HỌC VIỆN CHÍNH TRỊ QUỐC GIA HỒ CHÍ MINH
NGUYỄN THỊ HUYỀN TRANG
HOẠT ĐỘNG ĐỐI NGOẠI CỦA ĐẢNG
TỪ NĂM 1930 ĐẾN NĂM 1945
LUẬN ÁN TIẾN SĨ
CHUYÊN NGÀNH: LỊCH SỬ ĐẢNG CỘNG SẢN VIỆT NAM
HÀ NỘI - 2017
HỌC VIỆN CHÍNH TRỊ QUỐC GIA HỒ CHÍ MINH
NGUYỄN THỊ HUYỀN TRANG
HOẠT ĐỘNG ĐỐI NGOẠI CỦA ĐẢNG
TỪ NĂM 1930 ĐẾN NĂM 1945
LUẬN ÁN TIẾN SĨ
CHUYÊN NGÀNH: LỊCH SỬ ĐẢNG CỘNG SẢN VIỆT NAM
Mã số: 62 22 03 15
NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC:
1. PGS. TS. NGUYỄN MẠNH HÀ
2. TS. TRẦN THỊ NHẪN
HÀ
201 trang |
Chia sẻ: huong20 | Ngày: 15/01/2022 | Lượt xem: 418 | Lượt tải: 0
Tóm tắt tài liệu Luận án Hoạt động đối ngoại của Đảng từ năm 1930 đến năm 1945, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
NỘI - 2017
LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan đây là công trình nghiên cứu khoa học của
riêng tôi trên cơ sở sưu tầm, đọc và phân tích các tài liệu. Tất cả các
tài liệu tham khảo, các tư liệu, số liệu sử dụng trong Luận án là trung
thực, có nguồn gốc rõ ràng và được trích dẫn đầy đủ theo quy định.
Nghiên cứu sinh
Nguyễn Thị Huyền Trang
MỤC LỤC
Trang
MỞ ĐẦU
Chương 1: TỔNG QUAN TÌNH HÌNH NGHIÊN CỨU LIÊN
QUAN ĐẾN ĐỀ TÀI
1
7
1.1. Những công trình nghiên cứu có liên quan đến đề tài 7
1.2. Đánh giá kết quả của các công trình nghiên cứu 22
1.3. Những vấn đề luận án tập trung giải quyết 23
Chương 2: ĐẢNG RA ĐỜI VÀ TRIỂN KHAI HOẠT ĐỘNG ĐỐI
NGOẠI TỪ NĂM 1930 ĐẾN THÁNG 8 NĂM 1939
25
2.1. Sự ra đời và hoạt động đối ngoại của Đảng từ năm 1930 đến
năm 1935
25
2.2. Hoạt động nâng cao vị thế của Đảng, đoàn kết với các Đảng
Cộng sản, đấu tranh vì hòa bình dân chủ từ năm 1936 đến tháng
8 năm 1939
54
Chương 3: HOẠT ĐỘNG ĐỐI NGOẠI CỦA ĐẢNG TRONG
CAO TRÀO GIẢI PHÓNG DÂN TỘC TỪ THÁNG 9 NĂM 1939
ĐẾN THÁNG 8 NĂM 1945
71
3.1. Hoàn cảnh quốc tế và trong nước 71
3.2. Sự chuyển hướng chỉ đạo chiến lược và hoạt động đối ngoại
của Đảng từ tháng 9 năm 1939 đến tháng 8 năm 1945
77
Chương 4: MỘT SỐ NHẬN XÉT VÀ KINH NGHIỆM 121
4.1. Nhận xét chung 121
4.2. Một số kinh nghiệm 134
KẾT LUẬN 145
DANH MỤC CÔNG TRÌNH KHOA HỌC CỦA TÁC GIẢ CÓ
LIÊN QUAN ĐẾN LUẬN ÁN
149
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO 150
PHỤ LỤC 167
DANH MỤC CÁC TỪ VIẾT TẮT TRONG LUẬN ÁN
BCH : Ban Chỉ huy
ĐCS : Đảng Cộng sản
ĐCSĐD : Đảng Cộng sản Đông Dương
ĐCSVN : Đảng Cộng sản Việt Nam
Nxb : Nhà xuất bản
QTCS : Quốc tế Cộng sản
1
MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài nghiên cứu
Đối ngoại là một hoạt động không thể thiếu với bất kỳ quốc gia nào, trong
bất kỳ thời điểm nào. Bởi vậy, với tư cách là chính đảng lãnh đạo cách mạng giải
phóng dân tộc, ĐCSVN luôn phải đưa ra những đường lối đối ngoại cũng như tiến
hành hoạt động đối ngoại trong bối cảnh các mối quan hệ quốc tế đan xen, phức
tạp. Đặc biệt, đã có những thời điểm Đảng phải đối mặt với không chỉ một mà
nhiều đối tác, cũng như nhiều kẻ đối địch. Những lúc đó, một yêu cầu tất yếu đặt
ra cho Đảng là phải tìm được đường lối thích hợp và ứng biến linh hoạt nhằm tận
dụng mọi thời cơ, tranh thủ mọi lực lượng trên thế giới. Thời kỳ ĐCSĐD lãnh đạo
đất nước đi đến độc lập tự do 1930-1945 chính là thời kỳ mà yêu cầu đó càng bức
thiết để một chính đảng non trẻ có thể tranh thủ được mọi yếu tố có lợi cho cách
mạng Việt Nam, dẫn dắt nhân dân tiến hành thành công Cách mạng Tháng Tám
năm 1945, mở ra thời kỳ mới cho dân tộc.
Từ đầu năm 1930, ĐCSVN ra đời, nắm quyền lãnh đạo cách mạng Việt
Nam. Với tổ chức chặt chẽ và Cương lĩnh Chính trị đúng đắn, Đảng đã quy tụ lực
lượng và sức mạnh toàn dân tộc bước vào một thời kỳ đấu tranh mới. Tháng 10-
1930, ĐCSVN đổi tên thành ĐCSĐD, tiếp tục lãnh đạo toàn dân thực hiện nhiệm
vụ cao cả: đấu tranh giải phóng dân tộc khỏi ách áp bức, thống trị của chủ nghĩa
thực dân, đem lại quyền lợi cho quần chúng cần lao. Thời kỳ này, Đảng đã
xác định phương hướng chiến lược của cách mạng Đông Dương: lúc đầu là cuộc
cách mạng tư sản dân quyền, sau đó tiếp tục phát triển, bỏ qua thời kỳ tư bản chủ
nghĩa, tiến thẳng lên chủ nghĩa xã hội. Đồng thời, xác định những nhiệm vụ cụ
thể của cách mạng bao hàm hai nội dung: đánh đổ đế quốc và phong kiến, giành
độc lập dân tộc và thực hiện người cày có ruộng có quan hệ khăng khít với nhau;
xác định hình thức, phương pháp đấu tranh và mối quan hệ giữa cách mạng Việt
Nam và cách mạng thế giới. Thời kỳ này, trong hoạt động đối ngoại, Đảng hướng
tới việc xây dựng, mở rộng quan hệ với QTCS và các ĐCS anh em, các lực lượng
2
tiến bộ trên thế giới để nâng cao vị thế của Đảng, xây dựng lực lượng, ổn định tổ
chức, lãnh đạo các phong trào cách mạng.
Đến thời kỳ 1936-1939, Đảng xác định nhiệm vụ trực tiếp, trước mắt là
đấu tranh chống chế độ phản động thuộc địa, chống phát xít, chống chiến tranh,
đòi tự do, dân sinh, dân chủ, cơm áo, hòa bình, kẻ thù trước mắt là thực dân
phản động Pháp và tay sai. Đảng hướng tới việc mở rộng quan hệ của Đảng sau
khi đã chính thức trở thành một phân bộ độc lập của QTCS. Việc đưa phong trào
đấu tranh dân chủ trở nên công khai, sát hợp với tình hình thế giới và trong nước
đã khiến cho mối quan hệ của ĐCSĐD với các ĐCS anh em có sự gắn kết hơn.
Thời kỳ 1939-1945, cuộc Chiến tranh thế giới thứ hai đã làm thay đổi cơ
bản tình hình thế giới. Tháng 9-1940, phát xít Nhật vào Đông Dương. ĐCSĐD
đã tiến hành hàng loạt các hành động cụ thể để lãnh đạo cách mạng Việt Nam
như tổ chức Hội nghị Ban Chấp hành Trung ương ĐCSĐD tháng 11-1939, đặt
nhiệm vụ giải phóng dân tộc lên hàng đầu; Thành lập Mặt trận thống nhất dân
tộc phản đế Đông Dương thay cho Mặt trận Dân chủ Đông Dương, nhằm tập
hợp mọi lực lượng dân tộc chống đế quốc; Hội nghị lần thứ tám Ban Chấp hành
Trung ương Đảng (tháng 5-1941) đề ra chủ trương, đặt nhiệm vụ giải phóng dân
tộc lên hàng đầu và nhấn mạnh đây là nhiệm vụ “bức thiết nhất”. Để thực hiện
chủ trương đó, Đảng đã lãnh đạo toàn dân, chuẩn bị đầy đủ về mọi mặt, trong đó
có thành lập Việt Nam độc lập đồng minh (Việt Minh) để đoàn kết dân tộc Việt
Nam, không phân biệt giai cấp, tầng lớp, dân tộc, tôn giáo tín ngưỡng. Chính
nhờ sự chỉ đạo đúng đắn, sáng suốt của Đảng, toàn dân tộc Việt Nam đã tiến
hành thành công cuộc Tổng khởi nghĩa Tháng Tám năm 1945, đánh dấu một
mốc son chói lọi trong lịch sử dân tộc.
Để đi đến thắng lợi to lớn đó, hoạt động đối ngoại dưới sự lãnh đạo của
Đảng đóng một vai trò quan trọng. Những chủ trương, đường lối đối ngoại, các
đối sách của ĐCSĐD trong quan hệ đối ngoại thời kỳ này cho thấy sự tài tình,
nhạy bén của Đảng đối với mỗi một đối tượng riêng. Hoạt động đối ngoại của
Đảng từ năm 1930 đến năm 1945 hướng đến các nhóm đối tượng có tác động
3
trực tiếp và gián tiếp đến sự vận động, phát triển của cách mạng Việt Nam:
QTCS và các ĐCS; các nước Đồng minh
Như chúng ta đã biết, những hoạt động đối ngoại của Đảng trong thời kỳ
1930-1945 được tiến hành trong bối cảnh Đảng chưa phải đảng cầm quyền. Điều
này gây trở ngại lớn trong việc tạo dựng mối quan hệ với các nước khác bởi
Đảng chưa thể chính thức đại diện cho quốc gia mà chỉ có tư cách là một đảng
phái chính trị (thậm chí là một đảng chính trị không được hoan nghênh ở các
nước tư bản). Để vượt qua trở ngại này, Đảng đã linh hoạt sử dụng nhiều danh
nghĩa khác nhau khi đặt mối quan hệ với các đối tượng: khi liên hệ với các tổ
chức cộng sản thì dùng chính danh ĐCSĐD, còn khi giao thiệp với các nước tư
bản trong khối Đồng minh thì dưới danh nghĩa tổ chức mặt trận chống phát xít.
Xét đến hoàn cảnh khó khăn mà Đảng phải đương đầu, những thành công trong
hoạt động đối ngoại mà Đảng đạt được thời kỳ này càng có ý nghĩa to lớn.
Từ việc phân tích các chủ trương, chính sách đúng đắn, cách ứng xử phù
hợp của Đảng trong hoạt động đối ngoại từ năm 1930 đến năm 1945, để đạt
được mục tiêu giải phóng dân tộc, có thể hiểu rõ hơn hoạt động đối ngoại phong
phú để vượt qua khó khăn thử thách của Đảng trong thời kỳ lịch sử đầy biến
động và quan trọng nhưng còn ít được nghiên cứu, tìm hiểu này. Qua đó, có thể
thấy được bức tranh toàn cảnh của các mối liên hệ giữa cách mạng Việt Nam với
quốc tế trong giai đoạn 1930-1945, rút ra những kinh nghiệm cần thiết về đối
ngoại trong xu thế hội nhập toàn cầu của Việt Nam ngày nay.
Chính vì vậy, nghiên cứu sinh lựa chọn đề tài “Hoạt động đối ngoại của
Đảng từ năm 1930 đến năm 1945”với mong muốn tập trung làm rõ sự thành
công của Đảng trong quá trình lãnh đạo hoạt động đối ngoại, tạo điều kiện cho
cách mạng Việt Nam phát triển mạnh mẽ và đi đến thắng lợi đúng với mong
muốn của toàn thể nhân dân. Đây là nhu cầu khách quan, cần thiết trong nghiên
cứu về lịch sử ĐCSVN, đồng thời làm rõ thêm những nội dung lịch sử đã diễn ra
trong giai đoạn này.
4
2. Mục tiêu và nhiệm vụ nghiên cứu
2.1. Mục tiêu nghiên cứu
Nghiên cứu, làm rõ quá trình nhận thức và đường lối của ĐCSĐD về công
tác đối ngoại cũng như những tình huống đối ngoại tiêu biểu của Đảng từ 1930
đến 1945, trên cơ sở đó, luận án góp phần làm sáng tỏ hoạt động đối ngoại của
Đảng, rút ra những ưu điểm, hạn chế và kinh nghiệm về đối ngoại của Đảng từ
1930 đến 1945.
2.2. Nhiệm vụ nghiên cứu
Để thực hiện mục tiêu trên, đề tài tập trung vào những nhiệm vụ cụ thể:
Một là, phân tích, đánh giá bối cảnh lịch sử thế giới và Việt Nam trong
thời kỳ 1930-1945.
Hai là, làm rõ những chủ trương, đường lối của ĐCSĐD về công tác đối
ngoại và hoạt động đối ngoại của Đảng từ 1930 đến tháng 8-1945.
Ba là, đưa ra một số nhận xét về quá trình Đảng lãnh đạo, chỉ đạo công tác
đối ngoại, đánh giá những thành tựu, hạn chế, đúc rút một số kinh nghiệm trong
quá trình Đảng lãnh đạo hoạt động đối ngoại từ năm 1930 đến năm 1945.
3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
3.1. Đối tượng nghiên cứu
Đối tượng nghiên cứu của luận án là hoạt động đối ngoại của Đảng từ
1930 đến 1945, bao gồm các hoạt động đối ngoại của Đảng trong các tình huống
đối ngoại cụ thể và cả nội dung các chủ trương đối ngoại quan trọng của Đảng.
Sở dĩ lựa chọn đối tượng nghiên cứu như vậy là do luận án đi sâu nghiên cứu
hoạt động đối ngoại, nhưng nhiều hoạt động đã tự thân toát lên tư tưởng chỉ đạo
của Đảng, nên luận án không hoàn toàn khu biệt hoạt động đối ngoại với đường
lối đối ngoại.
3.2. Phạm vi nghiên cứu
Phạm vi nội dung: Nghiên cứu hoạt động đối ngoại của Đảng với các đối
tượng: QTCS, một số ĐCS như Liên Xô, Trung Quốc, Pháp, một số ĐCS ở khu
5
vực Đông Nam Á và các lực lượng Đồng minh (Anh, Mỹ, Trung Hoa Dân quốc)
dưới danh nghĩa của ĐCSĐD hoặc dưới danh nghĩa các tổ chức khác. Đặc biệt,
Nguyễn Ái Quốc với vai trò một nhà hoạt động cách mạng Việt Nam, người
sáng lập ĐCSVN, là người có ảnh hưởng lớn đến ĐCSĐD và cách mạng Việt
Nam. Vì vậy, luận án cũng xem Nguyễn Ái Quốc như một chủ thể của hoạt động
đối ngoại của Đảng để nghiên cứu.
Phạm vi không gian: Luận án chủ yếu nghiên cứu hoạt động đối ngoại của
Đảng diễn ra ở Việt Nam, Trung Quốc, Liên Xô, một số sự kiện diễn ra ở Đông
Nam Á và một số nước khác
Phạm vi thời gian: từ đầu năm 1930 đến tháng 8-1945.
4. Cơ sở lý luận, phương pháp nghiên cứu và nguồn tài liệu
4.1. Cơ sở lý luận
Luận án dựa trên cơ sở lý luận chủ nghĩa Mác-Lênin, tư tưởng Hồ Chí
Minh và quan điểm của ĐCSVN về công tác đối ngoại.
