LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan đây là công trình nghiên cứu của riêng tôi. Các số liệu,
kết quả nêu trong luận án là trung thực, có nguồn gốc rõ ràng và được trích
dẫn đầy đủ theo quy định.
Tác giả
Trần Tuấn Sơn
1
MỤC LỤC
MỞ ĐẦU ........................................................................................................... 2
Chương 1: TỔNG QUAN TÌNH HÌNH NGHIÊN CỨU LIÊN QUAN ĐẾN
LUẬN ÁN .............................................................................
208 trang |
Chia sẻ: huong20 | Ngày: 18/01/2022 | Lượt xem: 317 | Lượt tải: 0
Tóm tắt tài liệu Luận án Hoạt động của tổ chức Đảng trong các trại giam tù binh của Mỹ và chính quyền Sài Gòn ở miền Nam từ năm 1966 đến năm 1973, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
............................ 9
1.1 Tình hình nghiên cứu .............................................................................. 9
1.2 Những vấn đề đặt ra luận án cần tập trung nghiên cứu ........................ 23
Chương 2: SỰ HÌNH THÀNH TỔ CHỨC ĐẢNG TRONG CÁC TRẠI
GIAM TÙ BINH TỪ NĂM 1966 ĐẾN NĂM 1973 ...................................... 26
2.1. Chế độ giam cầm và các hình thức giam cầm, tra tấn của Mỹ và chính
quyền Sài Gòn trong các trại giam tù binh .................................................. 26
2.2. Xây dựng và phát triển tổ chức Đảng trong các trại giam tù binh ...... 55
Chương 3: TỔ CHỨC ĐẢNG LÃNH ĐẠO ĐẤU TRANH TRONG CÁC
TRẠI GIAM TÙ BINH TỪ NĂM 1966 ĐẾN NĂM 1973 ........................... 72
3.1. Lãnh đạo tù binh đấu tranh bảo vệ lý tưởng, bảo vệ khí tiết người cộng
sản, chống cưỡng ép, chiêu hồi ................................................................... 72
3.2. Đấu tranh bảo vệ tù binh, chống chế độ lao tù khắc nghiệt ................ 80
3.2. Đấu tranh biến nhà tù thành trường học cách mạng ............................ 97
3.3. Tìm cách trở về với cách mạng ......................................................... 106
Chương 4: NHẬN XÉT VÀ KINH NGHIỆM ............................................. 120
4.1 Nhận xét .............................................................................................. 120
4.2 Kinh nghiệm ....................................................................................... 134
KẾT LUẬN ................................................................................................... 151
DANH MỤC CÁC CÔNG TRÌNH NGHIÊN CỨU CỦA TÁC GIẢ CÔNG
BỐ LIÊN QUAN ĐẾN ĐỀ TÀI ................................................................... 154
TÀI LIỆU THAM KHẢO ............................................................................. 155
PHỤ LỤC ...................................................................................................... 178
2
MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Đảng Cộng sản Việt Nam ra đời là nhân tố quan trọng quyết định thắng
lợi của cách mạng Việt Nam. Trong đó, công tác xây dựng Đảng, sự lãnh đạo
đúng đắn của Đảng là nguồn gốc, nguyên nhân, yếu tố quyết định thắng lợi
cuộc đấu tranh giải phóng dân tộc và công cuộc đổi mới xây dựng đất nước.
Công tác xây dựng Đảng và hoạt động của tổ chức Đảng vừa tuân thủ nguyên
lý chung của chủ nghĩa Mác-Lênin, vừa căn cứ vào tình hình thực tế của cách
mạng Việt Nam. Trong bất kỳ hoàn cảnh, môi trường khó khăn nào, kể cả
trong nhà tù, trại giam của địch, người đảng viên vẫn tiến hành công tác xây
dựng Đảng, đảm bảo sự lãnh đạo và hoạt động tổ chức Đảng. Nhờ việc khẳng
định vai trò lãnh đạo trong mọi giai đoạn, hoàn cảnh mà Đảng Cộng sản Việt
Nam đã lãnh đạo nhân dân Việt Nam giành từ thắng lợi này đến thắng lợi khác.
Trong cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước của dân tộc Việt Nam, có
rất nhiều chiến sĩ, đảng viên trong quá trình chiến đấu trên các chiến trường bị
sa vào tay giặc, bị giam cầm trong các trại giam tù binh. Trong các trại giam
tù binh, Mỹ và chính quyền Sài Gòn thực hiện chế lao tù khắc nghiệt để giam
cầm cán bộ, chiến sĩ: hủy hoại về thể xác, khủng bố về tinh thần, vô hiệu hóa
các chiến sĩ cách mạng để khi trở về, họ không thể tiếp tục tham gia chiến
đấu, hoạt động cách mạng... Những khó khăn, thử thách trong lao tù đặt ra
yêu cầu bức thiết cần có tổ chức để đấu tranh bảo vệ tù binh. Trong hoàn cảnh
đặc biệt đó, mặc dù không nhận được sự chỉ đạo của tổ chức Đảng bên ngoài,
nhưng với ý thức trách nhiệm của người đảng viên cộng sản được trang bị lý
luận cách mạng của chủ nghĩa Mác-Lênin, tinh thần quyết tâm, kiên định lý
tưởng của Đảng, cùng với sự chủ động, sáng tạo, những người đảng viên và
chiến sỹ cách mạng trung kiên đã tìm ra nhiều hình thức phù hợp để tập hợp
đảng viên, thành lập các tổ chức Đảng trong trại giam tù binh.
3
Trong các trại giam tù binh đã xây dựng được hàng trăm tổ chức Đảng,
tổ chức Đảng giữ vai trò lãnh đạo các hoạt động đấu tranh của tù binh chống
chế độ lao tù khắc nghiệt, tàn bạo, đấu tranh giữ vững khí tiết cách mạng, bảo
vệ tù binh cho đến ngày chiến thắng trở về... Mỹ và chính quyền Sài Gòn
không thể lường được, trong các trại giam tù binh với hàng rào thép gai dày
đặc, sự kiểm soát gắt gao của bộ máy cai ngục với đủ loại công cụ tra tấn dã
man, tàn bạo nhất, các tổ chức Đảng được hình thành, ngày càng được củng
cố, phát triển và lãnh đạo hoạt động đấu tranh của tù binh chống lại chế độ lao
tù tàn bạo, bảo vệ khí tiết của người chiến sĩ cộng sản.
Nghiên cứu hoạt động của tổ chức Đảng trong trại giam tù binh góp phần
làm sáng tỏ đặc điểm công tác xây dựng Đảng trong nhà tù, hoạt động của tổ
chức Đảng trong một hoàn cảnh vô cùng khó khăn, nguy hiểm. Qua đó, khẳng
định những đóng góp to lớn của tổ chức Đảng trong trại giam tù binh và tôn
vinh những người đảng viên, tù binh kiên trung. Dù bị tù đầy, tra tấn bằng
nhiều hình thức tàn bạo, dã man, luôn phải đứng giữa cái sống và cái chết
nhưng đa số họ vẫn giữ vững khí tiết cách mạng, kiên trung với Đảng, không
những vậy các chiến sĩ cách mạng còn biến nhà tù thành trường học cách
mạng, không ngừng học tập, vươn lên chờ ngày chiến thắng trở về để tiếp tục
đóng góp cho cách mạng, cho đất nước. Nghiên cứu hoạt động của tổ chức
Đảng trong các trại giam tù binh góp phần đấu tranh chống lại các luận điệu
phản động, sai trái về cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước của dân tộc Việt
Nam, luận giải thêm về nguyên nhân thắng lợi của cuộc kháng chiến chống
Mỹ, cứu nước.
Hiện thực lịch sử đấu tranh lâu dài, phong phú của cán bộ, chiến sĩ bị
giam giữ trong các trại giam tù binh của Mỹ và chính quyền Sài Gòn còn hàm
chứa nhiều vấn đề lý luận và thực tiễn về công tác xây dựng Đảng trong một
môi trường đặc biệt-môi trường nhà tù, một hiện thực hiếm thấy trong lịch sử
phong trào cộng sản và công nhân quốc tế, rất cần được nghiên cứu và làm
4
sáng rõ. Tuy nhiên, đến nay, chưa có công trình nào nghiên cứu một cách toàn
diện, có hệ thống về hoạt động của tổ chức Đảng trong các trại giam tù binh
của địch ở miền Nam thời kỳ kháng chiến chống Mỹ, cứu nước từ năm 1966
đến năm 1973. Vì vậy, qua nghiên cứu hoạt động của tổ chức Đảng trong các
trại giam tù binh, bổ sung những khoảng trống trong nghiên cứu lịch sử công
tác xây dựng Đảng trong hoàn cảnh đặc biệt tù đày. Từ đó, đúc rút những
kinh nghiệm về công tác xây dựng Đảng, đặc biệt là công tác chính trị, tư
tưởng cho đảng viên góp phần vào công tác xây dựng Đảng trong tình hình
mới hiện nay.
Với ý nghĩa đó, nghiên cứu sinh chọn đề tài: "Hoạt động của tổ chức
Đảng trong các trại giam tù binh của Mỹ và chính quyền Sài Gòn ở miền
Nam từ năm 1966 đến năm 1973", làm đề tài Luận án tiến sĩ chuyên ngành
Lịch sử Đảng Cộng sản Việt Nam.
2. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu
2.1. Mục đích nghiên cứu
Làm rõ sự lãnh đạo và hoạt động các tổ chức Đảng trong các trại giam tù
binh của Mỹ và chính quyền Sài Gòn từ năm 1966 đến năm 1973. Đúc kết
những kinh nghiệm cho công tác xây dựng Đảng, xây dựng lực lượng vũ
trang trong công cuộc xây dựng và bảo vệ Tổ quốc ngày nay.
2.2. Nhiệm vụ nghiên cứu
- Làm rõ yêu cầu khách quan và quá trình hình thành các tổ chức Đảng
trong các trại giam tù binh.
- Phân tích, luận giải, làm rõ quá trình lãnh đạo và hoạt động của tổ chức
Đảng trong các trại giam tù binh từ năm 1966 đến năm 1973.
- Đánh giá thành công và hạn chế hoạt động của tổ chức Đảng trong các
trại giam tù binh
- Đúc kết những kinh nghiệm về lý luận và thực tiễn từ hoạt động lãnh
đạo đấu tranh của các tổ chức Đảng trong các trại giam tù binh của địch.
5
3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
3.1. Đối tượng nghiên cứu
Luận án tập trung nghiên cứu quá trình hình thành, chủ trương chỉ đạo và
hoạt động các tổ chức Đảng trong trại giam tù binh của Mỹ và chính quyền
Sài Gòn ở miền Nam từ năm 1966 đến năm 1973.
3.2. Phạm vi nghiên cứu
- Về nội dung
Nghiên cứu sự ra đời, tổ chức lãnh đạo và hoạt động của các tổ chức
Đảng trong các trại giam tù binh trên các mặt: đấu tranh bảo vệ lý tưởng, bảo
vệ khí tiết người cộng sản, chống cưỡng ép, chiêu hồi; đấu tranh bảo vệ tù
binh, chống chế độ lao tù khắc nghiệt; đấu tranh biến nhà tù thành trường học
cách mạng; đấu tranh vượt ngục tìm đường trở về với cách mạng.
- Về thời gian
Nghiên cứu hoạt động của các tổ chức Đảng trong trại giam tù binh từ
năm 1966 đến năm 1973.
- Về không gian
Trại giam tù binh của Mỹ và chính quyền Sài Gòn ở cấp Trung ương và
Vùng chiến thuật gồm 6 trại giam: Trại giam tù binh Hố Nai (Biên Hòa), Trại
giam tù binh Pleiku (Gia Lai), Trại giam tù binh Non Nước (Đà Nẵng), Trại
giam tù binh Phú Quốc (Kiên Giang), Trại giam tù binh Trà Nóc (Cần Thơ)
và Trại giam tù binh nữ Phú Tài (Quy Nhơn). Luận án tập trung đi sâu nghiên
cứu 2 trại giam tù binh chính mang tính điển hình là Trại giam tù binh Phú
Quốc và Trại giam tù binh nữ Phú Tài.
4. Cơ sở lý luận, nguồn tài liệu và phương pháp nghiên cứu
4.1. Cơ sở lý luận
- Dựa trên quan điểm chủ nghĩa Mác-Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, quan
điểm của Đảng về công tác xây dựng Đảng.
6
4.2. Nguồn tư liệu
- Các công trình nghiên cứu của các học giả trong và ngoài nước về cuộc
kháng chiến chống Mỹ, cứu nước và hệ thống trại giam của Mỹ và chính
quyền Sài Gòn ở miền Nam.
- Tài liệu lưu trữ ở Văn phòng Trung ương Đảng, Cục An ninh, Trung
tâm lưu trữ Quốc gia II, Bảo tàng phụ nữ Nam Bộ...
- Tư liệu của Ủy ban cải thiện chế độ lao tù miền Nam Việt Nam, một tổ
chức hoạt động công khai tại Sài Gòn từ năm 1970 đến năm 1975.
- Tập hợp các bài viết, các bài hồi ký của các chiến sĩ cách mạng từng bị
bắt và tù đày trong các trại giam tù bình của Mỹ và chính quyền Sài Gòn ở
miền Nam.
- Luận án cũng kế thừa những kết quả khoa học từ các công trình nghiên
cứu của đề tài “Tổng kết công tác xây dựng Đảng và lãnh đạo đấu tranh trong
các nhà tù trại giam của địch ở miền Nam (1954-1975)” do Học viện Chính trị
quốc gia Hồ Chí Minh chủ trì.
4.3. Phương pháp nghiên cứu
- Phương pháp lịch sử, lôgíc là chủ yếu và kết hợp với các phương pháp
phân tích, tổng hợp, so sánh tổng kết thực tiễn, đúc rút kinh nghiệm.
- Các phương pháp sử liệu học trong nghiên cứu lịch sử Đảng, đặc biệt là
phương pháp phân loại sử liệu, phê phán sử liệu. Do đặc thù của đề tài,
nghiên cứu sinh sử dụng nhiều nguồn tư liệu hồi ký. Do vậy, khi sử dụng
nguồn tài liệu này, nghiên cứu sinh luôn có sự so sánh, đối chiếu, kiểm tra,
phê phán các nguồn tài liệu trên trước khi đưa vào sử dụng vào luận án. Ngoài
ra, luận án còn sử dụng nhiều nguồn tư liệu là các báo cáo, công văn, chỉ thị...
của chính quyền Sài Gòn để lại, hiện đang lưu trữ tại Trung tâm lưu trữ quốc
gia II, nguồn tài liệu này của phía đối phương cũng được nghiên cứu sinh
nghiên cứu, kiểm tra trước khi đưa vào sử dụng. Vì trên thực tế, nhiều báo cáo
của chính quyền Sài Gòn đối với việc tra tấn tù binh và sát hại tù binh, vì sợ
7
sự lên án của dư luận và công ước quốc tế về tù binh nên chính quyền Sài
Gòn đã cho làm những hồ sơ, báo cáo giả...
- Khảo sát thực tế tại các trại giam tù binh và địa phương có các trại
giam tù binh của Mỹ và chính quyền Sài Gòn. Nghiên cứu sinh trực tiếp đến
các tỉnh: Bình Định, Kiên Giang, Gia Lai và Thành phố Đà Nẵng.
- Phương pháp phỏng vấn nhân chứng, trong quá trình làm luận án,
nghiên cứu sinh đã trực tiếp gặp gỡ và phỏng vấn nhân chứng ở nhiều tỉnh
phía Bắc như: Hà Nội, Bắc Ninh, Phú Thọ, Hà Nam, Ninh Bình, Nam Định...;
các tỉnh miền Trung như: Quảng Trị, thành phố Đà Nẵng, Quảng Nam, Quảng
Ngãi, Bình Định, Phú Yên.
5. Đóng góp mới về khoa học của luận án
5.1. Ý nghĩa khoa học
- Làm rõ hoạt động của tổ chức Đảng trong các trại giam tù binh.
