Luận án Hôn nhân của người lô lô ở huyện Bảo lạc, tỉnh Cao bằng truyền thống và biến đổi

VIỆN HÀN LÂM KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM HỌC VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI MÔNG THỊ XOAN HÔN NHÂN CỦA NGƯỜI LÔ LÔ Ở HUYỆN BẢO LẠC, TỈNH CAO BẰNG TRUYỀN THỐNG VÀ BIẾN ĐỔI LUẬN ÁN TIẾN SĨ NHÂN HỌC HÀ NỘI - 2017 VIỆN HÀN LÂM KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM HỌC VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI MÔNG THỊ XOAN HÔN NHÂN CỦA NGƯỜI LÔ LÔ Ở HUYỆN BẢO LẠC, TỈNH CAO BẰNG TRUYỀN THỐNG VÀ BIẾN ĐỔI Chuyên ngành: NHÂN HỌC Mã số: 62 31 03 02 LUẬN ÁN TIẾN SĨ NHÂN HỌC NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC: 1. PGS.TS.

pdf184 trang | Chia sẻ: huong20 | Ngày: 15/01/2022 | Lượt xem: 364 | Lượt tải: 0download
Tóm tắt tài liệu Luận án Hôn nhân của người lô lô ở huyện Bảo lạc, tỉnh Cao bằng truyền thống và biến đổi, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
. PHẠM QUANG HOAN 2. TS. LÒ GIÀNG PÁO HÀ NỘI - 2017 i LỜI CAM ĐOAN Tôi cam đoan đây là công trình nghiên cứu khoa học của cá nhân. Các nội dung kế thừa của các tác giả đi trước đều được trích dẫn rõ ràng, các tư liệu, số liệu nêu trong luận án là hoàn toàn trung thực. Tôi xin hoàn toàn chịu trách nhiệm về lời cam đoan trên. Hà Nội, ngày tháng năm 2017 Tác giả luận án Mông Thị Xoan ii LỜI CẢM ƠN Để hoàn thành luận án tiến sĩ với đề tài “hôn nhân của người Lô Lô ở huyện Bảo Lạc, tỉnh Cao Bằng truyền thống và biến đổi, tôi đã nhận được sự giúp đỡ của các thầy cô giáo, đồng nghiệp, bạn bè và các cơ quan, tổ chức, các nhân tại địa bàn nghiên cứu. Tôi chân thành cảm ơn Ban Giám đốc Học viện Khoa học xã hội, Khoa Dân tộc học và Nhân học đã tạo mọi điều kiện thuận lợi cho tôi trong suốt quá trình học tập tại Học viện. Đặc biệt, tôi xin bày tỏ lòng biết ơn sâu sắc tới hai thầy giáo hướng dẫn khoa học: PGS.TS. Phạm Quang Hoan và TS. Lò Giàng Páo đã tận tình giúp đỡ, hướng dẫn tôi trong suốt quá trình viết luận án. Xin cảm ơn Phòng Quản lý Đào tạo Sau Đại học, Trường Đại học Văn hóa Hà Nội, nơi tôi đang công tác, đã tạo mọi điều kiện thuận lợi cho tôi trong suốt quá trình học tập và làm luận án. Tôi gửi lời cám ơn chân thành đến chính quyền địa phương, người dân Lô Lô sinh sống ở các bản của huyện Bảo Lạc, tỉnh Cao Bằng đã tạo điều kiện giúp đỡ tôi trong quá trình khảo sát, nghiên cứu thu thập tài liệu để hoàn thành luận án. Tôi gửi lời ơn những bạn đồng nghiệp, người thân trong gia đình đã động viên, khích lệ, chỗ dựa tinh thần vững chắc để tôi hoàn thành luận án. Hà Nội, ngày tháng năm 2017 Tác giả luận án Mông Thị Xoan iii MỤC LỤC MỞ ĐẦU .......................................................................................................... 1 Chương 1: TỔNG QUAN TÌNH HÌNH NGHIÊN CỨU, CƠ SỞ LÝ THUYẾT VÀ KHÁI QUÁT VỀ NGƯỜI LÔ LÔ Ở HUYỆN BẢO LẠC .... 9 1.1. Tổng quan tình hình nghiên cứu ............................................................. 9 1.2. Cơ sở lý thuyết ...................................................................................... 16 1.3. Khái quát về người Lô Lô ở huyện Bảo Lạc ........................................ 26 Tiểu kết chương 1 ........................................................................................ 41 Chương 2: HÔN NHÂN TRUYỀN THỐNG CỦA NGƯỜI LÔ LÔ Ở HUYỆN BẢO LẠC ....................................................................................... 43 2.1. Quan niệm về hôn nhân của người Lô Lô ............................................ 43 2.2. Các quy tắc trong hôn nhân của người Lô Lô ...................................... 48 2.3. Phong tục và nghi lễ trong hôn nhân của người Lô Lô ........................ 56 2.4. Những trường hợp hôn nhân khác của người Lô Lô ............................ 63 2.5. So sánh nghi lễ hôn nhân của người Lô Lô .......................................... 69 Tiểu kết chương 2 ........................................................................................ 79 Chương 3: SỰ BIẾN ĐỔI HÔN NHÂN CỦA NGƯỜI LÔ LÔ Ở HUYỆN BẢO LẠC HIỆN NAY .................................................................................. 81 3.1. Thực trạng biến đổi về hôn nhân .......................................................... 81 3.2. Nguyên nhân và yếu tố dẫn đến sự biến đổi hôn nhân của người Lô Lô .... 97 Tiểu kết chương 3 ...................................................................................... 107 Chương 4: GIÁ TRỊ HÔN NHÂN CỦA NGƯỜI LÔ LÔ Ở HUYỆN BẢO LẠC HIỆN NAY - VẤN ĐỀ BÀN LUẬN ................................................. 109 4.1. Bối cảnh xã hội nước ta hiện nay ....................................................... 109 4.2. Giá trị trong hôn nhân truyền thống của người Lô Lô ....................... 111 4.3. Vấn đề bàn luận góp phần gìn giữ và phát triển hôn nhân của người Lô Lô ở huyện Bảo Lạc, tỉnh Cao Bằng trong bối cảnh hiện nay .................. 121 4.4. Khuyến nghị về vấn đề hôn nhân của người Lô Lô ở huyện Bảo Lạc, tỉnh Cao Bằng ............................................................................................ 134 Tiểu kết Chương 4 ..................................................................................... 136 KẾT LUẬN .................................................................................................. 138 DANH MỤC CÔNG TRÌNH, BÀI BÁO KHOA HỌC CỦA NGHIÊN CỨU SINH ĐÃ CÔNG BỐ LIÊN QUAN ĐẾN ĐỀ TÀI LUẬN ÁN ..... 142 TÀI LIỆU THAM KHẢO .......................................................................... 143 PHỤ LỤC ..................................................................................................... 144 iv DANH MỤC BẢNG CHỮ VIẾT TẮT Chữ viết tắt Chữ viết đầy đủ CTQG: CNH: Chính trị quốc gia Công nghiệp hoá DTH: Dân tộc học ĐHQGHN: HĐH: Đại học Quốc gia Hà Nội Hiện đại hoá KHXH: Khoa học xã hội Nxb: Nhà xuất bản Tr: Trang VHDT: Văn hóa dân tộc VHNT: Văn hóa nghệ thuật VHTT: Văn hóa thông tin VH,TT&DL: Văn hóa, Thể thao và Du lịch XHH: Xã hội học 1 MỞ ĐẦU 1. Tính cấp thiết của đề tài Trong bức tranh đa dạng về cơ cấu tộc người và văn hoá tộc người ở Việt Nam hiện nay, Lô Lô là một trong 6 tộc người thiểu số thuộc nhóm ngôn ngữ Tạng - Miến và là một trong các tộc người có dân số ít ở nước ta. Họ cư trú chủ yếu ở các huyện vùng cao biên giới thuộc các tỉnh Cao Bằng, Hà Giang, Lào Cai và Lai Châu. Dân tộc Lô Lô có nền văn hoá khá phong phú và đa dạng, thể hiện qua lối sống, phong tục tập quán, tín ngưỡng, tôn giáo, hôn nhân và gia đình... Hôn nhân là những tập tục, những nghi lễ mà các tộc người đã và đang thực hiện trong các giai đoạn lịch sử, thể hiện bản sắc văn hóa của mình. Hôn nhân là phương thức tạo lập gia đình mới, tạo nên tế bào của xã hội, nơi bảo tồn, trao truyền và làm giàu các giá trị văn hóa tộc người qua các thế hệ. Đối với người Lô Lô, nghiên cứu về hôn nhân sẽ góp phần làm rõ những giá trị văn hoá tộc người được bảo tồn và lưu truyền từ thế hệ này sang thế hệ khác. Từ đó, góp phần nhận diện một cách cụ thể về bức tranh văn hoá tộc người Lô Lô, cũng như bảo tồn và phát huy các giá trị văn hoá dân tộc, thực hiện quan điểm, đường lối của Đảng, chính sách và pháp luật của Nhà nước, cụ thể là việc thực hiện Nghị quyết số 33 của Ban chấp hành Trung ương Đảng lần thứ IX, khóa XI về việc “ Xây dựng và phát triển văn hóa, con người Việt Nam đáp ứng yêu cầu phát triển bền vững đất nước”. Trong thời kỳ đổi mới, giao lưu hội nhập khu vực và quốc tế, văn hóa các dân tộc thiểu số ở nước ta nói chung, hôn nhân của người Lô Lô nói riêng vẫn còn bảo lưu được nhiều yếu tố văn hóa truyền thống. Trong đó, có những yếu tố cần giữ gìn, phát huy và một số yếu tố không còn phù hợp với xã hội hiện đại như: kết hôn cận huyết thống, tảo hôn, kết hôn không đăng ký, sinh con sớm, đẻ con nhiều... Bên cạnh đó, dưới tác động của bối cảnh công 2 nghiệp hóa (CNH), hiện đại hóa (HĐH), giao lưu kinh tế, văn hóa... đã và đang làm thay đổi quan niệm, cách nhìn nhận của người Lô Lô ở huyện Bảo Lạc trong đời sống sinh hoạt thường nhật, mà hôn nhân là một thành tố chịu sự tác động và biến đổi mạnh mẽ: từ nội dung, thời gian thực hành các nghi thức, nghi lễ đến trang phục, sinh hoạt ăn uống... của người Lô Lô hiện nay. Hôn nhân truyền thống của người Lô Lô có những đặc điểm chung như ở nhiều tộc người khác. Tuy nhiên, hôn nhân của người Lô Lô cũng có những đặc điểm riêng với những nghi thức, phong tục và hệ giá trị chuẩn mực nhất định. Việc nghiên cứu về hôn nhân của người Lô Lô ở huyện Bảo Lạc, tỉnh Cao Bằng sẽ góp phần bảo tồn các giá trị văn hoá truyền thống quan trọng của tộc người này, cũng như sự phát triển của văn hóa của họ trong xã hội hiện đại. Vì lẽ đó, nghiên cứu về hôn nhân của người Lô Lô ở huyện Bảo Lạc, tỉnh Cao Bằng để làm cơ sở khoa học cho các nhà quản lý xã hội và quản lý văn hóa áp dụng các giải pháp phù hợp khi thực hiện Luật Hôn nhân và Gia đình đối với người Lô Lô, góp phần thực hiện nếp sống văn hóa và trong quá trình xây dựng nông thôn mới, phù hợp với chủ trương, chính sách của Đảng và Nhà nước về Xây dựng nền văn hóa Việt Nam tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc. Xuất phát từ những yêu cầu về phương diện lý luận và thực tiễn nêu trên, nghiên cứu sinh chọn vấn đề Hôn nhân của người Lô Lô ở huyện Bảo Lạc, tỉnh Cao Bằng: Truyền thống và biến đổi làm đề tài luận án tiến sĩ Nhân học. 2. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu 2.1. Mục đích nghiên cứu Nghiên cứu hôn nhân của người Lô Lô ở huyện Bảo Lạc, tỉnh Cao Bằng, xem xét các phương diện văn hóa truyền thống trong hôn nhân qua tư liệu hồi cố, tư liệu thực địa. Trên cơ sở đó, nhận diện các yếu tố biến đổi trong hôn nhân của tộc người này trong xã hội đương đại và đề xuất các khuyến nghi, giải pháp nhằm bảo tồn và phát huy các giá trị trong hôn nhân của người Lô Lô. 3 2.2. Nhiệm vụ nghiên cứu - Luận án trình bày những quan niệm, nguyên tắc, hình thức hôn nhân và cư trú sau hôn nhân, các phong tục và nghi lễ trong hôn nhân, đặc điểm văn hóa trong hôn nhân. - Phân tích những yếu tố văn hóa trong hôn nhân truyền thống của người Lô Lô ở huyện Bảo Lạc. - Trình bày, phân tích những biến đổi trong hôn nhân của người Lô Lô, nguyên nhân dẫn đến sự biến đổi. - Phân tích, so sánh về những tương đồng và khác biệt trong văn hoá hôn nhân của người Lô Lô ở huyện Bảo Lạc với đồng tộc ở tỉnh Hà Giang và với người Tày ở huyện Bảo Lạc. - Chỉ rõ những vấn đề đặt ra và khuyến nghị về việc bảo tồn và phát huy giá trị văn hoá tộc người trong hôn nhân của người Lô Lô ở huyện Bảo Lạc, tỉnh Cao Bằng hiện nay. 3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu 3.1. Đối tuợng nghiên cứu Đối tượng nghiên cứu của luận án là hôn nhân của người Lô Lô hiện đang sinh sống ở huyện Bảo Lạc, tỉnh Cao Bằng, trong đó tập trung vào cả những yếu tố truyền thống và hiện đại. Ngoài ra, luận án còn so sánh hôn nhân khác tộc của người Tày với người Lô Lô ở huyện Bảo Lạc và cộng đồng người Lô Lô sinh sống ở tỉnh Hà Giang. 