33
BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO BỘ NGOẠI GIAO
HỌC VIỆN NGOẠI GIAO
ĐỖ NGỌC THỦY
HOẠT ĐỘNG ĐỐI NGOẠI CỦA CHÍNH QUYỀN
ĐỊA PHƢƠNG VIỆT NAM TRONG THỜI KỲ
HỘI NHẬP QUỐC TẾ
LUẬN ÁN TIẾN SĨ CHUYÊN NGÀNH QUAN HỆ QUỐC TẾ
MÃ SỐ: 62 31 02 06
Hà Nội - 2018
BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO BỘ NGOẠI GIAO
HỌC VIỆN NGOẠI GIAO
ĐỖ NGỌC THỦY
HOẠT ĐỘNG ĐỐI NGOẠI CỦA CHÍNH QUYỀN
ĐỊA PHƢƠNG VIỆT NAM TRONG THỜI KỲ
HỘI NHẬP QUỐC TẾ
Chuyên ngành: Quan hệ quốc tế
Mã số: 62 31 02 06
LUẬN ÁN TIẾN SĨ
202 trang |
Chia sẻ: huong20 | Ngày: 15/01/2022 | Lượt xem: 443 | Lượt tải: 1
Tóm tắt tài liệu Luận án Hoạt động đối ngoại của chính quyền địa phương Việt Nam trong thời kỳ hội nhập quốc tế, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
NGƢỜI HƢỚNG DẪN KHOA HỌC:
1. PGS.TS Tạ Minh Tuấn
2. PGS.TS Hoàng Anh Tuấn
Hà Nội - 2018
LỜI CAM ĐOAN
Tôi cam đoan luận án “Hoạt động đối ngoại của chính quyền địa phƣơng
Việt Nam trong thời kỳ hội nhập quốc tế” là công trình nghiên cứu của tôi. Các
nội dung nghiên cứu và kết quả đƣợc trình bày trong luận án là trung thực và
chƣa từng đƣợc công bố.
Hà Nội, ngày tháng năm
Tác giả luận án
Đỗ Ngọc Thủy
LỜI CẢM ƠN
Trƣớc hết, tôi xin bày tỏ lòng biết ơn sâu sắc đến PGS. TS. Tạ Minh Tuấn
và PGS. TS Hoàng Anh Tuấn về những lời chỉ bảo, hƣớng dẫn cũng nhƣ sự động
viên hết sức chân tình và sâu sắc đối với tôi trong suốt quá trình viết Luận án.
Tôi xin chân thành cảm ơn những ý kiến đóng góp quý báu và có giá trị
của các nhà khoa học qua những buổi thảo luận ở Bộ môn của các nhà khoa học
qua những buổi thảo luận ở Bộ môn. Đồng thời tôi xin cảm ơn đến Lãnh đạo và
các đồng nghiệp tại Cục Ngoại vụ, Bộ Ngoại giao, Sở Ngoại vụ tỉnh Tuyên
Quang, Sở Ngoại vụ tỉnh Phú Yên đã tạo điều kiện để tôi vừa hoàn thành nhiệm
vụ chuyên môn đƣợc giao, vừa thực hiện đƣợc luận án.
Tôi xin đƣợc gửi lời cảm ơn đến Ban giám đốc Học viện Ngoại giao và
Lãnh đạo Khoa Đào tạo sau Đại học đã tạo mọi điều kiện thuận lợi cho quá trình
học tập và nghiên cứu của tôi.
Lòng tri ân sâu sắc của tôi xin đƣợc gửi đến gia đình, ngƣời thân, bạn bè đã
luôn động viên, quan tâm, đóng góp ý kiến cho tôi trong quá trình làm luận án./.
Tác giả luận án
MỤC LỤC
MỞ ĐẦU ............................................................................................................... 1
CHƢƠNG 1: CƠ SỞ LÝ LUẬN VÀ THỰC TIỄN CỦA HOẠT ĐỘNG ĐỐI
NGOẠI CỦA ĐỊA PHƢƠNG VIỆT NAM ....................................................... 19
1.1. Cơ sở lý luận: ............................................................................................ 19
1.1.1. Khái niệm “chính quyền địa phƣơng” và chức năng đối ngoại .... 19
1.1.2. Sự hình thành hoạt động đối ngoại địa phƣơng trên thế giới. ...... 25
1.1.3. Hai cách tiếp cận chính về đối ngoại địa phƣơng ........................... 29
1.1.3.1. Các thuật ngữ về “đối ngoại địa phương” ................................... 29
1.1.3.2. Phân tích sự hình thành các quyết định đối ngoại địa phương .... 36
1.2. Cơ sở thực tiễn ......................................................................................... 42
1.2.1. Đặc điểm hệ thống chính trị Việt Nam ............................................ 42
1.2.2. Quan điểm chính sách của Việt Nam ............................................... 45
1.2.2.1. Đối ngoại địa phương là một bộ phận quan trọng trong nền ngoại
giao hiện đại Việt Nam. .............................................................................. 45
1.2.2.2. Phân công, phân nhiệm giữa trung ương và địa phương trong
triển khai hoạt động đối ngoại địa phương. ............................................... 51
1.2.3. Khái quát thực tiễn đối ngoại địa phƣơng Việt Nam ..................... 56
1.2.3.1. Giai đoạn 1954 – 1977: ................................................................ 56
1.2.3.2. Giai đoạn 1977 - 2004 .................................................................. 58
1.2.3.3. Giai đoạn 2004 – nay .................................................................... 60
Tiểu kết ................................................................................................................ 63
CHƢƠNG 2: HOẠT ĐỘNG ĐỐI NGOẠI ĐỊA PHƢƠNG VIỆT NAM .... 65
2.1. Phân tích nội dung chính sách đối ngoại địa phƣơng .......................... 65
2.1.1. Chính sách đối ngoại địa phƣơng phục vụ hội nhập quốc tế ........ 65
2.1.2. Cơ chế phối hợp trong công tác đối ngoại địa phƣơng .................. 70
2.1.2.1. Đối với các hoạt động đối ngoại chung của Đảng và Nhà nước: 70
2.1.2.2. Đối với các hoạt động đối ngoại của chính quyền địa phương .... 72
2.2. Phân tích về thực hiện chính sách đối ngoại địa phƣơng ..................... 79
2.2.1. Hoạt động đối ngoại địa phƣơng vì mục tiêu an ninh biên giới ... 80
2.2.2. Hoạt động đối ngoại địa phƣơng vì mục tiêu kinh tế ..................... 84
2.2.3. Hoạt động đối ngoại địa phƣơng vì mục tiêu hữu nghị.................. 89
2.2.4. Hoạt động đối ngoại địa phƣơng vì mục tiêu hội nhập tiểu vùng . 93
Tiểu kết ................................................................................................................ 98
CHƢƠNG 3: ĐÁNH GIÁ VÀ KHUYẾN NGHỊ CHÍNH SÁCH NHẰM
NÂNG CAO HIỆU QUẢ CÔNG TÁC ĐỐI NGOẠI ĐỊA PHƢƠNG......... 100
3.1. Đánh giá hoạt động đối ngoại địa phƣơng thời kỳ hội nhập ............. 100
3.1.1. Đóng góp của đối ngoại địa phƣơng trong công tác đối ngoại
chung ........................................................................................................... 100
3.1.2. Hạn chế của hoạt động đối ngoại địa phƣơng và nguyên nhân .. 104
3.1.2.1. Hạn chế của hoạt động đối ngoại địa phương ............................ 104
3.1.2.2. Nguyên nhân của những hạn chế ................................................ 108
3.2. Khuyến nghị chính sách cho hoạt động đối ngoại địa phƣơng .......... 112
3.2.1. Đổi mới phƣơng pháp xác định lợi ích của địa phƣơng ............... 112
3.2.1.1.Những khác biệt giữa “lợi ích địa phương” và “lợi ích quốc gia” 113
3.2.1.2. Tiếp cận lợi ích địa phương theo hướng “động” ........................ 114
3.2.1.3. Mở rộng vùng lợi ích chung với đối tác ...................................... 116
3.2.2. Đổi mới đánh giá hiệu quả hoạt động đối ngoại địa phƣơng ...... 119
3.2.2.1. Định lượng hóa hiệu quả hoạt động đối ngoại địa phương: ...... 119
3.2.2.2. Đề xuất xây dựng Chỉ số hoạt động đối ngoại địa phương ........ 120
3.2.3. Nâng cao hiệu quả phối hợp giữa trung ƣơng và địa phƣơng trong
quản lý đối ngoại địa phƣơng ................................................................... 126
3.2.3.1. Về quản lý Kiểm soát biên giới ................................................... 127
3.2.3.2. Hợp tác hỗ trợ địa phương các nước láng giềng ........................ 128
3.2.3.3. Quản lý thu hút đầu tư, thực hiện cam kết hội nhập kinh tế quốc tế . 129
3.2.3.4. Quản lý thương mại biên giới: .................................................... 131
3.2.3.5. Tổ chức bộ máy, nhân sự đối ngoại địa phương ......................... 132
3.2.3.6. Phân cấp một số dịch vụ công của công tác lãnh sự: ................. 133
3.3. Triển vọng và xu hƣớng phát triển của đối ngoại địa phƣơng đáp ứng
yêu cầu của hội nhập quốc tế ....................................................................... 135
3.3.1. Triển vọng của đối ngoại địa phƣơng: ........................................... 135
3.3.2. Các xu hƣớng phát triển chính của đối ngoại địa phƣơng .......... 138
Tiểu kết .............................................................................................................. 142
KẾT LUẬN ....................................................................................................... 145
DANH MỤC CÁC CÔNG TRÌNH NGHIÊN CỨU ĐÃ CÔNG BỐ ........... 151
TÀI LIỆU THAM KHẢO ............................................................................... 152
PHỤ LỤC .......................................................................................................... 168
mục Đỗ Ngọc Thủy
DANH MỤC VIẾT TẮT
ASEAN Hiệp hội các quốc gia Đông Nam Á
ASEAN + 3 Hiệp hội các quốc gia Đông Á và ba nƣớc đối tác
ASEAN + 1 Hiệp hội các quốc gia Đông Á và một nƣớc đối tác
ADB Ngân hàng phát triển châu Á
ASEM Diễn đàn các nƣớc Á - Âu
APEC Diễn đàn các nền kinh tế châu Á Thái Bình Dƣơng
AIA Khu vực đầu tƣ ASEAN
EU Liên minh châu Âu
EWEC Hành lang kinh tế Đông Tây
FTA Hiệp định thƣơng mại
FDI Đầu tƣ trực tiếp nƣớc ngoài
GDP Tổng sản phẩm quốc nội
IGA Hiệp định bảo lãnh đầu tƣ ASEAN
MDG Chƣơng trình mục tiêu thiên niên kỷ
NGO Tổ chức phi chính phủ
ODA Viện trợ phát triển chính thức
PFAI
RCEP
Chỉ số đối ngoại địa phƣơng
Hiệp định Đối tác Kinh tế Toàn diện Khu vực
SCI Tổ chức các thành phố kết nghĩa quốc tế
SDGs Chƣơng trình các mục tiêu phát triển bền vững
UNESCO Tổ chức giáo dục, khoa học và văn hóa Liên Hiệp Quốc
VSIP Khu công nghiệp Việt Nam - Singapore
WTO Tổ chức thƣơng mại thế giới
DANH MỤC CÁC HÌNH
Tên các hình Nguồn
1 HÌNH SỐ 1. Ma trận phản ánh cuộc
tƣơng tác hai tầng giữa bốn chủ thể
với ba thuộc tính Lợi ích, Thể chế,
Thông tin.
Tác giả tự xây dựng từ
trình bày của Helen
Milner
2 HÌNH SỐ 2. Biểu đồ hình “xƣơng
cá” thể hiện các nhân tố tác động tới
quá trình hình thành một quyết
định đối ngoại địa phƣơng
Tác giả tự xây dựng từ
trình bày của Helen
Milner
3 HÌNH SỐ 3. Sơ đồ minh họa quan
hệ giữa các cơ quan tham gia quy
trình ra quyết định hoạt động đối
ngoại địa phƣơng theo Quy chế
quản lý thống nhất hoạt động đối
ngoại.
Tác giả luận án tự xây
dựng
4 HÌNH SỐ 4. Quá trình làm rộng
vùng lợi ích chung
Tác giả luận án tự xây
dựng
5 HÌNH SỐ 5. Hình minh họa điểm
PIFAI trung bình của một địa
phƣơng với các điểm thành phần.
Tác giả luận án tự xây
dựng
6 HÌNH SỐ 6. Hình minh họa một
góc bảng điểm PIFAI của một nhóm
địa phƣơng
Tác giả luận án tự xây
dựng
DANH MỤC TÀI LIỆU PHỤ LỤC
1. Quyết định số 67/2011/QĐ-TTg ngày 12/12/2011 của Thủ tƣớng Chính
phủ về việc ban hành quy chế quản lý thống nhất các hoạt động đối ngoại
của Ủy ban nhân dân các tỉnh, thành phố trực thuộc trung ƣơng
2. Thông tƣ liên tịch số 02/2015/TTLT-BNG-BNV ngày 28/62015 hƣớng
dẫn chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn và cơ cấu tổ chức của Sở Ngoại vụ
thuộc Ủy ban nhân dân cấp tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ƣơng.
1
MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài.
Trong lý thuyết cũng nhƣ thực tiễn quan hệ quốc tế, các quốc gia - dân tộc
mà nhà nƣớc là ngƣời đại diện luôn là các chủ thể chính. Tuy nhiên, từ sau khi
Chiến tranh thế giới lần thứ Hai kết thúc, các chủ thể “phi nhà nƣớc” đã bƣớc
vào môi trƣờng quan hệ quốc tế đồng nghĩa với việc các quốc gia - dân tộc
không còn là những chủ thể duy nhất triển khai quan hệ quốc tế và thực hiện
chính sách đối ngoại. Xu hƣớng các chính quyền địa phƣơng, bao gồm cả chính
quyền vùng, chính quyền cấp tỉnh các quốc gia thuộc nhiều chế độ chính trị khác
nhau có các hoạt động quốc tế, xây dựng kế hoạch đối ngoại, vận động gâyảnh
hƣởng tới chính sách đối ngoại quốc gia, phát triển năng lực hoạt động quốc tế
ngày càng tăng lên và đƣợc gọi chung là hoạt động “đối ngoại địa phƣơng” [39].
Trong những thập kỷ gần đây, các hoạt động này đã nổi lên nhƣ một hiện tƣợng
của đời sống quốc tế.
Đối với Việt Nam, Đảng và Nhà nƣớc luôn coi đối ngoại địa phƣơng là
một bộ phận quan trọng trong công tác đối ngoại chung của đất nƣớc. Tƣ tƣởng
chủ đạo về vai trò của địa phƣơng trong hoạt động đối ngoại thể hiện ở quan
điểm của Đảng và Nhà nƣớc về “phát huy sức mạnh của mọi lực lƣợng làm đối
ngoại”, về tính toàn diện của nền ngoại giao Việt Nam. Qua các kỳ Đại hội Đảng
lần thứ IX, X, XI, XII quan điểm của Đảng về nền ngoại giao toàn diện Việt
Nam đã ngày càng hoàn thiện - đó là “nền ngoại giao thống nhất dƣới sự lãnh
đạo của Đảng” nhằm huy động mọi lực lƣợng, binh chủng, kênh đối ngoại, trong
đó có các chính quyền địa phƣơng. Đặc biệt, với định hƣớng của Đại hội Đảng
lần thứ XII về “chủ động, tích cực hội nhập quốc tế sâu rộng”, việc địa phƣơng
tham gia hội nhập quốc tế là một yêu cầu khách quan, là một kênh quan trọng
giúp triển khai chính sách đối ngoại của Việt Nam thời kỳ mới. Vai trò của đối
ngoại địa phƣơng trong thời kỳ hội nhập quốc tế đang thực sự trở thành một chủ
đề chính trị - kinh tế - đối ngoại đáng quan tâm ở Việt Nam hiện nay.