- Bước đầu dựng lại một cách tương đối đầy đủ hoạt động của tổ chức
Đảng trong các trại giam tù binh.
- Bước đầu nêu lên những nhận xét về tính chất, đặc điểm, thành công,
hạn chế hoạt động của tổ chức Đảng trong các trại giam tù binh.
- Đúc rút kinh nghiệm từ hoạt động của chức đảng trong các trại giam tù
binh của địch, từ đó có những đóng góp vào công tác xây dựng Đảng, xây
dựng lực lượng vũ trang.
5.2. Ý nghĩa thực tiễn
Luận án có thể dùng làm tài liệu tham khảo, phục vụ nghiên cứu, giảng
dạy Lịch sử Đảng Cộng sản Việt Nam nói chung và công tác xây dựng Đảng
trong môi trường, hoàn cảnh đặc biệt, công tác xây dựng Đảng trong giai đoạn
hiện nay.
6. Bố cục luận án
Ngoài phần Mở đầu, Kết luận và Tài liệu tham khảo, Luận án gồm 4
chương:
8
Chương 1: Tổng quan tình hình nghiên cứu liên quan đến luận án
Chương 2: Sự hình thành các tổ chức Đảng trong các trại giam tù binh
từ năm 1966 đến năm 1973.
Chương 3: Tổ chức Đảng lãnh đạo đấu tranh trong các trại giam tù binh
từ năm 1966 đến năm 1973.
Chương 4: Nhận xét và kinh nghiệm.
9
Chương 1
TỔNG QUAN TÌNH HÌNH NGHIÊN CỨU
LIÊN QUAN ĐẾN LUẬN ÁN
1.1 TÌNH HÌNH NGHIÊN CỨU
1.1.1. Các công trình, nghiên cứu của các cơ quan, cá nhân trong và
nước ngoài viết về cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước (1954-1975)
Trước hết là các công trình nghiên cứu của Bộ Quốc phòng, Viện Lịch
sử quân sự Việt Nam viết về Lịch sử kháng chiến chống Mỹ, cứu nước 1954-
1975, gồm 9 tập: tập 1, Nguyên nhân chiến tranh [66]; tập 2, Chuyển chiến
lược [67]; tập 3, Đánh thắng chiến tranh đặc biệt [68]; tập 4, Cuộc đụng đầu
lịch sử, [69]; tập 5: Tổng tiến công và nổi dậy năm 1968 [70]; tập 6, Thắng
Mỹ trên chiến trường ba nước Đông Dương [71]; tập 7, Thắng lợi quyết định,
[72]; tập 8, Toàn thắng [73]; tập 9, Tính chất, đặc điểm, tầm vóc và bài học
lịch sử [44].
Các công trình nghiên cứu của Ban Chỉ đạo tổng kết chiến tranh trực
thuộc Bộ Chính trị: Tổng kết cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước: Thắng
lợi và bài học [3]; Chiến tranh cách mạng Việt Nam 1945-1975: Thắng lợi và
bài học [4]; cuốn Về cuộc kháng chiến chống Mỹ cứu nước [194] của Đại
tướng Văn Tiến Dũng; cuốn Về cuộc kháng chiến chống Mỹ cứu nước [200]
của Đại tướng Võ Nguyên Giáp.
Công trình nghiên cứu của Viện Sử học: Sức mạnh chiến thắng của
cuộc kháng chiến chống Mỹ cứu nước [198]; Lịch sử Việt Nam (1965-1975)
[199]. Các công trình nghiên cứu của Viện Lịch sử Đảng: Lịch sử Xứ ủy Nam
Bộ và Trung ương Cục miền Nam (1954-1975) [96]; Lịch sử Đảng Cộng sản
Việt Nam, tập II (1954-1975) [197].
Những công trình lịch sử nêu trên đã tái hiện sinh động cuộc kháng chiến
chống Mỹ, cứu nước của nhân dân Việt Nam trên mọi lĩnh vực trong đó có
10
trình bày âm mưu, thủ đoạn của Mỹ và chính quyền Sài Gòn ở miền Nam, các
chính sách của Mỹ và chính quyền Sài Gòn trong việc thiết lập hệ thống cai
trị, hệ thống nhà tù, trại giam ở miền Nam; các chính sách của Mỹ và chính
quyền Sài Gòn đối với tù chính trị, tù binh ở miền Nam và phần nào phản ánh
các cuộc đấu tranh của tù nhân tại miền Nam trong cuộc kháng chiến chống
Mỹ, cứu nước. Các công trình trên cung cấp một phông kiến thức chung về
cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước.
Bên cạnh đó, cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước của nhân dân Việt
Nam cũng được nhiều học giả nước ngoài quan tâm nghiên cứu. Các công
trình này cũng cung cấp nhiều sự kiện lịch sử về cuộc kháng chiến chống Mỹ,
cứu nước của nhân dân Việt Nam như: Sự lừa dối hào nhoáng, tập 1 [122]
của N.Sheehan; Những bí mật về chiến tranh Việt Nam (Hồi ức về Việt Nam
và hồ sơ Lầu Năm Góc) [79] của Daniel Ellsberg; Hồ sơ chiến tranh Việt
Nam tiết lộ lịch sử bí mật của chiến lược thời Nixon [122] của Jeffrey
Kimball ; Đội quân bí mật cuộc chiến bí mật [160] của Sedgwick Tourson;
Lời phán quyết về Việt Nam [89] của Gi.A. Amtơ; Việt Nam-cuộc chiến tranh
mười nghìn ngày [137] của Maicon Maclia; Những bí mật của cuộc chiến
tranh Việt Nam [147] của Philíp B.Davítsơn ; Cuộc chiến tranh dài ngày nhất
của Mỹ [88] của George C.Herring ; Giải phẫu một cuộc chiến tranh [67] của
Gabrriel Kolko.
Các cuốn sách mà tác giả từng là quan chức cấp cao trong Chính phủ Mỹ
và quân đội Mỹ có liên quan đến chiến tranh Việt Nam. Cụ thể như: Tấn thảm
kịch và bài học về Việt Nam [158] của Bộ trưởng quốc phòng Mỹ R
Macnamana; Hồi ký của Linđơn Giônxơn [132] của Tổng thống Mỹ Linđơn
Giônxơn; cuốn Hồi ký Richard Nixon, [157] của Tổng thống Mỹ Richard
Nixon; cuốn Tường trình của một quân nhân [201] của Đại tướng William. C.
Westmoreland, người trực tiếp chỉ huy quân đội Mỹ tại miền Nam Việt Nam.
11
Những công trình này trình bày tương đối hệ thống và có những luận
giải về quá trình dính líu của Hoa Kỳ vào Việt Nam; những toan tính đầy
tham vọng cũng như những nỗ lực và sự thất bại của giới cầm quyền Mỹ, của
quân Mỹ và một số nước đồng minh của Mỹ trong cuộc chiến tranh xâm lược
Việt Nam. Một số tác giả đi sâu hơn nghiên cứu chính sách, các chiến lược
của Mỹ trong những năm quân đội Mỹ trực tiếp tham chiến tại Việt Nam.
1.1.2. Các công trình nghiên cứu về nhà tù, trại giam của Mỹ và
chính quyền Sài Gòn
Công trình nghiên cứu về Trại giam tù binh Phú Quốc có 2 công trình
tiêu tiểu: Trại giam tù binh Phú Quốc thời kỳ chống thực dân Pháp và đế
quốc Mỹ xâm lược [13] của Ban liên lạc tù binh Việt Nam và cuốn Trại giam
tù binh Phú Quốc, những trang sử đẫm máu 1967-1973 [123] của tác giả Trần
Văn Khiêm. Hai công trình này đã cung cấp nhiều tài liệu quý giá nghiên cứu
về vùng đất, lịch sử hình thành trại giam tù binh Phú Quốc, các tư liệu nghiên
cứu về âm mưu và thủ đoạn của Mỹ và chính quyền Sài Gòn đối với tù binh,
các cuộc đấu tranh của tù binh ở trại giam Phú Quốc, nêu bật ý chí bất khuất
và tinh thần đấu tranh anh dũng của những chiến sĩ cách mạng chống lại kẻ
thù. Tuy nhiên, do nhiều yếu tố tác động, chủ quan và khách quan nên còn
thiếu vắng những tư liệu, sự kiện, nhân vật tiêu biểu, chưa làm rõ được quá
trình hình thành và hoạt động của tổ chức Đảng trong trại giam.
Các bài viết trong Kỷ yếu Hội thảo Di tích lịch sử nhà tù Phú Quốc,
tháng 3-1995 [124] do tỉnh Kiên Giang tổ chức. Cuốn kỷ yếu đã tập hợp được
nhiều bài viết, báo cáo tham luận, phát biểu và hồi ký của các đồng chí lãnh
đạo, nhà nghiên cứu, cán bộ khoa học và cựu tù binh về trại giam tù binh Phú
Quốc theo nội dung: Báo cáo chung về di tích, tình hình trại giam (tội ác của
địch, sinh hoạt và đấu tranh của tù binh); vai trò lãnh đạo của tổ chức Đảng
trong trại giam; Vấn đề phục hồi, trùng tu, tôn tạo và phát huy giá trị di tích
12
Các bài viết, bài tham luận tại 4 cuộc Hội thảo khoa học về "Tổng kết
công tác xây dựng Đảng và lãnh đạo đấu tranh trong các nhà tù, trại giam của
địch thời kỳ 1954-1975" do Học viện Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh phối
hợp với Ban Liên lạc tù binh, tù chính trị Việt Nam tổ chức tại Hà Nội năm
2012; Đà Nẵng ngày 5-8-2013; tại Thành phố Hồ Chí Minh tháng 10-2013;
tại Cần Thơ năm 2014. Các cuộc hội thảo đã tập hợp được hàng trăm bài viết,
các bài nghiên cứu, bài tham luận của các nhà nghiên cứu của các chiến sĩ
cách mạng từng bị địch bắt, tù đày trong các nhà tù, trại giam tù binh của Mỹ
và chính quyền Sài Gòn. Tiêu biểu là những bài tham luận: Những đặc điểm
của tổ chức Đảng trong nhà tù thời Mỹ-ngụy [1] của Lê Quang Ba; Tù binh,
thương binh tàn nhưng không phế [32] của Nguyễn Xuân Bình; Xây dựng
Đảng và bảo vệ tổ chức Đảng, Đoàn ở trại giam tù binh Pleiku trong giai
đoạn chiến tranh chống Mỹ [33] của Trương Trọng Bính; Công tác xây dựng
Đảng và lãnh đạo đấu tranh trong các nhà tù của địch thời chống Mỹ, cứu
nước (1954-1975) [78] của Trần Chín; Công tác bảo vệ nội bộ đảng trong trại
giam tù binh [94] của Cao Sinh Học; Công tác xây dựng Đảng và lãnh đạo
đấu tranh trong các trại giam tù binh của địch ở miền Nam thời kỳ chống Mỹ,
cứu nước (1954-1975) [120] của Lương Quang Hồng; Một số vấn đề về công
tác xây dựng Đảng và lãnh đạo đấu tranh trong trại giam nữ tù binh Phú Tài-
Quy Nhơn [126] của Lê Thị Việt Lan; Văn hóa văn nghệ trong nhà tù Mỹ-
ngụy [128] của Nguyễn Hải Liên; Vai trò lãnh đạo của Đảng là yếu tố quyết
định trong đấu tranh thắng lợi, dù gian khổ, ác liệt nhưng nhất định sẽ thành
công, đặc biệt là trong các nhà tù Mỹ-ngụy [134] của Lê Thị Phương Loan;
Công tác xây dựng Đảng và lãnh đạo của Đảng ở các trại giam tù binh [135]
của Phạm Bá Lữ; Vị trí, vai trò của việc dạy và học trong nhà tù đế quốc
[141] của Lê Trọng Ngọ; Công tác xây dựng Đảng tại trại giam tù binh Non
Nước [142] của Ngô Tài Nguyên; Công tác xây dựng Đảng trong nhà lao và
một số kinh nghiệm [156] của Trần Minh Quốc; Tổ chức và hoạt động của
13
các chi bộ, đảng bộ trong nhà tù Mỹ-Ngụy tại huyện đảo Phú Quốc, tỉnh Kiên
Giang (giai đoạn 1965-1973) [161] của Đinh Trường Sơn; Chống ly khai
Đảng để bảo vệ khí tiết của người chiến sĩ cách mạng trong tù là: không chào
cờ ba que ngụy, không học tập tố cộng, không hô khẩu hiệu đả đảo cộng sản
[172] của Huỳnh Nhất Tịnh; Công tác xây dựng Đảng, đấu tranh trong trại
giam tù binh Pleiku-Gia Lai (1966-1972) [184] của Nguyễn Văn Thuận; Yêu
cầu khách quan có tổ chức Đảng trong nhà tù [185] của Hoàng Thanh Thụy;
Vai trò lãnh đạo của Đảng trong các nhà lao thời kỳ chống Mỹ, cứu nước giai
đoạn 1954-1975 [189] của Nguyễn Xuân Trình...
Các bài viết, các bài tham luận và hồi ký ghi lại tội ác tàn bạo của địch
đối với các chiến sĩ cách mạng bị bắt, tù đày, đồng thời cũng ghi lại các cuộc
đấu tranh anh dũng của tù binh dưới sự lãnh đạo của chi bộ, đảng bộ trong các
trại giam tù binh của Mỹ và chính quyền Sài Gòn. Mặc dù hồi ký là nguồn tư
liệu thứ cấp, nhưng với đặc thù của đề tài, các bài tham luận, hồi ký của các
tác giả là nhân chứng lịch sử từng bị bắt, giam giữ trong các trại giam tù binh,
là nguồn tư liệu rất quan trọng giúp dựng lại bức tranh toàn cảnh về hoạt động
của tổ chức Đảng và lãnh đạo đấu tranh trong các trại giam tù binh của Mỹ và
chính quyền Sài Gòn.
Cuốn sách Đây, các nhà tù Mỹ-ngụy [155] của tác giả Trần Thanh
Phương, trình bày khái quát hệ thống nhà tù của Mỹ và chính quyền Sài Gòn
ở miền Nam, trong đó đi sâu giới thiệu một số nhà tù khét tiếng như: Côn
Đảo, Phú Quốc, Chí Hòa và Khám Lớn Sài Gòn Ngoài ra, cuốn sách cung
cấp nhiều thông tin về sự can thiệp của Mỹ trong việc xây dựng hệ thống nhà
tù, trại giam trên toàn miền Nam và vai trò của các cố vấn Mỹ trong hệ thống
nhà tù, trại giam ở miền Nam.
Cuốn Những ngày tù ngục [179] do Tổ sử phụ nữ Nam Bộ chủ biên, Hàn
Song Thanh ghi, trình bày quá trình đấu tranh của phụ nữ Nam Bộ trong các
14
nhà tù của thực dân Pháp và đế quốc Mỹ như: Khám Lớn Sài Gòn, Khám Phú
Mỹ, Bà Rá, Chí Hoà, Côn Sơn, Trại giam tù binh nữ Phú Tài...
Cuốn Lịch sử đấu tranh yêu nước và cách mạng tại nhà lao Quảng Trị
(1930-1972) [173] do Ban Tuyên giáo Tỉnh ủy Quảng Trị chủ biên. Cuốn
sách này đã trình bày sự hình thành nhà lao Quảng Trị và quá trình đấu tranh
của các chiến sĩ yêu nước và cách mạng tại nhà lao Quảng Trị từ năm 1930
đến năm 1972, trong đó tập trung làm rõ chế độ lao tù của Mỹ và chính quyền
Sài Gòn từ năm 1954 đến năm 1975 và phong trào đấu tranh của các chiến sĩ
cách mạng tại nhà lao Quảng Trị.