3.2. Phạm vi nghiên cứu - Phạm vi vấn đề nghiên cứu: Nghiên cứu các khía cạnh liên quan đến hôn nhân truyền thống của người Lô Lô, sự biến đổi của hôn nhân và những yếu tố tác động đến sự biến đổi đó. - Phạm vi thời gian: Nghiên cứu hôn nhân của người Lô Lô ở huyện Bảo Lạc trước và sau năm 2014. Đây là thời điểm tỉnh Cao Bằng nói chung và huyện Bảo Lạc nói riêng triển khai sâu rộng hoạt động phổ biến tinh thần 4 nội dung của Luật Hôn nhân và Gia đình được sửa đổi. Trên thực tế, đây cũng là thời điểm các giá trị văn hóa truyền thống đang có xu hướng biến đổi và những giá trị văn hóa mới được tiếp thu. Vì vậy, việc nghiên cứu ở khung thời gian này cho chúng ta thấy được những nét đặc trưng trong hôn nhân truyền thống của người Lô Lô và là cơ sở để phân tích, so sánh, làm rõ những biến đổi trong văn hoá hôn nhân của người Lô Lô trong giai đoạn từ năm 2014 đến nay. - Phạm vi không gian nghiên cứu: Gồm các thôn có người Lô Lô sinh sống ở huyện Bảo Lạc. Cụ thể là các thôn Cốc Xả, Nà Van thuộc xã Hồng Trị, thôn Khuổi Khon thuộc xã Kim Cúc, thôn Ngàm Lồm thuộc xã Cô Ba, huyện Bảo Lạc, tỉnh Cao Bằng. 4. Phương pháp luận và phương pháp nghiên cứu 4.1. Phương pháp luận Đề tài luận án được thực hiện dựa trên cơ sở lý luận khoa học của Chủ nghĩa Mác - Lê nin, Tư tưởng Hồ Chí Minh, các quan điểm của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước ta về vấn đề dân tộc, về hôn nhân và gia đình. Trong đó, đáng chú ý là quan điểm của Đảng và Nhà nước ta về vấn đề hôn nhân, cũng như chiến lược phát triển gia đình Việt Nam đến năm 2020, tầm nhìn 2030. Sau Cách mạng tháng Tám - 1945, trong cuốn “Đời sống mới” (tháng 3 năm 1947), Bác Hồ đã phát động toàn dân xây dựng đời sống mới trong một quốc gia độc lập mới, trong đó Người coi xây dựng gia đình mới là một nội dung quan trọng của công tác xây dựng đời sống mới. Đồng thời, Người còn chỉ ra phương pháp cũng như nội dung cần thực hiện trong cuộc vận động này là “Cái gì xấu thì phải bỏ, cái gì cũ mà không xấu, nhưng phiền phức thì phải sửa đổi cho hợp lý, cái gì tốt thì phải phát triển thêm” [59]. Vấn đề hôn nhân và gia đình luôn được Đảng và Nhà nước quan tâm, trong Báo cáo chính trị của Ban chấp hành Trung ương Đảng cộng sản Việt 5 Nam tại Đại hội Đại biểu toàn quốc lần thứ V của Đảng đã chỉ rõ tầm quan trọng của gia đình trong sự nghiệp xây dựng chế độ mới, nền kinh tế mới, con người mới. Tuy nhiên, nước ta có 54 thành phần dân tộc khác nhau cùng sinh sống, mỗi dân tộc có phong tục tập quán, nếp sống, nếp nghĩ riêng và cư trú sinh sống trong điều kiện kinh tế, văn hóa, xã hội đặc thù. Luật Hôn nhân và gia đình là vấn đề mang tính nguyên tắc, chuẩn mực sống đem phổ biến và áp dụng tới mọi người dân, mọi thành phần dân tộc phải có những điều khoản riêng phù hợp với phong tục, tập quán, văn hóa, xã hội và như vậy, luật này mới có hiệu quả cao. Luật Hôn nhân và gia đình quy định cụ thể như sau: “Việc hôn nhân là do nam, nữ tự nguyện quyết định, không bên nào được ép buộc, lừa dối bên nào, không ai được cưỡng ép hoặc cản trở việc kết hôn” [58], “phải đủ tuổi kết hôn với Nam từ 20 tuổi trở lên, nữ từ 18 tuổi trở lên, tuổi kết hôn được tính là tuổi tròn, cứ một năm được tính là một tuổi” [58]. Vì đến tuổi đó, nam, nữ mới chuẩn bị được tâm sinh lý để bước vào ngưỡng cửa lập gia đình và lo cho gia đình. Tuy nhiên, trong nhiều năm qua, đồng bào Lô Lô vẫn coi nhẹ việc đăng ký kết hôn, vì coi trọng việc lễ cưới nên họ tổ chức một cách linh đình, ồn ào, ăn uống kéo dài ngày, gây lãng phí cho gia đình cũng như làm giảm năng suất lao động của cộng đồng. Vì vậy, Ban chấp hành Trung ương Đảng, Chính phủ ra chỉ thị thực hiện nếp sống văn minh trong việc cưới, tang lễ, lễ hội và Bộ Văn hóa, Thể thao và Du lịch đã ra Thông tư hướng dẫn thực hiện chỉ thị của Đảng và Chính phủ trong việc cưới là: “Phải được tổ chức trang trọng, lành mạnh, tiết kiệm phù hợp với truyền thống từng dân tộc thể hiện văn hóa chung của cộng đồng” [10]. Trong nghị định 32 của Chính phủ đã nêu: “Tăng cường tuyên truyền, phổ biến pháp luật về hôn nhân và gia đình, vận động người dân phát huy truyền thống phong tục tập quán tốt đẹp và xóa bỏ những phong tục tập quán lạc hậu về hôn nhân và gia đình” [66]. Nhìn chung, có thể thấy rằng Đảng 6 và Nhà nước luôn quan tâm và có những quan điểm chỉ đạo trong vấn đề về hôn nhân và gia đình của các dân tộc ở nước ta. 4.2. Phương pháp nghiên cứu Luận án sử dụng kết hợp một số phương pháp như là những công cụ cần thiết đảm bảo tính hiệu quả của việc thu thập, xử lý và phân tích các nguồn tư liệu, thông tin trong suốt quá trình nghiên cứu. Trong đó, phương pháp điền dã Dân tộc học/Nhân học là phương pháp chủ đạo trong quá trình triển khai nội dung luận án. - Phương pháp điền dã Dân tộc học: Khảo sát, điền dã được thực hiện vào nhiều đợt tại một số bản của người Lô Lô ở huyện Bảo Lạc, tỉnh Cao Bằng. Trong các cuộc điền dã, tác giả luận án đã tiến hành quan sát, ghi chép, chụp ảnh, quay phim, tham dự trực tiếp một số đám cưới, các bước tiến hành trong lễ cưới của người Lô Lô. Việc quan sát tham dự đã được thực hiện trong suốt thời gian nghiên cứu tại địa bàn, giúp tác giả có điều kiện tiếp xúc và tham dự trực tiếp vào các sinh hoạt nghi lễ của cộng đồng và gia đình, qua đó thấu hiểu về văn hoá tộc người cũng như hôn nhân của người Lô Lô tại các thôn/ bản được chọn là điểm nghiên cứu chính của luận án. Để hiểu kĩ hơn về hôn nhân của người Lô Lô, tác giả luận án đã khai thác thông tin bằng phỏng vấn sâu với đa dạng đối tượng như: Người cao tuổi, trưởng họ, thầy cúng, thanh niên, phụ nữ; phỏng vấn đại diện nhà quản lý cấp tỉnh, huyện, xã, trưởng bản... Trước khi phỏng vấn, tác giả chuẩn bị một bảng hỏi để phục vụ cho quá trình thu thập thông tin cho luận án. Việc phỏng vấn các đối tượng khác nhau về giới tính, độ tuổigiúp tác giả thu thập được các thông tin, những quan niệm khác nhau về hôn nhân của người Lô Lô và trong xã hội truyền thống và hiện nay. Thảo luận nhóm theo chủ đề cũng đã được triển khai thực hiện tại địa bàn nghiên cứu. Tác giả luận án đã lựa chọn những nhóm (khoảng 4 đến 7 7 người/nhóm) có cùng một số tiêu chí nhất định để tiến hành thảo luận về các chủ đề liên quan đến hôn nhân, ví dụ nhóm cô dâu, chú rể mới cưới; nhóm bố mẹ vừa tổ chức cưới cho con cái; nhóm những người già từ 70 tuổi trở lên; nhóm thanh niên chưa có gia đình - Phương pháp chuyên gia: Phương pháp này đã được áp dụng để trao đổi, lấy ý kiến các chuyên gia, đồng nghiệp về các vấn đề liên quan đến đề tài, cũng như cách đánh giá các thông tin, tư liệu thu thập được tại địa bàn nghiên cứu. - Phương pháp so sánh: Trong quá trình thực hiện luận án, phương pháp so sánh cũng được tác giả luận án sử dụng, cụ thể là tiến hành so sánh hôn nhân của người Lô Lô ở Bảo Lạc với người Lô Lô ở Hà Giang và so sánh hôn nhân của người Lô Lô với người Tày cộng cư ở huyện Bảo Lạc để từ đó có thể rút ra được những điểm tương đồng và khác biệt, cũng như thấy rõ được sự biến đổi trong hôn nhân của người Lô Lô cư trú ở các địa bàn khác nhau. - Ngoài ra, luận án còn sử dụng phương pháp phân tích tư liệu, tổng hợp, xử lý các tư liệu. Tác giả đã kế thừa các tư liệu của các nhà nghiên cứu đi trước để có thể xác định hướng nghiên cứu, đồng thời phân tích, đánh giá một cách khách quan nhất và từ đó đặt ra được những vấn đề cần đi sâu nghiên cứu hay bàn luận trong luận án. 5. Đóng góp của luận án - Luận án là công trình đầu tiên nghiên cứu có hệ thống, chuyên sâu về hôn nhân của người Lô Lô ở huyện Bảo Lạc, tỉnh Cao Bằng dưới góc độ Nhân học từ truyền thống đến hiện đại. - Luận án đưa ra những kiến nghị, giải pháp để bảo tồn và phát huy các giá trị văn hoá trong hôn nhân của người Lô Lô, góp phần xây dựng đời sống văn hóa mới ở cộng đồng người Lô Lô. 8 - Luận án góp phần cung cấp những tư liệu, thông tin mới xác thực, có giá trị về lĩnh vực hôn nhân của người Lô Lô cho các nhà hoạch định chính sách, cho các giảng viên, các nhà nghiên cứu, sinh viên ngành Văn hoá học, Dân tộc học/ Nhân học. 6. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn của luận án - Trên cơ sở nghiên cứu một cách có hệ thống, chuyên sâu về hôn nhân của người Lô Lô tại một huyện vùng cao biên giới, luận án góp phần bổ sung nguồn tư liệu mới, làm rõ đặc điểm và các giá trị văn hóa trong hôn nhân của người Lô Lô. - Luận án cung cấp luận cứ khoa học nhằm cụ thể hóa Luật Hôn nhân và Gia đình, đồng thời làm cơ sở cho các nhà quản lý tham khảo trong việc hoạch định và thực thi chính sách bảo tồn, phát huy giá trị trong hôn nhân của người Lô Lô hiện nay. 7. Cấu trúc của luận án Ngoài phần Mở đầu, Kết luận, Tài liệu tham khảo và Phụ lục, nội dung chính của luận án gồm 04 chương: Chương 1: Tổng quan tình hình nghiên cứu, cơ sở lý thuyết và khái quát về người Lô Lô ở huyện Bảo Lạc Chương 2: Hôn nhân truyền thống của người Lô Lô ở huyện Bảo Lạc Chương 3: Sự biến đổi hôn nhân của người Lô Lô ở huyện Bảo Lạc hiện nay Chương 4: Giá trị hôn nhân của người Lô Lô ở huyện Bảo Lạc, tỉnh Cao Bằng hiện nay - Vấn đề bàn luận 9 Chương 1 TỔNG QUAN TÌNH HÌNH NGHIÊN CỨU, CƠ SỞ LÝ THUYẾT VÀ KHÁI QUÁT VỀ NGƯỜI LÔ LÔ Ở HUYỆN BẢO LẠC 1.1. Tổng quan tình hình nghiên cứu Nghiên cứu về hôn nhân và gia đình là một trong các chủ đề quan trọng trong nghiên cứu về văn hóa tộc người. Thực tiễn cho thấy, hôn nhân và gia đình luôn phản ánh rõ nét những đặc điểm văn hóa, xã hội của mỗi tộc người qua từng giai đoạn phát triển trong diễn trình lịch sử. Trong truyền thống và hiện đại, hôn nhân và gia đình thể hiện những đặc trưng văn hóa riêng của mỗi tộc người, nhưng đồng thời cũng mang những sắc thái mới cùng với sự biến đổi sâu sắc giữa yếu tố truyền thống và tiếp nhận những yếu tố mới của xã hội đương đại để tạo ra đặc trưng văn hóa trong một giai đoạn lịch sử nhất định. Với mong muốn có cái nhìn tổng quan về tình hình nghiên cứu, tác giả luận án đã làm rõ các vấn đề thông qua các công trình đã nghiên cứu về người Lô Lô từ trước tới nay, nhận diện các công trình khoa học đã được công bố, làm rõ những điểm chưa nghiên cứu hoặc chưa phân tích một cách có hệ thống. Những tập hợp, thống kê và phân tích dưới đây cho thấy đã có nhiều công trình, bài viết đề cập tới hôn nhân nói chung và hôn nhân của người Lô Lô ở tỉnh Cao Bằng nói riêng, cụ thể như sau: 1.1.1. Hôn nhân nói chung qua các tài liệu nước ngoài Trong cuốn Nguồn gốc của gia đình, của chế độ tư hữu và của nhà nước (1884), Ph.