2
Tuy có cơ sở lý luận vững chắc, bề dày phát triển cùng những đóng góp
nhất định vào thành tựu đối ngoại chung của đất nƣớc, so với nhiều ngành kinh
tế xã hội khác, đối ngoại địa phƣơng vẫn là lĩnh vực đặc thù trong hoạt động
thực tiễn, chƣa đƣợc tạo điều kiện phát triển đúng mức. Vấn đề này có những
nguyên nhân khách quan, đó là tính chất nhạy cảm, phức tạp vốn thuộc về bản
chất của các vấn đề đối ngoại, nhƣng cũng có nguyên nhân chủ quan, đó là sự
chậm trễ trong tổng kết thực tiễn, ban hành chính sách phù hợp, sát với yêu cầu
phát triển của công tác đối ngoại địa phƣơng. Ở nhiều địa phƣơng, nhận thức về
vai trò của công tác đối ngoại còn nhiều hạn chế, hoạt động đối ngoại cũng chƣa
đủ độ sâu và thực chất đủ để mang lại những giá trị mới cho sự phát triển của địa
phƣơng, đáp ứng đòi hỏi của quá trình hội nhập. Ở cấp trung ƣơng, các bộ ngành
liên quan còn thiếu những định hƣớng dài hơi cho sự phát triển của đối ngoại địa
phƣơng, chƣa có những giải pháp chiến lƣợc tạo động lực khuyến khích sự năng
động, sáng tạo, tự chủ của chính quyền địa phƣơng trong hoạt động quốc tế, đảm
bảo cho địa phƣơng thực hiện thành công và đạt đƣợc nhiều lợi ích từ quá trình
hội nhập của đất nƣớc.
Để làm rõ bản chất của hoạt động đối ngoại địa phƣơng Việt Nam, vai trò
của đối ngoại địa phƣơng trong nền ngoại giao Việt Nam hiện đại, triển vọng và
xu hƣớng phát triển của đối ngoại địa phƣơng đáp ứng nhu cầu của hội nhập
quốc tế, tác giả chọn đề tài “Hoạt động đối ngoại của các chính quyền địa
phƣơng Việt Nam trong thời kỳ hội nhập quốc tế” làm luận án tốt nghiệp tiến sĩ
chuyên ngành Quan hệ Quốc tế sau thời gian làm nghiên cứu sinh tại Học viện
Ngoại giao.
2. Lịch sử nghiên cứu vấn đề
Trên thế giới, hoạt động đối ngoại địa phƣơng không phải là hiện tƣợng
mới nhƣng chỉ trở thành một chủ đề chính thức của nghiên cứu quan hệ quốc tế
từ đầu những năm 1980. Đó là giai đoạn các hoạt động quốc tế của chính quyền
địa phƣơng có sự gia tăng nhanh chóng, đồng thời phạm vi hoạt động ngày càng
rộng, nhất là ở các nƣớc dân chủ phƣơng Tây và các nền kinh tế đang chuyển
3
đổi. Sự xuất hiện của đối ngoại địa phƣơng trong nghiên cứu quốc tế rất đáng chú
ý vì nó thách thức các giả thuyết nổi bật của của quan hệ quốc tế truyền thống vốn
chỉ tập trung vào vai trò trung tâm của nhà nƣớc, đồng thời mở ra hƣớng tiếp cận
mới về cấp độ phân tích trong nghiên cứu quan hệ quốc tế nói chung. Từ đó đến
nay, nghiên cứu về đối ngoại địa phƣơng đã đạt đƣợc nhiều kiến thức sâu sắc với
những thuật ngữ mới ra đời nhƣ “ngoại giao song song”, “ngoại giao đa tầng”,
“ngoại giao hợp nhất” để nắm bắt hiện tƣợng đối ngoại địa phƣơng. Đồng thời,
các nghiên cứu cũng đã bàn tới sự khác biệt giữa hoạt động đối ngoại của chủ thể
địa phƣơng với hoạt động quốc tế các chủ thể phi nhà nƣớc khác.
Đối với Việt Nam, các công trình nghiên cứu riêng về đối ngoại địa
phƣơng chƣa có nhiều song không thiếu những công trình bàn về các vấn đề liên
quan nhƣ “đối nội với chính sách đối ngoại”, “cách thức các chính quyền địa
phƣơng tham gia vào lĩnh vực đối ngoại”. Các công trình bàn trực tiếp về đối
ngoại địa phƣơng đến nay chủ yếu là nguồn Kỷ yếu các kỳ Hội nghị Ngoại vụ
địa phƣơng do Bộ Ngoại giao tổ chức định kỳ, các bài viết của Lãnh đạo Bộ
Ngoại giao qua các thời kỳ phân tích về đƣờng lối đối ngoại của Đảng và Nhà
nƣớc, quan điểm về nền ngoại giao hiện đại Việt Nam trong thời kỳ hội nhập
quốc tế.
2.1. Các công trình nghiên cứu ngoài nước
Có thể chia các nghiên cứu về đối ngoại địa phƣơng thành ba nhóm chính:
nhóm “ngoại giao song song”, nhóm “ngoại giao đa tầng”, và nhóm các nghiên
cứu theo trƣờng phái chủ nghĩa thể chế lịch sử.
Nhóm ngoại giao song song
Công trình nghiên cứu đầu tiên về đối ngoại địa phƣơng đƣợc ghi nhận là
loạt bài “Các bang của chính quyền liên bang và quan hệ quốc tế của họ” của
nhóm tác giả Ivo Duchacek và John Kincaid, John Kline đăng thành tạp chí xuất
bản năm 1984 [119]. Các bài báo mô tả thực tiễn hoạt động quốc tế của các
chính quyền thuộc chính phủ liên bang ở Mỹ và Canada trong những năm 1970
và 1980. Trong các bài báo này, Duchacek sử dụng từ “ngoại giao vi mô” – sau
4
này tác giả đổi thành “ngoại giao song song” để chỉ hoạt động đối ngoại của các
chính quyền địa phƣơng, phân biệt với “ngoại giao vĩ mô” thực hiện bởi chính
phủ trung ƣơng.
Tác phẩm tiếp theo „Khía cạnh lãnh thổ của chính trị: bên trong, với nhau
và bên ngoài các dân tộc” [116] của Duchacek xuất bản năm 1986. Trong tác
phẩm này, Duchacek định nghĩa “ngoại giao song song” là hoạt động song song,
phối hợp hoặc bổ sung, thậm chí có lúc xung đột với ngoại giao vĩ mô giữa các
quốc gia với nhau. Duchacek cho rằng sự hiện diện của địa phƣơng trên trƣờng
quốc tế đã trở thành một thực tiễn của đời sống quốc tế trong thế giới phụ thuộc
lẫn nhau. Tác giả phân nhóm ngoại giao song song thành ba loại: ngoại giao
song song khu vực xuyên biên giới diễn ra giữa các địa phƣơng các nƣớc chung
biên giới với nhau; ngoại giao song song xuyên khu vực diễn ra giữa các vùng
của các nƣớc láng giềng nhƣng không có biên giới chung; ngoại giao song song
toàn cầu tức là quan hệ giữa các chính phủ trung ƣơng và địa phƣơng các nƣớc
mà không phụ thuộc về biên giới chung.
Nghiên cứu thứ ba “Một khuôn khổ giải thích cho nghiên cứu về các bang
thuộc liên bang nhƣ là những chủ thể chính sách đối ngoại” do Duchacek kết hợp
với Hans J. Michelmann và Panayotis Soldatos xuất bản năm 1990 [133] đi xa
hơn trong việc phát triển chủ thể chính quyền địa phƣơng nhƣ là những “chủ thể
chính sách đối ngoại”. Tác giả Panayotis Soldatos cho rằng hoạt động đối ngoại
của chính quyền địa phƣơng trong các nhà nƣớc liên bang có những nhân tố cấu
thành của chính sách đối ngoại, có mục tiêu, chiến lƣợc, thủ thuật, thể chế, quá
trình ra quyết định, công cụ và các giải pháp thực hiện [133][134]. Tác giả còn
đƣa ra cách phân biệt các nguồn gốc dẫn đến sự hình thành của hoạt động đối
ngoại song song: nguyên nhân trong nƣớc tại cấp độ bang; nguyên nhân trong
nƣớc tại cấp độ liên bang, và các nguyên nhân quốc tế.
Các tác giả Fancisco Aldecoa và Miachel Keating với tập hợp “Đối ngoại
song song trong thực tiễn” đã tiếp cận hoạt động quốc tế của địa phƣơng các
nƣớc châu Âu ở Bỉ, Đức, Tây Ban Nha. Dựa trên khái niệm ngoại giao song
5
song của các học giả Mỹ và Canada, các nhà khoa học châu Âu, gắn với thực
tiễn hình thành Liên minh châu Âu, đã nghiên cứu về quan hệ giữa chính quyền
liên bang và chính quyền bang nhƣ là một hệ quả của trào lƣu khu vực hóa châu
Âu. Nhóm tác giả cho rằng nhờ các cải cách liên tục, EU đã phát triển một
khuôn khổ thể chế tƣơng đối thuận lợi cho việc huy động tiềm năng của địa
phƣơng trong hoạt động quốc tế và dần dần thể chế hóa cho hoạt động quốc tế của
chính quyền địa phƣơng.
Bài viết của Geoffrey Wiseman “Chủ nghĩa đa chủ thể và các phƣơng
thức mới của đối thoại toàn cầu” đã đề cập đến một hình thức mới của ngoại
giao trong thế kỷ 21, đó là ngoại giao đa chủ thể (polylateralism). Tác giả định
nghĩa “ngoại giao đa chủ thể” là quan hệ giữa các thực thể chính thức - nhƣ nhà
nƣớc, một nhóm nhà nƣớc hoặc các tổ chức quốc tế có các quốc gia thành viên -
với ít nhất một đối tác “phi nhà nƣớc” không chính thức, không nhất thiết phải
dựa trên sự công nhận nhau là các thực thể có chủ quyền hoặc các thực thể bình
đẳng”. Weisman nói về chủ nghĩa đa chủ thể nhƣ là một hình thức thứ ba của
ngoại giao, cùng với ngoại giao song phƣơng và ngoại giao đa phƣơng, trong đó
các chủ thể địa phƣơng là một phần đáng chú ý của trật tự thế giới.
Nhóm ngoại giao đa tầng
Brian Hocking là tác giả hàng đầu về ngoại giao đa tầng với một loạt công
trình nghiên cứu trong các năm 1993 - 1999 nhƣ “Địa phƣơng hóa chính sách
đối ngoại: Các chính quyền phi trung ƣơng và ngoại giao đa tầng” (nguyên gốc
“Localizing Foreign Policy: Non-Central Governments and Multilayered
Diplomacy), “Vƣợt qua làn ranh: Toàn cầu hóa, Địa phƣơng hóa và vai trò chủ
thể của các chính quyền phi trung ƣơng”, “Bắc cầu nối các đƣờng biên giới: Tạo
các liên kết. Các chính quyền phi trung ƣơng và Mô trƣờng chính sách đa tầng”.
Trong các nghiên cứu này, Brian Hocking cho rằng ở mỗi quốc gia ngày nay,
ngoại giao là một mạng lƣới các tƣơng tác giữa nhà nƣớc, địa phƣơng và các chủ
thể khác. Các chủ thể này sẽ tƣơng tác theo các cách khác nhau phụ thuộc vào
vấn đề lợi ích và năng lực hoạt động nhằm tìm cách đảm bảo đồng thời lợi ích
6
đối nội và đối ngoại. Trái ngƣợc với “ngoại giao song song” cho rằng hoạt động
đối ngoại của chính phủ và địa phƣơng diễn ra trong hai thế giới tách biệt,
“ngoại giao đa tầng” cho rằng chủ thể nhà nƣớc và địa phƣơng cùng là bộ phận
của một môi trƣờng ngoại giao phức tạp có sự liên tục của các chính sách đối nội
và đối ngoại. Khái niệm “ngoại giao đa tầng” cũng phê phán cách “ngoại giao
song song” tạo sự chia cắt giữa trung ƣơng và địa phƣơng trong lĩnh vực quan hệ
quốc tế và mặc nhiên coi chủ thể địa phƣơng là các chủ thể đơn nhất, bỏ qua các
khác biệt về lợi ích và chiến lƣợc mà họ theo đuổi. Trƣờng phái đa tầng nhận
thức hoạt động đối ngoại ngày càng tăng của các chính quyền địa phƣơng là một
phần trong chuỗi những phát triển của quá trình chính sách đối ngoại quốc gia.
“Địa phƣơng hóa chính sách đối ngoại” nhƣ Hocking gọi, “thể hiện sự mở rộng
chứ không phải thu hẹp của chính sách đối ngoại”. Bằng việc “dung nạp”, “bình
thƣờng hóa” đối ngoại địa phƣơng trong hệ thống đối ngoại quốc gia, lý thuyết
của Hocking nhấn mạnh sự hợp tác lớn hơn xung đột giữa địa phƣơng và trung
ƣơng trong đối ngoại.
David Criekemans cũng là tác giả chuyên nghiên cứu về đối ngoại địa
phƣơng nhất là các nƣớc châu Âu với một loạt nghiên cứu tình huống nhƣ
“Trƣờng hợp Flanders 1993 – 2005: cách các thực thể địa phƣơng phát triển đối
ngoại địa phƣơng của mình” (The case of Flanders (1993-2005): how
subnational entities develop their own "paradiplomacy") [101], Nghiên cứu về
địa phƣơng – con đƣờng phía trƣớc (“Researching sub-state diplomacy: the road
ahead”) [102], “Đối ngoại địa phƣơng của khu vực: Cách tiếp cận so sánh:
Quebec, Scotland, Bavaria, Catalonia, Walonia và Flanders” (“Regional Sub-
state Diplomacy from a Comparative Perspective: Quebec, Scotland, Bavaria,
Catalonia, Wallonia and Flanders” [103]. Dựa trên sự phát triển của đối ngoại
châu Âu, tác giả đƣa ra khái niệm về đối ngoại địa phƣơng nhƣ là một hiện
tƣợng đang không ngừng phát triển và liên tục có những thay đổi. Trong bài
“Nghiên cứu về đối ngoại địa phƣơng – Con đƣờng phía trƣớc” [102], tác giả
phân tích 3 giai đoạn phát triển của đối ngoại địa phƣơng:
7
(i) Làn sóng thứ nhất từ những năm 1980 đến gần 1990: các chính quyền
địa phƣơng tăng cƣờng phát huy các giá trị văn hóa và bản sắc để tham gia hoạt
động quốc tế và thực hiện các sáng kiến nhằm thu hút đầu tƣ nƣớc ngoài,
(ii) Làn sóng thứ hai trong những năm 1990, đƣợc ghi dấu bởi việc thể thức
hóa đối ngoại địa phƣơng trong các nƣớc châu Âu. Các quy định pháp lý ra đời
tạo cơ sở cho hoạt động đối ngoại địa phƣơng, đồng thời bộ máy chính sách đối
ngoại “riêng”, có thể là cơ quan chính sách hoặc cơ quan hành chính, đƣợc thành
lập để phối hợp các hoạt động giữa các địa phƣơng với nhau nhất, là trong từng
vùng. Ví dụ nhƣ ở Pháp, Luật 6/2/1992 liên quan tới quản lý lãnh thổ là văn bản
luật đầu tiên chính thức cho phép các chính quyền địa phƣơng ký các thỏa thuận
với các chính quyền tƣơng ứng ở nƣớc ngoài, đồng thời thành lập Ủy ban quốc gia
về hợp tác phi tập trung của Pháp - Commission Nationale de la Coopération
Décentralisée (CNCD).
