HỌC VIỆN CHÍNH TRỊ QUỐC GIA HỒ CHÍ MINH
MẪN HUYỀN SÂM
HOạT ĐộNG CủA MộT Số ĐảNG CộNG SảN
KHU VựC NAM á Từ NăM 1991 ĐếN năM 2011
LUẬN ÁN TIẾN SĨ
CHUYấN NGÀNH: LỊCH SỬ PHONG TRÀO CỘNG SẢN,
CễNG NHÂN QUỐC TẾ VÀ GIẢI PHểNG DÂN TỘC
HÀ NỘI - 2016
HỌC VIỆN CHÍNH TRỊ QUỐC GIA HỒ CHÍ MINH
MẪN HUYỀN SÂM
HOạT ĐộNG CủA MộT Số ĐảNG CộNG SảN
KHU VựC NAM á Từ NăM 1991 ĐếN năM 2011
LUẬN ÁN TIẾN SĨ
CHUYấN NGÀNH: LỊCH SỬ PHONG TRÀO CỘNG SẢN,
CễNG NHÂN QUỐC TẾ VÀ GIẢI PHểNG DÂN TỘC
Mó
177 trang |
Chia sẻ: huong20 | Ngày: 14/01/2022 | Lượt xem: 375 | Lượt tải: 0
Tóm tắt tài liệu Luận án Hoạt động của một số Đảng cộng sản khu vực Nam á từ năm 1991 đến năm 2011, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
số: 62 22 0312
NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC:
1. PGS, TS Phan Văn Rân
2. PGS, TS Nguyễn Viết Thảo
HÀ NỘI - 2016
LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan đây là công trình nghiên cứu của riêng tôi.
Các số liệu, kết quả nêu trong Luận án là trung thực, có nguồn gốc rõ
ràng và được trích dẫn đầy đủ theo qui định.
TÁC GIẢ
Mẫn Huyền Sâm
MỤC LỤC
MỞ ĐẦU ................................................................................................................. 1
Chương 1: TỔNG QUAN TÌNH HÌNH NGHIÊN CỨU ....................................... 6
1.1. Tình hình nghiên cứu tại Việt Nam ......................................................... 6
1.2. Tình hình nghiên cứu trên thế giới ........................................................ 12
1.3. Những vấn đề luận án tập trung nghiên cứu, giải quyết ......................... 19
Chương 2: NHỮNG NHÂN TỐ TÁC ĐỘNG ĐẾN HOẠT ĐỘNG CỦA CÁC
ĐẢNG CỘNG SẢN KHU VỰC NAM Á TỪ NĂM 1991 ĐẾN NĂM
2011 .............................................................................................................................. 21
2.1. Quan niệm về hoạt động của đảng cộng sản ....................................... 211
2.2. Một số nhân tố tác động ........................................................................ 25
Chương 3: TÌNH HÌNH HOẠT ĐỘNG CỦA MỘT SỐ ĐẢNG CỘNG SẢN
KHU VỰC NAM Á TỪ NĂM 1991 ĐẾN NĂM 2011 ...................... 55
3.1. Giai đoạn từ năm 1991 đến năm 1999 .................................................. 55
3.2. Giai đoạn từ năm 2000 đến năm 2011 ............................................................ 81
Chương 4: MỘT SỐ KINH NGHIỆM TỪ HOẠT ĐỘNG CỦA CÁC ĐẢNG
CỘNG SẢN NAM Á VÀ GIẢI PHÁP TĂNG CƯỜNG QUAN HỆ
GIỮA ĐẢNG CỘNG SẢN VIỆT NAM VỚI CÁC ĐẢNG CỘNG
SẢN NAM Á ...................................................................................... 110
4.1. Một số kinh nghiệm ............................................................................ 110
4.2. Một số giải pháp tăng cường quan hệ giữa Đảng Cộng sản Việt Nam với
các đảng cộng sản khu vực Nam Á thời gian tới ........................................ 118
KẾT LUẬN ............................................................................................................ 146
DANH MỤC CÁC CÔNG TRÌNH ĐÃ CÔNG BỐ CỦA TÁC GIẢ CÓ LIÊN
QUAN ĐẾN ĐỀ TÀI LUẬN ÁN .......................................................................... 149
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO ............................................................. 150
PHỤ LỤC .............................................................................................................. 158
DANH MỤC CÁC CHỮ VIẾT TẮT
STT Chữ viết tắt Viết đầy đủ
(Tiếng Anh)
Viết đầy đủ
(Tiếng Việt)
1 CNCS Chủ nghĩa cộng sản
2 CNTB Chủ nghĩa tư bản
3 CNXH Chủ nghĩa xã hội
4 CPB Communist Party of
Bangladesh
Đảng Cộng sản Bangladesh
5 CPI Communist Party of India Đảng Cộng sản Ấn Độ
6 CPI-M Communist Party of India
(Marxist)
Đảng Cộng sản Ấn Độ (Mác-xít)
7 CPN-UML Communist Party of Nepal
(Unified Marxist Leninist)
Đảng Cộng sản Nepal (Mác-xít –
Lê-nin-nít) Thống nhất
8 CPSL Communist Party of Sri
Lanka
Đảng Cộng sản Sri Lanka
9 Đảng CSVN Đảng Cộng sản Việt Nam
10 EU European Union Liên minh châu Âu
11 GDP Gross Domestic Products Tổng sản phẩm quốc nội
12 Nxb Nhà xuất bản
13 SAARC South Asia Association of
Regional Cooperation
Tổ chức hợp tác khu vực Nam Á
14 USD United States Dollar Đô la Mỹ
15 XHCN Xã hội chủ nghĩa
1
MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Trong số các nước thuộc địa khu vực Á-Phi-Mỹ Latinh, khu vực Nam Á (trước
đây gọi là Tiểu lục địa Ấn Độ) là nơi phong trào cộng sản ra đời tương đối sớm, rộng
khắp và có truyền thống đấu tranh bất khuất. Từ những năm 1920, khát vọng giải
phóng dân tộc đã đưa những phần tử tiên tiến của giai cấp công nhân và tầng lớp tiểu tư
sản trí thức mới ở Tiểu lục địa Ấn Độ đến với chủ nghĩa Mác-Lênin và quê hương của
cuộc Cách mạng Tháng Mười. Với sự giúp đỡ của Quốc tế Cộng sản, đảng cộng sản
đầu tiên tại khu vực Nam Á chính thức được thành lập tại Ấn Độ với tên gọi Đảng
Cộng sản Ấn Độ vào tháng 12 năm 1925. Từ Ấn Độ, hệ tư tưởng cộng sản đã lan rộng
ra toàn Tiểu lục địa trong những năm 1940; kết quả là nhiều đảng cộng sản đã lần lượt
được thành lập tại Sri Lanka, Nepal, Pakistan, Bangladesh và Afghanistan. Phong trào
cộng sản tại Nam Á đã trở thành bộ phận mật thiết của phong trào cộng sản quốc tế và
có nhiều đóng góp tích cực vào phong trào đấu tranh chống thực dân Anh, giành độc
lập dân tộc của nhân dân các nước Nam Á cũng như đấu tranh vì lợi ích của người lao
động, vì hoà bình, dân sinh, dân chủ và mục tiêu CNXH.
