VIỆN HÀN LÂM
KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM
HỌC VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI
LÊ ANH HÒA
HÔN NHÂN CỦA NGƯỜI TÀY Ở VÙNG BIÊN GIỚI
HUYỆN PHỤC HÒA, TỈNH CAO BẰNG
LUẬN ÁN TIẾN SĨ NHÂN HỌC
HÀ NỘI, 2019
VIỆN HÀN LÂM
KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM
HỌC VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI
LÊ ANH HÒA
HÔN NHÂN CỦA NGƯỜI TÀY Ở VÙNG BIÊN GIỚI
HUYỆN PHỤC HÒA, TỈNH CAO BẰNG
Ngành: Nhân học
Mã số: 9 31 03 02
NGỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC:
1. TS. LÊ DUY ĐẠI
2. TS. ĐẬU TUẤN NAM
HÀ NỘI, 2019
LỜI CAM ĐOAN
Tôi x
185 trang |
Chia sẻ: huong20 | Ngày: 14/01/2022 | Lượt xem: 417 | Lượt tải: 0
Tóm tắt tài liệu Luận án Hôn nhân của người Tày ở vùng biên giới huyện Phục hòa, tỉnh Cao Bằng, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
in cam đoan luận án tiến sĩ Hôn nhân của người Tày ở vùng biên
giới huyện Phục Hòa, tỉnh Cao Bằng là kết quả nghiên cứu của cá nhân, với
các số liệu trung thực, nguồn tư liệu bổ trợ đều được trích dẫn đầy đủ, chính
xác.
Nếu có sai phạm, tôi xin hoàn toàn chịu trách nhiệm.
Tác giả luận án
Lê Anh Hòa
LỜI CẢM ƠN
Để hoàn thành luận án tiến sĩ đề tài: Hôn nhân của người Tày ở vùng
biên giới huyện Phục Hòa, tỉnh Cao Bằng, ngoài nỗ lực của bản thân, tôi đã
nhận được sự chỉ dạy, động viên, giúp đỡ rất nhiều từ tập thể giáo viên, TS.
Lê Duy Đại và TS. Đậu Tuấn Nam. Mỗi lời chỉ dạy của các thầy là một định
hướng để tôi hoàn thành nghiên cứu này. Vì vậy, tôi xin trân trọng được bày
tỏ lòng biết ơn đến hai thầy giáo của mình.
Bên cạnh các thầy giáo hướng dẫn trực tiếp, tôi nhận được sự chỉ dạy
tận tình, những giúp đỡ và những lời khích lệ của tập thể các giáo sư, phó
giáo sư, tiến sĩ là giảng viên Khoa Dân tộc học và Nhân học thuộc Học viện
Khoa học xã hội, Viện Hàn lâm Khoa học xã hội Việt Nam, nhất là PGS.TS.
Phạm Quang Hoan, PGS.TS. Nguyễn Ngọc Thanh, PGS.TS. Đặng Thị Hoa,
PGS.TS. Nguyễn Song Hà. Tôi xin trân trọng cảm ơn.
Tôi xin trân trọng cảm ơn Lãnh đạo Bảo tàng Dân tộc học Việt Nam đã
tạo điều kiện cho tôi được học tập, trưởng thành trong nghề mà mình theo
đuổi. Cảm ơn các đồng nghiệp, trong đó phải kể đến PGS.TS. Phạm Văn
Dương, TS. Vi Văn An, TS. Võ Mai Phương, PGS.TS. Nguyễn Duy Thiệu,
những người luôn nhắc nhở, động viên tôi, đồng thời đưa ra những lời khuyên
vô cùng quý giá.
Cuối cùng và vô cùng quan trọng, tôi xin cảm ơn tới một số cán bộ
chuyên trách tại một số phòng ban của UBND huyện Phục Hòa, tỉnh Cao
Bằng và những người dân đã kể cho tôi nghe về câu chuyện hôn nhân, cuộc
sống mưu sinh, những vui buồn của họ ở vùng biên giới huyện Phục Hòa.
Hà Nội, ngày tháng năm 2019
MỤC LỤC
MỞ ĐẦU .......................................................................................................... 1
CHƯƠNG 1. TỔNG QUAN TÌNH HÌNH NGHIÊN CỨU, CƠ SỞ LÝ
THUYẾT, KHÁI QUÁT VỀ TỘC NGƯỜI VÀ ĐỊA BÀN NGHIÊN
CỨU ................................................................................................................ 11
1.1. Tổng quan tình hình nghiên cứu .............................................................. 11
1.2. Cơ sở lý thuyết ......................................................................................... 25
1.3. Khái quát địa bàn nghiên cứu................................................................... 34
1.4. Người Tày ở vùng biên giới huyện Phục Hòa ......................................... 40
CHƯƠNG 2. ĐẶC ĐIỂM HÔN NHÂN CỦA NGƯỜI TÀY TRUYỀN
THỐNG VÀ BIẾN ĐỔI ................................................................................ 50
2.1. Đặc điểm hôn nhân truyền thống ............................................................. 50
2.2. Những biến đổi trong hôn nhân ............................................................... 77
CHƯƠNG 3. HÔN NHÂN XUYÊN BIÊN GIỚI ....................................... 94
3.1. Đặc điểm vùng biên giới với hôn nhân xuyên biên giới .......................... 94
3.2. Tình hình hôn nhân xuyên biên giới ở vùng biên giới huyện Phục Hòa . 95
3.3. Những đặc điểm kết hôn xuyên biên giới .............................................. 102
3.4. Lễ cưới của các cặp hôn nhân xuyên biên giới ...................................... 112
3.5. Mức độ liên lạc gia đình ......................................................................... 115
3.6. Một số yếu tố cơ bản tác động đến hôn nhân xuyên biên giới ở vùng biên
....................................................................................................................... 116
CHƯƠNG 4. NHỮNG YẾU TỐ TÁC ĐỘNG ĐẾN BIẾN ĐỔI, GIÁ TRỊ
HÔN NHÂN VÀ MỘT SỐ VẤN ĐỀ ĐẶT RA ......................................... 121
4.1. Những yếu tố tác động đến biến đổi hôn nhân ...................................... 121
4.2. Giá trị của hôn nhân ............................................................................... 131
4.3. Một số vấn đề đăt ra đối với hôn nhân vùng biên giới ....................... 137
4.4. Một số kiến nghị ..................................................................................... 143
KẾT LUẬN .................................................................................................. 147
DANH MỤC CÔNG TRÌNH, BÀI BÁO KHOA HỌC NGHIÊN CỨU
SINH ĐÃ CÔNG BỐ LIÊN QUAN ĐẾN ĐỀ TÀI LUẬN ÁN ............... 149
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO ................................................... 150
DANH MỤC CÁC CHỮ VIẾT TẮT
CT Chủ tịch
GS Giáo sư
NK Nhập khẩu
PGS Phó giáo sư
PL Phụ lục
Tc Tạp chí
Tr Trang
TS Tiến sĩ
UBND Uỷ ban nhân dân
USD Đô la Mỹ
VDTH Viện Dân tộc học
XK Xuất khẩu
XNK Xuất nhập khẩu
DANH MỤC BẢNG, BIỂU ĐỒ
Bảng 1: Dân số các xã, thị trấn vùng biên giới huyện Phục Hòa ................... 42
Bảng 2. Xuất phát của các cuộc hôn nhân (%) ............................................. 109
Bảng 3. Lý do chính quyết định hôn nhân (%) ............................................. 112
Bảng 4. Tỷ trọng mức độ gặp mặt với người nhà ở Cao Bằng (% hộ) ......... 116
Biểu đồ thống kê hôn nhân hỗn hợp tộc người ở thị trấn Tà Lùng
1
MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Hôn nhân là vấn đề cơ bản trong nghiên cứu nhân học, một phần quan
trọng trong đời sống xã hội gắn liền với những tập tục, nghi lễ thể hiện sắc thái
văn hóa riêng của mỗi tộc người, qua đó thừa nhận tính hợp pháp của quan hệ
giới tính. Ở chiều cạnh khác,
Cho đến nay đã có nhiều nghiên cứu về hôn nhân của các tộc người tại các
vùng miền khác nhau nhưng nghiên cứu trường hợp tại vùng biên giới Việt -
Trung, nơi đời sống kinh tế, xã hội chịu ảnh hưởng sâu sắc từ các dòng chảy qua
lại hai bên biên giới gồm: “dòng chảy của hàng hóa, của tư tưởng và của con
người cũng như sự tương tác qua lại và quá trình tạo ra các ranh giới ở vùng
biên” [23, tr. 28] thì chưa nhiều.
Trong bối cảnh Việt Nam đang tiến hành công nghiệp hóa, hiện đại hóa
đất nước, kinh tế phát triển nhanh chóng, hội nhập quốc tế diễn ra sâu rộng, vùng
biên giới xa xôi vốn được xem như vùng ven, vùng đệm không nằm ngoài quy
luật đó, thậm chí đôi chỗ quá trình phát triển, biến đổi còn diễn ra nhanh hơn
nhiều khu vực nằm sâu trong nội địa. Tại đây, những thay đổi đang diễn ra rõ nét
ở hầu hết các lĩnh vực đời sống xã hội tộc người, điển hình là giao lưu, giao thoa
văn hóa tộc người diễn ra nhanh chóng. Ở khía cạnh hôn nhân, các cuộc hôn
nhân hỗn hợp tộc người ngày càng trở nên phổ biến. Hôn nhân xuyên biên giới
giữa các tộc người ở vùng biên giới hai quốc gia đã và đang là vấn đề có thể gây
mất ổn định an ninh xã hội. Bởi vậy, nghiên cứu về hôn nhân vùng biên giới bên
cạnh góp phần bảo tồn bản sắc văn hóa tộc người còn giải quyết được các thách
thức của cộng đồng nơi đây trên bước đường phát triển, hội nhập toàn cầu hóa
hiện nay.
2
Người Tày là tộc người thiểu số có dân số lớn nhất ở Việt Nam. Theo
Tổng điều tra Dân số và Nhà ở năm 2009, người Tày có 1.626.392 người, cư trú
tập trung ở các tỉnh phía Bắc Việt Nam. Riêng ở tỉnh Cao Bằng, người Tày cư
trú ở 12 huyện và 01 thành phố tỉnh lỵ, trong đó có 7 huyện biên giới, với dân số
207.805 người, chiếm 22,5% tổng số người Tày tại Việt Nam [128, tr. 151]. Họ
có chung nguồn gốc lịch sử và tương đồng văn hóa với người Nùng (Việt Nam)
và người Choang (Trung Quốc), được xem là cư dân sinh sống lâu đời ở các tỉnh
miền núi phía Bắc nhưng đồng thời có quan hệ tộc người liên xuyên biên giới.
Ở vùng biên giới huyện Phục Hòa, tỉnh Cao Bằng, nơi có cửa khẩu quốc
tế Tà Lùng tương đối sôi động, nhờ vậy đời sống kinh tế, xã hội của người Tày
đang có những thay đổi, chuyển biến nhanh chóng. Trong đời sống thường nhật,
họ có mối quan hệ mật thiết với các tộc người cùng cư trú như người Nùng,
người Kinh (Việt Nam) và người Choang ở bên kia biên giới Trung Quốc.
Nghiên cứu về hôn nhân của người Tày tại đây bên cạnh cho thấy các đặc điểm
hôn nhân của tộc người còn thấy bức tranh về đời sống cư dân vùng biên giới
Việt – Trung nói chung, thấy được quá trình phát triển tộc người, khả năng thích
ứng, những biến đổi văn hóa và hiện trạng hôn nhân xuyên biên giới. Những vấn
đề đó là cơ sở đề xuất các chính sách nhằm bảo tồn, phát huy giá trị văn hóa tộc
người trong hôn nhân, các chính sách phát triển bền vững an ninh xã hội vùng
biên giới.
Xuất phát từ ý nghĩa khoa học và các giá trị thực tiễn trên, NCS chọn chủ
đề Hôn nhân của người Tày ở vùng biên giới huyện Phục Hòa, tỉnh Cao
Bằng làm đề tài luận án tiến sĩ Nhân học.
2. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu của luận án
2.1. Mục đích
Nghiên cứu, phân tích đặc điểm truyền thống và biến đổi hôn nhân của
người Tày ở vùng biên giới huyện Phục Hòa, tỉnh Cao Bằng nhằm góp phần bảo
3
lưu giá trị văn hóa tộc người, thấy được quá trình phát triển tộc người, quan hệ
tộc người trong bối cảnh lịch sử, kinh tế, xã hội vùng biên đã và đang có nhiều
thay đổi.
Làm rõ xu hướng và những vấn đề đặt ra trong hôn nhân của người Tày ở
đây, nhất là vấn đề hôn nhân xuyên biên giới, từ đó đề xuất các giải pháp nhằm
phát huy các giá trị của hôn nhân trong mục tiêu bảo tồn các giá trị văn hóa tộc
người.
2.2. Nhiệm vụ nghiên cứu
- Xây dựng và làm rõ cơ sở lý luận, ý nghĩa khoa học, thực tiễn nghiên
cứu về hôn nhân của người Tày ở vùng biên giới.
- Nghiên cứu, trình bày quan niệm, nguyên tắc, hình thức hôn nhân, các
bước trong nghi lễ hôn nhân, cư trú sau hôn nhân và hôn nhân xuyên biên giới
để thấy đặc điểm hôn nhân của người Tày ở vùng biên giới.
- Chỉ ra những biến đổi trong hôn nhân, các yếu tố tác động, những vấn đề
và xu hướng hôn nhân, đồng thời nêu ra các giải pháp để bảo lưu, phát huy các
giá trị truyền thống trong cuộc sống đương đại.
3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu của luận án
3.1. Đối tượng nghiên cứu
Đối tượng nghiên của luận án là hôn nhân của người Tày ở vùng biên giới
huyện Phục Hòa, tỉnh Cao Bằng.
Trong đó, đề tài chú trọng nghiên cứu các đặc điểm, những biến đổi của
hôn nhân và một khía cạnh đặc biệt khác là những người kết hôn qua biên giới
Việt - Trung (hôn nhân xuyên biên giới).
3.2. Phạm vi nghiên cứu
- Phạm vi vấn đề nghiên cứu: tìm hiểu quan niệm, tập quán, các hình thức,
nghi lễ hôn nhân, những biến đổi hôn nhân truyền thống và thực trạng hôn nhân
xuyên biên giới của người Tày ở vùng biên giới huyện Phục Hòa.
4
- Phạm vi không gian: nghiên cứu được thực hiện tại 4 xã (Triệu Ấu, Cách
Linh, Đại Sơn, Mỹ Hưng) và hai thị trấn (Hòa Thuận, Tà Lùng) của huyện Phục
Hòa, tỉnh Cao Bằng. Đó là những địa phương có đường biên giới quốc gia giữa
nước Cộng hòa Xã hội chủ nghĩa Việt Nam và nước Cộng hòa Nhân dân Trung
Hoa, dân cư phần lớn là người Tày, Nùng và có mối quan hệ mật thiết với những
người đồng tộc ở bên kia biên giới.
- Phạm vi thời gian: Năm 1986, Việt Nam bắt đầu công cuộc “Đổi mới”
chuyển đổi từ nền kinh tế kế hoạch hóa tập trung quan liêu, bao cấp sang nền
kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa giúp kinh tế đất nước phát triển
nhanh, ổn định, từ đó văn hóa, xã hội có nhiều biến đổi sâu sắc. Nhiều nghiên
cứu về kinh tế, văn hóa, xã hội vì vậy chọn năm 1986 làm dấu mốc để so sánh sự
thay đổi các vấn đề cần nêu.