(iii) Làn sóng thứ ba tính từ đầu những năm 2000 đến nay. Giai đoạn này
đƣợc ghi dấu bởi việc bộ máy tổ chức cơ quan đối ngoại địa phƣơng phát triển
theo chiều sâu trong các quốc gia, việc hòa nhập các công cụ đối ngoại địa
phƣơng vào tổng thể chính sách đối ngoại quốc gia trở nên nhuần nhuyễn, các
trọng tâm về hợp tác quốc tế và khai thác lợi thế địa chính trị của các địa phƣơng
đƣợc nhấn mạnh. Ví dụ, Pháp là quốc gia có nền tảng thể chế mạnh về đối ngoại
địa phƣơng. Ở cấp quốc gia, Ủy ban quốc gia về hợp tác phi tập trung (CNCD)
do Thủ tƣớng chính phủ đứng đầu, tại Bộ Ngoại giao có Vụ Hợp tác quốc tế của
chính quyền địa phƣơng nay trực thuộc Tổng vụ Toàn cầu hoá, Hệ thống các
hiệp hội hỗ trợ đối ngoại địa phƣơng gồm có Hiệp hội các đô thị (CUF) và Ủy
ban các vùng của Pháp (DAECL).
Tác giả Noe Cornago với hai nghiên cứu “Về việc bình thƣờng hóa ngoại
giao địa phƣơng” (On the Normalization of Sub-State Diplomacy) [130] và “Bàn
về khía cạnh toàn cầu của ngoại giao địa phƣơng” (Exploring the global
dimensions of paradiplomacy) [131] đề cập hiện tƣợng đối ngoại địa phƣơng từ
nhãn quan toàn cầu. Neo Cornago cho rằng sự tham gia của chính quyền địa
8
phƣơng vào quan hệ quốc tế không chỉ diễn ra ở các nƣớc phát triển ở Bắc Mỹ
và Tây Âu mà còn ở tất cả các châu lục, đối ngoại địa phƣơng thực sự là một
hiện tƣợng toàn cầu, là một cấu thành của nền kinh tế chính trị toàn cầu mới.
Tác giả Brian Hocking tiếp tục bổ sung lý giải mối quan hệ giữa trung
ƣơng và địa phƣơng trong hệ thống ngoại giao đa tầng với khái niệm “ngoại giao
hợp nhất”. Trong hai nghiên cứu “Tƣơng lai của ngoại giao: Ngoại giao hợp nhất
trong thế kỷ 21” (Futures for Diplomacy: Integrative Diplomacy in the 21st
Century) [98] và “Ngoại giao đa chủ thể : Các hình thái, Chức năng và những
vấn đề” (Multistakeholder Diplomacy: Forms, Functions, and Frustrations) [97],
tác giả khẳng định nhu cầu về phối hợp hoạt động đối ngoại trung ƣơng và địa
phƣơng luôn tồn tại vì chính sách đối ngoại sẽ đem lại lợi ích lớn nhất khi có sự
cố kết và liên tục với chính sách đối nội. Không đi sâu vào quan điểm cực đoan
“một mất – một còn” trong quan hệ giữa các cấp chính quyền của hệ thống chính
trị hay sự chiếm ƣu thế của trung ƣơng trong môi trƣờng đối ngoại, ngoại giao
hợp nhất nhấn mạnh sự phức tạp, đa chiều trong quan hệ giữa cấp trung ƣơng và
địa phƣơng đồng thời tìm cách phân biệt vai trò và chức năng các chủ thể này
trong quá trình xây dựng và thực thi chính sách đối ngoại.
Cách tiếp cận của chủ nghĩa thể chế lịch sử.
Mặc dù hai trƣờng phái trên đƣa ra một loạt những khái niệm hữu ích, liệt
kê các hình thức phong phú của đối ngoại địa phƣơng, nghiên cứu về đối ngoại
địa phƣơng vẫn bị đánh giá là chƣa vƣợt qua đƣợc khuôn khổ “mô tả”. Không
thỏa mãn với cách giải thích theo thuật ngữ, một nhóm các học giả châu Âu là
những ngƣời đầu tiên đã áp dụng lý thuyết thể chế lịch sử vào việc nghiên cứu
đối ngoại địa phƣơng. Cách tiếp cận thể chế lịch sử cho phép việc nghiên cứu
đối ngoại địa phƣơng phát huy đƣợc năng lực “mô tả” của các trƣờng phái
“ngoại giao song song”, “ngoại giao đa tầng”, đồng thời giải thích đƣợc tác động
của bối cảnh có tính thể chế quốc tế và trong nƣớc tới chủ thể địa phƣơng.
Hai tác giả Peter Bursensa và Jana Deforcheb có công trình nghiên cứu
“Vƣợt lên ngoại giao song song? Thể chế lịch sử sẽ giải thích năng lực chính
9
sách đối ngoại của các vùng” [135]. Dựa trên nguyên lý cơ bản của thuyết thể
chế lịch sử, nhóm tác giả đi sâu phân tích trƣờng hợp của Bỉ - nơi đƣợc đánh giá
là nhà nƣớc liên bang dành thẩm quyền đối ngoại rất lớn, gần nhƣ đầy đủ cho
cấp bang. Quan điểm thể chế lịch sử cho phép đánh giá lại năm lần cải cách hiến
pháp Bỉ trong vòng 35 năm: các năm 1970, 1981, 1988, 1993 và 2001 đã đƣa Bỉ
từ một nhà nƣớc đơn nhất, tập trung hóa thành một nhà nƣớc Liên bang đầy đủ:
(i) Cuộc cải cách lần thứ nhất năm 1970 đã du nhập chủ nghĩa liên bang vào Bỉ,
chuyển giao một số thẩm quyền về văn hóa từ cấp nhà nƣớc Bỉ xuống cấp địa
phƣơng với ba cộng đồng văn hóa; (ii) Cuộc cải cách hiến pháp lần thứ hai năm
1981 chuyển giao thẩm quyền về những vấn đề liên quan đến dân sinh nhƣ các
vấn đề thanh niên, thể thao, văn hóa, giáo dục và một phần thẩm quyền kinh tế
cho các cộng đồng trên, và chính thức lập ra hai vùng: vùng Flanders và vùng
Wallon; (iii) Cải cách năm 1988 thành lập Vùng thứ ba của Bỉ là vùng thủ đô
Brussels. Cùng với đó, các vùng của Bỉ đƣợc quyền tham gia quá trình xây dựng
chính sách đối ngoại trong những lĩnh vực thuộc thẩm quyền của địa phƣơng;
(iv) Cải cách năm 1993, các nhà cải cách nhận ra các rắc rối tiềm ẩn của việc
dành cho các đơn vị cấp vùng quyền quyết định chính sách đối ngoại nên đã áp
dụng một số giới hạn: nếu một vùng hay cộng đồng không đáp ứng các yêu cầu
của châu Âu hoặc quốc tế, bị kết án bởi một tòa án EU hoặc quốc tế thì luật liên
bang sẽ có hiệu lực trên luật địa phƣơng; (v) Cũng trong năm 1993, các vùng đã
vận động EU ban hành quy định về đại diện quốc gia ở “Hội đồng Bộ trƣởng
EU” phải có thành phần của bang, đồng thời EU cũng duy trì nguyên tắc: Các
bang nên hành động nhƣ chủ thể độc lập trên trƣờng quốc tế.
Trong bài nghiên cứu “Những vấn đề chính trị của đối ngoại địa phƣơng:
Bài học từ các nƣớc phát triển” (Political issues of paradiplomacy: lessons from
the developed world), tác giả André Lecours cũng sử dụng thuyết thể chế lịch sử
để phân tích sự lựa chọn công cụ chính sách đối ngoại của các vùng, địa phƣơng.
Lecours phân biệt các yếu tố quyết định có tính cấu trúc của đối ngoại vùng theo
các cấp độ toàn cầu, lục địa, quốc gia: (i) Cấp quốc gia: Các yếu tố cấp quốc gia
10
sẽ giải quyết những vấn đề nhƣ khuôn khổ hiến pháp dành cho địa phƣơng thẩm
quyền chính thức về đối ngoại, quan hệ giữa chính quyền liên bang và các bang
có tính hợp tác cao thay vì xung đột, đại diện của chính quyền vùng trong thể
chế liên bang hoạt động hiệu quả, nội dung hoạt động không tập trung nhiều vào
những vấn đề “chính trị cao” nhƣ quốc phòng, an ninh mà chủ yếu là các vấn đề
“chính trị thấp” nhƣ thƣơng mại, đầu tƣ(ii) Cấp châu lục: Các cơ hội tạo ra bởi
các chế độ kinh tế chính trị nhƣ Liên minh châu Âu EU; (iii) Cấp toàn cầu: Vai
trò của các tổ chức quốc tế nhƣ Liên hợp quốc, các tổ chức liên chính phủ và nền
kinh tế toàn cầu sẽ là các cấu trúc nhiều khả năng ảnh hƣởng, hoặc tạo điều kiện
hoặc gây ra khó khăn cho đối ngoại địa phƣơng.
2.2. Các công trình nghiên cứu trong nước
...xã. Là quốc gia theo mô hình nhà nƣớc
đơn nhất, chính quyền địa phƣơng đƣợc coi là “chính quyền cấp dƣới” của chính
quyền trung ƣơng, triển khai mọi hoạt động quản lý nhà nƣớc ở địa bàn trong đó
25
có lĩnh vực đối ngoại và hội nhập quốc tế. Chức năng đối ngoại của chính quyền
địa phƣơng Việt Nam thể hiện đầy đủ các đặc trƣng chính trị, mục tiêu hoạt động
cũng nhƣ bản chất “3 bên” của hoạt động đối ngoại địa phƣơng trên thế giới.
Bên cạnh đó, đối ngoại địa phƣơng Việt Nam cũng đồng thời thể hiện những đặc
điểm riêng của nhà nƣớc xã hội chủ nghĩa do Đảng Cộng sản Việt Nam lãnh đạo.
Việc các Tỉnh ủy, Thành ủy địa phƣơng tham gia khuôn khổ hợp tác của Đảng
Cộng sản Việt Nam với các Đảng Cộng sản và các Đảng tiến bộ ở các quốc gia
trên thế giới cũng là một bộ phận của công tác đối ngoại địa phƣơng. Cũng nhƣ
hoạt động đối ngoại của chính quyền trung ƣơng, hoạt động đối ngoại của các
chính quyền địa phƣơng Việt Nam đƣợc sự lãnh đạo trực tiếp của các Tỉnh ủy,
Thành ủy và sự quản lý tập trung của Chính phủ, đảm bảo sự lãnh đạo của Đảng
Cộng sản Việt Nam, sự quản lý thống nhất của Nhà nƣớc Việt Nam xã hội chủ
nghĩa trên phạm vi toàn quốc.
1.1.2. Sự hình thành hoạt động đối ngoại địa phương trên thế giới.
Các nhà sử học quan hệ quốc tế cho rằng sự tham gia của chủ thể chính
quyền địa phƣơng vào lĩnh vực đối ngoại không phải là một hiện tƣợng mới
trong đời sống quốc tế. Lịch sử đã từng ghi nhận những giai đoạn chủ thể địa
phƣơng thực hiện những hoạt động có tính chất ngoại giao. Thời Hy Lạp cổ đại,
các thành bang nhƣ Athen và Macedoni thƣờng xuyên trao đổi các đặc sứ, tổ
chức các cuộc thƣơng lƣợng thay mặt cho thành phố. Sau đó, trong thời Phục
hƣng, các quốc gia thành phố Italia đầy quyền lực nhƣ Vơ ni và Milan là những
nơi đầu tiên thiết lập phái bộ thƣờng trú ở nƣớc ngoài và tạo nên một hệ thống có
tổ chức các cơ quan đại diện. Sau Hòa ƣớc Westphelia năm 1648, khái niệm
quốc gia có chủ quyền ra đời ở châu Âu, các thành phố không còn đƣợc tiến
hành các hoạt động đối ngoại và quyền này chỉ còn thuộc về các quốc gia có chủ
quyền mới thành lập. Sự chuẩn hóa của ngoại giao sau Đại hội Viên năm 1815
và sự cùng phát triển của ngoại giao và nhà nƣớc sau đó càng làm sâu sắc hơn sự
tập trung quyền năng đối ngoại vào nhà nƣớc trong cả lý thuyết và thực tiễn. Chủ
thể địa phƣơng gần nhƣ không có mặt trong quan hệ ngoại giao song phƣơng
26
giữa các quốc gia có chủ quyền hay quan hệ đa phƣơng giữa các quốc gia là
thành viên của tổ chức quốc tế.
Hoạt động đối ngoại của các chính quyền địa phƣơng thực sự trở nên nổi
bật từ sau chiến tranh thế giới lần thứ II. Những năm 1946 – 1950, do hoàn cảnh
lịch sử, Đức là nƣớc đầu tiên đề xuất hoạt động kết nghĩa cấp địa phƣơng. Phong
trào sau đó lan rộng sang các nƣớc khác, nhiều hình thức thiết lập quan hệ hợp
tác kết nghĩa cấp địa phƣơng ra đời, đóng góp không nhỏ vào phong trào hòa
bình, hòa giải sau chiến tranh thế giới. Năm 1956, hoạt động này phát triển ở Mỹ
với việc Tổng thống Mỹ David Dwight Eisenhower (1963 – 1961) thúc đẩy ý
tƣởng “Các thành phố kết nghĩa” và chính thức thành lập Tổ chức các thành phố
kết nghĩa quốc tế (SCI, Sister Cities International). Tổ chức này có mục tiêu thiết
lập các liên hệ giữa các thành phố ở Mỹ và các thành phố trên thế giới, tập trung
hợp tác về thƣơng mại, kinh tế, giáo dục, văn hóa, giao lƣu thế hệ trẻ và phát
triển cộng đồng. Việc thành lập tổ chức “Các thành phố kết nghĩa” với Chủ tịch
danh dự là Tổng thống Mỹ là một trong những dấu ấn đầu tiên về vai trò của các
chính quyền địa phƣơng trong quan hệ quốc tế.