Sau khi hệ thống XHCN ở Liên Xô và Đông Âu tan rã, mặc dù cũng rơi vào tình
trạng khủng hoảng chung của phong trào cộng sản quốc tế, nhưng khác với một số
đảng cộng sản tại khu vực Liên Xô, Đông Âu cũ và Tây Âu, các đảng cộng sản tại
Nam Á vẫn bền bỉ đấu tranh đồng thời nhanh chóng khắc phục tình trạng hoang
mang, lúng túng ban đầu, tăng cường công tác tổ chức, xây dựng đảng và đã trở thành
lực lượng quan trọng trên chính trường các nước.
Đặc biệt, một số đảng tại Ấn Độ, Nepal và Sri Lanka còn vươn lên nắm quyền
hoặc tham gia chính phủ liên minh. Các đảng cũng luôn tích cực đấu tranh chống các
chính sách hạn chế hoặc thu hẹp các quyền lợi của nhân dân, bảo vệ những thành quả
của các nước XHCN còn lại, chống chính sách cường quyền, bảo vệ độc lập dân tộc,
chủ quyền của nhân dân các nước vì hoà bình, hợp tác và phát triển. Đây là những
kinh nghiệm rất đáng lưu ý cho các đảng cộng sản khác đang hoạt động tại những
nước có chế độ chính trị tương đồng. Tuy nhiên, trong nghiên cứu về phong trào cộng
sản quốc tế tại Việt Nam cũng như trên thế giới, tình hình hoạt động của các đảng
cộng sản tại khu vực Nam Á vẫn ít được đề cập và nếu có thì còn rất sơ sài.
2
Đối với Việt Nam, các đảng cộng sản tại Nam Á luôn giành tình cảm và sự ủng
hộ to lớn cho Đảng Cộng sản Việt Nam và nhân dân Việt Nam. Trong giai đoạn
kháng chiến chống Mỹ cứu nước của Việt Nam, các đảng cộng sản Nam Á đã tích
cực vận động quần chúng xuống đường biểu tình để ủng hộ Việt Nam, kêu gọi các
chính phủ đòi đế quốc Mỹ chấm dứt can thiệp, rút nhân viên quân sự khỏi miền
Nam Việt Nam. Sau khi Việt Nam thống nhất năm 1975 và nhất là từ khi Việt Nam
thực hiện công cuộc Đổi mới, quan hệ giữa các đảng cộng sản Nam Á và Đảng
CSVN ngày càng được tăng cường và củng cố thông qua việc thiết lập quan hệ
chính thức và thường xuyên trao đổi đoàn nghiên cứu, dự đại hội và các hoạt động
kỷ niệm của đảng.
Đảng Cộng sản Việt Nam là thành viên trong phong trào cộng sản quốc tế.
Trong giai đoạn hiện nay khi chủ nghĩa đế quốc đẩy mạnh tuyên truyền về “sự cáo
chung” của chủ nghĩa cộng sản cũng như sự sụp đổ có tính dây chuyền của các nước
XHCN còn lại, gây nên tâm lý dao động, hoài nghi của một bộ phận quần chúng và
thậm chí cả một số đảng viên cộng sản, nghiên cứu cũng như củng cố, tăng cường
quan hệ với các đảng cộng sản, trong đó có các đảng cộng sản tại Nam Á càng trở
nên đặc biệt quan trọng, qua đó góp phần trả lời các câu hỏi câu hỏi liệu phong trào
cộng sản quốc tế còn sức sống và động lực phát triển không? Thời đại ngày nay có
còn là thời kỳ quá độ từ CNTB lên CNXH hay không?
Vì những lý do trên, việc nghiên cứu hoạt động của các đảng cộng sản tại khu
vực Nam Á từ sau năm 1991 nhằm đánh giá đúng thực trạng của các đảng tại khu
vực này, từ đó rút ra những kinh nghiệm cần lưu ý trong hoạt động của các đảng
cộng sản cũng như đưa ra giải pháp tăng cường sự phối hợp giữa Đảng Cộng sản
Việt Nam với các đảng cộng sản trong khu vực là rất cần thiết hiện nay. Do đó, tác
giả lựa chọn đề tài “Hoạt động của một số đảng cộng sản khu vực Nam Á từ
năm 1991 đến năm 2011” làm luận án tiến sĩ chuyên ngành Lịch sử phong trào
cộng sản, công nhân quốc tế và giải phóng dân tộc.
2. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu của luận án
2.1 Mục đích nghiên cứu của luận án
Mục đích chính của luận án là phân tích, đánh giá tình hình hoạt động của các
đảng cộng sản khu vực Nam Á từ năm 1991 đến năm 2011, từ đó rút ra một số kinh
3
nghiệm cho các đảng cộng sản và kiến nghị một số biện pháp tăng cường phối hợp
giữa Đảng CSVN với các đảng này.
2.2 Nhiệm vụ nghiên cứu của luận án
- Trình bày một số vấn đề lý luận về hoạt động của các đảng cộng sản.
- Nêu và phân tích các nhân tố tác động đến hoạt động của các đảng cộng sản
khu vực Nam Á sau khi Liên Xô sụp đổ.
- Phân tích và đánh giá nội dung hoạt động của một số đảng cộng sản Nam Á
từ năm 1991 đến năm 2011.
- Rút ra một số kinh nghiệm từ hoạt động của các đảng cộng sản Nam Á.
- Đưa ra một số giải pháp chủ yếu nhằm tăng cường quan hệ phối hợp giữa
Đảng CSVN với các đảng cộng sản Nam Á.
3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
3.1 Đối tượng nghiên cứu
Đối tượng nghiên cứu chính của luận án là hoạt động của một số đảng cộng sản
tại khu vực Nam Á.
Bên cạnh đó, luận án cũng đề cập và xem xét tình hình thế giới, khu vực Nam
Á và phong trào cộng sản quốc tế từ sau Chiến tranh lạnh và quan hệ giữa Đảng
Cộng sản Việt Nam với các đảng cộng sản tại Nam Á.
3.2 Phạm vi nghiên cứu
- Về đối tượng nghiên cứu: Luận án lựa chọn 5 đảng cộng sản tại 4 nước (Ấn Độ,
Nepal, Sri Lanka và Bangladesh) để tập trung nghiên cứu là: Đảng Cộng sản Ấn Độ và
Đảng Cộng sản Ấn Độ Mác-xít, Đảng Cộng sản Nepal Mác-xít Lê-nin-nít Thống nhất,
Đảng Cộng sản Sri Lanka và Đảng Cộng sản Bangladesh. Việc lựa chọn này xuất phát
từ hai lý do sau:
1) Sau Chiến tranh lạnh, khu vực Nam Á chỉ còn 4/8 nước trên có các đảng
cộng sản hoạt động, bởi vì ngoài Butan và Maldives chưa bao giờ có các đảng cộng
sản, tại Afghanistan và Pakistan, phong trào cộng sản đã hoàn toàn tan rã (Đảng Dân
chủ nhân dân Afghanistan tan rã vào năm 1992; Đảng Cộng sản Pakistan bị cấm
hoạt động từ năm 1954 và hầu như không còn vai trò trên chính trường).