Cuốn Lịch sử đấu tranh cách mạng ở nhà lao Hội An (1947-1975)[168]
của tác giả Nguyễn Nhã Tiên, ghi lại một số sự kiện nhân vật, phong trào đấu
tranh tiêu biểu, các chiến tích ngoan cường của lớp chiến sĩ cách mạng đất
Quảng tại nhà lao Hội An trong thời kỳ 1947-1975.
Cuốn Ghi chép nữ tù binh trong hoả ngục Phú Tài [12] do Ban Liên lạc
nữ tù thành phố Hồ Chí Minh xuất bản năm 1992. Cuốn sách cung cấp nhiều
tư liệu quan trọng về thủ đoạn của Mỹ và chính quyền Sài Gòn với nữ tù binh
và các cuộc đấu tranh kiên cường bất khuất của các nữ chiến sĩ cách mạng
trong Trại giam tù binh nữ Phú Tài.
Cuốn Những cuộc vượt ngục lịch sử ở các nhà tù Việt Nam trong kháng
chiến chống xâm lược [91] của tác giả Lê Hồng Hải giới thiệu về những cuộc
vượt ngục lịch sử ở các nhà tù Việt Nam của những chiến sĩ cách mạng trong
hai cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp và đế quốc Mỹ, khắc họa chân
dung người chiến sĩ cách mạng anh dũng, thông minh, sáng tạo, mưu trí tìm
mọi cách để vượt ngục, tiếp tục tham gia cách mạng.
Các công trình nghiên cứu về tội ác của Mỹ và chính quyền Sài Gòn đối
với tù nhân như: Tội ác khủng bố, tra tấn, tù đày của đế quốc Mỹ và tay sai đối
với nhân dân miền nam Việt Nam: Cuốn sách thứ 5 tố cáo tội ác [125] do Nhà
xuất bản Sự thật ấn hành; Tội ác khủng bố, tra tấn, tù đầy của đế quốc Mỹ và
15
tai sai đối với nhân dân miền Nam Việt Nam [174]; Người bị CIA cưa chân sáu
lần [85] của tác giả Mã Thiện Đồng; Tù chính trị tại miền Nam Việt Nam sau
Hiệp định Pari tập 1 [31] của Ban Vận động cải thiện chế độ lao tù miền Nam
Việt Nam. Các công đã trình bày những hành động tra tấn dã man của chính
quyền Sài Gòn trong các nhà tù, trại giam tù binh ở miền Nam Việt Nam.
Trong các công trình nghiên cứu về nhà tù, trại giam của Mỹ và chính
quyền Sài Gòn, các tác giả đã trình bày khái quát quá trình hình thành và chế
độ lao tù của Mỹ và chính quyền Sài Gòn, qua đó, giúp người đọc thấy bức
tranh về chế độ cai trị hà khắc, thủ đoạn thâm độc của Mỹ và chính quyền Sài
Gòn đối với tù nhân và tù binh. Ngoài ra, các tác giả còn cung cấp những sự
kiện đấu tranh của chiến sĩ cộng sản trong các nhà tù của địch, hoạt động của
một số tổ chức Đảng trong các nhà tù, lãnh đạo đấu tranh bảo vệ khí tiết
người cộng sản, đấu tranh chống chiêu hồi, đấu tranh bảo vệ đồng đội, chờ
ngày chiến thắng trở về, nêu bật ý chí bất khuất và tinh thần đấu tranh anh
dũng của những chiến sĩ cách mạng chống lại kẻ thù.
1.1.3. Các công trình nghiên cứu của Ban Tuyên giáo và Hội Tù yêu
nước các tỉnh, thành về các cuộc đấu tranh của chiến sĩ cách mạng trong
nhà tù, trại giam của Mỹ và chính quyền Sài Gòn
Các chiến sĩ cách mạng sau khi thoát khỏi chế độ lao tù của Mỹ và chính
quyền Sài Gòn đã thành lập Ban Liên lạc tù binh, tù chính trị Nhiều tỉnh trên
cả nước thành lập Hội Tù yêu nước để tập hợp, chia sẻ thông tin đến những
chiến sĩ cách mạng bị địch bắt và tù đày. Hội Tù yêu nước các tỉnh tập hợp các
bài viết, các bài hồi ký của các hội viên, tiến hành biên tập xuất bản các công
trình nghiên cứu về các nhà tù, trại giam của Mỹ và chính quyền Sài Gòn.
Các công trình của Hội Tù yêu nước Thừa Thiên Huế: Chí khí trong lao
tù, tập I [118]; Chí khí trong lao tù, tập II [119]. Cuốn sách tập hợp nhiều bài
viết của các đồng chí hội viên là cựu tù, kể lại sự dã man, tàn bạo trong các
trại giam khét tiếng trên địa bàn Thừa Thiên Huế như Ngục chín hầm, Lao
16
Thừa phủ... và các cuộc đấu tranh kiên cường, bất khuất của những người yêu
nước chiến sĩ cách mạng trong các nhà lao, trại giam nay. Bên cạnh đó, cuốn
sách còn tập hợp nhiều bài viết về quá trình các tác giả bị bắt, bị địch tù đầy
trong nhiều nhà lao, trại giam trên địa bàn miền Trung và Côn Đảo.
Các công trình của Hội Tù yêu nước Thành phố Đà Nẵng: Những ngày
tù ngục [113]; Những ngày tù ngục, tập 1 [114]; Những ngày tù ngục, tập 2,
[115]; Những ngày tù ngục, tập 3 [116]; Những ngày tù ngục tập 4 [117]. Các
cuốn sách tập hợp các bài viết, bài nghiên cứu của Hội tù yêu nước tỉnh Đà
Nẵng, về quá trình bị bắt, tù đầy trong các nhà tù, trại giam của chính quyền
Sài Gòn ở miền Nam. Trong đó, đáng chú ý có bài viết Trong tù tôi để tang
Bác của tác giả Hoàng Thanh Thụy viết về cuộc đấu tranh của cá nhân đồng
chí Thụy và tù binh trại giam Hố Nai để được để tang Bác Hồ trong trại giam.
Các công trình của Hội Tù yêu nước tỉnh Quảng Nam: Kiên trung bất
khuất, tập 1 [108]; Kiên trung bất khuất, tập 4 [109]; Kiên trung bất khuất, tập
5, [110]; Kiên trung bất khuất, tập 7 [111]; Kiên trung bất khuất, tập 8 [112].
Công trình tập hợp nhiều bài tham luận, bài nghiên cứu của các chiến sĩ cách
mạng từng bị địch bắt giam giữ của Hội Tù yêu nước tỉnh Quảng Nam viết về
những tấm gương của những người con ưu tủ tỉnh Quảng Nam trong nhà tù
trại giam của Mỹ và chính quyền Sài Gòn ở miền Nam; các bài nghiên cứu về
hệ thống nhà tù của chính quyền Sài Gòn trên đất Quảng Nam như: Nhà lao
Hội An, nhà lao Quảng Tín. Ngoài ra, còn có một số công trình nghiên cứu về
các trại giam tù binh Phú Quốc, tiêu biểu như bài viết: Các hình thức tra tấn
cực hình của Mỹ ngụy đối với tù binh ở nhà tù Phú Quốc của tác giả An
Xuân; An nghỉ cùng đồng đội tại nghĩa trang liệt sĩ Phú Quốc của tác giả
Nguyễn Thành Nhơn; Cuộc vượt ngục táo bạo của tác giả Lê Năng Đông;
Đào hầm vượt ngục ở phân khu A5 của tác giả Nguyễn Việt Hà.
Các công trình của Ban Liên lạc tù chính trị yêu nước Quảng Ngãi: Sống
giữa ngục tù, tập 1 [17]; Sống giữa ngục tù, tập 2 [18].
17
Các công trình nghiên cứu của Hội Cựu tù chính trị cách mạng tỉnh
Bình Định: Sống là chiến đấu, tập 1 [102]; Sống là chiến đấu, tập 2 [103];
Sống là chiến đấu, tập 3[104]; Sống là chiến đấu, tập 4 [105]. Tỉnh Bình
Định có Trại giam nữ tù binh Phú Tài nên trong các công trình nghiên cứu
Hội Cựu tù chính trị cách mạng tỉnh Bình Định có nhiều bài viết về Trại
giam tù binh Phú Tài. Trong đó, tiêu biểu bài viết Những năm tháng sống
chiến đấu ở trại giam tù binh nữ Phú Tài của tác giả Thanh Hoa và bài Trại
giam nữ Phú Tài, đã trình khái quát quá trình hình thành Trại giam nữ tù
binh Phú Tài và một số cuộc đấu tranh tiêu biểu trong trại giam nhằm bảo vệ
khí tiết người cộng sản, chống chế độ lao tù khắc nghiệt, chống cưỡng ép
chiêu hồi và đấu tranh vượt ngục...
Các công trình của Ban Tuyên giáo Tỉnh ủy Phú Yên, Hội Tù chính trị
yêu nước tỉnh Phú Yên gồm: Những năm tháng trong tù, tập I [19]; Những
năm tháng trong tù, tập II [20]; Những năm tháng trong tù, tập III [21];
Những năm tháng trong tù, tập IV [22]; Những năm tháng trong tù, tập V
[23]. Công trình tập hợp những bài viết của các đồng chí từng bị giam giữ
trong các nhà tù trại giam của Mỹ và chính quyền Sài Gòn ở miền Nam, kể lại
quá trình bị địch bắt và giam giữ, ...đều có đèn pha, đại liên và pháo sáng. Từ chân đồi đến hàng
rào ngoài cùng của trại giam là một bãi mìn jip, mìn sáng và các
loại mìn sát thương ẩn dưới nhiều lớp rào kẽm gai đặc biệt, thấp
khoảng 80 cm, được cỏ lau che khuất [29, tr. 220-221].
Tổ chức giam giữ tại trại giam Pleiku chia theo từng khu với:
+ Thành phần giác ngộ (tức chiêu hồi)
34
+ Thành phần lừng chừng
+ Thành phần cuồng tín (tức kiên định lý tưởng cộng sản, yêu nước)
Từ giữa năm 1966 đến tháng 9-1967, quân Mỹ, Nam Triều Tiên và quân
đội Sài Gòn mở liên tiếp nhiều trận càn quét lớn, dài ngày vào các vùng căn
cứ và vùng giải phóng ở các tỉnh Bình Định, Phú Yên, Khánh Hòa, Quảng
Ngãi... Chiến tranh càng mở rộng và ác liệt, địch bắt bớ chiến sĩ quân giải
phóng vào các trại giam ngày càng nhiều. Vì vậy, đến giữa năm 1967, do số
lượng tù nhân tăng nhanh, chính quyền Sài Gòn xây dựng thêm một trại mới,
cách trại cũ khoảng 150 mét. Giới hạn giữa hai trại là sân vận động, chiều
ngang khoảng 150 mét, chiều dài khoảng 300 mét. Từ đó, trại cũ mang tên là
trại I, trại mới gọi là trại II. Cả trại I và trại II đều là "địa ngục trần gian".
Từ giữa năm 1966 đến năm 1972, Trại giam tù binh Pleiku giam giữ
khoảng 4.000 tù binh nam, nữ [189, tr. 4].
Tháng 5-1972, quân giải phóng đánh vào Kon Tum, địch chuyển hết số
tù binh ở hai phòng biệt giam ra Phú Quốc.
- Trại giam tù binh Non Nước (Đà Nẵng)
Trại giam tù binh Non Nước nằm ở chân đồi Non Nước, ở phía Đông
Nam thành phố Đà Nẵng, được xây dựng từ năm 1965, gồm có 2 phân khu.
Phân khu A là nơi thường xuyên giam giữ khoảng 800 có lúc lên đến 1.000 tù
binh, bao gồm cán bộ cách mạng các tỉnh từ Quảng Trị đến Quảng Ngãi và bộ
đội miền Bắc vào Nam chiến đấu. Nếu số lượng tù binh nhiều hơn thì những
người mạnh khỏe sẽ bị đưa ra Phú Quốc giam giữ.
Ở phân khu A, chúng giam mỗi phòng 60 người, có phòng lên đến
90 người. Phòng 1 chúng giam tù binh mới vào, phòng 3 để trống
dùng để làm phòng hớt tóc, từ phòng 2 đến phòng 12 giam tù binh
miền Nam, riêng phòng 8 dùng để giam riêng số tù binh sĩ quan lộ
diện, phòng 13 đến 15 giam riêng số tù binh miền Bắc, phòng 16 và
17 giam số tù binh thương binh miền Nam và phòng 18 chúng dùng
35
dây kẽm và bùng nhùng rào kín xung quanh vào sát tận phòng, là
phòng biệt giam dùng để giam giữ những tù binh mà chúng gọi là bị
kỷ luật. Phân khu B là khu “Tân sinh hoạt”, là nơi chúng canh giữ
khoảng 500-600 người chiêu hồi. Mỗi phân khu có khoảng 21 phòng
kể cả nhà ăn ở và phòng biệt giam, mỗi phòng dài khoảng 20m,
ngang 5m, khoảng cách giữa các phòng khoảng l0m, toàn bộ sườn
bằng sắt lợp tôn, để trống khoảng dưới, khoảng cách giữa 2 phân khu
là một khoảng đất trống, diện tích khoảng 1 ha, chung quanh có 3 lớp
rào gai bao bọc, lẫn với bùng nhùng và mìn, các phòng được ngăn
cách bởi những hàng rào đứng và bùng nhùng, chỉ có một cửa nhỏ để
ra vào, giữa 2 phân khu đều có hàng rào ngăn cách, mỗi phân khu có
4 pháo đài gác xung quanh (4 góc). [42, tr. 1-2].
Phân khu B (chiêu hồi) trung bình có 500 đến 600 tù binh. Phân khu
chiêu hồi hình thành từ giữa năm 1969 trên cơ sở ép buộc những tù binh yếu
cung với những tù binh đã chiêu hồi trong khi bị bắt, nhưng đại bộ phận bị
đánh đập ép buộc nên chiêu hồi, chỉ có số ít cá biệt rơi vào chiến tranh tâm lý
và tình cảm gia đình.
Trại giam tù binh Non Nước có đặc điểm là một trại trung chuyển. Do đó,
số tù binh không ổn định, tù binh bị bắt ở nhiều địa phương như Quảng Trị,
Huế, Đà Nẵng,... về giam ở đây, khi đủ một chuyến bay khoảng hơn 100-200 tù
binh khỏe mạnh, “cứng đầu”, địch đưa họ ra Trại giam tù binh Phú Quốc.
Tháng 5-1972, chính quyền Sài Gòn chuyển toàn bộ tù binh ra đảo Phú Quốc.
- Trại giam tù binh Trà Nóc (Cần Thơ)
Trại giam thiết lập ngày 30-4-1967, nằm ở phía Tây Nam thành phố Cần
Thơ, gần sân bay quân sự Trà Nóc, do Thiếu tá Hoàng Đình Hoạt, một cai
ngục chống cộng khét tiếng làm Chỉ huy trưởng. Trại giam có diện tích trên
20.000m2, với 19 phòng giam, mỗi phòng chứa từ 60 đến 80 tù binh. Bao
quanh trại giam là hệ thống tường rào, hàng rào dây kẽm gai, bãi mìn... Ban
36
đêm, địch tăng cường quân cảnh, chó nghiệp vụ tuần tra. Trên vọng gác, lính
canh cứ 2 giờ thay phiên một lần, một bóng đèn 500W chiếu sáng rực liên tục
từ 18 giờ đến 6 giờ sáng hôm sau cùng với khẩu đại liên quay nòng vào trại
giam, sẵn sàng nhả đạn. Không những thế, trại giam còn được xây dựng kết
nối liên hoàn với Phi trường 31, kho quân tiếp vụ, khu gia binh và các căn cứ
quân sự quan trọng khác để hỗ trợ khi cần thiết.
Tù binh bị giam tại Trại giam Trà Nóc đều đã trải qua nhiều trại giam
khác nhau, như: Phú Quốc, Biên Hòa, Pleiku... Trên 90% tù binh bị bắt khi bị
thương rất nặng, mất nhiều máu, lại bị đánh đập, tra tấn tàn bạo, cùng với chế
độ lao tù hà khắc, ốm đau, bệnh tật liên miên nên sức khỏe rất yếu.
