Luận án Hoạt động thương mại và truyền giáo của bồ đào nha tại ấn độ, trung quốc (thế kỷ XVI – thế kỷ XIX)

ĐẠI HỌC HUẾ TRƯỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC NGUYỄN THỊ VĨNH LINH HOẠT ĐỘNG THƯƠNG MẠI VÀ TRUYỀN GIÁO CỦA BỒ ĐÀO NHA TẠI ẤN ĐỘ, TRUNG QUỐC (THẾ KỶ XVI – THẾ KỶ XIX) Chuyên ngành: LỊCH SỬ THẾ GIỚI Mã số: 62.22.50.05 LUẬN ÁN TIẾN SĨ LỊCH SỬ Người hướng dẫn khoa học: 1. PGS.TS. LÊ VĂN ANH 2. PGS.TS. ĐẶNG VĂN CHƯƠNG HUẾ - NĂM 2015 LỜI CAM ĐOAN Tôi xin cam đoan đây là công trình nghiên cứu của riêng tôi, các số liệu, kết quả nghiên cứu nêu trong Luận án là trung thực, được các đồ

pdf187 trang | Chia sẻ: huong20 | Ngày: 11/01/2022 | Lượt xem: 418 | Lượt tải: 0download
Tóm tắt tài liệu Luận án Hoạt động thương mại và truyền giáo của bồ đào nha tại ấn độ, trung quốc (thế kỷ XVI – thế kỷ XIX), để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
ng tác giả cho phép sử dụng và chưa từng được công bố trong bất kỳ một công trình nào khác. Tác giả luận án MỤC LỤC Trang Lời cam đoan Mục lục Ký hiệu viết tắt Danh mục các bảng A. MỞ ĐẦU ................................................................................................................. 1 1. Lý do chọn đề tài .................................................................................................. 1 2. Lịch sử nghiên cứu vấn đề .................................................................................... 2 3. Mục tiêu và nhiệm vụ nghiên cứu ...................................................................... 10 4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu ...................................................................... 11 5. Nguồn tư liệu và phương pháp nghiên cứu ........................................................ 11 6. Đóng góp của đề tài ............................................................................................ 12 7. Bố cục đề tài ....................................................................................................... 13 B. NỘI DUNG ............................................................................................................ 13 CHƯƠNG 1. HOẠT ĐỘNG THƯƠNG MẠI CỦA BỒ ĐÀO NHA TẠI ẤN ĐỘ VÀ TRUNG QUỐC (THẾ KỶ XVI - ĐẦU THẾ KỶ XIX) .................................. 14 1.1. Thương mại của Bồ Đào Nha tại Ấn Độ (thế kỷ XVI - thế kỷ XIX) .............. 14 1.1.1. Thương mại của Bồ Đào Nha tại Ấn Độ (thế kỷ XVI - giữa thế kỷ XVII) ....... 14 1.1.2. Thương mại của Bồ Đào Nha tại Ấn Độ (giữa thế kỷ XVII - đầu thế kỷ XIX) ...... 33 1.2. Thương mại Bồ Đào Nha tại Trung Quốc (nửa sau thế kỷ XVI - đầu thế kỷ XIX) . 44 1.2.1. Hoạt động bước đầu của thương nhân Bồ Đào Nha tại Trung Quốc (đầu thế kỷ XVI - nửa đầu thế kỷ XVII) ............................................................................................ 44 1.2.2. Hoạt động thương mại của thương nhân Bồ Đào Nha Macao với Trung Quốc lục địa ................................................................................................................................ 50 1.2.3. Quá trình mở rộng thương mại của Bồ Đào Nha ở Macao với các khu vực khác (thế kỷ XVII - đầu thế kỷ XIX) ....................................................................................... 57 1.2.4. Sự suy tàn của thương mại Bồ Đào Nha tại Macao (cuối thế kỷ XVIII - đầu thế kỷ XIX) ............................................................................................................................. 63 CHƯƠNG 2. HOẠT ĐỘNG TRUYỀN GIÁO CỦA CÁC GIÁO ĐOÀN BỒ ĐÀO NHA Ở ẤN ĐỘ VÀ TRUNG QUỐC (THẾ KỶ XVI - THẾ KỶ XIX) ..... 67 2.1. Hoạt động truyền giáo của Bồ Đào Nha tại Ấn Độ ......................................... 67 2.1.1. Bước đầu xác lập ảnh hưởng của Thiên Chúa giáo tại Ấn Độ (thế kỷ XVI) ..... 67 2.1.2. Hoạt động của các giáo đoàn Bồ Đào Nha tại Ấn Độ vào thế kỷ XVII. ........... 81 2.1.3. Sự suy yếu của các giáo đoàn Bồ Đào Nha tại Ấn Độ vào thế kỷ XVIII .......... 87 2.2. Hoạt động truyền giáo của Bồ Đào Nha tại Trung Quốc ................................ 90 2.2.1. Quá trình truyền giáo của Bồ Đào Nha tại Macao .............................................. 90 2.2.2. Hoạt động truyền giáo của Bồ Đào Nha tại Trung Quốc lục địa ........................ 94 CHƯƠNG 3. MỘT SỐ NHẬN XÉT VỀ HOẠT ĐỘNG THƯƠNG MẠI VÀ TRUYỀN GIÁO CỦA BỒ ĐÀO NHA TẠI ẤN ĐỘ, TRUNG QUỐC (THẾ KỶ XVI - THẾ KỶ XIX) ............................................................................................... 115 3.1. Cơ sở xác lập hoạt động thương mại và truyền giáo của Bồ Đào Nha tại Ấn Độ, Trung Quốc .................................................................................................... 115 3.1.1. Chính sách hướng biển của Bồ Đào Nha ........................................................... 115 3.1.2. Sự thừa nhận của Giáo hội Rome đối với các vùng đất Bồ Đào Nha xâm chiếm ........ 118 3.1.3. Sự tham gia của Bồ Đào Nha vào thương mại Đại Tây Dương trong thế kỷ XV .. 120 3.1.4. Vai trò của thương nhân Thiên Chúa giáo mới ................................................. 121 3.2. Đặc điểm hoạt động thương mại, truyền giáo của Bồ Đào Nha tại Ấn Độ và Trung Quốc ........................................................................................................... 123 3.3. Thương mại và truyền giáo của Bồ Đào Nha tại Ấn Độ trong sự đối sánh với Trung Quốc ........................................................................................................... 132 3.3.1. Vài đối sánh về hoạt động thương mại của Bồ Đào Nha tại Ấn Độ và Trung Quốc . 132 3.3.2. Vài đối sánh về công cuộc truyền giáo của các giáo đoàn Bồ Đào Nha tại Trung Quốc và Ấn Độ ............................................................................................................... 138 3.4. Hệ quả quá trình hoạt động thương mại và truyền giáo của người Bồ Đào Nha tại Ấn Độ và Trung Quốc ..................................................................................... 143 3.4.1. Sự gắn kết thương mại Ấn Độ, Trung Quốc vào mạng lưới giao thương toàn cầu và hậu quả của chính sách độc quyền nhà nước trong thương mại biển ............. 143 3.4.2. Sự di cư, hình thành các tộc người mới và nạn kỳ thị chủng tộc ...................... 149 3.4.3. Sự tiếp biến ngôn ngữ Bồ Đào Nha trong cộng đồng cư dân châu Á .............. 151 3.4.4. Đối với quá trình tiếp biến và giao lưu văn hóa ................................................. 153 3.4.5. Bồ Đào Nha đặt nền tảng cho quá trình thay đổi cơ cấu động - thực vật trên phạm vi toàn thế giới ...................................................................................................... 158 C. KẾT LUẬN ......................................................................................................... 160 DANH MỤC CÁC CÔNG TRÌNH KHOA HỌC ĐÃ CÔNG BỐ TÀI LIỆU THAM KHẢO PHỤ LỤC KÝ HIỆU VIẾT TẮT Rs Rupee Tiền Ấn Độ EIC East India Company Công ty Đông Ấn Anh £ Pound Đồng bảng Anh VOC Vereenigde Oost-Indische Compagnie Công ty Đông Ấn Hà Lan. DANH MỤC CÁC BẢNG Bảng 1.1 Hàng hóa nhập khẩu vào Lisbon từ châu Á (Ấn Độ) từ 1505 đến 1518 24 Bảng 1.2 Hàng hóa nhập khẩu vào Lisbon từ châu Á (Ấn Độ) từ 1505 đến 1518 24 Bảng 3.1 Sự phát triển dân số của Lisbon từ 1147 đến 1500 117 Bảng 3.2 Ví dụ về ảnh hưởng của ngôn ngữ Bồ Đào Nha đến tiếng Quảng Châu 153 THUẬT NGỮ STT Thuật ngữ Chú thích 1 Agency House Hãng đại lý của các tư thương Bồ Đào Nha tại Ấn Độ. Về bản chất, đây là liên minh thương mại giữa các tư nhân để tăng cường khả năng cạnh tranh với Hoàng gia Bồ và các địch thủ người châu Âu khác. 2 Arel Người đứng đầu một hải cảng tại ven biển Ấn Độ vào đầu thế kỷ XVI. 3 Armada Hạm đội tàu chiến 4 Armazem da India Thực chất là kho vũ khí được xây dựng đầu tiên tại hải cảng Lisbon. Bộ phận quản lý của Armazem bao gồm một giám đốc, một thủ quỹ và một vài thư ký, một số ít thợ thủ công, công nhân, thợ mộc những người được thuê để đáp ứng cho những yêu cầu của vận chuyển hàng hóa bằng đường biển. Những kho hàng chứa hàng của nó luôn có đại bác và số lượng lính canh gác thường xuyên, hàng hóa hải quân, gỗ, cung ứng cho các chuyến hải hành đến Ấn Độ. Tại Ribeira Armazem sản xuất rất nhiều thuyền carrack lớn và các thuyền nhỏ phục vụ cho thương mại hàng hải đến châu Á. Văn phòng Armazem còn thiết lập quan hệ với những thương nhân, những người cung ứng vũ khí, đồ sứ, rượu và những hàng hóa khác cho các chuyến hải hành của carrack đến Ấn Độ và đồng bạc để thu mua hạt tiêu và gia vị đến châu Á. Trụ sở của Armazem tại Ấn Độ là Goa. 5 Arroba 14.4 kg 6 Bengalis Là nhóm dân tộc thiểu số bản địa sinh sống tại Bengal (hiện nay về phương diện chính trị, khu vực này được phân chia nằm ở hai quốc gia Bangladesh và Ấn Độ). Về chủng tộc, họ là sự hỗn huyết giữa người Aryan và người Mongoloid. 7 Cafila Các đoàn thương nhân lữ hành vận chuyển hàng hóa bằng đường bộ thông qua Con đường tơ lụa. 8 Capitao- genal Chức vụ nắm quyền quản lý tối cao tại Macao với tư cách là Tổng trấn hoàng gia và chỉ huy quân sự của thành phố từ năm 1623. 9 Capitao - mor Là chức vụ cao nhất nhằm quản lý các chuyến tàu được khởi hành từ Macao đến những hải cảng đã được chỉ định tại Nhật Bản. 10 Casado Những người Bồ Đào Nha đã có gia đình đến định cư tại châu Á 11 Casa dos contos Phòng tài chính thuộc Estado da India. 12 Casa da matricula Phòng hộ tịch và hỗ trợ quân sự. 13 Carrack Loại tàu lớn có 3 hoặc 4 cánh buồm vuông, được Bồ Đào Nha sử dụng trong giao thương Á - Âu vào thế kỷ XV, XVI. 14 Carreira da India Là những hạm đội tàu được tổ chức bởi Hoàng gia Bồ Đào Nha và khởi hành hàng năm từ Lisbon đến Ấn Độ (chủ yếu là Goa) theo tuyến thương mại qua mũi Hảo Vọng. Theo ước tính, trong khoảng thời gian từ 1497 đến 1650, có khoảng 1.033 chuyến tàu khởi hành từ Lisbon đến Goa. 15 Cartaz Đây là hình thức cấp phép trong thương mại đường biển được thực hiện bởi người Bồ Đào Nha từ đầu thế kỷ XVI đến nửa cuối thế kỷ XVIII. Theo đó, các tàu muốn đến buôn bán với các vùng đất dưới sự kiểm soát của người Bồ Đào Nha phải được sự cho phép của Estado và phải đóng thuế theo quy định nếu không sẽ bị tấn công, đánh đắm bởi lực lượng hải quân Bồ Đào Nha tại Ấn Độ dương. 16 Cristãos novos Là những người gốc Do Thái sinh sống trên lãnh thổ Bồ Đào Nha từ rất sớm. Năm 1496, để ngăn chặn khả năng liên minh giữa người Do Thái, vua Dom Manel đã ra sắc lệnh cải đạo cưỡng bức đối với tất cả người Do Thái giáo sống trên lãnh thổ Bồ Đào Nha. Và từ đây, nhánh Thiên Chúa giáo mới của người Bồ Đào Nha ra đời. 17 Chattin Những tư thương buôn bán tại Ấn Độ dương không được sự cho phép của Hoàng gia Bồ Đào Nha. 18 Chalupa Thuyền buồm 19 Chetty Đẳng cấp thương nhân khác nhau ở Nam Ấn Độ, đặc biệt là ở bang Tamil Nadu. 20 Chulia Chỉ các thương nhân Hồi giáo Tamil định cư tại duyên hải Coromandel ở Nam Ấn Độ. 21 Compagnie Royale des Indes Orientales) Công ty Hoàng gia Đông Ấn của Pháp. 22 Companhia da Índia Oriental Công ty thương mại Ấn Độ của Bồ Đào Nha được thành lập vào năm 1628. 