Cuộc sống của người Tày ở vùng biên giới Việt - Trung nằm trong bối
cảnh chung của đất nước nhưng có những đặc điểm riêng. Một mốc thời gian
đặc biệt quan trọng, đem đến nhiều thay đổi hơn là năm 1991, khi Việt Nam và
Trung Quốc bình thường hóa quan hệ sau chiến tranh biên giới kéo dài 10 năm
(1979-1989). Kể từ đây, việc thông thương, qua lại biên giới hai quốc gia được
khôi phục; các sản phẩm, vật nuôi của cư dân vùng biên không chỉ được bán ở
địa phương mà còn được bán cho người Trung Quốc và ngược lại. Điều đó góp
phần không nhỏ giúp đời sống kinh tế của cư dân vùng biên khởi sắc, đem đến
những chuyển biến, thay đổi trong đời sống văn hóa, xã hội trong đó có hôn
nhân và hình thức kết hôn xuyên biên giới gia tăng. Bởi vậy, NCS chọn năm
1991 là mốc thời gian đánh dấu sự biến đổi trong hôn nhân và các khía cạnh xã
hội khác của người Tày ở vùng biên giới huyện Phục Hòa, tỉnh Cao Bằng.
4. Phương pháp luận và phương pháp nghiên cứu của luận án
4.1. Phương pháp luận
5
Trong quá trình nghiên cứu và viết luận án, mặc dù hôn nhân được xác
định là mục tiêu nghiên cứu nhưng NCS không xem đó là một thành tố độc lập
mà được đặt trong bối cảnh văn hóa, xã hội của người Tày ở vùng biên giới
huyện Phục Hòa, cũng như trong mối quan hệ với cộng đồng các tộc người khác
để thấy rõ những nét riêng biệt hoặc tương đồng trong hôn nhân của người Tày.
Luận án dựa vào quan điểm triết học của chủ nghĩa duy vật biện chứng,
chủ nghĩa duy vật lịch sử để nhìn nhận, xem xét sự vật và hiện tượng. Hôn nhân
được đặt trong bối cảnh lịch sử phát triển tộc người, cộng đồng, theo dòng thời
gian và không gian xã hội. Xem xét hôn nhân trong sự vận động, biến đổi của
tổng hòa các nhân tố từ kinh tế, chính trị, xã hội, hoàn cảnh cá nhân để lý giải
những nguyên do căn bản, cội nguồn tạo nên sự thay đổi trong hôn nhân của
người Tày ở huyện Phục Hòa hiện nay.
Luận án dựa trên quan điểm của chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí
Minh và các quan điểm của Đảng Cộng sản Việt Nam về vấn đề hôn nhân như
Luật hôn nhân gia đình, Luật bình đẳng giới...; các chính sách dành cho các tộc
người thiểu số cư trú khu vực miền núi, biên giới hải đảo, chính sách bảo tồn và
phát huy bản sắc văn hóa tộc người làm cơ sở trong đánh giá, nhìn nhận về hôn
nhân của người Tày ở vùng biên giới huyện Phục Hòa hiện nay.
Các quan điểm, tư tưởng trên là cơ sở định hướng và phát triển tư duy
nghiên cứu, giúp NCS nhìn nhận, đánh giá đúng đắn, chân xác hơn các vấn đề
trong hôn nhân của người Tày ở vùng biên giới huyện Phục Hòa.
6
4.2. Phương pháp nghiên cứu
Luận án thực hiện trong khoảng thời gian tương đối dài, từ năm 2012 đến
nay, nhờ vậy, các thông tin, nhận định có thêm thời gian kiểm chứng. Để có
được nguồn tư liệu và hoàn thiện luận án, NCS sử dụng một số phương pháp
nghiên cứu khác nhau, gồm: điền dã dân tộc học, phương pháp chuyên gia,
phương pháp phân tích, so sánh. Trong đó, điền dã dân tộc học là phương pháp
chính cho phép có được nguồn tư liệu phản ánh chân thực, sinh động thực tiễn
vấn đề nghiên cứu.
- Phương pháp điền dã dân tộc học
Điền dã dân tộc học là phương pháp nghiên cứu đặc thù của ngành Dân
tộc học, Nhân học. Ở đây, quá trình tham gia trực tiếp, hòa nhập của người
nghiên cứu vào cộng đồng nghiên cứu, với các thao tác cơ bản: quan sát tham
dự, phỏng vấn sâu và thảo luận nhóm. Trong thời gian từ năm 2012 đến nửa đầu
năm 2019, NCS đã có nhiều chuyến điền dã tại địa bàn nghiên cứu, mỗi chuyến
thường kèo dài từ một tới hai tuần. Chuyến điền dã gần nhất diễn ra vào cuối
tháng 4 năm 2019 trong thời gian một tuần. Địa bàn nghiên cứu tương đối rộng,
có 4 xã và 2 thị trấn biên giới, vì vậy, mỗi chuyến điền dã, NCS thường chỉ có
thể tìm hiểu tại 2 hoặc 3 đơn vị hành chính trong số đó. Việc lựa chọn địa điểm
nghiên cứu phụ thuộc vào dạng thông tin cần khai thác với mục tiêu cơ bản có
được đa dạng giọng nói của chủ thể, bên cạnh phản ánh hoàn cảnh, quan điểm cá
nhân về vấn đề hôn nhân còn thấy được đặc điểm chung của cộng đồng cùng cư
trú tại từng địa bàn riêng biệt. Có những chuyến điền dã chỉ đơn thuần tham dự
đám cưới của một đôi bạn trẻ. Nhìn chung, mỗi chuyến điền dã, các thao tác
nghiên cứu: phỏng vấn sâu, quan sát tham dự, thảo luận nhóm đều được NCS sử
dụng.
+ Phỏng vấn sâu: giữ vai trò quan trọng nhất trong nghiên cứu này bởi nó
cho phép NCS có được đa dạng góc nhìn, quan điểm của các đối tượng nghiên
7
cứu. Đối tượng lựa chọn phỏng vấn sâu rất đa dạng, có những người làm công
tác quản lý tại cấp huyện, cấp xã và phần nhiều là dân ở các xóm/bản ở nhiều lứa
tuổi, trình độ khác nhau.
Tại cơ quan cấp huyện và xã, đối tượng phỏng vấn là các cán bộ quản lý
về kinh tế, dân tộc, văn hóa, thống kê, tư pháp, công an nhằm thu được các báo
cáo, số liệu và đánh giá về các vấn đề kinh tế, xã hội, hôn nhân và an ninh tại địa
phương. Vì vậy, tính ở cấp huyện và 06 đơn vị hành chính thuộc cấp xã, thị trấn
vùng biên, NCS phỏng vấn khoảng 30 người làm công tác quản lý. Tại các
thôn/xóm/bản của người Tày, đối tượng phỏng vấn đa dạng hơn, thường có
trưởng thôn, chi hội trưởng phụ nữ và nhiều người khác ở các lứa tuổi, giới tính,
trình độ, vị trí xã hội khác nhau, có người đã kết hôn nhiều năm và chưa kết
hôn... Đối với người dân, các câu hỏi phỏng vấn sâu dành thường xoay quanh
câu chuyện hôn nhân của họ và các thành viên trong gia đình, ở đó có quan niệm
hôn nhân, lựa chọn người kết hôn, việc thực hiện các nghi lễ hôn nhân... Số
lượng người được phỏng vấn sâu sau nhiều đợt nghiên cứu trên 100 người, trong
đó có một số người được phỏng vấn nhiều lần như ông quan lang, bà pả mẻ (ông
mối, bà mối) bởi có sự hiểu biết sâu sắc về đời sống kinh tế, xã hội của cộng
đồng và tập quán hôn nhân. Thời gian cho mỗi cuộc phỏng vấn sâu thường từ 20
phút tới 2 tiếng, một số ít trường hợp thời lượng kéo dài từ 4 đến 5 tiếng, phụ
thuộc vào mức độ hiểu biết, hấp dẫn của thông tin mà họ cung cấp.
+ Quan sát tham dự: giữ một vai trò quan trọng trong điền dã dân tộc học
nói chung. Việc đi vào từng xóm/bản, vào từng nhà, quan sát công việc đồng
áng, chăn nuôi, đi làm thuê của cư dân đã cho phép NCS cảm nhận được thực tế
cuộc sống người Tày vùng biên giới.
Luận án nghiên cứu về hôn nhân của người Tày nên NCS đặt ra mục tiêu
cần tham dự các bước nghi lễ hôn nhân từ đám dạm, đám hỏi, đám cưới của ít
nhất từ 2 đến 3 cặp đôi. Việc thực hiện không đơn giản như dự kiến ban đầu do
8
địa bàn nghiên cứu ở xa, khó thu xếp thời gian tới tham dự, các bước nghi lễ
thường cách nhau vài tuần hoặc vài tháng, không biết thời điểm diễn ra đám
cưới.... Nhờ giúp đỡ của người dân địa phương, NCS đã phần nào đạt được mục
tiêu đặt ra khi tham dự được 03 đám cưới và một số lễ ăn hỏi, lễ dạm. Trong quá
trình tham gia các nghi lễ, ngoài ghi chép chi tiết các diễn tiến của nghi lễ, NCS
sử dụng các phương tiện kỹ thuật hỗ trợ như chụp ảnh, quay phim, ghi âm.
Nguồn tư liệu quan sát tham dự là cơ sở quan trọng để diễn giải các nghi lễ hôn
nhân, hình thành các nhận định, đánh giá dựa trên quan điểm cá nhân dù xem
trọng quan điểm của đối tượng nghiên cứu.
+ Thảo luận nhóm: có ý nghĩa quan trọng với kết quả nghiên cứu bởi cho
phép có được đa giọng nói ở cùng một thời điểm, thấy được sự đồng thuận hoặc
khác biệt trong quan điểm của những người tham gia thảo luận nhóm. Bởi vậy,
NCS mong muốn mỗi chuyến nghiên cứu điền dã có được ít nhất 3 đến 5 cuộc
thảo luận nhóm. Do điền dã nghiên cứu bằng kinh phí tự túc, kinh phí khó khăn
nên khó cho NCS chủ động đưa ra đề nghị một cuộc thảo luận nhóm từ 2 đến 5
người. May mắn, trong thời gian diễn ra các cuộc phỏng vấn sâu, nhiều trường
hợp người được phỏng vấn chủ động mời gọi người khác có hiểu biết về vấn đề
được hỏi tham gia trả lời, phần nhiều còn lại các cuộc thảo luận nhóm được hình
thành bởi sự tò mò, hiếu kỳ của những người khác rồi chủ động tham dự. Mỗi
cuộc thảo luận nhóm thường diễn ra trong khoảng 30 phút đến một tiếng. Nghiên
cứu này có khoảng 40 cuộc thảo luận nhóm.
Các cuộc thảo luận nhóm thường xoay quanh chủ đề về quan điểm hôn
nhân, lựa chọn đối tượng kết hôn, các bước tiến hành hôn nhân, tình hình kinh
tế, xã hội của địa phương...
- Phương pháp chuyên gia
Trong quá trình thực hiện nghiên cứu đề tài luận án, NCS luôn chủ động
gặp gỡ, trao đổi và xin ý kiến của các chuyên gia nghiên cứu về hôn nhân gia
9
đình, kinh tế, xã hội của các tộc người ở Việt Nam, đặc biệt về người Tày. Qua 7
năm nghiên cứu đề tài, số lượng các lần gặp trao đổi với các chuyên gia được
thực hiện tương đối nhiều, khoảng trên 30 lần. Thời gian mỗi lần trao đổi thường
khoảng từ 30 phút đến 1 tiếng.
Ý kiến của các chuyên gia nghiên cứu đã giúp NCS định hướng nghiên
cứu, có được những góc nhìn, đánh giá về hôn nhân của người Tày chính xác
hơn, thấy được mối liên hệ giữa hôn nhân với các vấn đề kinh tế, xã hội tại địa
bàn nghiên cứu và sự phát triển chung của cả nước.
- Phương pháp phân tích, so sánh, tổng hợp
Luận án dựa vào phương pháp phân tích, so sánh hoàn cảnh cá nhân, bối
cảnh kinh tế, xã hội, thời điểm kết hôn để thấy sự khác biệt về quan điểm hôn
nhân, câu chuyện hôn nhân của nhiều người khác nhau trong cùng một cộng
đồng nghiên cứu, từ đó tìm ra đặc điểm chung về hôn nhân của người Tày ở
vùng biên giới huyện Phục Hòa, tỉnh Cao Bằng.
Kết quả nghiên cứu của luận án bên cạnh dựa chủ yếu vào nguồn tư liệu
có được từ các chuyến điền dã nghiên cứu còn dựa vào các kết quả nghiên cứu
có trước làm cơ sở so sánh, phân tích thấy được sự tương đồng và khác biệt giữa
hôn nhân của người Tày ở vùng biên giới huyện Phục Hòa, tỉnh Cao Bằng với
các địa phương khác trong nước.
5. Nguồn tư liệu luận án
- Tư liệu điền đã Dân tộc học: khảo sát thực địa tại 4 xã và 2 thị trấn vùng
biên giới huyện Phục Hòa, tỉnh Cao Bằng.
- Phân tích số liệu từ kết quả khảo sát tại tỉnh Cao Bằng của đề tài cấp Nhà
nước KX01-HNXBG. Mẫu khảo sát: E: 100 người Tày; E 100 người Nùng.
- Các tài liệu thứ cấp.
10
6. Đóng góp mới về khoa học của luận án
Cho đến thời điểm hiện tại, đã có một số nghiên cứu về hôn nhân của
người Tày, nhưng đây là công trình đầu tiên thực hiện tại vùng biên giới huyện
Phục Hòa, tỉnh Cao Bằng. Bên cạnh những đặc điểm tương đồng với người Tày
cư trú tại các địa phương khác, đời sống của người Tày tại đây chịu chi phối, ảnh
hưởng trực tiếp của yếu tố vùng biên giới Việt – Trung như sự giao thương qua
lại, mối quan hệ tộc người hai bên biên giới... Trong đó, nổi lên vấn đề hôn nhân
xuyên biên giới trong nhiều năm trở lại đây.
7. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn của luận án
Tư liệu luận án trình bày các đặc điểm hôn nhân của người Tày ở vùng
biên giới không chỉ góp phần nhận diện giá trị văn hóa tộc người được bảo lưu
trong hôn nhân mà còn là cơ sở để so sánh sự tương đồng, khác biệt giữa hôn
nhân của người Tày tại đây với các địa phương khác, nơi có sự khác biệt về đặc
điểm tự nhiên, xã hội...
Kết quả của luận án là cơ sở để các nhà quản lý xây dựng chính sách bảo
tồn, phát huy văn hóa tộc người, giải quyết các vấn đề tiêu cực phát sinh trong
hôn nhân nhằm hướng tới sự phát triển bền vững, ổn định cho cư dân cư trú ở
khu vực biên giới Việt - Trung.
7. Cơ cấu luận án
Ngoài các phần Mở đầu và Kết luận, Tài liệu tham khảo và Phụ lục, nội
dung chính của luận án được cơ cấu thành 04 chương như sau:
Chương 1: Tổng quan tình hình nghiên cứu, cơ sở lý thuyết và khái quát
về người Tày ở vùng biên giới huyện Phục Hòa, tỉnh Cao Bằng
Chương 2: Đặc điểm hôn nhân của người Tày truyền thống và biến đổi
Chương 3: Hôn nhân xuyên biên giới
Chương 4: Những yếu tố tác động đến biến đổi, giá trị hôn nhân và một số
vấn đề đặt ra
11
CHƯƠNG 1
TỔNG QUAN TÌNH HÌNH NGHIÊN CỨU,
CƠ SỞ LÝ THUYẾT, KHÁI QUÁT VỀ TỘC NGƯỜI
VÀ ĐỊA BÀN NGHIÊN CỨU
1.1. Tổng quan tình hình nghiên cứu
Người Tày có dân số đông nhất trong 53 tộc người thiểu số ở Việt
Nam, có lịch sử và truyền thống văn hóa lâu đời nên thu hút được nhiều nhà
khoa học trong và ngoài nước nghiên cứu.