- Số lượng tù binh trong các trại giam
Theo bảng số lượng tù binh Cộng sản tại 6 trại giam (Đà Nẵng, Pleiku,
Qui Nhơn, Biên Hòa, Cần Thơ và Phú Quốc) của chính quyền Việt Nam
Cộng hòa năm 1970 được lưu trong tài liệu của Phủ Thủ tướng Việt Nam
cộng hòa để trình bày tại Hội nghị Pari về vấn đề tù binh ghi tổng số 35.500
tù binh, trong đó Trại giam tù binh Phú Quốc có 25.291 tù binh [152].
Theo bản tổng kết của Bộ Tổng Tham mưu ngụy, tính đến ngày 25-1-
1973, tổng số tù binh giam giữ là 37.577 người, trong đó có 10.973 tù binh đã
vào trại Tân sinh hoạt. Số ở trại Tân sinh hoạt này đến ngày 27-1-1973 được
Tổng thống ngụy quyền Sài Gòn Nguyễn Văn Thiệu chấp thuận chuyển qua
Bộ Chiêu hồi và sau đó được phóng thích. Số liệu trên chưa tính số tù binh đã
hi sinh trong các trại giam (khoảng 4.000 người). Như vậy, có thể Trại giam
tù binh Phú Quốc đã giam giữ trên 30.000 người [123, tr. 43]. Tuy nhiên, theo
các nhân chứng là tù binh Trại giam tù binh Phú Quốc, căn cứ trên số lượng
tù binh mà địch giam giữ tại các khu, các phòng giam trong phân khu thì từ
năm 1967 đến 3-1973, có khoảng 40.000 lượt tù binh được giam giữ tại đây
[13, 130]. Trại giam tù binh Phú Quốc là trại giam tù binh lớn nhất Đông
Nam Á trong thời kỳ này.
37
Trong các trại giam tù binh có rất nhiều thành phần khác nhau, họ là
những người bị quân Mỹ, chư hầu và quân đội chính quyền Việt Nam cộng
hòa bắt qua các cuộc chiến đấu hoặc qua các cuộc hành quân càn quét trên các
chiến trường miền Nam Việt Nam. Có những người thực sự cầm súng chiến
đấu chống lại quân Mỹ và chính quyền Sài Gòn thuộc quân chủ lực, quân địa
phương hoặc dân quân du kích; có những người là cán bộ chính trị nhưng khi
bị bắt khai là dân công hoặc du kích để tránh bị khai thác cơ sở. Một số người
ủng hộ cách mạng, thậm chí có người chỉ sinh sống trong vùng xôi đậu bị
địch bắt khi càn quét cũng bị chúng gắn bừa là du kích cộng sản. Một số ít
người nguyên là lính hoặc nhân viên chính quyền Sài Gòn, nhưng vì một lý
do nào đó, bị chính quyền nghi ngờ là "ăn cơm quốc gia thờ ma cộng sản" nên
bị bắt, bị khai thác...
2.1.2. Chế độ giam cầm và các hình thức giam cầm trong các trại
giam tù binh
2.1.2.1. Các chế độ đối với tù binh
Ngày 12-8-1949, Công ước Giơnevơ về tù binh quy được ký kết. Điều
13 của Công ước Giơnevơ về cách đối xử với tù binh ghi:
Tù binh phải luôn luôn được đối xử một cách nhân đạo. Những
hành động phi pháp hoặc sơ suất của quốc gia giam giữ làm thiệt
mạng hoặc phương hại trầm trọng đến sức khỏe của một tù binh
dưới quyền giam giữ đều bị nghiêm cấm và xem đó là một sự vi
phạm nặng nề công ước này. Đặc biệt, không một tù binh nào phải
chịu sự hủy hoại thân thể hoặc những cuộc thí nghiệm khoa học hay
y học không cần thiết và không có lợi cho người tù binh ấy. Ngoài
ra, tù binh còn phải luôn luôn được bảo vệ, nhất là để tránh những
hành động tàn bạo, những sự đe dọa, lăng nhục và sự hiếu kỳ của
dân chúng... Những biện pháp có tính chất trả thù tù binh phải được
nghiêm cấm...[82].
38
Ngày 14-11-1953, chính quyền Quốc gia Việt Nam tuyên bố tham gia
thực hiện Công ước Giơnevơ về tù binh, sau này là chính quyền Sài Gòn tiếp
tục thực hiện những điều khoản chính quyền Quốc gia Việt Nam ký trước đó.
Nhưng trên thực tế, trong các trại giam tù binh, chính quyền Sài Gòn bất chấp
những điều khoản trong Công ước Giơnevơ và dùng chính sách hai mặt:
Một mặt, thực hiện âm mưu thâm độc và khủng bố tù binh một cách ác
liệt hơn so với các nơi khác. Dưới sự chỉ huy của cố vấn Mỹ, giám thị, quân
cảnh đánh đập gây thương tích, thẳng tay bắn chết tù binh kể cả thảm sát tập
thể. Với âm mưu hủy diệt tinh thần và thể xác tù binh, hoặc làm cho họ sợ hãi
mà từ bỏ lý tưởng cách mạng, chủ trương của chúng là ở trường hợp nào thì
tù binh cũng bị vô hiệu hóa, trở thành vô dụng. Vì vậy, địch sử dụng nhiều
thủ đoạn xảo quyệt: lừa mị, dụ dỗ, tra tấn dã man, buộc tù binh phải khuất
phục, đầu hàng, phản bội lại cách mạng, nếu còn sống trở về thì cách mạng
không tin dùng, bè bạn, nhân dân chê trách, oán ghét. Còn người nào giữ
được khí tiết, nếu không chết dần, chết mòn trong trại giam thì cũng tàn phế,
khi về không đủ sức tiếp tục thực hiện nhiệm vụ cách mạng và trở thành gánh
nặng cho gia đình và xã hội. Mặt khác, chính quyền Sài Gòn tìm cách bưng
bít dư luận khi có phái đoàn quốc tế đến thăm trại giam, nhượng bộ một vài
đòi hỏi của tù binh trong đấu tranh.
Âm mưu và tội ác của chính quyền Sài Gòn thể hiện rất rõ ở các chế độ
trong trại giam như ăn, ở, đồ dùng sinh hoạt đến các hình thức kỷ luật đối với
tù binh... Vì vậy, cuộc đấu tranh của tù binh nổ ra mạnh mẽ, quyết liệt nhằm
cải thiện điều kiện sống và sinh hoạt trong tù, đồng thời đấu tranh bảo vệ tính
mạng của tù binh trong tù.
- Chế độ ăn
Chế độ ăn uống của tù binh cũng được quy định chung cho các trại
giam. Ở Trại giam tù binh Phú Quốc, mỗi ngày, tù binh được cấp 700 gram
gạo, do Ban Chỉ huy Tiếp vận 3 thuộc Vùng 3 chiến thuật mang tới. Mỗi sáng
39
có xe chở gạo đến phát cho từng phân khu. Nhưng phần nhiều các bao gạo bị
chúng lấy bớt, bao 100 kilôgam chỉ còn trên dưới 80 kilôgam.
Về thực phẩm, mấy năm đầu, mỗi ngày tù binh được cấp 36,61
đồng (tiền của chế độ Việt Nam Cộng hòa). Đến ngày 1-8-1972
tăng lên, ở Pleiku 55,58 đồng, Đà Nẵng và Quy Nhơn 52,66 đồng,
các trại Biên Hòa, Cần Thơ và Phú Quốc chỉ có 50 đồng [trích theo
13, 138].
Chế độ ăn của phạm nhân đã rất ít ỏi, lại thêm giá cả đắt đỏ nên lượng
thực phẩm được cấp phát lại càng ít hơn. Bên cạnh đó, lại bị cai thầu, giám thị
ăn bớt nên tù binh chỉ được hưởng một phần trong số tiền đó.
Thức ăn chính gồm có:
Gạo: là loại xấu, nhiều sâu, sạn và không bao giờ được cấp phát đủ, phần
cơm hàng ngày bị giới hạn tối đa. Địch hành hạ tù nhân bằng cách ấn định
thời gian ăn từ 3-5 phút cho mỗi bữa, buộc tù nhân phải ăn thật mau, nên
không thể ăn no. Gạo pha đầy tạp chất như thóc, cát, sạn, cỏ may, khiến người
tù không thể ăn nhiều. Hoặc, cơm và cháo được nấu thật nhão và lỏng để
người tù ăn mau no bụng, không ăn thêm được, nhưng lại mau đói.
Riêng chất lượng khẩu phần, được chia làm nhiều loại:
+ Loại l: dành cho những người đang trong quá trình bị dụ dỗ, hoặc đã
bằng lòng làm việc cho chính quyền Sài Gòn. Mỗi bữa, họ được ăn cơm no và
ngon, gồm hai món ăn, một ly nước.
+ Loại thông thường: dành cho những người mà địch dụ dỗ không được,
hoặc đã khai thác xong, họ được cấp phần cơm theo như quy định, với nửa ly
nước, hoặc đôi lúc không có, thậm chí, bị bỏ đói luôn.
Khô cá: là loại kém chất, vừa cũ mục, vừa đắng, các nữ tù binh Phú Tài
gọi đây là “khô ký ninh”.
40
Mắm ruốc: có lẫn sạn, cát, được pha với nước lã. Khi ăn, người tù không
cảm thấy gì khác ngoài vị mặn của mắm, nhưng phải ráng ăn cho qua cơn đói
khát mà tồn tại.
Rau tươi: thỉnh thoảng mới có, riêng ở khu biệt giam kỷ luật thì nguồn
rau tươi hoàn toàn bị cắt bỏ.
Thịt: chỉ đặc biệt có vào dịp Tết, phần mỡ luôn nhiều hơn phần thịt, kích
cỡ bằng đầu ngón tay, mặc dù theo quy định, mỗi người phải được từ 200-
400g thịt.
Đồ hộp: phần lớn đều đã bị mốc, hết hạn sử dụng.
Nhận xét về chế độ ăn, ở của tù binh, trong một nghiên cứu luận văn
Cao học hành chính của tác giả Nguyễn Tiến Thịnh viết:
Khung cảnh lao tù đã thiếu vệ sinh do tình trạng đông chật, phương
tiện chăm sóc phạm nhân về sức khỏe thiếu thốn đến vấn đề nuôi ăn
can phạm còn bi đát hơn: thực phẩm hàng ngày cho phạm nhân là
gạo và các loại khác như: cá khô, mắm sặt, thịt heo, đậu xanh, đậu
nành, nước mắm, muối hột, trà, tiêu, dấm, đường cát vàng. Khẩu
phần ăn trung bình là 29,44 đôla, nhưng do giá sinh hoạt lên cao gia
tăng từ 7,40 đôla đến 10 đôla nên nếu phạm nhân nhận được khẩu
phần ăn trên đã thiếu (không kể bị nhà thầu gian xảo, giám thị ăn
bớt), thì thấy tình trạng thiếu ăn của phạm nhân [181, tr. 72-73].
Trong sách Những con tin của chiến tranh-các tù chính trị ở Sài Gòn,
tác giả Holmes Bown và Don Luce viết về trại giam Phú Quốc như sau:
Tù nhân bất bình với số lương thực phát cho họ. Nghe nói họ được
những tiêu chuẩn cao, nhưng các tiêu chuẩn đó lại không được thỏa
mãn... cơm, phần lớn đều pha cát, sạn, trong khi ấy, thức ăn không
khác gì hơn là một thứ khô mục mà bạn tù gọi là khô ký ninh, vì
quá đắng... Khô được dồn dập chở ra đảo trong những lần mua
được giá rẻ. Họ tồn kho trong có thể từ ba đến sáu tháng, nên nó trở
41
nên đắng hơn và mục rữa hơn. Khi có một chút dầu ăn thì họ rang
sơ, không thì họ luộc lõng bõng để làm cái gì gọi là khô kho, thiếu
thì họ đổ nước lã vào... có lúc họ cho nướng cháy đen như cục than.
Vì thế, người tù chỉ biết tìm vị mắm mặn trong cái đắng ngắt của
khô, nghẹn ngào nuốt miếng cơm khỏi miệng trong cái căm hờn.
Bên cạnh khô ký ninh, còn có “mắm ruốc khuấy nước lã”. Ruốc
được pha nhiều nước đến nỗi chỉ thấy bên dưới một vài xác tép ủ
màu [155, tr. 211-212].
Chế độ ăn của phạm nhân đã rất ít ỏi, lại thêm giá cả đắt đỏ nên lượng
thực phẩm được cấp phát lại càng ít hơn. Bên cạnh đó, bị cai thầu ăn bớt nên
tù binh lại chỉ được hưởng một phần trong số tiền đó. Việc cung cấp thực
phẩm cho Trại giam tù binh thông qua hai cấp thầu, một thầu lớn thâu trực
tiếp với nhà cầm quyền và một, hai thầu con thầu lại của nhà thầu lớn từng
mặt hàng thực phẩm tươi sống hay cá mắm.
- Nước: đối với các trại giam tù binh nói chung cực kỳ thiếu thốn.
Tại trại giam tù binh nữ Phú Tài, nguồn nước để uống, khoảng một lon
sữa bò nước/người. Nước uống được phát 2 lần/ngày cùng với bữa cơm.
Trong cái nóng oi bức, ngột ngạt của một phòng giam kín mít, chật hẹp vì số
tù nhân bị giam quá tải, lượng nước ấy đương nhiên không thể đủ dùng. Nước
sinh hoạt tắm giặt càng bị hạn chế hơn. Các nữ tù binh chỉ được tắm 1-2
lần/tuần, mỗi lần từ 10-15phút, kể từ lúc mở cửa cho đến lúc đóng cửa phòng
giam. Vì những khó khăn như thế, nên kiểu tắm cũng biến chuyển “tân kỳ”,
khi trật tự phòng giam vừa thông báo tắm, lập tức người tù trần truồng chờ
cửa mở là chạy ào ra ngoài, bọn trật tự dùng vòi xịt một lượt ngang qua hàng
dãy tù nhân, thế là coi như đã tắm xong, không kịp kỳ cọ. Với nữ tù chính trị
bị giam tại các phòng kỷ luật, cả tháng không được tắm giặt, họ gặp vô cùng
khó khăn trong vấn đề vệ sinh kinh nguyệt [133, tr. 65].
Tại Trại giam tù binh Phú Quốc, lúc đầu chưa có giếng đào, nước được
42
chở bằng xe bồn đến phân phát cho tù binh chỉ để ăn, uống chứ không có
nước tắm giặt, rửa ráy... Vì vậy, tù binh phải tự tắm theo kiểu riêng gọi là
“tắm xe”, tức là vận động mạnh cho ra mồ hôi rồi lấy tay chà từng phần trên
cơ thể cho ra hết ghét bẩn...
Thời gian sau, tù binh đấu tranh đòi đào giếng thì nước uống được cải
thiện hơn, chỉ riêng khu 10 không có giếng phải chịu khổ cực mãi.
- Chế độ mặc và đồ dùng sinh hoạt
Đối với tù binh nữ tại Trại giam tù binh Phú Tài, theo quy định, mỗi năm
tù nhân được cấp phát 2 bộ quần áo, nhưng trên thực tế, có khi đến vài năm nữ
tù cũng chẳng được cấp, “chị em mặc tả tơi, vá hàng trăm tấm với đủ màu sắc.
Nhiều nữ tù đi đổ rác lượm bao cát về may quần áo để mặc [86, tr. 190].
Nữ tù thường xuyên thiếu quần áo che thân. Do điều kiện sống bị giam
cầm chật hẹp, phải cọ xát tối đa giữa người với người trong một môi trường
ẩm thấp, dơ dáy, quần áo rất dễ mục nát. Những tù nhân bị biệt giam, người tù
càng khổ sở hơn không được cấp phát quần áo, chỉ duy nhất một bộ rách trên
người, phải chắp vá đủ chỗ. Vải để vá được cắt từ hai ống quần dài, do vậy,
hầu hết nữ tù đều mặc quần cụt. Tù nhân nữ có nỗi khổ rất riêng: đối với
người phụ nữ Á Đông, tình trạng không quần áo che thân là cả một vấn đề,
thế mà việc ấy vẫn diễn ra hằng ngày trong các nhà tù của Mỹ và chính quyền
Sài Gòn...