23 Concession voyage Thuật ngữ này dùng để chỉ các chuyến tàu thương mại dưới sự kiểm soát của hoàng gia Bồ Đào Nha được bán cho tư thương theo mức giá thỏa thuận. Tư thương sẽ là người trực tiếp thu mua hàng hóa và chở về Lisbon để phân phối lại trên thị trường châu Âu. Hoàng gia Bồ Đào Nha chỉ đóng vai trò thu lợi nhuận theo đúng giá cả thỏa thuận. 24 Conselho Ultramarino Hội đồng hải ngoại Được thành lập vào năm 1642 tại Lisbon, phụ trách các vấn đề về tài chính trong hoạt động thương mại giữa Hoàng gia Bồ Đào Nha với các thuộc địa (đặc biệt là Ấn Độ) 25 Council of Trent Hội đồng thế giới lần thứ 19 của Giáo hội Rome (1545 – 1563), đề ra nội dung của việc tự cải cách và làm sáng tỏ những học thuyết gây tranh cãi với Tin Lành (Protestism). Hội đồng đóng vai trò quan trọng đem đến sự hồi sinh cho Nhà thờ Công giáo Rome ở nhiều khu vực khác nhau tại châu Âu. 26 Cruzado Là một loại tiền xu bằng vàng của người Bồ Đào Nha có khắc hình chữ thập chính giữa. Đồng xu vàng này được sử dụng bởi Afonso V (1438-1481) khi tổ chức một cuộc viễn chinh chữ thập chống lại việc xâm chiếm Constantinople của người Thổ vào năm 1453. Nó có giá trị khoảng 400 reis. Ý nghĩa của chữ cruzado trong tiếng Bồ Đào Nha có nghĩa là chữ thập - thập tự giá của vị thánh bảo trợ cho Bồ Đào Nha, St George. 27 Ducat Là một loại tiền đồng được đúc bằng vàng hoặc bạc được sử dụng trong thương mại của châu Âu từ hậu kỳ trung đại đến thế kỷ XX. Trong đó, ducat vàng của Venice được xem như tiền tệ trong giao thương quốc tế, tương tự như dollar Mỹ hiện nay. 28 Dom Được sử dụng như tước hiệu dành cho nam giới thuộc đẳng cấp quý tộc ở Bồ Đào Nha. 29 Estado da India Thuật ngữ Estado da India - liên bang Ấn Độ được dùng để chỉ về tất cả các thành phố, pháo đài và các vùng lãnh thổ mà người Bồ Đào Nha đã kiểm soát được ở châu Á và Đông Phi. Tuy nhiên, đôi khi thuật ngữ Estado còn được sử dụng với ý nghĩa rộng hơn nhiều, bao gồm tất cả các vùng ven biển và các đảo thuộc phía Đông mũi Hảo Vọng được giới hạn từ cực đông nam châu Phi đến vùng đất thấp ở cửa sông Dương Tử. Trong thực tế, cũng có một số khu vực không nằm trong phạm vi quản lý của cơ quan này (ví dụ như Macao - Trung Quốc). 30 Foot (feet ) 1 foot = 0.3048 m 31 Fidalgo Cấp bậc thấp nhất trong hệ thống đẳng cấp quý tộc của vương triều Bồ Đào Nha. 32 Fishery Coast Vùng duyên hải phía Nam Ấn Độ trải rộng dọc theo Coromandel từ Tuticorin đến Comorin 33 Foro da chao Tiền thuê đất mà người Bồ Đào Nha ở Maccao phải trả cho chính quyền Trung Quốc 34 Gaunkar Thuật ngữ này có ý nghĩa lịch sử hết sức sâu sắc. Đây là tên gọi dành cho hậu duệ trực tiếp của những người chủ sở hữu đất đai trong làng. Thuật ngữ này bắt nguồn từ một tổ chức được gọi là công xã có nghĩa là Tổ chức kinh tế xã hội nông thôn Ấn Độ cổ đại được thành lập bởi các cư dân bản địa người Ấn Độ hàng ngàn năm trước khi Bồ Đào Nha xâm nhập. Một công xã được xác định rõ ràng thông qua ranh giới đất đai giữa các làng, sự tương tác trong tôn giáo, xã hội và cách thức quản lý. Trong mỗi công xã có nhiều Gaunkar. Như vậy, ý nghĩa chính xác nhất của thuật ngữ này đó là những người đồng sở hữu đất đai và tài sản của công xã. Đất đai của công xã không được phép thế chấp, trả nợ trong bất kỳ một tình huống nào, bởi bất kỳ một cơ quan hay cá nhân nào. 35 Galleon Loại thuyền buồm lớn có tải trọng trên 1.000 tấn được trang bị đại bác, thường được các nước châu Âu sử dụng từ thế kỷ XVI đến thế kỷ XVIII. 36 Galiota Loại thuyền có tải trọng từ 300 đến 400 tấn 37 Go-shuin-sen Thương mại đường biển của người Nhật Bản được sự cho phép của Tướng quân ở biển Nam Trung Quốc vào thế kỷ XVII. 38 Guilders Là loại tiền tệ được lưu hành tại Hà Lan trước khi áp dụng đồng Euro. 1 guilder = 100 cent. 39 Guangzhou co-hong Liên minh thương nhân Quảng Đông hoặc phường hội quản lý hoạt động thương mại với các thương nhân phương Tây tại Quảng Đông trước chiến tranh Thuốc phiện lần thứ nhất (1839 - 1842). 40 Haijin Chính sách hải cấm của triều Minh thi hành ở Trung Quốc. 41 Hong hoặc co-hong Phường hội hay liên minh thương nhân Trung Quốc. 42 Hundi Hundi đầu tiên và cổ nhất còn được biết đến có từ thế kỷ XII và sau đó được nhân rộng do sự đơn giản, chi phí thấp và tính hiệu quả của nó. Từ hundi là một thuật ngữ chung có nguồn gốc từ tiếng Phạn (Sankrit) có nghĩ là “tập trung” . 43 Inforos Địa tô 44 Inter Caetera Ngày 03 và 04 tháng 5 năm 1493 Giáo hoàng Alexandre VI đã ký sắc lệnh Inter Caetera phân chia thế giới truyền giáo cho hai nước mà đường ranh là kinh tuyến 30 0 từ Bắc xuống Nam cực - đi ngang qua quần đảo Azores thuộc Bồ Đào Nha - Tây kinh tuyến từ nay thuộc Tây Ban Nha bảo trợ truyền giáo, phần này gồm cả tân thế giới (châu Mỹ). Đông kinh tuyến còn lại thuộc Bồ Đào Nha gồm châu Phi và châu Á. Riêng ở vùng Viễn Đông thì Việt Nam, Trung Quốc, Nhật Bản đều thuộc lĩnh vực truyền đạo của Bồ Đào Nha. 45 Jansenism Là phong trào Thần học Ky tô giáo được tiến hành đầu tiên tại Pháp. Phong trào bắt nguồn từ tác phẩm của nhà Thần học người Hà Lan Cornelius Jansen. Trung tâm của phong trào là nhà nguyện Port-Royal thuộc Paris. 46 Khandi Còn có tên gọi là Candil - một đơn vị dùng để tính khối lượng thường được sử dụng tại phần Ấn Độ thuộc Anh, Afghanistan, Ba Tư và Arab cũng như đế quốc Mogul. 1 candil = 20 maon (1 maon dao động từ 11 kg đến 721/2 kg). 47 Kallar và Maravar Đây là nhóm người thuộc cộng đồng Mukkulathor - cư dân bản địa sinh sống ở các thị xã trung và Nam của Tamil Nadu, Ấn Độ. Cộng đồng này phục vụ như những chiến binh hoặc chủ đất nắm quyền thống trị từ thế kỷ XVI đến thế kỷ XVIII. Họ cũng sinh sống bằng khai thác mỏ than đá và sắt 48 Kilwa Là một hòn đảo thuộc duyên hải Đông Phi, ngày nay là Tanzania. Vào thế kỷ XII, dưới thời trị vì của vương triều Abu'-Mawahib, Kilwa đã trở thành thế lực hùng mạnh nhất vùng ven biển Đông Phi. 49 Mappila Nhóm thương nhân Hồi giáo buôn bán tại Malabar. 50 Marathas Người Ấn Độ giáo cư trú tại Maharashtra thuộc trung tâm phía Tây Ấn Độ. 51 Mendicant orders Là những giáo đoàn sinh sống bằng các hoạt động từ thiện. Về nguyên tắc những giáo đoàn này không có tài sản riêng hoặc chung. Theo đó, họ đang thực hiện sứ mệnh truyền giáo bằng cách sống giản dị và sử dụng toàn bộ thời gian vào những công việc mang tính chất tôn giáo. Dòng Dominicains và Franciscains cũng thuộc vào nhóm này. 52 Metizo Những người con lai mang trong mình hai dòng máu: Á - Âu. Họ phần lớn là con cháu mà bố là người Bồ Đào Nha và mẹ là phụ nữ bản địa. 53 Moor Là một thuật ngữ trong tiếng Anh để gọi những người Hồi Giáo hiện nay đang sinh sống tại Bồ Đào Nha và Tây Ban Nha. Nguồn gốc của cộng đồng này là sự hỗn huyết giữa Arab, Tây Ban Nha và Amazigh (Berber). Người Moor đã tạo nên nền văn minh Arab Andalusian và định cư thường xuyên như là người tị nạn ở Bắc Phi giữa thế kỷ XI và XVII. Đôi khi thuật ngữ này còn được mở rộng để chỉ người Hồi giáo nói chung. 54 Nayak Có nghĩa là người cai trị. Đây là thuật ngữ được sử dụng khi vương triều Keladi Nayaka lên cầm quyền trong giai đoạn 1499 - 1763. Vào 1565, các Nayak đã xác lập quyền lực trên phạm vi lãnh thổ của đế quốc Vijayanagar trước đây. 55 Nayar Cộng đồng Hindu giáo sinh sống ở phía Nam Ấn Độ thuộc bang Kerala. 56 Nau Thuật ngữ dùng để chỉ các tàu có kích thước lớn được sử dụng trong các chuyến hải hành vượt đại dương từ thế kỷ XIII đến thế kỷ XV. 57 Naveta Loại tàu chở hàng hóa có tải trọng 300 tấn. 58 Old Goa Là một thành phố có giá trị lịch sử quan trọng nằm ở ngoại ô phía Bắc của Goa hiện nay. Thành phố này được xây dựng bởi Hồi vương Bijapur vào thế kỷ XV và trở thành kinh đô của Estado da India từ thế kỷ XVI đến XVIII. Thành phố đã được UNESCO công nhận là di sản văn hóa thế giới. 59 Oriya Họ được biết đến với nhiều tên gọi khác nhau như: Odia, Odri, Utkaliya, Kalingi, trong tiếng latin là Uri. Đây là nhóm dân tộc ở phía đông Ấn Độ theo Hindu giáo và chiếm đa số trong các bang nằm ở duyên hải phía Đông Odisha, và chiếm số lượng nhỏ tại Andhra Pradesh, Tây Bengal, Karnataka, Jharkhand và Chhattisgarh. 60 Ounce 28.35 g 61 Outvidor Thẩm phán do tổng trấn người Bồ tại Estado da India bổ nhiệm đến cư trú tại Macao trong 3 năm. 62 Pagoda Một loại tiền tệ bằng vàng hoặc một nửa vàng được sử dụng bởi các vương triều người Ấn (như Kadambas của Hangal,the Kadambas của Goa, và đế quốc Vijaynagar), cũng như Anh, Pháp và Hà Lan 63 Palaiyakkarar Là tước hiệu phong kiến của những người đứng đầu một phần lãnh thổ hoặc lãnh đạo chiến dịch quân sự được bổ nhiệm bởi người cai trị Nayaka ở Nam Ấn (thuộc vương quốc Vijayanagar, Madurai Nayakas và vương triều Kakatiya) trong suốt thế kỷ XVI - XVIII. 64 Pancada Là những quy định về giá cả được sử dụng bởi các daimyo tại Nagasaki (Nhật Bản) nhằm thu mua tơ lụa Trung Quốc theo tỷ lệ được điều chỉnh mở mức thấp nhất. Hệ thống này còn được sử dụng tại Manila 65 Pardesi Nhóm thương nhân người nước ngoài tham gia buôn bán tại duyên hải Ấn Độ gồm: người Arap, Ba Tư, Thổ Nhĩ Kỳ, Somali, Maghreb 66 Pataxo Loại tàu có tải trọng 300 đến 400 tấn 67 Peso 1 peso = 0.8 tael = 0.8 cruzado = 1.07 xerafines 68 Picol = 133 1 /2 pounds 69 Pound = 0.45359237 kg 70 Propaganda Vào ngày 6/1/1622, giáo hoàng Gregory XV đã quyết định cho ra đời Phái bộ truyền giáo đức tin (Sacred Congregation for the Propagation of the Faith). Đối với Ấn Độ, Propaganda chính thức xuất hiện thông qua một nhân vật khá nổi tiếng Matthew de Castro. Sau khi được thụ phong linh mục tại Rome, Matthew xin phép trở về quê hương với tư cách đại diện của Giáo hoàng cũng như của Propaganda có trách nhiệm quản lý đối với Thiên Chúa giáo ở Đông Ấn. Vào cuối 1633, ông trở về Goa sau 12 năm xa cách đánh dấu sự xuất hiện của Proganda tại Ấn Độ. 71 Provedor-Mor dos Defuntos e Ausentes Đây là chức vụ mà Captain-mor nắm giữ cho đến 1589 với ý nghĩa “Người quản lý những tài sản của người chết và những người vắng mặt”. Theo đó, khi một thương nhân Bồ Đào Nha tại Macao qua đời thì capitao-mor có trách nhiệm thực hiện các thủ tục pháp lý và chuyển đến Estado da India ở Goa - nơi chúng được dàn xếp để phân chia cho những người thừa kế ở Bồ Đào Nha hoặc các vùng đất khác theo di chúc 72 Quintal 100 kg 73 Raja Một thuật ngữ lịch sử xuất hiện trong kinh Vệ Đà (Rigveda) của Ấn Độ dùng để gọi người đứng đầu một gia tộc. Trước kia, các học giả thường gọi là “vua” nhưng hiện nay được dịch là “trưởng tộc”. 74 Real Một loại tiền đồng được đúc bằng bạc của người Tây Ban Nha. 75 Relação Tòa án tối cao thuộc Estado da India. 76 Renda Renda là một thuật ngữ được sử dụng để chỉ việc bán nguồn lợi của Estado da India cho người trả giá cao nhất. Thời hạn của một renda là khoảng 3 năm. Người có được renda phải có người bảo lãnh và nộp một số tiền đặt cọc trước khi ký hợp đồng. 77 Ring Nhóm thương nhân đại diện cho các daimyo ở 5 thành phố Edo, Kyoto, Osaka, Sakai và Nagasaki nắm độc quyền trong nhập khẩu tơ lụa vào Nhật Bản. 78 Sarraf Thuật ngữ dùng để chỉ những chủ ngân hàng người Bồ Đào Nha đầu tiên tại Ấn Độ 79 Senado da Camara Hội đồng thành phố 80 Sephardim Các thế hệ sau của những người Do Thái ở Bồ Đào Nha và Tây Ban Nha bị trục xuất theo sắc lệnh 1492. 