Ăngghen cho rằng, trước năm 1860, chưa có thể nói gì về lịch sử nghiên cứu về hôn nhân và gia đình. Việc nghiên cứu về hôn nhân dường như chỉ được bắt đầu vào năm 1861, khi công trình Mẫu quyền của Bacôphen xuất hiện. Tác giả này cho rằng, lúc đầu loài người sống trong tình trạng tạp hôn, con cái sinh ra không biết bố, chỉ biết mẹ, người mẹ vừa là 10 người sinh ra con cái, vừa là người (có thể cùng các chị em gái) nuôi dưỡng con cái. Do đó, trong lịch sử nhân loại, tổ chức xã hội đầu tiên theo mẫu quyền, rồi sau mới dần chuyển sang phụ quyền. Tuy nhiên, cùng với thời gian và bằng các tư liệu mới phát hiện được sau này ở những khu vực và các tộc người khác nhau trên thế giới, lại có ý kiến cho rằng, chế độ mẫu quyền( mẫu hệ) và phụ quyền( phụ hệ) có thể đã từng cùng tồn tại trong lịch sử phát triển của xã hội loài người. Nhà luật học Mác - Lenan (1866), với việc xuất bản công trình Nghiên cứu lịch sử cổ đại - Hôn nhân nguyên thuỷ, đã nêu ra quan điểm về chế độ “ngoại hôn” có tính phổ biến trong xã hội loài người. Đó là tục cấm những người cùng huyết thống trong một thị tộc kết hôn với nhau, nghĩa là chỉ cho phép kết hôn với người không cùng huyết thống ở các thị tộc khác. Năm 1877, L.H Morgan cho xuất bản công trình Xã hội cổ đại thì việc nghiên cứu về hôn nhân và gia đình thực sự bước sang trang mới. Trong công trình này, lần đầu tiên, L.H.Morgan đã phác hoạ ra bức tranh tiến hoá của lịch sử gia đình nhân loại trải qua 5 hình thái: (i). Gia đình huyết tộc; (ii). Gia đình Punalua; (iii). Gia đình đối ngẫu: (iv). Gia đình phụ hệ gia trưởng; (v). Gia đình một vợ một chồng. Tương ứng với các hình thái gia đình này có các hình thái hôn nhân thích hợp sau: Tạp hôn, quần hôn, hôn nhân đối ngẫu và hôn nhân cá thể Sơ đồ tiến hoá của hôn nhân và gia đình trong tiến trình phát triển của xã hội loài người mà L.H. Morgan đã đề cập trong cuốn Xã hội cổ đại, sau này cũng được Ph. Ăngghen kế thừa trong cuốn Nguồn gốc của gia đình, của chế độ tư hữu và của nhà nước [1]. Tuy nhiên, cùng với thời gian và dưới ánh sáng của những tư liệu mới, các nhà dân tộc học đã phát hiện ra những điều không hợp lý, thậm chí có sự nhầm lẫn trong sơ đồ tiến hóa của hôn nhân và gia đình mà L.H Morgan đã nói tới. Quan điểm này đã được thể hiện rõ trong cuốn Nguồn gốc của hôn nhân và gia đình( 1974) của nhà nghiên cứu dân tộc học Xô Viết trước đây, đó là IU. Sêmônov. 11 Trong xu thế hiện nay, hôn nhân được nghiên cứu ở nhiều góc độ khác nhau: Xã hội học, Nhân học/ Dân tộc học, Văn hóa học, Tâm lý học, Đạo đức học, Luật học... Về lý thuyết và phương pháp luận, một số nhà nghiên cứu đã đưa ra những quan điểm trong nghiên cứu về hôn nhân. Đó là cần phải đặt hôn nhân trong các bối cảnh văn hoá tộc người; hôn nhân trong mối quan hệ về kinh tế và điều kiện, bối cảnh của môi trường sống; hôn nhân chịu ảnh hưởng bởi các yếu tố kinh tế, xã hội và tổ chức xã hội, chính sách của Nhà nước. Mỗi nền văn hóa có một quan niệm riêng về hôn nhân. Hôn nhân bao hàm một sự thay đổi trong vị trí xã hội của hai người và ảnh hưởng đến vị trí xã hội của con cháu. 1.1.2. Hôn nhân các dân tộc thiểu số Việt Nam qua tài liệu trong nước Cho đến nay, đã có khá nhiều công trình nghiên cứu chuyên sâu về lĩnh vực hôn nhân của các dân tộc ở vùng miền núi nước ta. Hầu hết các công trình nghiên cứu này tập trung vào các vấn đề lịch sử phát triển của hôn nhân và gia đình ở một số tộc người như: Tày, Nùng, Thái, Chăm, Mường và một số nhóm tộc người ở khu vực Trường Sơn - Tây Nguyên dưới góc độ Dân tộc học. Nghiên cứu về hôn nhân và gia đình dưới góc độ đánh giá thực trạng và xu hướng, tiêu biểu là các tác giả như: Nguyễn Đức Thịnh( 1974); Nguyễn Hữu Thấu( 1976); Vũ Lợi (19920; Phạm Quang Hoan(1992, 1993); Đỗ Thuý Bình( 1994)... Nghiên cứu với tư cách đi sâu mô tả các nghi lễ trong hôn nhân, tiêu biểu như các tác giả: Trần Bình( 1998); Nguyễn Xuân Hồng( 1998); Nguyễn Ngọc Thanh( 2005); Phạm Thị Kim Oanh( 2010)... Nhìn chung, các nghiên cứu này chú ý nhiều đến mô tả các phong tục tập quán, chủ yếu các nghi lễ và những mối quan hệ trong hôn nhân. Nghiên cứu về hôn nhân và nghi lễ trong hôn nhân của người Thái, tiêu biểu như các tác giả: Đỗ Thúy Bình( 1994); Vi Văn An( 1996); Nghiên cứu về nghi lễ cưới xin, tiêu biểu như: Quàng Thị Chính( 2005); Dương Thị Chung( 2008)... Một số ít công trình nghiên cứu đã đi sâu về những vấn đề đặt ra của hôn nhân với phát 12 triển xã hội như: tảo hôn, hôn nhân “mua bán”, hôn nhân do cha mẹ sắp đặt tiêu biểu như các tác giả: Trần Đình Hượu( 1990); Đỗ Thuý Bình( 1991, 1994); Đỗ Ngọc Tấn, Đặng Thị Hoa( 2004)... Đối với các tộc người thuộc nhóm ngôn ngữ Tạng - Miến, trong đó có dân tộc Lô Lô, đã có một số tư liệu của Viện Dân tộc học giới thiệu về gia đình, quan hệ hôn nhân, hệ thống thân tộc của các dân tộc La Hủ, Hà Nhì, Phù Lá, Cống, Si La. Qua nguồn tư liệu trên cho thấy, kết cấu gia đình của các dân tộc nhóm ngôn ngữ Tạng - Miến rất phong phú, đa dạng. Hôn nhân một vợ một chồng là hình thức hôn nhân chủ yếu của tất cả các dân tộc thuộc nhóm ngôn ngữ này. Hệ thống thân tộc của các dân tộc nhóm ngôn ngữ Tạng- Miến cũng không phản ánh các quan hệ hôn nhân và gia đình hiện nay của các dân tộc Trong những năm gần đây, một số ít công trình mới chỉ dừng lại ở mô tả tương đối khái quát về thực trạng và xu hướng kết hôn của một nhóm địa phương của người Nùng ở tỉnh Lạng Sơn như tác giả Lê Thị Hường( 2009). Một số công trình đã xuất bản có đề cập đến hôn nhân xuyên biên giới giữa người Lô Lô ở Việt Nam với người Di ở miền Nam Trung Quốc như các tác giả: Khổng Diễn, Trần Bình, Đặng Thị Hoa( 2005); Phạm Đăng Hiến( 2010); hôn nhân xuyên biên giới của người H’Mông và người Khơ Mú ở vùng biên giới Việt - Lào như tác giả Phạm Quang Hoan( 2012); hôn nhân đồng tộc của người Brâu ở tỉnh Kon Tum và một số địa phương vùng biên giới Việt Nam - Campuchia như tác giả Bùi Ngọc Quang( 2006); hôn nhân đồng tộc của người M’Nông ở khu vực biên giới tỉnh Đắk Nông với Cămpuchia như tác giả Lý Hành Sơn( 2013)... 1.1.3. Dân tộc Lô Lô ở Việt Nam và hôn nhân của họ qua các tài liệu nghiên cứu Trên thực tế, công trình của giới học thuật nước ngoài nghiên cứu về người Lô Lô ở Việt Nam còn khá thưa vắng, chủ yếu là học giả trong nước 13 quan tâm đến hướng nghiên cứu này. Trong đó, nổi bật là công trình Truyện cổ Lô Lô (1994) của Lò Giàng Páo. Qua các câu chuyện này, có thể thấy được hiện thực đời sống phong phú của tộc người này. Nếu bóc tách phần hư cấu, có thể nhận diện được những nét cơ bản về tộc người Lô Lô, trong đó có phong tục tập quán hôn nhân, gia đình. Trong công trình Trống đồng cổ với các tộc người ở Hà Giang (1996), tác giả Lò Giàng Páo đã phác họa những đặc trưng của trống đồng Hà Giang từ phạm vi phân bố, ứng xử của người dân Hà Giang với trống đồng, tính đồng đại của trống đồng và phân loại trống đồng theo phương pháp dân tộc học và khảo cổ học. Tác giả công trình đã chứng minh và khẳng định được vị trí và vai trò của trống đồng trong vùng đồng bào các dân tộc, giải mã những hoa văn trên trống đồng và đặc biệt là sử dụng trống đồng trong tang ma của người Lô Lô. Trong công trình Lômipho (trường ca Lô Lô) xuất bản năm 2002, tác giả Lò Giàng Páo đã sưu tập những bài dân ca cổ truyền mà những đôi nam, nữ hát đối đáp theo hứng kéo dài hai, ba ngày đêm, mang tính chất vừa là trường ca vừa là truyện kể. Dân ca Lô Lô, có đặc điểm chung là loại bài hát nào và trong mọi trường hợp đều có thể thơ năm chữ, được các nghệ nhân hát và phát triển tuỳ từng điều kiện và hoàn cảnh cụ thể. Cuốn sách Dân ca trong lễ hội của người Lô Lô (2004), tác giả Lò Giàng Páo đã mô tả lễ hội của người Lô Lô như một hình thức sinh hoạt văn hoá, đặc biệt không thể thiếu trong cộng đồng tộc người, là hình thức sinh hoạt văn hoá tinh thần, có sức hấp dẫn và lôi cuốn các tầng lớp trong xã hội của cộng đồng người Lô Lô. Dân ca đã trở thành một nhu cầu và khát vọng của dân tộc qua các thời kì lịch sử. Trong công trình Hoa văn trên trống đồng người Lô Lô (2006), nhà nghiên cứu Lò Giàng Páo nêu rõ: Người Lô Lô quan niệm rằng, trống đồng là sự mô phỏng hình người (nhân thể) có đầu, vai, thân, chân và gắn phần 14 hồn lên trống đồng để làm trung tâm bảo mệnh cho muôn loài, là vật thông tin giữa cõi sống và cõi chết. Người Lô Lô coi mặt trời là trung tâm vũ trụ để giải thích các hiện tượng xảy ra trên thế gian và họ cũng đã dựa vào đó để giải thích các hoa văn trên mặt trống theo quan niệm dân gian đã được lưu truyền từ rất lâu trong cộng đồng tộc người. Tác giả đã giải mã hoa văn trên trống đồng của người Lô Lô với nhiều ý nghĩa như: Hoa văn hình mặt trời ở tâm trống, hoa văn hình người hóa trang cách điệu, hoa văn vạch kẻ hình răng lược, hoa văn sóng nước, hoa văn hình chim bay trên mặt trống, hoa văn hạt cườm, hoa văn hình tam giác lồng... Nhìn chung, mỗi hoa văn trên trống đồng đều mang ý nghĩa và gắn với nét văn hoá tâm linh theo quan niệm của dân tộc Lô Lô. Ngoài ra, một số nhà nghiên cứu cũng đã công bố những ấn phẩm có giá trị, đề cập các chiều cạnh khác nhau về văn hóa của người Lô Lô như: ... phục kéo hơn một vạn quân Lô Lô đi về phía Nam, tới đất Đồng Văn khai phá đất đai, dựng bản lập mường. Tới thế kỷ XVII, có khoảng năm, sáu nghìn người dưới sự chỉ huy của thủ lĩnh Khổng Mìn (hay còn gọi là quan Hoàng) đã tìm đường đến khai khẩn đất đai Mèo Vạc. Cùng thời gian đó, ở Tây Bắc một tù trưởng Lô Lô đã cầm quân đánh chiếm phần lớn tỉnh Lai Châu. Ngoài hai đợt di cư lớn trên, người Lô Lô còn rải rác sang Việt Nam hoặc từ Việt Nam đi ngược lại Trung Quốc vào các thời kỳ sau. Trong ký ức của người dân cũng như trong các bài ca, thần thoại và bài cúng đưa hồn người chết, người Lô Lô ở huyện Bảo Lạc đều cho rằng, Lũng Cú - Đồng Văn là nơi mà họ đặt chân đến đầu tiên. 31 - Không gian cư trú Người Lô Lô ở huyện Bảo Lạc được xếp vào nhóm Lô Lô Đen, cư trú tập trung thành từng bản, mỗi bản có khoảng 20 - 30 gia đình, thuộc nhiều dòng họ. Bản của người Lô Lô chủ yếu phân bố trên các sườn đồi, hoặc sườn núi cao, ở lưng chừng núi, nơi có các khe suối để sinh hoạt. Người Lô Lô nơi đây không cư trú xen kẽ với các dân tộc khác. Nhà của người Lô Lô không bố trí theo hàng lối giống như một số dân tộc khác mà xếp theo thế đất cao thấp khác nhau, các nhà gần nhau thường nhìn theo một hướng, nhà này cách nhà khác khoảng 15m - 20m. Tại không gian cưu trú, người Lô Lô trước đây đi lại bằng những con đường mòn xuyên rừng, qua các thung lũng, hoặc vượt qua các ngọn núi. Họ có kinh nghiệm trong việc phát rừng, mở những con đường mòn mới để kiếm củi, chặt gỗ và phát nương. Khi cần vận chuyển, người phụ nữ Lô Lô hay gánh lên vai hoặc vác. Tuy là tộc người sống trên núi cao, nhưng họ không đeo gùi như người Hmông hay người Dao. Người Lô Lô thường dùng trâu bò để kéo gỗ, kéo cày, bừa, kéo củi và dùng ngựa để thồ. Với địa hình vùng cao, cách xa trung tâm thị trấn, thị xã và thành phố, nên trước đây việc đi lại của đồng bào còn khó khăn, chuyên chở chủ yếu bằng sức người, sức ngựa, sức trâu bò. Giờ đây, người Lô Lô có thể đi lại bằng phương tiện xe máy, chính vì vậy việc giao lưu giữa các dân tộc được thuận lợi, dễ dàng hơn. Huyện Bảo Lạc có vị trí địa lý, kinh tế, quốc phòng rất quan trọng đối với tỉnh Cao Bằng, có đường biên giới dài 53,6 km chung với nước Cộng hòa Nhân dân Trung Hoa, có quốc lộ 34 chạy qua. Thị trấn Bảo Lạc là trung tâm chính trị, kinh tế, xã hội, văn hoá của huyện với tổng diện tích tự nhiên là 92.063, 68 ha, trong đó: diện tích đất nông nghiệp chiếm 89.733,07ha = 97,46%; đất phi nông nghiệp chiếm: 1.821 ,58ha = 1,97%; 32 đất chưa sử dụng chiếm: 709,03ha = 0,77%. Huyện có 16 xã và một thị trấn, số xã đặc biệt khó khăn là 15/17 xã thuộc vùng III đang được hưởng những chính sách ưu đãi của Nhà nước. - Vài nét sinh kế của người Lô Lô Trong truyền thống và hiện đại, việc sinh kế của người Lô Lô vẫn chủ yếu là kinh tế nông nghiệp trên nương tự cấp, tự túc là chủ yếu. Từ điều kiện tự nhiên không mấy thuận lợi này, người Lô Lô đã hình thành loại nương xếp đá và thổ canh hốc đá. Do đất đai canh tác khan hiếm, họ đã cần mẫn nhặt từng hòn đá, kè thành những bờ nương giữ đất trồng trọt. Trải qua nhiều thế hệ, họ đã biến những khoảnh đất hoang hóa thành nương rẫy để trồng lúa, ngô và nhiều loại cây trồng khác. Mỗi dòng họ Lô Lô có một khu vực canh tác riêng, trưởng họ là người chỉ đạo các thành viên cùng hưởng lợi chung từ thành quả lao động trên mảnh đất đó. Chính vì vậy, chưa bao giờ họ biến đất đai thành một thứ hàng hóa để trao đổi. Ruộng nương chỉ chia cho các con trai khi lập gia đình ra ở riêng. Con gái không được thừa hưởng ruộng đất khi đi lấy chồng. Từ xưa, người Lô Lô đã thâm canh lúa và ngô trên các loại đất trồng, lúa cấy một vụ ở nương màu chờ mưa, ngô trồng ở nương thổ canh hốc đá. Tập quán xen, luân, thâm canh, gối vụ và kinh nghiệm xếp đá kè bờ nương chống xói mòn đất, rửa trôi màu chính là những tri thức địa phương trong canh tác nông nghiệp của họ. Người Lô Lô chọn đất hợp với từng giống lúa bằng cách trồng thử nghiệm và loại trừ. Trên cùng một đám nương, họ trồng nhiều giống lúa khác nhau, cả tẻ và nếp. Đến mùa thu hoạch, sản phẩm sẽ cho biết đất nương đó phù hợp với giống lúa nào. Những giống lúa phù hợp sẽ được tiếp tục trồng các năm sau đó. Bằng kinh nghiệm này, họ đã lựa chọn được giống lúa phù hợp tối ưu cho từng loại đất và từng đám nương. 