1.1.1. Nghiên cứu về người Tày
1.1.1.1. Nghiên cứu của các học giả ngoài nước về người Tày
Vào những năm đầu của thế kỉ 20, một số học giả người Pháp đã quan
tâm và nghiên cứu về người Tày. Trước hết kể đến các công trình của học giả
nổi tiếng A. Bonifacy, như: Những nghi lễ trong tang ma của người Thổ
(1904) [8], Sưu tập truyện cổ tích Thổ trên hai bờ sông Lô (1905) [9], Khởi
nghĩa của người Tày năm 1983: ghi chép tác chiến quân đội vì sự đàn áp
(1907) [10], Tết Hồ Bồ của người Tày (1915) [11], Lòng kiên nhẫn vô biên:
truyện cổ tích Thổ (1915) [12]. Qua các bài viết, ông đưa ra một số nhận định
có giá trị tham khảo như tang lễ của người Thổ không khác gì với tang lễ của
người Việt vì người Thổ và người Việt đều tiếp thu nền văn minh Trung
Quốc; tết Hồ Bồ của người Tày gắn với nghi lễ nông nghiệp, không có kiêng
kỵ, cũng như cầu khấn Phật... Bên cạnh đó, còn có công trình của A.Biddet
(1918) về Nguồn gốc lịch sử, sự giống và khác nhau giữa người Thổ với
người Choang ở Quảng Tây, Trung Quốc [7]. Trong đó, A.Biddet bàn về sự
giống nhau giữa người Thổ ở Lạng Sơn, Cao Bằng với người Choang ở
Quảng Tây (Trung Quốc) và người Kinh, người Nùng, người Thái, người
Mường (Việt Nam) trên các phương diện: tộc tính, ngôn ngữ
12
Trong nhiều năm trở lại đây, nghiên cứu của các học giả ngoài nước về
người Tày có lẽ ngày càng phong phú nhưng dù cố gắng NCS chưa tiếp cận
được do thiếu thông tin tìm nguồn tư liệu và rào cản về ngôn ngữ, đặc biệt là
nghiên cứu của các học giả Trung Quốc được viết bằng tiếng Trung.
Vào năm 2015, tại Học viện Khoa học xã hội Việt Nam có 02 luận văn
thạc sĩ ngành Việt Nam học bảo vệ thành công của các học viên người Trung
Quốc tên là Cai Li Chao (Thái Lập Siêu) [17] và Qin Yu Qiao (Đàm Vũ Tiếu)
[94] nghiên cứu về tín ngưỡng và tục cưới hỏi của người Tày ở khu vực biên
giới tỉnh Cao Bằng so sánh với người Choang ở khu vực biên giới phía Nam
Quảng Tây (Trung Quốc). Các nghiên cứu đã chỉ ra nhiều điểm tương đồng
trong tín ngưỡng và tục cưới xin của người Tày và người Choang, góp phần
khẳng định mối liên hệ xuyên suốt lịch sử của hai tộc người này, cũng như cơ
sở xem xét các nhân tố tạo dựng các cuộc hôn nhân xuyên biên giới.
Nhìn chung, mặc dù NCS chưa tiếp cận được nhiều các nghiên của các
học giả ngoài nước về người Tày, đặc biệt ở hôn nhân nhưng những gì đã có
cơ bản giúp NCS có được thêm những góc nhìn, đánh giá quan trọng hoàn
thiện nội dung luận án.
1.1.1.2. Nghiên cứu của học giả trong nước về người Tày và hôn nhân
người Tày
Có thể khẳng định người Tày là một trong số ít tộc người được nhiều
học giả trong nước quan tâm nghiên cứu ở nhiều khía cạnh lịch sử, văn hóa,
xã hội khác nhau, phần nào phù hợp với vai trò, vị thế và đóng góp của họ
trong lịch sử hình thành, phát triển, đấu tranh và xây dựng đất nước. Ở phần
viết này, NCS điểm nhấn một số nghiên cứu về người Tày, đặc biệt hơn với
nghiên cứu về hôn nhân.
Từ triều đại nhà Lê, nhà Nguyễn, người Tày đã được đề cập trong các
cuốn sách nổi tiếng như Kiến văn tiểu lục của Lê Quý Đôn (1726-1784) [36]
13
và Lịch triều hiến chương loại chí của Phan Huy Chú (1782-1840) [24]
Mặc dù tư liệu ở mức độ khái lược nhưng giúp thế hệ sau phần nào hiểu được
sinh hoạt văn hóa dân gian của người Tày ở Việt Nam trong các thế kỷ trước.
Sau khi đất nước thống nhất 1975, nhất là những năm gần đây, ngày
càng có nhiều học giả nghiên cứu về người Tày. Dự tính đến thời điểm hiện
tại có trên 120 đầu mục tài liệu gồm sách và tạp chí viết về người Tày, ở đó
đề cập đa dạng các vấn đề từ nguồn gốc tộc người, văn hóa vật chất, văn hóa
tinh thần, tôn giáo và văn học nghệ thuật... Chủ đề hôn nhân, gia đình, đặc
biệt phong tục cưới xin là một trong những khía cạnh đời sống thu hút quan
tâm của nhiều nhà nghiên cứu.
Một trong cuốn sách đầu tiên nghiên cứu về văn hóa Tày sau năm 1975
kể đến là ấn phẩm Văn hóa Tày Nùng của các tác giả Hà Văn Thư và Lã Văn
Lô (1982) [121]. Cuốn sách đề cập đến nhiều khía cạnh văn hóa của người
Tày, Nùng như tín ngưỡng tôn giáo, sinh đẻ, ma chay, tiếng nói, chữ viết... và
một phần nhỏ về hôn nhân. Các đặc điểm hôn nhân như tuổi kết hôn, nguyên
tắc trong quan hệ hôn nhân, các bước tiến hành hôn nhân được diễn giải cơ
bản, có thể xem như khởi đầu, đề dẫn cho các nghiên cứu hôn nhân sau này.
Giả dụ như nhận định: “hôn nhân ở vùng Tày, Nùng có tính chất mua bán...”
[121, tr. 42] được nhiều nghiên cứu tiếp nối đề cập.
Cuốn sách Các dân tộc Tày Nùng ở Việt Nam của Viện Dân tộc học
xuất bản năm 1992 [135] góp phần đầy đủ hơn cho nghiên cứu tổng quan về
người Tày. Ở phần viết về hôn nhân, mặc dù các tác giả chỉ dành hơn 20 trang
sách trong tổng số 332 trang sách nhưng cho thấy rõ nét đặc điểm hôn nhân
của người Tày từ các nguyên tắc kết hôn, việc tìm hiểu, cư trú sau hôn nhân,
nghi lễ đám cưới... Các vấn đề được đề cập trong sách góp phần định hình cho
các nghiên cứu hôn nhân sau này nói chung và người Tày nói riêng.
14
Vào năm 1994, nghiên cứu của tác giả Đỗ Thúy Bình [6] về Hôn nhân
và gia đình các dân tộc Tày, Nùng và Thái ở Việt Nam có thể xem là nghiên
cứu đầu tiên tập trung ở khía cạnh hôn nhân và gia đình dù tập hợp 3 tộc
người cùng ngữ hệ. Ở phần nghiên cứu về hôn nhân, tác giả tìm hiểu nhiều về
Luật hôn nhân gia đình, những đánh giá đặc điểm hôn nhân được minh chứng
bằng các số liệu điều tra xã hội học. Có lẽ đây là phương cách ít người làm
với thể loại chủ đề này tại thời điểm đầu những năm 1990 nhưng có giá trị
thiết thực với những ai tiếp nối nghiên cứu về hôn nhân của người Tày trong
so sánh với người Nùng, Thái sau này.
Cùng trong năm 1994, các tác giả Hoàng Quyết, Tiến Dũng [101] xuất
bản ấn phẩm Phong tục tập quán dân tộc Tày ở Việt Bắc. Việt Bắc là địa danh
phổ biến trong thời kỳ kháng chiến chống Pháp, bao trùm nhiều tỉnh ở miền
núi phía Bắc và nay gồm 6 tỉnh: Cao Bằng, Bắc Kạn, Lạng Sơn, Hà Giang,
Tuyên Quang, Thái Nguyên. Với tựa đề về phong tục tập quán, các tác giả đã
dành toàn bộ Chương II để viết Phong tục tập quán về lễ cưới và Lễ cưới. Ở
phần này, các tác giả miêu tả rõ ràng các bước chuẩn bị cho lễ cưới như tiền
bạc, lợn, tham gia phường họ bạn, giúp người khác về vật chất, tìm ướm chọn
con dâu tương lai, đưa con trai ra xã hội. Mỗi vấn đề là một câu chuyện được
kể về cách thức chuẩn bị đi cùng quan điểm xã hội đặt ra với nó. Sự phân
định rành mạch như vậy giúp người đọc dễ hiểu, dễ nắm bắt nội dung nghi lễ
cưới của người Tày.
Dựa trên ...hóa lợi ích. Thuyết lựa chọn duy lý đòi
hỏi phải phân tích hành động lựa chọn của cá nhân trong bối cảnh kinh tế - xã
hội nhất định và trong mối liên hệ với hệ thống xã hội và các cá nhân khác.
Trong lĩnh vực nhân học văn hóa và xã hội thì việc ứng dụng lý thuyết lựa
chọn duy lý vẫn còn khá ít ỏi, bắt đầu từ các nhà nhân học kinh tế. Trong
công trình khảo luận về quà tặng xuất bản năm 1925, Marcel Mauss cho rằng,
quan hệ trao đổi là một quan hệ quyền lực, trong đó người nhận quà thường
tìm cách trao lại món quà khác có giá trị tương đương với mong muốn thoát
khỏi sự ràng buộc. Trong tác phẩm “Định chế Tôtem hiện nay”[72], Lévi-
Strauss đã đưa ra nguyên lý trao đổi trong hôn nhân để lý giải tục lệ cấm hôn
nhân nội tộc. Ông cho rằng, tục lệ này nảy sinh trên cơ sở coi hôn nhân là việc
xây dựng mạng lưới và hình thành quan hệ xã hội với bên ngoài làm cơ sở
cho việc bảo đảm hòa bình và mang lại lợi ích cho cá nhân và cộng đồng.
Lựa chọn kết hôn là thuộc về quyền quyết định cá nhân trong lựa chọn
bạn đời. Dựa trên các quan điểm cá nhân để có lý do lựa chọn hợp lý để thể hiện
rõ mục đích kết hôn. Do vậy, NCS chọn lý thuyết Lựa chọn duy lý để lý giải các
31
quan niệm và hành vi trong hôn nhân. Do để thấy rõ hơn mục đích sự lựa chọn
trong hôn nhân của người Tày vùng biên, trong đó tập trung vào tính kết hợp
(tạo mạng lưới) và tính trao đổi giá trị kinh tế của hôn nhân.
- Lý thuyết giao lưu và tiếp biến văn hóa
Giao lưu và tiếp biến văn hóa (acculturation) được các nhà dân tộc học
Pháp và phương Tây đưa ra vào cuối thế kỷ XIX chỉ quá trình thay đổi văn hóa
xẩy ra khi các cá nhân từ các nền văn hóa khác nhau tiếp xúc lâu dài và liên tục.
Sự tiếp xúc này dẫn đến những thay đổi ở cả hai cá nhân (thái độ, giá trị,
niềm tin và bản sắc) cũng như cấp độ nhóm (hệ thống văn hóa và xã hội). Các cá
nhân có nền văn hóa khác biệt cố gắng hòa mình vào nền văn hóa phổ biển hơn
bằng cách tham gia vào các hoạt động văn hóa mới nhưng vẫn giữ truyền thống
văn hóa ban đầu của họ.
Những ảnh hưởng của giao lưu tiếp biến văn hóa có thể được nhìn thấy ở
nhiều cấp độ, ở những người sở hữu văn hóa gốc và những người đang cố gắng
hòa nhập. Ở cấp độ cộng đồng, giao lưu tiếp biến văn hóa dẫn đến thay đổi về
văn hóa như hành vi thực hành tôn giáo, chăm sóc sức khỏe cộng đồng và tổ
chức xã hội, không ngoại trừ cả trang phục và ngôn ngữ. Ở cấp độ cá nhân, giao
lưu và tiếp biến văn hóa dẫn đến sự pha trộn các giá trị về phong tục, chuẩn mực,
hành vi. Quá trình tiếp biến này thông thường diễn ra trong một vài thế hệ, có thể
thông qua áp lực xã hội.
Quá trình tiếp biến văn hóa diễn ra theo các bước: khuếch tán, thích nghi
mang tính ứng phó, tái tổ chức xã hội văn hóa, tiếp xúc và phân giải văn hóa.
Các hình thức nổi bật của quá trình tích lũy bao gồm các yếu tố tiền đề (điều
kiện tích lũy), các chiến lược (định hướng tích lũy) và kết quả của sự tiếp biến.
Điều kiện tích lũy là các yếu tố cấp độ cá nhân và cấp độ nhóm, chẳng hạn như
các đặc điểm của xã hội tiếp nhận (như sự phân biệt đối xử nhận thức hoặc
khách quan), đặc điểm của xã hội gốc (như bối cảnh chính trị), đặc điểm của
32
nhóm người nhập cư (như sức sống tộc người) và đặc điểm cá nhân (như kỳ
vọng, chuẩn mực và tính cách). Những đặc điểm này xác định bối cảnh ảnh
hưởng đến quá trình tích lũy.
Trong nghiên cứu về hôn nhân của người Tày ở vùng biên giới, lý thuyết
giao lưu và tiếp biến văn hóa là công cụ xem xét, đánh giá những thay đổi về
quan điểm, hành vi, thái độ ứng xử cũng như tính bảo lưu giá trị văn hóa truyền
thống của các cá nhân, cộng đồng tộc người khi tiếp xúc với một văn hóa mới
khác biệt. Từ đó hình thành sự tiếp biến văn hóa và một giá trị văn hóa mới
chung nhất được định hình.
- Lý thuyết vùng văn hóa
Với sự ra đời của Lý thuyết “vùng văn hóa” trong nhân học Mỹ là một
bước đột phá ở cuối thế kỷ XIX, đầu thế kỷ XX. Một mặt, lý thuyết này
chống lại quan điểm tiến hóa của L.Morgan và E.Taylor, mặt khác, nó cũng
phê phán những quan điểm “vòng văn hóa”, “khuyến tán văn hóa” cực đoan
của các nhà nghiên cứu Tây Âu. Trên cơ sở nghiên cứu khá tường tận về
người da đỏ châu Mỹ, các nhà nhân học Mỹ đã đưa ra lý thuyết “vùng văn
hóa”, “loại hình văn hóa” và "trung tâm văn hóa" mà đại diện tiêu biểu là
C.L.Wisler. Ông cho rằng, nghiên cứu cácvùng văn hóa nhất thiết phải bắt
đầu từ việc phân tích một tổ hợp các yếu tố văn hóa, rằng không thể nhìn
nhận riêng rẽ từng yếu tố một, chúng hợp thành một thể thống nhất không thể
chia cắt, và đó chính là kết quả của quá trình lâu dài nhóm dân cư ấy thích
ứng với những điều kiện của môi trường sinh thái. Đây là một bước tiến mới
mang tính lý luận và phương pháp nghiên cứu về vùng văn hóa.
Các nhà nghiên cứu dân tộc học Xô Viết đã kế thừa trên bình diện
rộng lớn hơn, đã bàn tới vấn đề nghiên cứu liên văn hóa. Từ những năm 30
của thế kỷ XX, trong một số công trình của S.P.Tônxtop và A.M.Dôlôrarep
đã đề cập đến vấn đề không gian địa lý của các hiện tượng văn hóa. Đây là
33
tiền đề cho sự xuất hiện lý thuyết về “Loại hình kinh tế - văn hóa” và “Khu
vực văn hóa - lịch sử” (còn gọi là khu vực lịch sử - dân tộc học hay vùng
văn hóa - lịch sử) [129].