Trong giai đoạn đầu, quan hệ hợp tác kết nghĩa cấp địa phƣơng ghi nhận
những thực tiễn phát triển tiêu biểu ở Mỹ và các nƣớc thuộc Liên minh châu Âu
(EU). Những năm 80 của thế kỷ trƣớc, hoạt động đối ngoại địa phƣơng phát triển
mạnh với việc nhiều chính quyền bang, thành phố ở các nƣớc Bắc Mỹ và Tây Âu
triển khai các kế hoạch đối ngoại, thực hiện vận động gây ảnh hƣởng lên chính
sách đối ngoại ở cấp quốc gia... Đến những năm 1990, chính quyền địa phƣơng
một số nƣớc châu Âu, nhất là các nƣớc trong EU, hình thành một bộ máy chính
sách đối ngoại tƣơng đối độc lập, có những hoạt động phối hợp ngang với các
cấp chính quyền địa phƣơng trên thế giới. Cuối những năm 1990 và bƣớc sang
thế kỷ 21, đối ngoại địa phƣơng không chỉ dừng ở khu vực “phƣơng tây” mà đã
lan rộng khắp toàn cầu. Hiện tƣợng “toàn cầu hóa” hoạt động đối ngoại địa
phƣơng hình thành, phản ánh sự phát triển trên nhiều góc độ về phạm vi, chức
năng và tính pháp lý của đối ngoại địa phƣơng. Sự kết thúc Chiến tranh lạnh
27
cũng đã góp phần xóa đi các xung đột về ý thức hệ, mở đƣờng cho quá trình đổi
mới, cải cách chính trị của nhiều nƣớc và tăng cƣờng tính dân chủ trong quan hệ
quốc tế. Các quốc gia “tập quyền” trên thế giới cũng tiến hành các cuộc cải cách
căn bản, hƣớng tới việc tăng cƣờng “tiếng nói” của địa phƣơng đối với trung
ƣơng. Một số lƣợng ngày càng tăng các thực thể địa phƣơng tham gia vào hoạt
động quốc tế bao gồm các nƣớc nhƣ Nga, Braxin, Achentina, Trung Quốc và Ấn
Độ, Nigeria, Nam Phi [90]. Những quốc gia thực hiện đổi mới kinh tế, hội nhập
khu vực và quốc tế nhƣ Trung Quốc, Việt Nam cũng có các hoạt động đối ngoại
địa phƣơng ngày càng mở rộng. Việc các thành phố Hồ Chí Minh, Hà Nội, Đà
Nẵng ngày nay vƣợt ra ngoài phạm vi không gian quốc gia để triển khai các hoạt
động quốc tế sâu rộng, sự xuất hiện và duy trì những biểu tƣợng “thành phố đáng
sống”, “thành phố vì hòa bình” là một phần hình ảnh của chính quyền địa
phƣơng trong quan hệ quốc tế mà các địa phƣơng lớn của Việt Nam đã xây dựng
đƣợc. Nhiều khảo sát thực tiễn hoạt động đối ngoại địa phƣơng ở các cƣờng
quốc nhƣ Mỹ, Trung Quốc, các quốc gia thuộc Liên minh châu Âu đã cho thấy
rõ bức tranh sinh động về quá trình phát triển của đối ngoại địa phƣơng trên toàn
cầu. Nếu đối ngoại địa phƣơng Mỹ là trƣờng hợp phát triển của môi trƣờng
chính trị trong nƣớc thì đối ngoại địa phƣơng các nƣớc châu Âu đƣợc coi là hệ
quả của trào lƣu khu vực hóa, hội nhập khu vực còn Trung Quốc là nhờ quá trình
cải cách mở cửa diễn ra từ năm 1978.
Tại Việt Nam, đối ngoại địa phƣơng ra đời từ bối cảnh lịch sử của đất
nƣớc song đã phát triển cùng với xu thế chung của đối ngoại địa phƣơng trên thế
giới. Năm 1945, với sự ra đời của nhà nƣớc Việt Nam dân chủ cộng hòa, nền
ngoại giao cách mạng Việt Nam bắt đầu thực hiện chính sách mở rộng quan hệ
đối ngoại, tranh thủ mọi điều kiện quốc tế thuận lợi cho cuộc kháng chiến trƣờng
kỳ chống thực dân Pháp. Song phải đến năm 1954 sau khi hòa bình lập lại, công
tác đối ngoại địa phƣơng mới hình thành, bắt đầu ở các địa phƣơng phía Bắc với
nhiệm vụ trọng tâm là giải quyết vấn đề kiều dân, ngƣời di cƣ vào Nam, các sự
vụ liên quan đến lực lƣợng viễn chinh Pháp rút về nƣớc theo Hiệp định Geneve.
28
Công tác đối ngoại địa phƣơng đƣợc mở rộng hơn sau thống nhất đất nƣớc năm
1975 và đặc biệt đã có những bƣớc phát triển toàn diện khi Việt Nam thực hiện
chủ trƣơng đổi mới, mở cửa, hội nhập quốc tế. Trong những năm gần đây, đối
ngoại địa phƣơng góp phần thực hiện đƣờng lối đối ngoại hòa bình, hữu nghị của
Đảng và Nhà nƣớc Việt Nam, tham gia thực hiện thành công hội nhập ASEAN và
hội nhập kinh tế quốc tế, đóng góp vào thành tựu phát triển kinh tế xã hội nói chung
của các địa phƣơng.
Hiện tƣợng phát triển không ngừng của đối ngoại địa phƣơng trên thế giới
cũng nhƣ ở Việt Nam đặc biệt trong 40 năm qua đã làm nổi bật vai trò của các
chính quyền địa phƣơng trên trƣờng quốc tế với các hoạt động thu hút đầu tƣ
nƣớc ngoài, phát huy văn hóa và bản sắc các cộng đồng địa phƣơng, xây dựng
mạng lƣới kết nghĩa các địa phƣơng khu vực và toàn cầu, tham gia vào các hợp
tác cấp vùng và tiểu vùng cũng nhƣ giải quyết các vấn đề quốc tế. Cơ cấu tổ
chức của cơ quan, đơn vị đối ngoại đƣợc hình thành trong chính quyền các địa
phƣơng để xây dựng chính sách hoặc quản lý hành chính, đảm bảo phối hợp các
hoạt động với đối tác cũng nhƣ nỗ lực phối hợp các hoạt động đối ngoại địa
phƣơng trong tổng thể đối ngoại quốc gia. Đáng chú ý, thẩm quyền và tính chính
danh cho hoạt động đối ngoại của các chính quyền địa phƣơng ngày càng đƣợc
củng cố trong nhiều khuôn khổ quốc gia, châu lục và quốc tế. Ở cấp quốc gia,
hiến pháp và hệ thống văn bản pháp luật hầu hết đều xác định các lĩnh vực thuộc
thẩm quyền của địa phƣơng, mối quan hệ hợp tác giữa chính quyền địa phƣơng
với chính phủ trung ƣơng, cơ chế đại diện của chính quyền địa phƣơng trong
chính phủ trung ƣơng và ngƣợc lại. Ở cấp châu lục nhƣ châu Âu, các thể chế có
sự tham gia của chính quyền địa phƣơng các nƣớc thành viên trong EU có tác
dụng định hƣớng thẩm quyền và vị trí của các chính quyền địa phƣơng trong lĩnh
vực đối ngoại ở các nƣớc thành viên. Các tổ chức quốc tế, các diễn đàn của
chính quyền địa phƣơng toàn thế giới là các thể chế ở cấp toàn cầu đã phát huy
tính năng động của các chính quyền địa phƣơng trên trƣờng quốc tế và góp phần
định hình hoạt động đối ngoại địa phƣơng nói chung [88][89]. Đặc biệt trong các
29
vấn đề toàn cầu, vai trò của các chính quyền địa phƣơng đã nhiều lần đƣợc Liên
hợp quốc ghi nhận tại các Hội nghị Thƣợng đỉnh Trái đất Rio 1992 và Istanbul
“các thành phố là nhân tố quan trọng trong phát triển bền vững” “chính quyền
địa phƣơng là đối tác gần gũi nhất của chính quyền quốc gia trong việc thực thi
Nghị trình về định cƣ của con ngƣời”. Việc vận dụng mạng sẵn có theo “chiều
ngang” ở cấp địa phƣơng là đặc trƣng của Chƣơng trình mục tiêu phát triển thiên
niên kỷ (MDGs) giai đoạn 2000 - 2015 và Chƣơng trình các Mục tiêu Phát triển
bền vững (SDGs) hiện nay. Các mạng lƣới chính quyền địa phƣơng ngày càng
đƣợc nhìn nhận là các đối tác hiệu quả, hỗ trợ đắc lực cho việc đạt các mục tiêu
phát triển thiên niên kỷ của Liên Hợp Quốc.
1.1.3. Hai cách tiếp cận chính về đối ngoại địa phương
1.1.3.1. Các thuật ngữ về “đối ngoại địa phương”
Từ năm 1945 – 1950, hoạt động đối ngoại địa phƣơng bắt đầu phát triển
trên thực tiễn nhƣng nghiên cứu quan hệ quốc tế giai đoạn này chƣa đề cập tới
các chủ thể phi nhà nƣớc nói chung và chủ thể địa phƣơng nói riêng. Các lý
thuyết chiếm ƣu thế là thuyết hiện thực, thuyết tự do đều tập trung lý giải các
hoạt động đối ngoại của chủ thể nhà nƣớc, nhìn nhận mỗi quốc gia là một thực
thể chính trị “đơn nhất” tham gia vào quan hệ quốc tế, không phân tích sâu môi
trƣờng chính trị đối nội cũng nhƣ những tác động của đối nội đến quyết sách đối
ngoại [51]. Từ những năm đầu 1980, dòng văn liệu quan hệ quốc bắt đầu phản
ánh sự phức tạp dần lên của hệ thống các quan hệ quốc tế và môi trƣờng hoạt
động đối ngoại, trong đó không chỉ có hoạt động đối ngoại của các nhà nƣớc mà
còn có thêm những chủ thể mới là các tổ chức phi chính phủ, các chủ thể thấp
hơn nhà nƣớc thậm chí cả các cá nhân. Trong khi vẫn giữ khái niệm “ngoại giao”
là tập hợp của những hoạt động chính thức giữa các quốc gia có chủ quyền, các
thuật ngữ mới đƣợc sáng tạo ra để mô tả những hoạt động đối ngoại của các chủ
thể mới, trong đó có chủ thể chính quyền địa phƣơng [86].
Thuật ngữ “ngoại giao song song” đƣợc Duchacek và Santos dùng lần
đầu tiên chỉ hoạt động của các chính quyền địa phƣơng trên trƣờng quốc tế
30
[119][116]. Hai học giả nhận thấy hoạt động đối ngoại địa phƣơng diễn ra song
song, phối hợp, hoặc bổ sung, không loại trừ có lúc xung đột với ngoại giao của
chính phủ trung ƣơng ở cấp vĩ mô. Năm 1988, khái niệm “ngoại giao song song”
lần đầu đƣợc sử dụng bởi nhóm các nhà nghiên cứu Mỹ của Duchacek và từ đó
đã mở ra “trƣờng phái ngoại giao song song” khi đề cập đến hoạt động quốc tế
của các chính quyền địa phƣơng [117, tr. 182 - 198]. Duchacek khẳng định “sự
hiện diện của địa phƣơng trên trƣờng quốc tế đã trở thành một thực tiễn cuộc
sống trong thế giới phụ thuộc lẫn nhau”[115, tr. 29-53]. Ông phân nhóm ngoại
giao song song thành ba loại: ngoại giao song song khu vực xuyên biên giới là
quan hệ giữa các địa phƣơng các nƣớc chung biên giới; ngoại giao song song
xuyên khu vực phản ánh quan hệ giữa các vùng của các nƣớc láng giềng nhƣng
không có biên giới chung; ngoại giao song song toàn cầu thể hiện quan hệ giữa
các chính phủ trung ƣơng và địa phƣơng các nƣớc mà không phụ thuộc về biên
giới chung. Duchacek không bao gồm trong khái niệm ngoại giao song song này
hình thức hoạt động quốc tế của các vùng, tỉnh có mục tiêu chính trị hoặc gây
chú ý quốc tế. Những năm 1990, trong bối cảnh thời kỳ chuyển đổi chính trị ở
các nƣớc liên bang, với thuyết “chủ nghĩa liên bang mới” dẫn đến mở rộng
không gian cho sự vận hành của các chính quyền địa phƣơng, nhóm của
Duchacek kết hợp với Hans J. Michelmann và Panayotis Soldatos đi xa hơn
trong việc phát triển chủ thể chính quyền địa phƣơng nhƣ là những “chủ thể
chính sách đối ngoại” [118, tr. 5-30]. Với Soldatos, hoạt động đối ngoại của
chính quyền địa phƣơng trong các nhà nƣớc liên bang có những nhân tố cấu
thành của chính sách đối ngoại vì nó có mục tiêu, chiến lƣợc, thủ thuật, thể chế,
quá trình ra quyết định, công cụ và các giải pháp thực hiện. Soldatos đƣa ra các
nguyên nhân dẫn đến sự hình thành của hoạt động đối ngoại song song: nguyên
nhân đối nội tại cấp độ bang; nguyên nhân đối nội tại cấp độ liên bang, và các
nguyên nhân quốc tế.
Đến đầu thế kỷ 21, các nghiên cứu đã nói đến việc hình thành một hình
thức mới của ngoại giao trong thiên niên kỷ thứ ba, đó là ngoại giao đa chủ thể
31
[108][109][97]. Đƣợc dùng lần đầu tiên trong bài viết của Geoffrey Wiseman
“Chủ nghĩa đa chủ thể và các phƣơng thức mới của đối thoại toàn cầu” [109], khái
niệm này đến nay đã phát triển rộng, áp dụng nhiều nhất trong lĩnh vực hỗ trợ phát
triển của các nƣớc Tây Âu với các nƣớc đang phát triển. Tác giả cho rằng thực
tiễn ngoại giao song phƣơng, đa phƣơng truyền thống dựa trên quan điểm nhà
nƣớc là duy nhất cần đƣợc bổ sung về một tầng nữa là quan hệ ngoại giao đa chủ
thể. Khái niệm “ngoại giao đa chủ thể” đƣợc định nghĩa là sự triển khai các quan
hệ giữa các thực thể chính thức nhƣ nhà nƣớc, một nhóm nhà nƣớc hoặc các tổ
chức quốc tế đƣợc hình thành dựa trên nhà nƣớc với ít nhất một thực thể “phi nhà
nƣớc”, mà cơ sở của quan hệ đó không nhất thiết phải dựa trên sự công nhận nhau
nhƣ là các thực thể có chủ quyền hoặc các thực thể bình đẳng. Weisman nói về
chủ nghĩa đa chủ thể nhƣ là một hình thức thứ ba của ngoại giao, cùng với ngoại
giao song phƣơng và ngoại giao đa phƣơng; trong đó các chủ thể địa phƣơng, nhất
là trong các quốc gia cho phép chính quyền địa phƣơng có nhiều thẩm quyền
chính trị, là một phần đáng chú ý của trật tự thế giới đang nổi lên.
Bản chất của ngoại giao song song đƣợc làm rõ bởi quan điểm “hai thế
giới của chính trị quốc tế” của James Rosenau [120]. James Rosenau cho rằng
quan hệ quốc tế tồn tại hai thế giới: một thế giới đa trung tâm tự quản của các
chủ thể phi chủ quyền và một thế giới khác lấy nhà nƣớc là trung tâm theo
truyền thống, nhƣng giữa hai thế giới này không có liên hệ với nhau. Duchacek
cho rằng ngoại giao gồm một tuyến đƣờng trung tâm dành riêng cho chính phủ
trung ƣơng và một tuyến đƣờng ngoại vi dành riêng cho các chủ thể địa phƣơng.
Duchacek chia sẻ với Rosenau khi cho rằng không phải địa vị pháp lý của chủ
quyền mà chính là năng lực đề xuất và duy trì các hoạt động sẽ quyết định tầm
quan trọng tuyệt đối và tƣơng đối của các chủ thể khác nhau [120]. Rosenau mô
tả lợi thế của các chủ thể địa phƣơng nhƣ những “chủ thể phi chủ quyền”, không
bị ràng buộc bởi “cái bẫy” của địa vị nhà nƣớc, và nhờ đó họ có thể đóng nhiều
vai trò trong một số lĩnh vực chính trị, không loại trừ có thể lấn sang một số lĩnh
vực hoạt động của nhà nƣớc [121].