33 Người Lô Lô có tập quán dùng phân chuồng để chăm bón cho cây trồng, nhất là đối với ngô, lúa. Trước đây, họ trồng các giống lúa địa phương nên vào khoảng tháng 9, tháng 10 thu hoạch. Hiện nay, họ trồng chủ yếu các giống lúa mới ngắn ngày nên thời gian thu hoạch sớm hơn. Bên cạnh hai loại cây trồng chính là ngô và lúa, người Lô Lô còn thâm canh một số loại cây trồng, trong đó có tam giác mạch. Đất trồng loại cây này là những khoảnh nương cao, nương xấu bạc màu, nương hốc đá. Công việc chuẩn bị đất đơn giản hơn so với trồng ngô và lúa. Gia đình nào có điều kiện thì cày vỡ một lần trước tết Nguyên đán rồi để đó. Nếu không, đến tháng 2 cày xáo đất rồi bừa tơi, san phẳng, nhặt sạch cỏ rác và trồng luôn. Sau khi thu hoạch, mạch được gác trên sàn bếp và được chế biến dần thành món mèn mén truyền thống. Ngoài ra, người dân Lô Lô còn trồng cây Đậu Hà Lan, răng ngựa... cũng được trồng phổ biến ở đây. Họ cày tơi đất sau đó cày luống rồi cuốc hốc tra hạt và đợi đến tháng 2 - 3 năm sau thu hoạch. Cây khoai lang (mí pu) cũng được trồng ở những đám nương bằng. Thời gian trồng vào tháng 7, đến tháng 12 thu hoạch. Họ lấy dây chăn nuôi lợn và củ để ăn. Đến mùa thu hoạch, họ để dành một ít dây nhân giống cho vụ sau. Cây dong riềng (ngo pè) cũng là một loại cây trồng có mặt rất sớm trong đời sống của người Lô Lô, thường được trồng ở nương thổ canh hốc đá để lấy củ. Ở nương màu, thu hoạch lúa xong, để đất nghỉ vài tháng, người ta lại cày đất và vén luống trồng đậu tương. Đậu tương thường được trồng trước tết âm lịch và đến tháng 3 đầu tháng 4 thu hoạch. Chính vì vậy, người Lô Lô có kinh nghiệm trong việc xen canh gối vụ nhiều loại cây trồng trên cùng một diện tích, một phương thức canh tác điển hình của những tộc sống bằng nương rẫy. Ngoài những cây trồng chính như 34 ngô, lúa, đậu, mạch, họ thường trồng xen canh rau dền, dưa chuột, bầu bí, rau cải, đậu đũa... bằng cách trộn lẫn hạt giống với phân ải trước khi bón phân vào mỗi hốc ngô. Nhìn chung, xen canh gối vụ là một phương thức canh tác tổng hợp được đúc kết qua nhiều thế hệ và trở thành tập quán. - Một số đặc điểm về văn hoá + Nhà ở: Người Lô Lô, chủ yếu ở nhà sàn, giống nhà sàn của người Tày, Nùng, chỉ khác về cách bố trí trong nhà. Nguyên vật liệu để làm nhà gồm có: gỗ để làm cột, ván hoặc tre để đan vách, cây mai hoặc cây tre để làm dui, gianh hoặc ngói để lợp, thông thường nhà làm 5 gian, 4 mái, có 1 cửa chính mở ở gian giữa, trước cửa có sàn để phơi thóc, hoặc để phơi quần áo, bàn thờ đặt ở gian giữa đối diện với cửa chính. Xưa kia, người Lô Lô ở huyện Bảo Lạc để trâu bò dưới sàn nhà, ngày nay người ta ý thức được rằng để như thế là mất vệ sinh, và họ đã để chuồng bò và trâu riêng ra một nơi khác. Mỗi lần dựng nhà mới hoặc chuyển nhà đi nơi khác, người Lô Lô ở đây thường xem ngày lành, tháng tốt để tránh những điều không lành xảy ra đối với gia đình. Đồ đạc trong nhà người Lô Lô rất đơn giản, thường chỉ có bàn, ghế gỗ, chiếu, hòm đựng quần áo + Trang phục: Trang phục truyền thống là một giá trị văn hoá mà người Lô Lô tạo ra để thoả mãn nhu cầu sử dụng và nhu cầu thẩm mỹ, ngoài ra nó còn biểu hiện những giá trị văn hoá của dân tộc mà thông qua đó người Lô Lô có thể thấy được tâm hồn của dân tộc mình, biết được trình độ phát triển của dân tộc mình ra sao. Trang phục của người Lô Lô được tạo thành từ sự kết hợp hai bộ phận: Y phục và đồ trang sức. Người Lô Lô có nền kinh tế nông nghiệp tự cung, tự cấp cho nên từ cái ăn, đến cái mặc đều do sức lao động của đồng bào tạo ra. Ngày nay, do sự phát triển của cơ chế thị trường, đời sống từng bước được nâng cao, việc đi lại mua bán, giao dịch dễ dàng hơn, nên người Lô Lô 35 đã đỡ vất vả hơn và có điều kiện mua vải ở chợ để trợ giúp cho việc may thêu một bộ quần áo rất kỳ công và nhiều thời gian. Trang phục của nam giới Lô Lô không có gì đặc biệt so với trang phục của một số dân tộc khác: áo kiểu 5 thân, xẻ và cài cúc bên nách; trong tang lễ nam giới mặc áo 5 thân, trang trí sặc sỡ và có sự phân biệt giữa các dòng họ. Nam giới thường chít khăn chàm, dắt mối phía sau gáy, trên khăn không trang trí, mặc quần ống rộng (quần chân què). Phụ nữ Lô Lô mặc áo ngắn màu đen chàm, xẻ ngực, hai ống tay rộng, nối dài từ bả vai xuống cổ tay bằng những khoanh vải màu xanh, đỏ, tím, vàng (thường là chín vòng màu khác nhau). Hai vạt áo trước và sau đều chắp những miếng vải màu hình tam giác tạo thành các ô vuông hoặc tạo nên những hoa văn răng cưa, kiểu hình bông lúa, hình sông nước, mạng nhện; phía vạt trước áo có những hoa văn trang trí ngang ngực áo trở xuống; sau lưng áo có những đường trang trí hoa văn chạy dọc theo đường sống lưng. + Tập quán ăn, uống: Đối với người Lô Lô, gạo tẻ, gạo nếp và ngô đều được coi là lương thực chính trong các bữa ăn thường ngày. Người ta tách vỏ trấu để lấy gạo bằng những chiếc cối giã bằng tay hoặc cối đạp chân, cách lao động thủ công trên nay đã thay thế bằng máy sát gạo. Gạo tẻ nấu thành cơm như cách thông dụng của người Việt: gạo nếp đồ thành xôi hoặc làm bánh chưng trong ngày tết, bánh trôi, bánh giầy, bánh khảo Ngô tươi thường nướng hay luộc, ngô hạt xay ra nấu lẫn với gạo tẻ. Trong bữa ăn hàng ngày, một số gia đình ăn thêm lương thực phụ như khoai sọ, khoai lang Đối với các loại rau, đậu, thịt, cá người Lô Lô thường xào hay nấu canh là phương thức chế biến đơn giản và phổ biến hơn cả. Trong các món ăn được chế biến từ động vật, món nướng được người Lô Lô ưa thích hơn cả. Người ta nướng trên than hồng, nướng chín rồi có thể ăn được luôn. Ngoài việc chế biến thức ăn tươi, người Lô Lô quan tâm đến việc 36 tích trữ các loại thực phẩm khô, có thể dùng được lâu dài, phòng khi khan hiếm: khi mổ lợn hoặc khi bắn được thú rừng, các gia đình dành lại một phần thịt ướp muối và treo lên bếp, cá suối để dành cần nướng qua trên than hồng rồi phơi khô, khi nào cần ăn chỉ việc đem ra chế biến. Người Lô Lô ở huyện Bảo Lạc còn dùng nhiều món ăn có tác dụng chữa bệnh như mướp đắng, rau đắng xào với thịt là món ăn trong dân gian cho rằng có khả năng phòng và chữa bệnh sốt rét; phụ nữ mang thai hay con nhỏ có các món ăn bổ dưỡng như gà hầm, chân giò hầm, bầu sữa lợn + Gia đình: Người Lô Lô theo chế độ phụ hệ, người đàn ông đóng vai trò trụ cột, họ là lao động chính trong gia đình, đảm nhiệm vai trò chủ đạo trong hoạt động xã hội và các nghi lễ của họ hàng, làng xóm. Hình thức gia đình phổ biến của người Lô Lô ở Bảo Lạc là gia đình một vợ, một chồng, quy mô hộ gia đình thường từ 2 đến 8 thành viên, có sự phân công lao động hợp lý. +Phong tục tập quán : Tập quán của người Lô Lô trải qua nhiều nghi lễ vòng đời. Khi người phụ nữ đến kỳ sinh đẻ, họ thường đẻ tại nhà, có sự giúp đỡ của bà đỡ vườn hoặc mẹ đẻ, mẹ chồng, đàn ông, kể cả chồng không được vào gần khu vực người phụ nữ đang sinh nở. Trong trường hợp khó đẻ, họ mời thầy Mo về cúng, sản phụ được uống bát nước do thầy Mo làm phép. Khi sản phụ sinh con xong, người nhà cắm một cành lá ở ngoài cửa báo hiệu nhà có cữ. Sau sinh, sản phụ ăn cơm nếp trong tháng cữ vì theo quan niệm của người Lô Lô, ăn cơ nếp chắc dạ và có nhiều sữa. Khi sản phụ hết thời gian ở cữ, gia đình mời thầy Mo tới cúng làm lễ đầy tháng và đặt tên cho cháu bé. + Tín ngưỡng: Người Lô Lô tin rằng, linh hồn người chết luôn tồn tại khi thể xác đã mất đi, sau khi chết hồn được chia làm bốn phần, cư trú ở bốn nơi khác nhau. Một phần hồn con cháu tiễn đưa về nơi quê cha đất tổ ở Pủ Nả, sau đó về trời. Phần khác sẽ được đưa về thế giới mường ma ở khu mộ 37 của làng. Phần nữa chế ngự ngay trên sàn gác bếp, coi nhà cửa giúp con cháu, không cho ma ngoài xâm nhập vào nhà và phần còn lại được con cháu đưa lên thờ cúng trên bàn thờ tổ tiên. Lô Lô là dân tộc duy nhất hiện nay còn sử dụng trống đồng trong tang ma. Tín ngưỡng của người Lô Lô chủ yếu thiên về vạn vật hữu linh. Họ cho rằng, mọi hiện tượng tự nhiên đều dựa vào các lực lượng siêu nhiên, vạn vật đều có linh hồn. Qua các câu chuyện dân gian, qua lời kể của những người già và các mô típ hoa văn trên trống đồng cho thấy vũ trụ trong quan niệm của người Lô Lô như trái đất có hình tròn, có ba thế giới gồm thế giới trần gian, thế giới ma và thế giới trên trời. Các thế giới này giống nhau, đều có con người và ma quỷ, có thần thánh, có cỏ cây và sông núi May mắn và rủi ro của người Lô Lô tuỳ thuộc vào cách họ ứng xử với tổ tiên, trời đất và đối với chính đồng loại đang sống ở trần gian. Người Lô Lô quan niệm trời là cha, đất là mẹ, có trời mới có đất, có đất mới sinh cỏ, trời tạo ra thế giới mặt đất, loài người và muôn vật, trời quyết định vận mệnh của loài người, trời cho sống là sống, trời bảo ai chết là chết. Họ cho rằng, cả ba thế giới trên đều có liên hệ mật thiết với nhau, lúc đó trời còn ở thấp, một ngày mọc bảy mặt trời, một đêm bảy mặt trăng, trần gian lúc đó nóng bỏng, con người không làm được gì, cỏ cây muôn loài đều bị thiêu chết, cứ mặt trời lặn, mặt trăng lên, ngày và đêm tranh nhau huỷ diệt dần muôn loài sống trên mặt đất. Trước thảm hoạ đó, để bảo vệ cho con người, ông STráng - một nhân vật khổng lồ đã đạp đất đội bầu trời lên bảy mặt trời, bảy mặt trăng rơi xuống hang đá, trời trở lại tối mịt, con người tìm thầy mo là người có các con ma con nhập vào cơ thể từ khi mới đầu thai trong bụng mẹ và chỉ có thầy mo mới có khả năng tìm xem mặt trời, mặt trăng rơi xuống đâu. Thầy mo cử các ma con của mình đi khắp nơi hỏi hết muôn loài trên trái đất, cuối cùng chỉ có con bìm bịp và con hổ mới biết chỗ mặt trời rơi. Thầy Mo nhờ bìm bịp kêu để mặt trăng, mặt trời thức, hổ kéo 38 mặt trời, mặt trăng lên, khi gọi được một mặt trời, mặt trăng lên thầy mo cho lấp cửa hang lại, chỉ lấy một mặt trời và một mặt trăng giao cho trời điều khiển đủ ánh sáng ngày và đêm cho tới ngày nay. Tín ngưỡng thờ cúng tổ tiên đã tồn tại rất lâu trong cộng đồng người Lô Lô, họ quan niệm tổ tiên là những người thuộc thế hệ trước đã sinh ra mình. Đây là việc thể hiện sự hiếu thảo của con cháu dành cho ông bà, cha mẹ và những người trong họ tộc