4.2. Phương pháp nghiên cứu
Luận án được thực hiện trên cơ sở vận dụng phương pháp luận của chủ
nghĩa duy vật biện chứng và chủ nghĩa duy vật lịch sử, chủ yếu là phương pháp
lôgic, phương pháp lịch sử, và các phương pháp phân tích, tổng hợp, so sánh...
4.3. Nguồn tài liệu
- Văn kiện Đảng là nguồn tài liệu quan trọng được khai thác khi nghiên
cứu lịch sử Đảng nói chung và lịch sử hoạt động đối ngoại của Đảng nói riêng.
- Các tác phẩm của Nguyễn Ái Quốc-Hồ Chí Minh: Một số tác phẩm quan
trọng và tiêu biểu của Nguyễn Ái Quốc-Hồ Chí Minh về đường lối, chủ trương
của Đảng từ năm 1930 đến tháng 8-1945.
- Các tư liệu khác liên quan đến đề tài:
+ Các công trình luận án, luận văn, bài báo đã công bố về đề tài.
+ Tư liệu về các hội nghị quốc tế, quan điểm của chính trị gia các nước,
văn kiện của chính phủ các nước.
6
+ Khối báo chí đương thời phát hành từ năm 1941 đến năm 1945, gồm
báo chí bí mật như Cờ giải phóng, Việt Nam độc lập, Cứu quốc
+ Các tài liệu nghiên cứu: ảnh, bưu thiếp, thẻ tham dự hội nghị (một số
được đưa vào phụ lục luận án).
5. Đóng góp mới của luận án
- Kết quả nghiên cứu của luận án góp phần cung cấp cơ sở khoa học về
quá trình định hình đường lối đối ngoại của Đảng trong giai đoạn 1930-1945. Từ
đó, thấy rõ sự phát triển, đổi mới và tăng cường sự lãnh đạo thực hiện công tác
đối ngoại của Đảng.
- Phân tích, góp phần làm sáng tỏ những hoạt động đối ngoại của ĐCSĐD
với cách mạng Việt Nam từ năm 1930 đến năm 1945. Góp phần khẳng định
đường lối và hoạt động đối ngoại đúng đắn, sáng tạo của Đảng trong giai đoạn
lãnh đạo đấu tranh giành chính quyền.
- Góp phần đánh giá những ưu điểm, hạn chế trong hoạt động đối ngoại
của Đảng giai đoạn này, đúc rút những kinh nghiệm lịch sử bổ ích có thể áp
dụng trong quá trình lãnh đạo của Đảng về đối ngoại sau này.
6. Kết cấu của luận án
Ngoài phần mở đầu, kết luận, danh mục tài liệu tham khảo, phụ lục, luận
án bao gồm 4 chương; 9 tiết.
7
Chương 1
TỔNG QUAN TÌNH HÌNH NGHIÊN CỨU LIÊN QUAN ĐẾN ĐỀ TÀI
1.1. NHỮNG CÔNG TRÌNH NGHIÊN CỨU CÓ LIÊN QUAN ĐẾN ĐỀ TÀI
“Đối ngoại”, theo định nghĩa trong Từ điển Tiếng Việt của Viện Ngôn
ngữ học [163] là đối với nước ngoài, bên ngoài, nói về đường lối, chính sách, sự
giao thiệp của nhà nước, của một tổ chức; để phân biệt với đối nội. Đối ngoại
luôn là nội dung quan trọng, có tầm ảnh hưởng lớn đối với đường lối, chính sách
của bất kỳ nhà nước hay tổ chức nào. Còn “ngoại giao” là việc thực hiện các mối
quan hệ giữa các quốc gia có chủ quyền thông qua liên lạc, thương lượng, gây
ảnh hưởng cũng như điều chỉnh những khác biệt. Do thời kỳ luận án đề cập đến
Đảng chưa phải là Đảng cầm quyền, Nhà nước Việt Nam chưa được thành lập,
nên nghiên cứu sinh sử dụng thuật ngữ “đối ngoại” để nói đến các hoạt động của
Đảng đối với các Đảng, các lực lượng quốc tế thời kỳ này.
Đây là thời điểm mà đường lối đối ngoại cùng các hoạt động đối ngoại
của Đảng có tác động đến đường lối chung của Đảng trong quá trình lãnh đạo
toàn dân thực hiện thắng lợi các nhiệm vụ, mục tiêu cách mạng của dân tộc,
tránh được những tổn thất lớn lao, là một nội dung quan trọng trong quá trình
nghiên cứu lịch sử Đảng nói riêng, lịch sử dân tộc nói chung.
Các nội dung về vấn đề này được thể hiện trong nhiều công trình nghiên
cứu khoa học, xã hội, các luận án, luận văn, sách, báo về lịch sử Việt Nam nói
chung, lịch sử Đảng nói riêng.
Có thể phân chia thành ba nhóm chính sau đây:
1.1.1. Những công trình nghiên cứu về lịch sử Việt Nam, lịch sử
Đảng liên quan đến đề tài
Đã có nhiều công trình nghiên cứu về vấn đề chung của lịch sử ĐCS mà
trong đó có đề cập đến hoạt động đối ngoại ở các khía cạnh khác nhau. Đáng chú
ý là các công trình:
8
“Lịch sử Đảng Cộng sản Việt Nam” của Ban Nghiên cứu Lịch sử Đảng
Trung ương [7]. Cuốn sách đề cập đến sự lãnh đạo của Đảng qua các giai đoạn
lịch sử, cung cấp những nội dung cơ bản của lịch sử Đảng trong đó nêu lên
những quan điểm, chủ trương của Đảng về hoạt động đối ngoại.
Các sách lịch sử do các đồng chí lãnh đạo của Đảng viết như:
Trường Chinh, “Tiến lên dưới lá cờ của Đảng” [23]; Trường Chinh,
Cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân Việt Nam”, tập I [24]; tập II [25];
Trường Chinh, “Cách mạng Tháng Tám” [26]; Lê Duẩn, “Một vài đặc điểm của
cách mạng Việt Nam” [30]; Lê Duẩn, “Dưới lá cờ vẻ vang của Đảng, vì độc lập
tự do, vì chủ nghĩa xã hội, tiến lên giành thắng lợi mới” [32] đã chỉ ra những
nội dung cụ thể, trong đó có hoạt động đối ngoại, có tính chất tổng kết lý luận và
thực tiễn rất cơ bản, hướng dẫn toàn Đảng, toàn dân ta vươn lên đạt những thắng
lợi mới cho sự nghiệp cách mạng.
“Cách mạng Tháng Mười với độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội ở
Việt Nam” của Tổng Bí thư Ban Chấp hành Trung ương ĐCSVN Lê Duẩn [31].
Cuốn sách đã tập trung khẳng định ý nghĩa của Cách mạng Tháng Mười Nga
đối với thế giới nói chung và Việt Nam nói riêng, thể hiện sự tiếp thu của Đảng
từ thành công của cuộc Cách mạng Tháng Mười, để lãnh đạo nhân dân
nắm vững ngọn cờ độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội, đấu tranh giành thắng lợi
về mọi mặt, trong đó có mặt trận đối ngoại.
“Lịch sử Cách mạng Tháng Tám” của Viện Lịch sử Đảng [161].
Cuốn sách cung cấp một cái nhìn tổng quan về diễn trình của Cách mạng
Tháng Tám, trong đó có đan xen những chủ trương và hoạt động đối ngoại của
Đảng và Hồ Chí Minh.
“Độc lập dân tộc và Chủ nghĩa xã hội” của tác giả Nguyễn Duy Quý
[137]. Cuốn sách đề cập đến việc phát triển một số vấn đề lý luận và thực tiễn
của tiến trình cách mạng Việt Nam và thế giới, phân tích những vấn đề lớn của
dân tộc và những sự kiện lớn của thế giới, trong đó có đề cập đến các hoạt động
9
đối ngoại, vấn đề hợp tác quốc tế... nhưng phân tích ở nhiều thời kỳ, nhiều
khía cạnh khác nhau.
Những công trình trên đi sâu nghiên cứu các vấn đề lý luận chung về
lịch sử Đảng, về quá trình Đảng lãnh đạo nhân dân đấu tranh giành độc lập
dân tộc, trong đó có các hoạt động đối ngoại. Qua đó, các tác giả đều
khẳng định: những quan điểm, đường lối của Đảng nói chung, đường lối
đối ngoại nói riêng đã có giá trị lớn, góp phần vào thành công của cách mạng
Việt Nam. Đồng thời, chỉ ra những hạn chế, và bước đầu đúc kết một số
kinh nghiệm của Đảng trong quá trình lãnh đạo hoạt động đối ngoại. Đây là
những công trình khoa học cung cấp những vấn đề lý luận chung, phương pháp
nghiên cứu đề tài; những luận điểm khoa học và là tài liệu quý cho nghiên cứu
sinh trong quá trình giải quyết các nhiệm vụ mà luận án đặt ra.
1.1.2. Những công trình khoa học nghiên cứu quan hệ đối ngoại và
hoạt động đối ngoại của Đảng liên quan đến đề tài
Nghiên cứu về hoạt động đối ngoại của Đảng, cách mạng Việt Nam từ
năm 1930 đến năm 1945 là một vấn đề mới. Nhìn chung, các công trình nghiên
cứu về ngoại giao Việt Nam thường bắt đầu từ thời điểm nước Việt Nam Dân chủ
Cộng hòa chính thức thành lập (2-9-1945). Các hoạt động đối ngoại của Đảng từ
năm 1930 đến năm 1945 chưa được nghiên cứu thành công trình chuyên khảo
riêng biệt. Dù thời kỳ này, các hoạt động đối ngoại của Đảng có vai trò, ý nghĩa
quan trọng đối với quá trình đấu tranh cách mạng, giành chính quyền về tay
nhân dân. Từ những ngày đầu mới thành lập, Đảng cần có sự ủng hộ mạnh mẽ từ
QTCS và các ĐCS anh em để khẳng định vai trò cũng như có tiếng nói uy tín trên
mặt trận đấu tranh quốc tế. Từng bước, cùng với sự phát triển của cách mạng,
Đảng cũng phải đối mặt với nhiều kẻ thù trực tiếp, gián tiếp. Các công trình
nghiên cứu đã đưa ra đánh giá về đường lối đối ngoại của Đảng, của lãnh tụ
Nguyễn Ái Quốc- Hồ Chí Minh, của cách mạng Việt Nam... Đối với việc
nghiên cứu về đường lối và hoạt động đối ngoại của Đảng, có các công trình tiêu
biểu như:
10
“Ý nghĩa của việc đánh bại chủ nghĩa quân phiệt Nhật đối với thắng lợi
của cuộc cách mạng nhân dân ở Trung Quốc, Triều Tiên và Việt Nam” của tác giả
M. L. Titapenco [151]. Tác giả tập trung vào phong trào giải phóng dân tộc ở
Viễn Đông và Đông Nam Á sau Chiến tranh thế giới lần thứ hai. Trong đó có
đề cập đến quan hệ đối ngoại, thời cơ cách mạng dẫn đến sự ra đời của ĐCSVN
để lãnh đạo toàn dân khởi nghĩa giành chính quyền trong cả nước.
“Cách mạng Việt Nam 1945-Rudơven, Hồ Chí Minh và Đờ Gôn trong
thế giới có chiến tranh” của tác giả Stein Tønnesson [154]. Trong cuốn sách,
tác giả phân tích tình hình quốc tế và Việt Nam; nhấn mạnh các nguyên nhân
dẫn tới thành công của cách mạng Việt Nam năm 1945.
“Paris-Sài Gòn-Hà Nội-Tài liệu lưu trữ của cuộc chiến tranh 1944-1947
của tác giả Philippe Deviller [29]. Cuốn sách đã nêu lên những nhận định của
một nhà sử học người Pháp về cuộc chiến tranh ở Việt Nam thông qua khối
tài liệu lưu trữ từ phía Pháp.
“Tại sao Việt Nam?” của tác giả A. Patti [128]. Một thiếu tá tình báo OSS
được trực tiếp gặp Nguyễn Ái Quốc thời điểm năm 1945, đã kể về những sự kiện
lịch sử, quan điểm của ông về các mối quan hệ, ảnh hưởng của chúng đối với
cách mạng Việt Nam.
“Việt Nam 1945 - Sự tìm kiếm quyền lực” của tác giả David G. Marr
[188]. Cuốn sách trình bày bối cảnh và diễn tiến cuộc Cách mạng Tháng Tám
1945, vào lúc lực lượng Việt Minh giành chính quyền và tuyên bố Việt Nam
độc lập. Tác giả David G. Marr cho rằng: “Sau ngày 9 tháng 3 năm 1945, các sự
kiện diễn ra theo một cái đà tự phát, không có bàn tay điều khiển nào. Những
đảng viên Cộng sản và những người tham gia Việt Minh ở địa phương đã giành
nhiều thắng lợi do sự ứng phó nhanh chóng của họ trước những thay đổi đột ngột
hơn là theo một kế hoạch điều khiển nào”.
“Đảng và Nhà nước Việt Nam thực hiện nghĩa vụ quốc tế đối với
cách mạng Lào thời kỳ 1930-1945” của tác giả Nguyễn Trọng Phúc [132], thuộc
Đề tài nghiên cứu khoa học “Khái quát sự hình thành và phát triển quan hệ
11
hai nước trong giai đoạn 1930-1945, rút ra một số bài học và kinh nghiệm”,
Học viện Chính trị Quốc gia Hồ Chí Minh. Công trình đã nghiên cứu chi tiết quá
trình thực hiện nghĩa vụ quốc tế đối với cách mạng Lào thời kỳ 1930-1945,
phân tích những hoạt động thực tế của Đảng.
“QTCS với Việt Nam” của tác giả A.A. Xô-cô-lốp [170]. Cuốn sách nêu
nhiều tư liệu chứng minh sự giúp đỡ và ảnh hưởng của QTCS với ĐCSĐD
và những cán bộ cách mạng Việt Nam đã học tập tại Liên Xô. Điều này ảnh
hưởng trực tiếp đến đường lối của ĐCSĐD, tác động đến phong trào cách mạng
Việt Nam.
“QTCS và cách mạng Việt Nam” của TS. Hồ Thị Tố Lương [98]. Cuốn
sách cho thấy rõ những ảnh hưởng của QTCS (1919-1943) đến Đảng và cách
mạng Việt Nam cũng như những hạn chế của mối quan hệ này.
“OSS và Hồ Chí Minh-Đồng minh bất ngờ trong cuộc chiến chống phát xít
Nhật” của tác giả Dixee R. Bartholomew-Feis [11]. Cuốn sách viết về mối quan
hệ giữa Mỹ (cụ thể là Cơ quan Tình báo chiến lược Mỹ OSS - tiền thân của CIA)
với Việt Minh trong thời kỳ đấu tranh giành chính quyền. Trong đó, đề cập
cụ thể vai trò quan trọng của Hồ Chí Minh để thiết lập mối quan hệ này, đồng
thời, tác giả viết về các mối quan hệ quốc tế đầu tiên của ĐCSĐD thông qua
Mặt trận Việt Minh trong khối Đồng minh chống phát xít.
“Sự tương đồng và khác biệt về quan điểm cách mạng Việt Nam
giữa Hồ Chí Minh với QTCS và ĐCSĐD những năm 1930-1941” do PGS.TS.
Nguyễn Khánh Bật chủ biên [12]. Cuốn sách đề cập tới những vấn đề quan hệ
đối ngoại và các vấn đề về quan điểm, lý luận giữa ĐCSĐD và QTCS, là cơ sở
để nghiên cứu sinh nghiên cứu sâu hơn về quan hệ đối ngoại giữa ĐCSĐD và
QTCS.
“Lịch sử quan hệ đặc biệt Việt Nam-Lào, Lào-Việt Nam (1930-2007)” của
Đảng Cộng sản Việt Nam, Đảng Nhân dân Cách mạng Lào [44]. Cuốn sách trình
bày những nét chính của chặng đường lịch sử quan hệ đặc biệt giữa Việt Nam và
Lào từ năm 1930 đến năm 2007; nêu bật những thành quả, vai trò to lớn của
12
mối quan hệ đặc biệt giữa hai dân tộc đối với tiến trình cách mạng mỗi nước
trong suốt quá trình đấu tranh cách mạng cũng như trong công cuộc xây dựng và
bảo vệ Tổ quốc hiện nay dưới sự lãnh đạo của ĐCSVN và Đảng Nhân dân
Cách mạng Lào.