81 Sofala Hiện nay thuộc tỉnh Sofala ở Mozambique. Vương quốc Sofala được ra đời vào khoảng năm 700. Người Arab và Ba Tư bắt đầu đến đây giao thương vào thế kỷ X. Pêro da Covilhã là nhà thám hiểm Bồ Đào Nha đầu tiên đặt chân đến vùng đất này vào năm 1489. Trong chuyến viễn chinh đến Ấn Độ, Da Gama đã cho tàu cập bến và tìm hiểu thông tin về địa điểm này. 82 Santa Casa da Misericordia Hội huynh đệ. Tổ chức này có trách nhiệm chăm sóc người nghèo, người bệnh và trẻ mồ côi. 83 Syriac Orthodox Church Còn được gọi là Syriac Orthodox Patriarchate of Antioch and All the East quản lý 6 nhà thờ: Coptic, Ethiopia, Eritrea, Syriac, Malankara Syrian (Nhà thờ Chính thống giáo Ấn Độ) và Nhà thờ Tông đồ Armenia. 84 Tael Đơn vị thuộc hệ thống đo lường được áp dụng chủ yếu ở vùng Viễn Đông thường được dịch là “lạng” hay “lượng” trong tiếng Việt. 1 tael ở Quảng Châu = 37.5 grams, 1 tael Thượng Hải = 33.9 g 1 tael = 1 cruzado = 1.33 xerafines 85 Taluka Là thuật ngữ Bồ Đào Nha sử dụng để chỉ 12 đơn vị hành chính dưới Goa. Trong thời kỳ cai trị của Bồ Đào Nha, Goa được chia làm 2 khu vực: Bắc Goa và Nam Goa với 12 taluka: Bardez, Bicholim, Pernem, Ponda, Sattari, Tiswadi, Dharbandora, Canacona, Mormugao, Salcette, Sanguem, Quepem. 86 Tangas = 60 reis 87 Treaty of Amiens 1 Được ký kết vào ngày 27/3/1802 giữa Anh, Pháp, Tây Ban Nha và Cộng hòa Batavia (Hà Lan) chấp nhận duy trì nền hòa bình tại châu Âu trong 14 tháng suốt cuộc chiến tranh Napoleon. Theo đó, quyền lực và lãnh thổ của Bồ Đào Nha phải được tôn trọng, ngoại trừ việc Pháp tiếp nhận Guinea thuộc Bồ Đào Nha. 88 Tordesillas Hòa ước này được ký kết vào ngày 7/6/1494 nhằm giải quyết những tranh chấp giữa Bồ Đào Nha và Tây Ban Nha sau chuyến phát kiến địa lý của Christopher Columbus (1492). Theo hiệp ước này, thế giới được phân định bằng đường kinh tuyến tưởng tượng kéo dài từ Nam đến Bắc cách quần đảo Cape Verde 370 hải lý (1.770 km) về phía Tây. Như vậy, vương quốc Castille cùng quần đảo Canaries thuộc về triều đình Tây Ban Nha, còn các đảo Madeira, Porto Santo, quần đảo Azores, Cape Verde cũng như quyền chinh phục vương quốc Fez hoặc Fès (Maroc) và quyền đi lại bằng đường biển ở phía Nam đường vĩ tuyến chạy qua quần đảo Canaries thuộc về triều đình Bồ Đào Nha. Vùng đất Brazil được khám phá trước khi hiệp ước này được ký kết, vì thế nó thuộc chủ quyền của Bồ Đào Nha 89 Xerafines Đồng bạc được sử dụng trong phần lãnh thổ Ấn Độ thuộc Bồ Đào Nha. 1 xerafim = 300 reis 90 Zamorin Là tước hiệu hoàng gia của những tiểu vương Hindu giáo trong thời trung đại ở Calicut trên duyên hải Malabar Coast (hiện nay là Kerala). Zamorin cai trị trong 6 thế kỷ (XII -s XVIII) với kinh đô tại Calicut, một trung tâm thương mại quan trọng phía Nam Ấn Độ. 91 Wako Cướp biển người Nhật Bản, hoạt động tại bờ biển Trung Quốc và Nhật Bản từ thế kỷ XIII đến thế kỷ XVII. Tuy nhiên, thành phần tham gia mạng lưới này còn có cả người Trung Quốc, Triều Tiên, Đông Nam Á 92 Vedoria da fazenda Ủy ban quản lý ngân khố thuộc Estado da India 93 Vedor da fazenda Nhân viên quản lý ngân khố thuộc Estado da India 1 A. MỞ ĐẦU 1. Lý do chọn đề tài Phát kiến địa lý là một những thành tựu vĩ đại trong lịch sử nhân loại, “một cuộc cách mạng thật sự” trong lĩnh vực giao thông và tri thức. Với tư cách là quốc gia tiên phong của kỷ nguyên khám phá (Discovery Age), Bồ Đào Nha đã góp phần khai mở những trang sử đầu tiên của chủ nghĩa thực dân phương Tây khi thiết lập hệ thống thương điếm trải dài từ duyên hải Tây Phi đến tận vùng Viễn Đông xa xôi1 và kiến tạo đế quốc mậu dịch hàng hải đầu tiên trong thời cận đại - Estado da India. Như vậy, đây không chỉ là bước ngoặt trong lịch sử Bồ Đào Nha mà còn là thời kỳ chuyển mình mạnh mẽ dẫn đến những thay đổi bản chất trong quan hệ giữa phương Đông và phương Tây. Trong mạng lưới nhượng địa của Bồ Đào Nha trên toàn châu Á, các thương điếm ven biển Ấn Độ và Trung Quốc đóng vai trò nổi bật, không thể thay thế. Vốn xem thương mại là trọng tâm và hoạt động với mục đích thiết lập nền thương mại “nhân đôi” nên Bồ Đào Nha đã duy trì một lúc hai tuyến giao thương: ngoại tuyến và nội tuyến, với các mối quan hệ chồng chéo vô cùng phức tạp. Thế nhưng, những thương điếm như Cochin, Goa, Malacca và Macao...lại được kết nối vô cùng linh hoạt, vận động nhịp nhàng trong một mạng lưới thương mại mang tính quốc tế đầu tiên của thời kỳ cận đại. Vì thế, thông qua việc phục dựng tương đối chân xác diện mạo của giai đoạn lịch sử để lại nhiều dấu ấn, luận án còn đi sâu phân tích để rút ra đặc điểm của đế quốc Bồ Đào Nha tại Ấn Độ và Trung Quốc (trong sự đối sánh với một số đế quốc tư bản chủ nghĩa thời bấy giờ như Hà Lan, Anh). Bên cạnh đó, mặc dù có cùng cơ chế quản lý và nhiều nét tương đồng trong quá trình phát triển nhưng hệ thống thương điếm của Bồ Đào Nha tại Ấn Độ và Trung Quốc vẫn tồn tại ít nhiều dị biệt. Khác với thương mại tại Ấn Độ, ở Trung Quốc, Bồ Đào Nha không dùng vũ lực để xâm chiếm đất đai, xây dựng pháo đài, kiểm soát thương mại mà một phương thức mềm mỏng hơn đã được lựa chọn để xâm nhập vùng đất này: chấp nhận vị trí trung gian, kết nối tuyến giao thương giữa Trung Quốc và Nhật Bản. Đặc trưng của thương nhân Bồ Đào Nha tại Macao là triển khai một phương thức thương mại biển tương đối ôn hòa, không chịu nhiều sự chi phối của Estado da India. Sự tương đồng và dị biệt của hai mạng lưới thương điếm có cùng chủ sở hữu này không những có ý nghĩa khoa học đầy lý thú mà còn để lại nhiều bài học quý giá cho lịch sử. Sự song hành giữa thương mại và truyền giáo trong quá trình hoạt động của Bồ Đào Nha tại Ấn Độ, Trung Quốc được các học giả ví von như “đôi cánh của một con 1 Các hải cảng của Nhật Bản được xem là điểm cuối trong chuỗi hệ thống thương điếm của đế quốc mậu dịch Bồ Đào Nha 2 chim”. Nếu trong thương mại, lách qua “khe cửa hẹp” của thể chế độc quyền, các tư thương đã đóng vai trò quan trọng trong hầu hết các khâu của quá trình thu mua - vận chuyển - bán hàng hóa thì trong lĩnh vực truyền giáo, tất cả hoạt động của các giáo đoàn đều chịu sự chi phối của vua Bồ Đào Nha (theo những sắc chỉ được ký kết và ban hành bởi Giáo hoàng tại Rome). Trong gần một thế kỷ, ba giáo phận Goa, Malacca và Macao lần lượt ra đời đánh dấu thành tựu trong hoạt động truyền giáo của các giáo đoàn Bồ Đào Nha. Nếu ở Ấn Độ, quá trình truyền giáo được tiến hành khá thuận lợi thông qua việc sử dụng vũ lực cưỡng ép người dân bản địa phải cải đạo thì các linh mục Dòng Tên phải rất vất vả để xâm nhập vào Trung Quốc. Một nhà nước tập quyền vững mạnh với nền văn hóa chịu ảnh hưởng đậm nét của học thuyết Nho giáo đã buộc các linh mục Bồ Đào Nha phải thay đổi một phần cách thức truyền đạo. Đây là vấn đề gây tranh cãi trong thời gian dài giữa các linh mục Dòng Tên Trung Quốc với Giáo hội Rome. Vì vậy, tìm hiểu về hoạt động truyền giáo của Bồ Đào Nha tại Ấn Độ và Trung Quốc còn cho chúng ta thấy sự thích ứng của tôn giáo đối với các nền văn hóa, các thể chế chính trị khác nhau như thế nào. Tuy nhiên, hiện nay nghiên cứu về đế quốc mậu dịch Bồ Đào Nha cũng như hoạt động thương mại và truyền giáo của nó ở Ấn Độ, Trung Quốc vẫn còn là mảng trống. Trong các chương trình đào tạo cử nhân Lịch sử, thạc sĩ Lịch sử thế giới, nhận thức của sinh viên về quá trình xác lập quyền lực thương mại biển của Bồ Đào Nha còn khá chung chung. Những hiểu biết về vai trò của các linh mục Bồ Đào Nha tại Trung Quốc và Ấn Độ cũng hết sức mờ nhạt. Từ những lý do trên, chúng tôi mạnh dạn chọn vấn đề “Hoạt động thương mại và truyền giáo của Bồ Đào Nha tại Ấn Độ, Trung Quốc (thế kỷ XVI - thế kỷ XIX)” làm đề tài cho luận án Tiến sĩ, chuyên ngành Lịch sử thế giới. 2. Lịch sử nghiên cứu vấn đề 2.1. Thực trạng nghiên cứu vấn đề trong nước Việc Bồ Đào Nha khai mở thành công con đường biển đến châu Á và thiết lập được hệ thống cứ điểm thương mại và truyền giáo tại Ấn Độ, Trung Quốc là một trong những bước ngoặt quan trọng của lịch sử nhân loại. Thế nhưng cho đến nay, vấn đề này vẫn chỉ được trình bày m...ùa: “Sự hình thành dải khí áp thấp và cao mở rộng từ đường Xích đạo đến dãy Himalaya cùng với sự chuyển dịch thường xuyên của điều kiện thời tiết từ tốt đến mưa nặng hạt, từ gió nhẹ đến gió mạnh đã góp phần hình thành nền mậu dịch biển phụ thuộc rất lớn vào kinh nghiệm của thủy thủ. Gió mùa là thành phần của vòng tuần hoàn trong tự nhiên, năm dương lịch là giai đoạn của chu kỳ đơn lẻ mà trong đó hai điểm xuân phân, thu 15 phân vào tháng 3 và tháng 9 đã góp phần tạo ra sự biệt lập giữa vùng có áp suất thấp với vùng áp suất cao kéo dài” [53; 23]. Vì vậy, mạng lưới hải cảng Ấn Độ - với vị trí địa lý và điều kiện tự nhiên thuận lợi2 đã trở thành các trạm dừng nghỉ tiếp tế lương thực trên tuyến thương mại giữa Tây Á và Trung Quốc với đầy đủ các yếu tố về cơ sở vật chất như khu vực neo đậu tàu thuyền, chỗ ở, ngân hàng, kho chứa hàng hóa Bên cạnh đó, vai trò chìa khóa của Ấn Độ trong thương mại nội Á còn được thể hiện qua hoạt động của các nhóm thương nhân người Ấn như Chetty3, Chulia4, tầng lớp tư thương định cư ở duyên hải Coromandel, Oriya5 và Bengali6. Nhưng, trong đó “Gujarat mới là nhóm thương nhân quan trọng nhất trong tuyến thương mại liên hải cảng. Họ không chỉ buôn bán vải sợi, cây chàm, thuốc phiện mà cả những chủng loại hàng hóa khác đặc biệt là tơ lụa” [85; 10]. Đến thế kỷ XV, khi các đối thủ cạnh tranh có những toan tính riêng7, thì thương nhân Ấn Độ chính thức trở thành thế lực thống trị Ấn Độ dương với hai khu vực chính là Tây Ấn Độ và vịnh Bengal8. Thương mại Ấn Độ dương thời kỳ này có những đặc điểm nổi bật sau: Thứ nhất, thương mại của khu vực còn mang tính chất tự nhiên, tuy có sử dụng tiền tệ nhưng chưa phổ biến. Phần lớn các thị xã ven biển (bao gồm cả Đông Phi) vẫn sử dụng tiền mệnh giá thấp (tạm gọi như vậy) như tiền vỏ ốc cho các cuộc giao dịch nhỏ. Vàng và bạc nén cũng được giao thương nhưng chỉ đóng vai trò là hàng hóa xa xỉ phẩm phục vụ cho giới quý tộc hơn là phương tiện giao dịch. 2 Vai trò quan trọng của mạng lưới hải cảng Ấn Độ đối với thương mại châu Á được lý giải một phần bởi vị trí nằm ở trung điểm trong tuyến đường biển đi từ Tây Á đến Đông - Đông Nam Á. Nhưng quan trọng hơn là khả năng cung ứng của tiểu lục địa (Ấn Độ) cho thị trường nguồn tơ lụa với nhiều chủng loại như vải muslin Dhaka và lụa ren của Gujarat, sợi bông thô Coromandel và Gujarat. Nhu cầu của thị trường đối với hàng hóa trên là cực kỳ cao cả ở phía Đông Indonesia, Malaya, Thailand và Myanmar (Miến Điện), cũng như tại Biển Đỏ, vịnh Ba Tư và Đông Phi. Ấn Độ được xem như “trung tâm tơ lụa” kết nối giao thương với cả Tây Á và Đông Nam Á. Không những thế, gạo, đường, dầu, ngũ cốc cũng là mặt hàng xuất khẩu quan trọng của tiểu lục địa. Do điều kiện thời tiết, đất đai và tự nhiên, Ấn Độ cần những mặt hàng như: đinh hương, hạt và vỏ nhục đậu khấu từ Indonesia, ngựa và nước hoa hồng từ Tây Á, hồng ngọc và đá quý từ Miến Điện cũng như kim loại quý hiếm hoặc kim loại phổ biến. Sự trao đổi qua lại các mặt hàng xuất và nhập khẩu tạo nên bức tranh sinh động, nhộn nhịp cho giao thương ven bờ Ấn Độ Dương. 