32
Nhƣ vậy, ngoại giao song song coi các địa phƣơng nhƣ là những chủ thể
tƣơng đối tự chủ và thƣờng có hƣớng nhấn mạnh vào khía cạnh cạnh tranh giữa
đối ngoại địa phƣơng và ngoại giao vĩ mô. Từ nghĩa trung tính ban đầu nhƣ
Duchacek và Soldatos đƣa ra, „song song” có thể có nghĩa “ngƣợc với nhà
nƣớc”, “bên ngoài nhà nƣớc”. Có xu hƣớng gây mâu thuẫn, cạnh tranh và thách
thức khái niệm duy nhất, đơn nhất truyền thống của quốc gia- dân tộc, và do đó
có thể tạo điều kiện cho một trật tự thế giới mới đƣợc xây dựng trên khái niệm
đó. Duchacek cũng có ý thừa nhận việc này khi đề cập đến tƣơng lai mà các
chính quyền trung ƣơng có thể phải chấp nhận với một trong ba kịch bản sau: (i)
phi tập trung hóa chính sách đối ngoại của nhà nƣớc, thậm chí có thể có chủ
quyền của chủ thể địa phƣơng; (ii) Tập trung hóa cao độ trong chính sách đối
ngoại nhƣ là một cách phản ứng với quá nhiều chủ thể quốc tế, ngăn chặn biến
động chủ quyền trong mọi lĩnh vực; (iii) chính sách đối ngoại quốc gia sẽ mang
tính tổng hợp hơn, trong đó đã phối hợp nhiều hoạt động đối ngoại địa phƣơng
vào dòng chính sách đối ngoại chung, trừ vấn đề an ninh quốc gia sẽ vẫn chỉ
thuộc thầm quyền của chính phủ trung ƣơng.
Tiếp đó, khái niệm “ngoại giao đa tầng” coi chính quyền địa phƣơng là
một “tầng” trong môi trƣờng ngoại giao phức tạp quốc gia, đã đƣợc Brian
Hocking dùng lần đầu tiên vào năm 1985 [94, tr. 8-30]. “Ngoại giao đa tầng”
cho rằng sự hình thành và phát triển của đối ngoại địa phƣơng là kết quả của cả
những đặc trƣng về cấu trúc chính trị quốc gia cũng nhƣ quá trình tƣơng tác năng
động giữa địa phƣơng và trung ƣơng. Do đó, khuôn khổ hiến định về chế độ
chính trị quốc gia có vai trò quan trọng đối với bản chất của quan hệ giữa các
tầng nấc của chính quyền. Trong tổng thể hệ thống ngoại giao đa tầng này, đối
ngoại địa phƣơng là một thành tố quan trọng nhƣng quan trọng đến mức độ nào
còn phụ thuộc vào từng quốc gia. Brian Hocking cũng là ngƣời đƣa ra khái niệm
nền “ngoại giao hợp nhất” trong đó, nhấn mạnh sự phức tạp của các quan hệ
giữa trung ƣơng và địa phƣơng, đồng thời khẳng định tính bổ sung, hòa hợp của
địa phƣơng với hoạt động đối ngoại của trung ƣơng [98]
33
Nếu ngoại giao song song tập trung nghiên cứu sự xuất hiện của địa
phƣơng nhƣ một chủ thể quốc tế mới với những cách thức tham gia hoạt động
quốc tế đặc trƣng của nó thì trƣờng phái ngoại giao đa tầng có cách tiếp cận rộng
hơn, khi đặt chủ thể nghiên cứu này trong mối tƣơng quan với ngoại giao nhà
nƣớc, coi đối ngoại địa phƣơng nhƣ là một phƣơng tiện, một cách triển khai
ngoại giao nhà nƣớc [92, tr. 17 - 39][93]. Trái ngƣợc với ngoại giao song song
cho rằng hoạt động đối ngoại của chính phủ và địa phƣơng diễn ra trong hai thế
giới tách biệt, ngoại giao đa tầng cho rằng chủ thể nhà nƣớc và địa phƣơng cùng
là bộ phận của một môi trƣờng ngoại giao phức tạp có sự liên tục của các chính
sách đối nội và đối ngoại [122]. Cũng dùng hình ảnh ô tô và các con đƣờng,
Brian Hocking mô tả: “các chủ thể nhà nƣớc và địa phƣơng không nhất thiết
phải lái xe dọc theo các tuyến đƣờng ngoại giao khác nhau mà đi cùng một tuyến
đƣờng trong những ô tô khác nhau”. Theo Hocking, ngoại giao đƣơng đại không
gì khác hơn một mạng lƣới của các tƣơng tác với sự đổi vai giữa nhà nƣớc, địa
phƣơng và các chủ thể khác - những ngƣời sẽ tƣơng tác theo các cách khác nhau
phụ thuộc vào vấn đề lợi ích và năng lực hoạt động đối ngoại. Trƣờng phải ngoại
giao đa tầng đƣợc phát triển trên cơ sở các nghiên cứu về mối liên hệ giữa chính
trị quốc tế và chính trị trong nƣớc, hay bản chất đan xen giữa “đối ngoại” “đối nội”
của quan hệ quốc tế. Vấn đề này đã đƣợc Putnam đề cập trong bài viết “Ngoại giao
và đối nội – cuộc chơi hai tầng”, theo đó ngoại giao từ lâu đã đƣợc coi là cuộc chơi
hai tầng, dù trong quy mô nhỏ của các đàm phán quốc tế hay trong quy mô lớn của
các vấn đề quyết sách toàn cầu. Bản chất hai tầng “đối nội” “đối ngoại” chính là đặc
trƣng trong quan hệ quốc tế giữa các quốc gia [138].
Khái niệm ngoại giao đa tầng cũng phê phán cách ngoại giao song song
mô tả sự đứt đoạn giữa trung ƣơng và địa phƣơng trong lĩnh vực quan hệ quốc tế
và mặc nhiên coi các chủ thể địa phƣơng nhƣ là các chủ thể đơn nhất, bỏ qua các
khác biệt về lợi ích và chiến lƣợc mà họ theo đuổi. Phạm trù ngoại giao đa tầng
nhấn mạnh quan điểm cân bằng và thực tế hơn, theo đó nhấn mạnh tính hợp tác,
sự thích nghi, đổi mới của hệ thống ngoại giao nhà nƣớc đối với những thay đổi
34
của thời kỳ mới. Vì vậy, ngƣợc lại với trƣờng phái ngoại giao song song, trƣờng
phái đa tầng nhận thức hoạt động đối ngoại ngày càng tăng của các chính quyền
địa phƣơng nhƣ một phần tiến hóa của quá trình chính sách đối ngoại quốc gia
[95, tr. 90 – 111][96, tr. 28 - 46]. Nhà nƣớc không là “nạn nhân” của toàn cầu
hóa mà vẫn nắm giữ kiểm soát đối với các quá trình tƣơng tác quốc tế. Khả năng
“thích nghi” của nhà nƣớc trong việc đối mặt với xu thế toàn cầu hóa chƣa đƣợc
đánh giá hết, và thực tế nhà nƣớc đủ năng lực để “tái định nghĩa” hoặc “tái tạo”
các thể chế ngoại giao phù hợp với thay đổi đối thoại toàn cầu. Ngoại giao đa
tầng cũng tính đến bản chất chính trị của chính quyền địa phƣơng và mối liên kết
giữa các tầng nấc của thầm quyền chính trị, nhấn mạnh việc các chính quyền địa
phƣơng không nên đƣợc xem nhƣ là các chủ thể tự trị hành động biệt lập với
chính phủ quốc gia trong lĩnh vực đối ngoại. “Địa phƣơng hóa chính sách đối
ngoại” nhƣ Hocking gọi [94], “thể hiện sự mở rộng chứ không phải thu hẹp của
chính sách đối ngoại, trong đó ngoại giao nhà nƣớc và phi nhà nƣớc liên kết, bổ
sung nhau, không còn ranh giới truyền thống phân biệt phạm vi quốc tế, quốc gia
hay địa phƣơng, hay giữa những vấn đề “chính trị cao” và “chính trị thấp”.
Trong mạng lƣới dày đặc này của ngoại giao đa tầng, chính quyền địa phƣơng
“có khả năng đóng một loạt vai tại nhiều giai đoạn của quá trình chính sách đối
ngoại”. Ngoại giao đa tầng thay đổi bản chất của cuộc chơi bằng cách thay đổi
quan hệ giữa các ngƣời chơi, tạo nhiều “sân chơi” cho các mô hình ngoại giao
năng động, uyển chuyển, ứng biến, trong đó đối ngoại địa phƣơng trở thành
ngƣời bắc cầu trong một mạng lƣới quan hệ đối ngoại ngày càng rộng, mở ra cho
tất cả các loại chủ thể khắp toàn cầu. Bằng việc “dung nạp”, “bình thƣờng hóa”
đối ngoại địa phƣơng trong hệ thống đối ngoại quốc gia, xem xét sự tham gia
của địa phƣơng trong đối ngoại nhƣ một phần tất yếu của quá trình chính sách
đối ngoại mở rộng [130], lý thuyết của Hocking nhấn mạnh đặc tính hợp tác
nhiều hơn xung đột giữa địa phƣơng và trung ƣơng trong lĩnh vực đối ngoại.
Những năm gần đây, nhóm nghiên cứu của Hocking tiếp tục bổ sung lý
giải mối quan hệ giữa trung ƣơng và địa phƣơng trong hệ thống đa tầng với khái
35
niệm “ngoại giao hợp nhất” [98]. Hocking khẳng định dù trung ƣơng và địa
phƣơng theo đuổi lợi ích chung hay loại trừ nhau, nhu cầu cho phối hợp các hoạt
động đối ngoại trung ƣơng và địa phƣơng luôn diễn ra vì nguyên tắc cơ bản là
chính sách đối ngoại sẽ đem lại lợi ích lớn nhất khi có sự gắn kết và liên tục với
chính sách đối nội. Mối nguy lớn nhất của môi trƣờng ngoại giao đa tầng là việc
các lợi ích và mục tiêu đối ngoại quốc gia có thể bị “định nghĩa khác đi” khi các
chính sách đƣợc tạo dựng và thực thi tại các cấp khác nhau do dự khác biệt quan
điểm của các chủ thể tại các cấp, thậm chí là chủ nghĩa “quan liêu” ở địa
phƣơng. Vƣợt ra ngoài quan điểm cực đoan “một mất - một còn” trong quan hệ
giữa các cấp của hệ thống chính trị, đòi hỏi phải nhận diện môi trƣờng do trung
ƣơng hay địa phƣơng chiếm ƣu thế, ngoại giao hợp nhất nhấn mạnh sự phức tạp
của các quan hệ giữa họ, và tìm cách phân biệt vai trò và chức năng các chủ thể
này trong quá trình xây dựng và thực thi chính sách đối ngoại.
Thuật ngữ “ngoại giao hợp nhất” có thể nói là mô hình mới nhất, phản ảnh
sinh động sự cải cách của hệ thống ngoại giao trong mỗi quốc gia trong thế kỷ
21 - một nền ngoại giao của thời kỳ “hậu toàn cầu hóa” [87]. Tuy nhiên, khi quá
nhấn mạnh sự tƣơng thích trong hoạt động đối ngoại giữa trung ƣơng và địa
phƣơng, Hocking bị đánh giá là đã đƣa ra giải pháp lý thuyết quá lạc quan và
đơn giản với những vấn đề chính trị, nhất là chƣa tính đến những nhân tố có thể
thách thức quyền tối cao của nhà nƣớc trong lĩnh vực đối ngoại.
Tại Việt Nam, “ngoại vụ” là thuật ngữ phổ biến nhất đƣợc dùng để chỉ
hoạt động đối ngoại của các chính quyền địa phƣơng qua nhiều thời kỳ, từ khi
hoạt động này ra đời ở các tỉnh phía Bắc sau năm 1954 cho đến thời kỳ đổi mới
và hội nhập quốc tế ngày nay. Thuật ngữ này gắn với tên gọi các cơ quan chuyên
môn ở các tỉnh, thành phố phụ trách công tác đối ngoại, đến nay đã là một hệ
thống các cơ quan ngoại vụ trên toàn quốc, góp phần hình thành nên “ngành
ngoại vụ” trong bộ máy quản lý nhà nƣớc ở các địa phƣơng. Hệ thống ngoại vụ
địa phƣơng có sự phát triển ngày càng vững chắc, có mối liên hệ chặt chẽ với
ngành ngoại giao ở trung ƣơng và hệ thống chính trị ở địa phƣơng. Một mặt, sự
36
tồn tại đồng thời thuật ngữ “ngoại giao” ở cấp trung ƣơng và “ngoại vụ” ở cấp địa
phƣơng tại Việt Nam phần nào phản ánh hình thức “song song” nhƣ khái niệm của
“ngoại giao song song” đã đề cập ở trên. Mặt khác, với việc hoạt động đối ngoại
địa phƣơng đƣợc quản lý thống nhất cao độ từ trung ƣơng, lĩnh vực “ngoại vụ”
của Việt Nam có bản chất của “ngoại giao đa tầng” “ngoại giao hợp nhất”.
1.1.3.2. Phân tích sự hình thành các quyết định đối ngoại địa phương
Các thuật ngữ trên đã nắm bắt những biểu hiện, đặc tính cơ bản của đối
ngoại địa phƣơng nhƣng chƣa đủ mang lại hiểu biết sâu về bản chất của hiện
tƣợng này. Để giải thích các vấn đề nhƣ tại sao địa phƣơng có năng lực hoạt
động đối ngoại, động cơ thúc đẩy các chính quyền địa phƣơng trong quan hệ
quốc tế và lựa chọn những hình thức hoạt động nhất định... đòi hỏi phải bổ sung
phƣơng pháp phân tích chính sách, đảm bảo tính khái quát hóa cao, áp dụng
đƣợc cho nhiều quốc gia [110] [145]. Tuy nhiên, phân tích chính sách đối ngoại -
trƣờng phái tập trung giải thích quá trình hoạch định chính sách đối ngoại quốc
gia trong nhiều giai đoạn lịch sử - thƣờng chỉ tính đến môi trƣờng quốc tế, các
chủ thể nƣớc ngoài, vị thế quốc gia... là những tác nhân chính chi phối hành vi
của quốc gia trên trƣờng quốc tế. Từ những năm 1960, nhiều lý thuyết gia về
phân tích chính sách đối ngoại đã đề nghị mở rộng phạm vi nghiên cứu ra ngoài
phạm vi chủ thể nhà nƣớc và bổ sung chính trị đối nội vào nhóm những nhân tố
có ảnh hƣởng quyết định đến các quyết sách đối ngoại [51]. Vì vậy, nghiên cứu
đối ngoại địa phƣơng theo cách tiếp cận phân tích chính sách đối ngoại đã làm
hé lộ những nội dung mới về chính quyền địa phƣơng.