“Đối ngoại Việt Nam qua các thời kỳ lịch sử 1945-2012” của tác giả
Đinh Xuân Lý [100]. Cuốn sách đề cập đến các thời kỳ lịch sử đối ngoại của
Việt Nam, bao gồm những quan điểm đối ngoại của Hồ Chí Minh và ĐCSVN
trước Cách mạng Tháng Tám 1945.
“Lịch sử quan hệ đối ngoại Việt Nam (1940-2010)” của GS. Vũ Dương
Ninh [125]. Cuốn sách trình bày những nét cơ bản về lịch sử quan hệ đối ngoại
Việt Nam từ năm 1940 đến năm 2010, với các giai đoạn lịch sử quan trọng của
đất nước, nêu lên bối cảnh quốc tế và trong nước dẫn đến các sự kiện, diễn tiến
lịch sử quan hệ đối ngoại của Việt Nam. Trong đó, có một giai đoạn quan trọng
mà luận án nghiên cứu: quan hệ đối ngoại của Việt Nam từ 1940-1945.
Vấn đề hoạt động đối ngoại của Đảng còn được thể hiện trong các
luận án, luận văn, tiêu biểu như:
Luận án Tiến sĩ Lịch sử “Quan hệ Nhật-Pháp và vấn đề Đông Dương trong
thời kỳ chiến tranh thế giới thứ hai 1939-1945” của TS. Trần Văn La [85]. Luận án
đã dựng lại một cách hệ thống, khách quan quan hệ Nhật-Pháp về vấn đề
Đông Dương trong những năm 1939-1945, làm rõ bản chất, nguồn gốc,
biểu hiện mâu thuẫn Nhật-Pháp, cho thấy rõ ảnh hưởng của mối quan hệ này
đối với việc Việt Nam đấu tranh giành độc lập.
Luận án Tiến sĩ Lịch sử “Đảng lãnh đạo hoạt động đối ngoại thời kỳ
1945-1946” của TS. Nguyễn Thị Kim Dung [33]. Luận án đã trình bày các
hoạt động đối ngoại của Đảng trong giai đoạn đầu năm 1945. Luận án phân tích,
luận giải về đường lối đối ngoại của Đảng, tư tưởng, nghệ thuật chỉ đạo, chiến
lược, sách lược ngoại giao của Chủ tịch Hồ Chí Minh: “lợi dụng mâu thuẫn
kẻ thù”, “thêm bạn bớt thù”, “dĩ bất biến, ứng vạn biến”...” nhằm góp phần
giữ vững chính quyền cách mạng, xây dựng lực lượng, trong những năm đầu
13
mới thành lập Nhà nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa. Luận án có phần
phân tích kỹ bối cảnh lịch sử trong nước và tình hình các nước liên quan của
thời kỳ trước năm 1945.
Luận án Tiến sĩ Lịch sử “Quan hệ giữa cách mạng Việt Nam và Liên Xô
trong giai đoạn 1930-1954” của TS. Lê Văn Thịnh [145]. Luận án đề cập đến
các quan hệ về chính trị tư tưởng và tổ chức, về đối ngoại và ngoại giao, về ảnh
hưởng của cách mạng Liên Xô ở Việt Nam. Đồng thời, luận án cũng đề cập đến
quan hệ kinh tế, văn hóa, khoa học kỹ thuật giữa Việt Nam và Liên Xô sau khi
có quan hệ ngoại giao.
Luận án Tiến sĩ Lịch sử “Hoạt động đối ngoại của nước Việt Nam
Dân chủ Cộng hòa thời kỳ 1945-1950” của TS. Nguyễn Trọng Hậu [59]. Luận
án phân tích kỹ bối cảnh thế giới, tình hình của các nước ở Đông Dương, đồng
thời chỉ rõ âm mưu của các nước lớn đối với vấn đề Đông Dương, đặc biệt là
Việt Nam.
Một số bài viết đăng trên các tạp chí có thể kể đến: Bài viết “Chủ trương
tìm bạn đồng minh xa của Mặt trận Việt Minh qua Báo Việt Nam Độc lập (1941-
1945)” của tác giả Nguyễn Trọng Hậu [60], phân tích về đường lối của Đảng,
của Mặt trận Việt Minh trong việc tìm đồng minh.
Một số bài viết của PGS.TS. Nguyễn Mạnh Hà như “Bàn thêm về vấn đề
thời cơ trong cuộc tổng khởi nghĩa năm 1945” [52]; “Bài học của cách mạng
Tháng Tám năm 1945 với công cuộc đổi mới” [53]; “Ý nghĩa thời đại của Tuyên
ngôn Độc lập” [54], đã phân tích kỹ vấn đề thời cơ và nghệ thuật chớp thời cơ
đưa đến sự thành công của Cách mạng Tháng Tám ở Việt Nam.
Ngoài ra, còn nhiều bài nghiên cứu có liên quan đến quan hệ đối ngoại
Việt Nam được công bố trên các tạp chí chuyên ngành như: Nghiên cứu quốc tế,
Nghiên cứu Đông Nam Á, Nghiên cứu Trung Quốc, Nghiên cứu Đông Bắc Á,
Nghiên cứu châu Mỹ, Nghiên cứu châu Á, Nghiên cứu Lịch sử, Châu Á, Nghiên
cứu Lịch sử quân sự
14
Các tài liệu như: “Những hoạt động ngoại giao đầu tiên của Mặt trận
Việt Minh” (1991) của tác giả Phạm Xanh, Tài liệu lưu tại Bảo tàng Hồ Chí Minh
H28C9/22 [168]; “Thông điệp đầu tiên của Chính phủ Việt Nam gửi Liên hiệp quốc
tháng 8-1945” của tác giả Phạm Xanh; “Một số tư liệu về quan hệ Việt-Mỹ”, của
tác giả Nguyễn Xuân Thông, Tài liệu lưu tại Bảo tàng Hồ Chí Minh H28C8/275
[146]... cung cấp những tư liệu nền tảng, làm rõ những hoạt động đối ngoại
đầu tiên, mở ra những cuộc tiếp xúc và xác lập quan hệ với Mỹ.
Những công trình nghiên cứu này phần nào đề cập đến đường lối
đối ngoại của Đảng nhưng tập trung vào từng nhóm đối tượng cụ thể, hoặc
nghiên cứu về đối ngoại ở một thời kỳ khác.
Vấn đề hoạt động đối ngoại của Đảng từ 1930-1945 còn được đề cập ở
những mức độ khác nhau trong các tập tài liệu của các tác giả nước ngoài:
Tập tài liệu “Việt Nam và Trung Quốc 1938-1954” của tác giả
King C.Chen, bản dịch tiếng Việt [22]; cuốn “Nước Mỹ và Đông Dương từ
Rudơven đến Ních xơn” của tác giả A. Pulơ [134]; cuốn “Trung Quốc và việc
giải quyết cuộc chiến tranh Đông Dương lần thứ nhất” của Ph. Gioayô [51];
cuốn “Lời phán quyết về Việt Nam” của Gi. A. Amtơ [1]... cung cấp những
quan điểm của các nhà sử học nước ngoài về các sự kiện lịch sử, những mối
quan hệ giữa Trung Quốc, Nhật Bản, Mỹ... với Đảng trong thời kỳ mà luận án
nghiên cứu.
Nhiều cuốn sách, bài viết về chính sách bành trướng của quân phiệt Nhật
ở vùng Đông Nam Á - Thái Bình Dương, về những hoạt động và tội ác của
quân đội Nhật ở Đông Dương, qua đó có thể thấy rõ hơn bối cảnh lịch sử và
thời cơ cho Cách mạng Tháng Tám 1945. Chẳng hạn như: “Tình hình nghiên
cứu của Nhật Bản về tội ác chiến tranh của phát xít Nhật tại Việt Nam” của
Furuta Motoo, Tạp chí Khoa học - Đại học Tổng hợp Hà Nội, 4-1988. Các
học giả nhận định: tại Đông Dương, mâu thuẫn Nhật - Pháp ngày càng gay gắt,
cuối cùng chúng tự thanh toán nhau. Nguyên nhân dẫn đến cuộc xung đột ấy là
vì cả hai đều muốn giành lấy Đông Dương - một vị trí có ý nghĩa quan trọng về
15
quân sự và kinh tế. Ngoài ra, còn một số bài chuyên khảo đề cập trực tiếp đến
hoạt động của quân đội Pháp và Nhật ở Đông Dương trong thời kỳ 1939-1945
như:“Đông Dương thuộc Pháp: 1940-1945”(1982) của P. Brocheux, Nxb
Presses Universitaires de France;“Quân đội Pháp ở Đông Dương 1939-
1945”(1985) của Claude Hesse d’Alzon, NxbService historique de l’Armée de
terre, là nguồn tư liệu phong phú về các hoạt động quân sự của quân đội Pháp ở
Đông Dương.
Các cuốn sách, tài liệu của các tướng lĩnh, học giả các nước đã cung cấp
cho người đọc nhiều tư liệu liên quan đến vấn đề này. Tuy nhiên, do khác biệt về
cách nhìn nhận và đánh giá vấn đề, nên nghiên cứu sinh chỉ tham khảo ở khía
cạnh cung cấp tư liệu bổ sung cho vấn đề nghiên cứu.
1.1.3. Những công trình nghiên cứu về hoạt động của Nguyễn Ái Quốc
- Hồ Chí Minh liên quan đến đề tài
Khi nói đến sự lãnh đạo của Đảng, đặc biệt là hoạt động đối ngoại, không
thể không nhắc đến vai trò của Nguyễn Ái Quốc - Hồ Chí Minh. Những hoạt
động của Người có đóng góp lớn đối với Đảng, với đất nước, dẫn dắt Đảng, dẫn
dắt dân tộc Việt Nam đi đến độc lập tự do, đã được nhiều công trình lớn đề cập
đến.
Cuốn “Chủ tịch Hồ Chí Minh với công tác ngoại giao” của Học viện Quan
hệ Quốc tế [68]. Thông qua những sự kiện, hoạt động trên lĩnh vực đối ngoại và
ngoại giao của Chủ tịch Hồ Chí Minh, cuốn sách khẳng định công lao to lớn của
Chủ tịch Hồ Chí Minh đối với cách mạng Việt Nam nói chung, trên mặt trận ngoại
giao và quan hệ quốc tế nói riêng.
Cuốn sách “Chủ tịch Hồ Chí Minh với công tác ngoại giao” [68] có phần
tập trung phân tích các hoạt động đối ngoại của Nguyễn Ái Quốc từ 1941-1945,
trong đó có mối quan hệ với T...ên (năm 1925). Người tổ chức huấn luyện
chính trị để xây dựng đội ngũ nòng cốt, gửi các thanh niên yêu nước đi học ở
Trường Đại học phương Đông, Trường Quân sự Hoàng Phố Đồng thời,
tăng cường giác ngộ, giáo dục, tuyên truyền cách mạng bằng việc ra báo
Thanh niên (6-1925), truyền bá chủ nghĩa Mác-Lênin vào Việt Nam.
Nhờ sự giúp đỡ tích cực của ĐCS Pháp và các đảng anh em khác, dưới sự
lãnh đạo của QTCS, nhiều sách báo về Chủ nghĩa Mác-Lênin và các tài liệu
tuyên truyền của Nguyễn Ái Quốc được in và truyền bá về Việt Nam, được
giai cấp công nhân và nhân dân Việt Nam đón nhận như “người đi đường đang
khát mà có nước uống, đang đói mà có cơm ăn” [111, tr.173]. Từ đó, người
Việt Nam biết đến chủ nghĩa Mác-Lênin, quan điểm về vấn đề dân tộc và
thuộc địa của QTCS, tiếp nhận được sự chỉ đạo của QTCS đối với cách mạng
thuộc địa, bắt đầu có suy nghĩ mới, đi theo con đường mới tiến tới giải phóng
dân tộc. Một cao trào đấu tranh mạnh mẽ, sôi nổi khắp cả nước diễn ra, giai cấp
công nhân dần trở thành một lực lượng chính trị độc lập. Sự phát triển mạnh mẽ
của phong trào đấu tranh của giai cấp công nhân và các tầng lớp nhân dân đặt ra
yêu cầu phải có tổ chức đảng chính trị lãnh đạo.
Năm 1927, cánh hữu trong Quốc dân Đảng Trung Hoa, đứng đầu là
Tưởng Giới Thạch, tiến hành cuộc đảo chính phản cách mạng. Do tình hình
không thuận lợi cho việc ở lại Trung Quốc, Nguyễn Ái Quốc quay lại Mátxcơva,
tiếp tục tìm hiểu, nghiên cứu phong trào cách mạng ở thuộc địa. Năm 1928,
Người đến Xiêm, hoạt động theo phân công của QTCS, đồng thời nghiên cứu
con đường trở về Tổ quốc. Trong thời gian ở Xiêm, Người tích cực giúp đỡ,
gây dựng phong trào cách mạng cho quần chúng yêu nước. Nhờ đó, những người
tiên phong đã nhận thức được tình hình và đứng ra thành lập các tổ chức
cộng sản đầu tiên ở Xiêm vào nửa cuối năm 1929, đầu năm 1930.
32
Từ cuối năm 1929, đầu năm 1930, ở Việt Nam lần lượt thành lập ba tổ chức
Đảng: Đông Dương Cộng sản Đảng (thành lập ngày 17-6-1929), An Nam Cộng sản
Đảng (thành lập tháng 8-1929), Đông Dương Cộng sản Liên đoàn (thành lập ngày
1-1-1930). Ba tổ chức song song tồn tại gây ra tình trạng chia rẽ, bè phái, cục bộ,
khiến quần chúng yêu nước không hiểu đâu là tổ chức đảng chân chính.
Trước tình hình đó, ngày 27-10-1929, QTCS gửi những người cộng sản ở
Đông Dương tài liệu Về việc thành lập một ĐCS ở Đông Dương, chỉ rõ:
“Không có một ĐCS duy nhất trong lúc phong trào quần chúng công nhân và
nông dân ngày càng phát triển, đó là điều cực kỳ nguy hiểm cho tương lai
trước mắt của cuộc cách mạng ở Đông Dương” [36, tr. 614]. QTCS đã ra chỉ thị,
nêu rõ: “Nhiệm vụ quan trọng nhất và cấp bách nhất của tất cả những người
cộng sản Đông Dương là thành lập một đảng cách mạng có tính chất giai cấp của
giai cấp vô sản, nghĩa là một ĐCS có tính chất quần chúng ở Đông Dương.
Đảng đó phải chỉ có một và là tổ chức cộng sản duy nhất ở Đông Dương” [36,
tr.614]. Việc hợp nhất phải “dưới sự lãnh đạo của một đại diện Ban Chấp hành
QTCS, cần thành lập ngay một Ban hợp nhất”.
Ngay từ năm 1924, khi về công tác ở Trung Quốc, Nguyễn Ái Quốc đã
được giao nhiệm vụ là “phái viên của QTCS có đầy đủ quyền quyết định
mọi vấn đề liên quan đến phong trào cách mạng ở Đông Dương” [103, tr.13].
Đây là quyết định quan trọng do chính đồng chí Pêtơrốp - Tổng thư ký
Ban Phương Đông ký ngày 14-4-1924. Trong bức thư ngày 13-8-1925, Chủ tịch
đoàn Quốc tế Nông dân gửi Nguyễn Ái Quốc, Người được phân công phụ trách
phong trào cách mạng Trung Quốc, Đài Loan, Miến Điện, Xiêm, Philippin,
Đông Dương [8, tr.62]. Đây là cơ sở đầu tiên và quan trọng để củng cố và
phát triển mối quan hệ tích cực giữa cách mạng Việt Nam và cách mạng thế giới
sau này. Với đầy đủ uy tín và thẩm quyền, Nguyễn Ái Quốc triệu tập Hội nghị
hợp nhất các tổ chức cộng sản của Việt Nam. Mục tiêu chính của việc hợp nhất
các tổ chức Đảng ở ba kỳ thành ĐCSVN là làm cho Việt Nam hoàn toàn độc lập,
thực hiện giải phóng dân tộc, giải phóng xã hội, giải phóng con người và tạo ra
33
những điều kiện phát triển mới vì lợi ích của dân tộc và con người Việt Nam.
Về vấn đề đối ngoại với các ĐCS anh em, QTCS đã chỉ đạo:
Ban Chấp hành Trung ương lâm thời phải liên lạc với các đảng viên
ĐCS Trung Quốc di cư sang ở Đông Dương và lôi cuốn họ vào
công tác đảng và công tác cách mạng quần chúng ở Đông Dương.