mình. Họ có niềm tin là tổ tiên sẽ phù hộ cho mình được bình an, con cháu có sức khoẻ tốt, gặp mọi vận may trong cuộc sống. Bên cạnh tín ngưỡng thờ cúng tổ tiên, người Lô Lô vẫn duy trì tín ngưỡng thờ các thần che chở cho gia đình. Người Lô Lô thường cúng các loại thần: Thổ công, thần phù hộ trồng trọt và chăn nuôi, đối với các gia đình có người làm nghề thuốc chữa bệnh, nghề rèn thì họ còn lập bàn thờ riêng để thờ tổ sư nghề để tưởng nhớ và biết ơn đến những người đã có công sáng tạo và truyền nghề cho mình. Ngoài ra, người Lô Lô còn có tục thờ cúng ma cửa tại cửa chính của ngôi nhà, họ quan niệm rằng, cửa nhà là nơi bảo vệ cả ngôi nhà, không cho ma quỷ vào nhà. Đối với ma bếp, là đối tượng chăm sóc mùa màng, lúa ngô được tươi tốt, họ coi trọng việc đốt lửa nhóm bếp trong dịp nhà mới, khi nhóm bếp xong, họ đun lửa cháy suốt ngày, suốt đêm trong vòng chín ngày. Người Lô Lô quan niệm khi sinh đẻ có bà Mụ thường quấy nhiễu trẻ con ăn, ngủ không yên, việc lập bàn thờ bà Mụ rất được coi trọng. Nông nghiệp là nguồn kinh tế chủ đạo trong cộng đồng người Lô Lô, vì vậy, họ cầu mong mùa màng bội thu, không bị sâu bệnh và gặp thiên tai, họ rất coi trọng các nghi lễ liên quan đến nông nghiệp, từng gia đình sẽ tổ chức nghi lễ nông nghiệp như lễ cầu mưa, lễ cúng thần đất sau khi cấy lúa, lễ cúng cơm mới 39 + Múa dân gian: là hình thức sinh hoạt không thể thiếu được trong đời sống của dân tộc Lô Lô, nếu ai đã từng “tham dự” đám tang của dân tộc Lô Lô đều không thể quên trong đám tang của người Lô Lô có những điệu múa mềm mại, uyển chuyển và duyên dáng, trai gái, già trẻ tay cầm tay múa vòng tròn với những điệu múa dân gian, những điệu múa này dùng tiếng trống đồng đệm tiết tấu. Các điệu múa trong tang ma của dân tộc Lô Lô khá phong phú và mang ý nghĩa riêng của bài múa gắn liền với lao động, vui chơi và nghi lễ như:(i). Điệu múa mời nhau (Mề số);(ii). Điệu múa nhận mặt nhau (Ló Voáy);(iii). Điệu múa mời khách (Mề nằng); (iv). Điệu múa nhớ nhau (Tồ mí nề) Các điệu múa này đã được khắc trên mặt trống đồng của người Lô Lô đã được các nhà nghiên cứu, biên đạo múa nâng lên thành nghệ thuật biểu diễn Cũng như các dân tộc vùng cao ở Cao Bằng, dân ca dân tộc Lô Lô là những tác phẩm truyền miệng, họ không còn nhớ những tác phẩm đó được sáng tác từ khi nào và không rõ tác giả là ai. Dân ca dân tộc Lô Lô là phương tiện tự thuật, chân thực trữ tình và hấp dẫn nhất của những bản tình ca, những bài hát trong đám cưới, trong dịp mừng nhà mới, trong lễ đặt tên cho con trẻ những bản trường ca lịch sử nói đến “nguồn gốc” của họ “mể cóng”, “những chặng đường” “lo cáng muấy”, “đưa đường” “chẻ mo” Trong dân ca của dân tộc Lô Lô có những tác phẩm là những áng văn chương có giá trị nghệ thuật cao được phổ biến rộng trong nhân, vừa có tính chất trữ tình, tính chất kịch và tính chất tự sự. - Truyện kể dân gian: Văn học dân gian của người Lô Lô bao gồm thơ ca dân gian, tục ngữ, câu đố Đặc biệt là thơ ca dân gian và chuyện kể dân gian có số lượng phong phú và được người Lô Lô yêu thích hơn cả. Truyện kể dân gian “Nề Mồ Tắng” là những câu chuyện thần thoại, truyền thuyết, chuyện cổ tích, ngụ ngôn và chuyện cười “ghỉ tằng” như chuyện con cóc lấy nàng tiên, chuyện anh chàng tham lam, chuyện trống đồng và con rồng cứu 40 loài người Mỗi truyện kể dân gian phản ánh từng khía cạnh đời sống sinh hoạt của người Lô Lô trong lao động sản xuất, trong cuộc đấu tranh chống thiên nhiên và chống ngoại xâm. Các truyện dân gian cho thấy, người Lô Lô quan niệm về vũ trụ khác hẳn với các dân tộc láng giềng. Theo họ vũ trụ có ba thế giới mỗi thế giới đều có tổ chức xã hội như nhau có con người, có ma quỷ, có thần thánh, có cỏ cây, sông núi - Dân ca: Dân ca của người Lô Lô là những tác phẩm truyền miệng, không còn ai biết sáng tác từ bao giờ và không hiểu tác giả là ai. Họ giải thích rằng: từ khi có trời, đất có con người thì cũng có dân ca phục vụ cuộc sống tinh thần của họ. Người Lô Lô thường có câu “Mồ co, mể tề, tềnh ló mể khá” tức là “có trời có đất đã có dân ca”. Dân ca là phương tiện tự thuật, chân thực, trữ tình và hấp dẫn nhất của những bản tỉnh ca, những bài hát trong đám cưới, trong dịp mừng nhà mới, trong buổi lễ đặt tên Những bản trường ca lịch sử như “Mể Cóng” tức nguồn gốc, “Lo cáng muấy” tức những chặng đường, “chẻ mo” tức nguồn gốc, “Lo Cáng muấy” tức những chặng đường, “chẻ mo” đưa đường Trong dân ca Lô Lô có những tác phẩm là những áng văn chương có giá trị nghệ thuật cao. Tìm hiểu cho kỹ ta sẽ thấy được cái đẹp của dân tộc đó được thể hiện trong dân ca, nó được phổ biến rộng trong nhân dân, nhất là những tầng lớp thanh niên rất ưa thích, là nội dung câu chuyện phản ánh tâm trạng của con người mang ý nghĩa văn hóa sâu sắc. Chẳng hạn như Lồ Mi Pho tức tiếng hát tình yêu, là một dạng trường ca dài trên 2000 câu diễn tả một cách trật tự có lô gic quá trình tiến triển từ lúc tìm hiểu, yêu nhau đến lúc lấy nhau, sinh con đẻ cái của đôi trai gái, lời ca chất phác rất gần với cuộc sống, câu chuyện được diễn tả dễ hiểu. Có thê nói dân ca dân tộc Lô Lô là một kho tàng tư duy của nhân dân lao động trong quá trình nhận thức xã hội nói chung. Lồ Mì Pho là dân ca cổ truyền dài, dành cho những đôi nam nữ hát đối đáp tùy hứng kéo 41 dài ba ngày đêm. Dạng trường ca này vừa là chuyện kể, vừa là bài học mang tính quy luật, từ khi đôi trai gái gặp nhau, tìm hiểu, có lời ước hẹn rồi lấy nhau thành vợ, thành chồng, là những con người có ích trong xã hội Dân ca Lô Lô có một đặc điểm chung là hay dùng thể thơ 5, được các nghệ nhân hát và phát triển tùy từng điều kiện và hoàn cảnh cụ thể. Lồ Mi Pho là loại tình ca tự sự mang tính thầm kín, nên người ta chỉ hát về đêm. Người Lô Lô gọi loại hát này là Vuir Tror Tangx, nghĩa là “câu chuyện xấu hổ”. Như vậy, trong dân ca của dân tộc Lô Lô vừa có tính chất trữ tình và có tính chất kịch - Hai yếu tố biện chứng không thể tách rời nhau. Trải qua những chặng đường của lịch sử, những biến động của xã hội, những khó khăn của nền kinh tế tự cung, tự cấp phụ thuộc vào thiên nhiên đã tạo cho người Lô Lô huyện Bảo Lạc những nét độc đáo riêng biệt trong văn hoá tộc người mình. Cũng như các dân tộc khác, văn hoá tinh thần của người Lô Lô được lưu lại trong trí nhớ và được truyền miệng từ thế hệ này sang thế hệ khác bằng những bài dân ca, tình ca, những câu chuyện dân gian và các bài mo phản ánh mọi mặt sinh hoạt lao động sản xuất của người Lô Lô từ thời xa xưa. Đến nay, chúng đã chiếm một vị trí quan trọng trong đời sống tinh thần của người Lô Lô, là nguồn tư liệu quý báu để khẳng định bản sắc văn hoá tộc người. Những yếu tố văn hóa truyền thống của dân tộc Lô Lô nêu ở trên được thể hiện qua hai phương diện văn hóa vật thể và văn hóa phi vật thể đã tác động trực tiếp hoặc gián tiếp đến các yếu tố cấu thành các nghi lễ trong hôn nhân trên hai khía cạnh truyền thống và hiện đại. Tiểu kết chương 1 Khi nghiên cứu về hôn nhân và gia đình nói chung và hôn nhân của dân tộc Lô Lô ở huyện Bảo Lạc, tỉnh Cao Bằng trong truyền thống và biến đổi, 42 luận án đã nghiên cứu các công trình, bài viết được đăng tải ở trong nước và ngoài nước. Các nguồn tài liệu này có tính chất tổng quan về những khía cạnh khác nhau của văn hóa vật chất và tinh thần của dân tộc này ở nước ta, trong đó có vấn đề hôn nhân. Trên cơ sở đó, luận án đã nêu rõ các khái niệm cơ bản liên quan đến đề tài và một số lý thuyết nghiên cứu được sử dụng để phục vụ cho việc triển khai những nội dung nghiên cứu cần giải quyết. Luận án đã trình bày khái quát về dân tộc Lô Lô ở huyện Bảo Lạc trên các phương diện cơ bản về điều kiện tự nhiên, kinh tế xã - hội, lịch sử tộc người và sự phân bố dân cư; đặc điểm văn hóa tộc người thể hiện qua các dạng thức, các thành tố văn hóa vật thể và văn hóa phi vật thể như nhà ở, trang phục, ăn uống, phương tiện vận chuyển, gia đình và một số hình thức văn học dân gian... Các giá trị trong những thành tố văn hóa này được người Lô Lô gìn giữ, trao truyền, tiếp thu và sáng tạo trong tiến trình phát triển của họ nói riêng và của các tộc người ở nước ta nói chung. Đây chính là cơ sở, nền tảng giúp tác giả trong việc triển khai nghiên cứu các vấn đề ở nội dung chương 2 của luận án. 43 Chương 2 HÔN NHÂN TRUYỀN THỐNG CỦA NGƯỜI LÔ LÔ Ở HUYỆN BẢO LẠC 2.1. Quan niệm về hôn nhân của người Lô Lô 2.1.1. Quan niệm truyền thống hôn nhân của người Lô Lô Người Lô Lô xưa kia chủ yếu chỉ kết hôn với những người cùng nhóm dân tộc, người Lô Lô không kết hôn với các dân tộc khác. Họ cho rằng, hôn nhân với người cùng dân tộc sẽ dễ dàng hiểu nhau, thông cảm cho nhau vì cùng chung phong tục, tập quán và một nền văn hoá. Người Lô Lô thường kết hôn khá sớm ở độ tuổi 16-17, thậm chí có trường hợp kết hôn khoảng 13 - 14 tuổi. Con trai, con gái khoảng 20 tuổi mà chưa kết hôn được coi như trai già, gái lỡ thì. Người Lô Lô thường kết hôn, cùng lứa tuổi với nhau, hoặc hơn kém nhau 3 - 4 tuổi. Người Lô Lô có quan niệm và tục lệ hôn nhân khá độc đáo, tạo nên bản sắc văn hoá tộc người. Chính điều đó đã góp phần làm sinh động thêm bức tranh toàn cảnh về hôn nhân của cộng đồng các dân tộc Việt Nam nói chung. Trong quan niệm truyền thống của người Lô Lô, hôn nhân không những là yếu tố để duy trì nòi giống, thể hiện tình cảm giữa nam và nữ với nhau mà còn phản ánh giá trị đạo đức tộc người. Theo đó , những nguyên tắc trong hôn nhân của người Lô Lô trở thành chuẩn mực quan trọng trong quan hệ xã hội tộc người. Người Lô Lô rất coi trọng trinh tiết của người con gái khi chưa xuất giá. Trong truyền thống, tư cách, đạo đức người con gái được quy định khá rõ trong luật tục: cô gái Lô Lô đi ra ngoài chơi quá nhiều, uống rượu say không được coi là con gái ngoan, bị dư luận xã hội đánh giá thấp về phẩm giá đạo đức; giao tiếp nhiều với bạn khác giới cũng bị coi là thất tiết. 44 Đối với người Lô Lô, hôn nhân là sự việc hệ trọng trong chu kỳ vòng đời. Theo quan niệm của đồng bào, hôn nhân là sự duy trì nòi giống, thúc đẩy sự phát triển của xã hội, mong ước có nhiều con, đặc biệt là con trai để có thêm nhiều nhân lực lao động trong gia đình, tăng vị thế trong dòng họ, phụng dưỡng cha mẹ lúc tuổi già và có người thờ cúng khi đã khuất. Cha mẹ nào cũng mong muốn con cái đến tuổi trưởng thành phải lập gia đình. Việc dựng vợ, gả chồng cho con cái trở thành trách nhiệm của những bậc làm cha, làm mẹ. Với ý nghĩa này, hôn nhân luôn có vai trò quan trọng đối với việc thay đổi địa vị trong xã hội người Lô Lô, từ đó hình thành những mối quan hệ mới, cố kết gia đình, dòng họ trong cộng đồng, đặc biệt là việc “nối dõi tông đường”, thờ cúng tổ tiên. Trước đây, việc tiến tới hôn nhân của người Lô Lô không hoàn toàn xuất phát từ tình yêu đôi lứa. Phần lớn các cặp hôn nhân của người Lô Lô thường do cha mẹ sắp đặt. Họ thường đính ước cho con cái ngay khi mới chào đời. Trong quan niệm của họ, khi con cái đến độ tuổi kết hôn mà gia đình hai bên cùng có mục đích cưới vợ, gả chồng cho con, đồng thời hai gia đình môn đăng, hộ đối, có sức khoẻ là đủ tiêu chuẩn hỏi cưới cho con. Cha mẹ đã chọn được mối cho con trai mình sẽ chủ động đặt vấn đề với gia đình nhà gái, con cái cũng chỉ biết thuận theo ý cha mẹ. Đôi trai gái dù yêu nhau mà cha mẹ không đồng ý thì cũng rất