ di thế 1. - “Giang tâm thu nguyệt bạch” gốc câu thơ 114 Giang tâm thu nguyệt bạch trong bài Tỳ bà hành của Bạch Cư Dị “Duy diếu diếu hề tương vong kiến giang tâm thu nguyệt bạch” II Trầm Hương các Ý thơ trong bài Khuê oán của Vương Xương Linh; 1. Mạch đầu dương liễu 186 “Nhất kiếm mạch đầu dương liễu sắc Hối giao phu tế mịch phong hầu” Nước Trường Giang lờn lợt. Tình người đi Đạm đạm trường giang thủy xa bùi ngùi. Gốc từ lời thơ của Vi Thừa 2. 187 Du du viễn khách tình Khánh làm khi chia tay người em ruột để khi làm quan xa. Lấy từ tứ thơ trong bài Hoàng Hạc lâu của Thôi Hiệu: 3. Hương quan hà xứ thị? 186 “Nhật mộ hương quan hà xứ thị Yên ba giai thượng sử nhân sầu” Nỗi hận thẳm sâu khôn xiết kể Biệt hận chuyển thâm hà xứ tả Lòng sầu chồng chất những lo lâu 4. Sầu tâm nhất bội trưởng ly ưu Gốc từ thơ Lý Đoan nhớ bạn là Tư Không – Văn Minh Cây núi chập chùng nhìn nẻo khuất Lãnh thụ trùng dà thiên lý mục Dòng sông uốn khúc tựa lòng đâu 5. Giang lưu khúc tợ cửu hồi 187 Gốc từ thơ của Liễu Tôn Nguyên đứng trên trường lầu Liễu Châu ngắm cảnh, làm gửi cho bạn Ngoảnh về quê cũ dạ bùi ngùi Cố viên hồi thủ bất thăng bi 6. Rời rạc trống canh quán tả tơi 188 Lữ điếm tiêu sơ, cổ giác trì Nỗi khổ chia lìa lòng khách bận 242 243 TT Mượn thơ/văn Nguồn gốc, ý nghĩa Trang Sầu khách chánh thâm Vào màn chi đó, gió xuân ơi hương tứ khổ Gốc 2 câu sau từ bài Xuân tứ của Lý Bạch : Xuân phong hà sự nhập la vi « Xuân phong bất tương thức Hà sự nhập la vi » Chẳng lo ngõ trước không có bạn bè 7. Mạc sầu tiền bộ vô tri kỷ 197 Lời thơ của Cao Thích Đương đắc quân vương đới tiếu Sẽ được nhà vua mê thích ngắm 8. 197 khan Lời thơ của Lý Bạch Tây sơn lạc nguyệt lâm thiên Non đoài trăng xế soi nghi trượng trượng Cửa bắc mây lành phủ cấm vi Bắc khuyết tình vân nhiễu Chốn chốn phong quang chào đón khách 202, 9. cấn vi Mấy ai nhân thế biết xuân này 203 Niên hoa đáo xứ giai kham Ở đây tác giả gộp các câu thơ Đường thành thưởng bài hát. Hai câu đầu của Sầm Sâm, hai câu Xuân sắc nhân gian tống bất tri sau của Trương Trọng Tố Đêm tĩnh cung tây bát ngát hương Xanh xanh sắc liễu cỏ non vàng Tây cung dạ tĩnh bách hoa hương Trăng lên ao sáng ta về nghỉ Thảo sắc thanh thanh liễu Hoa đẹp sao bằng dáng mĩ nhân sắc hoàng Đây là bốn câu thơ tập Đường. Câu đầu 213, 10. Đãi đáo nguyệt minh trì trong Tây Cung xuân oán của Vương 214 thượng túc Xương Linh; câu thứ hai trong bài Xuân Phù dung bất cập mỹ nhân tứ của Giả Chí; câu thứ ba chưa rõ của trang ai; Câu thứ tư trong bài Tây thu cung oán của Vương Xương Linh Len lỏi mây mù ngắm đó đây Bộ bộ vân tình vọng thúy vi Thực hư kín hở, đố ai hay Hành tàng dư thiệt tự gia tri Tiệc xuân đài lộc vui đêm vắng 11. Lộc đài hương dạ khai xuân yến 226 Chỉ thấy bên đời quỉ hát say Chỉ thính đăng tiền quỉ Lấy ý câu thơ của Bồ Tùng Linh trong Liêu xướng thi trai chí dị: 243 244 TT Mượn thơ/văn Nguồn gốc, ý nghĩa Trang “Liệu ưng yếm tác nhân gian ngữ Chỉ thính thu phần quỉ xướng thi” III Hộ sinh đàn Mượn ý thơ trong bài Khuê oán của Vương Xương Linh đời Đường: Khéo loi thoi dương liễu “Khuê trung thiếu phụ bất tri sầu 1. 