ĐCSĐD phải liên lạc thường xuyên với ĐCS Pháp, phải báo cho
Ban Chấp hành Trung ương ĐCS Pháp biết tình hình công tác của
mình. Về phần mình, ĐCS Pháp phải hết sức giúp đỡ
ĐCSĐD. ĐCSĐD cũng phải đặt quan hệ với các ĐCS anh em khác,
trước hết là với ĐCS Trung Quốc và ĐCS Ấn Độ. [36, tr.614]
Hội nghị hợp nhất thành lập ĐCS đã họp từ ngày 6 tháng 1 đến ngày 7
tháng 2 năm 19301 ở bán đảo Cửu Long (Hồng Kông), do Nguyễn Ái Quốc
chủ trì. Thành phần tham dự Hội nghị gồm: 2 đại biểu Đông Dương Cộng sản
Đảng: Trịnh Đình Cửu và Nguyễn Đức Cảnh, 2 đại biểu An Nam Cộng sản
Đảng: Nguyễn Thiệu và Châu Văn Liêm. Đông Dương Cộng sản Liên đoàn đã
thành lập, song chưa có liên hệ, nên chưa cử được đại biểu tới dự. (Ngày 24-2-
1930, Đông Dương Cộng sản Liên đoàn chính thức gia nhập ĐCSVN).
Tại Hội nghị, các đại biểu nhất trí tán thành hợp nhất, thành lập một
chính đảng duy nhất, lấy tên là ĐCSVN, thông qua các văn kiện quan trọng như:
Chánh cương vắn tắt, Sách lược vắn tắt, Chương trình tóm tắt, Điều lệ vắn tắt
của Đảng và Điều lệ vắn tắt của các tổ chức... Hội nghị cũng ủy quyền cho các
đại biểu thay mặt QTCS trở về nước tiến hành hợp nhất các tổ chức cộng sản, cử
ra Ban Trung ương lâm thời gồm 7 ủy viên.
Bản Chánh cương vắn tắt và Sách lược vắn tắt được thông qua tại Hội nghị
là những văn kiện có tính chất cương lĩnh đầu tiên của Đảng, tuy còn “vắn tắt”
nhưng đã nêu lên những vấn đề cơ bản của cách mạng Việt Nam. Chánh cương
vắn tắt chỉ ra xã hội Việt Nam là một xã hội thuộc địa, nhưng chế độ phong kiến
1 Đại hội Đảng lần thứ III năm 1960 đã quyết định lấy ngày 3 tháng 2 năm 1930 là ngày thành lập Đảng.
34
đang còn và căn bản vẫn là nền kinh tế nông nghiệp. Con đường cách mạng
Việt Nam là phải “làm tư sản dân quyền cách mạng và thổ địa cách mạng để đi tới
xã hội cộng sản” [38, tr.1]. Mục tiêu, nhiệm vụ cách mạng là: “Đánh đổ đế quốc
chủ nghĩa Pháp và bọn phong kiến. Làm cho nước Nam được hoàn toàn độc lập.
Dựng ra chính phủ công nông binh. Tổ chức ra quân đội công nông” [38, tr.2].
Lực lượng cách mạng nêu trong Sách lược vắn tắt là lấy liên minh
công nhân và nông dân làm nòng cốt, đồng thời lôi kéo tiểu tư sản, trí thức,
trung nông, tranh thủ phú nông, trung tiểu địa chủ và tư sản dân tộc để họ đứng
về phía cách mạng. Phương pháp cách mạng là sử dụng sức mạnh quần chúng
lật đổ ách thống trị của đế quốc và tay sai.
Về mặt đối ngoại, Sách lược vắn tắt xác định cách mạng Việt Nam là
một bộ phận của cách mạng thế giới nên cần phải liên kết với cách mạng của các
dân tộc bị áp bức và giai cấp vô sản trên thế giới. “Trong khi tuyên truyền
cái khẩu hiệu nước An Nam độc lập, phải đồng tuyên truyền và thực hành
liên lạc với bị áp bức dân tộc và vô sản giai cấp thế giới, nhất là vô sản giai cấp
Pháp” [38, tr.3]. Các văn kiện này đã bao quát được những vấn đề chủ yếu về
chiến lược, sách lược của cách mạng Việt Nam. Chính nhờ tầm nhận thức
rộng lớn, nhìn thấy sức mạnh quốc tế là ở phong trào đấu tranh chung của các
dân tộc thuộc địa, của giai cấp công nhân thế giới, mà Đảng, ngay từ khi
mới thành lập, đã chủ trương nối liền mối liên kết giữa nhân dân Đông Dương
thuộc địa với người lao động và giới tiến bộ của nước Pháp. Đường lối ấy là nét
đặc biệt của cách mạng Việt Nam: không chỉ đoàn kết với nhân dân
Đông Dương chống kẻ thù chung mà còn đoàn kết với nhân dân Pháp trong cuộc
đấu tranh chống thực dân Pháp xâm lược. Sự đồng tình và và ủng hộ của
nhân dân Pháp và nhân dân tiến bộ trên toàn thế giới xuất phát từ tính chất chính
nghĩa của cách mạng Việt Nam, từ đường lối liên minh quốc tế đúng đắn của
Đảng và Hồ Chí Minh. Đây chính là nhân tố dẫn đến thắng lợi của cách mạng
Việt Nam.
35
Hội nghị cũng nhất trí sẽ ra Tạp chí Đỏ và Báo Tranh đấu làm cơ quan
ngôn luận của Đảng, thông qua Lời kêu gọi của Nguyễn Ái Quốc gửi công nhân,
nông dân, binh lính, thanh niên học sinh và toàn thể quần chúng bị áp bức
bóc lột trong cả nước nhân dịp thành lập Đảng. Sau đó, ngày 18-2-1930,
Nguyễn Ái Quốc viết báo cáo gửi QTCS về những công việc đã làm như:
“Công tác ở Lào, Đi về An Nam, Tới Trung Quốc, Công tác của Trung ương
mới”, đồng thời, nêu lên những kiến nghị tới QTCS.
Ngày 27-2-1930, Nguyễn Ái Quốc viết thư gửi các tổ chức quốc tế để
giới thiệu về ĐCSVN mới được thành lập và đề nghị thiết lập mối quan hệ, sự
giúp đỡ lẫn nhau trong đấu tranh cách mạng. Các thư gửi đại diện Tổng Công hội
thống nhất Pháp ở Quốc tế Công hội, gửi Văn phòng đại diện các ĐCS Đức, Pháp,
Mỹ, Anh ở QTCS đều đề nghị sự giúp đỡ, hợp tác. Lúc này, Nguyễn Ái Quốc với
tư cách là cán bộ của QTCS, Quốc tế Nông dân cùng với nhiều bạn bè của Người
trong QTCS đã có nhiều hoạt động giúp đỡ cho cách mạng Việt Nam
Cùng thời điểm này, mối liên hệ giữa ĐCSVN với Đảng bộ các nước trong
khu vực bắt đầu có sự phát triển. “Đảng bộ Xingapo đã viết thư nói rằng ĐCSVN
sẽ ở dưới sự chỉ dẫn của Xingapo” [103, tr. 16]. Tuy nhiên, báo cáo của Đảng
ngày 18-2-1930 đề nghị QTCS rằng ĐCSVN sẽ nhận sự chỉ dẫn từ Thượng Hải
qua Hồng Kông (để cho thuận tiện xét cả về hoàn cảnh địa lý cũng như hoàn cảnh
chính trị) nhưng vẫn nhấn mạnh sẽ giữ mối quan hệ chặt chẽ với Xingapo và
mong được gửi một đồng chí An Nam sang làm việc với Xingapo. [103, tr.17]
Cuối tháng 3-1930, Nguyêñ Ái Quốc rời Hồng Kông đến Đông Bắc
Xiêm, làm nhiệm vụ do QTCS giao phó. Tháng 4-1930, Nguyễn Ái Quốc đi
Malaixia, rồi qua Inđônêxia, Xingapo, với tư cách là đại diện người Việt Nam
đến dự Hội nghị dưới sự bảo trợ của đồng chí Bí thư Liên hiệp các nhóm
cộng sản ở Inđônêxia.
Đánh giá về sự kiện thành lập ĐCSVN, Chủ tịch Hồ Chí Minh sau này đã
viết: “Việc thành lập Đảng là một bước ngoặt lịch sử vô cùng quan trọng trong
36
lịch sử cách mạng Việt Nam. Nó chứng tỏ rằng giai cấp vô sản ta đã
trưởng thành và đủ sức lãnh đạo cách mạng” [112, tr. 406].
Như vậy, qua một quá trình đầy khó khăn, thử thách, cùng với việc thành lập
ĐCS, Nguyễn Ái Quốc đã từ một thanh niên yêu nước tiến bộ trở thành một
chiến sỹ cách mạng đấu tranh cho độc lập, tự do của dân tộc, thành người cộng sản
kiên trung theo chủ nghĩa Mác-Lênin. Đồng thời, tư tưởng cách mạng của cả
dân tộc Việt Nam được hình thành từ “nguồn trong, gốc thẳng”, được tôi luyện qua
thực tiễn đấu tranh và đưa đến thành công lớn là thành lập, rèn luyện được một
tổ chức Đảng cách mạng tiên tiến, vì mục tiêu độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội.
Từ những hoạt động đầu tiên, Nguyễn Ái Quốc góp phần quan trọng giúp QTCS và
các ĐCS anh em biết đến tình hình Đông Dương và phong trào cách mạng ở
Đông Dương, từ đó, dần có những hành động ủng hộ cuộc đấu tranh của nhân dân
Đông Dương, giúp đỡ nhân dân Đông Dương vượt qua khó khăn trước
sự khủng bố, đàn áp dã man của thực dân Pháp. Qua đó, Nguyễn Ái Quốc cũng
giúp cho ĐCS các nước quan tâm hơn đến vấn đề thuộc địa.
Hội nghị lần thứ nhất Ban Chấp hành Trung ương Đảng (ngày 14 đến
ngày 31-10-1930)
Tình hình cách mạng có những bước phát triển mới, vai trò lãnh đạo của
Đảng dần được coi trọng. Tháng 4-1930, đồng chí Trần Phú về nước hoạt động
sau khi tốt nghiệp Trường Đại học Phương Đông của QTCS ở Mátxcơva.
Tháng 7-1930, đồng chí được bổ sung vào Ban Chấp hành Trung ương lâm thời
của Đảng và cùng Ban Thường vụ chuẩn bị cho Hội nghị lần thứ nhất của
Ban Chấp hành Trung ương.
Để chuẩn bị cho Hội nghị lần thứ nhất, ngày 2-9-1930, Nguyễn Ái Quốc
gửi thư tới Ban Phương Đông-QTCS, báo cáo chương trình nghị sự dự kiến của
Hội nghị sẽ gồm 4 việc:
a. Tự phê bình trong quá khứ
b. Kế hoạch công tác tiến tới Đại hội Đảng
c. Kế hoạch cho Đại hội Đảng
37
d. Kế hoạch gửi học viên đi đào tạo tại Mátxcơva
Đến ngày 29-9-1930, Nguyễn Ái Quốc gửi báo cáo tới Ban Chấp hành QTCS,
cho biết: “Ba Ủy viên Trung ương từ Nam Kỳ đã tới đây ngày 19-9, chờ các đồng chí
ở Bắc Kỳ và Trung Kỳ tới” [103, tr. 58] để chuẩn bị cho Hội nghị.
Ngày 14 đến 31-10-1930, ĐCSVN tiến hành tổ chức Hội nghị lần thứ nhất
Ban Chấp hành Trung ương tại Hồng Kông. Hội nghị thông qua Nghị quyết về
tình hình và nhiệm vụ cần kíp của Đảng, dự thảo Luận cương Chính trị, Điều lệ
các tổ chức quần chúng. Theo chỉ thị của QTCS, Hội nghị đổi tên ĐCSVN
thành ĐCSĐD, bầu Ban Chấp hành Trung ương chính thức của Đảng. Đồng chí
Trần Phú được bầu làm Tổng Bí thư.
Trong Hội nghị, Dự thảo Luận cương Chính trị được thông qua đã
phân tích sâu sắc tình hình thế giới và trong nước. Lúc này, trên thế giới, thời kỳ
tạm ổn định của chủ nghĩa tư bản đã chấm dứt, chủ nghĩa tư bản đang lâm vào
khủng hoảng; phong trào cách mạng vô sản và cách mạng thuộc địa lên đến
trình độ cao. Phong trào cách mạng thế giới ảnh hưởng mạnh mẽ đến phong trào
cách mạng Đông Dương. Vì vậy, “cách mạng Đông Dương và cách mạng
thế giới phải có liên lạc chặt chẽ với nhau, giai cấp vô sản Đông Dương phải có
quan hệ mật thiết với giai cấp vô sản trên thế giới, nhất là giai cấp vô sản Pháp
và phải mật thiết liên lạc với phong trào cách mạng ở các nước thuộc địa và
nửa thuộc địa nhằm mở rộng và tăng cường lực lượng cho cuộc đấu tranh
cách mạng ở Đông Dương.” [37, tr.89,90]
Luận cương chỉ rõ tính chất xã hội của ba nước Đông Dương (Việt Nam,
Lào, Campuchia) là “xã hội thuộc địa nửa phong kiến” với nền kinh tế
nông nghiệp là chủ yếu. Mâu thuẫn giai cấp chủ yếu là giữa “một bên thì
thợ thuyền, dân cày và các phần tử lao khổ; một bên thì địa chủ, phong kiến,
tư bổn và đế quốc chủ nghĩa” [37, tr. 89,90]. Hội nghị xác định nhiệm vụ:
Ở giai đoạn đầu, cách mạng “có tánh chất thổ địa và phản đế”, cụ thể là đánh đổ
đế quốc giành độc lập dân tộc và đánh đổ địa chủ đem lại ruộng đất cho dân cày.
Hai nhiệm vụ chống đế quốc và phong kiến có mối quan hệ khăng khít với nhau,
38
“có đánh đổ đế quốc chủ nghĩa mới phá được cái giai cấp địa chủ và làm
cách mạng thổ địa được thắng lợi; mà có phá tan chế độ phong kiến thì mới
đánh đổ được đế quốc chủ nghĩa.” [37, tr. 89,90] Giai cấp vô sản được xác định
vừa là động lực chính, vừa là giai cấp lãnh đạo nhân dân lao động đấu tranh.
Dân cày là động lực mạnh. Luận cương Chính trị khẳng định: “Điều kiện cốt yếu
cho sự thắng lợi của cuộc cách mạng ở Đông Dương là cần phải có một ĐCS có
một đường lối chánh trị đúng, có kỷ luật, tập trung, mật thiết liên lạc với
quần chúng, và từng trải đấu tranh mà trưởng thành. Đảng là đội tiên phong của
vô sản giai cấp lấy chủ nghĩa Các Mác và Lênin làm gốc”. [37, tr. 89,90]
Tuy nhiên, Hội nghị Trung ương tháng 10-1930 có hạn chế là chưa chỉ ra
được mâu thuẫn chủ yếu là mâu thuẫn giữa dân tộc Việt Nam với đế quốc Pháp,
nên không đặt nhiệm vụ chống đế quốc lên hàng đầu, đánh giá chưa khách quan
vai trò và thái độ cách mạng của tiểu tư sản và mặt yêu nước của tư sản dân tộc
cũng như một bộ phận địa chủ nhỏ. Điều này xuất phát từ nguyên nhân chưa
nắm vững đặc điểm xã hội Việt Nam, vận dụng máy móc đường lối của QTCS
vào hoàn cảnh đất nước. Những hạn chế này được Đảng từng bước khắc phục,
bổ khuyết trong tiến trình cách mạng.
Ngày 28-10-1930, Nguyễn Ái Quốc gửi báo cáo nhanh tới QTCS
thông báo quá trình họp Hội nghị, tóm tắt những Nghị quyết Hội nghị đã
thảo luận và thông qua, như Cương lĩnh, Điều lệ Đảng; nhiệm vụ trước mắt của
Đảng; bầu Tổng Bí thư kèm báo cáo tài chính chi tiêu cho Hội nghị.
Những bức thư, báo cáo này cho thấy Đảng và đồng chí Nguyễn Ái Quốc
đặc biệt chú ý và nghiêm chỉnh chấp hành chỉ thị từ Bộ chỉ huy tối cao là QTCS.