khó tiến tới hôn nhân. Có thể nói, quan niệm hôn nhân của người Lô Lô trước đây mang nặng tư tưởng gia trưởng, làm cho hôn nhân của con cái bị động, thậm chí bị ép duyên. Tuy vậy, nó không hẳn mang tính tiêu cực, bởi trong xã hội lúc ấy đa số đã chấp nhận và coi đó là chuyện bình thường; cha mẹ nào cũng muốn khi con cái mình đến tuổi trưởng thành và sớm có cuộc sống lưa đôi ổn định. Thực tế cho thấy, hầu hết các cuộc hôn nhân trước kia dù tự nguyện hay do cha mẹ sắp đặt thì họ vẫn sống hạnh phúc, gắn bó với nhau đến cuối cuộc đời. 45 Hôn nhân thể hiện sự trọng thị giữa hai gia đình thông gia, vì vậy vai trò của ông bà mối (Quan lang) rất quan trọng trong quá trình diễn ra lễ cưới. Ông bà Quan lang là người đại diện cho gia đình cô dâu và chú rể, là người am hiểu phong tục tập quán, khéo ăn nói và là người điều hành các nghi lễ trong quá trình hôn nhân. 2.1.2. Tuổi kết hôn Ở nhiều vùng đồng bào dân tộc thiểu số nước ta, do kinh tế còn chậm phát triển và quan niệm có nhiều nhân lực thì có nhiều của nên nạn tảo hôn còn khá phổ biến, nhất là ở vùng sâu, vùng xa, vùng cao biên giới. Hiện tượng kết hôn ở lứa tuổi 15, 17, bất chấp luật pháp, không cần đăng ký với cơ quan chính quyền địa phương là hiện tượng khá phổ biến [23, tr.280-281]. Luật Hôn nhân và Gia đình quy định, tuổi kết hôn của nam là 20 và nữ là 18. Tuy nhiên, trên thực tế, mỗi tộc người lại có những quy định khác nhau về tuổi kết hôn. Theo truyền thống, người Lô Lô kết hôn khá sớm, thường từ 15 đến 17 tuổi, nếu quá tuổi thường khó lấy vợ hoặc khó lấy chồng và bị coi là ế. Nam giới thường lấy vợ già hơn 3, đến 4 tuổi. Theo quan niệm của họ, lấy vợ nhiều tuổi hơn mình để sớm có người làm việc đồng áng, sinh con, đẻ cái, vì vậy nam giới Lô Lô lấy vợ nhiều tuổi hơn còn khá phổ biến. Nguời Lô Lô ở huyện Bảo Lạc, tỉnh Cao Bằng kết hôn thường rất sớm, cá biệt có những trường hợp chỉ mới 12, 13 tuổi đã kết hôn. Các bậc cha mẹ thường căn cứ vào các dấu hiệu tuổi dậy thì của con như chóng lớn, lao động chăm chỉ, nói năng có ý tứ hoặc thẹn thùng trước người khác giới mà đặt vấn đề cưới vợ hay gả chồng cho con. Việc tạo lập gia đình cho con ở lứa tuổi còn quá trẻ như vậy là do quan niệm, có cháu sớm để nối dõi tông đường, tăng thêm nguồn nhân lực lao động cho gia đình, nâng cao uy tín và thế lực cho 46 dòng họ, là nơi nương tựa cho cha mẹ lúc tuổi già. Tình trạng tảo hôn diễn ra phổ biến, xuất phát từ tâm lý họ tộc, dòng họ có uy tín, có thế lực trong bản làng thường phải có đông các thành viên. Trong xã hội truyền thống, người Lô Lô ở huyện Bảo Lạc thường kết hôn rất sớm. Ở tuổi 13, 14, trai gái đã lấy vợ, lấy chồng, bởi theo quan niệm của họ đến độ tuổi ấy đã được coi là đủ điều kiện để lập gia đình. Theo các cụ cao niên kể lại: trong xã hội cũ gần như 100% các cặp vợ chồng người Lô Lô đều kết hôn khi mới 15 tuổi. Họ kết hôn sớm, vì theo quan niệm của người Lô Lô cho rằng, khi đến 18, 20 tuổi mà chưa kết hôn là đã quá lứa nhỡ thì, khó lấy chồng, lấy vợ. Trai gái đến 18, 20 tuổi mà vẫn chưa xây dựng gia đình thì dân làng thường có nhiều dị nghị. Việc kết hôn của người Lô Lô ở huyện Bảo Lạc cũng như các dân tộc khác được coi là việc trọng đại trong cuộc đời mỗi con người. Nhưng như đã trình bày, quyền quyết định chọn vợ, chọn chồng thuộc về những người lớn tuổi như ông bà, cha mẹ, nhất là khi con cái còn ít tuổi mà theo họ là chưa có kinh nghiệm, thường thì cha mẹ đặt đâu con ngồi đấy. Trước khi thành vợ, thành chồng, trai gái có thời kỳ tìm hiểu. Điểm hẹn hò gặp gỡ là các phiên chợ, trong ngày tết, lễ hội, nhất là qua các phiên chợ tình, hát đối đáp với nhau, họ sẽ tách khỏi tốp bạn bè đi chơi riêng. Khi đã yêu nhau, sau những giờ tâm tình, nếu hai người cảm thấy ưng thuận thì chàng trai thường tặng cô gái những kỷ vật để làm kỷ niệm như: Khăn, áo, vòng, nhẫn, cặp tóc... Nếu các kỷ vật đó không bị cô gái trả lại thì cô gái đã bằng lòng nhận lời kết hôn với chàng trai. Trong hôn nhân, người Lô Lô sau khi kết hôn ít xảy ra ly hôn, trường hợp người chồng bỏ vợ khô... hôn nhân của người Lô Lô ngày càng được đẩy mạnh, các nghi thức, nghi lễ trong hôn nhân ngày càng giản lược hơn với mục đích phù hợp với tình hình và xu thế phát triển của thời đại. Trên cơ sở đó, luận án đã chỉ ra sự tương đồng và khác biệt giữa nghi lễ hôn nhân của người Lô Lô ở Bảo Lạc, tỉnh Cao Bằng với nghi lễ hôn nhân của người Lô Lô ở tỉnh Hà Giang, đồng thời luận án cũng so sánh tục lệ này với người Tày tại cùng địa bàn cư trú ở huyện Bảo Lạc. Từ việc so sánh trên, luận án cho người đọc thấy được sự 140 tương đồng và khác biệt trong hôn nhân của chính tộc người Lô Lô và với tộc người khác. 6. Khi bàn đến sự biến đổi trong hôn nhân của dân tộc Lô Lô ở huyện Bảo Lạc, tỉnh Cao Bằng hiện nay, luận án đã chỉ ra các nguyên nhân của sự biến đổi, trong đó có nguyên nhân khách quan và nguyên nhân chủ quan, đó là yếu tố kinh tế, chính trị tác động trưc tiếp đến văn hóa xã hội đương đại, yếu tố nhận thức và sự gìn giữ của người Lô Lô với tư cách là chủ thể. Các yếu tố này đã dẫn đến những thay đổi trong hôn nhân của người Lô Lô ở huyện Bảo Lạc hiện nay. 7. Biến đổi về hôn nhân chỉ rõ sự thay đổi trong quan niệm và nguyên tắc của người dân nơi đây, đó là hôn nhân gần, hôn nhân cùng nhóm dân tộc. Chế độ hôn nhân một vợ, một chồng, xu hướng hôn nhân hỗn hợp giữa các thành phần dân tộc cùng sinh sống trên một cùng lãnh thổ nhất định đã tăng lên. Đây chính là sự biểu hiện của việc giao lưu về mọi mặt trong đời sống xã hội của cộng đồng các dân tộc - Một yếu tố trực tiếp hoặc gián tiếp tạo ra sự biến đổi trong quan niệm và hành vi thực hành hôn nhân của người Lô Lô nói riêng. Trong đám cưới của dân tộc này, các nghi thức và trang phục truyền thống tuy có sự thay đổi nhưng cơ bản vẫn bảo lưu được bản sắc văn hoá tộc người và phù hợp với xu thế của thời đại mới. 8. Việc nghiên cứu hôn nhân truyền thống của người Lô Lô cũng như những biến đổi của tục lệ này trong thời kỳ mở cửa dưới tác động của nền kinh tế thị trường chính là cơ sở để xây dựng một chương trình và chính sách bảo tồn, phát huy các giá trị văn hoá dân tộc. Trên cơ sở đó, tiếp tục làm giàu vốn văn hoá của đồng bào dân tộc thiểu số, giúp các nhà quản lý chỉ đạo việc xây dựng nếp sống văn minh, gia đình văn hoá. Đẩy mạnh các hoạt động văn nghệ quần chúng, lễ hội truyền thống... làm phong phú đời sống tinh thần cho 141 cộng đồng cư dân Lô Lô, loại bỏ những tệ nạn xã hội, góp phần làm tăng cường mối đoàn kết trong trong chính các dân tộc cùng chung sống ở một vùng lãnh thổ nhất định. 9. Trên cơ sở nghiên cứu về hôn nhân cùng sự biến đổi của tục lệ này trong đời sống của người Lô Lô, luận án đã làm rõ những nét đặc sắc trong phong tục tập quán của người Lô Lô ở huyện Bảo Lạc, tỉnh Cao Bằng. Đó là một kho tàng di sản văn hóa có giá trị nhân văn tạo nên bản sắc văn hoá của một dân tộc trong bức tranh tổng thể về tính đa dạng văn hóa của cộng đồng các dân tộc Việt Nam. Ngày nay dưới sự lãnh đạo của Đảng, Nhà nước ta trong bối cảnh trước tốc độ phát triển mọi mặt trên thế giới và trong nước, xác định mục tiêu, nhiệm vụ “Xây dựng và phát triển nền văn hoá Việt Nam tiên tiến đậm đà bản sắc dân tộc” là một quan điểm đúng đắn và cấp thiết. 10. Luận án chỉ ra các giá trị tiêu biểu trong lễ cưới của người Lô Lô trên các khía cạnh lịch sử, văn hóa, tính thời đại Những giá trị này sẽ gắn liền với tiến trình phát triển bền vững và hòa mình vào kho tàng giá trị của các loại hình di sản văn hóa khác của dân tộc này. Trên cơ sơ đó, luận án nêu ra một số bàn luận mang tính thực tiễn, góp phần gìn giữ và phát triển tục lệ hôn nhân của người Lô Lô ở huyện Bảo Lạc, tỉnh Cao Bằng trong tương lai. Từ đó, đề ra các khuyến nghị góp phần vào việc bảo tồn và phát huy các giá trị của hôn nhân trong việc xây dựng nền văn hoá tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc, góp phần vào phát triển kinh tế - xã hội, ổn định chính trị, vững mạnh về quốc phòng - an ninh, xây dựng đất nước Việt Nam giàu đẹp vững bước tiến lên Chủ nghĩa xã hội. 142 DANH MỤC CÔNG TRÌNH, BÀI BÁO KHOA HỌC CỦA NGHIÊN CỨU SINH ĐÃ CÔNG BỐ LIÊN QUAN ĐẾN ĐỀ TÀI LUẬN ÁN 1. Mông Thị Xoan (2012), “Văn hóa người Lô Lô ở Cao Bằng”, Tạp chí Văn hóa Nghệ thuật, (334), tr.77. 2. Mông Thị Xoan (2014), “Hôn nhân cổ truyền của người Lô Lô ở Bảo Lạc, Cao Bằng”, Tạp chí Văn hóa Nghệ thuật, (362), tr.100. 3. Mông Thị Xoan (2016), “Những biến đổi trong hôn nhân của người Lô Lô ở huyện Bảo Lạc, tỉnh Cao Bằng”, Tạp chí Văn hóa Nghệ thuật, (381), tr.44. 143 TÀI LIỆU THAM KHẢO I. Tài liệu tiếng Việt 1. Ăngghen (1972), Nguồn gốc của gia đình, của chế độ tư hữu, của nhà nước(In lần thứ 2), Nxb Sự thật, Hà Nội. 2. Ban Chấp hành Đảng bộ huyện Bảo Lạc (2010), Lịch sử Đảng bộ huyện Bảo Lạc (1930- 2005), Nxb Lao động, Hà Nội. 3. Ban Chấp hành Đảng bộ tỉnh Cao Bằng (1990), Lịch sử Đảng bộ tỉnh Cao Bằng, tập 2, Ban Tuyên giáo tỉnh ủy Cao Bằng. 4. Ban Chấp hành Đảng bộ tỉnh Cao Bằng (2011), Văn kiện Đại hội Đại biểu Đảng bộ tỉnh Cao Bằng khoá XVII (2011 - 2016). 5. Ban Chỉ đạo TĐTDS Trung ương (1983), Dân số Việt Nam 1/10/1979, Hà Nội. 6. Nguyễn Chí Bền các tgk (1998), Hỏi và đáp về văn hóa Việt Nam, Nxb VHDT và Tạp chí VHNT, Hà Nội. 7. Đỗ Thuý Bình (1991), “Thực trạng hôn nhân ở các dân tộc miền núi phía Bắc”, Tạp chí DTH, (2), tr.19-27. 8. Đỗ Thúy Bình (1994), Hôn nhân và gia đình các dân tộc Tày, Nùng và Thái ở Việt Nam, Nxb KHXH, Hà Nội. 9. Hoàng Hữu Bình (1998), Các dân tộc ở miền núi phía Bắc Việt Nam và môi trường, Nxb KHXH, Hà Nội. 10. Bộ Văn hóa, Thể thao và Du lịch (2011), Thông tư 04/2011/TT-BVHTTDL ngày 21 tháng 11 năm 2011, Hà Nội Quy định về việc thực hiện nếp sống văn minh trong việc cưới, việc tang và lễ hội. 11. Các dân tộc ít người ở Việt Nam (các tỉnh phía Bắc) (1978), Nxb KHXH, Hà Nội. 12. Các văn bản pháp luật về hôn nhân và gia đình (1992), Nxb Pháp lý, Hà Nội. 144 13. Huy Cận (1994), Suy nghĩ về bản sắc văn hoá dân tộc, Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội. 14. Nguyễn Từ Chi (1996), “Góp phần nghiên cứu văn hóa và tộc người”, Tạp chí Văn hóa Nghệ thuật, Nxb Văn hóa Dân tộc, Hà Nội. 15. Chỉ thị số 27 - CT/ TW, ngày 12/1/1998 của Bộ Chính trị Ban chấp hành Trung ương Đảng Cộng sản Việt Nam về việc thực hiện nếp sống văn minh trong việc cưới, việc tang, lễ hội. 16. Trình Năng Chung (2002), Cao Bằng ở thời tiền sử và sơ sử, Nxb Khoa học Xã hội, Hà Nội. 17. Cục thống kê Cao Bằng (2002), Kết quả điều tra dân số và nhà ở 1/4/1999 tinh Cao Bằng, Nxb Thống kê, Hà Nội. 18. Cục thống kê tỉnh Cao Bằng ( 2010), Niên giám thống kê tỉnh Cao Bằng, Nxb Thống kê, Hà Nội. 19. Phan Hữu Dật (1997), “Qui tắc cư trú sau hôn nhân”, Tạp chí DTH, (3), tr.3-11. 