Với việc đưa ra khái niệm loại hình kinh tế - văn hóa (loại hình kinh tế
- xã hội) của các nhà dân tộc học Xô Viết để giải thích hiện tượng tương đồng
và khác biệt văn hóa kể trên, loại hình kinh tế - văn hóa được hiểu: “Đó là
một tổng thể các đặc điểm kinh tế và văn hóa hình thành trong quá trình lịch
sử của các dân tộc khác nhau, cùng ở một trình độ phát triển kinh tế - xã hội
và sinh sống trong môi trường địa lý tự nhiên như nhau” [129, tr. 49].
Để bao quát việc nhận thức các hiện tượng tương đồng và khác biệt văn
hóa giữa các vùng và các dân tộc, các nhà dân tộc học Xô Viết không chỉ sử
dụng khái niệm loại hình kinh tế - văn hóa mà còn dùng cả khái niệm “vùng
văn hóa - lịch sử” (vùng lịch sử - văn hóa): Vùng văn hóa - lịch sử (vùng lịch
sử - dân tộc học hay gọi tắt là vùng văn hóa) là một vùng mà ở đó sinh sống
những tộc người. Trong quá trình lịch sử lâu dài, giữa họ có những giao lưu,
ảnh hưởng khăng khít với nhau, từ đó hình thành nên những yếu tố văn hóa
chung thể hiện trong văn hóa vậtchất cũng như văn hóa tinh thần [129, tr. 57].
Đặc trưng văn hóa của vùng là những yếu tố văn hóa gắn bó hữu cơ với
nhau thể hiện rõ trong văn hóa vật chất và văn hóa tinh thần. Đối với các dân
tộc còn ở trình độ tiền công nghiệp thì văn hóa dân gian (folklore) thể hiện rõ
nét và cơ bản những sắc thái văn hóa đặc trưng cho vùng văn hóa - lịch sử.
Phạm vi không gian văn hóa lớn hơn vùng là miền hay khu vực. Cấp
bậc hẹp hơn vùng là tiểu vùng. Dưới vùng và tiểu vùng còn có thể phân ra
nhỏ hơn nữa tùy thuộc vào thực tế mỗi vùng văn hóa - lịch sử. Trong thực tế,
khi phân cấp các vùng văn hóa - lịch sử, phạm vi các vùng càng nhỏ, thì khả
năng trùng hợp càng lớn hơn. Sự khác biệt giữa loại hình kinh tế - văn hóa và
vùng văn hóa - lịch sử cũng được phân biệt rõ ràng. Nếu vùng văn hóa - lịch
34
sử là một không gian địa lý liên tục, liền khoảnh thì loại hình kinh tế - văn
hóa có thể bao gồm trong đó nhiều vùngđất thuộc những vùng địa lý và đại
lục khác nhau [117].
Khi áp dụng vào thực tiễn Việt Nam trên cơ sở nghiên cứu lý thuyết và
khuynh hướng khác nhau về không gian văn hóa ở các nước châu Âu, ở Mỹ
và Liên Xô (cũ), Ngô Đức Thịnh cũng đưa ra khái niệm vùng văn hóa (hay
vùng văn hóa - lịch sử), trong mỗi vùng văn hóa lại có các tiểu vùng văn hóa.
Như vậy, vùng biên giới Phục Hòa được xem là một tiểu vùng văn hóa.
Việc vận dụng lý thuyết vùng văn hóa giúp tác giả luận án thấy tính đặc thù
trong hôn nhân được định hình bởi văn hóa riêng biệt, độc lập ở vùng biên
giới so với các khu vực xa biên giới.
1.3. Khái quát địa bàn nghiên cứu
1.3.1. Huyện Phục Hòa
Phục Hòa là tên gọi có từ xa xưa, gắn với thành Phục Hòa, nay là trung
tâm chợ Phục Hòa. Thành Phục Hòa tương truyền được xây cùng thời với
thành Nà Lữ (Hòa An), thành Đại La (Hà Nội) và thành Lạng Sơn (tỉnh Lạng
Sơn), khoảng năm 864. Vào thời kỳ đầu của nhà Nguyễn, Gia Long (1802)
tỉnh Cao Bằng lúc này được phân thành 4 châu gồm: Thạch Lâm, Quảng
Uyên, Thượng Lang và Hạ Lang với 27 tổng, 233 xã, thôn, phường, phố, trại,
động. Phục Hòa là một trong 14 tổng thuộc Châu Thạch Lâm và được chia
thành 11 xã nhỏ, trong đó có xã Phục Hòa. Xã Cách Linh thuộc huyện Phục
Hòa ngày nay khi đó thuộc Cách Linh. Đến năm 1835, Minh Mệnh thứ 16,
Châu Thạch Lâm lại chia thành Thạch Lâm và Thạch An.
Đến thời vua Tự Đức (1848-1883), tỉnh Cao Bằng có một phủ Trùng
Khánh và 5 huyện: Thạch Lâm, Thạch An, Quảng Uyên, Thượng Lang và Hạ
Lang. Đến thời Đồng Khánh (1886-1888), tổng Phục Hòa thuộc huyện Thạch
35
An với 6 xã, phố, trại là: xã Phục Hòa, xã Bút Phong, xã Xuân Quang, xã
Tiên Giao, phố Bằng Lâu và trại Can Kham [100, tr. 663].
Đến những năm 20 của thế kỷ XX, tỉnh Cao Bằng gồm 1 phủ Hòa An,
8 châu (Bảo Lạc, Hà Quảng, Hạ Lang, Nguyên Bình, Phục Hòa, Quảng Uyên,
Thạch An và Thượng Lang) và 33 tổng. Trong đó châu Phục Hòa gồm 2 tổng:
Phục Hòa (9 xã) và Cách Linh (8 xã).
Sau cách mạng tháng Tám năm 1945, châu Phục Hòa đổi thành huyện
Phục Hòa, gồm các xã: Hồng Đại, Triệu Ẩu, Cách Linh, Lương Thiện, Tiên
Thành, Đà Sơn, Đại Tiến, Mỹ Hưng và Tà Lùng.
Do nhu cầu phát triển kinh tế, xã hội, an ninh quốc phòng và theo
chủ trương của Đảng, Nhà nước, tháng 5/1967, hai huyện Phục Hòa và
Quảng Uyên được sáp nhập thành một đơn vị hành chính gọi là Quảng
Hòa. Đến ngày 13/12/2001, Chính phủ có Nghị định số 96/2001/NĐ-CP về
việc chia huyện Quảng Hòa tỉnh Cao Bằng thành hai huyện Phục Hòa và
Quảng Uyên. Lúc này huyện Phục Hòa có 8 xã và 1 thị trấn cửa khẩu.
Ngày 13/12/2007, Chính phủ có Nghị định số 183/2007/NĐ-CP thành lập
thị trấn Hòa Thuận thuộc huyện Phục Hòa trên cơ sở toàn bộ diện tích và
nhân khẩu của xã Hòa Thuận.
Hiện nay, huyện có 9 đơn vị hành chính, gồm 7 xã và 2 thị trấn, trong
đó có 4 xã và 2 thị trấn có có ranh giới là đường biên giới quốc gia giáp với
huyện Long Châu, tỉnh Quảng Tây, Trung Quốc, với tổng chiều dài đường
biên giới là 21km. Các địa bàn thuộc vùng biên giới gồm: thị trấn Tà Lùng,
Hòa Thuận và các xã Triệu Ẩu, Cách Linh, Đại Sơn, Mỹ Hưng là địa bàn
nghiên cứu của luận án này.
1.3.2. Điều kiện tự nhiên huyện Phục Hòa
Huyện Phục Hòa có diện tích tự nhiên là 251,1284 km2, nằm ở phía
Đông Nam của tỉnh Cao Bằng, phía Bắc giáp huyện Quảng Uyên; phía Đông
36
giáp huyện Hạ Lang và Trung Quốc; phía Tây Nam giáp huyện Thạch An,
Hòa An, là điểm cuối của quốc lộ 3, giao thông đi lại thuận lợi. Địa hình
huyện Phục Hòa chia thành 3 khu vực tương đối rõ nét, gồm địa hình núi đá,
địa hình núi đất và địa hình đồi núi thấp. Ở các vùng núi có địa hình phức tạp,
bao gồm các dãy núi đá vôi, với các đỉnh nhọn như tai mèo, gồ ghề lởm
chởm. Ở các vùng núi thấp, đất đồi có địa hình lượn sóng hoặc bậc thang do
quá trình cải tạo, khai phá của con người. Dưới chân những dãy núi là những
thung lũng, cánh đồng nhỏ, tương đối bằng phẳng, thuận tiện cho canh tác
nông nghiệp. Đó là những cánh đồng lúa ở các bản thuộc trung tâm các xã
như Tiên Thành, Tục Mỹ (Mỹ Hưng), Bản Riềng, Bản Pò (Cách Linh), Nà
Suối (Hồng Đại), bản Chàm (trung tâm thị trấn Hòa Thuận), bản Co, Nà Lòa,
Nà Vải (Triệu Ẩu)
Ở huyện Phục Hòa, mỗi năm có bốn mùa: xuân, hạ, thu, đông nhưng do
ảnh hưởng của khí hậu nhiệt đới gió mùa, vị trí nằm sâu trong lục địa nên sự
phân định giữa các mùa không rõ rệt, cơ bản có hai mùa: mùa mưa và mùa
khô. Mùa mưa thường kéo dài từ tháng 5 tới tháng 9 hằng năm, nhiệt độ trung
bình 25
o
c với khí hậu nóng ẩm, mưa nhiều, có lúc gây ra lũ lụt. Mùa khô từ
tháng 10 tới tháng 4 năm sau, nhiệt độ trung bình 12oc đến 15oc, có năm rét
dưới 0oc, rét đậm, rét hại khiến vật nuôi chết hàng loạt.
Hệ thống sông ngòi của huyện tương đối phong phú với ba con sông
lớn: sông Bằng Giang, sông Bắc Vọng và sông Vi Vọng, ngoài ra còn các
nhánh nhỏ đi đều đến các xã và thị trấn. Các con sông đều bắt nguồn từ biên
giới Việt - Trung, chảy trên địa bàn huyện Phục Hòa rồi chảy sang Trung
Quốc, đồng thời trở thành ranh giới phân định đường biên giữa hai quốc gia.
Bên cạnh đó, trên địa bàn huyện còn có rất nhiều các con suối, mạch nước
ngầm bắt nguồn từ chân núi thuận tiện cho việc tưới tiêu như suối Cốc Lùng,
37
Khưa Nính (Đại Sơn), Khuổi Nuông (Cách Linh), Nặm Cáp, Khuổi Kheng
(Triệu Ẩu)...
1.3.3. Giới thiệu các điểm nghiên cứu
- Thị trấn Tà Lùng
Tà Lùng là thị trấn cửa khẩu, được thành lập vào năm 1999, phía Bắc
và phía Tây giáp thị trấn Hòa Thuận (Phục Hòa), phía đông giáp Trung Quốc,
phía nam giáp Trung Quốc và xã Mỹ Hưng. Thị trấn có 7 bản, trong đó, người
Tày sống tập trung tại các bản: Pò Tập, Đỏng Lèng, Bó Pu và rải rác ở các bản
khác. Người Nùng ở bản Phia Khoang có quan hệ thân tộc rất gần gũi với người
Nùng ở bản Phùng bên kia biên giới Trung Quốc. Người Kinh mới đến sống ở
Tà Lùng trong vài chục năm gần đây do sức hút của kinh tế cửa khẩu.
Nhờ có cửa khẩu quốc tế Tà Lùng, một trong những đầu mối giao
thương quan trọng với Trung Quốc, đời sống kinh tế của cư dân ở Tà Lùng
khá giả và ổn định hơn so với các xã khác trong huyện, trong đó có trên 30%
số hộ làm dịch vụ, trên 60% số hộ còn lại thu nhập chủ yếu từ trồng mía. Tỉ lệ
hộ nghèo vào năm 2015 chỉ còn trên 2%, so với mức bình quân 13,9% của cả
huyện Phục Hòa.
- Thị trấn Hòa Thuận
Thị trấn Hòa Thuận được thành lập vào năm 2007, trên cơ sở diện tích
tự nhiên của xã Hòa Thuận, phía bắc giáp với các xã Đại Sơn, Lương Thiện
(Phục Hòa), phía nam giáp xã Mỹ Hưng và thị trấn Tà Lùng, phía tây giáp xã
Mỹ Hưng, phía đông giáp xã Đại Sơn và Trung Quốc. Thị trấn có 15 bản,
trong đó, người Tày sinh sống tập trung tại các bản: Bó Khoan, Phố Phục Hòa
1, Phố Phục Hòa 2, Pác Bó 1, Pác Bó 2.
Thị trấn Hòa Thuận là trung tâm hành chính của huyện Phục Hòa nên
cư dân có điều kiện phát triển kinh tế theo hướng thương mại, dịch vụ. Hiện nay,
thị trấn có 504 cơ sở và hộ gia đình hoạt động thương mại - dịch vụ và tiểu thủ
38
công nghiệp, chiếm 46,3% về cơ cấu kinh tế. Tỷ lệ hộ sản xuất nông nghiệp
chiếm 53,7% về cơ cấu kinh tế của thị trấn. Bên cạnh đó, có nhiều người làm
công chức nhà nước. Nhờ vậy, nhìn chung, đời sống kinh tế của người dân ở thị
trấn Hòa Thuận tốt hơn so với thị trấn Tà Lùng và các xã khác trong huyện.
- Xã Triệu Ẩu
Xã Triệu Ẩu phía bắc giáp huyện Quảng Uyên và huyện Hạ Lang. Phía
đông giáp huyện Hạ Lang và Trung Quốc, phía nam giáp xã Cách Linh, phía
tây giáp xã Hồng Đại (Phục Hòa). Xã có 11 bản, hầu hết các bản là bản của
người người Tày, gồm: bản Co, bản Sàng, bản Buống, bản Nà Nòa, bản Nà
Sao, bản Roọng Phàng, bản Phia Chiếu, bản Tha Miang, bản Khuổi Khuông,
bản Khún.
So với 6/9 xã, thị trấn khu vực biên giới của huyện Phục Hòa thì Triệu
Ẩu được xếp vào xã đặc biệt khó khăn bởi nằm cách xa trung tâm huyện
22km, giao thông liên xã và liên huyện xuống cấp, nhiều đoạn là đường đất
nên đi lại rất khó khăn, đặc biệt vào những ngày mưa gió. Cư dân trong xã
chủ yếu làm nông nghiệp trồng mía, sắn, lúa và chăn nuôi. Có nhiều hộ có
người đi qua biên giới làm thuê cho người Trung Quốc. Tuy nhiên, do vị trí
tiếp giáp với Trung Quốc hẹp, việc đi lại khó khăn, nên để sang Trung Quốc,
người dân thường đi sang huyện Hạ Lang, từ đó qua Trung Quốc.Tỉ lệ hộ
nghèo của xã năm 2018 là 27,97%.
- Xã Cách Linh
Xã Cách Linh phía bắc giáp xã Đồng Đại và xã Triệu Ẩu (Phục Hòa),
phía nam giáp xã Đại Sơn, phía tây giáp xã Đại Sơn và Hồng Đại, phía đông
giáp với Trung Quốc. Xã có 18 bản, trong đó, người Tày sống tập trung tại
các bản: Riềng Dưới, Bản Mển, Bó An. Mặc dù tiếp giáp với Trung Quốc qua
sông Bắc Vọng nhưng do đường đi lại, vận chuyển khó khăn nên hoạt động
39
trao đổi buôn bán qua sông bằng đường tiểu ngạch ở xã Cách Linh không rầm
rộ như ở xã Đại Sơn hay tại thị trấn Tà Lùng.