So với Chính cương vắn tắt và Sách lược vắn tắt, Luận cương Chính trị
có chỗ khác biệt, nhất là trong sách lược tập hợp lực lượng cách mạng trong
nước. Song cả văn kiện tháng 2-1930 và tháng 10-1930 đều nhất quán trong việc
xác định những nhân tố chủ yếu hình thành đường lối quốc tế của cách mạng
Việt Nam, đặt nó trong chuyển biến lực lượng thế giới, tìm thấy sức mạnh
bên ngoài cần thiết cho công cuộc giải phóng của các dân tộc Đông Dương.
39
Trong đó, cách mạng Việt Nam và Đông Dương được xác định là một bộ phận
của cách mạng thế giới, nên mọi “hành động phản đế ở Đông Dương phải có
tính chất quốc tế”. Bởi vậy, một trong những nhiệm vụ cốt yếu của cách mạng
tư sản dân quyền được xác định trong Luận cương là “ủng hộ Liên bang Xôviết;
liên kết với vô sản giai cấp toàn thế giới và phong trào cách mạng thuộc địa và
bán thuộc địa”. “Vô sản Đông Dương phải liên lạc mật thiết với vô sản thế giới,
nhứt là vô sản Pháp để làm mặt trận vô sản “mẫu quốc” và thuộc địa cho
sức tranh đấu cách mạng được mạnh lên. Trong cuộc tranh đấu chống đế quốc,
quần chúng cách mạng ở Đông Dương lại phải liên lạc với quần chúng
cách mạng ở các thuộc địa và bán thuộc địa, nhứt là ở Tàu và Ấn Độ, ... Trong
công tác, Đảng phải liên lạc mật thiết với ĐCS Pháp, Tàu và Ấn Độ.” [37, tr.90]
Như vậy, trong đường lối quốc tế, Đảng luôn coi trọng mở rộng quan hệ
giữa cách mạng Việt Nam, cách mạng Đông Dương với các lực lượng
cách mạng bên ngoài. Bên cạnh nhiệm vụ được đề ra năm 1930 là “ủng hộ
Liên bang Xô viết”, năm 1931, phong trào cách mạng Đông Dương dưới sự lãnh
đạo của Đảng đã kết hợp với cuộc đấu tranh vì tự do độc lập ở các nước châu Á,
đóng góp tích cực vào việc hình thành mặt trận “Đại đồng minh phản đế quốc
chủ nghĩa và mưu dân tộc độc lập” châu Á. Các hội phản đế Đông Dương
hình thành và trở thành bộ phận của mặt trận, góp phần tạo thêm sức mạnh cho
trào lưu cách mạng châu Á, chống mưu đồ cấu kết của thực dân Pháp, Anh,
Hà Lan gia tăng bóc lột và thực hành chính sách khủng bố ở các thuộc địa châu
Á, đồng thời đối phó với sự bành trướng của quân phiệt Nhật.
2.1.3. Hoạt động đối ngoại của Đảng từ năm 1930 đến năm 1935
Từ sau khi thành lập và nhất là sau Hội nghị lần thứ nhất Ban Chấp hành
Trung ương Đảng (10-1930), ĐCSĐD nhanh chóng nắm bắt tình hình thực tiễn
và lãnh đạo phong trào cách mạng trên phạm vi cả nước.
Từ tháng 1 đến tháng 4-1930 là bước khởi đầu của phong trào. Nhiều cuộc
bãi công của công nhân nổ ra liên tiếp ở Nhà máy Xi măng Hải Phòng, hãng dầu
Nhà Bè (Sài Gòn), Nhà máy Dệt Nam Định, Nhà máy Diêm và Nhà máy Cưa
40
Bến Thủy... Đến tháng 5-1930, phong trào phát triển thành cao trào. Ngày 1-5-
1930, lần đầu tiên nhân dân ta kỷ niệm ngày Quốc tế Lao động trên diện rộng từ
thành phố đến nông thôn với truyền đơn, cờ đỏ búa liềm, mít tinh, bãi công,
biểu tình, tuần hành... Trong tháng 5-1930, trên cả nước có 16 cuộc đấu tranh của
công nhân, 34 cuộc đấu tranh của nông dân, 4 cuộc đấu tranh của học sinh và
dân nghèo thành thị. Từ tháng 6 đến tháng 8-1930, đã nổ ra 121 cuộc đấu tranh,
trong đó 22 cuộc của công nhân, 95 cuộc của nông dân. Nổi bật nhất là cuộc
tổng bãi công của toàn thể công nhân khu công nghiệp Bến Thủy - Vinh (8-1930),
đánh dấu “một thời kỳ mới, thời kỳ đấu tranh kịch liệt”. Tháng 9-1930, khi
Xô viết nông dân thành lập ở một số xã ở Nghệ An và cuộc đấu tranh của
quần chúng đang bị kẻ địch khủng bố tàn bạo, Ban Thường vụ Trung ương Đảng
gửi thông tri cho Xứ ủy Trung Kỳ vạch rõ chủ trương bạo động riêng lẻ trong vài
địa phương lúc này là quá sớm vì chưa đủ điều kiện. Trách nhiệm của Đảng là
phải tổ chức quần chúng chống khủng bố, giữ vững lực lượng cách mạng, “duy trì
kiên cố ảnh hưởng của Đảng, của Xô viết trong quần chúng để đến khi thất bại thì
ý nghĩa Xô viết ăn sâu vào trong óc quần chúng và lực lượng của Đảng và Nông
hội vẫn duy trì”. Tuy mới thành lập ở một số xã, thời gian tồn tại ngắn, song chính
quyền Xô viết đã tỏ rõ bản chất cách mạng và tính ưu việt. Đảng ra lời kêu gọi,
tuyên bố về việc bảo vệ Nghệ An đỏ chống khủng bố trắng của thực dân Pháp, dự
bị Đảng và quần chúng, chuẩn bị sẵn sàng để đấu tranh cả về chính trị lâu dài chứ
“không chủ trương bạo động địa phương, bạo động non, sớm” [37, tr.56].
Tuy nhiên, phong trào cách mạng bị thực dân Pháp và tay sai đàn áp,
khủng bố hòng dập tắt phong trào và tiêu diệt Đảng. Các đảng viên bị bắt, giam
tại các nhà tù Hỏa Lò (Hà Nội), Khám Lớn (Sài Gòn), Côn Đảo Từ tháng 5
đến tháng 12-1930, có 649 nông dân bị giết, 83 nhà cách mạng bị tử hình, 237
người bị kết án lao động khổ sai chung thân, 306 người bị kết án đi đày suốt đời,
696 người bị kết án tổng cộng 3.390 năm tù với 790 năm quản thúc.
Riêng nhà tù ở Vinh có 1.359 tù chính trị bị giam cầm, tra tấn.
41
Sự bắt bớ, truy lùng gắt gao của thực dân Pháp ảnh hưởng nặng đến
đội ngũ cán bộ các cơ quan lãnh đạo của Đảng ở Trung ương và địa phương.
Nhiều Ủy viên Ban Chấp hành Trung ương Đảng, Xứ ủy viên Xứ ủy Bắc Kỳ,
Trung Kỳ, Nam Kỳ bị bắt. Dù vậy, các đảng viên vẫn kiên cường đấu tranh,
kiên trì bảo vệ lập trường, quan điểm cách mạng của Đảng, tổ chức vượt ngục,
những đảng viên không bị bắt thì tìm cách gây dựng lại tổ chức Đảng. Một số
đảng viên đang hoạt động ở Trung Quốc, Xiêm trở về nước hoạt động.
Ngày 18-11-1930, Ban Thường vụ Trung ương Đảng ra chỉ thị về vấn đề
thành lập Hội phản đế đồng minh, nhấn mạnh việc đoàn kết toàn dân thành
một lực lượng rộng rãi, lấy công-nông làm hai động lực chính: “... giai cấp
vô sản lãnh đạo cuộc cách mạng tư sản dân quyền ở Đông Dương mà không
tổ chức được toàn dân lại thành một lực lượng thật đông, thật kín thì cuộc
cách mạng cũng khó thành công” [37, tr. 227]. Tuy nhiên, Hội phản đế
đồng minh Đông Dương chưa được thành lập trong thực tế.
Cả năm 1931, thực dân Pháp và tay sai đẩy mạnh khủng bố trắng, sử dụng
những thủ đoạn lừa bịp về chính trị đối với nhân dân Việt Nam.
Trước tình hình đó, Nguyễn Ái Quốc đã đề nghị với QTCS, Quốc tế
Nông dân... giúp đỡ phong trào đấu tranh của nhân dân Việt Nam. Trong bài viết
về phong trào cách mạng Đông Dương ngày 21-1-1931, Người cho rằng:
“Nhiệm vụ cấp thiết của giai cấp vô sản thế giới - đặc biệt là giai cấp vô sản
Pháp - là chìa bàn tay hữu nghị anh em và giúp đỡ tới Đông Dương, để chứng tỏ
tình đoàn kết thực sự và tích cực của họ”.[103, tr.69]
Phong trào đấu tranh của quần chúng trên thực tế gặp nhiều khó khăn,
địch khủng bố dữ dội. Lúc này, Xứ ủy Trung Kỳ đề ra chủ trương thanh trừ
“trí, phú, địa, hào, đào tận gốc trốc tận rễ” ra khỏi Đảng khiến trong quần chúng
và một số đảng viên xuất hiện tư tưởng hoang mang. Chủ trương thanh Đảng
sai lầm và “tả” khuynh này làm cho Đảng và phong trào cách mạng thêm
khó khăn. Tháng 5-1931, Ban Thường vụ Trung ương Đảng ra chỉ thị
42
nghiêm khắc phê phán chủ trương sai lầm về thanh Đảng của Xứ ủy Trung Kỳ
và vạch ra phương hướng đúng đắn về xây dựng Đảng.
Giữa năm 1931, phong trào Xô viết Nghệ-Tĩnh đi vào thoái trào. Lực lượng
của Đảng bị tổn thất nặng nề. Phần lớn cơ sở Đảng và quần chúng tan vỡ. Nhiều
cán bộ lãnh đạo và đảng viên ưu tú của Đảng từ Trung ương đến cơ sở bị bắt.
Trần Phú bị bắt tại Sài Gòn ngày 18-4-1931. Ở Thượng Hải, Hồng Kông (Trung
Quốc), các đồng chí Nguyễn Lương Bằng, Hồ Tùng Mậu cũng lần lượt bị bắt giam.
Cao trào cách mạng 1930-1931, đỉnh cao là Xô viết Nghệ-Tĩnh, là
thử thách đầu tiên và toàn diện của quần chúng công nông dưới sự lãnh đạo của
ĐCSĐD, chống lại đế quốc và phong kiến. Cao trào đã tỏ rõ tinh thần chiến đấu
hy sinh oanh liệt và năng lực cách mạng sáng tạo của nhân dân lao động.
Tuy thất bại nhưng cao trào có ý nghĩa lớn trong lịch sử Đảng và lịch sử dân tộc.
“Không có những trận chiến đấu giai cấp rung trời chuyển đất những năm 1930-
1931, trong đó công nông đã vung ra nghị lực cách mạng phi thường của mình,
thì không thể có cao trào những năm 1936-1939.” [32, tr. 38-39]
Cùng với phong trào cách mạng Việt Nam, ở Lào, phong trào cách mạng
dưới sự lãnh đạo của ĐCSĐD cũng có những bước phát triển. Trước năm 1930,
ở Lào chưa có tổ chức cách mạng quần chúng nào dù là của công nhân hay
tiểu tư sản. Khi được truyền bá tư tưởng cứu nước, phong trào cách mạng Lào
ra đời và ngày càng lan rộng. Từ đầu những năm 1930, trong học sinh,
công nhân ở Viêng Chăn, ở Xà Vằn, trong công nhân hai mỏ thiếc Boneng và
Phônchiu ở Khăm Muộn, đã có hoạt động yêu nước bí mật. Báo cáo của
Khâm sứ Pháp ở Ai Lao trong những năm 1933-1934 đã kể công về sự
“hoạt động tích cực” của chúng nhằm phá vỡ những cơ sở cách mạng ở Lào.
Trong năm 1931, Nguyễn Ái Quốc viết thư gửi QTCS, nêu lên tình hình
tổ chức của Đảng: đồng chí Tổng Bí thư bị bắt, sự thiệt hại về nhân sự, tổ chức
Đảng ở địa phương bị giải tán và đề nghị “QTCS chỉ thị cho tất cả các tổ chức
cách mạng tham gia với khẩu hiệu “Bảo vệ Đông Dương” cùng với những hành
động: “Không can thiệp vào Trung Quốc”, “Không can thiệp vào nước Nga
43
Xôviết”. Đặc biệt là ĐCS Pháp và các tổ chức cách mạng khác sẽ tǎng cường
hơn nữa việc bảo vệ phong trào cách mạng ở Đông Dương”. [103, tr.108-109]
Đến đầu năm 1932, Lê Hồng Phong và một số đồng chí nhận chỉ thị của
QTCS về việc tổ chức Ban lãnh đạo Trung ương của Đảng. Ngày 27-2-1932,
QTCS gửi thư yêu cầu các ĐCS Pháp, ĐCS Trung Quốc và ĐCS Ấn Độ
phát động quần chúng các nước này đấu tranh ủng hộ và cổ vũ công nông
Đông Dương, lên án cuộc khủng bố tàn bạo của thực dân Pháp.
Tháng 6-1932, Ban lãnh đạo Trung ương công bố Chương trình
hành động của ĐCSĐD [39, tr.309-310], với mong muốn giữ vững sự ổn định và
thống nhất tư tưởng, chính trị và tổ chức trong toàn Đảng, tiếp tục đấu tranh theo
hình thức thích hợp, liên kết những yêu cầu khẩn thiết trước mắt với những
nhiệm vụ cơ bản của cuộc cách mạng phản đế và cách mạng ruộng đất để
khôi phục lực lượng, tiếp tục đưa cách mạng tiến lên.
Chương trình tiếp tục khẳng định đường lối, nhiệm vụ cơ bản của
cách mạng theo Luận cương Chính trị tháng 10-1930, nêu ra 4 yêu cầu:
Đòi chính quyền thực dân thực hiện các quyền tự do dân chủ; Chống chính sách
đàn áp cách mạng, thả tù chính trị, thủ tiêu hội đồng đề hình; Bỏ thuế thân,
thuế ngụ cư và các thứ thuế khác, miễn thuế cho dân nghèo; Bỏ độc quyền rượu,
thuốc phiện, muối và những yêu sách riêng cho mỗi tầng lớp nhân dân.
Đồng thời, nêu lên sự cấp thiết phải củng cố, phát triển Đảng, các
đoàn thể cách mạng của quần chúng, tổ chức mặt trận thống nhất các lực lượng
phản đế; kết hợp những khả năng hợp pháp, nửa hợp pháp với hoạt động bí mật.
Chương trình hành động giữ vững và giương cao ngọn cờ cách mạng của Đảng,
góp phần khôi phục nhanh chóng phong trào cách mạng và chuẩn bị cho Đại hội
Đảng lần thứ nhất.
Những yêu cầu trước mắt về chính trị cùng với những biện pháp tổ chức
do Đảng vạch ra trong chương trình phù hợp với điều kiện lịch sử lúc bấy giờ.
Quần chúng công nông cũng sáng tạo ra các hình thức tổ chức và đấu tranh thích
hợp. Các tổ chức như hội cấy, hội cày, hội hiếu, hội đá bóng, hội đọc sách báo
44
được lập ra. Phong trào cách mạng của quần chúng dần được nhen nhóm lại.
Các cuộc đấu tranh của công nhân, nông dân lại bùng nổ.
Để đảm bảo vai trò lãnh đạo phong trào cách mạng trong nước, ĐCSĐD
tích cực đẩy mạnh phát triển các tổ chức cơ sở đảng, giữ vững tinh thần
cách mạng tiến công, kiên trì lãnh đạo quần chúng đấu tranh.
Bản Chương trình hành động được QTCS thông qua ngày 15-6-1932, sau
đó, QTCS yêu cầu ĐCS Pháp giúp đỡ ĐCSĐD công bố Chương trình hành
động đó.