20. Phan Hữu Dật (1998), Một số vấn đề về dân tộc học Việt Nam, Nxb Đại học Quốc gia, Hà Nội. 21. Khổng Diễn (Chủ biên) (1981), “Những đặc điểm kinh tế- xã hội các dân tộc miền núi phía Bắc”, Nxb Khoa học Xã hội, Hà Nội. 22. Khổng Diễn (1995), Dân số và dân số tộc người ở Việt Nam, Nxb Khoa học Xã hội, Hà Nội. 23. Khổng Diễn (Chủ biên) (1995), Dân tộc học Việt Nam thể kỷ XX và những năm đầu thế kỷ XXI, Nxb Khoa học Xã hội, Hà Nội. 24. Khổng Diễn, Trần Bình (Chủ biên) (2007), Dân tộc Lô Lô ở Việt Nam, Nxb Thông Tấn, Hà Nội. 25. Đảng Cộng sản Việt Nam (1998), Văn kiện Hội nghị lần thứ 5 Ban Chấp hành Trung ương khóa VIII, Nxb Chính trị Quốc gia , Hà Nội. 145 26. Đảng Cộng sản Việt Nam (2001), Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ IX, Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội. 27. Đảng Cộng sản Việt Nam (2006), Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ X, Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội. 28. Đảng Cộng sản Việt Nam (2011), Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XI, Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội. 29. Bế Viết Đẳng (chủ biên) (1996), Các dân tộc thiểu số trong sự phát triển kinh tế, xã hội ở miền núi, Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội. 30. Bế Viết Đẳng (2006), Dân tộc học Việt Nam định hướng và thành tựu nghiên cứu (1973 – 1998), Nxb Khoa học Xã hội, Hà Nội. 31. Nguyễn Khoa Điềm ( 2001), Xây dựng và phát triển nền văn hóa Việt Nam tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc, Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội. 32. Lê Sĩ Giáo (chủ biên) (1995), Hoàng Lương, Lâm Bá Nam, Lê Ngọc Thắng, Dân tộc học đại cương, Nxb Giáo dục, Hà Nội. 33. Nguyễn Thẩm Thu Hà, Sa Thị Thanh Nga (2015), Một số yếu tố văn hóa ảnh hưởng đến hôn nhân xuyên biên giới của các tộc người thuộc nhóm ngôn ngữ Tạng - Miến, Tạp chí Nghiên cứu Gia đình và Giới (số 5, tr.55-67). 34. Đặng Thị Hoa (chủ biên 2016), Hôn nhân xuyên biên giới với phát triển xã hội, Nxb Khoa học Xã hội, Hà Nội. 35. Nguyễn Thị Hảo (2010), “Bàn thêm về di sản trống đồng của người Lô Lô (xã Lũng Cú, huyện Đồng Văn, tỉnh Hà Giang)”, Tạp chí DTH, (2), tr.69-74. 36. Phạm Quang Hoan, Nguyễn Ngọc Thanh (1992), “Gia đình và Hôn nhân”, trong sách Các dân tộc Tày, Nùng ở Việt Nam, Viện Dân tộc học, Hà Nội. 146 37. Phạm Quang Hoan (1993), “Vài suy nghĩ về hôn nhân và gia đình của các dân tộc ở nước ta hiện nay”, Tạp chí Dân tộc học, (2), tr.44-45. 38. Hội đồng Quốc gia chỉ đạo biên soạn Từ điển Bách khoa Việt Nam (1995), Từ điển Bách khoa Việt Nam, tập 1, Nxb Từ Điển Bách khoa, Hà Nội. 39. Hội đồng Quốc gia chỉ đạo biên soạn Từ điển Bách khoa Việt Nam (1995), Từ điển Bách khoa Việt Nam, tập 2, Nxb Từ Điển Bách khoa, Hà Nội. 40. Hội đồng Quốc gia chỉ đạo biên soạn Từ điển Bách khoa Việt Nam (1995), Từ điển Bách khoa Việt Nam, tập 3, Nxb Từ Điển Bách khoa, Hà Nội. 41. Hội đồng Quốc gia chỉ đạo biên soạn Từ điển Bách khoa Việt Nam (1995), Từ điển Bách khoa Việt Nam, tập 4, Nxb Từ Điển Bách khoa, Hà Nội. 42. Hội văn nghệ Cao Bằng (1993), “Văn hóa Dân gian Cao Bằng”, Kỷ yếu hội thảo khoa học, Cao Bằng. 43. Hội Văn nghệ Dân Gian Việt Nam (2012), Phong tục tập quán một số dân tộc thiểu số, Nxb Văn hóa Dân tộc, Hà Nội. 44. Trần Thị Hồng (2004), “Kết hôn với người nước ngoài qua môi giới hôn nhân ở Việt Nam”, Khoa học về Phụ nữ, (5) tr.30-40. 45. Nguyễn Thế Huệ (1998), “Tình trạng tảo hôn ở một số dân tộc thiểu số Việt Nam”, Tạp chí DTH, (3), tr.52-56. 46. Nguyễn Văn Huy (1979), “Bước đầu tìm hiểu hệ thống thân tộc của các dân tộc nhóm ngôn ngữ Hà Nhì - Lô Lô”, Tạp chí DTH, (4), Hà Nội. 47. Nguyễn Văn Huy (1985), Văn hóa và nếp sống Hà Nhì - Lô Lô, Nxb Văn hóa, Hà Nội. 48. Nguyễn Văn Huy (Chủ biên) (1997), Bức tranh văn hóa các dân tộc Việt Nam, NXB Giáo dục, Hà Nội. 49. Vũ Tuấn Huy (Chủ biên) (2004), Xu hướng gia đình ngày nay, Nxb Khoa học Xã hội, Hà Nội. 147 50. Nguyễn Chí Huyên (Chủ biên) (2000), Nguồn gốc lịch sử tộc người vùng biên giới phía Bắc Việt Nam, Nxb Văn hóa Dân tộc, Hà Nội. 51. Nguyễn Văn Huyên (1995), Góp phần nghiên cứu văn hóa Việt Nam, Tập 1, Nxb KHXH, Hà Nội. 52. Nguyễn Văn Huyên toàn tập (2001), Văn hoá và giáo dục Việt Nam, Nxb Giáo dục, Hà Nội. 53. Lương Văn Hy (1994), “Cải cách kinh tế và tăng cường lễ nghi tại hai làng ở miền Bắc Việt Nam”//Những thách thức trên con đường cải cách Đông Dương, Borje Ljunggrren chủ biên, Nxb CTQG, tr.437 - 481. 54. Nguyễn Xuân Kính (2003), Con người môi trường và văn hóa, Nxb KHXH, Hà Nội. 55. Vũ Ngọc Khánh (1999), Sơ lược truyền thống văn hoá các dân tộc thiểu số Việt Nam (tái bản lần thứ nhất), Nxb Giáo dục, Hà Nội. 56. Lã Văn Lô, Nguyễn Hữu Thấu (1959), Các dân tộc thiểu số ở Việt Nam, Nxb Văn hóa, Hà Nội. 57. Luật bình đẳng giới (2006), Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội. 58. Luật Hôn nhân và gia đình năm 2000, được sửa đổi (2014), Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội. 59. Hồ Chí Minh (tức Tân Sinh) (1947), Đời sống mới, tái bản 2015, Nxb Văn hóa Dân tộc, Hà Nội. 60. Nguyễn Hữu Minh (2001), “Một số cách tiếp cận nghiên cứu về hôn nhân”, Tạp chí XHH, 7 (4), tr.14-20. 61. Bùi Xuân Mỹ, Phạm Minh Thảo biên soạn (1995), Tục cưới hỏi, Nxb Văn hóa Thông tin, Hà Nội. 148 62. Hoàng Nam (1998), Bước đầu tìm hiểu văn hoá tộc người - Văn hoá Việt Nam, Nxb Văn hóa Dân tộc, Hà Nội. 63. Hoàng Nam (2001), Tổng quan văn hóa truyền thống của các dân tộc Việt Nam, Nxb Văn hóa Dân tộc, Hà Nội. 64. Hoàng Nam (2012), Đại cương Nhân học Văn hóa Việt Nam, Nxb Văn hóa Dân tộc, Hà Nội. 65. Nguyễn Thanh Nga (1997), “ Phong tục cưới xin cổ truyền của người Tày Cao Bằng”, Tạp chí DTH, (3), tr.74-77. 66. Nghị định 32 của Chính phủ qui định việc áp dụng Luật hôn nhân và gia đình đối với đồng bào các dân tộc thiểu số (2002), Hà Nội. 67. Nguyễn Anh Ngọc (1975), “Trồng trọt ruộng màu và thổ canh hốc đá ở người Lô Lô Hà Giang”, Tạp chí DTH, (3), Hà Nội. 68. Phan Ngọc (2002), Bản sắc văn hóa Việt Nam, Nxb Văn học, Hà Nội. 69. Nguyễn Chí Nguyên, Hoàng Hoa Toàn, Lương Văn Bảo (1985), Lịch sử tộc người vùng biên giới phía Bắc, Nxb Văn hóa, Hà Nội. 70. Những qui định pháp luật về hôn nhân và gia đình (2001), Nxb Lao Động, Hà Nội. 71. Lò Giàng Páo – Hoàng Nam (1983), Truyện cổ Lô Lô, Nxb Văn học, Hà Nội. 72. Lò Giàng Páo (1996), Trống đồng cổ với các dân tộc ở Hà Giang, Nxb Thế giới, Hà Nội. 73. Lò Giàng Páo (1997), Tìm hiểu văn hóa các dân tộc thiểu số, Nxb Văn hóa Dân tộc, Hà Nội. 74. Hoàng Phê (2017), Từ điển tiếng Việt, Nxb Hồng Đức, Hà Nội. 149 75. Nguyễn Nam Phương (2000), “Quan niệm về hôn nhân và gia đình trong thời kì đổi mới”, Con số và sự kiện, (6), tr.26-28. 76. Bùi Ngọc Quang (2006), “Hôn nhân truyền thống của người Brâu”, Tạp chí VHNT, (19), tr.18-22. 77. Sở Văn hóa - Thông tin Hà Giang (1994), Văn hóa truyền thống các dân tộc Hà Giang, Hà Giang. 78. Lý Hành Sơn (2005), Nhà ở của người Lô Lô Hà Giang, Tạp chí DTH, (4), tr.19-30. 79. Lý Hành Sơn (2006), “Đôi nét về trang phục truyền thống của người Lô Lô”, Tạp chí DTH, (2), tr. 8-16. 80. Lâm Tâm (1960), “Sơ lược giới thiệu dân tộc Lô Lô, huyện Đồng Văn, Hà Giang”, Tập san DTH, (10), tháng 1. 81. Đào Văn Tập (1980), 30 năm kinh tế Việt Nam, Nxb Khoa học Xã hội, Hà Nội. 82. Đỗ Thạch (1999), “Hôn lễ xưa và nay” , Tạp chí Xưa và nay, (66B). 83. Phạm Minh Thảo (2000), Lễ tục vòng đời, Nxb Văn hóa Thông tin, Hà Nội. 84. Lê Ngọc Thắng, Lâm Bá Nam (1990), Bản sắc văn hóa các dân tộc Việt Nam, Nxb Văn hóa Dân tộc, Hà Nội. 85. Lê Ngọc Thắng (2005), Một số vấn đề dân tộc và phát triển. Nxb Khoa học Xã hội, Hà Nội. 86. Trần Ngọc Thêm (1996), Tìm về bản sắc văn hóa Việt Nam. Nxb TP. Hồ Chí Minh. 87. Lê Thi (2002), “Thế kỉ 21 và những biến động xung quanh vấn đề hôn nhân và gia đình ở Việt Nam”, Triết học, (4),tr.44-48. 150 88. Lê Thi (2002), Gia đình Việt Nam trong bối cảnh đất nước đổi mới, Nxb Khoa học Xã hội, Hà Nội. 89. Lê Thi (2006), Cuộc sống và biến động của hôn nhân và gia đình Việt Nam hiện nay, Nxb Khoa học Xã hội, Hà Nội. 90. Ngô Đức Thịnh (2004), Văn hóa vùng và phân vùng văn hóa ở Việt Nam, Nxb Trẻ, thành phố Hồ Chí Minh. 91. Ngô Đức Thịnh (2006), Văn hóa văn hóa tộc người và văn hóa Việt Nam, Nxb Khoa học Xã hội, Hà Nội. 92. Thông tấn xã Việt Nam (2006), Việt Nam hình ảnh cộng đồng 54 dân tộc, Nxb Thông tấn, Hà Nội. 93. Thomas Barfiled (1997), Từ điển Nhân học, Tài liệu dịch lưu tại Viện Dân tộc học, ký hiệu TĐ 86,TĐ 87. 94. Đặng Thu (1995), “Về tình trạng hôn nhân ở các dân tộc sinh sống tại Việt Nam”, Tạp chí DTH, (4), tr.9-13. 95. Thủ tướng Chính phủ (2002), Nghị định số 32/2002/NĐ-CP Quy định việc áp dụng Luật Hôn nhân và gia đình đối với các dân tộc thiểu số, Hà Nội. 96. Tỉnh uỷ - Uỷ ban Nhân dân tỉnh Cao Bằng (2000), Địa chí Cao Bằng, Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội. 97. Hoàng Hoa Toàn (1975), “Người Lô Lô ở Bảo Lạc tỉnh Cao Bằng”, Tạp chí Dân tộc học, (2), Hà Nội. 98. Hoàng Hoa Toàn, Hoàng Lương (1978), “Sơ bộ tìm hiểu nguồn gốc các tộc người thuộc nhóm ngôn ngữ Di”, Tạp chí Dân tộc học, (1), Hà Nội. 99. Toàn cảnh Việt Nam (Discovery) (1997), Nxb Thống kê, Hà Nội. 151 100. Nguyễn Khắc Tụng, Ngô Vĩnh Bình (1981), Đại gia đình các dân tộc Việt Nam, Nxb Giáo Dục, Hà Nội. 101. Từ Điển Xã hội học (2001), Nxb Khoa học Xã hội, Hà Nội. 102. Trung tâm Dân số kế hoạch hóa gia đình huyện Bảo Lạc (2015), Báo cáo tình hình dân số, gia đình và trẻ em năm 2015 và phương hướng, nhiệm vụ năm 2016. 103. Vũ Diệu Trung (Chủ biên) (2009), Người Lô Lô Đen ở Hà Giang, Nxb Văn hóa Dân tộc, Hà Nội. 104. Uỷ ban Dân tộc - Bộ Tư pháp (2002), Sổ tay phổ biến pháp luật Hôn nhân và gia đình (dành cho đồng bào các dân tộc thiểu số), Hà Nội. 105. Uỷ Ban Dân tộc, Phát triển bền vững vùng dân tộc thiểu số và miền núi , Nxb Văn hóa Dân tộc, Hà Nội. 106. Đặng Nghiêm Vạn (2003, 2007), Quan hệ giữa các tộc người trong một quốc gia đa dân tộc, Nxb CTQG, Hà Nội. Văn hóa Việt Nam đa tộc người, Nxb Giáo dục, Hà Nội. 107. Viện Dân tộc học (1975), Về vấn đề xác định thành phần dân tộc các dân tộc thiểu số ở miền Bắc Việt Nam, Nxb Khoa học Xã hội, Hà Nội. 108. Viện Dân tộc học (1978), Các dân tộc ít người ở Việt Nam (các tỉnh phía Bắc), Nxb Khoa học Xã hội, Hà Nội. 109. Viện Dân tộc học (1980), Góp phần tìm hiểu bản lĩnh bản sắc các dân tộc ở Việt Nam, Nxb Khoa học Xã hội, Hà Nội. 110. Viện Dân tộc học (1996), Những biến đổi về kinh tế - văn hóa các tinh miền núi phía Bắc, Nxb Khoa học Xã hội, Hà Nội. 111. Viện Ngôn ngữ học (2000), Từ điển Tiếng việt, Nxb Đà Nẵng và Trung tâm Từ điển học, Đà Nẵng – Hà Nội. 152 112. Nguyễn Khắc Viện (1994), Từ điển xã hội học, Nxb Khoa học Xã hội, Hà Nội. 113. Lê Trung Vũ (1975), “Vài nét về dân ca phong tục Lô Lô”, Tạp chí Dân tộc học, (1), Hà Nội. 114. Lê Trung Vũ, Lưu Kiếm Thanh, Nguyễn Hồng Dương (1996), Nghi lễ đời người, Nxb Văn hóa Dân tộc, Hà Nội. 115. Trần Thị Kim Xuyến (2001), Gia đình và những vấn đề của gia đình hiện đại, Nxb Thống kê, Hà Nội. II. Tài liệu tiếng nước ngoài 116. R. Jon McGee, Richard L. Warms(1996), Anthropological theory, Southwest Texas State University. 117. L. Henry Morgan(1877), Ancient Society, Scholar’s Choice(2015). 118. Thomas Barfield( Editor, 1998), The Dictionary of Anthropology, Balckwell Publishers, Oxford. 