Cư dân chủ yếu làm nông nghiệp trồng mía, lúa và sắn và chăn nuôi. Tỉ
lệ lao động nông nghiệp chiếm trên 90%. Ngoài ra, hầu hết các hộ có người
đã và đang đi làm bốc vác hàng thuê cho các chủ thương lái qua đường tiểu
ngạch hoặc sang Trung Quốc làm thuê. Năm 2017, xã đạt 10/19 tiêu chí xây
dựng nông thôn mới, các tiêu chí chưa đạt gồm: cơ sở vật chất văn hóa, nhà ở
dân cư, thu nhập, hộ nghèo, môi trường an toàn thực phẩmTỉ lệ hộ nghèo
chiếm trên 30% và tỉ lệ hộ cận nghèo chiếm trên 44%.
- Xã Đại Sơn
Xã Đại Sơn phía bắc giáp với xã Cách Linh (Phục Hòa) và xã Hồng
Quang (Quảng Uyên), phía nam giáp thị trấn Hòa Thuận, phía tây giáp thị
trấn Hòa Thuận và xã Lương Thiện (Phục Hòa), phía đông giáp với Trung
Quốc. Xã có 16 bản, trong đó, người Tày sống tập trung tại các bản: Bản
Mày, Cốc Lùng vả rải rác ở các bản người Nùng khác.
Cư dân của xã Mỹ Hưng chủ yếu làm nông nghiệp trồng mía và chăn
nuôi. Ngoài ra, hầu hết các hộ có người đã hoặc đang đi làm bốc vác vận
chuyển hàng, chủ yếu là gạo, nông sản qua sông Bắc Vọng hoặc đi làm thuê ở
bên Trung Quốc. Con sông này chảy qua các xã Cách Linh, Đại Sơn và thị
trấn Tà Lùng, đồng thời là ranh giới phân định biên giới giữa Việt Nam và
Trung Quốc. Có 2 điểm vận chuyển hàng qua sông nhiều nhất là tại xã Đại
Sơn và thị trấn Tà Lùng. Năm 2017, xã đã thực hiện được 14/19 tiêu chí nông
thôn mới, bê tông hóa được 13,75 km đường làng ngõ xóm trong đó, các
tiêu chí chưa đạt được có: cơ sở vật chất văn hóa, nhà ở dân cư, thu nhập, hộ
nghèo, môi trường an toàn thực phẩm. Nhìn chung, đời sống cư dân tốt hơn so
với xã Mỹ Hưng, nhưng còn nhiều khó khăn.
- Xã Mỹ Hưng
40
Xã Mỹ Hưng phía bắc giáp thị trấn Hòa Thuận, xã Lương Thiện (Phục
Hòa), phía nam giáp xã Đức Long và xã Thụy Hùng (huyện Thạch An). Phía
tây giáp xã Tiên Thành (Phục Hòa), phía đông giáp thị trấn Hòa Thuận, thị
trấn Tà Lùng và Trung Quốc. Xã có 17 bản, trong đó, người Tày cư trú tập
trung tại các bản: Nà Thắm, Nà Cháo, Nà Riềng. Đặc biệt bản Nà Thắm là
bản tiếp giáp đất liền với Trung Quốc, có lối mòn mà người dân trong xã và
các xã trong huyện thường đi qua để sang Trung Quốc làm ăn hoặc trao đổi
buôn bán.
Cư dân ở xã Mỹ Hưng chủ yếu làm nông nghiệp trồng mía, cung cấp
mía nguyên liệu bán cho Công ty cổ phần Mía đường Cao Bằng hoặc bán cho
thương lái Trung Quốc qua lối mòn ở bản Nà Thắm. Nhờ cây mía, đi làm thuê
bên Trung Quốcđời sống của người dân đã được cải thiện đáng kể so với
trước đây nhưng vẫn còn nhiều khó khăn. Năm 2017, xã đã hoàn thành 10/19
tiêu chí nông thôn mới, nhưng khó hoàn thành các tiêu chí còn lại, đặc biệt ở
lĩnh vực giáo dục và y tế do địa bàn của xã rộng mà chỉ có một trường học, cơ
sở y tế xuống cấp, nguồn lực đầu tư xây dựng không có. Ngoài ra, các tiêu chí
khác như nhà ở dân cư, thu nhập, hộ nghèo, môi trường an toàn thực phẩm cũng
là những tiêu chí rất khó hoàn thành với tiềm lực của xã. Giao thông đi lại trong
xã khó khăn, xuống cấp, nhiều con đường liên xóm hiện chỉ là đường đất.
1.4. Người Tày ở vùng biên giới huyện Phục Hòa
1.4.1. Sơ lược về nguồn gốc lịch sử
Người Tày là cộng đồng thuộc khối Bách Việt xưa, đã sớm có mặt và
cư trú lâu đời ở các tỉnh biên giới, miền núi phía Bắc Việt Nam với nhiều
đóng góp quan trọng trong lịch sử hình thành, phát triển quốc gia, dân tộc
cho đến ngày hôm nay. Theo các nhà nghiên cứu, tên gọi Tày có thể xuất
hiện vào nửa cuối thiên niên kỷ thứ nhất sau công nguyên, là tên gọi chung
của nhiều tộc người cùng ngôn ngữ ở vùng Đông Nam Á lục địa [VDTH,
41
tr. 48]. Họ có quan hệ gần gũi nhiều mặt với người Nùng, Giáy, Cao Lan
(Việt Nam) và người Choang (Trung Quốc). Trong đó đặc biệt là mối quan
hệ với người Nùng do hai tộc người thường cư trú xen kẽ, có sự tương
đồng trong hoạt động kinh tế, tổ chức xã hội, văn hóa xã hội, nếp sống và
phong tục tập quán...[140, tr. 22]. Dựa trên các cứ liệu về khảo cổ học,
ngôn ngữ học, văn bản học..., các nhà nghiên cứu xếp người Tày vào trong
nhóm ngôn ngữ Tày - Thái.
Trong mối quan hệ với người Việt, các nghiên cứu cho thấy người Việt
và người Tày tiếp xúc với nhau từ rất sớm. Ở thời kỳ đầu hình thành nhà nước
Âu Lạc, một bộ phận người Tày cổ đã hóa Việt thì ở giai đoạn lịch sử sau
này, không ít người Việt hóa Tày. Lý do bởi trong suốt gần 10 thế kỉ các triều
đại phong kiến Việt Nam, nhiều quan chức người Việt được cử lên trấn giữ,
cai quản vùng Đông Bắc hoặc một số dòng họ, cá nhân thất thế tìm nơi biên ải
để nương náu lâu dần bị Tày hóa. Điển hình vào nửa cuối thế kỷ XVII, khi
nhà Mạc bị tiêu diệt, để tránh sự đàn áp của vương triều Lê - Trịnh, nhiều
người là thân tộc, quan lại, bính lính nhà Mạc đã mai danh ẩn tích, sống xen
kẽ với cư dân địa phương. Trong ngôn ngữ người Việt ở một số địa phương
như Phú Thọ, Bắc Giang có yếu tố Tày và ngược lại, ngôn ngữ Tày có tỉ lệ
không nhỏ vay mượn của người Việt [140, tr. 24].
Ở huyện Phục Hòa, không có truyền thuyết kể về sự hiện diện của
người Tày ở khu vực này, chỉ biết họ là những cư dân đầu tiên khai phá, lập
nghiệp và sinh sống qua nhiều thế kỷ. Người Tày Phục Hòa cư trú đan xen
với người Nùng, nhóm cư dân được cho rằng di cư từ Trung Quốc sang trong
khoảng 300 năm trở lại đây. Do gần gũi nguồn gốc tộc người, cùng cư trú đan
xen với nhau nên các hoạt động kinh tế, tổ chức xã hội, văn hóa, phong tục...,
người Tày và Nùng ở huyện Phục Hòa cơ bản giống nhau, ít có diểm khác
biệt. Sự phân biệt rõ ràng nhất ở khu vực cư trú, người Tày thường sinh sống
42
ở những nơi có địa hình bằng phẳng, gần nguồn nước, dễ canh tác, người
Nùng là cư dân đến sau nên thường ở nơi đất cao hơn và khu vực giáp biên
giới Việt - Trung. Ngoài ra, tiếng nói của người Tày và Nùng cũng có nhiều
điểm khác biệt về âm tiết, cách phát âm của người Nùng được cho rằng gần
giống với người Choang nhiều hơn.
Trong cộng đồng người Tày ở các xã giáp biên giới có nhiều người,
dòng họ tự nhận là người Tày gốc người Kinh, như ở bản Nà Nòa, xã Triệu
Ẩu, hầu hết người Tày ở đây mang họ Nguyễn. Họ kể rằng ông cha là người
Kinh quê gốc tỉnh Hải Dương được vua chúa xưa cử làm quan trấn ải biên
giới, qua nhiều thế hệ sinh sống, kết hôn với người Tày đã trở thành người
Tày.
Hiện nay, tại các xã, thị trấn giáp biên giới ở huyện Phục Hòa có gần
20.000 người, đông nhất là người Nùng, với hơn 13.000 người, chiếm 70%
dân số toàn huyện. Người Tày có 4.554 người, chiếm gần 25% dân số toàn
huyện, tập trung đông nhất ở thị trấn Hòa Thuận (1.178 người) và xã đông
nhất là xã Triệu Ẩu, cũng chỉ có 1.250 người (xem bảng 1).
Bảng 1.1: Dân số các xã, thị trấn vùng biên giới huyện Phục Hòa
Stt Đơn vị Tổng
dân số
Người
Tày
Người
Nùng
Người
Kinh
Người
Hoa
Dân tộc
khác
1 Hòa Thuận 4.535 1.178 3.202 151 4
2 Tà Lùng 3.105 479 1.193 623 1 13
3 Triệu Ẩu 2.097 1.250 847
4 Cách Linh 3.235 383 2.836 18 2
5 Đại Sơn 3.173 529 2.642 2
6 Mỹ Hưng 2.352 735 1.600 17
Tổng cộng 18.507 4.554 13.120 809 1 21
(Nguồn: UNBD huyện Phục Hòa cung cấp, năm 2015)
1.4.2. Đặc điểm kinh tế
Người Tày ở vùng biên giới huyện Phục Hòa được đánh giá có trình độ
cao trong canh tác lúa nước. Trong bối cảnh kinh tế biên mậu phát triển nhanh
chóng, có đa dạng nguồn thu thì hiện nay nghề nông vẫn được xem là nguồn
43
thu chính, ổn định của các gia đình. Trước đây, các thửa ruộng bằng phẳng,
màu mỡ, có đủ nguồn nước thường để canh tác lúa nước, các thửa ruộng cao,
khô cằn dùng để canh tác lúa nương, trồng ngô, trồng sắn. Một số hộ gia đình
làm thêm ruộng bậc thang và canh tác nương rẫy giúp tăng nguồn lương thực,
thực phẩm cho gia đình. Tuy nhiên, cũng phải nói thêm rằng, do sinh sống ở
các thung lũng tạo ra bởi các núi đá vôi bao bọc, các cánh đồng thường nhỏ
và hẹp, khó có thể đem lại nguồn lương thực dồi dào.
Cuối những năm 1990, với mục tiêu của chính quyền địa phương
chuyển đổi cơ cấu cây trồng giúp cư dân khu vực biên giới phát triển kinh
tế, người dân được vận động chuyển từ trồng lúa sang trồng cây mía để bán
cho nhà máy mía đường vừa được xây dựng tại trung tâm của huyện. Quá
trình chuyển đổi diễn ra nhanh, thuận lợi do nguồn thu từ cây mía cao hơn
so với nguồn thu từ lúa. Đến nay, hầu hết các hộ gia đình đã chuyển sang
trồng mía, chỉ một số ít hộ có đất ruộng không phù hợp trông mía đã giữ
nguyên trồng lúa hoặc cây trồng khác. Cây mía được trồng mỗi năm một
vụ, thường trồng từ tháng 3 âm lịch và thu hoạch vào những tháng cuối
năm. Mỗi sào ruộng cho thu hoạch một tấn mía với giá bán giao động từ
800.000đ-1.100.000đ/tấn tùy từng năm. Nhờ vậy hầu hết các hộ sau mỗi vụ
thu hoạch, trừ chi phí đầu vào còn lại từ một hai chục triệu tới vài chục
triệu đồng tùy theo diện tích canh tác ít hay nhiều. Ngoài bán mía cho công
ty mía đường tại huyện, cư dân vùng biên có thể bán sang Trung Quốc theo
đường tiểu ngạch thường có giá cao hơn.
Bên cạnh canh tác nông nghiệp, hoạt động kinh tế truyền thống khác
của cư dân vùng biên giới huyện Phục Hòa là chăn nuôi. Trước đây, các gia
đình đều nuôi gia súc (trâu, bò, lợn), gia cầm (gà, vịt) dưới gầm nhà sàn. Từ
những năm 2000 đến nay, nhờ công tác vận động, tuyên truyền của chính
quyền địa phương về đảm bảo vệ sinh cho không gian sinh sống, hầu hết các
44
hộ gia đình đã chuyển chăn nuôi gia súc, gia cầm ra vườn phía trước hoặc sau
nhà. Sự chuyển đổi còn do nhà sàn trong hơn 10 năm trở lại đây đã được thay
thế bằng nhà xây cấp 4 bán kiên cố hoặc nhà tầng kiên cố, không còn không
gian gầm sàn để chăn nuôi như trước.
Chăn nuôi gia cầm phần nhiều dùng để cải thiện bữa ăn gia đình, phục
vụ mục đích tín ngưỡng như cúng bái và mời khách đến chơi nhà. Trâu, bò
được nuôi để phục vụ canh tác nông nghiệp; lợn để thịt trong những ngày lễ
lớn như tết hoặc khi gia đình có hiếu hỉ. Ngoài ra, nhờ khu vực giáp biên, vật
nuôi có thể dễ dàng bán sang Trung Quốc qua đường tiểu ngạch. Mỗi sáng
sớm, thường có những người Trung Quốc từ bên kia biên giới đi xe đạp qua
đường tiểu ngạch sang Việt Nam, phía sau xe của họ có một chiếc lồng sắt.
Họ đi khắp các xóm, bản vùng biên thu mua gia súc, gia cầm với giá tương
đối cao so với thị trường nội địa, ví dụ thường từ 140.000-150.000đ/kg gà
sống, so với giá bình quân tại khu vực nội địa hiện nay là 100.000đ/kg.
Một trong những điểm tích cực nhất với cư dân vùng biên giới hiện nay
là có thể dễ dàng tìm việc làm ở bên kia biên giới Trung Quốc. Lao động qua
biên giới thường là những người đã lập gia đình, thường trên 30 tuổi. Nam
giới thường sang làm thợ xây, thợ hồ; nữ giới thường sang trồng mía, chặt
mía, bán hàng... Từ 5 tới 6 giờ sáng hàng ngày, nhiều người đã tới khu vực
giáp biên gửi xe máy để đi qua lối mòn sang Trung Quốc làm việc, khoảng
17-18 giờ hàng ngày họ quay trở về. Công lao động mỗi ngày thường từ
300.000 – 500.000đ tùy theo tính chất công việc và khả năng của mỗi người.
Công việc không có thường xuyên, thất thường, vì vậy nguồn thu nhập từ lao
động qua biên giới mang tính chất bổ trợ cho thu nhập gia đình. Bên cạnh đó
còn công việc bốc vác hàng tại khu vực cửa khẩu và các lối sang Trung Quốc
bằng đường tiểu ngạch.
45
Thanh niên nam nữ tại các bản vùng biên giới huyện Phục Hòa hiện
nay sau khi tốt nghiệp phổ thông trung học thường có xu hướng tìm việc làm
tại các khu công nghiệp tại ở các tỉnh Thái Nguyên, Bắc Ninh, Hải Dương...