3 Chetty hay Chettiar, là một thuật ngữ được sử dụng để chỉ các đẳng cấp thương nhân khác nhau ở Nam Ấn Độ, đặc biệt là ở bang Tamil Nadu. 4 Chỉ các thương nhân Hồi giáo Tamil định cư tại duyên hải Coromandel ở Nam Ấn Độ. 5 Họ được biết đến với nhiều tên gọi khác nhau như: Odia, Odri, Utkaliya, Kalingi, trong tiếng latin là Uri. Đây là nhóm dân tộc ở phía đông Ấn Độ theo Hindu giáo và chiếm đa số trong các bang nằm ở duyên hải phía Đông Odisha, và chiếm số lượng nhỏ tại Andhra Pradesh, Tây Bengal, Karnataka, Jharkhand và Chhattisgarh. 6 Là nhóm dân tộc thiểu số bản địa sinh sống tại Bengal (hiện nay về phương diện chính trị, khu vực này được phân chia nằm ở hai quốc gia Bangladesh và Ấn Độ). Về chủng tộc, họ là sự hỗn huyết giữa người Aryan và người Mongoloid. 7 Thương nhân Trung Quốc quan tâm đến tuyến thương mại Trung Quốc - Malacca, thương nhân Indonesia và Malaysia không muốn mạo hiểm buôn bán ngoài khu vực quần đảo Indo và Malay. 8 Phía Tây, liên kết thông qua Biển Đỏ và vịnh Ba Tư, theo đường bộ đến bờ biển phía Nam của Địa Trung Hải. Vịnh Bengal thì mở rộng thông qua eo Malacca đến phía Nam Trung Quốc và sau đó lên đến Nhật Bản. 16 Thứ hai, tính liên kết trong thương mại ở khu vực này còn chưa rõ nét mặc dù mức độ tập trung hàng hóa của từng chủng loại đã hình thành. Đến đầu thế kỷ XVI, người Bồ Đào Nha khám phá một thực tế, tại Ấn Độ Dương, chất lượng từng nhóm mặt hàng phải gắn liền với một vùng đất hoặc một dân tộc nhất định. Ví dụ, quế chỉ có ở Sri Lanka, ngựa đến từ Arabia và vàng đến từ Sofala ở Đông Phi. Đinh hương thì phát triển chủ yếu ở những hòn đảo nhỏ của Moluccas và đặc biệt hạt tiêu tập trung ở Malabar hoặc Sumatra. Đồ sứ thì không nơi đâu đạt được chất lượng tuyệt hảo như Trung Quốc hoặc ở khu vực có người Trung Quốc sinh sống. Thậm chí vải sợi thì phải được xuất phát từ Gujarat ở tây bắc Ấn Độ hoặc Coromandel. Nguyên nhân dẫn đến sự tập trung hóa ở mức độ cao này có lẽ đến từ điều kiện thời tiết và các nhân tố thuộc về địa lý. Tuy nhiên, sự phát triển của nền kinh tế khu vực cũng là nguyên nhân quan trọng. Việc tập trung hóa ở mức độ cao sẽ cho ra sản phẩm có chất lượng, bán được giá và dễ dàng được chấp nhận trên thị trường thế giới. Thứ ba, tầng lớp thương nhân tham gia thương mại Ấn Độ Dương là thành viên của những cộng đồng mang tính chất tương đối biệt lập được kết nối với nhau thông qua quan hệ họ hàng, nguồn gốc xuất thân và đôi khi là tôn giáo. Tại hầu hết hải cảng ở phương Đông, cộng đồng Ấn Độ giáo, Jains, Do Thái giáo, Armenia, Hồi giáo thường sống ở những khu vực cách biệt nhau và tự chọn người lãnh đạo. Mặc dù, họ phải đóng nhiều loại thuế cho người cai trị ở các hải cảng nhưng được tự do chọn lựa cách thức quản lý. Tính chất đóng kín của các cộng đồng thương mại này khiến cho người bên ngoài rất khó để xâm nhập vào. Cuối cùng là sự tồn tại một cách tương đối độc lập của các tiểu quốc, thành phố thương mại (city-state, thị quốc) vùng duyên hải Ấn Độ Dương trong mối quan hệ với lực lượng thống trị nội địa. Điều đó khiến cho quá trình phát triển của nó ít nhiều thiếu ổn định (khác với các cộng đồng thương nhân phía trên). Bối cảnh trên đây có ảnh hưởng không nhỏ đến quá trình xâm nhập của Bồ Đào Nha vào mạng lưới giao thương Ấn Độ Dương như Jan Glete nhận xét: “Thương mại tại Ấn Độ Dương rộng mở cho tất cả mọi người, những người có khả năng dùng tiền tệ để thu mua hàng hóa, kết hợp với các thủ đoạn ngoại giao và nguồn tư bản (một phần đến từ các nhà đầu tư Genoe và Florence). Đặc tính của nền thương mại này cũng cho thấy nếu Bồ Đào Nha biết kiềm chế những hành động chống lại thương nhân Hồi giáo thì họ có thể tạo ra một nền thương mại biển hòa bình” [67; 77]. * Những thương điếm đầu tiên của Bồ Đào Nha ở Ấn Độ (1500-1510) 17 Trong bối cảnh thương mại Ấn Độ Dương như vậy, Bồ Đào Nha đã sử dụng nhiều cách thức khác nhau để thiết lập những đại lý thương mại đầu tiên nằm ven biển Ấn Độ và vịnh Bengal. Sau chuyến viễn chinh của Vasco da Gama (1460-1524), Hoàng gia Bồ Đào Nha đẩy mạnh hơn nữa quá trình xâm chiếm và thiết lập thuộc địa tại Ấn Độ Dương. Vào 3/1500, một hạm đội lớn được phái đến Ấn Độ dưới sự chỉ huy của quý tộc triều đình Bồ Đào Nha - Pedro Alvares Cabral9 (1468-1520). Vòng theo tuyến qua mũi Hảo Vọng nhưng một chút sai lệch về phía Tây khiến họ đến bờ phía Đông của Nam Mỹ vào tháng 5/1500. Vui mừng về khám phá này, Cabral tuyên bố chủ quyền của Bồ Đào Nha và đặt tên vùng đất là Land of the True Cross (Brazil sau này). Tiếp tục cuộc hành trình, họ cập bến Madagascar, Sofala10 và Kilwa11 - trung tâm thương mại vàng ở Đông Phi. Hạm đội cũng ghé thăm Mozambique và Malindi (Kenya hiện nay) trước khi đến Calicut vào tháng 9/1500. Toàn bộ chuyến đi mất gần 6 tháng, một khoảng thời gian ngắn hơn rất nhiều so với chuyến khám phá 12 tháng của da Gama. Ban đầu, Raja12 Samudri cho phép Cabral xây dựng đại lý thương mại trên vùng đất của ông ấy. Tuy nhiên, sau đó, do những hiểu lầm từ hai phía, Cabral đã tiến hành pháo kích Calicut trước khi cho thuyền đến Cochin và Cannanur. Cochin là tiểu quốc đầu tiên của người Ấn đồng ý để Bồ Đào Nha thiết lập pháo đài cùng lực lượng đồn trú khoảng 30 người và 4 linh mục. Do vị trí quan trọng của Calicut trong thương mại hạt tiêu Ấn Độ dương, vua Bồ Đào Nha quyết tâm xâm chiếm cứ điểm này vào tháng 3/1502. “Một điều chắc chắn rằng Bồ Đào Nha đến Ấn Độ lần này với nhiều mục đích khác nhau. Đầu tiên là để trả thù cho những nhân viên quản lý và thủy thủ bị giết chết ở Calicut một năm trước đó. Sau đó là độc chiếm mạng lưới buôn bán gia vị ở duyên hải Malabar vào tay Hoàng gia Bồ Đào Nha” [59; 223]. Ngay khi đến Calicut, da Gama đích thân chỉ huy 10 chiếc thuyền lớn tổ chức thành bộ phận chủ lực đánh thẳng vào cảng biển. Bằng chiến thuật hải quân linh hoạt và kỹ thuật pháo binh tiên tiến, ngày 30/10/1502, hạm đội Bồ Đào Nha giành quyền kiểm soát thành phố. Calicut trở thành thương điếm 9 Có nhiều nhà nghiên cứu cho rằng ông là người châu Âu đầu tiên đặt chân đến Brazil. Tuy nhiên, đây là một sự nhầm lẫn của lịch sử, Vicente Yáñez Pinzón, một trong những thủ thủy đồng hàng với Columbus đã đến được duyên hải Brazil (giữa Recife và Fortaleza) vào tháng 1 năm 1500. 10 Hiện nay thuộc tỉnh Sofala ở Mozambique. Vương quốc Sofala được ra đời vào khoảng năm 700. Người Arab và Ba Tư bắt đầu đến đây giao thương vào thế kỷ X. Pêro da Covilhã là nhà thám hiểm Bồ Đào Nha đầu tiên đặt chân đến vùng đất này vào năm 1489. Trong chuyến viễn chinh đến Ấn Độ, Da Gama đã cho tàu cập bến và tìm hiểu thông tin về địa điểm này. 11 Kilwa: Là một hòn đảo thuộc duyên hải Đông Phi, ngày nay là Tanzania. Vào thế kỷ XII, dưới thời trị vì của vương triều Abu'-Mawahib, Kilwa đã trở thành thế lực hùng mạnh nhất vùng ven Biển Đông Phi. 12 Một thuật ngữ lịch sử xuất hiện trong kinh Vệ Đà (Rigveda) của Ấn Độ dùng để gọi người đứng đầu một gia tộc. Trước kia, các học giả thường gọi là “vua” nhưng hiện nay được dịch là “trưởng tộc” 18 đầu tiên của Bồ Đào Nha tại Ấn Độ. Xuôi theo duyên hải phía Tây Ấn Độ, da Gama cho thuyền đến Cochin và Cannanur để củng cố mối quan hệ với các Raja địa phương. Da Gama trở về Lisbon trên chiếc tàu “nặng trĩu gia vị và hàng hóa cướp bóc. Ông để lại 5 tàu chiến cạnh Cannanur với mục đích tấn công các chuyến tàu của người Hồi giáo. Lực lượng đồn trú nhỏ này không chỉ mở đầu cho sự hiện diện lâu dài của hải quân châu Âu tại Ấn Độ dương mà còn đánh dấu sự xâm nhập của chủ nghĩa thực dân phương Tây trên toàn châu Á” [74; 25]. Từ năm 1502 đến năm 1505, hạm đội này phải chống lại các cuộc tấn công liên tục của tiểu vương (Zamorin) Calicut. Cuối cùng, sau chiến thắng quyết định trước lực lượng Calicut, Bồ Đào Nha quyết định xây dựng pháo đài bằng đá với lực lượng quân đội đồn trú được bổ sung hàng năm. Từ hai cứ điểm duyên hải Tây Ấn Độ, Bồ Đào Nha đẩy mạnh quá trình xâm nhập Ấn Độ dương theo hai hướng. Tại vịnh Bengal, năm 1505, Dom Lourenço de Almeida (1480-1508) chỉ huy một hạm đội bất ngờ đến bờ biển của một hòn đảo gần Galle (thuộc Ceylon), xây dựng một nhà nguyện và một đại lý thương mại tại Colombo. Trong khi đó, ở hướng Biển Đỏ, sự bành trướng gặp khá nhiều khó khăn và thất bại do phản ứng mạnh mẽ của Hồi vương Ormuz. Vì thế, sau khi đảm nhận chức vụ Phó vương Estado da India, Dom Afonso de Albuquerque (1453-1515) quyết định đánh chiếm Goa - một vị trí chiến lược trên tuyến thương mại biển mới. Việc xâm chiếm Goa (cũng như Malacca sau này) nằm trong kế hoạch của Albuquerque nhằm xây dựng đế chế thương mại hàng hải của Bồ Đào Nha tại châu Á. Sự khác biệt trong quan điểm chiến lược giữa hai vị phó vương thể hiện khá rõ nét: mục đích của Francisco de Almeida (1450-1510) là giành quyền làm chủ nền thương mại tại bờ biển Malabar với quan điểm “nếu không có quyền làm chủ trên biển cả thì những pháo đài trong đất liền chỉ là hư danh” [74; 26]. Trong khi đó, Phó vương Dom13 Afonso de Albuquerque (1453 - 1515) lại cho rằng: “để giành được ưu thế về thương mại ở Ấn Độ Dương thì điều nhất thiết là phải chiếm và kiểm soát được các vị trí chiến lược chủ yếu và thúc đẩy hoạt động buôn bán có thể cung cấp thu nhập đủ để duy trì sức mạnh không gì cưỡng lại được” [7; 377]. Sau quá trình kháng cự vô cùng mãnh liệt của Goa, vào ngày 25/11/1510, binh lính Bồ Đào Nha đã chính thức tiếp nhận thành, đánh dấu sự kiện mở đầu kỷ nguyên của đế quốc mậu dịch ven biển Bồ Đào Nha trong lịch sử. Như vậy, đến đầu thế kỷ XVI, Bồ Đào Nha đã xác lập được 2 thương điếm quan trọng nhất (Diu và Goa) trong số 4 mục tiêu chiến lược tại Ấn Độ và vịnh Ba Tư như 13 Được sử dụng như tước hiệu dành cho nam giới thuộc đẳng cấp quý tộc ở Bồ Đào Nha. 19 vua Manuel (1469-1521) từng kỳ vọng “phải chiếm Aden để giành quyền thống trị tại eo Mecca trước khi Hồi vương kịp ngăn cản, chiếm lấy Hormuz để kiểm soát hoàn toàn eo Bacora, chiếm đóng Goa và Diu làm căn cứ để bành trướng đến các vùng đất khác ở Ấn Độ” [57; 24]. Đây là cơ sở quan trọng dẫn đến sự ra đời của Estado da India, nhà nước thuộc địa đầu tiên của Bồ Đào Nha tại phương Đông. 1.1.1.2. Sự hình thành Casa da India và Estado da India * Casa da India Cho đến chuyến hải hành của Cabral (1500), hầu hết mọi hoạt động khai phá vùng đất mới đều do nhà vua bảo trợ về tài chính. Nếu tư nhân muốn tham gia thì cần có giấy phép của chính quyền trung ương. Thế nhưng, khi những tư thương Italia ngày càng đóng vai trò quan trọng trong việc cung ứng vốn thì Hoàng gia Bồ càng nhận ra sự cần thiết phải ban hành một thể chế quản lý hệ thống tàu thuyền cập bến để tránh những thất thoát tài chính. Tiền thân của thể chế này là Casa da Cueta được thành lập từ năm 1434 với nhiệm vụ quản lý các vấn đề của đại lý Hoàng gia tại Elmina và vương quốc Kongo. Trong Casa de Ceuta, Casa dos Escravos là bộ phận đặc biệt được tạo ra với nhiệm vụ: tiến hành buôn bán nô lệ dựa trên danh nghĩa Hoàng gia, cấp giấy phép cho tư thương buôn nô lệ và đánh thuế dựa trên số nô lệ họ mua. Casa phát triển nhất là Casa de Mina e Guine ở Lagos - phía nam Bồ Đào Nha nằm dưới quyền sở hữu của Hoàng tử Henry “nhà hàng hải” với chức năng chính là đánh thuế các thương nhân buôn bán tại châu Phi. Đến năm 1481, vua Joao II (1481-1495) nắm quyền kiểm soát Casa và chuyển trụ sở của nó đến Lisbon. Sau chuyến viễn chinh của Vasco da Gama (1497-1499), tên của thể chế này