2) Đây là những đảng có truyền thống đấu tranh lâu đời, có những nét đặc
trưng tiêu biểu, đại diện cho phong trào cộng sản mỗi nước và có ảnh hưởng, vai trò
đáng kể trên chính trường các nước.
4
- Về không gian: Khu vực Nam Á, trong đó tập trung chủ yếu vào 4 nước (Ấn
Độ, Nepal, Sri Lanka và Bangladesh) có các đảng cộng sản hoạt động.
- Về thời gian: Luận án nghiên cứu trong giai đoạn từ năm 1991 đến năm 2011,
tức là trong hai thập niên kể từ khi Liên Xô sụp đổ đến thời điểm Nghiên cứu sinh
thực hiện nghiên cứu đề tài này.
Lý do lựa chọn thời điểm năm 1991 khi Liên Xô sụp đổ là vì sau sự kiện này,
phong trào cộng sản quốc tế nói chung và các đảng cộng sản tại Nam Á nói riêng
chuyển sang giai đoạn vận động mới. Khoảng thời gian hai mươi năm đó đã chứng
kiến những nỗ lực của các đảng cộng sản trong việc thích ứng với bối cảnh, tình
hình mới để vượt qua những biến động, thăng trầm và phục hồi, phát triển hoạt
động.
4. Cơ sở lý luận và phương pháp nghiên cứu
4.1 Cơ sở lý luận của luận án là quan điểm của chủ nghĩa Mác-Lênin, tư
tưởng Hồ Chí Minh, quan điểm, đường lối, chính sách đối ngoại của Đảng và Nhà
nước Việt Nam; các chủ trương, chính sách nêu trong cương lĩnh, văn kiện, nghị
quyết và các phát biểu của lãnh đạo các đảng cộng sản khu vực Nam Á từ năm 1991
đến năm 2011.
4.2 Phương pháp nghiên cứu
Luận án được thực hiện theo cách tiếp cận chuyên ngành lịch sử phong trào
cộng sản, công nhân quốc tế và giải phóng dân tộc và dựa trên quan điểm duy vật biện
chứng và duy vật lịch sử.
Phương pháp nghiên cứu chủ yếu là phương pháp lịch sử-logic, kết hợp với các
phương pháp nghiên cứu của ngành khoa học xã hội và nhân văn như: phương pháp hệ
thống, phương pháp tiếp cận thực tiễn, phân tích, tổng hợp, thu thập xử lý tài liệu, tư
liệu...
5. Ý nghĩa khoa học và thực tiễn của luận án
- Về mặt khoa học: Trên cơ sở phân tích toàn diện và có hệ thống những hoạt
động chủ yếu của các đảng cộng sản tiêu biểu ở Nam Á từ năm 1991 đến năm 2011,
đặc biệt luận giải những thành tựu, hạn chế cũng như nguyên nhân của những thành
tựu, hạn chế đó, luận án khẳng định các đảng cộng sản tại Nam Á tuy chưa hoàn
toàn thoát khỏi khủng hoảng nhưng vẫn còn sức sống và triển vọng phát triển, thể
hiện ở việc các đảng đã vượt qua giai đoạn khó khăn nhất và đang từng bước phục
5
hồi, thậm chí có những bước tiến mới. Qua đó, kết quả nghiên cứu của luận án sẽ
góp phần làm sáng tỏ đánh giá, nhận định của Đảng Cộng sản Việt Nam rằng sau
khi Liên Xô và Đông Âu sụp đổ, phong trào cộng sản quốc tế còn gặp nhiều khó
khăn nhưng đã có những bước hồi phục.
- Về mặt thực tiễn: Trên cơ sở những thành công, thất bại trong hoạt động của
các đảng cộng sản tại Nam Á, luận án rút ra một số kinh nghiệm cần lưu ý đối với
các đảng cộng sản khác trong quá trình hoạt động thực tiễn hiện nay. Đồng thời, sau
khi phân tích những kết quả đạt được và hạn chế trong quan hệ giữa Đảng CSVN
với các đảng cộng sản tại Nam Á đến năm 2011, luận án đưa ra một số giải pháp
chủ yếu nhằm tăng cường quan hệ giữa Đảng CSVN với các đảng cộng sản Nam Á
trong thời gian tới.
Kết quả nghiên cứu của đề tài có thể làm tài liệu tham khảo trong công tác
nghiên cứu và giảng dạy về phong trào cộng sản và quan hệ quốc tế liên quan đến
khu vực Nam Á tại các cơ quan, trung tâm nghiên cứu, học viện và nhà trường.
6. Kết cấu của luận án
Ngoài phần mở đầu, kết luận, mục lục, danh mục chữ viết tắt, tài liệu tham khảo
và phụ lục, luận án được kết cấu thành 04 chương.
Chương 1: Tổng quan tình hình nghiên cứu
Chương 2: Những nhân tố tác động đến hoạt động của các đảng cộng sản khu vực
Nam Á từ năm 1991 đến năm 2011
Chương 3: Tình hình hoạt động của một số đảng cộng sản khu vực Nam Á từ năm
1991 đến năm 2011.
Chương 4: Một số kinh nghiệm rút ra từ hoạt động của các đảng cộng sản Nam Á
và giải pháp tăng cường quan hệ giữa Đảng Cộng sản Việt Nam với các đảng cộng sản
Nam Á.
6
Chương 1
TỔNG QUAN TÌNH HÌNH NGHIÊN CỨU
1.1. TÌNH HÌNH NGHIÊN CỨU TẠI VIỆT NAM
Tại Việt Nam, các công trình nghiên cứu liên quan đến đề tài tập trung vào
ba hướng: (i) nghiên cứu chung về khu vực Nam Á; (ii) đề cập trong phần nghiên
cứu, đánh giá chung về phong trào cộng sản quốc tế; và (iii) hoạt động của một số
đảng cụ thể thời gian gần đây. Trong số đó, các công trình về nghiên cứu chung về
khu vực Nam Á và phong trào cộng sản quốc tế chiếm phần chủ đạo.