Sau vài năm làm việc, khi có được một chút vốn, họ thường bỏ công ty về quê
để kết hôn và làm công việc đồng áng, đi làm thuê Trung Quốc...
Ngoài ra, nhờ thay đổi trong tư duy, nhiều người tham gia kinh doanh,
buôn bán với mở bán tạp hóa, dịch vụ ăn uống, dịch vụ vận chuyển cho thu
nhập tương đối ổn định. Một ít người được học hành, có cơ hội tham gia vào
các công việc của chính quyền địa phương. Cùng với thu nhập từ nông
nghiệp, chăn nuôi, họ trở thành những người có kinh tế khá giả và ổn định
hơn cả trong cộng đồng tại đây.
1.4.3. Đặc điểm văn hóa
1.4.3.1. Văn hóa vật chất
Người Tày ở huyện Phục Hòa thường ăn ba bữa mỗi ngày, gồm: sáng,
trưa và tối. Trong đó, bữa sáng và trưa được xem là bữa phụ; bữa tối là bữa
chính. Theo tập quán khi có món gì ngon, hoặc dịp cúng bái, sinh nhật, đầy
tháng cho trẻ nhỏ, các gia đình Tày thường mời anh em họ hàng, bạn bè tới
chung vui, cùng ăn uống cùng gia đình Tính cách cởi mở đã thành nếp sinh
hoạt để mọi người hòa đồng và thân thiện với nhau hơn.
Trước những năm 1990, khi đời sống kinh tế còn nhiều khó khăn, bữa
ăn sáng của cư dân thường thường chỉ là cháo ngô, bữa trưa và bữa tối là cơm
độn ngô với rau hái ở vườn. Hiện nay, bữa ăn hàng ngày ngoài cơm còn có
rau, thịt lợn hoặc cá. Vào ngày lễ tết hoặc khi gia đình có khách là lúc tinh
hoa ẩm thực của người Tày được phô bày, với các món ăn như khau nhục, vịt
quay, nạp sườn, nộm hoa chuối
Ở mỗi bản thường có dòng suối chảy qua, là nơi cung cấp nguồn nước
uống trong quá khứ, nay do lo sợ nguồn nước bị nhiễm bẩn nên chỉ được
46
dùng để tưới tiêu hoặc giặt giũ. Nước uống thường được lấy từ các khe nước
trên núi dẫn về từng hộ gia đình bằng máng nước. Ở các thị trấn đã có nước
sạch do nhà máy cung cấp. Họ thường uống nước đun sôi, một số người có
thói quen uống nước đun với lá cây ổi hoặc lá cây vối. Khi gia đình có khách,
chủ nhà thường pha trà mời khách. Một điểm đặc biệt là họ uống rượu gạo
khá nhiều, có thể dễ dàng bắt gặp nhóm người ngồi uống rượu với nhau vào
bất kể thời điểm nào trong ngày, không chỉ ở nam giới mà cả ở nữ giới.
Y phục truyền thống của người Tày ít chi tiết nếu so với các tộc người.
Y phục của nam giới gồm áo (áo ngắn, áo dài), quần, khăn và guốc hoặc giầy.
Áo nam gồm 4 thân, cổ tròn và cao. Quần nam với ống rộng, dài tới mắt cá
chân, cạp lá tọa, đũng kiểu chân què, khi mặc phải vấn ở trước và buộc dây
vải bên ngoài. Khăn đội đầu nam là mảnh vải dài hình chữ nhật, rộng khoảng
20cm, được quấn quanh đầu theo hình chữ ...ân vùng biên và do nhiều nguyên nhân, trong thời gian qua đã có
nhiều thay đổi. Tuy nhiên, từ những năm 1990 đến nay, do cả hai nước tiến
hành kiểm soát chặt chẽ ranh giới lãnh thổ, hôn nhân xuyên biên giới đã trở
thành một vấn đề xã hội với nhiều hệ lụy như phụ nữ kết hôn với người
Trung Quốc không nhập được hộ khẩu, hộ tịch ở Trung Quốc.
4. Để vùng biên giới huyện Phục Hòa nói riêng và tại những nơi khác
phát triển bền vững, cần có những chính sách phát triển kinh tế, văn hóa,
giáo dục phù hợp, đặc biệt coi hôn nhân, gia đình là nền tảng để phát triển xã
hội. Để làm được điều đó cần nâng cao ý thức của mỗi cá nhân, gia đình,
chính quyền địa phương giúp họ nắm bắt được Luật Hôn nhân và gia đình,
Luật bình đẳng giới
5. Xuất phát từ thực tiễn tình hình địa phương và kết quả nghiên cứu,
NCS đề xuất một số hướng nghiên cứu tiếp theo như sau:
- Nghiên cứu hôn nhân ở vùng biên giới là một vấn đề hay và hấp dẫn
và rất cần có những cách tiếp cận khoa học để định hình nên hôn nhân vùng
biên, góp phần xây dựng xã hội vùng biên phát triển bền vững.
- Hôn nhân truyền thống của người Tày dưới tác động của sự phát
triển kinh tế, toàn cầu hóa đang biến đổi nhanh chóng. Vì vậy, việc nghiên
cứu về hôn nhân luôn có ý nghĩa khoa học và giá trị thực tiễn.
149
DANH MỤC CÔNG TRÌNH, BÀI BÁO KHOA HỌC NGHIÊN
CỨU SINH ĐÃ CÔNG BỐ LIÊN QUAN ĐẾN ĐỀ TÀI LUẬN ÁN
1. Lê Anh Hòa (2018), Sự chuyển biến trong hôn nhân của người Tày ở
vùng biên huyện Phục Hòa, tỉnh Cao Bằng, Tạp chí Văn hóa Nghệ thuật, số
414, tr. 65-69.
2. Lê Anh Hòa (2019), Phụ nữ vùng biên lấy chồng Trung Quốc -
Nghiên cứu ở người Tày, Nùng huyện Phục Hòa, tỉnh Cao Bằng, Tạp chí
Nghiên cứu Trung Quốc, số 1(209), tr.73-79.
150
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Hoàng Thế Anh (2012), Những vấn đề kinh tế-xã hội nổi bật của Trung
Quốc trong 10 năm đầu thế kỷ XXI và triển vọng đến năm 2020, Nxb.
Khoa học xã hội.
2. Triều Ân, Hoàng Quyết (1995), Tục cưới xin người Tày, Nxb. Văn hóa
Dân tộc.
3. Ban chấp hành Trung ương Đảng (2005), Chỉ thị 49-CT/TW ngày
21/02/2005 về Xây dựng gia đình thời kỳ công nghiệp hóa, hiện đại
hóa.
4. Nguyễn Thị Thanh Bình (2015), Những vấn đề đặt ra trong nghiên cứu
hôn nhân xuyên biên giới ở các tộc người miền núi nước ta hiện nay,
Tạp chí Dân tộc học, số 6, tr. 24-35.
5. Đỗ Thúy Bình (1991), “Thực trạng hôn nhân ở các dân tộc miền núi
phía Bắc”, Tạp chí Dân tộc học, số 2, tr. 19-28.
6. Đỗ Thúy Bình (1994), Hôn nhân và gia đình các dân tộc Tày, Nùng và
Thái ở Việt Nam, Nxb. Khoa học xã hội.
7. A. Biddet (1910), Nguồn gốc lịch sử, sự giống và khác nhau giữa
người Thổ với người Choang ở Quảng Tây, Trung Quốc, Tài liệu dịch
của Viện Dân tộc học.
8. A. Bonifacy (1904), Những nghi lễ tang ma của người Thổ. Tài liệu
dịch của Viện Dân tộc học
9. A. Bonifacy (1905), Sưu tập truyện cổ tích Thổ trên hai bờ sông Lô,
Tài liệu dịch của Thư viện Viện Dân tộc học.
10. A. Bonifacey (1907), Khởi nghĩa của người Tày năm 1983: ghi chép
tác chiến quân đội vì sự đàn áp, Tài liệu dịch của Viện Dân tộc học.
11. A. Bonifacy (1915), Tết Hồ Bồ của người Tày, Tài liệu dịch của Viện
Dân tộc học.
151
12. A. Bonifacy (1915), Lòng kiên nhẫn vô biên: Truyện cổ tích Thổ, Tài
liệu dịch của Viện Dân tộc học.
13. Bộ Văn hóa Thông tin (1998), Một số giá trị văn hóa truyền thống đối
với đời sống văn hóa cơ sở ở nông thôn hiện nay, Nxb. Văn hóa thông
tin, Hà Nội.
14. Các quy định pháp luật về phát triển kinh tế-xã hội đối với vùng đặc
biệt khó khăn (2003), Hà Nội, Nxb. Chính trị Quốc gia.
15. Hoàng Thị Cành (2013), Tục hôn nhân cổ của người Tày Nguyên Bình,
Nxb. Văn hóa thông tin.
16. Nguyễn Văn Căn (chủ biên) (2009), Chiến lược “Hưng biên phú dân”
của Trung Quốc, Hà Nội, Nxb. Chính trị Quốc gia.
17. Cai Li Chao (Thái Lập Siêu) (2015), Tín ngưỡng thờ cúng nguyên thủy
của dân tộc Tày, Nùng khu vực biên giới tỉnh Cao Bằng, Việt Nam và
dân tộc Choang khu vực biên giới phía Nam Quảng Tây, Trung Quốc,
Luận văn thạc sĩ Việt Nam học, Học viện Khoa học xã hội, Hà Nội.
18. Nguyễn Thị Phương Châm (2012), Làm dâu nơi đất khách trải nghiệm
văn hóa của những người phụ nữ Việt Nam lấy chồng Trung Quốc ở
Vạn Vĩ (Đông Hưng, Quảng Tây, Trung Quốc), Hội Văn nghệ dân gian
Việt Nam, Nxb. Lao động.
19. Chính phủ (2002), Nghị định số 68/2002/NĐ-CP ngày 10/7/2002 Quy
định chi tiết thi hành một số điều của Luật Hôn nhân và gia đình về
quan hệ hôn nhân và gia đình có yếu tố nước ngoài.
20. Chính phủ (2006), Nghị định số 69/2006/NĐ-CP ngày 21/07 năm 2006
Sửa đổi, bổ sung một số điều của Nghị định số 68/2002/NĐ-CP ngày
10 tháng 7 năm 2002 của Chính phủ quy định chi tiết thi hành một số
điều của Luật Hôn nhân và gia đình về quan hệ hôn nhân và gia đình
có yếu tố nước ngoài.
152
21. Chính phủ Việt Nam (2012), Nghị quyết số 10/NQ-CP năm 2012,
Chương trình hành động triển khai Chiến lược phát triển kinh tế-xã hội
2011-2020 và Phương hướng, nhiệm vụ phát triển đất nước 5 năm
2011-2015.
22. Chính phủ (2014), Nghị định số 34/2014/NĐ-CP ngày 29 tháng 4 năm
2014 về Quy chế khu vực biên giới đất liền nước Cộng hòa xã hội chủ
nghĩa Việt Nam.
23. Nguyễn Văn Chính (2018), Nghiên cứu vùng biên, vấn đề, lý thuyết và
phương pháp, tr. 27-55, Trong cuốn Một số vấn đề về dân tộc, tộc
người ở vùng biên giới và liên xuyên biên giới nước ta hiện nay của
Viện Dân dân tộc học, Nxb. Khoa học xã hội.
24. Phan Huy Chú (2014), Lịch triều hiến chương loại chí, Nxb. Trẻ.
25. Cục Lãnh sự (Bộ Ngoại giao) (2011), Báo cáo tổng quan về tình hình
di cư của công dân Việt Nam ra nước ngoài.
26. Nguyễn Văn Cừ, Ngô Thị Hường (2002), Một số vấn đề lý luận và thực
tiễn về Luật Hôn nhân và gia đình năm 2003, Nxb. Chính trị quốc gia.
27. Khổng Diễn (1996), Những đặc điểm kinh tế - xã hội các dân tộc ở
miền núi phía Bắc, Nxb. Khoa học xã hội, Hà Nội.
28. Phan Đại Doãn (1996), Quản lý xã hội nông thôn Việt Nam hiện nay,
một số vấn đề và giải pháp, Nxb. Chính trị Quốc gia, Hà Nội.
29. Cao Xuân Dục (1967), Đại Nam nhất thống chí tỉnh Cao Bằng, Nxb.
Sài Gòn, Nha văn hóa, Bộ văn hóa giáo dục.
30. Đảng Cộng sản Việt Nam, Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ
XI, Chiến lược phát triển kinh tế xã hội 2011-2020. Trịnh Tuấn Đạt
(chủ biên) (2002), Tác động kinh tế-xã hội của mở cửa biên giới
(Nghiên cứu trường hợp thị xã Lạng Sơn và thị trấn Đồng Đăng), Nxb.
Chính trị Quốc gia, Hà Nội.
153
31. Lê Hải Đăng (2013), Nghi lễ gia đình của người Tày Mường ở Nghệ
An, Nxb. Khoa học xã hội.
32. Bế Viết Đẳng (1993), Biến đổi đời sống các dân tộc từ sau Đại hội VI
đến nay, Tư liệu Viện Dân tộc học.
33. Bế Viết Đẳng (1993), Những biến đổi về kinh tế - văn hóa ở các tỉnh
miền núi phía Bắc, Nxb. Khoa học xã hội, Hà Nội.
34. Bế Viết Đẳng (1996), Các dân tộc thiểu số trong sự phát triển kinh tế -
xã hội ở miền núi, Nxb. Văn hóa dân tộc, Hà Nội.
35. Bùi Xuân Đính, Nguyễn Ngọc Thanh (2013), Một số vấn đề cơ bản về
kinh tế - xã hội ở các vùng biên giới Việt Nam, Nxb. Khoa học xã hội.
36. Lê Quý Đôn (2007), Kiến văn tiểu lục, Phạm Trọng Hiền dịch, chú
thích, Nxb. Văn hóa thông tin.
37. Nguyễn Hà Đông (2015), “Chính sách nhập quốc tịch đối với các cô
dâu nước ngoài ở một số nước và vùng lãnh thổ châu Á”, Tạp chí
Nghiên cứu Gia đình và Giới, số 5, tr. 28-40.
38. Emily A.Shultz, Robert H. Lavenda (2001), Một quan điểm về tình
trạng nhân sinh, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội.
39. Vũ Trường Giang (2018), Di cư xuyên biên giới của các tộc người
thiểu số ở vùng Tây Bắc Việt Nam, Nxb. Lý luận chính trị, Hà Nội.
40. Nguyễn Thị Song Hà (chủ biên) (2018), Biến đổi hôn nhân của người
Mường ở Hòa Bình và người Mường di cư ở Đắk Lắk, Nxb. Chính trị
Quốc gia sự thật.
41. Nguyễn Thẩm Thu Hà, Sa Thị Thanh Nga (2015), “Một số yếu tố văn
hóa ảnh hưởng đến hôn nhân xuyên biên giới của người Hmông”, Tạp
chí Nghiên cứu Gia đình và Giới, số 5, tr. 55-67.
154
42. Trần Văn Hà (2007), Phát triển nông thôn miền núi và dân tộc trong
thời kỳ kinh tế chuyển đổi – từ thực tiễn một xã vùng cao Tây Bắc, Nxb.
Khoa học xã hội, Hà Nội.
43. Trần Văn Hà (2008), Biến đổi chức năng kinh tế hộ gia đình dân tộc
Tày huyện Lộc Bình, tỉnh Lạng Sơn, Đề tài nghiên cứu khoa học cấp
Viện, Viện Dân tộc học.
44. Châu Thị Hải (2003), Tác động của buôn bán biên giới Việt-Trung tới
quá trình đô thị hóa ở khu vực ven biên trong thời kỳ mở cửa, trong
Chính sách đối ngoại mở cửa của Việt Nam và quan hệ Việt Nam –
Trung Quốc, Nxb. Khoa học xã hội.