- Chế độ chữa bệnh, thiếu trầm trọng bác sĩ và y tá trong các trại giam,
thuốc men được cấp hạn chế và tùy hứng, chỉ khi cơn bệnh đến hồi thập tử,
người bệnh mới được phát vài viên thuốc cầm chừng.
Tại trại giam Phú Quốc, toàn trại giam chỉ có một bệnh xá và mỗi khu
chỉ có một phòng y tế. Trong khi đó, do ăn uống kham khổ và sinh hoạt thiếu
thốn, có đến hàng ngàn tù binh bị bệnh tật. Trong báo cáo của ông Monod,
Đại diện Ủy hội Quốc tế Hồng thập tự tại Sài Gòn về cuộc viếng thăm của
43
ông tại Trại giam tù binh Phú Quốc trong những ngày 10, 11 và 12-6-1970, có
nhận xét đã phản ánh sự lãnh đạo của trại giam này:
Trại giam tù binh Phú Quốc không đủ chỗ để chứa 25.000 tù binh
đang bị giam giữ tại đó. Tù binh đa số mang dấu vết bị đánh đập, bị
xử phơi nắng, nhốt vào chuồng cọp và ở đây không có phương tiện
giải trí thỏa đáng... về y tế cũng rất thiếu thốn, chỉ có hai y sĩ chăm
sóc cho toàn thể tù binh và nhân viên trong Trại (kể cả gia đình
nhân viên) [154, tr. 2].
Sau phê phán của Đại diện Ủy hội Quốc tế Hồng thập tự, Cục Quân y
chính quyền Sài Gòn tăng cường thêm y sĩ, nâng tổng số y sĩ lên năm người.
2.1.2.2. Một số hình thức giam cầm tù binh
- "Chuồng cọp"
Theo cuốn “Chế độ Sài Gòn – một chế độ trại giam” do Nhà xuất bản
Đông Nam Á ở Pari ấn hành, nhà báo Mỹ tên là Robin Moore cho rằng
“chuồng cọp kẽm gai” là phát minh của lực lượng đặc biệt mũ nồi xanh của
Mỹ [trích theo 123, tr. 74].
Trại giam tù binh Phú Quốc được xem là trại giam kẽm gai khổng lồ.
Ngoài 500 căn nhà giam và nhà ở, nhà làm việc của Bộ Chỉ huy trại giam,
của quân cảnh và giám thị bằng tôn ra thì hầu như toàn bộ là kẽm gai. Đâu
đâu cũng thấy kẽm gai: kẽm gai đến 12 lớp giăng quanh các phân khu giam,
kẽm gai 5 lớp giăng quanh mỗi phân khu, kẽm gai còn giăng quanh các
phòng giam trong phân khu để ngăn cách không cho tù binh qua lại, liên hệ
chuyện trò với nhau.
Chuồng cọp được để ở ngoài trời trong phân khu. Phân khu nào cũng có
hai, ba chuồng cọp nhốt 1 người, nhưng cũng có loại nhốt từ 3-5 người (loại
nhỏ). Thông thường, chuồng cọp có kích thước dài 1,6 mét, rộng 1,2 mét và
cao 0,8 mét (thậm chí có loại chỉ cao 0,5 đến 0,7 mét), bốn phía kẽm gai, phần
dưới nền cát, đất hoặc đá dăm cạnh nhọn hoặc sỏi... [13, tr. 201]. Theo thống
44
kê của tù binh Phú Quốc, có nhiều loại chuồng cọp như: chuồng cọp ngồi và
nằm, chuồng cọp đứng, chuồng cọp nửa thấp nửa cao, chuồng cọp cá sấu.
Chuồng cọp tại Trại giam tù binh Phú Quốc không giống chuồng cọp
Côn Đảo hay các nhà tù, trại giam khác mà toàn bộ là loại “chuồng cọp kẽm
gai” của Mỹ. Đặc điểm nổi bật của chuồng cọp ở Trại giam tù binh Phú Quốc
là tuy có chung kiểu mẫu, nhưng do tính chất, mức độ ác ôn của từng tên
trưởng giám thị khu giam mà chúng sáng tạo ra các loại chuồng cọp khác
nhau để gia tăng mức độ nghiệt ngã của hình phạt mà chúng áp đặt cho từng
loại chuồng cọp. Mỗi loại chuồng cọp đi kèm với nhiều cách hành hạ con
người khác nhau.
Đến năm 1972, hình thức giam tù binh trong chuồng cọp bị Hồng thập
tự quốc tế lên án, các phái đoàn Việt Nam Dân chủ Cộng hòa tại Hội nghị
Pari tố cáo và phản đối, chính quyền Sài Gòn cho gỡ bỏ các chuồng cọp dây
kẽm gai trong các phân khu trại giam, nhưng lại thay thế hình thức giam tù
bằng thùng “cát xô” sắt.
- Giam tù binh trong thùng “cát xô” bằng sắt
Cát xô thường không để ở trong phân khu mà ở ngoài, bên kia đường
đối diện với phòng giám thị phân khu. Vì thùng cát xô kín mít nên người tù bị
giam ở bên trong không nhìn thấy gì.
Thùng cát xô cỡ nhỏ (4x2x2 mét), rồi đục hình chữ nhật (10x20 cm) nhỏ
trên đỉnh thùng để thông hơi và một cửa sổ nhỏ cỡ (10-30 cm), có nắp đậy
khóa lại, để đưa cơm và nước vào. Tù binh bị nhốt vào chuồng thùng “cát xô”
phải chịu sự ngột ngạt vì thiếu không khí, nhất là khi trời nắng, nóng, có cảm
giác như bị nung đốt. Quân cảnh đi qua thường lấy đá ném vào thùng sắt làm
trò tiêu khiển. Những lúc đó, tù binh bên trong bị tiếng dội bất ngờ, không
khí trong thùng hẹp làm tức ngực gây ngộp thở. Ban đêm sương lạnh, người
tù chỉ có quần xà lỏn nên lại càng lạnh hơn. Mỗi ngày chúng cấp cho tù binh
một vắt cơm, một ca nước nhưng cũng có khi chúng “quên” để người tù chịu
45
đói, khát đến ngất xỉu, khi chúng phát hiện thì họ đã chết.
- Giam nhiều người ở cùng một phòng
Một trong những đòn đánh cân não để đày ải tù người tù là giam chật.
Thủ đoạn này mới nghe tưởng rằng không có gì, nhưng đó là ý đồ thâm độc
của kẻ thù, một loại cực hình đối với người tù. Tại nhà tù Phú Tài, với diện
tích khoảng 120 m2, mỗi phòng chúng giam 70-80 người, có khi lên đến 100-
150 người. Phòng giam thiếu ánh sáng, không khí ngột ngạt, nồng nặc mùi
của thùng phân chưa đổ, mùi máu mủ của những vết thương lâu ngày, người
tù dễ bị ngộp thở, sinh bệnh.
- Tách biệt từng người, từng phòng, từng trại
Ngăn cách không cho tù nhân gặp gỡ nhau, không cho đi từ phòng này
qua phòng khác, trại này qua trại khác, nhằm thực hiện chia để trị, gây mâu
thuẫn, chia rẽ trong nội bộ tù chính trị.
- Xét phòng, đổi phòng liên tục
Đối với những người tù địch biết không thể nào dùng chính sách chiêu
hồi, dụ dỗ được nữa, nên nơm nớp lo sợ phong trào đấu tranh sẽ bộc phát một
khi các tù binh liên kết với nhau. Do vậy, chúng tăng cường kìm kẹp, khủng
bố, phân loại tù nhân. Việc thường xuyên xét phòng, đổi phòng, xáo trộn chỗ ở
của tù nhân là âm mưu của địch nhắm vào các mục đích sau: Tù binh bị động
trong mọi sinh hoạt, không có thời gian tổ chức liên kết thành đoàn thể đấu
tranh. Hạn chế công tác địch vận tranh thủ lôi kéo trật tự, binh lính nhà giam.
- Cấm cố, biệt giam
Để đàn áp và bắt người tù phục tùng kỷ luật trại giam, địch luôn tăng
cường biện pháp kỷ luật bằng biệt giam, cấm cố, bóp xiết mọi quyền tự do và
quyền sống tối thiểu trong tù. Bộ Chỉ huy Trại giam tù binh Phú Quốc cho
lập các biệt giam ngoài phân khu, đặt ở khu đất trống giữa hai liên phân khu
A+B và C+D. Có bốn biệt giam ngoài phân khu là biệt giam khu 2, biệt giam
khu 3, biệt giam khu 5 và biệt giam khu 6 gọi tắt là biệt giam 2, biệt giam 3,
46
biệt giam 5 và biệt giam 6.
Mỗi biệt giam dài 9 mét, ngang 3 mét thường xuyên nhốt từ 120
đến 180 người; đứng còn chật huống chi nằm hoặc ngồi. Đại, tiểu
tiện một chỗ. Nước mưa tràn vào (vì nóc lợp không kín) nên phân
tràn ra, mùi hôi thối nồng nặc. Có một số người nổ con mắt, số lớn
bị mù sau thời gian dài ở biệt giam [169, tr. 210-211].
Tại biệt giam, chúng lấy bùng nhùng quây nhiều lớp, trên lợp nhà dù,
người tù phải nằm dưới đất, không có chiếu, mùng, mền. Trong Trại giam tù
binh Phú Quốc có bốn khu biệt giam thì biệt giam 2 là biệt giam ác liệt nhất.
Biệt giam 2 có diện tích 27m2 , nhưng khi cao điểm chúng giam tới 180
người. Ở trong biệt giam, tù binh chia ra, phân nửa nằm, phân nửa ngồi. Khi
quân cảnh đổi gác tù binh cũng đổi phiên, người nằm ngồi dậy, người ngồi
nằm xuống. Lúc ngủ, tù binh phải nằm nghiêng, co chân gác lên vai người
trước. Lúc đông quá, không đủ chỗ nằm, tù binh phải phân chia một số người
đứng. Khi đến phiên, một số người ăn ngủ đều phải đứng...
Mỗi ngày giám thị cho tù binh ăn hai bữa cơm, vào lúc 10 giờ và 16 giờ.
Mỗi bữa mỗi người được một nắm cơm vắt bằng cái bóng đèn tròn, ăn với
một ít muối hột. Người đem cơm ra bới vắt và trao cho từng người trước mặt
bọn giám thị, chứ chúng không cho vắt sẵn trong phân khu, sợ tù nhân vắt
thật chặt, cơm nhiều hoặc giấu thức ăn trong cơm hay cho nhiều muối. Tù
binh trong biệt giam cầm nắm cơm bằng bàn tay dơ dáy, hôi hám chứ không
có dụng cụ gì cả.
Mỗi người một ngày chỉ được một ca nước uống, vào hai bữa ăn, sáng
nửa ca, chiều nửa ca. Tù binh phân cặp với nhau uống nước, sáng người này
uống trước, chiều người kia uống trước cho “công bằng”. Ở trong biệt giam,
những lúc nóng nực, mọi người đều cởi trần truồng. Tù binh lấy quần áo nối
lại thành sợi dây dài có tua lòng thòng cột ngay trên đầu rồi phân công hai
người đứng đưa như đưa võng cho có gió, đỡ ngột ngạt.
47
Biệt giam là nơi địch giam giữ những người chúng cho là lãnh đạo đấu
tranh, những người "cứng đầu", kiên quyết chống lại chúng, những người
nhận trách nhiệm diệt bọn mật báo, trật tự hoặc tổ chức vượt trại. Tất cả các
đồng chí này, trước khi bị đưa đến biệt giam, phải trải qua những trận đòn hết
sức khốc liệt ở Ban Điều hành, Ban An ninh. Có những người, khi đến biệt
giam đi không nổi.
Nhận xét về khu biệt giam, tờ Lao tù, số 3, ngày 14-3-1971, viết:
Ở Phú Quốc có bốn biệt giam: 2, 4, 5, 6. Biệt giam cách trại khá xa,
dây kẽm gai giăng tứ phía, ngăn cách mọi sự liên lạc với bên
ngoài... Mỗi biệt giam là một nhà hành xác khổng lồ, vì những tù
nhân nằm ở đây chỉ còn da bọc xương. Biệt giam không hơn gì
chuồng cọp, ở đây mỗi ngày chỉ ăn một vắt cơm và uống một lon
sữa bò nước nên phải uống thêm nước tiểu cho đỡ khát [192].
2.1.3. Một số hình thức tra tấn của chính quyền Sài Gòn đối với tù
binh
- Nhốt vào chuồng cọp
Thường thường, khi phạt vào chuồng cọp, giám thị bắt phải cởi áo, cởi
quần dài, chỉ cho mặc quần cụt để phơi nắng, phơi sương hoặc cho dầm mưa
suốt ngày đêm, mặc cho muỗi mòng tự do hoành hành. Tù nhân chỉ được ăn
một phần cơm rất ít với muối hoặc ăn nhạt chứ không có thức ăn, mỗi ngày
chỉ một hoặc hai ba ca nước uống. Muốn đi tiểu, đi tiêu phải lấy tay moi cát
tại chỗ, đi xong lấp lại. Những đêm lạnh, thỉnh thoảng địch cho dội lên mỗi
chuồng cọp một xô nước lạnh gọi là để giải khát cho cọp hoặc để rửa chuồng.
Những ngày nóng nực, chúng cho dội nước muối lên người, gọi là ướp cho
mau lên cân. Có khi chúng đốt lửa gần sát chuồng cọp để “gợi cho cọp nhớ
những trận cháy rừng ở Phú Quốc”. Ngồi chuồng cọp mấy ngày là toàn thân
tù nhân bị lột da. Nếu ngồi dài ngày, da thịt bị lột, lên da non rồi da non lại bị
cháy lại lột tiếp, nhiều lần như thế. Lâu ngày tù nhân chỉ còn da bọc xương. Ở
48
chuồng cọp nhiều ngày, tóc dài ra, sau đó giám thị còn đổ dàu hắc ín lên đầu
tù nhân và châm lửa đốt. Lửa cháy trên đầu, chảy xuống làm phỏng cả mặt, cổ
của người bị hành hạ.
Theo nhận xét của Robin Moore: nhân viên cai tù đã trổ hết tài độc ác
nhất đối với tù binh ngoài sức tưởng tượng của sĩ quan Mỹ được huấn luyện
từ trường Fort-Brass nước Mỹ, người Mỹ còn thua xa các sĩ quan quân đội
Sài Gòn tra tấn tù binh.
- Lộn vỉ sắt: Địch dùng những tấm sắt làm đường băng sân bay rồi cho
lật ngửa tấm vỉ sắt loại có lỗ tròn và đầy mấu để mắc vào nhau. Khi tra tấn tù
binh, chúng cho lật ngửa vỉ sắt lên để các mấu của vỉ sắt chĩa ra ngoài, chúng
gọi đây là “đường băng sân bay”. Tù binh bị phạt lộn vỉ sắt phải cởi áo, cởi
quần ngoài ra và cắm đầu xuống vỉ sắt lộn ra sau vài chục lần. Người tù ở
trần, lưng trần quật xuống những mấu của chiếc vỉ làm rướm máu, chỉ lộn vài
lần là lưng tóe máu, đầu bị bứt tóc, tróc da, đau đớn quằn quại.
- Đánh bằng chày vồ: Chày vồ giống như chày giã gạo, được làm bằng
gỗ, có cán vừa tay cầm để đánh tù binh. Khi tra tấn tù binh, giám thị và quân
cảnh dùng chày vồ đánh vào các khớp xương như mắt cá, cùi chỏ, đầu gối, bả
vai của nạn nhân.