Nội dung chính của các công trình đề cập đến những nhân tố chính ảnh
hưởng đến sự vận động của các đảng cộng sản tại Nam Á, nhất là tình hình thế giới,
khu vực và phong trào cộng sản quốc tế, đồng thời phác họa những xu hướng phát
triển của các đảng. Các tác giả đều có nhận định chung là sau Chiến tranh lạnh, hầu
hết các đảng cộng sản trong khu vực nhanh chóng tìm cách vượt qua những khó
khăn và tác động bất lợi của sự sụp đổ Liên Xô và Đông Âu để tiếp tục duy trì hoạt
động và từng bước phục hồi về mặt tổ chức, điều chỉnh đường lối chiến lược, sách
lược, phương thức đấu tranh và đã thích nghi linh hoạt với điều kiện thực tiễn mới.
Tuy nhiên, cũng như phong trào cộng sản quốc tế nói chung, tình hình các đảng
cộng sản ở Nam Á đang gặp rất nhiều khó khăn, thách thức và con đường phát triển
còn nhiều quanh co, khúc khuỷu, thậm chí có những bước lùi.
Dưới đây là một số tác phẩm nổi bật, đáng chú ý sau:
Thứ nhất, về tình hình khu vực Nam Á: Bao gồm các đề tài nghiên cứu của
các Bộ/Ban, sách tham khảo của Viện Nghiên cứu Ấn Độ và Tây Nam Á và tài liệu
tham khảo của Thông tấn xã Việt Nam... như Đề tài cấp Bộ của Bộ Ngoại giao
(2002), Quan hệ Ấn Độ-Pakistan và tác động đến an ninh khu vực Nam Á; Đề tài
cấp Bộ của Bộ Ngoại giao (2003), Quan hệ giữa Việt Nam với các nước Nam Á từ
năm 1945 đến năm 2003; Đề tài cấp Bộ của Ban Đối ngoại Trung ương (2006),
Chính sách Hướng Đông của Ấn Độ trong giai đoạn mới; Bộ Ngoại giao (2011), Ấn
Độ và quan hệ Việt Nam - Ấn Độ, Nxb Thế giới, Hà Nội; Đỗ Đức Định (1999), 50
năm kinh tế Ấn Độ, Nxb Thế giới, Hà Nội; Ngân hàng Thế giới (2010), Kinh tế Nam
Á năm 2010: Tiến lên, Hướng Đông; J.S Uberoi (2011), Ấn Độ mãi mãi huy hoàng,
Nxb Media Transasia India Limited (bản dịch của Nhà xuất bản Thế giới); Thông
7
tấn xã Việt Nam (2006), “Ấn Độ và vấn đề an ninh châu Á”, Tài liệu tham khảo đặc
biệt, ngày 29/6; Thông tấn xã Việt Nam (2006), “Ấn Độ, cường quốc đang lên”, Tài liệu
tham khảo, (3)...
Trong số đó, một số công trình nghiên cứu đáng chú ý là:
Đề tài cấp Bộ của Bộ Ngoại giao (2002), Quan hệ Ấn Độ-Pakistan và tác
động đến an ninh khu vực Nam Á làm rõ lịch sử mối quan hệ giữa Ấn Độ với
Pakistan, nhất là nguồn gốc của những vấn đề tồn tại giữa hai nước cũng như hệ lụy
của nó đến tình hình an ninh khu vực Nam Á hiện nay. Đề tài chỉ ra rằng vấn đề
tranh chấp biên giới lãnh thổ giữa Ấn Độ và Pakistan ở khu vực Kashmir đã tồn tại
kể từ khi Anh công nhận nền độc lập của cả hai nước suốt nhiều năm qua, là vấn đề
chính cản trở việc bình thường hóa quan hệ và đã dẫn đến 3 cuộc chiến tranh lớn
giữa hai nước vào các năm 1947, 1965 và 1971. Mối quan hệ căng thẳng giữa Ấn
Độ và Pakistan đã gây nên bầu không khí chính trị-an ninh bất ổn tại khu vực do Ấn
Độ và Pakistan là hai nước đóng vai trò quan trọng trong khu vực. Ngoài ra, việc
các nước lớn ngoài khu vực như Mỹ, Trung Quốc và Nga lợi dụng mối quan hệ
căng thẳng này để phục vụ lợi ích riêng càng khiến cho tình hình chính trị-an ninh
khu vực trở nên bấp bênh hơn.
Đề tài cấp Bộ của Bộ Ngoại giao (2003),Quan hệ giữa Việt Nam với các
nước Nam Á từ năm 1945 đến năm 2003. Đề tài tập trung vào một số điểm: Thứ
nhất, nêu những đặc điểm về địa lý, lịch sử, nhân chủng, tôn giáo, văn hoá, một số
nét về đặc điểm kinh tế, quan hệ đối nội và đối ngoại và tầm quan trọng của khu
vực Nam Á với Việt Nam cũng như của Việt Nam với các nước Nam Á. Thứ hai,
Đề tài đã phân tích, đánh giá bối cảnh, việc tập hợp lực lượng trong khu vực và thế
giới; tình hình khu vực Nam Á, những nguyên nhân xuất phát từ đường lối đối nội
đối ngoại của từng nước Nam Á tác động đến Việt Nam cũng như của tình hình
chung của Việt Nam tác động đến từng nước Nam Á. Thứ ba, Đề tài chỉ ra những
thuận lợi và khó khăn trong việc tăng cường quan hệ giữa Việt Nam và các nước
Nam Á.
Đề tài cấp Bộ của Ban Đối ngoại Trung ương (2006), Chính sách Hướng
Đông của Ấn Độ trong giai đoạn mới. Điểm đáng chú ý là bên cạnh khái quát lịch
sử quan hệ Ấn Độ - Đông Nam Á về kinh tế, văn hoá và chính trị, phân tích những
nhân tố quốc tế, khu vực và trong nước dẫn đến sự hình thành của chính sách
8
“Hướng Đông” của Ấn Độ trong những năm 1990, Đề tài đã dành một phần phân
tích môi trường chính trị-an ninh khu vực Nam Á từ sau Chiến tranh lạnh, sự điều
chỉnh chiến lược các nước lớn như Mỹ, Trung Quốc, Nhật Bản, Nga tại khu vực và
mối quan hệ giữa Việt Nam và Ấn Độ. Đề tài cho rằng từ đầu những năm 1990, xu
hướng bất ổn định ngày càng gia tăng ở khu vực Nam Á. Các cuộc bạo động ở
Pakistan và Nepal, của người Chakmar ở Bangladesh hay người Tamin ở Sri Lanka
đã trở thành mối đe dọa đối với các nhà nước hiện hành ở khu vực. Quan hệ giữa
Ấn Độ và Pakistan không ngừng xấu đi. Cơ chế hợp tác khu vực Nam Á mặc dù đã
được xác lập với việc hình thành Hiệp hội hợp tác khu vực Nam Á (SAAC) nhưng
hoạt động kém hiệu quả, ngay từ khi thành lập, cơ chế này đã mang trong nó rất
nhiều hạn chế. Trên lĩnh vực kinh tế, hầu hết các nước Nam Á là những nước phát
triển ở trình độ thấp, cần nhiều vốn và kỹ thuật. Ấn Độ là nước phát triển vào bậc
nhất trong khu vực cũng gặp nhiều khó khăn, không đủ khả năng đáp ứng nhu cầu
về vốn và kỹ thuật của các nước thành viên khác.