được thay đổi một lần nữa thành Casa da India e Mina. Đến đầu thế kỷ XVI (1501), khi các thương điếm của Bồ ở ven bờ Tây Ấn, vịnh Bengal được thành lập thì Casa được đặt tên mới là Casa da Índia e da Guiné. Đến 1506, Casa lại bị phân chia thành hai đơn vị, trong đó Casa da India được tiếp nhận chính thức quản lý thương mại giữa Lisbon với các hải cảng châu Á nằm trong độc quyền thương mại của đế chế Bồ. Đây được xem là một tổ chức quan trọng của nhà nước và là cánh tay đắc lực của chế độ quân chủ chuyên chế dưới triều đại Manuel (1469-1521). Casa có trách nhiệm cung ứng tiền và chi trả cho các hạm đội, thuê thủy thủ và giữ hồ sơ đăng ký của tất cả cá nhân lên tàu đến phương Đông. Bên cạnh đó, trách nhiệm của Casa được mở rộng trong lĩnh vực định giá hàng hóa, bán những hàng hóa được vận chuyển trở lại từ Ấn Độ đến Lisbon và xử lý vấn đề tài chính. Đây thực sự được xem là thể chế kinh doanh mang tính chất toàn cầu đầu tiên trên thế giới. 20 Cơ cấu tổ chức của Casa thời kỳ đầu tương đối đơn giản gồm 1 thủ quỹ, 3 thư ký và một số lượng lớn lực lượng bảo vệ, phu quân vác, người gác cổng và một vài nhân viên khác. Đến cuối thế kỷ XVI, khi hàng hóa từ châu Á đến Lisbon tăng nhanh (đặc biệt là thực phẩm), quân số của Casa được mở rộng với một vài người có chuyên môn đặc biệt để định giá đá quý, ngọc và thuốc. Những người quản lý thay mặt nhà vua kiểm tra việc bán hạt tiêu, các gia vị khác và những mặt hàng gia dụng mua được ở châu Á, quản lý việc chuyên chở của carrack14, kiểm tra hàng lậu và việc trả lương cho thủy thủ. Họ chịu trách nhiệm nhận, cất giữ trong kho, kiểm tra hàng nhập khẩu và hàng xuất khẩu từ châu Á cho khách hàng và trả tiền công chuyên chở khối lượng hàng hóa đó. Họ quản lý sổ sách của tất cả các chuyến tàu đến châu Á cũng như của từng cá nhân trên các thuyền buôn đến châu lục này.Vì vậy, mặc dù Casa da India không trực tiếp xuất hiện tại Ấn Độ nhưng là cơ quan cao cấp trong giao thương giữa các thương điếm ven biển Ấn Độ với Bồ Đào Nha. [48; 3] Từ trong Casa da India, một số thể chế thương mại mới cũng xuất hiện để đảm bảo cho hoạt động thông suốt của thương nhân Bồ Đào Nha tại các cứ điểm ven biển Ấn Độ Dương như Carreira da India15 hoặc Armazem da India16... . * Estado da India Mặc dù lợi nhuận thu được từ thương mại biển không ít nhưng Hoàng gia Bồ luôn phải đối diện với cơn khủng hoảng tài chính. Đầu năm 1500, Dom Manuel tuyên bố bất kỳ thương nhân nào gửi một chiếc tàu đến Ấn Độ sẽ nhận được 25% giá trị hàng hóa chuyên chở trên tàu trở về Lisbon. Chính sách này thúc đẩy việc ra đời các syndicate của thương nhân Florentine và Genoe. Sự cạnh tranh ngày càng mạnh mẽ của thế lực tư nhân nước ngoài trong thương mại giữa Bồ Đào Nha và phương Đông khiến Manuel cảm thấy ngày càng khó chịu. Đỉnh điểm là năm 1501 khi thương thuyền của tư nhân lại cập bến Lisbon trước hạm đội Hoàng gia do Nicolas Coelho chỉ huy. Sự phụ thuộc của Hoàng gia 14 Loại tàu lớn có 3 hoặc 4 cánh buồm vuông, được sử dụng trong giao thương Á – Âu của người Bồ Đào Nha vào thế kỷ XV, XVI 15 Là những hạm đội tàu được tổ chức bởi Hoàng gia Bồ Đào Nha và khởi hành hàng năm từ Lisbon đến Ấn Độ (chủ yếu là Goa) theo tuyến thương mại qua mũi Hảo Vọng. Theo ước tính, trong khoảng thời gian từ 1497 đến 1650, có khoảng 1.033 chuyến tàu khởi hành từ Lisbon đến Goa. 16 Thực chất là kho vũ khí được xây dựng đầu tiên tại hải cảng Lisbon. Bộ phận quản lý của Armazem bao gồm một giám đốc, một thủ quỹ và một vài thư ký, một số ít thợ thủ công, công nhân, thợ mộc những người được thuê để đáp ứng cho những yêu cầu của vận chuyển hàng hóa bằng đường biển. Những kho hàng chứa hàng của nó luôn có đại bác và số lượng lính canh gác thường xuyên, hàng hóa hải quân, gỗ, cung ứng cho các chuyến hải hành đến Ấn Độ. Tại Ribeira Armazem sản xuất rất nhiều thuyền carrack lớn và các thuyền nhỏ phục vụ cho thương mại hàng hải đến châu Á. Văn phòng Armazem còn thiết lập quan hệ với những thương nhân, những người cung ứng vũ khí, đồ sứ, rượu và những hàng hóa khác cho các chuyến hải hành của carrack đến Ấn Độ và đồng bạc để thu mua hạt tiêu và gia vị đến châu Á. Trụ sở của Armazem tại Ấn Độ là Goa. [48; 4] 21 Bồ Đào Nha vào nguồn tư bản bên ngoài được thể hiện rõ nét qua chuyến viễn chinh đến Ấn Độ do Francisco de Almeida (1450-1510)17 lãnh đạo vào năm 1505. Tổng chi phí cho chuyến đi này ước tính khoảng 250.000 cruzado18, chiếm ¾ thu nhập của nhà vua/năm. Hơn ½ trong số này phải huy động từ tư thương Đức và Italia. Tuy nhiên, phí tổn trong giao thương với Ấn Độ không chỉ nằm ở khía cạnh trang bị cho các hạm đội mà còn cần bạc, đồng và chì để mua hạt tiêu. Trong khi đó, lực lượng đồn trú Bồ Đào Nha tại Calicut phải thường xuyên chống chọi một cách bất lực trước những cuộc tấn công của Zamorin. Điều này khiến vua Dom Manuel nhận thấy cần phải thiết lập sự hiện diện lâu dài của hải quân Bồ Đào Nha nhằm kiểm soát thương mại gia vị tại Ấn Độ dương. Năm 1502, vua Manuel cho phép một hạm đội được ở lại Ấn Độ để bảo vệ các cứ điểm. Nhưng quyết định này trong thực tế không mang lại hiệu quả do lực lượng quá mỏng lại dàn trải trên phạm vi không gian rộng lớn. Vấn đề ngày càng nghiêm trọng khi thuyền viên không có bất kỳ căn cứ an toàn nào để nghỉ ngơi, mua lương thực tươi sống sau chuyến viễn chinh dài đến Ấn Độ. Thậm chí việc liên lạc giữa các tàu, thanh toán cho thuyền viên, binh lính, duy trì lòng trung thành của họ cũng là vấn đề cấp bách. Vì vậy, việc ra đời một cơ sở vĩnh viễn tại Ấn Độ là cần thiết cho sự mở rộng thương mại trên toàn châu Á. Quyết định thành lập Estado da India vào năm 1505 không những là phản ứng của vương triều Bồ Đào Nha trước sức ép đến từ các địch thủ thương mại mà còn là một tiền lệ chưa từng có trong lịch sử Bồ Đào Nha. Mục đích của vương triều Bồ Đào Nha khi thành lập thể chế này là: “chiến tranh với người Moor19 và buôn bán với những kẻ ngoại đạo” [84; 67]. Phân tích một cách cụ thể thì cấu trúc nhà nước độc đáo này ra đời để đảm bảo quyền kiểm soát thương mại hạt tiêu từ Malabar, dựa vào sức mạnh hải quân đẩy nhanh quá trình xâm nhập vào thị trường hạt tiêu thông qua việc kiểm soát thương mại vàng ở Đông Phi. Về mặt lý thuyết: nhà vua bổ nhiệm quản lý tại các hải cảng để thu mua hạt tiêu theo giá cả thỏa thuận với người cai trị địa phương. Hạt tiêu được trả bằng bạc và đồng nếu gửi đến châu Âu và bằng vàng 17 Francisco de Almeida làm người phụ trách chung, tổng trấn, Phó vương đầu tiên của tổ chức này, Ông được vinh danh trong lịch sử là người Bồ Đào Nha đầu tiên nắm trong tay cả chính quyền dân sự và quân sự ở thuộc địa của đế quốc Bồ Đào Nha. 18 Là một loại tiền xu bằng vàng của người Bồ Đào Nha có khắc hình chữ thập chính giữa. Đồng xu vàng này được sử dụng bởi Afonso V (1438-1481) khi tổ chức một cuộc viễn chinh chữ thập chống lại việc xâm chiếm Constantinople của người Thổ vào năm 1453. Nó có giá trị khoảng 400 reis. Ý nghĩa của chữ cruzado trong tiếng Bồ Đào Nha có nghĩa là chữ thập – thập tự giá của vị thánh bảo trợ cho Bồ Đào Nha, St George. 19 Là một thuật ngữ để chỉ người Hồi Giáo hiện nay đang sinh sống tại Bồ Đào Nha và Tây Ban Nha. Nguồn gốc của cộng đồng này là sự hỗn huyết giữa Arab, Tây Ban Nha và Amazigh (Berber). Người Moor đã tạo nên nền văn minh Arab Andalusian và định cư thường xuyên như là người tị nạn ở Bắc Phi từ thế kỷ XI đến thế kỷ XVII. Đôi khi thuật ngữ này còn được mở rộng để chỉ người Hồi giáo nói chung. 22 từ Đông Phi. Thương mại vàng, ngựa, đinh hương và quế lần lượt nằm trong danh sách hàng hóa độc quyền. Mỗi con tàu ở Ấn Độ Dương phải mua một cartaz20 từ Bồ Đào Nha, công khai hàng hóa cũng như hành khách được vận chuyển. Một số mặt hàng, chủ yếu là các mặt hàng quân sự, bị tuyên bố là hàng lậu và không được tự do mua bán. Nguồn thuế thu được từ việc bán cartaz là cơ sở để Bồ Đào Nha trang trải các chi phí khổng lồ của Estado da India21. Nền tảng pháp lý cho sự ra đời và hoạt động của Estado là các sắc lệnh mà Giáo hoàng đã ban hành và việc thừa nhận tước hiệu của vua Manuel “Vua của Bồ Đào Nha, Algarves và toàn bộ phần đại dương kéo dài đến tận châu Phi; lãnh chúa của Guinea, thủ lĩnh của công cuộc chinh phạt và hoạt động thương mại ở Ethiopia, Arabia, Persia, Ấn Độ” [84; 68]. Đức vua Bồ Đào Nha tuyên bố ông là người nắm quyền tối cao trên biển cùng với đặc quyền như bất kỳ một quốc vương nào khác. Nếu người cai trị Bijapur hoặc Vijayanagar có thể đánh thuế và quản lý vấn đề xuất nhập cảnh, duy trì quân đội, ký kết hiệp ước và thực thi pháp luật đối với cư dân của họ thì vua Bồ Đào Nha cũng có thể thực thi uy quyền của ông trên biển. Vua Bồ Đào Nha với tư cách là ông chủ trên biển, có quyền cấp phép hoặc không cho phép những cá nhân mong muốn xâm nhập khu vực quản lý của Bồ Đào Nha. Ông có quyền tối cao trong việc chỉ định đánh thuế hải quan, tuyên bố độc quyền thương mại và có quyền thực thi pháp luật thông qua hệ thống mang tính pháp lý đã được công nhận. Đây là những quan niệm mới chưa xuất hiện ở bất kỳ một nhà nước thuộc địa nào trước đó. Cơ cấu chính của Estado da India gồm: Tòa án tối cao (Relac¸ao) ra đời năm 1544, Ủy ban quản lý ngân khố (Vedoria da fazenda), Phòng tài chính (Casa dos contos), Phòng hộ tịch và hỗ trợ quân sự (Casa da matricula). Tất cả các cơ quan này đều nằm dưới sự chỉ đạo trực tiếp từ Phó vương22 với vị Phó vương đầu tiên là Francisco de Almeida. Cùng với sự phát triển của Estado thì cơ cấu tổ chức phía bên dưới cũng dần hoàn thiện. Thời kỳ đầu, để giúp việc cho Phó vương là một Hội đồng được tổ chức khá lỏng lẻo với thành viên không cố định (chủ yếu là fidalgo23). Đến năm 1563, Hội đồng phát triển thành thể chế nhà nước thật sự với số lượng thành 20 Đây là hình thức cấp phép trong thương mại đường biển được thực hiện bởi người Bồ Đào Nha từ đầu thế kỷ XVI đến nửa cuối thế kỷ XVIII. Theo đó, các tàu muốn đến buôn bán với các vùng đất dưới sự kiểm soát của người Bồ Đào Nha phải được sự cho phép của Estado và phải đóng thuế theo quy định nếu không sẽ bị tấn công, đánh đắm bởi lực lượng hải quân Bồ Đào Nha tại Ấn Độ Dương. 21 Từ đây chúng tôi gọi ngắn gọn là Estado. 