- Đánh bằng gậy và dùi cui: Giám thị ở trại giam tù binh sử dụng rất
nhiều loại gậy để tra tấn người tù như: “gậy bỏ cháo”, nghĩa là hễ đánh người
nào đó làm cho người này không những không ăn nổi cơm mà cả cháo cũng
bỏ luôn; “gậy sầu đời”, tức người bị đánh mang bệnh tật, tàn lụi và rầu rĩ suốt
cả cuộc đời; “gậy đầu sanh đầu tử”, là nếu bị đánh bằng đầu sanh thì vẫn còn
hy vọng sống, còn nếu bị đánh bằng đầu tử thì có thể bị đánh chết luôn hoặc
phải có người cõng vào trại chứ không thể đi nổi...
- Đánh bằng roi cá đuối: Ở Phú Quốc, có chợ An Thới bán rất nhiều cá
đuối do những người đi biển đánh bắt được. Giám thị, quân cảnh thường ra
chợ An Thới lựa mua những con cá đuối dài nhiều gai, về lấy đuôi phơi nắng
49
cho khô để đánh tù binh. Khi đánh, chúng bắt tù binh cởi áo ra để gai cá đuối
bấu vào da thịt. Có khi chúng bắt tù nhân cởi áo giơ hai tay lên trời để chúng
dùng roi đuôi cá đuối quất thẳng cánh cho chiếc roi quấn lấy thân người tù rồi
giật ra làm da thịt bị dứt theo, máu chảy ròng ròng. Có khi chúng còn lấy
muối ớt xát vào những chỗ bị đứt thịt làm cho tù binh càng nóng rát và đau
đớn. Đầu năm 1970, phái đoàn Hồng thập tự quốc tế bắt gặp một chiếc roi cá
đuối có dính máu khô, phái đoàn gọi cố vấn Mỹ và sĩ quan chính quyền Sài
Gòn đến phê phán đó là một hành động dã man.
- Gõ thùng: Bọn giám thị dùng những chiếc thùng phi bằng tôn đã qua
sử dụng để tra tấn tù binh. Chúng có hai kiểu tra tấn bằng cách gõ thùng.
Cách thứ nhất, bắt tù binh ngồi chồm hổm, lấy chiếc thùng phuy úp lên rồi lấy
cây gõ thật mạnh phía bên ngoài thùng, kiểu này chúng gọi là “gõ không khí”.
Người ngồi bên trong phải nhanh chóng bịt tai lại nếu không sẽ bị điếc vì
tiếng gõ vào thùng và sức ép của không khí, khi bị sức ép của không khí,
người tù nhanh chóng bị trào máu mũi, tai ù đặc, khi ra khỏi thùng thường bị
điếc và loạn óc, đau đầu kinh niên. Cách thứ hai, là bắt tù nhân cởi áo quần
ngoài rồi ngồi vào trong một thùng phuy đổ đầy nước, chúng lấy cây đánh
vào hông thùng tạo sức ép mạnh. Người tù bị sức ép của nước gây chấn
thương kín, đau đớn đến ngộp thở và máu miệng, máu mũi trào ra. Sau khi bị
tra tấ... thủ tục bắt giữ giải quyết tình trạng can phạm
cộng sản, 16 trang. Nguồn kho lưu trữ Bảo tàng Phụ nữ Nam bộ, số
ký hiệu: Tđca 5/ 01.
77. Nguyêñ Đức Cường và các cộng sự (2014), Cuốn Cựu tù chính tri-̣Tù
binh Viêṭ Nam những nhân vâṭ và sư ̣kiêṇ. Nhà xuất bản Văn hoá -
Thông tin, Hà Nội.
78. Trần Chín, (2013), "Công tác xây dựng đảng và lãnh đạo đấu tranh trong
các nhà tù của địch thời chống mỹ cứu nước (1954-1975) tại Gia
Lai", Hội thảo khoa học Công tác xây dựng đảng và lãnh đạo đấu
tranh trong các nhà tù, trại giam của địch ở miền Nam thời kỳ
164
chống Mỹ, cứu nước 1954-1975, tại Đà Nẵng, [Tài liệu chưa xuất
bản].
79. Daniel Ellsberg (2006), Những bí mật về chiến tranh Việt Nam (Hồi ức
về Việt Nam và hồ sơ Lầu Năm Góc), Nhà xuất bản Công an nhân
dân.
80. Tô Diệu (1995), "Trại giam tù binh cộng sản Việt Nam Phú Quốc, nơi
tập trung tội ác điển hình của kẻ thù, một chiến trường đặc biệt các
liệt của cuộc chiến đấu làm rạng rỡ phẩm chất của các chiến sĩ cách
mạng Việt Nam", Kỷ yếu Hội thảo Trại giam tù binh Phú Quốc, Sở
Văn hóa-Thông tin-Thể thao tỉnh Kiên Giang.
81. Thúy Diệu (1971), “Những phụ nữ mắc bệnh nan y”, Nội san Lao Tù,
(3).
82. Đại hội đồng Liên hợp quốc (1949), Công ước Gevena về việc đối xử tù
binh năm 1949,
viec-doi-xu-voi-tu-binh---dai-hoi-d%C3%B4ng-lien-hop-quoc-nam-
1949.html.
83. Đánh giá tình hình sức khỏe 1214 cán bộ và đồng bào yêu nước trong
các nhà Lao Mỹ-ngụy được trao trả tại lộc Ninh, Tài liệu lưu trữ tại
Cục lưu trữ Văn phòng Trung ương Đảng, Bản sao lưu tại Viện
Lịch sử Đảng, Ký hiệu: TW/ 41.
84. Đinh Duy Điệp (2013) Đảng ủy các phân khu tổ chức và lãnh đạo mọi
hoạt động của tù binh thông qua các đại diện và trưởng phòng. Hội
thảo khoa học Công tác xây dựng đảng và lãnh đạo đấu tranh trong
các nhà tù, trại giam của địch ở miền Nam thời kỳ chống Mỹ, cứu
nước 1954-1975, tại Thành phố Hồ Chí Minh, [Tài liệu chưa xuất
bản].
85. Mã Thiện Đồng (2006), Người bị CIA cưa chân sáu lần, Nhà xuất bản
Tổng hợp Thành phố Hồ Chí Minh.
165
86. Ed.M.Kenned và James Abourezk (1970), Phúc trình của nghị sĩ Hoa Kỳ
về chế độ lao tù Nam Việt Nam, 125 trang. Nguồn kho lưu trữ Bảo
tàng Phụ nữ Nam bộ, số ký hiệu: Tđca 9/14.
87. Gabrriel Kolko (2003), Giải phẫu một cuộc chiến tranh, Nhà xuất bản
Quân đội nhân dân, Hà Nội.
88. George C.Herring (1998), Cuộc chiến tranh dài ngày nhất của Mỹ, Nhà
xuất bản Chính trị quốc gia, Hà Nội .
89. Gi.A. Amtơ (1985), Lời phán quyết về Việt Nam, Nhà xuất bản Quân đội
nhân dân.
90. Giăng Pierơ Đêbri, Angđrê Mangrax (1971), Thoát khỏi ngục tù Sài Gòn
chúng tôi vạch tội, Văn nghệ giải phóng.
91. Lê Hồng Hải (2014), Những cuộc vượt ngục lịch sử ở các nhà tù Việt
Nam trong kháng chiến chống xâm lược, Nhà xuất bản Lao động Xã
hội.
92. Lạc Thái Hiền (1971), Chế độ cải huấn tại trung tâm cải huấn Chí Hòa,
Luận văn Đốc sự hành chánh, Học viện Hành chính Sài Gòn.
93. Trần Tiến Hoạt (2001), "Chuồng cọp kẽm gam trại giam tù binh cộng sản
ở Phú Quốc", Tạp chí Lịch sử Đảng, (12), tr 51-53.
94. Cao Sinh Học (2013), "Công tác bảo vệ nội bộ đảng trong trại giam tù
binh", Hội thảo khoa học Công tác xây dựng đảng và lãnh đạo đấu
tranh trong các nhà tù, trại giam của địch ở miền Nam thời kỳ
chống Mỹ, cứu nước 1954-1975, tại Thành phố Hồ Chí Minh, [Tài
liệu chưa xuất bản].
95. Học tập tố cộng tại các Lao xá. Tài liệu lưu tại Trung tâm Lưu trữ Quốc
gia II, Bản sao lưu tại Viện Lịch sử Đảng, Ký hiệu: LT2/212.
96. Học viện Chính trị Quốc gia Hồ Chí Minh, Viện Lịch sử Đảng (2015),
Lịch sử Xứ ủy Nam Bộ và Trung ương Cục miền Nam (1954-1975),
Nhà xuất bản Chính trị quốc gia, Hà Nội.
166
97. Holmes Bown và Don Luce (1974), Những con tin chiến tranh-các tù
chính trị ở Sài Gòn.
98. Hồ Chí Minh, Toàn tập, tập 12, Nhà xuất bản Chính trị quốc gia, 2011,
99. Hồ Chí Minh, Toàn tập, tập 6, Nhà xuất bản Chính trị quốc gia, 2011
100. Hội cựu tù chính trị Bình Thuận (2005), Người chiến thắng, (33).
101. Hội cựu tù chính trị Bình Thuận (2013), Người chiến thắng, (43).
102. Hội Cựu tù chính trị cách mạng tỉnh Bình Định (2000), Sống là chiến
đấu, tập 1, Bình Định.
103. Hội Cựu tù chính trị cách mạng tỉnh Bình Định (2003), Sống là chiến
đấu, tập 2, Bình Định.
104. Hội Cựu tù chính trị cách mạng tỉnh Bình Định (2010), Sống là chiến
đấu, tập 3, Bình Định.
105. Hội Cựu tù chính trị cách mạng tỉnh Bình Định (2013), Sống là chiến
đấu, tập 4, Bình Định.
106. Hội liên hiệp Phụ Nữ Việt Nam (1999), Phụ nữ Nam Trung Bộ trong sự
nghiệp chống Mỹ cứu nước, Đà Nẵng.
107. Hội Tù chính trị yêu nước tỉnh Khánh Hòa (2008), Lửa trong ngục tối,
tập Hồi ký, Khánh Hòa.
108. Hội Tù yêu nước tỉnh Quảng Nam (2002) Kiên trung bất khuất, tập 1,
Quảng Nam.
109. Hội Tù yêu nước tỉnh Quảng Nam (2006), Kiên trung bất khuất, tập 4,
Quảng Nam.
110. Hội Tù yêu nước tỉnh Quảng Nam (2008), Kiên trung bất khuất, tập 5,
Quảng Nam.
111. Hội Tù yêu nước tỉnh Quảng Nam (2010), Kiên trung bất khuất, tập 7,
Quảng Nam.
112. Hội Tù yêu nước tỉnh Quảng Nam (2012), Kiên trung bất khuất, tập 8,
Quảng Nam.
167
113. Hội Tù yêu nước Thành phố Đà Nẵng (2002) Những ngày tù ngục, Nhà
xuất bản Đà Nẵng.
114. Hội Tù yêu nước Thành phố Đà Nẵng (2007), Những ngày tù ngục, tập
1, Nhà xuất bản Đà Nẵng.
115. Hội Tù yêu nước Thành phố Đà Nẵng (2009), Những ngày tù ngục, tập
2, Nhà xuất bản Đà Nẵng.
116. Hội Tù yêu nước Thành phố Đà Nẵng (2011), Những ngày tù ngục, tập
3, Nhà xuất bản Đà Nẵng.
117. Hội Tù yêu nước Thành phố Đà Nẵng (2011), Những ngày tù ngục, tập
4, Nhà xuất bản Đà Nẵng.
118. Hội Tù yêu nước Thừa Thiên Huế (2003), Chí khí trong lao tù, tập I,
Nhà xuất bản Thuận Hóa Huế.
119. Hội Tù yêu nước Thừa Thiên Huế (2003), Chí khí trong lao tù, tập II,
Nhà xuất bản Thuận Hóa Huế.
120. Lương Quang Hồng (2013), "Công tác xây dựng Đảng và lãnh đạo đấu
tranh trong các trại giam tù binh của địch ở miền Nam thời kỳ
chống Mỹ, cứu nước (1954-1975)". Hội thảo khoa học Công tác xây
dựng đảng và lãnh đạo đấu tranh trong các nhà tù, trại giam của
địch ở miền Nam thời kỳ chống Mỹ, cứu nước 1954-1975, tại Thành
phố Hồ Chí Minh, [Tài liệu chưa xuất bản].
121. Jean Pierre Debris, Andre Menras, Thoát khỏi ngục tù Sài Gòn, chúng tôi
tố cáo, (Dịch: Nguyễn Vĩnh, Thu Hà), Nhà xuất bản.Trẻ, 2004.
122. Jeffrey Kimball (2007), Hồ sơ chiến tranh Việt Nam tiết lộ lịch sử bí mật
của chiến lược thời Nixon, Nhà xuất bản Công an nhân dân;
123. Trần Văn Kiêm (2005) Trại giam tù binh Phú Quốc-Những trang sử đẫm
máu (1967-1973), Nhà xuất bản. Tổng hợp Thành phố Hồ Chí
Minh.
124. Kỷ yếu Hội thảo (1995), Di tích lịch sử nhà tù Phú Quốc, Kiên Giang
168
125. Không rõ tên (1968), Tội ác khủng bố, tra tấn, tù đày của Đế Quốc Mỹ
và tay sai đối với nhân dân miền nam Việt Nam: Cuốn sách thứ 5 tố
cáo tội ác. Nhà xuất bản Sự Thật, 1968.
126. Lê Thị Việt Lan (2013), "Một số vấn đề về công tác xây dựng Đảng và
lãnh đạo đấu tranh trong trại giam nữ tù binh Phú Tài-Quy Nhơn".
Hội thảo khoa học Công tác xây dựng đảng và lãnh đạo đấu tranh
trong các nhà tù, trại giam của địch ở miền Nam thời kỳ chống Mỹ,
cứu nước 1954-1975, tại Đà Nẵng, [Tài liệu chưa xuất bản].
127. Liên hiệp trí thức Việt Nam tại Pháp (1970), Chế độ lao tù Mỹ-Ngụy,
Paris.
128. Nguyễn Hải Liên (2012), “Văn hóa văn nghệ trong nhà tù Mỹ-Ngụy”
Hội thảo khoa học Công tác xây dựng đảng và lãnh đạo đấu tranh
trong các nhà tù, trại giam của địch ở miền Nam thời kỳ chống Mỹ,
cứu nước 1954-1975, tại Hà Nội, [Tài liệu chưa xuất bản].
129. Nguyễn Hải Liên (2012), Hình tượng cao quý người phụ nữ trong nhà tù
Mỹ-Ngụy. Hội thảo khoa học Công tác xây dựng đảng và lãnh đạo
đấu tranh trong các nhà tù, trại giam của địch ở miền Nam thời kỳ
chống Mỹ, cứu nước 1954-1975, tại Đà Nẵng, [Tài liệu chưa xuất
bản].
130. Liên hiệp trí thức Việt Nam tại Pháp (1970), Chế độ lao tù Mỹ-Ngụy,
Paris, trang 11-15.
131. Cao Thị Ngọc Liễu (2013), "Nhớ mãi trại giam Pleiku và trại giam Phú
Tài, Hội thảo khoa học Công tác xây dựng đảng và lãnh đạo đấu
tranh trong các nhà tù, trại giam của địch ở miền Nam thời kỳ
chống Mỹ, cứu nước 1954-1975, tại Đà Nẵng, [Tài liệu chưa xuất
bản].
132. Linđơn Giônxơn (1972), Hồi ký của Linđơn Giônxơn, Nhà xuất bản Việt
Nam thông tấn xã, Hà Nội.
169
133. Nguyễn Thị Hiển Linh, Phong trào đấu tranh của nữ tù chính trị tại các nhà
tù của Mỹ-Ngụy ở miền Nam (1954-1975), Luận án Tiến sĩ lịch sử,
TpHCM 2004.