Chuyên đề Ban Đối ngoại Trung ương (2002), Cục diện chính trị-an ninh
khu vực Nam Á đầu thế kỷ XXI. Nội dung của chuyên đề tập trung khái quát một số
nét nổi bật của tình hình chính trị-an ninh khu vực Nam Á những năm đầu thế kỷ
XXI, đánh giá sự điều chỉnh chiến lược của các nước lớn như Mỹ, Trung Quốc, Nga
và Ấn Độ, mối quan hệ giữa Ấn Độ và Pakistan. Trên cơ sở đó, dự báo triển vọng
chính trị-an ninh khu vực thời gian tới.
Cuốn Ngô Xuân Bình chủ biên (2013), Nghiên cứu Ấn Độ tại Việt Nam, Nxb
Khoa học Xã hội, Hà Nội tập hợp những bài nghiên cứu của các học giả Việt Nam
trong năm 2013 về Ấn Độ và quan hệ Việt Nam - Ấn Độ trên các lĩnh vực như kinh
tế, chính trị-an ninh, văn hóa-xã hội và quan hệ của Ấn Độ với các nước và Việt
Nam.
Cuốn Ngô Xuân Bình chủ biên (2013), Những vấn đề kinh tế-chính trị cơ
bản của Ấn Độ thập niên đầu thế kỷ XXI và dự báo xu hướng đến năm 2020, Nxb
Từ điển Bách khoa, Hà Nội phân tích một cách toàn diện về thực trạng phát triển
của Ấn Độ, đánh giá những tác động tích cực và tiêu cực của Ấn Độ đến sự phát
triển chung của thế giới. Đặc biệt, tác phẩm đã cung cấp cái nhìn tổng quan về đất
nước Ấn Độ như vị trí địa lý, dân cử, lịch sử, văn hóa và nét đặc trưng của hệ thống
chính trị Ấn Độ.
9
Cuốn Ngô Xuân Bình chủ biên (2013), Việt Nam - Ấn Độ và Tây Nam Á:
Những mối liên hệ trong lịch sử và hiện tại, Nxb Từ điển Bách khoa đã tập hợp các
bài tham luận hội thảo quốc tế đề cập đến ba mảng nội dung chính là quan hệ Việt
Nam – Ấn Độ, quan hệ Việt Nam – Tây Nam Á và quan hệ Ấn Độ - Tây Nam Á
trên các lĩnh vực quan hệ văn hóa, tôn giáo, ngôn ngữ, chính trị, kinh tế, an ninh
quốc phòng...
Cuốn Anjana Mothar Chandra (2010), 5000 lịch sử văn hóa Ấn Độ, Nxb Văn
hóa-Thông tin, Hà Nội giới thiệu tất cả các giai đoạn lịch sử chính của Ấn Độ từ
những ngày đầu mới hình thành của nền văn minh lưu vực sông Ấn đến sự chia cắt
Tiểu lục địa Ấn Độ và những năm sau khi giành độc lập của Ấn Độ. Đặc biệt, tác
phẩm phân tích làm rõ sự chuyển đổi của Ấn Độ từ một nước không phát triển,
đông dân số thành một trong những nước có nền kinh tế phát triển nhanh nhất thế
giới.
Thứ hai, về phong trào cộng sản quốc tế: Báo cáo kết quả tổng kết thực tiễn
Ban Đối ngoại Trung ương (2004), Tình hình phong trào cộng sản và công nhân
quốc tế, phong trào hòa bình, dân chủ trên thế giới đã phân tích những nét chính
trong tình hình phong trào cộng sản và công nhân quốc tế kể từ sau Chiến tranh lạnh
và đưa ra những dự báo về triển vọng thời gian tới.
Tác giả Nguyễn Thị Quế (2005), Phong trào cộng sản ở một số nước liên
minh Châu Âu thời kỳ sau chiến tranh lạnh, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội đã tập
trung phân tích những nhân tố tác động chủ yếu đối với phong trào cộng sản ở các
nước thuộc Liên minh châu Âu, sự khủng hoảng của phong trào ở các nước này
trong nửa đầu thập niên 90 của thế kỷ XX, sự phục hồi, củng cố của phong trào từ
nửa sau thập niên 90 đến nay và triển vọng của phong trào trong những thập niên
đầu thế kỷ XXI. Đồng thời, cuốn sách cũng phân tích vai trò, mối quan hệ truyền
thống, sự phát triển của quan hệ giữa các đảng cộng sản và công nhân một số nước
Liên minh châu Âu với Đảng Cộng sản Việt Nam trong giai đoạn cách mạng mới.
Tuy nhiên, hoạt động của các đảng cộng sản khu vực Nam Á như Đảng Cộng sản
Ấn Độ, Đảng Cộng sản Nepal Mác-xít Lê-nin-nít thống nhất cũng được tác giả nêu
khái quát trong phần đánh giá về phong trào cộng sản ở khu vực các nước đang phát
triển châu Á, trong đó tác giả cho rằng “các đảng đã hoạt động tích cực, có sơ sở xã
hội và ảnh hưởng khá mạnh trong xã hội”.
10
Viện Quan hệ Quốc tế (2005), Lịch sử phong trào cộng sản và công nhân
quốc tế, Nxb Lý luận Chính trị, Hà Nội đề cập đầy đủ, có hệ thống về lịch sử phong
trào cộng sản, công nhân quốc tế từ khi xuất hiện chính đảng đến nay, trong đó phân
tích tình hình phong trào cộng sản quốc tế từ đầu thập kỷ 90 đến những năm đầu thế
kỷ XXI.
Cuốn Nguyễn Hoàng Giáp chủ biên (2006), Sự phối hợp hoạt động của các
Đảng cộng sản và cánh tả trên thế giới hiện nay, Nxb Lý luận chính trị, Hà Nội.
Tác phẩm làm rõ nội dung hoạt động quốc tế và một số hình thức phối hợp hoạt
động chủ yếu của các đảng cộng sản, cánh tả trên thế giới từ thập niên 90 của thế kỷ
XX đến nay; nêu bật những đóng góp của Đảng ta trên phương diện này; đồng thời,
các tác giả cũng nêu dự báo về triển vọng phối hợp hoạt động và tập hợp lực lượng
của phong trào cộng sản quốc tế trong hai thập niên đầu thế kỷ XXI. Tuy nhiên, tác
giả chủ yếu tập trung vào khu vực Mỹ Latinh, các nước tư bản phát triển, các nước
thuộc Liên Xô, Đông Âu cũ và Trung Đông.