45. Đinh Quang Hải (2018), “Vấn đề thông hôn giữa hôn nhân khu vực
biên giới Việt Nam – Trung Quốc giai đoạn 1950 – 1979”, Tạp chí
Nghiên cứu Lịch sử, số 6 (506), tr. 3-11.
46. Đinh Quang Hải (2018), “Vấn đề di cư xuyên biên giới của cư dân khu
vực biên giới Việt Nam – Trung Quốc giai đoạn 1954 – 1975”, Tạp chí
Nghiên cứu Lịch sử, số 9 (509), tr. 3-15.
47. Trần Hồng Hạnh (2008), Những biến đổi trong văn hóa phi vật thể của
người Tày, huyện Cao Lộc, tỉnh Lạng Sơn, Đề tài tiềm năng, Viện Dân
tộc học.
48. Trần Hồng Hạnh (2016), “Tình hình sử dụng đất ở một số dân tộc thiểu
số ở vùng biên giới Việt – Trung”, Tạp chí Dân tộc học, số 6/2016, tr.
3-13.
49. Nguyễn Minh Hằng (chủ biên) (2001), Buôn bán qua biên giới Việt –
Trung, Lịch sử - Hiện trạng – Triển vọng, NXB. Khoa học xã hội.
50. Trần Minh Hằng, Nguyễn Công Thảo (chủ biên) (2016), Quan hệ dân
tộc xuyên quốc gia ở Việt Nam, Nxb. Khoa học xã hội.
155
51. Bế Văn Hậu (2012), Nghiên cứu một số nét biến đổi văn hóa người Tày
tại Lạng Sơn trong quá trình đổi mới kinh tế - xã hội, Luận án tiến sĩ
Nhân học, Học viện Khoa học xã hội.
52. Phạm Đăng Hiến (2010), “Người Lô Lô trong môi trường kinh tế - xã
hội vùng biên giới Việt – Trung”, Tạp chí Dân tộc học, số 1, tr. 5-13.
53. Đặng Thị Hoa, Nguyễn Hà Đông (2015), “Một cách tiếp cận trong
nghiên cứu hôn nhân xuyên biên giới với phát triển xã hội”, Tạp chí
Nghiên cứu Gia đình và Giới, số 5, tr. 5-15.
54. Đặng Thị Hoa (2016), Một số đặc điểm trong hôn nhân gia đình các
dân tộc thiểu số vùng biên giới, Tạp chí Văn hóa dân gian, số 2, tr. 3-
12.
55. Đặng Thị Hoa (chủ biên) (2016), Hôn nhân xuyên biên giới với phát
triển xã hội, Nxb. Khoa học xã hội.
56. Đặng Thị Hoa, Đậu Tuấn Nam (2016), Quan hệ thân tộc vùng biên giới
Việt Nam – Trung Quốc, Tạp chí Khoa học xã hội Việt Nam, số 8, tr.
96-101.
57. Nguyễn Thị Phương Hoa, Nguyễn Quang Thuyên (2016), Vấn đề mua
bán người qua biên giới Việt – Trung dưới góc nhìn an ninh phi truyền
thống, Tạp chí Nghiên cứu Trung Quốc, số 6, tr. 26-41.
58. Phạm Quang Hoan (1993), “Vài suy nghĩ về hôn nhân và gia đình các
dân tộc ở nước ta hiện nay”, Tạp chí Dân tộc học, số 3, tr. 44-45.
59. Phạm Quang Hoan (2011), Nghiên cứu dân tộc Hmông vùng biên giới
Việt - Lào, đề tài cấp bộ do Phạm Quang Hoan làm chủ nhiệm, tài liệu
lưu trữ tại Viện Dân tộc học.
60. Hội đồng Quốc gia chỉ đạo biên soạn từ điển Bách khoa Việt Nam
(2002), Từ điển Bách Khoa Việt Nam 2 E-M, Nxb. Từ điển Bách khoa,
Hà Nội.
156
61. Lý Hồng (2006), Công nghiệp hóa khu vực biên giới: Những khó khăn
và lối thoát của “hai hành lang, một vành đai. Báo cáo tại Hội thảo
quốc tế: Phát triển hai hành lang, một vành đai kinh tế Việt – Trung
trong khuôn khổ hợp tác Asean-Trung Quốc, Hải Phòng, ngày 22, 23
tháng 12 năm 2006.
62. Trần Thị Hồng (2015), “Thực trạng việc làm và mối quan hệ với hôn
nhân ở khu vực biên giới”, Tạp chí Nghiên cứu Gia đình và Giới, số 5,
tr. 116-129.
63. Nguyễn Chí Huyên (chủ biên) (2000), Nguồn gốc lịch sử tộc người
vùng biên giới phía Bắc Việt Nam, Nxb. Văn hóa dân tộc.
64. Lê Thị Hường (2009), Xu hướng kết hôn liên tộc người và kết hôn qua
biên giới hiện nay của người Nùng Cháo ở xã Bảo Lâm, huyện Cao
Lộc, tỉnh Lạng Sơn (Báo cáo tại Hội nghị Thông báo dân tộc học năm
2009, Hà Nội).
65. Lê Thị Hường (2014), Thực trạng hôn nhân xuyên biên giới của các tộc
người Nùng, Thái, Hmông ở hai tỉnh Cao Bằng và Điện Biên, Tạp chí
Dân tộc học, số 4.
66. Thái Công Khanh (2000), “Vấn đề quan hệ hôn nhân và gia đình có
yếu tố nước ngoài”, Tạp chí Tòa án nhân dân, số 4, tr. 9-12.
67. Chu Kiện, Lưu Đông Nhiệm (2005), “Chính sách dân tộc của Việt
Nam và ảnh hưởng của chính sách đó đến khu vực dân tộc biên giới
Trung Quốc”, Lê Thị Dương Dịch, Viện Dân tộc học.
68. Phạm Thành Khôi (2006), “Nhận diện một số vấn đề từ hiện tượng hôn
nhân xuyên quốc gia của phụ nữ Việt nam trong bối cảnh tăng trưởng
kinh tế và văn hóa xã hội châu Á”, Tạp chí Dân tộc học, số 4.
69. Kỷ yếu Hội thảo (2000), Quan hệ kinh tế - văn hóa Việt Nam – Trung
Quốc, Hiện trạng và Triển vọng, Hà Nội.
157
70. Trần Thị Mai Lan (2011), Một số vấn đề cơ bản về chính sách dân tộc
vùng biên giới của hai nước Việt Nam-Trung Quốc (Trường hợp vùng
Tây Bắc Việt Nam và tỉnh Vân Nam Trung Quốc), Báo cáo tổng hợp đề
tài cấp Bộ Viện Dân tộc học.
71. Lê Ngọc Lân (2015), “Nhận diện một số đặc điểm hôn nhân ở vùng
biên giới”, Tạp chí Gia đình và Giới, số 5, tr. 40–54.
72. Lévi-Strauss (2016), Định chế Tôtem hiện nay, Nguyễn Tùng dịch,
Nxb. Tri thức, Hà Nội.
73. Nguyễn Thị Lê (2010), Các tộc người xuyên biên giới và vấn đề phát
triển vùng biên Việt – Trung từ năm 1990 đến nay, Luận văn Thạc sĩ
Dân tộc học, Trường Đại học KHXH & NV Hà Nội.
74. Ngô Văn Lệ (2008), Hôn nhân có yếu tố nước ngoài nhìn từ khía cạnh
văn hóa - Trường hợp phụ nữ Việt Nam lấy chồng Đài Loan và Hàn
Quốc. Nguồn: tainguyenso.vnu.edu.vn/xmlui/handle/123456789/7532.
75. Nguyễn Phương Liên (2012), Luận văn thạc sĩ Xã hội học: Vấn đề xã
hội trong quá trình phát triển kinh tế vùng biên (Nghiên cứu trường
hợp tại tỉnh Lạng Sơn, Lào Cai), Học viện Khoa học xã hội.
76. Hoàng Xuân Long (1997), Lợi thế so sánh trong đổi hàng hóa qua biên
giới Việt – Trung, Viện Kinh tế học – Trung tâm khoa học xã hội và
nhân văn quốc gia, Nghiên cứu kinh tế số 7.
77. Trần Quý Long (2015), “Lao động xuyên biên giới của người dân ở
một số địa phương vùng biên khu vực Đông Bắc”, Tạp chí Nghiên cứu
Gia đình và Giới, số 5, tr. 130-142.
78. Lã Văn Lô, Đặng Nghiêm Vạn (1968), Sơ lược giới thiệu các nhóm
dân tộc Tày, Nùng, Thái ở Việt Nam, Nxb. Khoa học xã hội, Hà Nội.
79. Lã Văn Lô, Hà Văn Thư (1984), Văn hóa Tày – Nùng, Nxb. Văn hóa,
Hà Nội.
158
80. Nguyễn Hữu Minh (2001), “Một số cách tiếp cận nghiên cứu về hôn
nhân, Tạp chí Xã hội học”, số 4, tr. 14-20.
81. Nguyễn Văn Minh, Đặng Thị Hoa, Trần Thị Hồng (2015), “Quản lý
vấn đề hôn nhân xuyên biên giới ở Việt Nam hiện nay: Chính sách và
thực tiễn”, Tạp chí Nghiên cứu Gia đình và Giới, số 5, tr. 15-28.
82. Phạm Thị Mùi (2007), “Vị thế trong gia đình của người phụ nữ Việt
kiều ở Lào (so sánh với người Việt và người Lào)”, Tạp chí Nghiên cứu
Đông Nam Á, số 2, tr. 52-56.
83. Hoàng Nam (1992), Dân tộc Nùng ở Việt Nam, Nxb. Văn hóa.
84. Đậu Tuấn Nam, Lâm Minh Châu (2016), “Một số vấn đề quan hệ tộc
người liên biên giới ở vùng Tây Bắc Việt Nam hiện nay”, Tạp chí Dân
tộc học, số 3, tr. 32 -40.
85. Đậu Tuấn Nam (2017), Báo cáo tổng hợp kết quả nghiên cứu khoa học,
đề tài: “Nghiên cứu mối quan hệ tộc người ở vùng biên với Trung
Quốc góp phần ổn định xã hội và đảm bảo quốc phòng, an ninh vùng
Tây Bắc, Đại học Quốc gia Hà Nội, Chương trình Khoa học và Công
nghệ trọng điểm cấp Nhà nước giai đoạn 2013-2018 “Khoa học và
công nghệ phục vụ phát triển bền vững vùng Tây Bắc”, Mã số: KHCN-
TB/13-18.
86. Hoàng Tuấn Nam, Bế Thanh Tuyền (2001), Việc dựng vợ gả chồng của
người Tày Cao Bằng, Trung tâm Văn hóa Thông tin tỉnh Cao Bằng
xuất bản.
87. Vũ Phương Nga (2017), Tiếp biến văn hóa trong bối cảnh gia đình
hỗn hợp dân tộc (qua nghiên cứu về người Tày tại huyện Chi Lăng, tỉnh
Lạng Sơn, Luận án tiến sĩ Nhân học, Học viện Khoa học xã hội.
88. Nguyễn Thanh Nga (1997), Phong tục cưới xin cổ truyền của người
Tày ở Cao Bằng, Tạp chí Dân tộc học, số 3, tr.74-78.
159
89. Phùng Nhuận (2013), Tác động văn hóa xuyên biên giới Trung - Việt,
trường hợp tỉnh Vân
Nam.Nguồn:
hoithaokhoahoc/Trang/20130318080635.aspx
90. Trần Thị Vân Nương (2015), “Quyền quyết định về các vấn đề liên
quan đến con cái của vợ và chồng trong các gia đình miền núi biên giới
phía Bắc Việt Nam”, Tạp chí Nghiên cứu Gia đình và Giới, số 5, tr.
103-115.
91. Trần Thị Vân Nương (2015), Quan hệ quyền lực vợ chồng trong gia
đình khu vực miền núi biên giới Việt Nam (Nghiên cứu trường hợp tỉnh
Quảng Ninh, Cao Bằng và Lạng Sơn), Luận văn thạc sĩ Xã hội học,
Học viện Khoa học xã hội.
92. Đặng Thanh Phương (2006), Sự biến đổi văn hóa của người Tày ở
huyện Văn Lãng, tỉnh Lạng Sơn hiện nay dưới tác động của kinh tế biên
mậu, Đề tài tiềm năng, Viện Dân tộc học.
93. Đặng Thanh Phương (2010), Một số vấn đề bức xúc của đồng bào dân
tộc Tày, Nùng, Giáy trong quá trình phát triển kinh tế vùng biên ở Lạng
Sơn và Lào Cai, Đề tài cấp Bộ, Viện Dân tộc học.
94. Qin Yu Qiao (Đàm Vũ Tiếu), Phong tục cưới hỏi của dân tộc Tày,
Nùng khu vực biên giới tỉnh Cao Bằng, Việt Nam và dân tộc Choang
khu vực biên giới phía Nam Quảng Tây, Trung Quốc, Luận văn thạc sĩ
Việt Nam học, Học viện Khoa học xã hội, Hà Nội, 2015.
95. Quốc hội (2000), Luật Hôn nhân và gia đình số 22/2000/QH10 ban
hành ngày 09/06/2000.
96. Quốc hội nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam (2003), Luật biên
giới quốc gia, số 6/2003/QH11.
160
97. Quốc hội nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam (2006), Luật cư
trú.
98. Quốc hội nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam (2015), Luật hộ
tịch.
99. Quốc hội nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam (2014), Luật Hôn
nhân và gia đình (sửa đổi).
100. Phạm Hồng Quý (1998), “Các dân tộc nằm ở hai bên biên giới Việt
Nam và Trung Quốc”, Tạp chí Nghiên cứu Trung Quốc, số 5, tr. 43-46.
101. Hoàng Quyết, Tuấn Dũng (1995), Phong tục, tập quán dân tộc Tày Việt
Bắc, Nxb. Văn hóa dân tộc, Hà Nội.
102. Dương Văn Sách, Dương Thị Đào (2016), Những quy ước truyền thống
về nếp sống gia đình người Tày Cao Bằng, Nxb. Sân khấu.
103. Đỗ Tiến Sâm – Furuta Motoo (2003), Chính sách mở cửa hội nhập
quốc tế và tác động của nó tới sự phát triển và ổn định của Việt Nam,
trong Chính sách đối ngoại rộng mở của Việt Nam và quan hệ Việt
Nam – Trung Quốc, Nxb. Khoa học xã hội.
104. Lý Hành Sơn (2012), Một số vấn đề cơ bản về dân tộc - tôn giáo trong
phát triển bền vững các tỉnh biên giới Việt Nam, Báo cáo kết quả thực
hiện đề tài cấp bộ, Viện Dân tộc học.
105. Lý Hành Sơn, Trần Thị Mai Lan (2014), Quan hệ dân tộc xuyên quốc
gia của một số tộc người vùng miền núi phía Bắc, Báo cáo tổng hợp kết
quả thực hiện đề tài cấp Bộ, Viện Dân tộc học, Hà Nội.
106. Lý Hành Sơn, Trần Thị Mai Lan (2017), Quan hệ tộc người xuyên quốc
gia ở Việt Nam, Nxb. Khoa học xã hội.
107. Lê Thị Hoàng Thanh, Trương Hồng Quang (2011), Pháp luật Việt Nam
về quan hệ hôn nhân có yếu tố nước ngoài, Tạp chí Luật học, số 9.
161
108. Nguyễn Ngọc Thanh (2016), Văn hóa truyền thống dân tộc Tày ở
Tuyên Quang, Nxb. Khoa học xã hội.
109. Hà Đình Thành (2010), Văn hóa dân gian Tày – Nùng ở Việt Nam,
Nxb. Đại học quốc gia Hà Nội.