22 Qua hai thế kỷ, Estado da India có 60 tổng trấn, trong đó 35 người là Phó vương. Sự phân biệt ở đây là biểu hiện tính đẳng cấp của xã hội. Nếu người được bổ nhiệm có tước hiệu quý tộc là Dom hoặc cao hơn thì được xem là tổng trấn – Phó vương, còn nếu không thì chỉ là tổng trấn. 23 Cấp bậc thấp nhất trong hệ thống đẳng cấp quý tộc của vương triều Bồ Đào Nha. 23 viên quy định gồm: tổng trấn (hoặc Phó vương) như là Chủ tịch, Tổng giám mục Goa, Trưởng Tòa án đạo, hai hoặc ba fidalgo có thời gian cư trú lâu đời tại Goa, người đứng đầu Tòa án tối cao, Đội trưởng của Goa, Giám đốc tài chính, Trưởng ban quản lý ngân khố. Các vấn đề liên quan đến tôn giáo thì được xử lý độc lập thuộc thẩm quyền của Tổng giám mục. Từ Goa, cơ cấu quản lý tại các thương điếm khác đều được tổ chức thống nhất với quyền chỉ huy thuộc về một đội trưởng. Hỗ trợ cho viên chức này là Vedor da fazenda (nhân viên quản lý ngân khố), thư ký, nhân viên chịu trách nhiệm giám sát thương mại Hoàng gia, các giáo sĩ, một thẩm phán. Tất cả nhân viên trong bộ máy chính quyền (từ Phó vương trở xuống) sẽ nhận lương và khoản thanh toán bằng hiện vật từ chính quyền. Người quản lý và đội trưởng của những con tàu, pháo đài thì chịu trách nhiệm trực tiếp với nhà vua, thông qua đại diện cao cấp nhất - Phó vương. Tất cả giao dịch kinh doanh và các khoản thanh toán phải hạch toán trực tiếp đến Lisbon (từ tiền phải trả cho từng cá nhân binh lính đến nguồn vốn thu mua hạt tiêu Ấn Độ). Hồ sơ chi tiết được giữ gìn cẩn thận, liệt kê tỉ mỉ đến từng khẩu pháo hay từng vật dụng cụ thể phục vụ cho các lễ nghi tôn giáo (kể cả quy trình cướp bóc các con tàu, việc phân chia chiến lợi phẩm phù hợp với từng chức vụ cũng thường xuyên được cập nhật). Như vậy, thương mại là yếu tố chi phối mạnh mẽ nhất đến quá trình hình thành và phát triển của Estado. Thông qua nhiều phương thức khác nhau như: sử dụng vũ lực trực tiếp chiếm đóng nhượng địa hoặc thuyết phục các thế lực địa phương tự nguyện làm chư hầu, Estado đã thực hiện một cách trọn vẹn vai trò quản lý và chi phối thương mại biển của Bồ Đào Nha tại châu Á. Tuy nhiên, khó khăn lớn nhất của Estado chính là sự quản lý không tập trung về mặt lãnh thổ với hình dáng tương tự như một vành đai được đánh dấu bởi các pháo đài làm nhiệm vụ phòng thủ, bảo vệ thương thuyền của Bồ Đào Nha. 1.1.1.3. Thương mại Hoàng gia Bồ Đào Nha từ đầu thế kỷ XVI đến giữa thế kỷ XVII Trong hơn một thế kỷ đầu tiên sau chuyến viễn chinh của Vasco da Gama, hoạt động giao thương của Hoàng gia Bồ Đào Nha tại Ấn Độ đạt đến mức độ phát triển hưng thịnh nhất. Tuy nhiên, do sự chi phối của nhiều yếu tố khác nhau, chủng loại mặt hàng chủ lực cũng như tỷ lệ của từng nhóm hàng hóa cũng có sự thay đổi trong từng giai đoạn: 24 Bảng 1.1. Hàng hóa nhập khẩu vào Lisbon từ châu Á (Ấn Độ) từ 1505 đến 1518 Mặt hàng 1505 21.826 quaintal 1518 38.196 quintal Hạt tiêu 95.73 94.95 Gừng 2.53 - Đinh hương 0.63 0.24 Quế 0.78 0.06 Cây chàm 0.11 - Cánh kiến đỏ 0.03 2.96 Tơ lụa - 0.11 Gỗ đàn hương đỏ - 1.24 Tạp phẩm 0.15 0.40 [93; 35] Bảng 1.2. Hàng hóa nhập khẩu vào Lisbon từ châu Á (Ấn Độ) từ 1521 đến 1603 1523-1531 Số lượng tàu = 17 Khối lượng hàng hóa/tàu=4.345 quaintal 1547-1548 Số lượng tàu = 10 Khối lượng hàng hóa/tàu=6.789 quaintal 1587-1588 Số lượng tàu = 12 Khối lượng hàng hóa/tàu=7.891 quaintal 1600-1603 Số lượng tàu = 3 Khối lượng hàng hóa/tàu=6.110 quaintal Hạt tiêu 84.00 89.00 68.00 65.00 Gia vị từ Molucca 6.20 4.50 1.60 5.00 Gừng 6.10 4.20 3.70 2.50 Quế 3.30 0.90 6.30 8.70 Cây chàm 0.00 0.00 8.40 4.40 Tơ lụa 0.00 0.00 10.50 12.20 Tạp phẩm 0.4 1.4 1.5 2.20 [93; 36] So sánh hai bảng số liệu trên, chúng ta nhận thấy: Thứ nhất, trong tuyến thương mại xuyên Á, gia vị trở thành nhóm mặt hàng chiếm tỷ lệ gần như tuyệt đối với nhiều chủng loại hàng hóa như hạt tiêu, gừng, đinh hương, quế Thứ hai, từ năm 1505 đến năm 1518, hạt tiêu là mặt hàng thể hiện ưu thế vượt trội với tỷ trọng xấp xỉ 95% tổng số hàng hóa vận chuyển từ Goa cập bến Lisbon. 25 Nguyên nhân của tình trạng này xuất phát từ nguồn lợi nhuận khổng lồ do mua bán hạt tiêu mang lại24. Địa bàn thu mua hạt tiêu chủ yếu của Bồ Đào Nha là duyên hải Malabar (và sau đó là Kanara) trên bờ biển Tây Nam của Ấn Độ. Khối lượng hạt tiêu Ấn Độ chiếm số phần trăm khá lớn trong tổng lượng hạt tiêu được cập bến tại Lisbon. Nếu toàn bộ số hạt tiêu nhập khẩu vào Lisbon năm 1506 đạt 17.300 quintal, thì lượng hạt tiêu từ Cochin chiếm 13.214 quintal. Giữa 1510 và 1518, con số sau đó tăng nhẹ đến 20.020/13.293 quintal [87; 41]. Như vậy, Ấn Độ không chỉ đóng vai trò quan trọng trong các tuyến đường buôn bán bên trong châu Á mà còn trở thành trung tâm trong mạng lưới thương mại xuyên Á - Âu của đế chế Bồ Đào Nha. Điều này hoàn toàn khác so với chính sách thương mại của Hà Lan và Anh khi hai đế quốc này chọn Đông Nam Á là trọng điểm với hạt tiêu tại Sumatra và đinh hương, vỏ nhục đậu khấu, hạt nhục đậu khấu của người Molucca, quế từ Sr... vật trên phạm vi toàn thế giới Sự kiện đầu tiên cần đề cập đến là việc thổ dân da đỏ châu Mỹ được chuyên chở trên chuyến tàu của Cabral đã vô cùng sợ hãi khi nhìn thấy một con cừu đực và con gà còn sống. Những con ngựa cùng với gia súc từ châu Âu đã được mang đến Tân thế giới cùng với các loại cây trồng châu Âu như lúa mì, cam quýt và nho. Ở chiều ngược lại, các loại thực phẩm châu Mỹ cũng đến châu Âu, châu Phi như ngô, khoai tây, khoai lang, thuốc lá, cacao, cà chua. Những thực phẩm châu Mỹ đã làm bổ sung nguồn dưỡng chất cần thiết cho các bữa ăn của người châu Âu, châu Phi, châu Á và góp phần tạo nên cuộc cách mạng thật sự về mặt nhân khẩu học. Hình ảnh về các chiếc tàu caravel Bồ Đào Nha cùng với sàn tàu được chất đầy các chậu cảnh và những loại động vật được thuần dưỡng mang đến cảm giác hòa bình, ấm áp dần thay thế cho hình ảnh truyền thống với các khẩu đại bác, cây thập tự giá và các cuộc chinh phạt. [84; 244] Nhiều loại cây trồng hiện nay đã quá quen thuộc trong cuộc sống của cư dân châu Á nhưng thật sự chúng trải qua chuyến phiêu lưu rất dài trước khi có mặt tại đây như: lúa, mía, dừa, ớt, bí ngô, nghệ tây, thuốc lá, cà chuaTác động này mạnh đến nỗi mà ngày nay thật sự rất khó để thuyết phục một người Ấn Độ rằng vùng đất này không có bất kỳ chủng loại ớt malagueta (Capsicum frutescens) nào trước khi Bồ 159 Đào Nha đến. Bồ Đào Nha cũng là nhân tố đã mang khoai mì - nguyên liệu chính để tạo ra bánh mì cho đến 1980 đến Ấn Độ; dứa là cây trồng chính của Muvathupuzha, Vazhakulam và Kottayam, điều trở thành cây trồng chính trên vùng đất Malabar, Quilon và trung tâm Kerala. Một trong những loại cây trồng ảnh hưởng đậm nét đến đời sống cư dân châu Á là ớt. Đây là một phần quan trọng trong các bữa ăn của thổ dân châu Mỹ từ 7.500 trước. Christopher Columbus là người châu Âu đầu tiên tiếp xúc với chủng loại thực vật này và Diego Álvarez Chanca (một bác sĩ trên chuyến tàu thứ hai của Columbus đến châu Mỹ) là người đã mang ớt về Tây Ban Nha và giới thiệu các công dụng chữa bệnh của loại thực vật này. Các thương nhân Bồ Đào Nha đã đưa ớt đến châu Á do nhận thức được tầm quan trọng của loại gia vị này trong tuyến thương mại độc quyền qua mũi Cape. Cho đến nay, ớt đã trở thành nguyên liệu không thể thiếu trong các món ăn của người Ấn Độ và Đông Nam Á (tiêu biểu là Thái Lan). Bên cạnh đó, khoai lang được tìm thấy ở các thương nhân Bồ Đào Nha mang đến Vân Nam vào năm 1560. Khoai tây, cà chua, cũng là các loại thực vật nổi tiếng được thương nhân Bồ Đào Nha mang đến châu Á. Ở chiều hướng ngược lại, các giống cây trồng của châu Á cũng được chuyển dịch đến trồng và tiêu thụ tại châu Âu, Phi, Mỹ như: trà, chuối Bên cạnh đó, khi sinh sống trong những điều kiện thời tiết khác nhau thì các thế hệ sau dần thay đổi so với nguồn gốc ban đầu của chúng. Ví dụ, Ngô chính thức xuất hiện tại châu Âu thông qua các nhà hàng hải Tây Ban Nha vào năm 1500 và Bồ Đào Nha vào năm 1520. Cũng chính Bồ Đào Nha đã mang ngô đến Trung Quốc và Miến Điện vào 1597 và mất gần một thế kỷ để đi khắp thế giới. Thế nhưng đặc tính sinh học của ngô tại châu Á, châu Mỹ, châu Âu có những điểm khác biệt rõ nét. Vì thế, có thể nói chính quá trình ra đời hệ thống thương điếm của Bồ Đào Nha đã góp phần tạo nên sự đa dạng hóa trong chủng loại cây trồng trên phạm vi toàn thế giới. 160 C. KẾT LUẬN 1. Trong tiến trình phát triển lịch sử nhân loại, phát kiến địa lý là một thành tựu vĩ đại của con người, mở ra một chương mới trong tiến trình giao lưu Đông - Tây. Nhờ hội tụ đầy đủ những điều kiện chủ quan và khách quan, Bồ Đào Nha đã trở thành quốc gia tiên phong của “thời đại khám phá”. Từ những chuyến viễn chinh đầu tiên của Vasco da Gama, Hoàng gia Bồ quyết định thiết lập những thương điếm đầu tiên ven biển Ấn Độ Dương. Từ Calicut, Cochin, Goangười Bồ Đào Nha nhanh chóng bành trướng quyền lực đến vịnh Bengal, đi sâu vào Đông Nam Á và Viễn Đông. Hệ thống thương điếm kéo dài từ Tây sang Đông góp phần tạo nên diện mạo của một đế quốc thương mại mậu dịch ven biển đầu tiên trong lịch sử cận đại - Estado da India. như Ronald S. Love nhận xét: “Đây là thành tựu vượt bậc của một quốc gia nghèo nàn về tài nguyên thiên nhiên và ít ỏi về số dân (hơn 1.5 triệu) như Bồ Đào Nha” [72; 27]. Nhân tố chìa khóa làm nên thành công của Bồ Đào Nha là kết quả tổng hòa của: “tham vọng, sự vượt bậc về kỹ thuật sử dụng súng và điều khiển các con tàu, kỹ năng chiến thuật, lợi ích thương mại được hỗ trợ bởi lực lượng hải quân, khả năng tổ chức và xác lập kế hoạch một cách hiệu quả, sự bảo trợ của nhà nước” [74; 29]. Trong đó, nhân tố chìa khóa là lợi thế so sánh về kỹ thuật hàng hải: “Khi những con tàu được trang bị đại bác của Bồ Đào Nha xuất hiện tại vùng duyên hải Ấn Độ, đó là thật sự là một kỳ tích. Lúc này ngoài phạm vi châu Âu, chỉ có Ottoman là có thể đóng những con tàu có trọng pháo nhưng lúc này họ không hiện diện tại Ấn Độ Dương để ngăn cản thế lực Bồ Đào Nha. Một số tiểu quốc Hồi giáo tại Ấn Độ cũng có lực lượng hải quân nhưng không đủ để đối trọng với lực lượng của Bồ [99; 21]. Do đó, chiến thắng của Bồ Đào Nha tại Ấn Độ dương là minh chứng cho sự vượt trội về kỹ thuật chiến tranh trên biển. 2. Quá trình bành trướng quyền lực của Bồ Đào Nha tại Ấn Độ và Trung Quốc chịu ảnh hưởng đậm nét từ chính sách hướng biển và chủ nghĩa trọng thương của Hoàng gia Bồ Đào Nha. Vì thế, “sự hiện diện của Bồ Đào Nha ở châu Á hoàn toàn là vì thương mại biển, việc xâm chiếm đất đai không phải là mục đích chính của đội quân viễn chinh. Những hòn đảo biệt lập và những pháo đài nằm dưới quyền kiểm soát của các nhà cai trị địa phương thân thiện được sử dụng để làm căn cứ hải quân” [67; 80]. Với chiến lược và tư duy quân sự mới, “từ năm 1509 đến năm 1515, dưới sự cầm quyền của Afonso de Albuquerque, một đế quốc thương mại biển đã dần định hình với sự kết hợp giữa những hạm đội thường trực, những pháo đài kiên cố và căn cứ hải quân tại những trọng điểm chiến lược đã giúp Bồ Đào Nha kiểm soát được những tuyến thương mại chính tại Ấn Độ Dương” [67; 80]. Trong vòng 15 năm, Bồ Đào Nha thiết lập một cấu trúc quyền lực mới tại Ấn Độ Dương. Hoàng gia 161 Bồ Đào Nha không những nắm độc quyền thương mại hạt tiêu trên vùng biển Arab và Malabar mà còn vận chuyển nó bằng tuyến đường hàng hải mới thông qua mũi Hảo Vọng. Trong cấu trúc quyền lực đó, những thương điếm ven biển Ấn Độ đóng vai trò trung tâm không những là nguồn cung ứng các mặt hàng chủ yếu như gia vị, tơ lụamà còn là trung tâm điều phối mọi hoạt động của Bồ Đào Nha ở châu Á. 3. Đặc trưng của thương mại Bồ Đào Nha tại Ấn Độ là quá trình phát triển tương đối độc lập và ngược nhau giữa giao thương Hoàng gia và tư thương. Nếu trong thời kỳ đầu, Hoàng gia Bồ Đào Nha thể hiện vai trò và quyền lực tuyệt đối thì càng về sau chiến lược buôn bán linh hoạt của tư thương Bồ lại càng thể hiện mức độ hiệu quả. Sự xâm nhập của thương mại tư nhân vào mạng lưới Hoàng gia không chỉ nói lên sự vận động bên trong của Estado mà còn minh chứng cho quá trình phát sinh và tính ưu việt của yếu tố tư bản chủ nghĩa trong sự đối sánh với sự bảo thủ và lạc hậu của vương triều phong kiến châu Âu. Điều này càng được biểu hiện rõ ràng hơn khi Bồ Đào Nha phải đối diện với thách thức đến từ các quốc gia châu Âu khác như Hà Lan hay Anh. Trong khi đó, hoạt động thương mại của Bồ Đào Nha ở Trung Quốc lại có đặc điểm riêng như một đánh giá: “Tại một góc của thế giới, người Bồ Đào Nha đã đóng vai trò như những thương nhân hòa bình, thân thiện chỉ sử dụng vũ khí với mục đích chống cướp biển” [67; 83]. 