Đề tài cấp Bộ do Nguyễn Mạnh Hùng chủ nhiệm (2012), Sự tham gia của
Đảng ta tại các diễn đàn đa phương chính đảng: Thực trạng và phương hướng
trong thời gian tới, mã số KHBĐ(2011)-27 phân tích làm rõ vai trò của các diễn
đàn đa phương chính đảng trong đời sống chính trị thế giới hiện nay, đánh giá thực
trạng cũng như đưa ra một số đề xuất về phương hướng, nội dung và hình thức tăng
cường sự tham gia của Đảng CSVN tại các diễn đàn đa phương chính đảng.
Cuốn PGS.TS Nguyễn Hoàng Giáp và PGS.TS Nguyễn Thị Quế (đồng chủ
biên) (2014), Phong trào cộng sản quốc tế hiện nay và triển vọng, Nxb Chính trị
quốc gia, Hà Nội. Các tác giả đánh giá thực trạng của phong trào cộng sản quốc tế
hiện nay, lý giải rõ về mức độ phục hồi và những thách thức mà phong trào đang
đối mặt, vai trò và tính hiệu quả của các hình thức phối hợp hoạt động và yêu cầu
mới về thực hành chủ nghĩa quốc tế của giai cấp công nhân. Trên cơ sở đánh giá
thực trạng, các tác giả đã dự báo về triển vọng, xu hướng vận động của phong trào
đến năm 2020. Về thực trạng của phong trào, các tác giả cho rằng phong trào cộng
sản quốc tế hiện nay chưa ra khỏi khủng hoảng nhưng đã vượt qua được thời kỳ khó
khăn nhất và có những bước hồi phục nhất định. Tuy nhiên về triển vọng thời gian
tới, phong trào vẫn sẽ đối mặt nhiều thách thức do đường lối của nhiều đảng chưa
theo kịp với yêu cầu, còn lúng túng trong hoạt động, chưa thu hút được đông đảo
11
các tầng lớp nhân dân lao động, nguồn lực tài chính chính hạn hẹp, vấn đề đoàn kết,
hợp tác, phối hợp giữa các đảng còn nhiều bất cập.
Ngoài ra còn có các bài viết trên các Tạp chí: Lưu Văn An, Nguyễn Hoàng
(2001), “Những chuyển động mới của phong trào cộng sản quốc tế hiện nay”, Tạp
chí Cộng sản, số 20/2001; Nguyễn Hoàng Giáp - Nguyễn Thị Quế (2004), “Phong
trào cộng sản ở các nước tư bản phát triển trước các vấn đề lý luận chính trị đặt ra
trong thời kỳ sau chiến tranh lạnh”, Tạp chí Lý luận chính trị, số 11/2004; Vũ Văn
Hoà (2006), “Diễn đàn Aten: hình thức hoạt động chung của phong trào cộng sản,
công nhân quốc tế hiện nay”, Tạp chí Cộng sản, số 108, 2006; Nguyễn Hoàng Giáp
- Nguyễn Thị Quế (2007), “Phong trào cộng sản quốc tế trong giai đoạn hiện nay”,
Tạp chí Cộng sản, số 11/2007; Thái Văn Long (2007), “Phong trào cộng sản và
công nhân quốc tế trong bối cảnh toàn cầu hoá”, Tạp chí Cộng sản, số 10/2007;
Nguyễn Mạnh Hùng (2006), “Tình hình phong trào cộng sản và công nhân quốc tế
ngày nay”, Tạp chí Lý luận chính trị, số 7/2006...
Thứ ba, về hoạt động của các đảng cộng sản Nam Á có một số bài nghiên
cứu về hoạt động của các đảng cộng sản tại Ấn Độ như Trịnh Thị Hoa (2004), “Đảng
Cộng sản Ấn Độ (Mác-xít)”, Tạp chí Xây dựng Đảng; Lê Gia Kiên (2009), “Đảng
Cộng sản Ấn Độ và Đảng Cộng sản Ấn Độ - Mác-xít: Quá khứ và triển vọng”, Tạp chí
Cộng sản, số 795; Nguyễn Trọng Kiên (2013), “Phong trào cộng sản, cánh tả tại Ấn
Độ: Tình hình và triển vọng”, Tạp chí Cộng sản, số 851... Các tác giả khái quát quá
trình vận động của phong trào cộng sản tại Ấn Độ từ khi ra đời đến năm 2013, phân
tích thực trạng, nguyên nhân thành công và hạn chế trong quá trình vận động của
Mặt trận cánh tả tại Ấn Độ - nòng cốt là Đảng Cộng sản Ấn Độ và Đảng Cộng sản
Ấn Độ Mác-xít. Dự báo triển vọng sắp tới, các tác giả cho rằng Mặt trận Cánh tả sẽ
gặp không ít khó khăn do không còn có được cơ sở ủng hộ rỗng rãi như trước và không
có được nguồn lực tài chính dồi dào để cho chiến dịch tranh cử được coi là rất tốn kém
ở Ấn Độ nhưng vẫn sẽ là những lực lượng chính trị quan trọng trên chính trường Ấn
Độ và có nhiều đóng góp cho bảo vệ quyền lợi của nhân dân lao động.
Bên cạnh đó còn có đại sử ký về hoạt động của các đảng và các báo cáo về đại
hội các đảng của Ban Đối ngoại Trung ương từ năm 1991 đến năm 2011.
12
1.2. TÌNH HÌNH NGHIÊN CỨU TRÊN THẾ GIỚI
Ở nước ngoài, Đề tài nhận được sự chú ý, quan tâm nhiều hơn của các nhà
nghiên cứu, đặc biệt tại khu vực Nam Á, thể hiện qua số lượng bài viết nhiều hơn và
phạm vi nghiên cứu rộng hơn, sâu hơn, tập trung vào hai hướng: (i) tóm lược lịch sử
của các đảng; (ii) quan điểm, đánh giá của các đảng về một số vấn đề lý luận và
thực tiễn. Hầu hết các công trình nghiên cứu đã khái quát một cách sơ lược về quá
trình hoạt động cũng như quan điểm, chủ trương, đường lối của các đảng qua từng
giai đoạn lịch sử.
Thứ nhất, về lịch sử của các đảng: Tuyển tập 26 tập Harkishan Singh
Surjeet, Communist Movement in India, National Book Center (Tạm dịch Phong
trào cộng sản tại Ấn Độ) viết về quá trình ra đời và phát triển của phong trào cộng
sản tại Ấn Độ đến năm 1998. Trong đó từ Tập 23 đến Tập 26 đề cập đến sự vận
động của phong trào từ năm 1991 đến 1998, đặc biệt tập trung vào hoạt động của
Đảng Cộng sản Ấn Độ (Mác-xít). Các tuyển tập đã khái quát và phân tích kỹ về
thực trạng của phong trào từ những ngày đầu thành lập cho đến năm 1998, trong đó
lý giải nguyên nhân thành công, thất bại cũng như những vấn đề đang đặt ra của
phong trào.