Một trong những lý thuyết quan trọng nhất đƣợc nhiều học giả áp dụng để
phân tích chính sách đối ngoại nói chung và giải thích hoạt động của các chính
quyền địa phƣơng nói riêng là lý thuyết thể chế lịch sử. Một số nhà nghiên cứu
trƣờng phái thể chế lịch sử đã đề cập vấn đề này nhƣ A. Lecours [87, tr. 5-15],
hay Peter Bursensa và Jana Deforcheb [135, tr. 151 - 171], theo đó lý thuyết này
đã giúp có đƣợc khung lý thuyết nghiên cứu đối ngoại địa phƣơng khá chặt chẽ,
có tính khái quát cao khi vƣợt qua sự khác biệt giữa các quốc gia cũng nhƣ giữa
37
các giai đoạn lịch sử. Một nghiên cứu tuy không trực tiếp đề cập đến chính
quyền địa phƣơng song đã cho phép chính quyền địa phƣơng cũng nhƣ các nhóm
chủ thể khác trong nƣớc, hiện lên là những chủ thể sống động với đầy đủ những
đặc tính riêng về lợi ích, năng lực, thẩm quyền tham gia một cách linh hoạt vào
quá trình hình thành các quyết định đối ngoại. Đó là cách tiếp cận của Helen
Milner trong cuốn sách áp dụng cách tiếp cận của thuyết thể chế lịch sử đối với
các vấn đề đối ngoại và hợp tác quốc tế xuất bản năm 1997 “Lợi ích, Thể chế và
Thông tin: Chính trị đối nội và quan hệ quốc tế” [113]. Theo Helen Milner, khi
nghiên cứu chính trị đối nội, tác giả nhận thấy, dù hình thức chế độ chính trị của
các quốc gia nhƣ thế nào, từ thái cực là có tôn ti (hierarchy) đến thái cực không
hề có tôn ti (anarchy), thì quyền ra quyết định cũng không thể tập trung ở một
chủ thể duy nhất mà có sự chia sẻ giữa hai hay nhiều chủ thể. Trạng thái này
đƣợc gọi là “đa trung tâm quyền lực” (polynarchy). Trên thực tế, quá trình ra
quyết định của nhà nƣớc không thể bó hẹp và khép kín trong nhóm các nhà lãnh
đạo nhƣ trƣớc đây, mà có sự tham gia và ảnh hƣởng của nhiều chủ thể, nhiều yếu
tố trong và ngoài nƣớc. Tất cả những điều này đều cần có sự thỏa hiệp giữa các
chủ thể nhằm đạt đƣợc sự ủng hộ, đồng thuận của các nhóm chính trị trong nƣớc
đối với những vấn đề đối ngoại [31][32]. Trên nền giả thuyết này, tác giả Helen
Milner đã đƣa ra một mô hình ba nhân tố “lợi ích, thể chế và thông tin” tác động
đến quyết định đối ngoại của các chủ thể trong hệ thống chính trị nhiều quốc gia.
Tại Việt Nam, cách tiếp cận này cũng đã từng đƣợc các nhà nghiên cứu
vận dụng để giải thích một số quyết định chính sách. Tác giả Tôn Sinh Thành
từng phân tích hiện tƣợng ASEM nhƣ là kết quả của quá trình thƣơng lƣợng giữa
các chủ thể khu vực, từng nƣớc trong khu vực đó và các nhóm lợi ích trong mỗi
nƣớc nhằm thỏa mãn mục tiêu của mình [64]. Các nhân tố cơ bản quyết định quá
trình thƣơng lƣợng gồm phân bố quyền lực giữa các bên tham gia hợp tác
(thƣờng không cân nhau, bên mạnh hơn sẽ gây áp lực với bên yếu hơn), cơ chế
thƣơng lƣợng (bao gồm các thể chế và các thể lệ ra quyết định), nội dung thƣơng
38
lƣợng (hay chƣơng trình nghị sự, thể hiện lợi ích quốc gia). Tác giả Đặng Đình
Quý đề cập đến nghiên cứu của Helen Milner và vận dụng mô hình này để phân
tích vấn đề lợi ích quốc gia [60]. Theo tác giả, việc xác định lợi ích quốc gia khá
phức tạp vì nó đƣợc hình thành từ “lợi ích khác nhau và không đồng nhất của các
chủ thể tham gia quá trình hoạch định và triển khai chính sách đối ngoại, nhận
thức khác nhau về lợi ích quốc gia và quy định của các tổ chức liên quan đến
hoạch định và triển khai chính sách đối ngoại”. Cá...tổ chức quốc tế tiếp
nhận; đồng gửi thông báo cho Bộ Ngoại giao.
3. Hƣớng dẫn các đoàn đi công tác chủ động liên hệ, tham khảo trƣớc ý kiến của
cơ quan đại diện Việt Nam ở nƣớc ngoài và các cơ quan liên quan; kịp thời phối
hợp với Bộ Ngoại giao và các cơ quan liên quan xử lý những vấn đề phức tạp,
nhạy cảm phát sinh; thông báo kết quả cho Bộ Ngoại giao sau khi kết thúc đợt
công tác.
Điều 9. Tổ chức đón tiếp và quản lý các đoàn nƣớc ngoài đến thăm địa phƣơng,
Ủy ban nhân dân tỉnh có trách nhiệm:
1. Xây dựng kế hoạch cụ thể và phối hợp chặt chẽ với Bộ Ngoại giao và các cơ
quan liên quan trong việc đón tiếp các đoàn nƣớc ngoài quy định tại khoản 2
Điều 4.
2. Chủ động triển khai kế hoạch đón tiếp các đoàn nƣớc ngoài quy định tại khoản
2 Điều 5.
Điều 10. Hoạt động liên quan đến công tác quản lý biên giới lãnh thổ quốc gia
Ủy ban nhân dân tỉnh có đƣờng biên giới lãnh thổ quốc gia có trách nhiệm
nghiên cứu, tổng hợp, đánh giá tình hình quản lý biên giới, biển đảo và trực tiếp
phối hợp với Bộ Ngoại giao (Ủy ban Biên giới quốc gia) và các cơ quan liên
quan trong mọi hoạt động về biên giới lãnh thổ quốc gia theo quy định pháp luật
hiện hành.
Điều 11. Quản lý hoạt động của các tổ chức, cá nhân nƣớc ngoài, Ủy ban nhân
dân tỉnh có trách nhiệm:
1. Hỗ trợ và hƣớng dẫn việc tuân thủ các quy định của pháp luật Việt Nam; chủ
động phối hợp với các Bộ, cơ quan liên quan xử lý các vụ việc phát sinh liên
quan đến ngƣời nƣớc ngoài; thực hiện quản lý hoạt động của các tổ chức, cá
nhân nƣớc ngoài trên địa bàn theo quy định của pháp luật hiện hành.
176
2. Phối hợp với Bộ Ngoại giao giải quyết các vấn đề phát sinh đối với các cơ
quan lãnh sự nƣớc ngoài hoặc văn phòng đại diện của tổ chức quốc tế đƣợc
hƣởng chế độ ƣu đãi, miễn trừ do Bộ Ngoại giao quản lý.
Điều 12. Trong công tác ngoại giao kinh tế và công tác quản lý, vận động viện
trợ phi chính phủ nƣớc ngoài, Ủy ban nhân dân tỉnh có trách nhiệm:
1. Chủ động xây dựng môi trƣờng phát triển kinh tế, thƣơng mại, đầu tƣ phù hợp
với đặc điểm của địa phƣơng, bảo đảm tính liên ngành, liên vùng và tối ƣu hóa
lợi thế quốc gia.
2. Phối hợp với Bộ Ngoại giao, cơ quan đại diện Việt Nam ở nƣớc ngoài và các
cơ quan liên quan đẩy mạnh công tác ngoại giao kinh tế và nâng cao năng lực
hội nhập kinh tế quốc tế; chủ động đƣa nội dung kinh tế vào các hoạt động đối
ngoại; trực tiếp tham gia công tác xúc tiến thƣơng mại, đầu tƣ và du lịch.
3. Tiến hành vận động, tiếp nhận và quản lý các dự án viện trợ của tổ chức phi
chính phủ và cá nhân nƣớc ngoài theo quy định pháp luật hiện hành.
Điều 13. Công tác văn hóa đối ngoại
Ủy ban nhân dân tỉnh chịu trách nhiệm triển khai các hoạt động văn hóa đối
ngoại của địa phƣơng; xây dựng và chỉ đạo thực hiện các kế hoạch hàng năm và
dài hạn phù hợp với chiến lƣợc ngoại giao văn hóa của Nhà nƣớc và kế hoạch
phát triển kinh tế - xã hội của địa phƣơng trong từng thời kỳ.
Điều 14. Công tác đối với ngƣời Việt Nam ở nƣớc ngoài
Ủy ban nhân dân tỉnh chỉ đạo việc nghiên cứu, đánh giá công tác đối với ngƣời
Việt Nam ở nƣớc ngoài của địa phƣơng, phối hợp với Bộ Ngoại giao (Ủy ban
Nhà nƣớc về ngƣời Việt Nam ở nƣớc ngoài) đề xuất và xây dựng chính sách về
công tác này; trực tiếp tham gia việc hỗ trợ, hƣớng dẫn, thông tin, tuyên truyền,
vận động và thực hiện chính sách đối với ngƣời Việt Nam ở nƣớc ngoài có quan
hệ với địa phƣơng.
Điều 15. Tổ chức và quản lý hội nghị, hội thảo quốc tế
1. Ủy ban nhân dân tỉnh thực hiện việc tổ chức và quản lý hội nghị, hội thảo
quốc tế theo Quyết định số 76/2010/QĐ-TTg ngày 30 tháng 11 năm 2010 của
177
Thủ tƣớng Chính phủ về tổ chức và quản lý hội nghị, hội thảo quốc tế tại Việt
Nam và các quy định của pháp luật hiện hành.
2. Đối với các hội nghị, hội thảo có yếu tố nƣớc ngoài phát sinh đột xuất chƣa
kịp lấy ý kiến bằng văn bản của các Bộ, cơ quan liên quan nhƣng không có tính
chất phức tạp, nhạy cảm, Ủy ban nhân dân tỉnh chủ động quyết định thực hiện và
báo cáo Bộ Ngoại giao sau khi kết thúc hoạt động.
Điều 16. Ký kết và thực hiện thỏa thuận quốc tế, Ủy ban nhân dân tỉnh có trách
nhiệm:
1. Tiến hành việc ký kết và thực hiện thỏa thuận quốc tế theo Pháp lệnh
số 33/2007/PL-UBTVQH11 ngày 20 tháng 4 năm 2007 của Ủy ban Thƣờng vụ
Quốc hội về ký kết và thực hiện thỏa thuận quốc tế và các quy định của pháp luật
hiện hành.
2. Chủ động nghiên cứu, lựa chọn đối tác phù hợp để thiết lập các quan hệ hữu
nghị, hợp tác cấp địa phƣơng; phối hợp chặt chẽ với Bộ Ngoại giao để đƣợc
hƣớng dẫn quy trình, thủ tục ký kết và nội dung văn bản hợp tác; thông tin
thƣờng xuyên cho Bộ Ngoại giao để kịp thời hỗ trợ, đôn đốc thực hiện các thỏa
thuận đã ký kết.
Điều 17. Trong công tác thông tin tuyên truyền đối ngoại, Ủy ban nhân dân tỉnh
có trách nhiệm:
1. Cung cấp kịp thời cho Bộ Ngoại giao thông tin về những vấn đề của địa
phƣơng để phục vụ trả lời phỏng vấn của lãnh đạo cấp cao và họp báo quốc tế.
2. Phối hợp với Bộ Ngoại giao và các cơ quan liên quan trong việc đón tiếp và
quản lý các hoạt động thông tin, báo chí của phóng viên nƣớc ngoài tại địa
phƣơng, thực hiện quản lý nhà nƣớc về thông tin tuyên truyền đối ngoại theo quy
định pháp luật hiện hành.
Điều 18. Giao dịch với đoàn ngoại giao tại Việt Nam
Ủy ban nhân dân tỉnh chủ động tiến hành các hoạt động tiếp xúc, trao đổi thƣ tín
ngoại giao với các cơ quan đại diện ngoại giao, cơ quan lãnh sự nƣớc ngoài và
đại diện tổ chức quốc tế tại Việt Nam trong thực hiện công tác đối ngoại; trƣờng
178
hợp phát sinh vấn đề phức tạp, nhạy cảm, cần thông báo cho Bộ Ngoại giao để
đƣợc hƣớng dẫn cụ thể.
Điều 19. Theo dõi, tổng hợp tình hình quốc tế và khu vực
Ủy ban nhân dân tỉnh chỉ đạo cơ quan ngoại vụ và các cơ quan chuyên môn khác
của địa phƣơng chủ động theo dõi, phân tích, tổng hợp thông tin về tình hình
chính trị, an ninh, kinh tế quốc tế và khu vực có tác động đến địa phƣơng, kịp
thời báo cáo và đề xuất với Chủ tịch Ủy ban nhân dân tỉnh chủ trƣơng và giải
pháp cần thiết.
Điều 20. Chế độ thông tin, báo cáo
1. Đối với các vấn đề phức tạp, nhạy cảm liên quan đến chủ quyền, an ninh quốc
gia, dân tộc, nhân quyền, tôn giáo, Ủy ban nhân dân tỉnh có trách nhiệm phối
hợp chặt chẽ và kịp thời với Bộ Ngoại giao và các cơ quan liên quan để giải
quyết.
2. Trong phạm vi 10 ngày làm việc sau khi kết thúc một hoạt động đối ngoại quy
định tại Điều 4, Ủy ban nhân dân tỉnh có văn bản báo cáo Thủ tƣớng Chính phủ,
đồng gửi Bộ Ngoại giao và các cơ quan liên quan về kết quả thực hiện và đề xuất
chủ trƣơng, giải pháp đối với những vấn đề phát sinh, nêu rõ kế hoạch thực hiện
các thỏa thuận với đối tác nƣớc ngoài (nếu có).
3. Định kỳ 6 tháng, hàng năm và trƣờng hợp đột xuất, Ủy ban nhân dân tỉnh có
trách nhiệm gửi Bộ Ngoại giao báo cáo kết quả công tác đối ngoại để tổng hợp
báo cáo Thủ tƣớng Chính phủ.
Báo cáo kết quả công tác đối ngoại hàng năm (theo mẫu 5 kèm theo) và hồ sơ
Chƣơng trình hoạt động đối ngoại năm sau gửi Bộ Ngoại giao trƣớc ngày 30
tháng 11.
Chƣơng 4.
TỔ CHỨC THỰC HIỆN
Điều 21. Trách nhiệm tổ chức thực hiện
1. Bộ Ngoại giao chủ trì, phối hợp với các cơ quan liên quan hƣớng dẫn, chỉ đạo,
kiểm tra và đôn đốc Ủy ban nhân dân tỉnh thực hiện Quy chế này.
179
2. Ủy ban nhân dân tỉnh có trách nhiệm:
a) Căn cứ vào Quy chế này, xây dựng quy định cụ thể về tổ chức thực hiện quản
lý thống nhất các hoạt động đối ngoại tại địa phƣơng, lấy ý kiến bằng văn bản
của Bộ Ngoại giao trƣớc khi ban hành.
b) Xây dựng và tổ chức thực hiện quy hoạch cán bộ, công chức làm công tác đối
ngoại; phối hợp với Bộ Ngoại giao bồi dƣỡng kiến thức, nghiệp vụ đối ngoại và
ngoại ngữ cho đội ngũ làm công tác đối ngoại của địa phƣơng.