268 mạch đầu Xuân nhật ngưng trang thướng thúy lâu Hốt kiến mạch đầu dương liễu sắc Hối giao phu tế mịch phong hầu” Mượn ý trong bài Y châu ca: “Đả khởi hoàng oanh nhi Càng thánh thót hoàng oanh 2. Mạc giao chi thượng đề 268 chi thượng Đề thời kinh thiếp mộng Bất đắc đáo Liêu tê” Năm 756 có loạn An Lộc Sơn. Nhà thơ Đỗ Phủ đưa vợ con chạy ta Phu Châu, một mình Long sơn thử dạ trung sơn nguyệt đi tìm vua. Giữa đường ông bị giặc bắt đưa 3. Duy hữu thâm khuê độc tự về Trường An. Đêm trông trăng vịnh thơ có 272 khan câu: “Kim dạ Phu Châu nguyệt Khuê trung chỉ độc khan” Mượn ý trong bài phú Biệt của Giang Yên Thế thượng tiêu hồn duy hữu biệt 4. (người đời Lương, thế kỷ VI): “Ám nhiên tiêu 273 Nhân sinh hà xứ khả ưu vong hồn giải, duy hữu biệt dĩ nhi” Gốc lời thơ của Trương Vị đời Đường: 5. Sơn trung thán bì mã “Bỉ mã sơn trung sầu nhật vãn” 298 (Buồn nỗi trời chiều ngựa mỏi trong núi) Gốc lời thơ Trương Cửu Linh đời Đường 6. Hải thượng cô bi hồng “Cô hồng hải thượng lai” 298 (Cánh nhạn lẻ từ trên biển bay về) 244 245 TT Mượn thơ/văn Nguồn gốc, ý nghĩa Trang Mượn ý thơ Đường: “Kê thanh mao điểm Lần bước qua Hồ Lại Việt nguyệt, nhân tích bảng kiều sương” (Nhà 7. Mặt bơ phờ mái nguyệt cầu 298 tranh trăng rọi gà eo ốc, cầu ván sương in dấu sương bộ hành) Đây là hai câu thơ của Đỗ Phủ: Ngã hành sơn xuyên dị 8. Ta đi nước non lạ 298 Hốt thiên tại nhất phương Bỗng ở một phương trời Lời thơ của Lưu Võ Tích đời Đường: “Lân 9. Hà sự đáo thiên nhai? 298 quân hà sự đáo thiên nhai” Lời thơ của Lê Luân (748-800) đời Đường:“Thùy niệm vi Nho phùng thế nạn” 10. Vi Nho phùng thế nạn 299 (Ai nghĩ rằng thân nhà Nho gặp phải thời buổi khó khăn) Trong lời thơ gửi bạn của Liễu Tôn Nguyên (đời Đường): “Hải sầu thiên tứ chính mang 11. Sầu tứ cánh mang mang 299 mang”(Trông trời biển mênh mông, Dạ sầu muôn hộc não nùng lắm thay) - Vế trước là thơ Vương Duy đời Đường Khuyễn quân tận tửu bôi “Khuyến quân cánh tận nhất bôi tửu”. 12. 307 Dữ quân ca nhất khúc - Vế sau là thơ của Lý Bạch đời Đường trong bài Tương tiến tửu - Trong bài phú biệt của Giang Yêm có câu: “Xuân thảo bích sắc, xuân thủy lục ba, Tống quân Nam Phố, thương như chi hà”. Kỷ hồi Nam phố xuân ba lục 13. - Trong bài tựa tập thơ Đỗ Phủ viết: “Ta ốm 308 Thử nhật ba sơn cựu vũ tình nằm nhà trọ ở Trường An, trời mưa dầm, bạn bè trong các kỳ mưa trước (cựu vũ) đều có đến thăm, kì mưa này không đến” Mượn ý trong bài Thiên vấn của 14. Tâm sự này khó hỏi trời xanh 315 Khuất Nguyên 245 246 TT Mượn thơ/văn Nguồn gốc, ý nghĩa Trang Hai câu thơ này lấy chữ trong bài từ Tương Trì trì bạch nhật vãng phu nhân của Khuất Nguyên : “Níu níu hề 15. 315 Níu níu bi phong sanh thu phong” và trong bài Cảm ngộ của Trần Tử Ngang “Trì trì bạch nhật vãn” Phu tế khinh bạc nhi, Câu thứ nhất trong bài Giai nhân của Đỗ 16. Tại thế bất xứng ý Phủ; Câu thứ hai của Lý Bạch “Nhân sinh tại 315 thế bất xứng ý” Câu thứ nhất là lời thơ của Lưu Trường Khanh “Tịch mịch giang sơn diêu lạc Giang sơn diêu lạc xứ, xứ/Lâm quân hà sự đáo nhiên nhai” 17. 315 Tử biệt dĩ thôn thanh Câu thứ hai của Đỗ Phủ trong bài mộng Lý Bạch : “Tử biệt dĩ thôn thanh, sinh biệt trường trúc trắc” Lấy chữ trong 2 câu thơ của Lý Đoan đời Biết đâu mây Sở mộng Tần là 18. Đường: “Tần địa cố nhân thành viễn mộng/Sở 334 đâu? thiên lương vũ tại cô chu” Nước đà chảy xuống nhân Thơ vịnh Lưu Nguyễn nhập thiên thai có câu: 19. gian/Hoa trôi động khẩu xê “Hoa lưu đỗng khẩu ưng trường tại/Thủy đáo 337 xang một mình nhân gian định bất hồi” IV Diễn võ đình Thê thê thu sắc mộ Lạc lạc lữ hoài cô Gốc từ câu thơ của Vương Hàm trong Lương 1. Chinh chiến kỷ nhân hồi 427 châu từ Túy ngọa sa trường quân mạc tiếu Hương quan hà xứ thị? Gốc từ câu thơ của Thôi Hiệu trong Hoàng 2. 427 Yên ba giai thượng sử nhân sầu Hạc lâu 246

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • pdfluan_an_kich_ban_tuong_dao_tan_mot_so_van_de_noi_dung_va_ngh.pdf
  • pdfBìa, mục lục và sơ đồ của Luận án.pdf
  • pdfNhững kết luận mới (Tiếng Anh).pdf
  • pdfNhững kết luận mới của LA (tiếng Việt).pdf
  • pdfTóm tắt Luận án Tiếng Anh (Đinh Thị KIm Thương).pdf
  • pdfTóm tắt Luận án Tiếng Việt (Đinh Thị Kim Thương).pdf
Tài liệu liên quan