Tuyển tập trên được tác giả rút gọn lại trong cuốn Harkishan Singh Surjeet
(1993), An Outline History of the Communist Movement in India, National Book
Center, New Delhi (Tạm dịch Lịch sử tóm tắt phong trào cộng sản Ấn Độ) và sau
đó tiếp tục được hoàn thiện, bổ sung trong cuốn Harkishan Singh Surjeet (1998),
March of the Communist Movement in India, National Book Agency Private
Limited, Calcutta, India (Tạm dịch: Sự vận động của Phong trào cộng sản ở Ấn
Độ).
Cuốn Harkishan Singh Surjeet (1993), An outline History of the Commun...ch mạng, làm biến đổi tình hình, cục diện,
tương quan so sánh lực lượng giữa cách mạng và phản cách mạng, tạo ra và thúc
đẩy tình thế, thời cơ cách mạng. Cho nên, thông qua hoạt động của đảng, có thể
thấy được vị thế, vai trò, sức sống và ảnh hưởng của đảng trong xã hội, nhìn thấy
được xu thế, tiền đồ và tương lai của đảng sẽ ra sao và kết quả của sự nghiệp cách
mạng như thế nào. Điều đó đặt ra yêu cầu cho việc xem xét, đánh giá hoạt động của
đảng phải hết sức toàn diện, khách quan, khoa học và đúng đắn, để rút ra những vấn
đề lý luận và thực tiễn cần thiết đối với các đảng cộng sản ở mỗi nước nói chung và
các phong trào cộng sản, công nhân quốc tế nói chung.
2.2. MỘT SỐ NHÂN TỐ TÁC ĐỘNG
2.2.1. Kết quả hoạt động của các đảng cộng sản Nam Á trước năm 1991
2.2.1.1. Ưu điểm
Phong trào cộng sản tại Nam Á được hình thành tương đối sớm, khi không
lâu sau thắng lợi của cuộc Cách mạng tháng Mười Nga năm 1917, Chủ nghĩa Mác-
Lênin bắt đầu ảnh hưởng sâu rộng tới các phần tử tiên tiến của giai cấp công nhân
và tầng lớp tiểu tư sản trí thức mới trong phong trào giải phóng dân tộc ở Tiểu lục
địa Nam Á. Từ những năm 1920, được sự giúp đỡ của Quốc tế Cộng sản, các nhóm
cộng sản đầu tiên được thành lập ở 3 khu công nghiệp lớn trong vùng là Calcutta,
26
Bombay và Lahor. Tháng 12/1925, Đảng Cộng sản Ấn Độ chính thức được thành
lập, tiếp đến là Đảng Cộng sản Sri Lanka (năm 1943), các Đảng Cộng sản Đông và
Tây Pakistan (năm 1947), Đảng Cộng sản Pakistan (năm 1948), Đảng Cộng sản
Bangladesh (năm 1948), Đảng Cộng sản Nepal (năm 1949) và sau đó là Đảng Dân
chủ nhân dân Afghanistan (năm 1965). Là đảng ra đời sớm nhất, tại nước lớn nhất
và có truyền thống đấu tranh lâu dài nhất ở khu vực Nam Á, kết hợp với hoàn cảnh
lịch sử, địa lý và xã hội của Nam Á lúc đó, Đảng Cộng sản Ấn Độ (CPI) có mối
quan hệ gắn bó và tầm ảnh hưởng đến hầu hết các đảng cộng sản và cánh tả ở các
nước Nam Á khác.
Một số kết quả tích cực và thế mạnh của các đảng kể từ khi ra đời cho đến
năm 1991 là:
Thứ nhất, truyền thống đấu tranh và tinh thần cách mạng kiên trung. Các đảng
luôn kiên trì và trung thành với lý tưởng của chủ nghĩa Mác-Lênin và mục tiêu CNXH
dù trải qua nhiều giai đoạn thăng trầm và hoạt động trong điều kiện hết sức khó khăn,
do vừa phải tiến hành đấu tranh chống chủ nghĩa đế quốc, phong kiến, tư sản mại bản
lại vừa phải đấu tranh chống những chính sách phản dân chủ, phản nhân dân của các
đảng tư sản cầm quyền và chống lại những hủ tục của hệ thống đẳng cấp, tình trạng
xung đột tôn giáo, ly khai và chủ nghĩa phân biệt cộng đồng
Trong giai đoạn đầu: Một số đảng chủ trương tiến hành đấu tranh vũ trang
và đã có những đóng góp tích cực vào phong trào đấu tranh chung của nhân dân
chống chế độ phong kiến và chống thực dân Anh giành độc lập dân tộc cho đất
nước mình (như Đảng CPI ở Ấn Độ trong giai đoạn 1925-1947; Đảng CPSL trong
những năm 1940; Đảng CPB trước những năm 1970).
Trong những năm 1960 đến đầu những năm 1970: Phong trào cộng sản,
cánh tả ở một số nước Nam Á gặp nhiều khó khăn do hoạt động trong bối cảnh tình
hình quốc tế, khu vực và nội bộ phong trào cộng sản quốc tế diễn biến phức tạp.
Bên ngoài, cuộc Chiến tranh lạnh gay gắt giữa hai phe XHCN do Liên Xô đứng đầu
và phe TBCN do Mỹ đứng đầu biến Nam Á trở thành khu vực tranh giành ảnh
hưởng quyết liệt giữa các nước lớn (Mỹ, Liên Xô và Trung Quốc). Trong nước, lực
lượng tư sản cầm quyền ra sức chống phá, khiến nhiều đảng bị đàn áp, bị cấm hoạt
động, phải rút vào hoạt động bí mật hoặc bán công khai. Chưa kể ý thức giác ngộ
chính trị của nông dân còn thấp, nhận thức của đảng viên và quần chúng nhân dân
27
về phong trào cách mạng còn nhiều hạn chế. Trong nội bộ, tư tưởng và nhận thức
của đảng viên cộng sản tại Nam Á bị phân cực bởi mâu thuẫn giữa Liên Xô và
Trung Quốc, nhất là lý luận nền dân chủ dân tộc của Liên Xô với lý luận nền dân
chủ mới của Trung Quốc do Mao Trạch Đông khởi xướng. Các đảng cộng sản Nam
Á bị sa lầy vào cuộc đấu tranh tư tưởng lý luận, bất đồng về chiến lược và sách
lược, bị phân liệt thành các đảng hoặc các nhóm cộng sản “thân Liên Xô” hoặc
“thân Trung Quốc”, bị chia rẽ và mâu thuẫn do một số đảng tiến hành con đường vũ
trang, trong khi số khác ủng hộ con đường bầu cử và đấu tranh nghị trường.
Giai đoạn cuối những năm 1970 đến giữa những năm 1980: Nhiều đảng có
sự điều chỉnh về đường lối, sách lược, từng bước vươn lên khẳng định vị trí của đảng
mình trên chính trường. Qua đấu tranh, các đảng nhận thấy rằng hình thức đấu tranh
vũ trang không còn phù hợp trong bối cảnh quốc tế, khu vực đã thay đổi và với tình
hình cụ thể ở từng nước (giai cấp thống trị còn mạnh lại được sự hỗ trợ của các thế
lực bên ngoài trong khi phong trào chưa đủ mạnh, ý thức giác ngộ của nhân dân còn
thấp). Từ những năm 1970, hầu hết các đảng chuyển sang tiến hành đấu tranh hoà
bình thông qua con đường nghị trường để giành chính quyền về tay nhân dân lao
động và tiến tới xây dựng chủ nghĩa xã hội ở từng nước.