134. Lê Thị Phương Loan, "Vai trò lãnh đạo của Đảng là yếu tố quyết định
trong đấu tranh thắng lợi, dù gian khổ, ác liệt nhưng nhất định sẽ
thành công, đặc biệt là trong các nhà tù Mỹ-Ngụy". Hội thảo khoa
học Công tác xây dựng đảng và lãnh đạo đấu tranh trong các nhà
tù, trại giam của địch ở miền Nam thời kỳ chống Mỹ, cứu nước
1954-1975, tại Đà Nẵng, [Tài liệu chưa xuất bản].
135. Phạm Bá Lữ (2012), "Công tác Xây dựng Đảng và lãnh đạo của Đảng ở
các trại giam tù binh". Hội thảo khoa học Công tác xây dựng đảng
và lãnh đạo đấu tranh trong các nhà tù, trại giam của địch ở miền
Nam thời kỳ chống Mỹ, cứu nước 1954-1975, tại Hà Nội, [Tài liệu
chưa xuất bản].
136. Đỗ Nguyên Lượng (2013), "Quá trình tôi được đến với tổ chức Đảng bí
mật trong trại giam của kẻ địch như thế nào". Hội thảo khoa học
Công tác xây dựng đảng và lãnh đạo đấu tranh trong các nhà tù,
trại giam của địch ở miền Nam thời kỳ chống Mỹ, cứu nước 1954-
1975, tại Thành phố Hồ Chí Minh, [Tài liệu chưa xuất bản].
137. Maicơn Máclia (1990), Việt Nam-Cuộc chiến tranh mười nghìn ngày,
Nhà xuất bản Sự thật, Hà Nội.
138. Nguyễn Xuân Minh (1998), "Biến trại giam của đế quốc thành nơi rèn
luyện tinh thần, ý chí cách mạng của các chiến sĩ cộng sản". Tạp chí
Lịch sử Đảng, (6), tr 46-48.
139. N.Sheehan (1990), Sự lừa dối hào nhoáng tập 1, Nhà xuất bản Thành
phố Hồ Chí Minh.
140. Neil Sheehan (2003), Sự lừa dối hào nhoáng, tập 2, NHÀ XUấT BảN
Công an nhân dân, Hà Nội.
170
141. Lê Trọng Ngọ (2013), "Vị trí, vai trò của việc dạy và học trong nhà tù đế
quốc". Hội thảo khoa học Công tác xây dựng đảng và lãnh đạo đấu
tranh trong các nhà tù, trại giam của địch ở miền Nam thời kỳ
chống Mỹ, cứu nước 1954-1975, tại Thành phố Hồ Chí Minh, [Tài
liệu chưa xuất bản].
142. Ngô Tài Nguyên (2013), "Công tác xây dựng đảng tại trại giam tù binh
Non Nước", Hội thảo khoa học Công tác xây dựng đảng và lãnh
đạo đấu tranh trong các nhà tù, trại giam của địch ở miền Nam thời
kỳ chống Mỹ, cứu nước 1954-1975, tại Đà Nẵng, [Tài liệu chưa xuất
bản].
143. Lê Tấn Nhật (31-082013), Để tang Bác Hồ trong nhà lao Non Nước,
Báo Quân đội nhân dân.
144. Nhiều tác giả (1969), Hồi ký cách mạng trường học sau song sắt, Nhà
xuất bản Thanh niên.
145. Nhiều tác giả (1993), Tội ác tột cùng, Phụ nữ , Hà Nội.
146. Nhiều tác giả (1995), Tọa đàm tù chính trị thời Mỹ, Bảo tàng Phụ nữ
Nam Bộ.
147. Philíp B.Davítsơn (1995), Những bí mật của cuộc chiến tranh Việt Nam,
Nhà xuất bản Chính trị quốc gia, Hà Nội
148. Trần Nguyên Phò (2013), "Tổ chức Đảng trong trại giam tù binh Phú
Quốc", Hội thảo khoa học Công tác xây dựng đảng và lãnh đạo đấu
tranh trong các nhà tù, trại giam của địch ở miền Nam thời kỳ
chống Mỹ, cứu nước 1954-1975, tại Thành phố Hồ Chí Minh, [Tài
liệu chưa xuất bản].
149. Phủ Thủ tướng Việt Nam cộng hòa (1972), Quy chế các trung tâm cải
huấn, Nha cải huấn, Sài Gòn. Nguồn kho lưu trữ Bảo tàng Phụ nữ
Nam Bộ, số ký hiệu: Tđca 8-05.
171
150. Phủ Thủ tướng Việt Nam Cộng Hoà (1972), Tài liệu về việc phóng thích
tù binh theo hiệp định Paris, ngày 3-3-1972, trang 4-7, Trung tâm
lưu trữ Quốc gia 2-Fonds Đệ nhị Cộng Hòa-SH 117/ SHS1133.
151. Phủ Thủ tướng Việt Nam Cộng Hoà, Cẩm nang kế hoạch Phụng Hoàng,
21 trang, Nguồn kho lưu trữ Bảo tàng Phụ nữ Nam bộ, số ký hiệu:
Tđca 5/22.
152. Phủ Thủ tướng Việt Nam Cộng hòa, Hồ sơ số 1095, phông Phủ Thủ
tướng Việt Nam cộng hòa, Tài liệu Lưu trữ Quốc gia II.
153. Phủ Tổng thống Việt Nam cộng hòa, Biên bản phiên họp về việc thi hành
chỉ thị Tổng thống về vấn đề tù binh. Tài liệu lưu tại Trung tâm Lưu
trữ Quốc gia II, Bản sao lưu tại Viện Lịch sử Đảng, Ký hiệu:
LT2/78.
154. Phủ Tổng thống Việt Nam cộng hòa, Công văn số 7186 BNG/MC, Bộ
Ngoại giao ngày 4-11-1970, về việc Ủy hội Hồng Thập tự Quốc tế
lưu ý Chánh phủ Việt Nam Cộng hòa về tình trạng “nguy hại” tại
Trại giam tù binh Phú Quốc. Hồ sơ số 695, phông Phủ Tổng thống
Đệ nhất Cộng hòa.
155. Trần Thanh Phương (1995), Đây các nhà tù Mỹ-Ngụy, Nhà xuất bản
Thành phố Hồ Chí Minh .
156. Trần Minh Quốc (2013), "Công tác xây dựng Đảng trong nhà lao và một
số kinh nghiệm", Hội thảo khoa học Công tác xây dựng đảng và
lãnh đạo đấu tranh trong các nhà tù, trại giam của địch ở miền
Nam thời kỳ chống Mỹ, cứu nước 1954-1975, tại Đà Nẵng, [Tài liệu
chưa xuất bản].
157. Richard Nixon (2004), Hồi ký Richard Nixon, Nhà xuất bản Công an
nhân dân, Hà Nội, 2004.
158. Robert S.McNamara (1995), Nhìn lại quá khứ-Tấn thảm kịch và những
bài học về Việt Nam, Nhà xuất bản Chính trị quốc gia, Hà Nội.
172
159. Robin Moore (1972), Chế độ Sài Gòn-một chế độ trại giam, Nhà xuất
bản Đông Nam Á ở Pari ấn hành.
160. Sedgwick Tourson (1996) Đội quân bí mật cuộc chiến bí mật, Nhà xuất
bản Công an nhân dân.
161. Đinh Trường Sơn (2012), "Tổ chức và hoạt động của các chi bộ, đảng bộ
trong nhà tù Mỹ-Ngụy tại huyện đảo Phú Quốc, tỉnh Kiên Giang
(giai đoạn 1965-1973)". Hội thảo khoa học Công tác xây dựng đảng
và lãnh đạo đấu tranh trong các nhà tù, trại giam của địch ở miền
Nam thời kỳ chống Mỹ, cứu nước 1954-1975, tại Hà Nội, [Tài liệu
chưa xuất bản].
162. Trần Minh Sơn (1996), "Đường dây Côn Đảo-Trung ương Cục, một
thành công của công tác an ninh trong nhà tù thời Mỹ-nguỵ". Tạp
chí Lịch sử Đảng, (2), tr 52-54.
163. Hồ Thanh Tâm (2012), "Trại giam tù binh Phú Tài". Hội thảo khoa học
Công tác xây dựng đảng và lãnh đạo đấu tranh trong các nhà tù,
trại giam của địch ở miền Nam thời kỳ chống Mỹ, cứu nước 1954-
1975, tại Hà Nội, [Tài liệu chưa xuất bản].
164. Tia sáng (1970), “Bà Ngô Bá Thành hướng dẫn phái đoàn phụ nữ đòi
quyền sống gặp ông Agnen trao tâm thư", ngày 29-8-1970.
165. Tia Sáng (1971), "Hai mươi ba đoàn thể phụ nữ ra tuyên cáo đòi trả tự
do cho phụ nữ đồng bào còn bị giam", ngày 22-11-1971, tr.1-3.
166. Tia Sáng (1971), Phái đoàn liên tôn tới sứ quán Mỹ, Thuỵ sĩ trao quyết
nghị đòi ngừng bắn và thả tù chính trị", ngày 29-12-1971, tr. 1-8.
167. Lê Tiến (2013), "Trong nhà tù, tôi được đứng trong hàng ngũ của đảng",
Hội thảo khoa học Công tác xây dựng đảng và lãnh đạo đấu tranh
trong các nhà tù, trại giam của địch ở miền Nam thời kỳ chống Mỹ,
cứu nước 1954-1975, tại Thành phố Hồ Chí Minh, [Tài liệu chưa
xuất bản].
173
168. Nguyễn Nhã Tiên (2004), Lịch sử đấu tranh cách mạng ở nhà lao Hội An
(1947-1975), Quảng Nam.
169. Tiểu ban nghiên cứu lịch sử phong trào phụ nữ Trung ương (1973), Âm
mưu và thủ đoạn của địch đánh phá cơ sở cách mạng và những kinh
nghiệm đối phó của ta. Nguồn kho lưu trữ Bảo tàng Phụ nữ Nam
bộ, số ký hiệu: Vv 9980.
170. Tiểu ban nghiên cứu lịch sử phong trào phụ nữ Trung ương (1976), “Dự
thảo báo cáo: Vai trò vị trí của phụ nữ trong chiến tranh nhân dân
ở miền Nam”, ngày 28-6-1976, 18 trang. Kho lưu trữ Bảo tàng phụ
nữ Nam bộ, số ký hiệu: TLK22.
171. Tình hình tiếp nhân anh em bị địch bắt trở về, Danh sách cán bộ nhân
viên Dân chính Đảng; Tuyên bố của tập thể NVQS; danh sách cán
bộ quân sự bị địch bắt còn bị giam từ cán bộ D Trưởng trở lên, Tài
liệu lưu trữ tại Cục lưu trữ Văn phòng Trung ương Đảng. Bản sao
lưu tại Viện Lịch sử Đảng, Ký hiệu: TW/ 43.
172. Huỳnh Nhất Tịnh (2013), "Chống ly khai Đảng để bảo vệ khí tiết của
người chiến sĩ cách mạng trong tù là: không chào cờ ba que Ngụy,
không học tập tố cộng, không hô khẩu hiệu đảo đảo cộng sản", Hội
thảo khoa học Công tác xây dựng đảng và lãnh đạo đấu tranh trong
các nhà tù, trại giam của địch ở miền Nam thời kỳ chống Mỹ, cứu
nước 1954-1975, tại Thành phố Hồ Chí Minh, [Tài liệu chưa xuất
bản].
173. Tỉnh ủy Quảng Trị-Ban Tuyên giáo (2009), Lịch sử đấu tranh yêu nước
và cách mạng tại nhà lao Quảng Trị (1930-1972), Nhà xuất bản
Chính trị quốc gia, Hà Nội.
174. Tội ác khủng bố, tra tấn, tù đầy của đế quốc Mỹ và tai sai đối với nhân
dân miền Nam Việt Nam, Nhà xuất bản Sự thật, 1968.
174
175. Tổng nha cảnh sát quốc gia (1970), Công văn 4257/TCS/Q3/4/K ngày 8-
12-1970 gởi Ty cảnh sát quận 3 ”Hoạt động của Ủy ban vận động
cải thiện chế độ lao tù”, 2 trang, Nguồn kho lưu trữ Bảo tàng Phụ
nữ Nam bộ, số ký hiệu: Tđca 9/04.
176. Tổng nha cảnh sát quốc gia, Tài liệu giảng huấn khối cảnh sát đặc biệt
về thẩm vấn chính trị, 10 trang, Nguồn kho lưu trữ Bảo tàng Phụ nữ
Nam bộ, số ký hiệu: Tđca 8/14.
177. Tổng trưởng quốc phòng chính quyền Sài Gòn, Huấn thị số 1130 ấn định
các tiêu lệnh điều hành trại giam, ngày 17-3-1969, Lưu tại Trung
tâm Lưu trữ Quốc gia II, Bản sao lưu tại Viện Lịch sử Đảng, ký
hiệu LT2/356.
178. Nguyễn Thị Thanh Tùng (2002), Thơ tự sáng tác trong tù, 12 trang.
179. Hàn Song Thanh (1995), Những ngày tù ngục, Sở Văn hóa-Thông tin
Thành phố Hồ Chí Minh.
180. Phùng Đức Thắng (2001), "Phú Quốc-Những chặng đường đấu tranh
cách mạng 1930-1975)". Tạp chí Lịch sử Đảng, (2), tr 61-64.
181. Nguyến Tiến Thịnh (1969), Vấn đề cải huấn tại Việt Nam, Luận văn cao
học hành chánh khóa 3, Học viện Quốc gia Hành chánh Sài Gòn.
Thư viện Khoa học tổng hợp thành phố Hồ Chí Minh, số ký hiệu:
1398.
182. Nguyễn Đình Thống (1994) Đấu tranh chính trị của các chiến sĩ cách
mạng trong nhà tù Côn Đảo (1955-1975), Luận án Tiến sĩ lịch sử,
Thành phố Hồ Chí Minh.
183. Thái Công Thú (1971), Trại giam nữ tội phạm, Luận văn Đốc sự hành
chánh, Học viện Hành chánh Sài Gòn, Thư viện Khoa học Tổng hợp
Thành phố Hồ Chí Minh, số ký hiệu: 0616.
184. Nguyễn Văn Thuận (2013), "Công tác xây dựng đảng, đấu tranh trong
trại giam tù binh Pleiku-Gia Lai (1966-1972)", Hội thảo khoa học
175
Công tác xây dựng đảng và lãnh đạo đấu tranh trong các nhà tù,
trại giam của địch ở miền Nam thời kỳ chống Mỹ, cứu nước 1954-
1975, tại Đà Nẵng, [Tài liệu chưa xuất bản].
185. Hoàng Thanh Thụy (2013), "Yêu cầu khách quan có tổ chức Đảng trong
nhà tù", Hội thảo khoa học Công tác xây dựng đảng và lãnh đạo
đấu tranh trong các nhà tù, trại giam của địch ở miền Nam thời kỳ
chống Mỹ, cứu nước 1954-1975, tại Đà Nẵng, [Tài liệu chưa xuất
bản].
186. Nguyễn Xuân Trâm (1960), Từ nhà lao Quảng Trị đến Côn Đảo, Phụ
nữ, Hà Nội.
187. Ngô Đình Trí (2004), "Bản di chúc của Bác Hồ ở nhà lao Hội An trong
những năm 1969-1975". Tạp chí Lịch sử Đảng, (11), tr 58-60.
188. Nguyễn Minh Triết (1972) “Nhận xét về bệnh lý tại một nhà lao”, Luận
án Tiến sĩ y khoa, Đại Học Y khoa Huế.
189. Nguyễn Xuân Trình (2013), "Vai trò lãnh đạo của Đảng trong các nhà
lao thời kỳ chống Mỹ, cứu nước giai đoạn 1954-1975", Hội thảo
khoa học Công tác xây dựng đảng và lãnh đạo đấu tranh trong các
nhà tù, trại giam của địch ở miền Nam thời kỳ chống Mỹ, cứu nước
1954-1975, tại Đà Nẵng, [Tài liệu chưa xuất bản].