Ngày 17-7-1932, ĐCS Pháp gửi thư cho ĐCSĐD nói về kế hoạch công bố
bản Chương trình hành động trên báo chí ở Pháp. Theo đó, ĐCS Pháp sẽ viết
một lời giới thiệu cho bản Chương trình hành động và chia nhỏ các phần cụ thể
của bản Chương trình hành động đăng trên từng loại báo của các giai cấp,
tầng lớp khác nhau cho hợp lý. Phần yêu sách tổng quát, yêu sách của nam, nữ
công nhân và cu li, phần III “Yêu sách của nông dân nam và nữ” đưa vào tờ
“V.O” (Tiếng nói công nhân)... Riêng tờ báo chính thức của ĐCS Pháp sẽ trích
đăng phần I, phần quan trọng nhất của bản Chương trình hành động nói về
những nhiệm vụ căn bản của cách mạng Đông Dương.
Trong một bức thư khác của Ban Chấp hành Trung ương ĐCS Pháp gửi
ĐCSĐD, ngày 17-7-1932, ĐCS Pháp nhiệt liệt chào mừng Chương trình
hành động của ĐCSĐD và nêu rõ văn kiện sẽ giữ vai trò quan trọng hàng đầu
trong sự phát triển của cách mạng Đông Dương. Nó chứng tỏ sự trưởng thành
nhanh chóng về chính trị của ĐCSĐD - một Đảng vừa mới ra đời, còn rất
non trẻ. Nó cũng cho thấy, ĐCSĐD đã vượt qua sự khủng bố tàn bạo của
đế quốc Pháp, tồn tại, lớn mạnh. Với Chương trình hành động, ĐCSĐD kêu gọi
tập hợp hàng triệu người bị áp bức ở Đông Dương đi theo đường lối cách mạng
của mình và đưa họ tới bến bờ tự do, độc lập.
Nhân dịp bản Chương trình hành động của ĐCSĐD ra đời, ĐCS Pháp ra
Lời kêu gọi Vì sự nghiệp giải phóng Đông Dương gửi toàn Đảng và nhân dân
lao động Pháp, kêu gọi toàn thể đảng viên và nhân dân tiến bộ Pháp chú ý
45
tăng cường liên minh chiến đấu với nhân dân Đông Dương, chống kẻ thù chung
của giai cấp vô sản và những người tiến bộ Pháp là chủ nghĩa đế quốc Pháp,
đang áp bức bóc lột ở các xứ thuộc địa và chính nhân dân Pháp. ĐCS Pháp
ca ngợi chủ nghĩa anh hùng cách mạng của những người cộng sản ở
Đông Dương, coi đó là tấm gương cho giai cấp vô sản Pháp noi theo, đấu tranh
chống chủ nghĩa đế quốc Pháp ở thuộc địa cũng như chính tại đất nước mình.
Không chỉ được ĐCS Pháp ủng hộ, cuộc đấu tranh khôi phục hệ thống tổ
chức của Đảng được QTCS nói chung và các ĐCS khác ủng hộ, giúp đỡ nhiệt tình.
ĐCS Liên Xô cũng giúp ĐCSĐD nhiều mặt, tạo điều kiện cho cán bộ lãnh đạo của
Đảng nghiên cứu, học tập những kinh nghiệm của phong trào cách mạng thế giới.
Bên cạnh đó, QTCS đã góp nhiều ý kiến và tiếp tục đưa những cán bộ
ưu tú được bồi dưỡng, đào tạo ở Liên Xô về Việt Nam để tăng cường sức
lãnh đạo của Đảng. Một số đảng viên lần lượt trở về gây cơ sở Đảng ở vùng
biên giới Việt - Lào. Dần dần, nhiều cơ sở của Đảng được ...ị Quốc gia (2004), “Nguyễn Ái Quốc
ở Hồng Kông (1931-1933)-tư liệu và hình ảnh”, Nxb Chính trị quốc
gia, Hà Nội.
151
11. Dixee R. Bartholomew-Feis (2007), OSS và Hồ Chí Minh-Đồng minh
bất ngờ trong cuộc chiến chống phát xít Nhật, NXB Thế giới, Hà Nội.
12. Nguyễn Khánh Bật (2010), Sự tương đồng và khác biệt về quan điểm
cách mạng Việt Nam giữa Hồ Chí Minh với QTCS và ĐCSĐD những
năm 1930 -1941, NXB Chính trị Quốc gia, Hà Nội.
13. Nguyễn Đình Bin (2005), Ngoại giao Việt Nam 1945 – 2000, NXB Chính
trị Quốc gia, Hà Nội.
14. Nguyễn Đức Bình (2005), “Những tư tưởng sáng tạo của Hồ Chí Minh
trong cách mạng giải phóng dân tộc Việt Nam”, Tạp chí Cộng sản,
(9).
15. Nguyễn Đức Bình (2008), “Độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội, quan hệ
giữa giai cấp và dân tộc ở Việt Nam”, Tạp chí Lý luận chính trị, (8).
16. V.I. Brê-giơ-nép (1981), Đoàn kết với Việt Nam là mệnh lệnh của trái tim
và trí tuệ, NXB Sự thật, Hà Nội.
17. Lê Thanh Cảnh (1990), “Chủ tịch Hồ Chí Minh-những quan điểm cơ
bản về đường lối ngoại giao và đấu tranh ngoại giao”, Tạp chí Lịch
sử Đảng, (5).
18. Thanh Cao, Nguyễn Đức Gia (biên soạn) (2014), Bác Hồ người thầy vĩ
đại của nền ngoại giao cách mạng Việt Nam, NXB Thanh niên.
19. Đặng Văn Cáp (1986), Con đường dẫn tôi đến con đường của Bác, Viện
Lịch sử Đảng, Học viện Chính trị Quốc gia Hồ Chí Minh, Hà Nội,
[Tài liệu chưa xuất bản].
20. Quang Cận (2000), “Nhận thức thêm về sự kiên định mục tiêu độc lập
dân tộc và chủ nghĩa xã hội”, Tạp chí Cộng sản, (16).
21. Fenn Charles (1973), Hồ Chí Minh-giới thiệu một tiểu sử, NXB Sự thật,
Hà Nội.
152
22. King C.Chen (1969), Việt Nam và Trung Quốc 1938-1954, bản dịch tiếng
Việt, Viện Lịch sử Đảng, Học viện Chính trị Quốc gia Hồ Chí Minh,
Hà Nội, [Tài liệu chưa xuất bản].
23. Trường Chinh (1963), Tiến lên dưới lá cờ của Đảng, NXB Sự thật, Hà
Nội.
24. Trường Chinh (1975), Cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân Việt Nam,
Tập I, NXB Sự thật, Hà Nội.
25. Trường Chinh (1975), Cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân Việt Nam,
Tập II, NXB Sự thật, Hà Nội.
26. Trường Chinh (2005), Cách mạng tháng Tám, NXB Quân đội Nhân dân,
Hà Nội.
27. Phạm Hồng Chương (2003), Tư tưởng Hồ Chí Minh về độc lập dân tộc
và chủ nghĩa xã hội, NXB Chính trị quốc gia, Hà Nội.
28. E. Côbêlép (2010), Đồng chí Hồ Chí Minh, NXB Chính trị-Hành chính,
Hà Nội.
29. Philippe Devillers (1993), Paris-Sài Gòn-Hà Nội-Tài liệu lưu trữ của
cuộc chiến tranh 1944-1947, NXB Thành phố Hồ Chí Minh, Thành
phố Hồ Chí Minh.
30. Lê Duẩn (1960), Một vài đặc điểm của cách mạng Việt Nam, NXB Sự
thật, Hà Nội.
31. Lê Duẩn (1978), Cách mạng tháng Mười với độc lập dân tộc và chủ
nghĩa xã hội ở Việt Nam, NXB Sự thật, Hà Nội.
32. Lê Duẩn (1986), Dưới lá cờ vẻ vang của Đảng, vì độc lập tự do, vì chủ
nghĩa xã hội, tiến lên giành thắng lợi mới, NXB Sự thật, Hà Nội.
33. Nguyễn Thị Kim Dung (1998), Đảng lãnh đạo hoạt động đối ngoại thời
kỳ 1945-1946, Luận án Tiến sĩ Lịch sử, Học viện Chính trị Quốc gia
Hồ Chí Minh, Hà Nội.
153
34. Nguyễn Thị Kim Dung (2013), “Những hoạt động và đóng góp của
Nguyễn Ái Quốc với QTCS (1920-1930)”, Kỷ yếu Hội thảo Chủ tịch
Hồ Chí Minh với nước Nga, Bảo tàng Hồ Chí Minh, Hà Nội, [Tài liệu
chưa xuất bản].
35. Nông Công Dũng (1997), Hồ Chủ tịch với lực lượng vũ trang Cao Bằng
1941-1945, Ban Tuyên giáo Tỉnh uỷ Cao Bằng, Cao Bằng, [Tài liệu
chưa xuất bản].
36. Đảng Cộng sản Việt Nam (1998), Văn kiện Đảng toàn tập, Tập 1, NXB
Chính trị quốc gia, Hà Nội.
37. Đảng Cộng sản Việt Nam (1998), Văn kiện Đảng toàn tập, Tập 2, NXB
Chính trị quốc gia, Hà Nội.
38. Đảng Cộng sản Việt Nam (1998), Văn kiện Đảng toàn tập, Tập 3, NXB
Chính trị quốc gia, Hà Nội.
39. Đảng Cộng sản Việt Nam (1998), Văn kiện Đảng toàn tập, Tập 4, NXB
Chính trị quốc gia, Hà Nội.
40. Đảng Cộng sản Việt Nam (1998), Văn kiện Đảng toàn tập, Tập 5, NXB
Chính trị quốc gia, Hà Nội.
41. Đảng Cộng sản Việt Nam (2000), Văn kiện Đảng toàn tập, Tập 6, NXB
Chính trị quốc gia, Hà Nội.
42. Đảng Cộng sản Việt Nam (2000), Văn kiện Đảng toàn tập, Tập 7, NXB
Chính trị quốc gia, Hà Nội.
43. Đảng Cộng sản Việt Nam (1977), Văn kiện Đảng 1930-1945, Tập III,
Ban Nghiên cứu Lịch sử Đảng Trung ương xuất bản, Hà Nội.
44. Đảng Cộng sản Việt Nam và Đảng Nhân dân Cách mạng Lào (2011),
Lịch sử quan hệ đặc biệt Việt Nam-Lào, Lào-Việt Nam (1930-2007),
NXB Chính trị Quốc gia, Hà Nội.
45. Trần Đương (2011), Hà Nội nơi Frey đến với Cách mạng, NXB Hà Nội,
Hà Nội.
154
46. Võ Nguyên Giáp (1963), Nhật lệnh, diễn từ và thư động viên (1944-
1962), NXB Sự thật, Hà Nội.
47. Võ Nguyên Giáp (1977), Những chặng đường lịch sử, NXB Văn học, Hà
Nội.
48. Võ Nguyên Giáp (1980), Hồ Chí Minh-Nhà chiến lược thiên tài, người
cha thân yêu của các lực lượng vũ trang nhân dân Việt Nam, NXB Sự
thật, Hà Nội.
49. Võ Nguyên Giáp (1980), Đội quân giải phóng 1944-1947, ký hiệu VL
23017/85, Viện Lịch sử Quân sự Việt Nam, Hà Nội, [Tài liệu chưa
xuất bản].
50. Võ Nguyên Giáp (2003), Tư tưởng Hồ Chí Minh và con đường cách
mạng Việt Nam, NXB Chính trị quốc gia, Hà Nội.
51. Phrăng-xoa Gioay-ô (1981), Trung Quốc và việc giải quyết cuộc chiến
tranh Đông Dương lần thứ nhất (Giơ-ne-vơ 1954), NXB Thông tin lý
luận, Hà Nội.
52. Nguyễn Mạnh Hà (2005), “Bàn thêm về vấn đề thời cơ trong cuộc tổng
khởi nghĩa năm 1945”, Tạp chí Cộng sản, (16), tr.24-28.
53. Nguyễn Mạnh Hà (2010), “Bài học của cách mạng tháng tám năm 1945
với công cuộc đổi mới”, Tạp chí Cộng sản, (8), tr. 27-31.
54. Nguyễn Mạnh Hà và Vũ Thị Kim Oanh (2015), “Ý nghĩa thời đại của
Tuyên ngôn Độc lập”, Tạp chí Cộng sản, ( 8), tr. 20-23.
55. Trần Văn Hải (2001), Chủ tịch Hồ Chí Minh với vấn đề dân tộc và giai
cấp trong cách mạng Việt Nam, Luận án Tiến sĩ Lịch sử, Học viện
Chính trị Quốc gia Hồ Chí Minh, Hà Nội.
56. Lăng Kỳ Hàn (1984), Đằng sau sự tiếp nhận sự đầu hàng của Nhật Bản
tại Hà Nội, bản dịch tiếng Việt ký hiệu H29C3/14, Bảo tàng Hồ Chí
Minh, Hà Nội, [Tài liệu chưa xuất bản].
155
57. Lê Mậu Hãn (2001), Các cương lĩnh cách mạng của Đảng Cộng sản Việt
Nam, NXB Chính trị quốc gia, Hà Nội.
58. Lê Mậu Hãn (5-2010), “Tư tưởng Hồ Chí Minh về độc lập, tự do với sự
kiến lập nước Việt Nam dân chủ cộng hoà”, Tạp chí Nhịp cầu tri thức.
59. Nguyễn Trọng Hậu (2001), Hoạt động đối ngoại của nước Việt Nam Dân
chủ Cộng hòa thời kỳ 1945-1950, Luận án Tiến sĩ Lịch sử, Viện Sử
học, Hà Nội.
60. Nguyễn Trọng Hậu (2006), “Chủ trương tìm bạn đồng minh xa của Mặt
trận Việt Minh qua Báo Việt Nam Độc lập (1941-1945)”, Tạp chí Lịch
sử Đảng, (5), tr. 34-35.
61. Vũ Quang Hiển (2002), “Bàn thêm về tính chất của Cách mạng tháng
Tám”, Tạp chí Lịch sử Quân sự, (4), tr. 60-62.
62. Vũ Quang Hiển (2007), “Vấn đề thời cơ trong Cách mạng tháng Tám
1945, Tạp chí Lịch sử Đảng, (8), tr. 3-7.
63. Vũ Quang Hiển (2009), “Mối quan hệ giữa độc lập dân tộc và thống
nhất đất nước trong tư tưởng Hồ Chí Minh”, Tạp chí Lịch sử Đảng,
(10), tr. 44-51.
64. Vũ Quang Hiển (2010), “Sự sáng tạo của Đảng trong quá trình xác định
đường lối cách mạng giải phóng dân tộc (1930-1945) ”, Tạp chí Lịch
sử Đảng, (1).
65. Nguyễn Thị Mai Hoa (2007), Chủ trương của ĐCSVN trong quan hệ với
Trung Quốc từ năm 1975 đến năm 2001, Luận án Tiến sĩ Lịch sử, Đại
học Khoa học xã hội và Nhân văn, Hà Nội.
66. Nguyễn Thị Phương Hoa (2010), “Quan hệ giữa ĐCSVN và ĐCS Trung
Quốc”, Tạp chí Nghiên cứu Trung Quốc, (9), tr. 27-34.
67. Học viện Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh (2006), Hồ Chí Minh-Biên niên
tiểu sử, Tập 2, NXB Chính trị quốc gia, Hà Nội.
156
68. Học viện Quan hệ quốc tế (1990), Chủ tịch Hồ Chí Minh với công tác
ngoại giao, NXB Sự thật, Hà Nội.
69. Học viện Quan hệ quốc tế (2007), Chính sách đối ngoại Việt Nam - Tài
liệu tham khảo phục vụ giảng dạy,Tập 1: 1945-1975, NXB Thế giới,
Hà Nội.
70. Vũ Dương Huân (2008), “Thông cáo 3-10-1945 về chính sách ngoại
giao, Văn kiện ngoại giao đầu tiên của nước Việt Nam Dân chủ Cộng
hòa”, Tạp chí Lịch sử Đảng, (3).
71. Nguyễn Quốc Hùng (1991), “Thêm những tư liệu về QTCS với Đông
Dương”, Tạp chí Lịch sử Đảng, (1).
72. Nguyễn Quốc Hùng (2005), Hồ Chí Minh - Người chiến sĩ quốc tế, NXB
Chính trị quốc gia, Hà Nội.
73. Nguyễn Thị Thanh Huyền (2008), “Vai trò của Hồ Chí Minh trong thiết
lập và tranh thủ mối quan hệ với quân Đồng minh nhằm tăng cường
thế và lực cho Cách mạng tháng Tám”, Tạp chí Giáo dục Lý luận, (8),
tr. 9-12.