110. Nguyễn Thị Thanh Tâm (chủ nhiệm) (2011), Một số vấn đề xã hội của
phụ nữ nông thôn Việt Nam lấy chồng và lao động nước ngoài, Đề tài
cấp Bộ, Viện Gia đình và Giới.
111. Hoàng Bá Thịnh (2007), “Hôn nhân có yếu tố nước ngoài - Thực trạng
và giải pháp”, Tạp chí Gia đình và Trẻ em, số 1, tr. 30-32.
112. Hoàng Bá Thịnh (2008), “Thị trường hôn nhân: một số cách tiếp cận,
Tạp chí Xã hội học”, số 2, tr. 84-94.
113. Ngô Đức Thọ (2003), Đồng Khánh dư địa chí, Tập 1, Nxb. Thế giới,
Hà Nội.
114. Trần Văn Thọ (2014), Kinh tế biên giới Việt – Trung trước sự trỗi dậy
của Trung Quốc, Tạp chí Nghiên cứu Trung Quốc, số 9, tr. 62-74.
115. Lê Thị Thỏa, Phạm Thị Cẩm Vân (2015), “Vấn đề người mẹ đơn thân
tại Hàn Quốc”, Tạp chí Nghiên cứu Gia đình và Giới, số 5, tr. 68-77.
116. Phạm Thanh Thôi (2011), Nhận diện mấy vấn đề từ hiện tượng hôn
nhân xuyên quốc gia của phụ nữ Việt Nam trong bối cảnh tăng trưởng
kinh tế và văn hóa - xã hội châu Á, Thông tin Khoa Nhân học - Đại học
Khoa học XH&NV TP.HCM.
117. Nguyễn Thị Thục (2014), Di sản văn hóa vùng Hàm Rồng ở tỉnh Thanh
Hóa, Luận án tiến sĩ Văn hóa học, Học viện Khoa học xã hội.
118. Thủ tướng Chính phủ (2005), Chỉ thị số 03/2005/CT-TTg của Thủ
tướng Chính phủ ngày 25/02/2005 về tăng cường quản lý nhà nước đối
với quan hệ hôn nhân và gia đình có yếu tố nước ngoài.
162
119. Thủ tướng Chính phủ (2007), Quyết định số 1151/QĐ-TTg ngày
30/08/2007 về việc phê duyệt Quy hoạch xây dựng vùng biên giới Việt-
Trung đến năm 2020.
120. Thủ tướng Chính phủ (2009), Chiến lược phát triển văn hóa đến năm
2020, (ban hành kèm theo Quyết định số: 581/QĐ-TTg, ngày 06 tháng
5 năm 2009 của Thủ tướng Chính phủ).
121. Hà Văn Thư, Lã Văn Lô (1984), Văn hóa Tày Nùng, Nxb. Văn hóa.
122. Hoàng Văn Thượng (2017), Công tác xã hội đối với nạn nhân bị mua
bán trở về từ thực tiễn tỉnh Cao Bằng, Luận văn thạc sĩ Công tác xã
hội, Học viện Khoa học xã hội.
123. Vương Xuân Tình (2011), Một số vấn đề cơ bản về dân tộc dưới tác
động của sự phát triển vùng biên giới Việt-Trung, Đề tài cấp Bộ, Viện
Dân tộc học.
124. Vương Xuân Tình, Vũ Đình Mười (2016), Quan hệ dân tộc xuyên quốc
gia ở Việt Nam Nghiên cứu tại vùng Nam Bộ, Nxb. Khoa học xã hội.
125. Vương Xuân Tình (chủ biên) (2016), Các dân tộc ở Việt Nam, Tập 2
Nhóm ngôn ngữ Tày – Thái Kađai, Nxb. Chính trị Quốc gia.
126. Hoàng Hoa Toàn (1998), “Nguồn gốc lịch sử tộc người Tày - Nùng ở
Việt Nam”, Tạp chí Dân tộc học, số 2, tr. 29-42.
127. Vương Toàn (2010), “Mấy điểm khác biệt về văn hóa truyền thống giữa
người Tày và người Nùng ở Lạng Sơn”, Tạp chí Dân tộc học số, số 3,
tr. 41-49.
128. Tổng cục thống kê (2010), Tổng điều tra dân số và nhà ở năm 2009:
Kết quả toàn bộ, Ban chỉ đạo Tổng điều tra Dân số và Nhà ở Trung
ương Tổng cục thống kê, Hà Nội.
129. N. N. Trêbôcxarốp (1966), Cuộc di cư đầu tiên và cổ tộc sử, Viện Dân
tộc học.
163
130. Hoàng Đức Trung (2018), Hôn nhân hiện nay của người Tày ở xã Tô
Hiệu, huyện Bình Gia, tỉnh Lạng Sơn, Luận văn thạc sĩ Dân tộc học,
Học viện Khoa học xã hội.
131. Bùi Xuân Trường (1998), “Một số giải pháp nhằm giữ gìn và phát huy
bản sắc văn hóa dân tộc trong sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại
hóa”, Tạp chí Dân tộc học, số 4, tr. 36-43.
132. Hà Thị Hồng Vân, Chử Đình Phúc (2011), “Một số vấn đề cơ bản về
quan hệ thương mại giữa các tỉnh biên giới Tây Bắc, Việt Nam với Vân
Nam, Trung Quốc”, Tạp chí Nghiên cứu Trung Quốc, số 11, tr. 12-23.
133. Hoàng Vinh (1999), Mấy vấn đề lý luận và thực tiễn xây dựng văn hóa
ở nước ta, Nxb. Văn hóa thể thao.
134. Viện Dân tộc học (1978), Các dân tộc ít người ở Việt Nam (Các tỉnh
phía Bắc), Nxb. Khoa học xã hội, Hà Nội.
135. Viện Dân tộc học (1992), Các dân tộc Tày Nùng ở Việt Nam, Xưởng in
Liên hiệp Xí nghiệp Khảo sát.
136. Viện Dân tộc học (1996), Những biến đổi về Kinh tế - Văn hóa các tỉnh
miền núi phía Bắc, Nxb. Khoa học xã hội.
137. Xomthon Yerlobliayao (2007), “Tiếp xúc giao lưu và chuyển đổi bản
sắc tộc người trong nhóm hôn nhân hỗn hợp Lào-Việt Nam, Việt Nam-
Lào”, Tạp chí Nghiên cứu Đông Nam Á, số 2, tr. 26-36.
138. Hong-Zen Wang và Ching-Yin Tien (2009), “Ai kết hôn với cô dâu
người Việt? Tính chất đàn ông và hôn nhân qua biên giới”, Nguyễn
Hồng Nhị dịch từ cuốn Cross-border marriages with Asian
characteristics, Edited by Hong-Zen and Hsin-Huang Michael Hsiao.
Taipei: Center for Asia-Pacific Area Study. P.13, Viện Dân tộc học.
164
139. La Công Ý, Nguyễn Văn Huy, Đỗ Thúy Bình (1980), “Một số vấn đề
nguyện vọng và nhu cầu về đời sống tinh thần của đồng bào Tày, Nùng
ở Cao Bằng và Lạng Sơn”, Tạp chí Dân tộc học, số 3, tr. 69-78.
140. La Công Ý (2010), Đến với người Tày và văn hóa Tày, Nxb. Khoa học
xã hội, Hà Nội.
141. Nguyễn Thị Yên (2008), “Quan hệ giao lưu của thầy cúng người Tày
khu vực biên giới Hạ Lang, Cao Bằng”, Hội thảo quốc tế Việt Nam học
lần thứ III, tiểu ban 4, Đại học Quốc gia Hà Nội, Hà Nội.
142. Nguyễn Thị Yên (2010), Đời sống tín ngưỡng của người Tày ven biên
giới Hạ Lang, Cao Bằng, Nxb. Đại học Quốc gia Hà Nội.
Tài liệu tiếng Anh
143. Becker, S.Gary (1974), Economics of the family: Marriage, Children,
and Human Capital. Uinversity of Chicago Press, Pp. 299 -344.
144. G.Becker (1991), A Treatise on the Family, Harvard University Press.
145. Caroline GRILLOT (2012), Cross-Border marriages between
Vietnamese women and Chineses men: The integration of otherness
and the impact of the popular representations, Wind over water:
Migration in an East Asia Context, Edited by David W Haines, Keiko
Yamanaka, Shinji Yamashita.
146. Lê Bạch Dương (2005), Translational migration, marriage and
trafficking at the China-Vietnam border, Institute for Social
Development Study, Hanoi, Vietnam.
147. Elder, Glen H.Jr (1987), Family and lives: Some Development in Life –
Course Sudies. Yournal of Family History, Vol.12, No. 1-3, Pp179 –
199.
165
148. Lianling Su (2009), Cross-border marrige migration of Vietnam
women to China, A thesis submitted in partial fulfillment of the
requirments for the degress, Harbin Normal University.
149. Lucy William (2010), Global marriage: cross-border marriage
migration in global context (migration, diasporas and citizenship),
Publisher: Palgrave Macmillian.
150. Michael Eilenberg and Reed L. Wadley (2009), Borderland livelihood
stratergies: The socio-economic significance of ethnicity in cross-
border labour migration, West Kalimantan, Indonesia, Asia Pacific
Viewpoint, Vol.50,No.1, April.
151. Song Yoo-Jean, Cross-Border Marriages: Gender and Mobility in
Transnational Asia, Edited By Nicole Constable. Philadelphia:
University of Pennsylvania, Press, 2005. 220 pp.
152. Zhung Juan (2010), Border opened up: Everyday Business in China-
Vietnam Frontier, Sydney: Macquerie University, Ph.D.disseration.
Tài liệu dịch tiếng Trung Quốc
153. Vương Huy, Hoàng Gia Tín (Khoa Văn hóa lịch sử và du lịch, Đại học
Bách Sắc Quảng Tây) (2007), “Phụ nữ không quốc tịch: Nhóm những
người ở giữa truyền thống và hiện đại”, Tc. Học viện Bách Sắc, số 1,
tháng 2/2007.
154. Lương Mậu Xuân, Trần Văn (2011), “Loại hình và con đường hình
thành hôn nhân qua biên giới Việt – Trung”, Tc. Dân số Phương Nam,
số 4.
155. Mã Y (2014), Hôn nhân qua biên giới Việt Trung dưới góc nhìn xã hội
học (Điều tra tại thị trấn Kim Thủy, huyện Kim Bình, tỉnh Vân Nam).
Viện Nhân văn học, Đại học dân tộc Vân Nam.
166
MỤC LỤC
Phụ lục 1. Bản đồ hành chính huyện Phục Hòa, tỉnh Cao Bằng ................... 167
Phụ lục 2. Một số ảnh về con người và hôn nhân của người Tày ở vùng biên
giới huyện Phục Hòa, tỉnh Cao Bằng. ........................................................... 168
167
Phụ lục 1. Bản đồ hành chính huyện Phục Hòa, tỉnh Cao Bằng
168
Phụ lục 2. Một số ảnh về con người và hôn nhân của người Tày ở
vùng biên giới huyện Phục Hòa, tỉnh Cao Bằng.
H1. Bản Nà Nòa, xã Triệu Ẩu, huyện Phục Hòa
[Tác giả: Lê Anh Hòa, 2014]
H2. Lối và bản và người dân ở bản Nà Nòa, xã Triệu Ẩu,
huyện Phục Hòa [Tác giả: Lê Anh Hòa, năm 2014].
169
H3. Nhà sàn truyền thống của người Tày xã Cách Linh,
huyện Phục Hòa [Tác giả: Lê Anh Hòa, năm 2014]
H4. Một góc chợ Cách Linh, chợ cổ có trên 100 năm tuổi ở
xã Cách Linh, huyện Phục Hòa [Tác giả: Lê Anh Hòa, năm 2014].
170
H5. Cây mía, nguồn thu ổn định của người dân vùng biên
huyện Phục Hòa [Tác giả: Lê Anh Hòa, 2015].
H5. Một hình thức kinh doanh mới của một hộ gia đình.
Hộ bán thịt lợn duy nhất ở xã Đại Sơn, Phục Hòa
[Tác giả: Lê Anh Hòa, năm 2015].
171
H6. Người Trung Quốc đến xã Đại Sơn, huyện Phục Hòa
mua gà [Tác giả: Lê Anh Hòa, năm 2015].
H7. Chiếc rương của một gia đình ở xã Đại Sơn, vài chục
năm trước đây, ngày cưới cô dâu đựng quần áo mang
theo về nhà chồng [Tác giả: Lê Anh Hòa, năm 2015].
172
H8. Rạp cưới tại nhà gái trước thời điểm nhà trai tới đón dâu,
tại thị trấn Hòa Thuận, Phục Hòa [Tác giả: Lê Anh Hòa, năm 2017].
H9, H10. Đồ cúng đặt bên cạnh rạp
cưới ở nhà gái tại thị trấn Hòa
Thuận, Phục Hòa [Tác giả: Lê Anh
Hòa, năm 2017].
173
H11. Đoàn nhà trai đến đón dâu tại xã Mỹ
Hưng, Phục Hòa [Tác giả: Lê Anh Hòa,
năm 2014].
H12. Đoàn nhà trai đến đón dâu tại thị trấn
Hòa Thuận, Phục Hòa [Tác giả: Lê Anh
Hòa, 2017].
H13, H14. Đồ lễ nhà trai mang sang nhà gái tại xã Mỹ Hưng, Phục Hòa [Tác
giả: Lê Anh Hòa, năm 2014]
174
H15. Đồ lễ nhà trai mang sang đặt lên bàn giờ gia tiên nhà gái
tại thị trấn Hòa Thuận, Phục Hòa [Tác giả: Lê Anh Hòa, năm 2017].
H16. Đại diện hai bên gia đình ở nhà gái, tại thị trấn Hòa Thuận,
Phục Hòa [Tác giả: Lê Anh Hòa, năm 2017].
175
H17. Ông quan làng nhà trai đứng lên thưa chuyện xin phép được
đón dâu, tại thị trấn Hòa Thuận [Tác giả: Lê Anh Hòa, năm 2017].
H18. Cô dâu, chú rể và hai ông quan làng (nhà trai, nhà gái) đứng
trước ban thờ nhà gái trình báo tổ tiên và xin dâu, tại thị trấn
Hòa Thuận, Phục Hòa [Tác giả: Lê Anh Hòa, năm 2017].
176
H19. Cô dâu, chú rể mời rượu bố mẹ cô dâu và đại diện nhà gái,
tại thị trấn Hòa Thuận, Phục Hòa [Tác giả: Lê Anh Hòa, năm 2017].
H20. Mâm cỗ cưới ở nhà gái tại thị trấn Hòa Thuận, Phục Hòa [Tác giả:
Lê Anh Hòa, năm 2017].
177
H21. Xe ô tô đón dâu về gần tới nhà trai thì dừng lại, cô dâu,
chú rể cùng đoàn đón dâu đi bộ về nhà trai, tại xã Mỹ Hưng, Phục Hòa
[Tác giả: Lê Anh Hòa, năm 2017].
H22. Đón dâu về đến cổng nhà trai tại xã Mỹ Hưng, Phục Hòa
[Tác giả: Lê Anh Hòa, năm 2017].
178
H23. Người phụ nữ cầm chậu nước lá thơm để vẩy vào cô dâu,
chú rể tại xã Mỹ Hưng, Phục Hòa [Tác giả: Lê Anh Hòa, năm 2017].
H24. Mọi người mang của hồi môn của cô dâu vào trong nhà trai
tại xã Mỹ Hưng, Phục Hòa [Tác giả: Lê Anh Hòa, năm 2017].
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- luan_an_hon_nhan_cua_nguoi_tay_o_vung_bien_gioi_huyen_phuc_h.pdf
- Trichyeu_LeAnhHoa.pdf