4. Nằm trong chuỗi thương điếm nằm dưới sự quản lý của Estado da India, Macao là một trọng điểm hết sức đặc biệt. Thứ nhất, cùng với những thương điếm khác của Bồ Đào Nha ở châu Á, Macao là một mắc xích góp phần tạo nên sự lưu thông hàng hóa nhịp nhàng đảm bảo sự ổn định cho hoạt động thương mại của người Bồ Đào Nha ở châu Á trong thế kỷ XVI, XVII. Thứ hai, quá trình khai phá tiềm năng thương mại của Macao được người Bồ Đào Nha thực hiện khá lâu dài (do sự tác động từ các yếu tố chính trị của chính quyền phong kiến Trung Quốc), nhưng sự xâm nhập của Macao vào mạng lưới thương mại biển của đế quốc Bồ Đào Nha lại nhanh chóng và đạt được những thành tựu vượt bậc. Từ vị trí một thương điếm tập trung hàng hóa, Macao đã tiến dần đến vị trí một trọng điểm thương mại không thể thiếu, có một hệ thống quản lý hành chính kép rất đặc trưng. Thứ ba, sự phát triển của Macao về thương mại là kết quả của nhiều yếu tố: sự hình thành tầng lớp thương nhân Macao Bồ Đào Nha đầy năng động và nhạy bén trước thị trường tiềm năng còn bỏ ngỏ, nhu cầu buôn bán trong khu vực giữa Trung Quốc - Nhật Bản, giữa Trung Quốc với các quốc gia trong khu vực, vị trí địa lý của Macao Tóm lại, sự kết hợp giữa những thương nhân có tầm nhìn chiến lược với một ít cơ duyên đã mang người Bồ Đào Nha đến Macao và đem lại cho vùng đất này một diện mạo mới. Ở chiều ngược lại, Macao cũng trở thành một trong những yết hầu của đế quốc Bồ Đào Nha tại châu Á, góp phần không nhỏ đem đến sự thịnh vượng cho đế quốc này trong thế kỷ XVI, XVII. 162 5. Đi kèm với hoạt động thương mại, Thiên Chúa giáo cũng được các giáo đoàn Bồ Đào Nha truyền bá đến những vùng đất khác nhau tại Ấn Độ, Trung Quốc. Tuy nhiên, nếu thương mại chỉ có thể thực hiện tại duyên hải Ấn Độ Dương, vịnh Bengal, duyên hải Nam Trung Quốc thì Thiên Chúa giáo đã xâm nhập vào sâu trong nội địa. Sự ra đời của ba giáo phận thuộc Giáo hội Rome (Goa, Malacca, Macao) đánh dấu thành tựu to lớn của công cuộc truyền giáo về phương Đông. Nếu ở Ấn Độ, truyền giáo và thương mại đi song song và hỗ trợ chặt chẽ thì tại Trung Quốc các linh mục phải đối diện với những khó khăn hơn gấp nhiều lần. Một thể chế tập quyền cao độ với sự bảo lưu bền chặt hệ tư tưởng Nho giáo đã trở thành chướng ngại ngăn cản quá trình truyền giáo. Vì thế, cách thức truyền giáo của các linh mục thời kỳ này là hết sức uyển chuyển, linh hoạt để phù hợp với sắc thái văn hóa của từng quốc gia, từng dân tộc. Do đó phản ứng của cư dân Ấn Độ hay Trung Quốc trước ảnh hưởng của Thiên Chúa giáo cũng phần nào cho thấy quá trình bảo vệ bản sắc dân tộc trong buổi đầu của thời đại toàn cầu hóa. 6. Cùng với quá trình xác lập hệ thống thương điếm rồi hoạt động thương mại và truyền giáo, Bồ Đào Nha đã đóng vai trò là chiếc cầu nối tạo nên sự giao lưu và gắn kết văn hóa giữa phương Đông và phương Tây trên nhiều lĩnh vực: ngôn ngữ, kiến trúc, tôn giáo, khoa học kỹ thuật, nhân chủng học, địa lý học Những thành tựu văn hóa, khoa học kỹ thuật phương Tây cũng đã theo chân các thương nhân, linh mục xâm nhập vào xã hội Ấn Độ, Trung Quốc tạo nên những dấu ấn đậm nét. Tuy nhiên, quá trình trên cũng để lại khá nhiều hệ quả tiêu cực mà nổi bật trong đó là chính sách cưỡng bức tôn giáo hay phân biệt chủng tộc góp phần nói lên tính hai mặt trong sự xâm nhập của các quốc gia phương Tây vào xã hội phương Đông. DANH MỤC CÁC CÔNG TRÌNH KHOA HỌC ĐÃ CÔNG BỐ STT Tên bài báo, báo cáo KH Đăng ở Trường, Viện, Hội thảo, Tạp chí Năm 1 Hoạt động truyền giáo của Bồ Đào Nha tại Ấn Độ (đầu thế kỷ XVI) Tạp chí nghiên cứu Đông Nam Á 2008 2 Nhân tố thúc đẩy Bồ Đào Nha khai mở con đường đến châu Phi và châu Á (thế kỷ XV – XVI) Tạp chí nghiên cứu Đông Nam Á 2008 3 Vai trò của thương điếm Ma Cao trong hoạt động thương mại của đế quốc Bồ Đào Nha (thế kỷ XVI – thế kỷ XVII) Tạp chí Nghiên cứu châu Âu, số 4 2012 4 Hoạt động thương mại của Bồ Đào Nha tại Ấn Độ (Thế kỷ XVI) Hội nghị khoa học cán bộ trẻ toàn quốc 2013 2013 5 Hoạt động thương mại của Bồ Đào Nha tại Ấn Độ (Thế kỷ XVI) Tạp chí khoa học Đại học Quảng Nam 6.2014 6 Bước thăng trầm trong thương mại hạt tiêu Ấn Độ của Bồ Đào Nha vào thế kỷ XVI. Nghiên cứu Ấn Độ và Châu Á 8.2014 7 Một vài đối sánh về thương điếm của Bồ Đào Nha tại Ấn Độ và Trung Hoa (thế kỷ XVI) Nghiên cứu châu Âu 8.2014 TÀI LIỆU THAM KHẢO I. TÀI LIỆU TIẾNG VIỆT 1. Cao Thế Dung (2003), Việt Nam công giáo sử tân biên (1553 – 2000) tập 1, Cơ sở Dân chúa, L.A 2. Cao Thế Dung (2003), Việt Nam công giáo sử tân biên (1553 – 2000) tập 2, Cơ sở Dân chúa, L.A 3. Cao Thế Dung (2003), Việt Nam công giáo sử tân biên (1553 – 2000) tập 3, Cơ sở Dân chúa, L.A 4. Nguyễn Khắc Đạm (1998), Mặt trái của việc truyền giảng đạo Thiên Chúa ở Việt Nam (thế kỷ XVI – XIX), Nghiên cứu lịch sử số 1,2 5. Lâm Hán Đạt, Tào Dư Chương, Trần Ngọc Thuận (2001), Lịch sử Trung Quốc 5000 năm, Nhà xuất bản Trẻ, tp Hồ Chí Minh. 6. Will Durant (1971), Lịch sử văn minh Ấn Độ, Lá Bối, Sài Gòn. 7. D.G.E Hall (1997), Lịch sử Đông Nam Á, NXB Chính trị quốc gia, Hà Nội. 8. Lưu Minh Hàn (chủ biên) (2002), người dịch Phong Đảo, Lịch sử thế giới (thời trung cổ), NXB tp Hồ Chí Minh, Hồ Chí Minh. 9. Nguyễn Hồng (1959), Lịch sử truyền giáo ở Việt Nam (quyển 1 - Các thừa sai dòng Tên (1615 - 1665)), NXB Chân Lý, Sài Gòn. 10. Nguyễn Thị Huệ (2001), Quan hệ giữa Trung Quốc với một số quốc gia ở Đông Nam Á thời trung đại (đề tài khoa học cấp trường), Huế. 11. Cát Kiếm Hùng (2005), Bước thịnh suy của các triều đại phong kiến Trung Quốc, tập 3 (nhà Minh, Thanh), NXB Văn hóa thông tin, Hà Nội. 12. Phan Phát Huồn (1958), Việt Nam giáo sử (quyển 1, 1533 - 1933), Nha Tuyên úy Sài Gòn. 13. Nguyễn Thừa Hỷ (1986), Ấn Độ qua các thời đại, NXB Giáo dục, Hà Nội. 14. Nguyễn Văn Kiệm, Sự truyền bá đạo Thiên Chúa ra vùng đất ngoại từ phát kiến địa lý đến hết thế kỷ XIX, Nghiên cứu lịch sử, số 4, 58-68. 15. Nguyễn Văn Kim (1999), Chính sách đóng cửa của Nhật Bản thời kỳ Tokugawa: Nguyên nhân và hệ quả (Luận án Tiến sĩ), Đại học Khoa học xã hội và nhân văn, Đại học Quốc gia Hà Nội, 300 trang. 16. Nguyễn Phương Lan (2007), vương triều Mogol và vị trí của nó trong lịch sử Ấn Độ, Luận án Tiến sĩ Lịch sử, 177 trang. 17. Nguyễn Hiến Lê (1982), "Sử Trung Quốc" (2 tập), NXB Tổng hợp tp Hồ Chí Minh, tp Hồ Chí Minh. 18. Phan Ngọc Liên (Chủ biên, 2008), Lịch sử thế giới cận đại, NXB Đại học Sư phạm, Hà Nội. 19. Lương Ninh, Đặng Đức An (1976), Lịch sử thế giới trung đại (quyển 2, tập 1, châu Âu thời Hậu Kỳ trung đại), NXB Giáo dục, Hà Nội. 20. Đổng Tập Minh (1963), Sơ lược lịch sử Trung Quốc, NXB Ngoại văn, Bắc Kinh 21. Đổng Tập Minh (2012), Sơ lược lịch sử Trung Quốc, NXB Văn hóa Thông tin, Hà Nội 22. Vũ Dương Ninh (1995), Lịch sử Nhật Bản, NXB Giáo dục, Hà Nội. 23. Vũ Dương Ninh (chủ biên, 1995), Lịch sử Ấn Độ, NXB Giáo dục, Hà Nội. 24. Vũ Dương Ninh, Nguyễn Văn Hồng (2006), Lịch sử thế giới cận đại, NXB Giáo dục, Hà Nội. 25. Vũ Dương Ninh (2007), Lịch sử thế giới cận đại, Đại học Khoa học xã hội và nhân văn, Hà Nội. 26. Văn Sính Nguyên, Những câu chuyện về lịch sử phương Tây – phát hiện lục địa mới, NXB Lao động Xã hội, Hà Nội. 27. Nguyễn Gia Phu, Nguyễn Văn Ánh, Đỗ Đình Hãng, Trần Văn Là (2003), Lịch sử thế giới trung đại, NXB Giáo dục, Hà Nội. 28. Nguyễn Gia Phu, Nguyễn Huy Quý (2012), Lịch sử Trung Quốc, NXB Giáo dục, Hà Nội. 29.Nguyễn Văn Tận (2.2004) , Sự du nhập đạo Thiên Chúa vào Việt Nam trong sự đối sánh với Trung Quốc và Nhật Bản, Tạp chí Nghiên cứu Nhật Bản 30. Phạm Văn Thắng (2001), Quá trình Thiên Chúa giáo du nhập Trung Quốc, Nhật Bản, Việt Nam thời cận đại (luận văn Thạc sĩ), Huế. 31. Trần Tam Tỉnh (1988), Hương liệu và các linh hồn, Lịch sử quân sự, số 31, 36-42 32. Trương Quảng Trí (ch.b, 2003), Phong Đảo dịch, 10 nhà thám hiểm lớn thế giới, NXB Văn hóa Thông tin, Hà Nội. 33. Nguyễn Chí Trung (2005), Cư dân Faifo – Hội An trong lịch sử, Trung tâm bảo tồn quản lý di tích Hội An, Hội An, 385 trang. 34. Lê Trọng Túc (1991), Những phát kiến địa lý lừng danh, NXB Hà Nội. 35. Vũ Bội Tuyền (1997), Mười nhà thám hiểm lừng danh thế giới, NXB Thanh Niên. 36. Trần Thị Thanh Vân (2010), “Chính sách thực dân của Anh ở Ấn Độ từ thế kỉ XVII đến giữa thế kĩ XX’’, Luận án Tiến sĩ Lịch sử, ĐHSP Hà Nội, 235 trang. II. TÀI LIỆU TIẾNG ANH 37. Albuquerque.A.De (2010), The Commentaries of the Great Alfonso Dalboquerque, Second Viceroy of India, Translated from the Portuguese Edition of 1774, Volume 3, Cambridge University Press, 340 pp. 38. Ames G.J (2000), Renascent Empire?: The House of Braganza and the Quest for Stability in Portuguese Monsoon Asia C.1640-1683, Amsterdam University Press, 262 pp. 39. Ahmed Afzal (1991), Indo-Portuguese trade in seventeenth century, 1600-1663, Gian Pub. House, 226 pp. 40. Anderson R.W & Rei C (2011), Direct European-Asian Trade and Migration: role of new christian in Asia trade, Retrieved from 1- 26. 41. Bays D.H (2011), A New History of Christianity in China, John Wiley & Sons, 252 pp. 42. Blair C.F (2008), Christian mission in india: contributions of some missions to social change, Simon Fraser university, Dortor of philosophy, 221 pp. 43. Borao, José.E (2009), Macao as the non-entry point to China: The case of the Spanish Dominican missionaries (1587-1632), International Conference on The Role and Status of Macao in the Propagation of Catholicism in the East, Centre of Sino-Western Cultural Studies, Istituto Politecnico de Macao, 21 pp. 44. Borschberg, Peter (2011), Hugo Grotius, the Portuguese, and Free Trade in the East Indies, NUS Press, 482 trang 45. Borges C.J, Feldmann Helmut (1997), Goa and Portugal: Their Cultural Links, Concept Publishing Company, New Dheli, 319 pp. 46. Borges C.J, Oscar Guilherme Pereira, Hannes Stubbe (2000), Goa and Portugal: History and Development, Concept Publishing Company, 426 pp. 47. Boxer C.R (1991), The Portuguese Seaborne Empire: 1415-1825, Carcanet, 426 pp. 48. Boyajian J.C.