153 VIỆN HÀN LÂM KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM HỌC VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI MÔNG THỊ XOAN HÔN NHÂN CỦA NGƯỜI LÔ LÔ Ở HUYỆN BẢO LẠC, TỈNH CAO BẰNG TRUYỀN THỐNG VÀ BIẾN ĐỔI PHỤ LỤC LUẬN ÁN : HÀ NỘI - 2017 154 MỤC LỤC Tên phụ lục Trang Phụ lục 1. Bản đồ hành chính huyện Bảo Lạc, tỉnh Cao Bằng 155 Phụ lục 2. Một số từ vựng Việt – Lô Lô liên quan đến hôn nhân 156 Phụ lục 3. Danh sách những người cung cấp thông tin trong luận án 160 Phụ lục 4: Nội dung cơ bản của dân ca trong nghi lễ đám cưới 162 Phụ lục 5. Hình ảnh về hôn nhân của người Lô Lô ở huyện Bảo Lạc, tỉnh Cao Bằng 168 155 Phụ lục 1: Bản đồ hành chính huyện Bảo Lạc, tỉnh Cao Bằng [Nguồn: UBND huyện Bảo Lạc cung cấp, năm 2016] 156 Phụ lục 2. Một số từ vựng Việt – Lô Lô liên quan đến hôn nhân (Nguồn: Tác giả sưu tầm, năm 2016) Số TT Tiếng Việt Tiếng Lô Lô 1. Ông nội Pồ 2. Bà Nội Pề 3. Bố Pạ 4. Mẹ Ma 5. Mẹ vợ Xả mì ma 6. Bố vợ Xả mì pạ 7. Mẹ chồng Xả Pỏa Ma 8. Bố Chồng Xả Pỏa Pa 9. Con trai Xả Pỏa 10. Con gái Xả Mì 11. Con A 12. Con út A Lồ 13. Con một A Cóng 14. Con nuôi A Pê lê xú 15. Chồng Ròng 16. Vợ Mii" 17. Vợ cả Xả mì Cóng 18. Vợ lẽ Mi Nạ 19. Chị Vị 20. Em Lu 21. Chị dâu Mí 22. Em chồng Kiế 157 Số TT Tiếng Việt Tiếng Lô Lô 23. Dâu Khề Ma 24. Rể Luơ A 25. Cháu rể Lệ a 26. Phù rể Lọ A Le Chò 27. Phù dâu Kie Ma Le Chò 28. Ông mối Xả pỏa mòe xả nả 29. Bà mối Xa mì mòe xả nả 30. Người già Xo Mo 31. Người giàu Xo Xả 32. Người nghèo Xo Xa 33. Thông gia Dù phè 34. Họ nội Phồ Cỏ 35. Họ ngoại Phê Cỏ 36. Họ hàng Vi Lu 37. Đàn ông Xả Phà 38. Đàn bà Xả Mi 39. Trung niên Xo Khà 40. Đàn ông góa vợ Xa Pha xả Mị nà 41. Đàn ông quá lứa Xả Phả Mọ 42. Đàn bà góa chồng Xa mì Ròng Xể 43. Đàn bà quá lứa Xả Mì Mọ 44. Bà chửa Mò Rà Nì 45. Gái bỏ chồng Xả Mì Xả Phả Nạ 46. Gái ly thân Xả Mì Khề NÌ 47. Ngoại tình Chể mỏng 158 Số TT Tiếng Việt Tiếng Lô Lô 48. Chọn vợ Mì Xỉ 49. Chon chồng Ròng Xỉ 50. Người lười Xó Khè 51. Người chăm Xó Chó 52. Yêu Cà Xỏ 53. Ăn hỏi Xả Mì Nả Ỉ 54. Ở rể Khì Khồ 55. Đón dâu Khê ma dòe 56. Cùng chi Tề tổ 57. Chung họ Hô Tổ 58. Chung dòng huyết thống Vi lu cà thù 59. Dạy con A xốe 60. Hát hay Lả chế tra xỏ 61. Ngày lành Mô Noe i 62. Tháng tốt Mô La i 63. Giàu sang Xó xả 64. Phú quí 65. Số hợp Ca Đe hòe 66. Ngày sinh Sính Mô Nô 67. Hạnh phúc Cà Tồ 68. Đoàn đưa đón dâu Khè Ma dồ lê xọ 69. Thương nhớ Cà Tể 70. Đánh tiếng Nả Ỉ xỏ 71. Xây dựng gia đình Piè Tó 72. Gà Gạ 159 Số TT Tiếng Việt Tiếng Lô Lô 73. Lợn Và 74. Rượu Chề 75. Vòng bạc Cò 76. Hoa tai Khoie long 77. Chăn Tô 78. Gối Mả Cồ 79. Màn Cả Trả 80. Chiếu Xí Pìe 81. Quần La 82. Áo Phỏe 160 Phụ lục 3. Danh sách những người cung cấp thông tin trong luận án Nguồn: Tác giả lập XÃ KIM CÚC, HUYỆN BẢO LẠC TỈNH CAO BẰNG TT HỌ TÊN Tuổi Nghề nghiệp 1 Nguyễn Trung Hiếu 29 Chủ tịch UBND xã 2 Chi Thị Duyến 28 CB địa chính xã 3 Chi Viết Hải 66 CB hưu trí 4 Na Thị Khẩn 50 Làm ruộng 5 Chi Thị Minh 60 Làm ruộng 6 Chi Thị Nê 42 Làm Ruộng 7 Chi Thị Duyên 31 Làm Ruộng 8 Chi Văn Thanh 70 Làm Ruộng 9 Chi Văn Dần 54 Làm Ruộng 10 Chi Văn Chiến 50 Làm ruộng XÃ HỒNG TRỊ, HUYỆN BẢO LẠC TỈNH CAO BẰNG TT HỌ TÊN Tuổi Nghề nghiệp 1 Ma Văn Rong 70 Làm Ruộng 2 Chi Thị Kim 50 Làm Ruộng 3 Lang Thị Yên 39 Làm Ruộng Na Thị Lang 55 Làm ruộng 4 Lang Văn Phong 41 Làm Ruộng 5 Ma Văn Tuấn 35 Làm Ruộng 6 Chi Văn Tướng 45 Làm Ruộng 7 Chi Văn Thành 35 Làm ruộng 161 XÃ CÔ BA, HUYỆN BẢO LẠC TỈNH CAO BẰNG TT HỌ TÊN Tuổi Nghề nghiệp 1 Lang Văn Chương 56 Làm Ruộng 2 Lang Văn Rung 70 Làm ruộng 3 Lang Văn Đoàn 65 Làm ruộng 4 Lang Văn Phong 50 Làm Ruộng 5 Cam Văn Sơn 42 Giáo viên 6 Lang Thị Yên 41 Làm Ruộng 7 Lang Thị Ban 60 Làm Ruộng 8 Lang Thị Liên 50 Làm ruộng 9 Ma Thị Tuệ 31 Làm ruộng 162 Phụ lục 4: Nội dung cơ bản của dân ca trong nghi lễ đám cưới của người Lô Lô [Nguồn: TS. Lò Gìng Páo] Dân ca nghi lễ trong đám cưới của người Lô Lô phản ánh đầy đủ những nghi lễ tiến hành trong một đám cưới dưới sự dẫn dắt và diễn xướng đối đáp của ông mối, bà mối. Lời ca tập trung phản ánh phong tục tập quán truyền thống của người Lô Lô từ khi dạm hỏi, xem mặt đến khi làm lễ cưới. Với nội dung ví von, giàu hình ảnh thể hiện một tình yêu chân thực của đôi trẻ và sự cầu mong trăm năm hạnh phúc cho đôi vợ chồng. Ông mối, bà mối là người kể lại toàn bộ sự việc một cách cô đọng, súc tích nhất về tình yêu của đôi vợ chồng trẻ. Dân ca đám cưới của người Lô Lô phản ánh về phong tục, tập quán hôn nhân của tộc người. Theo người Lô Lô, hôn nhân phản ánh qui luật của đời sống con người: Từ khi có trời, đất Có cỏ cây sinh ra, Muôn loài cùng đông đúc. Con người cũng như thế Phải có lứa có đôi Mới sinh sôi nảy nở Mới duy trì loài người Trong phong tục của người Lô Lô, lễ cưới thường được diễn ra trong 03 ngày, ngày hôm trước nhà trai cùng ông mối mang lễ vật đến nhà gái. Khi đến nhà gái ông mối phải hát để nhà gái mở cửa cho vào nhà: Ông mối hát rằng: Đẹp như anh, như em Lấy thân đền thân chim, Lấy người trả thân chim. 163 Em như gái nhà trời, Anh trai nghèo mặt đất, Em tung cánh chim bay, Giữa trời xanh núi biếc. Anh như con cuốc đen, Lò dò trên đồng ruộng, Hai chúng ta yêu nhau Nay nên vợ nên chồng. Bên nhà gái hát: Đẹp như anh, như em Thân em thay thân chim Yêu nhau bởi lòng tin Hiểu nhau thành vợ chồng Mình yêu bố đã biết, Mình lấy mẹ đã hay. Rượu thịt trao đến tay Gửi bố cùng gửi mẹ Rượu thơm rót mời bố, Thịt ngon mời mẹ xơi. Bạc trắng trao tay bố Tiền vàng trao tay mẹ... Khi ông mối bên nhà trai đã hát đối đáp xong được nhà gái mời vào nhà, nhà gái mời ông mối nhà trai uống rượu, với những chén rượu nồng thắm và nhiều tình huống đối đáp, các ông bà mối tiếp tục hát đối. Họ vừa là những người đối đáp giỏi, lại vừa phải khuyên những gì mà đôi trẻ cần làm: Nhà trai hát rằng: Ngựa hiểu chỉ một roi Người khôn nói một lời 164 Tới cửa vàng, cửa ngọc Cửa cao là như thế Nhà rộng đến như vậy Con khôn nhờ có cha Gái ngoan nhờ có mẹ Chín phần được cả chín Mười phân vẹn cả mười Nhà gái đối rằng: Người thì ở cùng trời Kẻ ở nơi cuối đất. Hòn núi có vòng đâu, Chỉ có con đường vòng. Khách quí đi đường xa, Đến nhà không nơi nghỉ. Nhà thì chưa ra nhà, Cửa mở cũng đơn sơ. Nếu khách xa không chê, Mời khách ngồi đỡ mỏi. Với người Lô Lô, vai trò ông cậu đặc biệt quan trọng, dù bên gái và bố mẹ đồng ý nhưng ông cậu không đồng ý thì sẽ không thuận. Ông cậu sẽ định đoạt những gì thuộc về cưới, hỏi, thách cưới và tổ chức đám cưới: Ai lớn bằng cậu đâu. Như sông sâu hồ rộng, Nơi trông cậy linh thiêng. Từ việc lớn việc nhỏ, Từ người trẻ, người lớn. Răng không mọc cậu kêu, 165 Tóc không thẳng cậu vuốt. Ông cậu là nơi trông cậy lớn nhất cả về vật chất đến tinh thần của cả dòng tộc. Mọi việc lớn trong họ tộc đều phải hỏi ý kiến của ông cậu: Cậu như lòng động lớn. Khi no được cậu mừng, Khi đói cậu phải lo. Ngấm lâu thì mới rõ. Cậu chỉ nói một câu, Lòng sông sâu cũng thấu. Con cháu như cỏ non, Cậu chỉ đâu được đấy. Dù đi đâu về đâu? Không thăm cậu rụng tóc, Không chào cậu rụng răng... Một tục lệ mà hệ lụy nhiều đến thế hệ con cháu của người Lô Lô, đó là con cô, con cậu vẫn kết hôn với nhau. Đây là một hủ tục kết hôn cận huyết nên nhiều đứa trẻ sinh ra bị ảnh hưởng về trí tuệ và sức khỏe. Việc làm này cũng một phần do ảnh hưởng của quan niệm quan hệ hai họ có bền vững hay không là tùy thuộc vào quan hệ hôn nhân giữa các thế hệ nối tiếp: Con cô không thách cưới, Con cậu không lo nhà. Con trai lớn của cô, Qua mặt con gái cậu. Truyền đời không qua cửa, Con gái lớn của cậu, Qua mặt con trai cô. Truyền kiếp không ngó nhà. 166 Nếu không biết lệ này, Cầm cày sao cho vững. Cầm dao sao cho thạo, Ai không hiểu điều đó. Khó lòng tạo tình thương. Dân ca đám cưới của người Lô Lô ca ngợi công lao sinh thành, dưỡng dục của hai bên gia đình nhà trai, nhà gái. Cũng như các dân tộc khác, dân ca nghi lễ trong đám cưới phản ánh một nội dung không thể thiếu đó là ca ngợi công lao của cha mẹ cô dâu và chú rể: Những lời hát của ông mối, bà mối đều nói lên sự vất vả của cha mẹ khi sinh thành và dưỡng dục con cái. Con cái có được sự trưởng thành ngày hôm nay là nhờ công lao trời bể của cha mẹ. Qua lời ca, tiếng hát góp phần giáo dục, nhắc nhở đôi vợ chồng trẻ lòng biết ơn đối với các bậc sinh thành: Từ ngày mẹ sinh con, Vòng cung tre trước cửa. Ra hiệu cho làng biết, Cung tre buộc chiếc nỏ, Đó là sinh con trai. Cung nỏ chĩa lên trời, Người ta gọi là chủ. Cung tre buộc bó lúa, Tín hiệu sinh con gái. Người ta gọi là khách, Một năm mười hai tháng, Một tháng ba mươi ngày. Ngày này qua ngày khác, Nuôi con không kể ngày. 167 Trồng cây không kể tháng, Cha như núi trên cao, Mẹ như lòng đất rộng. Nhưng sức mạnh của tập quán, của hương ước muốn cố kết mạnh mẽ các thành viên, chỉ đạo kiểm soát được các thành viên thì phải thông qua dư luận của làng. Dư luận làng là tiếng nói chính thức của cộng đồng làng nhằm bảo vệ tập quán và hương ước. Đặc biệt là các bản người Lô Lô, trình độ dân trí còn thấp, môi trường giao tiếp bị khuôn chặt trong các mối quan hệ giữa người làng với nhau, dư luận của làng càng đóng vai trò quan trọng. Dư luận đã trở thành luật tục hướng dẫn và cưỡng chế các thành viên ứng xử theo đúng chuẩn mực của quy ước và tập quán. Dư luận càng có sức mạnh hơn khi người tạo nguồn dư luận lại là những người có uy tín trong làng xã như già làng, trưởng làng, trưởng họ. 168 Phụ lục 5. Hình ảnh về hôn nhân của người Lô Lô ở huyện Bảo Lạc, tỉnh Cao bằng Ảnh 1: Thiếu nữ Lô Lô [Tác giả: Mông Thị Xoan, năm 2016] Ảnh 2: Một góc trong không gian nhà sàn của người Lô Lô [Tác giả: Mông Thị Xoan, năm 2015] 169 Ảnh 3: Chuẩn bị đồ cho lễ ăn hỏi [Tác giả: Mông Thị Xoan, năm 2015] Ảnh 4: Chuẩn bị đồ cho lễ ăn hỏi [Tác giả: Mông Thị Xoan, năm 2015] 170 Ảnh 5: Đoàn nhà trai đem lễ vật sang nhà giá ăn hỏi [Tác giả: Mông Thị Xoan, năm 2015] Ảnh 6: Ông Mối đến nhà gái trong lễ ăn hỏi [Tác giả: Mông Thị Xoan, năm 2015] 171 Ảnh 7: Bà Mối đến nhà gái trong lễ ăn hỏi [Tác giả: Mông Thị Xoan, năm 2015] Ảnh 8: Công tác chuẩn bị cho đám cưới tại nhà gái [Tác giả: Mông Thị Xoan, năm 2016] 172 Ảnh 9: Công tác chuẩn bị cho đám cưới tại nhà gái [Tác giả: Mông Thị Xoan, năm 2016] Ảnh 10: Bàn thờ trong ngày cưới của người Lô Lô [Tác giả: Mông Thị Xoan, năm 2016] 173 Ảnh 11: Mâm cỗ cưới của người Lô Lô Ảnh 12: Món thịt nướng người Lô Lô ưa thích [Tác giả: Mông Thị Xoan, năm 2016] [Tác giả: Mông Thị Xoan, năm 2016] Ảnh 13: Khách đến ghi sổ mừng đám cưới [Tác giả: Mông Thị Xoan, năm 2016] 174 Ảnh 14: Khách thưởng thức ẩm thực trong đám cưới [Tác giả: Mông Thị Xoan, năm 2016] Ảnh 15: Cô dâu trong bộ trang phục mới may [Tác giả: Mông Thị Xoan, năm 2016] 175 Ảnh 16: Cô dâu, chú rể, phù dâu, phù rể trong ngày cưới [Tác giả: Mông Thị Xoan, năm 2016] Ảnh 17: Cô dâu chụp ảnh với bố mẹ trước Ảnh 18: Quà cưới cô ruột tặng cho cô dâu khi về nhà chồng [Tác giả: Mông Thị Xoan, năm 2016] [Tác giả: Mông Thị Xoan, năm 2016] 176 Ảnh 19: Tác giả luận án chụp ảnh cùng cô dâu trong ngày cưới năm 2016 [Tác giả: Mông Thị Xoan, năm 2016] Ảnh 20: Tác giả luận án và TS. Lò Giàng Páo Người hướng dẫn KH chụp ảnh cùng cô dâu và mẹ cô dâu năm 2016 [Tác giả: Mông Thị Xoan, năm 2016] 177 Ảnh 21: Lễ vật cô dâu chuẩn bị mang sang nhà chồng [Tác giả: Mông Thị Xoan, năm 2016] Ảnh 22: Đoàn đưa dâu [Tác giả: sưu tầm, năm 2016] 178 Ảnh 23: Đoàn người trong đám đưa dâu sang nhà trai [Tác giả: Mông Thị Xoan, năm 2016] Ảnh 24: Cô dâu nhận của hồi môn [Tác giả: Mông Thị Xoan, năm 2016]

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • pdfluan_an_hon_nhan_cua_nguoi_lo_lo_o_huyen_bao_lac_tinh_cao_ba.pdf
  • pdfTrichyeu_MongThiXoan.pdf
Tài liệu liên quan