180
BỘ NGOẠI GIAO -
BỘ NỘI VỤ
--------
CỘNG HÒA XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM
Độc lập - Tự do - Hạnh phúc
---------------
Số: 02/2015/TTLT-BNG-BNV Hà Nội, ngày 28 tháng 6 năm 2015
THÔNG TƢ LIÊN TỊCH
HƢỚNG DẪN CHỨC NĂNG, NHIỆM VỤ, QUYỀN HẠN VÀ CƠ CẤU TỔ
CHỨC CỦA SỞ NGOẠI VỤ THUỘC UỶ BAN NHÂN DÂN CẤP TỈNH,
THÀNH PHỐ TRỰC THUỘC TRUNG ƢƠNG;
Căn cứ Nghị định số 24/2014/NĐ-CP ngày 04 tháng 4 năm 2014 của Chính phủ
quy định tổ chức các cơ quan chuyên môn thuộc Ủy ban nhân dân tỉnh, thành
phố trực thuộc Trung ương;
Căn cứ Nghị định số 37/2014/NĐ-CP ngày 05 tháng 5 năm 2014 của Chính phủ
quy định tổ chức các cơ quan chuyên môn thuộc Ủy ban nhân dân huyện, quận,
thị xã, thành phố thuộc tỉnh;
Căn cứ Nghị định số 36/2012/NĐ-CP ngày 18 tháng 4 năm 2012 của Chính phủ
quy định chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn và cơ cấu tổ chức của Bộ, cơ quan
ngang Bộ;
Căn cứ Nghị định số 58/2013/NĐ-CP ngày 11 tháng 6 năm 2013 của Chính phủ
quy định chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn và cơ cấu tổ chức của Bộ Ngoại giao;
Căn cứ Nghị định số 58/2014/NĐ-CP ngày 16 tháng 6 năm 2014 của Chính phủ
quy định chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn và cơ cấu tổ chức của Bộ Nội vụ;
Bộ trưởng Bộ Ngoại giao và Bộ trưởng Bộ Nội vụ hướng dẫn chức năng, nhiệm
vụ, quyền hạn và cơ cấu tổ chức của Sở Ngoại vụ thuộc Ủy ban nhân dân các
tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương (sau đây gọi chung là Ủy ban nhân dân
cấp tỉnh) như sau:
Điều 1. Vị trí và chức năng
1. Sở Ngoại vụ là cơ quan chuyên môn thuộc Ủy ban nhân dân cấp tỉnh, có chức
năng tham mƣu, giúp Ủy ban nhân dân cấp tỉnh quản lý nhà nƣớc về công tác
181
ngoại vụ và công tác biên giới lãnh thổ quốc gia (sau đây gọi chung là công tác
đối ngoại) của địa phƣơng; các dịch vụ công thuộc phạm vi quản lý nhà nƣớc
của Sở theo quy định của pháp luật.
2. Sở Ngoại vụ thực hiện chức năng tham mƣu cho cấp ủy Đảng tỉnh, thành phố
trực thuộc Trung ƣơng (sau đây gọi chung là Tỉnh ủy) thông qua Ban cán sự
đảng Ủy ban nhân dân cấp tỉnh về chủ trƣơng hội nhập quốc tế, định hƣớng mở
rộng quan hệ và triển khai toàn diện công tác đối ngoại của địa phƣơng; tổ chức,
quản lý công tác đối ngoại Đảng tại địa phƣơng theo các quy định của Đảng.
3. Sở Ngoại vụ có tƣ cách pháp nhân, có con dấu và tài khoản riêng; chịu sự chỉ
đạo, quản lý về tổ chức, biên chế và hoạt động của Ủy ban nhân dân cấp tỉnh;
đồng thời chịu sự chỉ đạo, hƣớng dẫn và kiểm tra về chuyên môn, nghiệp vụ của
Bộ Ngoại giao.
Điều 2. Nhiệm vụ và quyền hạn
1. Trình Ủy ban nhân dân cấp tỉnh:
a) Dự thảo quyết định, chỉ thị và các văn bản thuộc thẩm quyền ban hành của Ủy
ban nhân dân cấp tỉnh về công tác đối ngoại địa phƣơng.
b) Dự thảo quy hoạch, kế hoạch dài hạn, 05 năm và hàng năm, các chƣơng trình,
đề án, dự án về công tác đối ngoại; chƣơng trình, biện pháp tổ chức thực hiện
các nhiệm vụ cải cách hành chính nhà nƣớc về công tác đối ngoại thuộc phạm vi
quản lý của Sở.
c) Dự thảo văn bản quy định điều kiện, tiêu chuẩn, chức danh đối với Trƣởng,
Phó các đơn vị thuộc Sở.
2. Trình Chủ tịch Ủy ban nhân dân cấp tỉnh:
a) Dự thảo quyết định, chỉ thị thuộc thẩm quyền ban hành của Chủ tịch Ủy ban
nhân dân cấp tỉnh về lĩnh vực công tác đối ngoại địa phƣơng.
b) Dự thảo quyết định thành lập, sáp nhập, chia tách, giải thể các tổ chức, đơn vị
của Sở theo quy định của pháp luật.
3. Tổ chức thực hiện các văn bản quy phạm pháp luật, quy hoạch, kế hoạch,
chƣơng trình, đề án, dự án về công tác đối ngoại địa phƣơng sau khi đƣợc phê
182
duyệt; thông tin, tuyên truyền, phổ biến, hƣớng dẫn, kiểm tra, giám sát thực hiện
các lĩnh vực thuộc phạm vi quản lý của Sở.
4. Tham mƣu cho Tỉnh ủy về công tác đối ngoại:
a) Định hƣớng mở rộng quan hệ đối ngoại, chủ trƣơng và lộ trình hội nhập quốc
tế của địa phƣơng; xây dựng các văn bản chỉ đạo, Nghị quyết chuyên đề, chƣơng
trình, kế hoạch, đề án hoạt động đối ngoại của Tỉnh ủy; định kỳ hoặc đột xuất
tổng hợp và đề xuất các biện pháp liên quan đến công tác đối ngoại của Tỉnh ủy.
b) Quán triệt và thực hiện các chủ trƣơng, chính sách và quy định liên quan đến
công tác đối ngoại của Đảng và Nhà nƣớc.
c) Theo dõi và đôn đốc việc thực hiện các chủ trƣơng công tác đối ngoại của
Tỉnh ủy, việc triển khai các hoạt động đối ngoại của Đảng theo các định hƣớng,
chủ trƣơng và chƣơng trình đã đƣợc Tỉnh ủy phê duyệt.
d) Làm cơ quan đầu mối giúp Tỉnh ủy quản lý thống nhất hoạt động đối ngoại
của địa phƣơng; phối hợp hoạt động đối ngoại của Tỉnh ủy, chính quyền, Mặt
trận Tổ quốc và các đoàn thể, tổ chức nhân dân tại địa phƣơng.
5. Về công tác hợp tác quốc tế:
a) Tham mƣu về công tác hợp tác, hội nhập quốc tế của địa phƣơng phù hợp với
đƣờng lối chính sách đối ngoại của Đảng và pháp luật của Nhà nƣớc.
b) Xây dựng, tổ chức thực hiện các kế hoạch hợp tác và hội nhập quốc tế của địa
phƣơng, các đề án thiết lập quan hệ hữu nghị hợp tác của địa phƣơng với các đối
tác nƣớc ngoài, báo cáo Bộ Ngoại giao theo quy định.
c) Làm đầu mối quan hệ của Ủy ban nhân dân cấp tỉnh với các Cơ quan đại diện
ngoại giao, cơ quan lãnh sự nƣớc ngoài, các tổ chức phi chính phủ nƣớc ngoài và
đại diện tổ chức quốc tế tại Việt Nam.
6. Về công tác kinh tế đối ngoại:
a) Giúp Ủy ban nhân dân cấp tỉnh trong công tác ngoại giao kinh tế, xây dựng và
triển khai các chƣơng trình hoạt động đối ngoại phục vụ phát triển kinh tế - xã
hội của địa phƣơng.
183
b) Làm đầu mối quan hệ của Ủy ban nhân dân cấp tỉnh với Bộ Ngoại giao và các
Cơ quan đại diện Việt Nam ở nƣớc ngoài trong việc quảng bá, giới thiệu tiềm
năng, thế mạnh của địa phƣơng; hỗ trợ triển khai các nhiệm vụ về xúc tiến
thƣơng mại, đầu tƣ, du lịch, bảo vệ quyền và lợi ích chính đáng của các tổ chức
kinh tế của địa phƣơng ở nƣớc ngoài.
7. Về công tác văn hóa đối ngoại:
a) Giúp Ủy ban nhân dân cấp tỉnh trong công tác ngoại giao văn hóa, xây dựng
và triển khai các chƣơng trình, kế hoạch hành động thực hiện Chiến lƣợc ngoại
giao văn hóa trong từng thời kỳ.
b) Làm đầu mối quan hệ của Ủy ban nhân dân cấp tỉnh với Bộ Ngoại giao và các
Cơ quan đại diện Việt Nam ở nƣớc ngoài trong việc tổ chức các sự kiện văn hóa
đối ngoại tại địa phƣơng và giới thiệu, quảng bá hình ảnh, con ngƣời, văn hóa
của địa phƣơng ở nƣớc ngoài.
8. Về công tác ngƣời Việt Nam ở nƣớc ngoài:
a) Tổ chức thực hiện chƣơng trình, kế hoạch và chính sách đối với ngƣời Việt
Nam ở nƣớc ngoài tại địa phƣơng.
b) Tổ chức thông tin, tuyên truyền về chủ trƣơng, chính sách của Đảng và Nhà
nƣớc đối với ngƣời Việt Nam ở nƣớc ngoài; vận động, hƣớng dẫn và hỗ trợ
ngƣời Việt Nam ở nƣớc ngoài và thân nhân của họ trong làm việc, đầu tƣ kinh
doanh, sinh sống và học tập tại địa phƣơng.
c) Định kỳ tổng kết, đánh giá và đề xuất kiến nghị giải quyết các vấn đề liên
quan đến ngƣời Việt Nam ở nƣớc ngoài và thân nhân của họ tại địa phƣơng, báo
cáo Bộ Ngoại giao theo quy định.
9. Về công tác lãnh sự và bảo hộ công dân:
a) Quản lý hoạt động xuất nhập cảnh của cán bộ công chức thuộc đối tƣợng sử
dụng hộ chiếu ngoại giao, hộ chiếu công vụ; tiếp nhận hồ sơ, kiểm tra, quản lý
và đề nghị cấp, gia hạn, sửa đổi, bổ sung hộ chiếu ngoại giao, hộ chiếu công vụ
tại địa phƣơng theo quy định.
184
b) Xử lý các vấn đề phát sinh trong công tác bảo hộ công dân đối với ngƣời Việt
Nam ở nƣớc ngoài có liên quan đến địa phƣơng, bảo vệ lợi ích của ngƣ dân địa
phƣơng có liên quan đến yếu tố nƣớc ngoài và trong công tác lãnh sự đối với
ngƣời nƣớc ngoài tại địa phƣơng.
c) Làm đầu mối tiếp nhận và trả kết quả hồ sơ đề nghị chứng nhận lãnh sự, hợp
pháp hóa lãnh sự tại địa phƣơng khi đƣợc Bộ Ngoại giao ủy quyền; tiếp nhận và
trả kết quả hồ sơ xét, cho phép sử dụng thẻ đi lại của doanh nhân APEC (thẻ
ABTC, nếu đƣợc Ủy ban nhân dân cấp tỉnh giao).
10. Về công tác biên giới lãnh thổ quốc gia:
a) Là cơ quan thƣờng trực của Ủy ban nhân dân cấp tỉnh về công tác biên giới,
lãnh thổ quốc gia; giúp Ủy ban nhân dân cấp tỉnh thực hiện chức năng quản lý
nhà nƣớc về công tác biên giới, lãnh thổ tại địa phƣơng theo quy định của pháp
luật và chỉ đạo, hƣớng dẫn của Bộ Ngoại giao và Bộ, ngành liên quan.
b) Theo dõi, tổng hợp và báo cáo Ủy ban nhân dân cấp tỉnh và Bộ Ngoại giao
tình hình thực hiện các điều ƣớc quốc tế về biên giới, lãnh thổ quốc gia và các
vấn đề nảy sinh trên biên giới đất liền và trên biển tại địa phƣơng.
c) Tổ chức các lớp tập huấn, tuyên truyền phổ biến pháp luật, chủ trƣơng, chính
sách của Đảng và Nhà nƣớc về biên giới lãnh thổ quốc gia; hƣớng dẫn, kiểm tra
và quản lý các văn bản, tài liệu, bản đồ và hồ sơ về biên giới thuộc phạm vi quản
lý của địa phƣơng; kiểm tra, đôn đốc hƣớng dẫn các cơ quan đơn vị địa phƣơng
về các vấn đề quản lý nhà nƣớc về biên giới, lãnh thổ.
11. Về công tác lễ tân đối ngoại:
a) Thực hiện quản lý nhà nƣớc về lễ tân đối ngoại tại địa phƣơng.
b) Đề xuất, xây dựng và ban hành các văn bản quy định về công tác lễ tân đối
ngoại ở địa phƣơng; tổ chức kiểm tra, hƣớng dẫn việc thực hiện các quy định về
lễ tân đối ngoại ở các cơ quan, đơn vị, địa phƣơng.
c) Chủ trì về lễ tân và hậu cần cho các đoàn của lãnh đạo tỉnh đi thăm làm việc ở
nƣớc ngoài; tổ chức thực hiện công tác lễ tân đối ngoại, đón tiếp các đoàn nƣớc
ngoài đến thăm làm việc với lãnh đạo tỉnh hoặc quá cảnh tại địa phƣơng.
185
12. Về công tác thông tin đối ngoại:
a) Làm đầu mối quan hệ với Bộ Ngoại giao và các Cơ quan đại diện Việt Nam ở
nƣớc ngoài trong triển khai chƣơng trình, kế hoạch thông tin tuyên truyền đối
ngoại của địa phƣơng đã đƣợc Ủy ban nhân dân cấp tỉnh phê duyệt.
b) Cung cấp thông tin của địa phƣơng cho Bộ Ngoại giao, Ban Đối ngoại Trung
ƣơng và các cơ quan chức năng để phục vụ công tác tuyên truyền đối ngoại; phối
hợp với Cơ quan đại diện Việt Nam ở nƣớc ngoài triển khai các hoạt động thông
tin đối ngoại, quảng bá địa phƣơng ở nƣớc ngoài.
c) Thống nhất quản lý phóng viên nƣớc ngoài hoạt động báo chí tại địa phƣơng;
xây dựng chƣơng trình hoạt động, tổ chức việc tiếp và trả lời phỏng vấn của lãnh
đạo tỉnh, cung cấp thông tin có định hƣớng, theo dõi và quản lý hoạt động của
phóng viên nƣớc ngoài theo quy định của pháp luật.
13. Về công tác tổ chức và quản lý đoàn ra, đoàn vào:
a) Thực hiện quản lý nhà nƣớc đối với các đoàn đi công tác nƣớc ngoài của lãnh
đạo tỉnh và các cơ quan, đơn vị, địa phƣơng (đoàn ra) và các đoàn quốc tế đến
thăm làm việc tại địa phƣơng (đoàn vào).
b) Tổ chức các đoàn đi công tác nƣớc ngoài của lãnh đạo tỉnh; làm đầu mối liên
hệ với Bộ Ngoại giao, Ban Đối ngoại Trung ƣơng và Cơ quan đại diện Việt Nam
ở nƣớc ngoài để hỗ trợ, hƣớng dẫn, quản lý các đoàn ra theo quy định; thẩm định
các đề án đoàn ra, theo dõi, thống kê tổng hợp các đoàn ra thuộc quyền quản lý
của Tỉnh ủy và Ủy ban nhân dân cấp tỉnh.
c) Xây dựng và tổ chức thực hiện các kế hoạch, đề án đón tiếp các đoàn nƣớc
ngoài đến thăm và làm việc với lãnh đạo tỉnh; thẩm định đề xuất, kiến nghị của
các sở, ban, ngành địa phƣơng về việc lãnh đạo tỉnh tiếp khách nƣớc ngoài;
thống kê tổng hợp các đoàn vào thuộc quyền quản lý của Tỉnh ủy và Ủy ban
nhân dân cấp tỉnh.
14. Về công tác tổ chức và quản lý hội nghị, hội thảo quốc tế:
a) Thực hiện tổ chức và quản lý các hội nghị, hội thảo quốc tế tại địa phƣơng
thuộc thẩm quyền quyết định của Chủ tịch Ủy ban nhân dân cấp tỉnh.
186
b) Đầu mối tiếp nhận hồ sơ, thẩm định nội dung các hội nghị, hội thảo quốc tế;
hƣớng dẫn, kiểm tra, các cơ quan đơn vị địa phƣơng thực hiện các quy định về tổ
chức và quản lý hội nghị, hội thảo quốc tế.