74. Nguyễn Khắc Huỳnh (2011), Ngoại giao Việt Nam-Góc nhìn và suy
ngẫm, NXB Chính trị quốc gia, Hà Nội.
75. Đỗ Quang Hưng (1989), “Chính sách phương Đông của QTCS, lý thuyết
và thực tiễn”, Tạp chí Lịch sử Đảng, (4), tr. 9-14.
76. Đỗ Quang Hưng (1990), “Chủ tịch Hồ Chí Minh trong thời kỳ 1934-
1938, rọi sáng thêm cho vấn đề dân tộc hay quốc tế”, Hồ Chí Minh
anh hùng giải phóng dân tộc danh nhân văn học: Kỷ niệm 100 năm
ngày sinh Chủ tịch Hồ Chí Minh 1890-1990, NXB Khoa học xã hội,
Hà Nội, tr. 28-36.
77. Hoàng Quang Khánh, Lê Hồng và Hoàng Ngọc La (1976), Căn cứ địa
Việt Bắc: Trong cuộc cách mạng tháng 8-1945, NXB Việt Bắc, Việt
Bắc.
157
78. Huỳnh Kim Khánh (1972), Chủ nghĩa cộng sản Việt Nam 1925-1945,
bản dịch tiếng Việt ký hiệu H28C3/07, Bảo tàng Hồ Chí Minh, Hà
Nội, [Tài liệu chưa xuất bản].
79. Trần Khánh và các cộng sự (2014), Hợp tác và cạnh tranh chiến lược
Mỹ-Trung ở Đông Nam Á ba thập niên đầu sau Chiến tranh lạnh,
NXB Thế Giới, Hà Nội.
80. Vũ Khoan (2010), Chủ tịch Hồ Chí Minh với công tác ngoại giao, NXB.
Chính trị quốc gia, Hà Nội.
81. Vũ Như Khôi (2010), 80 năm (1930-2010) ĐCSVN, Những chặng đường
lịch sử vẻ vang, NXB Chính trị Quốc Gia, Hà Nội.
82. Lê Kim (1996), Đạo quân Nhật Bản ở Việt Nam (1940-1945), NXB.
Quân đội nhân dân, Hà Nội.
83. Lê Kim (2001), “Về lực lượng quân sự của Nhật Bản tại Đông Dương
trước khi bùng nổ cách mạng tháng Tám năm 1945”, Tạp chí Lịch sử
Quân sự, (4).
84. Lê Kim (2005), Bác Hồ đấu trí với tình báo phương Tây, NXB Công an
nhân dân, Hà Nội.
85. Trần Văn La (1993), Quan hệ Nhật - Pháp về vấn đề Đông Dương trong
thời kỳ Chiến tranh thế giới thứ hai (1939 - 1945), Luận án Phó Tiến
sĩ Khoa học Lịch sử, Trường Đại học Tổng hợp Hà Nội, Hà Nội.
86. Đinh Xuân Lâm và Ngô Đăng Tri (1987), “Hoạt động kỷ niệm Cách
mạng tháng Mười một hình thức đấu tranh quan trọng ở Việt Nam
những năm 1930-1945”, Tạp chí Cộng sản, (11-1987), tr. 64-69.
87. Đinh Xuân Lâm (1989), “Quốc tế Cộng sản và Cách mạng Việt Nam”,
Tạp chí Lịch sử Đảng, (4), tr. 4-6.
88. Đinh Xuân Lâm, Nguyễn Văn Khánh và Nguyễn Đình Lễ (2007), Đại
cương lịch sử Việt Nam, Tập II, NXB Giáo dục, Hà Nội.
158
89. Phan Ngọc Liên và các cộng sự (1995), Tìm hiểu tư tưởng Hồ Chí Minh
về một số vấn đề quốc tế, NXB Chính trị Quốc gia, Hà Nội.
90. Phan Ngọc Liên và Trịnh Vương Hồng (2001), Hồ Chí Minh-Chiến sĩ
cách mạng quốc tế, NXB Quân đội nhân dân, Hà Nội.
91. Phan Ngọc Liên (2010), Chiến sĩ quốc tế Hồ Chí Minh hoạt động thực
tiễn và lý luận cách mạng, NXB Chính trị quốc gia, Hà Nội.
92. Nguyễn Bá Linh (2004), Cương lĩnh đầu tiên của Đảng. Ngọn cờ độc lập
dân tộc và chủ nghĩa xã hội, NXB Công an nhân dân, Hà Nội.
93. Lưu Văn Lợi (1996), Năm mươi năm ngoại giao Việt Nam (1945-1995),
Tập 1: Ngoại giao Việt Nam 1945-1975, NXB Công an nhân dân, Hà
Nội.
94. Lưu Trần Luân (1995), Lược sử mặt trận dân tộc thống nhất trong cách
mạng Việt Nam, Uỷ ban Trung ương Mặt trận Tổ quốc Việt Nam,
NXB Chính trị quốc gia, Hà Nội.
95. Nguyễn Phúc Luân (1999), Chủ tịch Hồ Chí Minh trí tuệ lớn của nền
ngoại giao Việt Nam hiện đại, NXB Chính trị Quốc gia, Hà Nội.
96. Nguyễn Phúc Luân và các cộng sự (2001), Ngoại giao Việt Nam hiện đại
vì sự nghiệp giành độc lập, tự do (1945-1975), NXB Chính trị Quốc
gia, Hà Nội .
97. Nguyễn Phúc Luân (2004), Ngoại giao Hồ Chí Minh lấy trí nhân thay
cường bạo, NXB Chính trị Quốc gia, Hà Nội.
98. Hồ Thị Tố Lương (2007), QTCS và cách mạng Việt Nam, Nxb Chính trị
Quốc gia, Hà Nội.
99. Đinh Xuân Lý (2005), Tư tưởng đối ngoại của Chủ tịch Hồ Chí Minh,
NXB Chính trị Quốc gia, Hà Nội.
100. Đinh Xuân Lý (2013), Đối ngoại Việt Nam qua các thời kỳ lịch sử 1945-
2012, NXB Đại học Quốc gia Hà Nội.
159
101. Hồ Chí Minh (2011), Toàn tập, Tập 1, NXB Chính trị quốc gia – Sự thật,
Hà Nội.
102. Hồ Chí Minh (2011), Toàn tập, Tập 2, NXB Chính trị quốc gia – Sự thật,
Hà Nội.
103. Hồ Chí Minh (2011), Toàn tập, Tập 3, NXB Chính trị quốc gia – Sự thật,
Hà Nội.
104. Hồ Chí Minh (2011), Toàn tập, Tập 4, NXB Chính trị quốc gia – Sự thật,
Hà Nội.
105. Hồ Chí Minh (2011), Toàn tập, Tập 5, NXB Chính trị quốc gia – Sự thật,
Hà Nội.
106. Hồ Chí Minh (2011), Toàn tập, Tập 6, NXB Chính trị quốc gia – Sự thật,
Hà Nội.
107. Hồ Chí Minh (2011), Toàn tập, Tập 7, NXB Chính trị quốc gia – Sự thật,
Hà Nội.
108. Hồ Chí Minh (2011), Toàn tập, Tập 8, NXB Chính trị quốc gia – Sự thật,
Hà Nội.
109. Hồ Chí Minh (2011), Toàn tập, Tập 9, NXB Chính trị quốc gia – Sự thật,
Hà Nội.
110. Hồ Chí Minh (2011), Toàn tập, Tập 10, NXB Chính trị quốc gia – Sự thật,
Hà Nội.
111. Hồ Chí Minh (2011), Toàn tập, Tập 11, NXB Chính trị quốc gia – Sự thật,
Hà Nội.
112. Hồ Chí Minh (2011), Toàn tập, Tập 12, NXB Chính trị quốc gia – Sự thật,
Hà Nội.
113. Hồ Chí Minh (2011), Toàn tập, Tập 13, NXB Chính trị quốc gia – Sự thật,
Hà Nội.
114. Hồ Chí Minh (2011), Toàn tập, Tập 14, NXB Chính trị quốc gia – Sự thật,
Hà Nội.
160
115. Hồ Chí Minh (2011), Toàn tập, Tập 15, NXB Chính trị quốc gia – Sự thật,
Hà Nội.
116. Trình Mưu (1989), “Quốc tế Cộng sản với Đảng Cộng sản Đông
Dương”, Tạp chí Lịch sử Đảng, (4), tr. 15-22.
117. Phạm Chí Nhân (1994), “Bác Hồ với việc xây dựng bộ đội chủ lực”, Tạp
chí Lịch sử Quân sự, (5).
118. Nhiều tác giả (2005), Bác Hồ sống mãi với chúng ta: Hồi ký, Tập 1, NXB
Chính trị Quốc gia, Hà Nội.
119. Nhiều tác giả (2012), Hồ Chí Minh với con đường giải phóng dân tộc,
NXB Chính trị quốc gia, Hà Nội.
120. Trịnh Nhu (2002), “Chủ trương thay đổi chiến lược của Đảng, nhân tố
quan trọng nhất quyết định thắng lợi của Cách mạng tháng Tám
1945”, Tạp chí Lịch sử Đảng, (8).
121. Trịnh Nhu (2006), “Một số kinh nghiệm hoạt động của Đảng trong tiến
trình đấu tranh giành chính quyền và kháng chiến, kiến quốc (1930-
1954)”, Tạp chí Lịch sử Đảng, (2), tr. 4-12.
122. Trịnh Nhu (2010), “Nguyễn Ái Quốc-Người tạo dựng nền tảng phát triển
của cách mạng Đông Dương”, Tạp chí Lịch sử Đảng, (5).
123. Nguyễn Dy Niên (2002), Tư tưởng ngoại giao Hồ Chí Minh, NXB Chính
trị quốc gia, Hà Nội.
124. Vũ Dương Ninh (2008), “Mưu đồ tái chiếm Đông Dương của thực dân
Pháp (1940-1946)”, Tạp chí Lịch sử Đảng, (6).
125. Vũ Dương Ninh (2015), Lịch sử Quan hệ đối ngoại Việt Nam 1940-2010,
NXB Chính trị Quốc gia, Hà Nội.
126. Nguyễn Văn Ngọc (1988), Điệp viên nhảy dù trở thành giám đốc Công
An Trung Bộ, NXB Công an Nhân dân, Hà Nội.
127. Kim Oanh (2010), Hội thảo khoa học “ĐCSVN - 80 năm xây dựng và
phát triển”, Tạp chí Lịch sử Đảng, (2).
161
128. A. Patti (1995), Tại sao Việt Nam?, NXB Đà Nẵng, Đà Nẵng.
129. Bùi Đình Phong (2004), “Độc lập dân tộc gắn liền với chủ nghĩa xã hội-
ngọn cờ thắng lợi của cách mạng Việt Nam từ khi có Đảng”, Tạp chí
Lý luận Chính trị, (1).
130. Bùi Đình Phong (2010), “Di sản Hồ Chí Minh trong thời đại ngày nay”,
Văn hoá Nghệ An, (5), tr.172, 173.
131. Hoàng Phong (1989), “QTCS với việc chuẩn bị và thành lập đảng ta
(1920-1930)”, Tạp chí Lịch sử Đảng, (4), tr. 23-28.
132. Nguyễn Trọng Phúc (1999), “Đảng và Nhà nước Việt Nam thực hiện
nghĩa vụ quốc tế đối với cách mạng Lào thời kỳ 1930-1945”, Đề tài
nghiên cứu khoa học Khái quát sự hình thành và phát triển quan hệ
hai nước trong giai đoạn 1930-1945, rút ra một số bài học và kinh
nghiệm, Học viện Chính trị Quốc gia Hồ Chí Minh, Hà Nội.
133. Nguyễn Trọng Phúc (2004), “Đường lối cách mạng giải phóng dân tộc sự
phát triển sáng tạo của Đảng và Chủ tịch Hồ Chí Minh dẫn tới thắng
lợi của Cách mạng tháng Tám 1945”, Tạp chí Lịch sử Đảng, (8).
134. Pi-tơ A. Pu-lơ (1986), Nước Mỹ và Đông Dương từ Ru-dơ-ven đến Ních-
xơn, NXB Thông tin lý luận, Hà Nội.
135. Phạm Ngọc Quang (2003), “Về độc lập dân tộc gắn liền với chủ nghĩa xã
hội”, Tạp chí Cộng sản, (1, 2).
136. Nguyễn Duy Quý (1999), “Độc lập dân tộc gắn liền với chủ nghĩa xã hội
mục tiêu, lý tưởng của Đảng ta, dân tộc ta”, Tạp chí Quốc phòng toàn
dân, (9).
137. Nguyễn Duy Quý (2003), Độc lập dân tộc và Chủ nghĩa xã hội, NXB
Chính trị quốc gia, Hà Nội.
138. Võ Văn Sung (2010), Suy nghĩ về trường phái ngoại giao Hồ Chí Minh,
NXB Chính trị quốc gia, Hà Nội.
162
139. Văn Tạo, Phạm Xuân Nam và Cao Văn Lượng (1980), Nửa thế kỷ đấu
tranh dưới ngọn cờ độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội, NXB Khoa
học xã hội, Hà Nội.
140. Đặng Văn Thái (2002), Hoạt động đối ngoại của Chủ tịch Hồ Chí Minh
thời kỳ 1945-1954, Luận án Tiến sĩ Triết học, Học viện Chính trị Quốc
gia Hồ Chí Minh, Hà Nội.
141. Nguyễn Anh Thái và các cộng sự (2014), Lịch sử thế giới hiện đại, NXB
Giáo dục Việt Nam, Hà Nội.
142. Phùng Quang Thanh (5-2010), “Không có gì quý hơn độc lập, tự do - Ý
nghĩa lịch sử và giá trị hiện thực”, Tạp chí Lịch sử Đảng, (5).
143. Nguyễn Thành (1990), Chủ tịch Hồ Chí Minh - Người chiến sĩ cách
mạng kiên cường của phong trào giải phóng dân tộc, phong trào cộng
sản và phong trào công nhân quốc tế, NXB Thông tin lý luận, Hà Nội.
144. Mạch Quang Thắng (2008), “Một số quan điểm của Hồ Chí Minh về
quan hệ quốc tế”, Tạp chí Lý luận chính trị, (1).
145. Lê Văn Thịnh (1999), Quan hệ giữa cách mạng Việt Nam và Liên Xô
trong giai đoạn 1930-1954, Luận án Tiến sĩ Lịch sử, Trường Đại học
Khoa học xã hội và Nhân văn, Hà Nội.
146. Nguyễn Xuân Thông, Một số tư liệu về quan hệ Việt Mỹ, ký hiệu
H28C8/275, Bảo tàng Hồ Chí Minh, Hà Nội, [Tài liệu chưa xuất bản].
147. Nguyễn Đình Thuận (2002), Sự hình thành tư tưởng Hồ Chí Minh về
cách mạng giải phóng dân tộc (1911-1945), NXB Chính trị quốc gia,
Hà Nội.
148. Lê Văn Tích và các cộng sự (2009), Nguyễn Ái Quốc với Quốc tế Cộng
sản (1920 - 1943), NXB Chính trị Quốc gia, Hà Nội.
149. Trần Nam Tiến (2011), Hoạt động quốc tế của Nguyễn Ái Quốc (1911-
1945), NXB Tổng hợp, Thành phố Hồ Chí Minh.
163
150. Chu Đức Tính (2001), Chủ tịch Hồ Chí Minh với việc giải quyết vấn đề
dân tộc dân chủ trong cách mạng Việt Nam (1930-1945), NXB Chính
trị quốc gia, Hà Nội.
151. M.L. Titapenco (1985), Ý nghĩa của việc đánh bại chủ nghĩa quân phiệt
Nhật đối với thắng lợi của cách mạng nhân dân ở Trung Quốc, Triều
Tiên và Việt Nam, NXB Sự thật, Hà Nội.
152. Nguyễn Khánh Toàn (1989), Lịch sử Việt Nam, Tập 2, NXB Khoa học xã
hội, Hà Nội.
153. Huỳnh Văn Tòng và Lê Vinh Quốc (1992), Cuộc chiến tranh Thái Bình
Dương (1941-1945)– Tập 2: Đồng minh phản công, NXB Giáo dục,
Hà Nội.
154. Stein TØnnesson (1991), Cách mạng Việt Nam 1945-Rudơven, Hồ Chí
Minh và Đờ Gôn trong thế giới có chiến tranh, NXB Chính trị quốc
gia, Hà Nội.