190. Ủy ban ân xá (1971), Tập san “Tù chính trị ở miền Nam Việt Nam”,
London, trang 78-97. Nguồn kho lưu trữ Bảo tàng Phụ nữ Nam bộ,
số ký hiệu: Tđca 11/25.
191. Ủy ban vận động cải thiện chế độ lao tù miền Nam (1973), Tập san “Tù
chính trị tại miền Nam VN sau ngày ký kết Hiệp định Paris, tập 2,
182 trang. Nguồn kho lưu trữ Bảo tàng Phụ nữ Nam bộ, số ký hiệu:
Tđca 9/18.
192. Ủy ban vận động cải thiện chế độ lao tù miền Nam (1973), "Thư gởi các
đoàn thể tồ chức và cá nhân trên thế giới quan tâm đến vấn đề tù
176
chính trị tại miền Nam Việt Nam của các trí thức, sình viên tù chính
trị đang bị giam cầm tại miền Nam Việt Nam", Tạp chí Lao tù, (3),
tr 31-44.
193. Ủy ban Phật giáo vận động phóng thích tù nhân. Lưu trữ Cục hồ sơ An
ninh Bộ Công an.
194. Văn Tiến Dũng (1996), Về cuộc kháng chiến chống Mỹ cứu nước, Nhà
xuất bản Chính trị quốc gia, Hà Nội.
195. Văn phòng Thủ tướng phủ Việt Nam cộng hòa (1964), Phiếu trình Biện
pháp chính trị áp dụng cho tù binh Việt Cộng, Lưu trữ tại Trung tâm
Lưu trữ Quốc gia II.
196. Viện lịch sử Đảng (1985), Những sự kiện lịch sử Đảng, tập 3 (Về kháng
chiến chống Mỹ cứu nước), Nhà xuất bản Thông tin lý luận, Hà Nội
197. Viện Nghiên cứu chủ nghĩa Mác-Lênin và Tư tưởng Hồ Chí Minh
(1995), Lịch sử Đảng Cộng sản Việt Nam, tập II (1954-1975), Nhà
xuất bản Chính trị quốc gia, Hà Nội.
198. Viện Sử học (1995), Sức mạnh chiến thắng của cuộc kháng chiến chống
Mỹ cứu nước, Nhà xuất bản Khoa học xã hội, Hà Nội.
199. Viện Sử học (2002), Lịch sử Việt Nam (1965-1975), Nhà xuất bản Khoa
học xã hội, Hà Nội
200. Võ Nguyên Giáp (2005), Về cuộc kháng chiến chống Mỹ cứu nước, Nhà
xuất bản Chính trị Quốc gia.
201. William.C.Westmoreland (1988), Tường trình của một quân nhân, Nhà
xuất bản trẻ, Thành phố Hồ Chí Minh.
B. TÀI LIỆU TIẾNG NƯỚC NGOÀI
202. Life Asia, date 13-10-1969, "Larry Burrows “VietNam-A Degree of
Disillusion”, page 47-48. (Đời sống châu Á, ngày 13-10-1969,
Larry Burrows "Việt Nam-Một mức độ thất vọng", trang 47-48).
177
203. Life Asia, date 24-11-1969, "thought Dad was in Viet Nan to kill
Vietcong" , page 54-56. (Đời sống châu Á, ngày 24-11-1969, "nghĩ
về việc cha tôi ở Việt Nam để giết Việt cộng, trang 54-56).
204. Life Asia, date 22-12-1969, "A long and bitter underclared war in a small
and far off land spilled our blood and splid the nation", page 20.
(Đời sống châu Á, ngày 22-12-1969, Một cuộc chiến tranh dài và
cay đắng tại một vùng đất nhỏ xa xôi làm đổ máu và chia rẽ quốc
gia, trang 20).
205. Life Asia, date 27-4-1970, "Letters to the editors about a letter to life anh
in prison", page 8. (Đời sống châu Á, ngày 27-4-1970, Thư gửi các
biên tập viên về một bức thư cho cuộc đời trong nhà tù, trang 8).
206. Times, date 26-10-1970, "Talking point in Paris", page 28. (Tạp chí Thời
đại, ngày 26-10-1970, Quan điểm đàm phán ở Paris, trang 28).
207. Times, date 20-7-1970, "Việt Nam-The cages of Con Son Island", page
16-17. (Tạp chí Thời đại, Ngày 20-7-1970, Việt Nam – Nhà tù Côn
Đảo, trang 16-17).
208. Times, date 22-1-1973, "South Việt Nam-The Pơsty& war", page 6-7.
(Tạp chí Thời đại, Ngày 22-1-1973, Miền Nam Việt Nam-Posty &
chiến tranh, trang 6-7).
209. Times, date 29-1-1973, "The final push for peace", page14-15. (Tạp chí
Thời đại, ngày 29-1-1973, Nỗ lực cuối cùng cho hoà bình, trang 14-
15).
210. Times, date 19-3-1973, "Viet Nam-The other prisơnners", page 7-8 (Tạp
chí Thời đại, ngày 19-3-1973, Việt Nam-Các tù nhân khác, trang 7-
8).
178
PHỤ LỤC
PHỤ LỤC 1
MỘT SỐ NỘI DUNG PHỎNG VẤN NHÂN CHỨNG
STT Họ và Tên Thời gian bị giam cầm Khái quát nội dung bài viết
1 Hoàng Thanh
Thụy
Bắt và giam ở nhà tù Non
Nước, sau đó ở Biên Hòa rồi
đến Phú Quốc, ở nhiều nhất
là nhà lao Phú Quốc
Yêu cầu khách quan có tổ
chức Đảng trong tù, công tác
xây dựng Đảng và hoạt động
tổ chức Đảng trong tù
2 Phạm Minh
Thành
ngày 17/01/1968 chiến đấu
bị thương, Mỹ bắt giam tù
05 năm 04 tháng tại Phú
Quốc. Trao trả ngày
12/03/1973 tại miền Đông
Nam Bộ
Vai trò người Đảng viên trong
các cuộc đấu tranh trong tù
3 Trần Chín Bị địch bắt tháng 05/1969)
tại Gia Lai và bị giam cầm,
đày ải tại nhà lao Pleiku cho
đến ngày giải phóng tỉnh
Gia Lai (17/03/1975)
Công tác xây dựng Đảng ở
trại giam tỉnh Giai Lai
4 Ngô Tài Nhiên - Trại giam Non Nước –từ
1968 (1969?) đến 5-1972
chuyển ra đảo Phú Quốc đến
tháng 3-1973.
Một số nội dung và công việc
cơ bản đối với công tác xây
dựng Đảng tại trại giam tù
binh Non Nước – Đà Nẵng.
5 Trần Minh
Quốc
- Trại giam Đà Nẵng từ 1-
1969 đến 7-1969
- Trại giam đảo Phú Quốc từ
7-1969 đến (1973)
Quá trình tham gia cấp ủy,
góp phần lãnh đạo đấu tranh
tại các trại giam của ông Trần
Minh Quốc.
6 Nguyễn Văn
Bốn
- Trại tù binh Pleiku từ 7-
1968 đến 12-1969.
- Côn Đảo từ 12-1969
Những năm tháng sống chíến
đấu trong trại giam Pleiku,
Côn Đảo.
7 Đinh Duy Điệp - Từ 11-1966 đến 4-1967 ở Âm mưu của địch và sự ra đời
179
trại giam Pleiku – Tổ trưởng
tổ Đảng
- Từ 5-1967 đến 9-1967 ở
trại giam Cần Thơ.
- Từ 10-1967 đến 2-1973 ở
trại giam Phú Quốc
của tổ chức Đảng, các tổ chức
quần chúng, lãnh đạo đấu
tranh của Đảng tại các phân
khu trại giam tù binh Phú
Quốc
8 Lê Huy Thơ - Trại giam Pleiku 10-1967
– 4-1968.
- Trại giam An Thới, Phú
Quốc từ 4-1968 – 1972 (?)
Những năm tháng tù đày
trong nhà lao Pleiku, An Thới
(Phú Quốc), cuộc đấu tranh,
kiên quyết, ý chí sắt đá của
người tù cách mạng.
9 Cao Thị Ngọc
Liễu
- Trại giam Pleiku 1966 – 4-
1968.
- Nhà tù Phú Tài (Quy
Nhơn) 4-1968 đến 1972.-
Nhà tù Cần Thơ 1972 đến 2-
1973
Tinh thần đấu tranh bất khuất
và sự giác ngộ, tinh thần cách
mạng và lòng trung thành với
Đảng của chị em phụ nữ trong
nhà lao Phú Tài (Quy Nhơn)
10 Hồ Thị Thanh
Tâm
(tên trong tù là
Tôn Thị An)
- 1968 nhà tù Pleiku đến 5-
1972.
- Trà Nốc, Cần Thơ từ 5-
1972 đến 18-2-1973.
Tinh thần cách mạng kiên
trung, ý chí sắt đá của đống
chí Hồ Thị Thanh Tâm trong
nhà tù Pleiku.
11 Nguyễn Thị
Thức
- Trại giam Pleiku từ 22-6-
1967
Quá trình đấu tranh chống
địch chiêu hồi, chống hạ nhục
phụ nữ bảo vệ, xây dựng tổ
chức của ta.
12 Nguyễn Mạnh
Thu
Tên trong tù:
Nguyễn Minh
- Nhà tù Phú Tài, Quy nhơn
sau đó chuyển đến Phú
QUốc từ 5-1969 đến 3-1973
Tác giả kể lại thời gian đấu
tranh trong nhà tù Phú Quốc
với khẩu hiệu: “Anh em tù
binh đảo Phú Quốc cực lực
phản đối và lên án bọn quân
cảnh gian ác đã sát hại tù binh
vô cớ”.
180
13 Nguyễn Hải
Liên
Trại giam Pleiku từ 1967-
1968
Phong trào học tập văn hóa
văn nghệ trong các trại giam
Sự thành lập tổ chức Đảng trại
giam tù binh Pleiku
14 Trần Hữu Viết - Trại giam D5 Phú Quốc từ
5-1969 đến 1973 (4 năm 1
tháng, 13 ngày)
Các hình thức tổ chức đấu
tranh của Đảng trong nhà tù:
đấu tranh hợp pháp, bất hợp
pháp, bạo động – tuyệt thực,
đào hầm trốn thoát
15 Trương Trọng
Bính
Trại giam Pleiku từ 5-1968
đến tháng 12-1968; Nha
Trang và bị đày đi Côn Đảo
cho đến ngày được trao trả
tại Lộc Ninh (1973?)
Kể về cuộc ám sát tên Võ
Trọng Thu và việc địch xử 12
người chiến sĩ cách mạng
16 Trần Nhật
Nghĩa
- Bị bắt tháng 1-1974, trải
qua 16 tháng lao tù trong các
nhà tù: thẩm vấn ở Bình
Thuận; Tổng nha Cảnh sát
Sài Gòn; nhà tù Bình Thuận,
Tân Hiệp, Côn Đảo. đến 1-
5-1975 được trao trả tự do.
Kinh nghiệm đấu tranh trong
nhà tù của tác giả.
17 Lương Văn
Nghị
- Nhà tù Đà Nẵng, Biên
Hòa, Phú Quốc từ 4-1968
đến cuối năm 1972
Tóm tắt sơ lược bản thân và
những năm tháng ở tù của
đồng chí Lương Văn Nghị
18 Lê Thị Việt Lan
Tên trong tù: Lê
Thị Việt
- 19-8-1969 bị địch bắt tại
Bình Trinh Đông, Tân Trụ,
Long An. Sau đó bị đày ở
nhà tù Quy Nhơn
Cuộc đấu tranh trong nhà tù
nữ và kinh nghiệm tổ chức
Đảng ở trại giam
19 Mai Hùng - Trại giam Biên Hòa từ 3-
1968, Quy Nhơn, Pleiku đến
1971
Quá trình đấu tranh, dạy và
học văn hóa trong nhà tù
20 Đinh Văn Bá - Từ 8-1967 đến 12-1967 bị Quá đấu tranh trong nhà tù
181
giam tại Pleiku.
- Từ 12-1967 bị đưa ra nhà
tù Phú Quốc đến 3-1973
Phú Quốc, tham gia lãnh đạo,
giáo dục thanh niên ở trại giữ
vững lòng tin và bảo vệ Đảng.
21 Nguyễn Xuân
Tam
Tên trong tù:
Nguyễn Đình
Tam
- Nhà tù Phú Tài – Bình
Định từ 8-1967 đến 10-
1967.
- Nhà tù Phú Quốc –10-1967
đến 3-1975
Âm mưu thủ đoạn tra tấn của
địch đối với tù binh; Công tác
xây dựng Đảng và lãnh đạo
đấu tranh với địch; kinh
nghiệm rút ra trong các thời
kỳ đấu tranh
182
PHỤ LỤC 2
Một số tài liệu Lưu tại Trung tâm lưu trữ Quốc gia II về vấn đề tù binh
1. Trích yếu Biện pháp áp dụng cho tù binh Việt Công (Bộ Quốc phòng
gửi Văn phòng Phủ Thủ tướng Việt Nam cộng hòa).
183
184
185
2. Phiếu trình Trung tưởng Thủ tướng Biện pháp chính trị áp dụng cho tù
binh Việt Cộng
186
187
3. Bộ quốc phòng gửi Bộ Tổng tham mưu quân lực VNCH về việc phân
loại và lập danh sách Tù phiến cộng
Nguồn: Trung tâm Lưu trữ Quốc gia 2
188
4. Danh sách nữ tù binh cộng sản nan y tàn phế được Ủy ban Y tế hỗn
hợp xác nhận bệnh trạng tại trại giam TBCSVN Qui Nhơn
Nguồn: Trung tâm Lưu trữ Quốc gia 2
189
5. Danh sách tù binh nan y tàn phế được ủy ban y tế hỗn hợp xác nhận tại
trại giam Biên Hòa
190
191
192
193
194
Nguồn Trung tâm Lưu trữ quốc gia 2
195
PHỤ LỤC 3
Một số tài liệu lưu trữ tại Trung tâm Cục hồ sơ An ninh Bộ công an
1. Lược đồ thuyết trình Ủy ban Phật giáo vận động phóng thích tù nhân
của TT Pháp-Lan
196
197
198
199
PHỤ LỤC 4
Một số hình ảnh về trại giam tù binh
Nguồn: Nghiên cứu sinh chụp tại Phú Quốc năm 2017
200
Sơ đồ Trại giam tù binh phú quốc
Nguồn: Nghiên cứu sinh chụp tại Phú Quốc năm 2017
201
PHỤ LỤC 5
Một số hình thức tra tấn tại Trại giam tù binh Phú Quốc
Nguồn: Nghiên cứu sinh chụp tại Phú Quốc năm 2017
Tù binh bị đục hết răng trên
202
Ảnh mô hình minh họa hình thức tra tấn ném người và chảo nước sôi
Ảnh mô hình minh họa hình thức tra tấn chiếu đèn cho mù mắt
203
Ảnh mô hình minh họa hình thức tra tấn bằng điện
Ảnh mô hình minh họa hình thức tra tấn, trói chân, trói tay và xả nước
vào miệng tù nhân cho sặc
204
Ảnh mô hình minh họa hình thức tra tấn treo ngược tù binh
205
Ảnh mô hình minh họa, Bắt người tù nắm sấp, lấy xích trói chân tay
rồi đốt bộ hạ tù nhân
Đóng đinh vào xương góp chân tù nhân
206
Ảnh mô hình minh họa, chôn sống tù nhân
Ảnh mô hình, hình thức tra tấn nhốt chuồng cọp ngoài trời
207
PHỤ LỤC 6
Ảnh mô hình các chiến sĩ cộng sản đào hầm vượt ngục
Nguồn: Nghiên cứu sinh chụp tại Phú Quốc năm 2017
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- luan_an_hoat_dong_cua_to_chuc_dang_trong_cac_trai_giam_tu_bi.pdf