15. Về công tác ký kết và thực hiện thỏa thuận quốc tế:
a) Thực hiện quản lý nhà nƣớc về ký kết và thực hiện các thỏa thuận quốc tế tại
địa phƣơng.
b) Theo dõi, đôn đốc việc thực hiện các thỏa thuận đã ký kết; báo cáo và xin ý
kiến chỉ đạo của cấp có thẩm quyền về những vấn đề phát sinh trong ký kết và
thực hiện thỏa thuận quốc tế tại địa phƣơng.
16. Về công tác phi chính phủ nƣớc ngoài:
a) Làm cơ quan đầu mối giúp Ủy ban nhân dân cấp tỉnh thực hiện quản lý nhà
nƣớc đối với hoạt động của các tổ chức phi chính phủ nƣớc ngoài tại địa
phƣơng; cho ý kiến về việc cấp, gia hạn, sửa đổi bổ sung và thu hồi Giấy đăng
ký và các hoạt động khác của các tổ chức phi chính phủ nƣớc ngoài tại địa
phƣơng; hƣớng dẫn, hỗ trợ các tổ chức phi chính phủ nƣớc ngoài về thủ tục và
trong việc khảo sát, xây dựng và triển khai các dự án tài trợ theo quy định của
pháp luật; kiểm tra, giám sát hoạt động của tổ chức và nhân viên làm việc cho
các tổ chức phi chính phủ nƣớc ngoài tại địa phƣơng; báo cáo Bộ Ngoại giao và
Ủy ban công tác phi chính phủ nƣớc ngoài theo quy định.
b) Quản lý các hoạt động quan hệ và vận động viện trợ phi chính phủ nƣớc ngoài
của địa phƣơng; xây dựng chƣơng trình, kế hoạch và hỗ trợ các cơ quan, đơn vị,
địa phƣơng trong vận động viện trợ phi chính phủ nƣớc ngoài.
c) Thẩm định các chƣơng trình, dự án và các khoản viện trợ ký kết với các tổ
chức phi chính phủ nƣớc ngoài đảm bảo yêu cầu về chính trị đối ngoại; đôn đốc
công tác quản lý và báo cáo tài chính đối với các khoản viện trợ phi chính phủ
nƣớc ngoài.
d) Là cơ quan thƣờng trực Ban công tác phi chính phủ nƣớc ngoài của địa
phƣơng.
17. Về công tác thanh tra ngoại giao:
187
a) Thực hiện công tác thanh tra hành chính và thanh tra chuyên ngành tại địa
phƣơng theo quy định.
b) Tiến hành thanh tra việc thực hiện chính sách, pháp luật, nhiệm vụ đƣợc giao
của các cơ quan, tổ chức, cá nhân thuộc phạm vi quản lý của Sở.
c) Hƣớng dẫn, kiểm tra, giải quyết khiếu nại, tố cáo và phòng, chống tham
nhũng; hƣớng dẫn, kiểm tra các đơn vị thuộc Sở thực hiện các quy định chung
của pháp luật về thanh tra, giải quyết khiếu nại, tố cáo và phòng, chống tham
nhũng, thực hành tiết kiệm, chống lãng phí theo quy định; kiến nghị đình chỉ
việc thi hành hoặc huỷ bỏ những quy định trái pháp luật đƣợc phát hiện qua công
tác thanh tra.
18. Về công tác bồi dƣỡng kiến thức nghiệp vụ đối ngoại:
a) Đề xuất, xây dựng và tổ chức thực hiện các chƣơng trình bồi dƣỡng kiến thức
và chuyên môn, nghiệp vụ đối ngoại cho cán bộ, công chức địa phƣơng.
b) Đầu mối phối hợp với Bộ Ngoại giao và các cơ quan liên quan trong triển
khai các chƣơng trình bồi dƣỡng về đối ngoại và hội nhập quốc tế cho cán bộ,
công chức địa phƣơng.
19. Thực hiện báo cáo định kỳ và đột xuất về tình hình thực hiện nhiệm vụ đối
ngoại theo quy định.
20. Thực hiện cải cách hành chính theo mục tiêu và nội dung chƣơng trình cải
cách hành chính của Ủy ban nhân dân cấp tỉnh, tổ chức ứng dụng khoa học, công
nghệ; xây dựng hệ thống thông tin, cơ sở dữ liệu lƣu trữ phục vụ công tác quản
lý nhà nƣớc và chuyên môn, nghiệp vụ đối ngoại; phối hợp với Bộ Ngoại giao
xây dựng hệ thống cơ sở dữ liệu về hoạt động đối ngoại địa phƣơng toàn quốc.
21. Quy định chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn và mối quan hệ công tác của các
đơn vị thuộc Sở; quản lý tổ chức, biên chế, thực hiện chế độ tiền lƣơng, chính
sách, chế độ đãi ngộ, đào tạo, bồi dƣỡng, bổ nhiệm, miễn nhiệm, khen thƣởng,
kỷ luật đối với công chức, viên chức thuộc phạm vi quản lý của Sở theo quy định
của pháp luật và phân cấp của Ủy ban nhân dân cấp tỉnh.
188
22. Quản lý tài chính, tài sản đƣợc giao và tổ chức thực hiện ngân sách đƣợc
phân bổ theo quy định của pháp luật và phân cấp của Ủy ban nhân dân cấp tỉnh.
23. Thực hiện các nhiệm vụ khác do Tỉnh ủy và Ủy ban nhân dân cấp tỉnh phân
công.
Điều 3. Cơ cấu tổ chức và biên chế
1. Lãnh đạo Sở
a) Sở Ngoại vụ có Giám đốc và không quá 03 Phó Giám đốc;
b) Giám đốc Sở là ngƣời đứng đầu Sở, chịu trách nhiệm trƣớc Ủy ban nhân dân
cấp tỉnh, Chủ tịch Ủy ban nhân dân cấp tỉnh và trƣớc pháp luật về toàn bộ hoạt
động của Sở; chịu trách nhiệm báo cáo công tác trƣớc Ủy ban nhân dân cấp tỉnh,
Chủ tịch Ủy ban nhân dân cấp tỉnh và Bộ trƣởng Bộ Ngoại giao; báo cáo trƣớc
Hội đồng nhân dân cấp tỉnh, trả lời kiến nghị của cử tri, chất vấn của đại biểu
Hội đồng nhân dân cấp tỉnh theo yêu cầu;
c) Phó Giám đốc Sở là ngƣời giúp Giám đốc Sở, chịu trách nhiệm trƣớc Giám
đốc Sở và trƣớc pháp luật về nhiệm vụ đƣợc phân công;
d) Việc bổ nhiệm Giám đốc Sở và Phó Giám đốc Sở do Chủ tịch Ủy ban nhân
dân cấp tỉnh quyết định theo tiêu chuẩn chuyên môn, nghiệp vụ do Bộ Ngoại
giao ban hành và theo quy định của pháp luật; việc miễn nhiệm, cho từ chức,
khen thƣởng, kỷ luật và các chế độ, chính sách khác đối với Giám đốc và Phó
Giám đốc Sở thực hiện theo quy định của pháp luật.
2. Cơ cấu tổ chức
a) Cơ cấu tổ chức của Sở gồm:
- Văn phòng;
- Thanh tra;
- Phòng Hợp tác quốc tế;
- Phòng Lãnh sự - Ngƣời Việt Nam ở nƣớc ngoài.
- Phòng Quản lý biên giới (chỉ thành lập tại Sở Ngoại vụ ở các tỉnh có đƣờng
biên giới quốc gia trên bộ, trên biển).
189
Việc thành lập các phòng chuyên môn, nghiệp vụ thuộc Sở phải bảo đảm bao
quát đầy đủ các lĩnh vực công tác của Sở, xác định rõ chức năng, nhiệm vụ của
từng phòng, đảm bảo không chồng chéo với các đơn vị khác thuộc Sở.
b) Việc bổ nhiệm, miễn nhiệm Trƣởng phòng, Phó Trƣởng phòng, Chánh Thanh
tra, Phó Chánh Thanh tra, Chánh Văn phòng, Phó Chánh Văn phòng thuộc Sở
thực hiện theo quy định của pháp luật và phân cấp quản lý cán bộ của Ủy ban
nhân dân cấp tỉnh.
c) Căn cứ đặc điểm và yêu cầu thực tế ở địa phƣơng, Giám đốc Sở Ngoại vụ chủ
trì phối hợp với Giám đốc Sở Nội vụ trình Ủy ban nhân dân cấp tỉnh quyết định
thành lập tổ chức sự nghiệp thuộc Sở theo quy hoạch đƣợc cấp có thẩm quyền
phê duyệt và quy định của pháp luật.
3. Biên chế
a) Biên chế công chức và số lƣợng ngƣời làm việc (biên chế sự nghiệp) của Sở
đƣợc giao trên cơ sở vị trí việc làm gắn với chức năng, nhiệm vụ, phạm vi hoạt
động và nằm trong tổng biên chế công chức, biên chế sự nghiệp trong các cơ
quan, tổ chức hành chính, đơn vị sự nghiệp công lập của tỉnh đƣợc cấp có thẩm
quyền giao hoặc phê duyệt.
b) Căn cứ chức năng, nhiệm vụ, cơ cấu tổ chức và danh mục vị trí việc làm, cơ
cấu ngạch công chức, cơ cấu chức danh nghề nghiệp viên chức đƣợc cấp có
thẩm quyền phê duyệt, hàng năm Sở Ngoại vụ xây dựng kế hoạch biên chế công
chức, biên chế sự nghiệp theo quy định của pháp luật bảo đảm thực hiện nhiệm
vụ đƣợc giao.
Điều 4. Quản lý nhà nƣớc về công tác đối ngoại ở những tỉnh chƣa thành
lập Sở Ngoại vụ
1. Những tỉnh chƣa thành lập Sở Ngoại vụ thì thành lập Phòng Ngoại vụ thuộc
Văn phòng Ủy ban nhân dân cấp tỉnh.
Phòng Ngoại vụ chịu sự chỉ đạo trực tiếp của Ủy ban nhân dân cấp tỉnh; Văn
phòng Ủy ban nhân dân cấp tỉnh đảm bảo cơ sở vật chất và hành chính quản trị
cho hoạt động của Phòng Ngoại vụ; Chánh Văn phòng Ủy ban nhân dân cấp tỉnh
190
thực hiện chức năng quản lý nhà nƣớc về công tác đối ngoại ở địa phƣơng theo
sự ủy quyền của Chủ tịch Ủy ban nhân dân cấp tỉnh.
2. Phòng Ngoại vụ tham mƣu, giúp Chánh Văn phòng Ủy ban nhân dân cấp tỉnh
thực hiện chức năng quản lý nhà nƣớc về công tác đối ngoại ở địa phƣơng.
Căn cứ vào những nhiệm vụ quy định tại Điều 2 của Thông tƣ liên tịch này,
Chánh Văn phòng Ủy ban nhân dân cấp tỉnh quy định nhiệm vụ, quyền hạn cụ
thể của Phòng Ngoại vụ.
3. Phòng Ngoại vụ có Trƣởng phòng và không quá 02 Phó Trƣởng phòng. Việc
bổ nhiệm Trƣởng phòng, Phó Trƣởng phòng Ngoại vụ do Chánh Văn phòng Ủy
ban nhân dân cấp tỉnh quyết định theo tiêu chuẩn chuyên môn, nghiệp vụ và theo
quy định của pháp luật; việc miễn nhiệm, cách chức, khen thƣởng, kỷ luật và các
chế độ chính sách khác đối với Trƣởng phòng, Phó Trƣởng phòng Ngoại vụ thực
hiện theo quy định của pháp luật và phân cấp của Ủy ban nhân dân cấp tỉnh.
4. Biên chế công chức của Phòng Ngoại vụ do Chánh Văn phòng Ủy ban nhân
dân cấp tỉnh quyết định trong tổng biên chế công chức của Văn phòng Ủy ban
nhân dân cấp tỉnh đƣợc Ủy ban nhân dân cấp tỉnh giao, bảo đảm đủ biên chế để
hoàn thành tốt nhiệm vụ đƣợc giao.
Điều 5. Quản lý nhà nƣớc về công tác đối ngoại đối với các đơn vị hành
chính cấp huyện có đƣờng biên giới quốc gia trên đất liền, trên biển, hải đảo
và các huyện đảo
1. Đối với đơn vị hành chính cấp huyện có đƣờng biên giới lãnh thổ quốc gia
trên đất liền, trên biển, hải đảo và các huyện đảo, Văn phòng Hội đồng nhân dân
và Ủy ban nhân dân hoặc Văn phòng Ủy ban nhân dân nơi thí điểm không tổ
chức Hội đồng nhân dân (sau đây gọi chung là Văn phòng Ủy ban nhân dân cấp
huyện) tham mƣu, giúp Ủy ban nhân dân cấp huyện thực hiện chức năng quản lý
nhà nƣớc về công tác đối ngoại.
2. Biên chế công chức chuyên trách quản lý nhà nƣớc về công tác đối ngoại
thuộc Văn phòng Ủy ban nhân dân cấp huyện nằm trong tổng số biên chế công
191
chức của cấp huyện đƣợc cấp có thẩm quyền phê duyệt. Chủ tịch Ủy ban nhân
dân cấp huyện có trách nhiệm bố trí công chức chuyên trách quản lý công tác đối
ngoại thuộc Văn phòng Ủy ban nhân dân cấp huyện theo vị trí việc làm, tiêu
chuẩn ngạch công chức và phẩm chất, trình độ, năng lực của công chức, bảo đảm
hoàn thành tốt nhiệm vụ đƣợc giao.
Điều 6. Tổ chức thực hiện
1. Thông tƣ liên tịch này có hiệu lực kể từ ngày 12 tháng 8 năm 2015 và thay thế
Thông tƣ liên tịch số 02/2009/TTLT-BNG-BNV ngày 27 tháng 5 năm 2009 của
Bộ Ngoại giao và Bộ Nội vụ hƣớng dẫn chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn và cơ
cấu tổ chức của Sở Ngoại vụ thuộc Ủy ban nhân dân các tỉnh, thành phố trực
thuộc Trung ƣơng.
2. Ủy ban nhân dân các tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ƣơng:
a) Quy định cụ thể nhiệm vụ, quyền hạn, cơ cấu tổ chức của cơ quan chuyên
môn về đối ngoại theo hƣớng dẫn của Bộ Ngoại giao và Bộ Nội vụ;
b) Quản lý về tổ chức bộ máy, vị trí việc làm; biên chế công chức, cơ cấu ngạch
công chức trong cơ quan chuyên môn về đối ngoại; vị trí việc làm, cơ cấu viên
chức theo chức danh nghề nghiệp và số lƣợng ngƣời làm việc trong các đơn vị
sự nghiệp công lập.
3. Chủ tịch Ủy ban nhân dân các tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ƣơng có trách
nhiệm tổ chức triển khai thực hiện Thông tƣ liên tịch này.
Trong quá trình thực hiện, nếu có vấn đề phát sinh hoặc khó khăn, vƣớng mắc
các tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ƣơng phản ánh kịp thời về Bộ Ngoại giao
và Bộ Nội vụ để xem xét, giải quyết theo thẩm quyền./.
192
KT. BỘ TRƢỞNG
BỘ NỘI VỤ
THỨ TRƢỞNG
Trần Anh Tuấn
KT. BỘ TRƢỞNG
BỘ NGOẠI GIAO
THỨ TRƢỞNG
Hồ Xuân Sơn
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- luan_an_hoat_dong_doi_ngoai_cua_chinh_quyen_dia_phuong_viet.pdf