155. Hoàng Trang và các cộng sự (2003), Tư tưởng Hồ Chí Minh về độc lập
dân tộc gắn liền với chủ nghĩa xã hội, NXB Lao động, Hà Nội.
156. Hoàng Tranh (1990), Hồ Chí Minh với Trung Quốc, bản tiếng Việt, NXB
Sao Mới, Bắc Kinh.
157. Benoit de Tréglodé (2000): “Những cuộc tiếp xúc đầu tiên giữa Việt
Nam và Liên Xô”, Tạp chí Xưa và Nay, (73).
158. Ngô Đăng Tri (2012), 82 năm ĐCSVN Những chặng đường lịch sử
(1930-2012), NXB Thông tin và Truyền Thông, Hà Nội.
159. Phạm Viết Trung (1973), Phong trào cộng sản và công nhân quốc tế
trong thời kỳ giữa hai cuộc chiến tranh thế giới - QTCS, Trường Đại
học Tổng hợp, Hà Nội.
160. Bùi Công Trừng và Nguyễn Văn Trấn (1958), Góp phần nhỏ về Lịch sử
Cách mạng cận đại Việt Nam (1930-1945), Tập 2, NXB Sự thật, Hà
Nội.
164
161. Viện Lịch sử Đảng (1995), Lịch sử cách mạng tháng Tám 1945, NXB
Chính trị quốc gia, Hà Nội.
162. Viện Mác – Lênin (1986): Tình đoàn kết chiến đấu vô sản Việt –
Pháp, Nxb. Thông tin lý luận, Hà Nội.
163. Viện Ngôn ngữ học (2010), Từ điển Tiếng Việt, NXB Từ điển Bách khoa,
Hà Nội.
164. Viện Sử học và Trung tâm Khoa học xã hội và nhân văn quốc gia (1995),
Cách mạng tháng Tám một số vấn đề lịch sử, NXB Khoa học xã hội,
Hà Nội.
165. Trần Thị Vinh và Hoàng Hải Hà (2005), “Đông Nam Á trong cuộc đấu
tranh chống phát xít Nhật (1941-1945): Lịch sử và vấn đề”, Tạp chí
Nghiên cứu Đông Nam Á, (5-2005), tr. 12-18.
166. Vũ Quang Vinh (2005), “Tư tưởng Hồ Chí Minh về chủ nghĩa quốc tế vô
sản”, Tạp chí Lý luận chính trị, (7).
167. Phạm Xanh (1989), “Sự nỗ lực của QTCS trong việc khôi phục phong
trào cách mạng Việt Nam”, Tạp chí Lịch sử Đảng, (4), tr. 29-34.
168. Phạm Xanh (1991), Những hoạt động ngoại giao đầu tiên của Mặt trận
Việt Minh, ký hiệu H28C9/22, Bảo tàng Hồ Chí Minh, Hà Nội, [Tài
liệu chưa xuất bản].
169. Phạm Xanh (2009), Góp phần tìm hiểu Lịch sử quan hệ Việt Nam - Hoa
Kỳ, NXB Chính trị Quốc gia, Hà Nội.
170. A.A. Xô-cô lốp (1999), QTCS với Việt Nam, NXB Chính trị Quốc gia,
Hà Nội.
171. Điacốp, Xớckin (1960), QTCS với vấn đề dân tộc và thuộc địa, NXB Sự
thật, Hà Nội.
172. J. Xtalin (1965), Về cuộc chiến tranh giữ nước vĩ đại của Liên Xô, NXB
Quân đội, Hà Nội.
165
173. Lê Văn Yên (2008), Hồ Chí Minh với chiến lược đoàn kết quốc tế trong
cách mạng giải phóng dân tộc, NXB Chính trị Quốc gia, Hà Nội.
174. Nguyễn Thị Yến, Một vài suy nghĩ về tư tưởng của Chủ tịch Hồ Chí
Minh về mặt trận đấu tranh ngoại giao trong giai đoạn lịch sử 1941-
1946, ký hiệu H28C22/3, Bảo tàng Hồ Chí Minh, Hà Nội, [Tài liệu
chưa xuất bản].
II. Tài liệu tiếng nước ngoài
175. Robert M. Blum (1972), The United States and Vietnam 1944-1947, US
Government Printing Office, Washington, DC.
176. Philippe Devillers (1952), Histoire du Viet-Nam de 1940 à 1952, Éditions
du Seuil, Paris.
177. William J. Duiker (1975), The Comintern and Vietnamese Communism,
Ohio University Center for International Studies, Southeast Asia
Program, Athens, Ohio.
178. William J. Duiker (1976), The Rise of Nationalism in Vietnam, 1900-
1941, Cornell University Press, New York.
179. William J. Duiker (1981), The Communist Road to Power in Vietnam,
Westview Press, Boulder, Colorado.
180. William J. Duiker (1983), Vietnam: Nation in Revolution, Westview
Press, Boulder, Colorado.
181. Dennis J. Duncanson (1974), “Ho Chi Minh in Hong Kong, 1931-1932”,
The China Quarterly, (1-3), pp. 84-100.
182. Bemard B. Fall (editor), Ho Chi Minh (author) (1967), Ho Chi Minh on
Revolution: Selected Writings, 1920-66, Praeger, New York.
183. Charles Fenn (1973), Ho Chi Minh: A Biographical Introduction,
Scribner, New York.
166
184. Christopher E. Goscha (1999), Thailand and the Southeast Asian
Networks of the Vietnamese Revolution, 1885–1954, Curzon Press,
Richmond.
185. Ellen J. Hammer (1967), The struggle for Indochina 1940-1955,
Standford University Press, Standford, California.
186. Daniel Héméry (1990), Ho Chi Minh De l’Indochine au Vietnam,
Galllimard, Paris.
187. Thomas Hodgkin (1981), Vietnam: The Revolutionary Path, St. Martin's
Press, New York.
188. David G. Marr (1995), Vietnam 1945-The quest for power, University of
California Press, Berkeley, California.
189. John T. McAlister and Paul Mus (1970), The Vietnamese and Their
Revolution, Harper and Row, New York.
190. Eugène Mordant (1950), Au service de la France en Indochine 1941-
1945, Imprimerie Francaise d’Outre-Mer, Saigon.
191. Paul Mus (1971), Ho Chi Minh, Le VietNam, L’Asie, Éditions du Seuil,
Paris.
192. Sophie Quinn-Judge (2003), Ho Chi Minh The missing years 1919-1941,
C Hurst & Co Publishers Ltd, London.
193. Jean Sainteny (1953), Histoire d'une paix manquée. Indochine 1945-
1947, Amiot-Dumont, Paris.
194. Jean Sainteny (1970), Face à Ho Chi Minh, Seghers,Paris.
167
PHỤ LỤC
1. Giấy chứng nhận của Nguyễn Ái Quốc là cán bộ Ban Phương Đông
QTCS. 14-4-1924. Tài liệu trưng bày tại Bảo tàng Hồ Chí Minh
2. Thẻ đại biểu tham dự Đại hội lần thứ V QTCS của Nguyễn Ái Quốc
Tài liệu trưng bày tại Bảo tàng Hồ Chí Minh
168
3. Thư của Nguyễn Ái Quốc gửi Ban Phương Đông QTCS.
5-1-1925.
Tài liệu trưng bày tại Bảo tàng Hồ Chí Minh
169
4. Thư của Chủ tịch đoàn Quốc tế Nông dân gửi Nguyễn Ái Quốc về việc
giao trách nhiệm lãnh đạo phong trào nông dân Trung Quốc và các
nước Đông Nam Á. 13-8-1925.
Tài liệu trưng bày tại Bảo tàng Hồ Chí Minh
170
5. Nguyễn Ái Quốc: Báo cáo gửi QTCS. 18-2-1930. Trang 1.
Tài liệu lưu tại Kho Bảo tàng Hồ Chí Minh ST2652 Q8
171
6. Thư của Nguyễn Ái Quốc gửi văn phòng ĐCS Pháp tại QTCS, 27-2-1930.
Trang 1, 2.
Tài liệu trưng bày tại Bảo tàng Hồ Chí Minh
172
7. Thư của Nguyễn Ái Quốc gửi văn phòng ĐCS Đức tại QTCS, 27-2-1930.
Tài liệu lưu tại Bảo tàng Hồ Chí Minh ST 144 Q8
8. Nguyễn Ái Quốc: Thư gửi đại diện ĐCS Pháp tại QTCS. 28-2-1930.
Trang 1. Tài liệu lưu tại Bảo tàng Hồ Chí Minh ST 147 Q8
173
9. Thư của Nguyễn Ái Quốc gửi ông Chota, Chủ tịch Liên đoàn chống đế quốc,
27-2-1930.
Tài liệu trưng bày tại Bảo tàng Hồ Chí Minh
174
10. Bưu thiếp của Quốc tế Cứu tế đỏ ủng hộ những người cách mạng Việt
Nam. 1930.
Tài liệu lưu tại Bảo tàng Hồ Chí Minh ST 4128 Q11
11. Con tem in hình Trần Phú do Quốc tế Cứu tế đỏ phát hành năm 1930.
Tài liệu lưu tại Bảo tàng Hồ Chí Minh ST 4127 Q11
175
12. Biểu tình của công nhân Pháp phản đối sự tàn sát của thực dân Pháp
ở Đông Dương 1930.
Tài liệu trưng bày tại Bảo tàng Hồ Chí Minh
13. Bưu thiếp của Quốc tế Cứu tế đỏ gửi Ngô Gia Tự trong nhà tù Hỏa Lò.
1931.
Tài liệu trưng bày tại Bảo tàng Hồ Chí Minh
176
14. Tài liệu của mật thám Pháp: “Các hội chống Pháp và sự tuyên truyền
cộng sản ở Đông Dương”. 8, 9-1931.
Tài liệu trưng bày tại Bảo tàng Hồ Chí Minh
177
15. Bài “Hãy ân xá cho tù chính trị ở Đông Dương”, tạp chí Thuộc địa, số 3
tháng 12-1931. Trang 1.
Tài liệu trưng bày tại Bảo tàng Hồ Chí Minh
178
16. Thư của QTCS gửi các ĐCS Pháp, Tàu, Ấn Độ về việc công nhận
ĐCSĐD là một chi bộ của QTCS. 27-2-1932.
Tài liệu trưng bày tại Bảo tàng Hồ Chí Minh
179
17. Thư tín của ĐCS Pháp, Trung Quốc, Nhật Bản gửi ĐCSĐD. 15-10-1933.
Trang 1.
Tài liệu trưng bày tại Bảo tàng Hồ Chí Minh
180
18. Nguyễn Ái Quốc: Thư gửi Bộ Phương Đông QTCS về vấn đề
bồi dưỡng lý luận cho cán bộ thuộc địa. 16-1-1935.
Tài liệu lưu tại Bảo tàng Hồ Chí Minh ST 150 Q12
181
19. Thẻ đại biểu dự Đại hội VII QTCS của đồng chí Lê Hồng Phong.
Tài liệu trưng bày tại Bảo tàng Hồ Chí Minh
20. Thẻ đại biểu dự Đại hội VII QTCS của đồng chí Nguyễn Thị Minh Khai.
Tài liệu trưng bày tại Bảo tàng Hồ Chí Minh
182
21. Thẻ đại biểu dự Đại hội VII QTCS của đồng chí Hoàng Văn Nọn.
Tài liệu trưng bày tại Bảo tàng Hồ Chí Minh
22. Trang đầu và trang cuối bản khai lý lịch tham dự Đại hội VII QTCS
của Nguyễn Ái Quốc (Lin)
Tài liệu lưu tại Bảo tàng Hồ Chí Minh ST 160 Q12
183
23. Thư của Trưởng phòng cán bộ QTCS gửi đồng chí Kirơxanôva, đề nghị
đồng chí Lin nghỉ học tại Trường Quốc tế Lê nin để làm một số công việc
phục vụ Đại hội VII QTCS (Bản tiếng Nga)
Tài liệu trưng bày tại Bảo tàng Hồ Chí Minh
24. Thẻ dự Đại hội VII Quốc tế Cộng sản của Nguyễn Ái Quốc,
với bí danh là Lin, số 154
Tài liệu lưu tại Bảo tàng Hồ Chí Minh ST 161 Q12
184
25. Nguyễn Ái Quốc: Kế hoạch làm việc tại Viện nghiên cứu các vấn đề dân
tộc và thuộc địa. 10-2-1937. Trang 1.
Tài liệu trưng bày tại Bảo tàng Hồ Chí Minh
185
26. Bảng điểm nghiên cứu sinh của Nguyễn Ái Quốc, học kỳ I và II,
năm học 1937-1938.
Tài liệu lưu tại Bảo tàng Hồ Chí Minh
186
27. Thư của Nguyễn Ái Quốc gửi QTCS. 6-6-1938.
Tài liệu trưng bày tại Bảo tàng Hồ Chí Minh
187
28. Công văn của Phòng Tổ chức Cán bộ của QTCS gửi Tổng Bí thư
Ban Chấp hành QTCS Đimitơrốp đề nghị giải quyết dứt điểm cho đồng chí
Lin về nước công tác. Trong công văn có chữ viết tay phê duyệt của các đồng chí
Đimitơrốp và Manuinxki. Ngày 8-6-1938.
Tài liệu trưng bày tại Bảo tàng Hồ Chí Minh
188
29. Nguyễn Ái Quốc: “Những chỉ thị mà tôi có thể nhớ và truyền đạt được”.
Báo cáo gửi QTCS. 7-1939
Tài liệu trưng bày tại Bảo tàng Hồ Chí Minh
189
30. Báo “Việt Nam độc lập”, số 131. Trang 1.
Tài liệu trưng bày tại Bảo tàng Hồ Chí Minh
190
31. Tài liệu: “Chiến tranh Thái Bình Dương và bộ mặt thật của chính sách
khu thịnh vượng chung”. 1944.
Tài liệu trưng bày tại Bảo tàng Hồ Chí Minh
191
32. Tài liệu: “Đảo chính của Nhật ở Đông Dương”. 1945.
Tài liệu trưng bày tại Bảo tàng Hồ Chí Minh
192
33. Chỉ thị “Nhật, Pháp bắn nhau và hành động của chúng ta” của Ủy ban
thường vụ Trung ương ĐCSĐD. 12-3-1945. Bìa và trang 15.
Tài liệu lưu tại Bảo tàng Hồ Chí Minh ST 417 Q16
34. Toán quân của nhóm Con Nai của Cơ quan Tình báo chiến lược Mỹ
(OSS) nhảy dù xuống Tân Trào, Tuyên Quang. Tháng 7-1945.
Tài liệu trưng bày tại Bảo tàng Hồ Chí Minh
193
35. Phần IV-Vấn đề ngoại giao trong Nghị quyết của Hội nghị toàn quốc
của ĐCSĐD. 15-8-1945. Trang 3.
Tài liệu trưng bày tại Bảo tàng Hồ Chí Minh
194
36. Hồ Chí Minh, Võ Nguyên Giáp với các thành viên của nhóm Con Nai
của Cơ quan Tình báo chiến lược Mỹ (OSS) tại Tân Trào, Tuyên Quang.
Tháng 8-1845.
Tài liệu trưng bày tại Bảo tàng Hồ Chí Minh
37. Sau ngày kết thúc Đại hội quốc dân Tân Trào (17-8-1945), đại đội Việt
– Mỹ xuất quân hướng về Hà Nội.
Tài liệu trưng bày tại Bảo tàng Hồ Chí Minh
195
38. Báo cáo của ngài A.E.Bogomolov, Đại sứ đặc mệnh toàn quyền Liên Xô
tại Pháp gửi ngài V.G.Dekanozov, Thứ trưởng Bộ ngoại giao Liên Xô,
Ủy viên Trung ương ĐCS Liên Xô (1941-1952)về vấn đề Đông Dương,
ngày 20-8-1945.
196
Báo cáo của ngài A.E.Bogomolov, Đại sứ đặc mệnh toàn quyền Liên Xô tại
Pháp gửi ngài V.G.Dekanozov, Thứ trưởng Bộ ngoại giao Liên Xô, Ủy viên
Trung ương ĐCS Liên Xô (1941-1952)về vấn đề Đông Dương, ngày 20-8-
1945. (Bản dịch tiếng Việt)
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- luan_an_hoat_dong_doi_ngoai_cua_dang_tu_nam_1930_den_nam_194.pdf