(2007), Portuguese Trade in Asia under the Habsburgs, 1580–1640, JHU Press, 360 pp. 49. Brockey L.M (2009), Journey to the East: The Jesuit Mission to China, 1579– 1724, Harvard University Press, 496 pp. 50. Butler. John Francis (1979), Christianity in Asia and America: After A.D. 1500, Brill, 47 pp. 51. Castro. Filipe Vieira de (2005), The Pepper Wreck: A Portuguese Indiaman at the Mouth of the Tagus River, Texas A&M University Press, 287 pp. 52. Charbonnier Jean (2007), Christians in China: A.D. 600 to 2000, Ignatius Press, California, 605 pp. 53. Chaudhuri N.K (1985), Trade and Civilisation in the Indian Ocean: An Economic History from the Rise of Islam to 1750, Cambridge University Press, 296 pp. 54. Chaudhury Sushil & Morineau Michel (2007), Merchants, Companies and Trade: Europe and Asia in the Early Modern Era, Cambridge University Press, London, 344 pp. 55. Cheong W. E (1997), The Hong Merchants of Canton: Chinese Merchants in Sino-Western Trade, Psychology Press, UK, 376 pp. 56. Costa M.M.L.da (2002), History of Trade and commerce in Goa: 1878 – 1961, doctor of Philosophy in History, Goa University, 330 pp. 57. Cotterell Arthur (2011) , Western Power in Asia: Its Slow Rise and Swift Fall, 1415 – 1999, John Wiley & Sons, New York, 450 pp. 58. Danvers, F.C (1988), The Portuguese in India: Being a History of the Rise and Decline of Their Eastern Empire, London : W.H. Allen & co., limited, 572 pp. 59. Diffie B.W và Winius G.D (1977), Foundations of the Portuguese Empire, 1415- 1580, University of Minnesota, Mineapolis, 533 pp. 60. Disney (1978) A.R, Twilight of the pepper empire: Portuguese trade in southwest India in the early seventeenth century, Harvard University Press, 220 pp. 61. Disney A.R (2009), A History of Portugal and the Portuguese Empire: From Beginnings to 1807, volume 1: Portugal, Cambridge University Press, London, 386 pp. 62. Disney A.R (2009), A History of Portugal and the Portuguese Empire: From Beginnings to 1807, volume 2: The Portuguese empire, Cambridge University Press, London. 63. Elisha, J.(2004), Francis Xavier and Portuguese Administration in India, IJT ,46/1&2, 59-66. 64. Farid, Md.S.(2011), Historical Sketch of the Christian Tradition in Bengal. Bangladesh e-Journal of Sociology, 1(8). 65. Michela Fontana (2011), Matteo Ricci: A Jesuit in the Ming Court, Rowman & Littlefield Publishers, Maryland, USA, 336 pp 66. Garrett Richard J. (2010), The Defences of Macau: Forts, Ships and Weapons over 450 years, Hong Kong University Press, 288 pp. 67. Glete.Jan (2002), Warfare at Sea, 1500-1650: Maritime Conflicts and the Transformation of Europe, Routledge, London, 256 pp. 68. Jayasuriya, Shihan de S. (2008), The Portuguese in the east: a cultural history of a maritime trading empire, Tauris Academic Studies, UK, 212 pp. 69. Kearney Milo, The Indian ocean in world history, Psychology Press, 2004, 188 pp. 70. Kloguen C.D (2008), An historical sketch of Goa, the metropolis of the Portuguese settlements in IndiaPrinted for the proprietor by William Twigg, at the Gazette Press, 1831, 194 pp. 71. Lee Thomas H. C. (1991), China and Europe: Images and Influences in Sixteenth to Eighteenth Centuries, Chinese University Press, 356 pp. 72. Ljungstedt Anders (1836), An historical sketch of the Portuguese settlements in China; and of the Roman Catholic Church and mission in China, Boston, 323 pp. 73. Liu, Y.(2005), Clergy, Nobility and Crown in Decadência, On-line version ISSN 1980-4369, 167-190. 74. Love R.S (2006), Maritime Exploration in the Age of Discovery, 1415-1800, Greenwood Publishing Group, 195 pp. 75. Lu, Caitlin.(2011), Matteo Ricci and the Jesuit mission in China 1583-1610, The Concord Review Inc, 24 pp. 76. Malekandathil, Pius.(2001), Portuguese Cochin and the Maritime Trade of India, 1500–1663.New Delhi: Manohar, 324 pp 77. Manel Ollé (2008), The Jesuit portrayals of china between 1583 – 1590, BPJS, 16, 45-57. 78. Mary, J.B.,&Winston, K.(2010), Reflections on the Jesuit Mission to China. Faculty Research Working Paper Series of Harvard Kennedy School, 1-37. 79. Mathew K.S (1983), Portuguese trade with India in the sixteenth century, Manohar Publications, Delhi, India, 352 pp. 80. Mungello D.E (2013), The Great Encounter of China and the West, 1500-1800, Rowman & Littlefield, 184 pp. 81. Neill, Stephen (2004), A History of Christianity in India, 1707 – 1858, Cambridge University Press 82. Neill, Stephen (2004), A History of Christianity in India: The Beginnings to AD 1707, Cambridge University Press 83. Newitt M. D. D (1986) , The First Portuguese Colonial Empire, University of Exeter Press, 105 pp. 84. Newitt, Malyn (2004), A History of Portuguese Overseas Expansion 1400–1668, Routledge, 320 pp. 85. Pearson M.N (1976), Merchants and Rulers in Gujarat: The Response to the Portuguese in the Sixteenth Century, University of California Press, 178 pp. 86. Pearson M.N (2002), Port Cities and Intruders: The Swahili Coast, India, and Portugal in the Early Modern Era, Johns Hopkins University Press, 216 pp 87. Pearson, M.N.(2006), The Portuguese in India, Cambridge University Press, London, 178 pp. 88. Perdue, P.C.(2009), Rise and fall of the Canton Trade System I - China in the world (1700 – 1860), Massachusetts Institute of Technology © Visualizing Cultures, China. 89. Perdue, P.C.(2009), Rise and fall of the Canton Trade System II - Macao & Whampoa Anchorage, Massachusetts Institute of Technology © Visualizing Cultures, China. 90. Pina, I.(2001), The Jesuits missions in Japan and in China: two distinct realities. Cultural adaptation and the assimilation of natives, Bullettin of Portuguese/Japanese Studies, ano/vol2, 59 – 76. 91. Pinto, Celsa (1994), Trade and Finance in Portuguese India: A Study of the Portuguese Country Trade, 1770-1840, Concept Publishing Company, New Delhi, 315 pp. 92. Prakash, Om (2005), India and the Indian Ocean in Textile Trade, GEHN Conference – University of Padua,1-9 93. Prakash, Om (2008), European comercial enterprise in pre-colonial India, Cambridge University press, London, 377 pp. 94. Ptak, Roderich (2004), China, the Portuguese, and the Nanyang: Oceans and Routes, Regions and Trades (c. 1000-1600), Ashgate, Farnham, U.K, 304 pp. 95. Rothermund. Dietmar (2006), The Routledge Companion to Decolonization, Routledge, London, 384 pp. 96. Saraiva. Luís & Jami. Catherine (2008) , The Jesuits, the Padroado and East Asian Science (1552-1773), World Scientific, Singafore, 229 pp. 97. Scammell (1981), Geoffrey. V, The World Encompassed: The First European Maritime Empires, C. 800-1650, University of California Press, 538 pp. 98. Sebes, J.S (1978), China's Jesuit Century, The Wilson Quarterly (1976-), Vol. 2, No. 1, Published by: Woodrow Wilson International Center for Scholars, pp. 170-183 99. Shastry B.S (2000), Goa-Kanara Portuguese Relations, 1498-1763, Concept Publishing Company, New Delhi, 327 pp. 100. Souza, G.B.(2004), The Survival of Empire: Portuguese Trade and Society in China and the South China sea 1630 – 1754, Cambridge University press, London, 304 pp. 101. Souza, T.R.D (1985), Indo-Portuguese History: Old Issues, New Questions, Concept Publishing Company, New Delhi, 240 pp. 102. Souza, T.R.D.(1990), An Economic History, New Delhi: Goa University, 146- 175. 103. Standaert, N.(2008), Jesuits in China, Cambridge University Press,169-185 104. Stephen, Jeyaseela (1998), Portuguese in the Tamil coast: historical explorations in commerce and culture, 1507-1749, Navajyothi Pub. House, India, 437 pp. 105. Stockwell Foster (2002), Westerners in China: A History of Exploration and Trade, Ancient Times through the Present, McFarland, 232 pp. 106. Studnicki-Gizbert, Daviken (2007), A nation upon the ocean sea: Portugal’s Atlantic diaspora and the crisis of the Spanish Empire, 1492-1640, Oxford University Press, 256 pp. 107. Subrahmanyam, Sanjay (1990), Improvising empire: Portuguese trade and settlement in the Bay of Bengal, 1500-1700, Oxford University Press, 269 pp. 108. Subrahmanyam, Sanjay (1993), The Portuguese Empire in Asia 1500 – 1700, a political and economic history, Longman, London and New York, 352 pp. 109. Twitchett D.C, Mote F.W (1998), The Cambridge History of China: Volume 8, The Ming Dynasty (1368-1644), Cambridge University Press, London, 1.231 pp. 110. Veen, Blusse (2013), Rivalry and Conflict: European Traders and Asian Trading Networks in the 16th and 17th Centuries (CNWS Publications), Leiden University Press, 382 pages 111. Wang. Gungwu & Ng. Chin-Keong (2004) , Maritime China in Transition 1750-1850, Otto Harrassowitz Verlag, 397 pp 112. Whiteway R.S. (1995), Rise of Portuguese Power in India, Asian Educational Services, New Dehli, 376 pp. 113. Willard J. Peterson (2002), The Cambridge History of China: Volume 9, Part 1, The Ch'ing Empire to 1800, Cambridge University Press, London, 780 pp. 114. Winston. Kenneth, Bane J. Mary (2010) Reflections on the Jesuit Mission to China, Faculty Research Working Paper Series, Harvard Kennedy School, 37 pp. 115. Worcester, Thomas (2008), The Cambridge Companion to the Jesuits, Cambridge University Press, London, 361 pp. 116. Zhang, Tianze (1933), Sino-Portuguese Trade from 1514 to 1644: A Synthesis of Portuguese and Chinese Sources, Brill Archive, Leiden, 157 pp. 117. Ines G. Županov (2005), Missionary Tropics: The Catholic Frontier in India (16th-17th Centuries), University of Michigan Press, 374 pp. 118. Županov, I.G (2006), Goan Brahmans in the Land of Promise: Missionaries, Spies and Gentiles in the 17 th -18 th century Sri Lanka, Portugal – Sri Lanka: 500 Years, Harrassowitz and the Calouste Gulbenkian Foundation, pp. 171-210. 119. Županov, I.G.(2007), Language and Culture of the Jesuit "Early Modernity" in India during the Sixteenth Century, Itinerario 2(31), 87 – 110. III. INTERNET 120. Anderson R.W, Rei Claudia, Direct European-Asian Trade and Migration, www.peh-workshop.ics.ul.pt/papers/papers_2011_02.pdf. 121. Dietrich Koster (1997), The role of Portuguese language in Lusophone Asia, 122. Dương Văn Huy (2007), Nhìn lại chính sách "Hải cấm" của Nhà Minh Trung Quốc, NXB Thế giới 123. J John (2010), The interaction between the Portuguese anfd Malabar societies:1500-1567,shodhganga.inflibnet.ac.in/.../837/.../11_chapter%204.pdf 124. Ramerini. Marco, India.List of Portuguese colonial forts and possessions, 125. Ramerini. Marco, Sri Lanka (Ceylon).List of Portuguese colonial forts and possessions, colonial-forts-possessions/ 126. Ramerini. Marco, Southeast Asia and in Far East Asia. List of Portuguese colonial forts and possessions, far-east-asia-list-portuguese-colonial-forts-possessions/ 127. Ramerini. Marco, The Portuguese in Ceylon: the Portuguese in Sri Lanka before the war with the Dutch, portuguese-sri-lanka-before-war-dutch/ 128. Ramerini. Marco, Portuguese Malacca 1511-1641, 129. Ramerini. Marco, The Portuguese in the Moluccas: Ternate and Tidore, 130. Ramerini. Marco, Ambon: The Portuguese in the Moluccas, Indonesia, 131. Ramerini. Marco, Makassar and the Portuguese, 132. Ramerini. Marco, Goa: The capital of Portuguese in India, 133. Ramerini. Marco, The Portuguese in Cochin (Kochi), India, 134. Ramerini. Marco, Chaul a Portuguese town in India, 135. Ramerini. Marco, The Portuguese on the bay of Bengal, 136. Rinaldi, Maura (2012), Porcelain and the Portuguese Trade, Retrieved from www.fom.sg/Passage/2012/09porcelain.pdf 137. Vandenberg.T (2009), The Portuguese in Ayutthaya, history.com/Settlements_Portuguese.html 138. Veliath, Cyril (2005), Jesuit missionaries in an Islamic court, Bulletin of the Faculty of Foreign Studies, Sophia University, No.40 www.info.sophia.ac.jp/fs/staff/kiyo/kiyo40/veliath.pdf 139. Winston, Kenneth & Bane M.J (2010), Reflections on the Jesuit Mission to China, Faculty Research Working Paper Series, Harvard Kennedy School

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • pdfluan_an_hoat_dong_thuong_mai_va_truyen_giao_cua_bo_dao_nha_t.pdf
Tài liệu liên quan