Giai đoạn từ năm 1989 đến năm 1991 là thời gian khó khăn nhất đối với
phong trào cộng sản tại Nam Á do những tác động bất lợi của tình hình thế giới sau
cuộc khủng hoảng ở Liên Xô và sụp đổ của hệ thống XHCN ở Đông Âu. Hầu hết
các đảng tỏ ra lúng túng về đường lối, tổ chức; nội bộ phân hóa nghiêm trọng, bị
chia rẽ, phân liệt; số lượng đảng viên sụt giảm, thậm chí một số đảng bị tan rã,
chấm dứt hoạt động. Bên ngoài, các đảng đối mặt với sự chống phá ác liệt và hoạt
động khủng bố của các đảng tư sản, lực lượng cực đoan, phân biệt cộng đồng.
Thứ hai, luôn là lực lượng đi tiên phong và đấu tranh mạnh mẽ vì lợi ích của
những người lao động và vì hoà bình, dân sinh, dân chủ trên thế giới. Phong trào
học sinh, sinh viên xuống đường biểu tình chống Mỹ, ủng hộ Việt Nam do các đảng
cộng sản Nam Á lãnh đạo được hình thành từ những năm 1950 đến những năm
1970 đã tạo nên một làn sóng lớn, thu hút đông đảo các tầng lớp nhân dân, chính
đảng tham gia.
Đến những năm 1980, phong trào hòa bình, dân chủ tại khu vực đạt bước
phát triển mới, vượt biên giới quốc gia và khu vực khi các hoạt động vì hòa bình,
28
đoàn kết của các đảng cộng sản, dưới sự ủng hộ và hỗ trợ của Liên Xô và các nước
XHCN, diễn ra sôi động, rầm rộ, góp phần tích cực trong phong trào chung trên thế
giới. Một số lãnh đạo của các đảng cộng sản đã tham gia lãnh đạo các tổ chức hòa
bình, đoàn kết, hữu nghị quốc tế như Hội đồng hòa bình thế giới, Tổ chức đoàn kết
Á-Phi, Liên hiệp công đoàn thế giới, Hội liên hiệp phụ nữ dân chủ thế giới, Liên
hiệp thanh niên sinh viên dân chủ thế giới
Đặc biệt, tại Ấn Độ, Tổ chức Hòa bình và Hữu nghị toàn Ấn (AIPSO) do
Đảng Cộng sản Ấn Độ lãnh đạo đã tổ chức nhiều hoạt động thiết thực, liên tục tổ
chức các cuộc mít-tinh, kỷ niệm, hội thảo ủng hộ các cuộc đấu tranh giải phóng dân
tộc của nhân dân các nước trên thế giới, chống chiến tranh, chống phân biệt chủng
tộc ở Nam Phi, đòi quyền tự quyết cho người Palestine...
2.2.1.2. Tồn tại, hạn chế
Thứ nhất, hầu hết các đảng chưa thành công trong việc giành chính quyền để
đưa đất nước đi lên CNXH và vị thế trên chính trường còn thấp. Nguyên nhân chính là
các đảng không nắm được ngọn cờ lãnh đạo giải phóng dân tộc, để rơi vào tay các đảng
tư sản. Trừ Đảng Dân chủ Nhân dân Afghanistan (với sự giúp đỡ của Liên Xô) nắm
chính quyền tại Afghanistan từ năm 1978 đến năm 1992, các đảng còn lại chỉ giữ vị
trí là đảng tham chính hoặc đảng đối lập trên chính trường.
Thứ hai, nội bộ phong trào bị chia rẽ do ảnh hưởng bởi những đặc điểm tiêu
cực của khu vực Nam Á như cục bộ địa phương, bất đồng tôn giáo, sắc tộc... và đặc
biệt bị tác động từ mâu thuẫn trong phong trào cộng sản quốc tế những năm 1960-
1970. Mâu thuẫn Xô-Trung gây nhiều thiệt hại cho phong trào cộng sản quốc tế, nhưng
nặng nề nhất là phong trào cộng sản tại Nam Á, vì khu vực Nam Á là nơi Liên Xô và
Trung Quốc đều tranh thủ phát huy ảnh hưởng.
Tại Ấn Độ, những bất đồng đường lối, chính sách đối với đảng Quốc đại cầm
quyền đã ảnh hưởng không nhỏ tới nội bộ phong trào cộng sản Ấn Độ trong thời gian
dài. Đến đầu những năm 1960, sự rạn nứt ngày càng nghiêm trọng khi bị tác động bởi
mâu thuẫn trong phong trào cộng sản, công nhân quốc tế, nhất là giữa Liên Xô và
Trung Quốc. Năm 1964, Đảng CPI bị phân liệt thành hai đảng CPI-M thân Trung Quốc
và CPI thân Liên Xô. Các cuộc bút chiến giữa lãnh đạo hai Đảng liên tục diễn ra trên
báo đảng trong suốt những năm cuối 1970 đã gây tâm lý hoài nghi trong số đông đảng
viên và quần chúng của đảng. Đấu tranh trong nội bộ đảng liên tục diễn ra dẫn đến sự
29
phân liệt của hai đảng vào những năm 1980 (Đảng Cộng sản Toàn Ấn - AICP tách ra
từ CPI, Đảng Cộng sản Ấn Độ Thống nhất - UCPI tách ra từ CPI-M và một số nhóm
cộng sản khác ở các bang). Hệ quả từ sự phân liệt vẫn để lại đến trước năm 1991 với
việc tồn tại hàng chục nhóm cộng sản tại Ấn Độ, trong đó hai Đảng CPI và CPI-M hoạt
động riêng rẽ.
Tại Bangladesh, Đảng Cộng sản Đông Pakistan chính thức phân liệt thành
hai: một đảng đứng về phía Liên Xô và một đảng đứng về phía Trung Quốc. Phái
ủng hộ Liên Xô là Đảng Cộng sản Bangladesh (trước đây mang tên Đảng Cộng sản
Pakistan) đã thông qua chiến lược cách mạng dân tộc dân chủ, quyết định hợp tác
với chính phủ Liên đoàn Awami trong nhiệm vụ xây dựng đất nước. Phái ủng hộ
Trung Quốc cũng thông qua chiến lược cách mạng dân chủ nhân dân, phản đế và
phản phong và làm cách mạng chống tư sản mại bản dưới sự lãnh đạo của giai cấp
công nhân. Tuy nhiên, các xu hướng khác nhau tiếp tục phát triển trong phái thân
Trung Quốc dẫn đến việc đảng này tiếp tục bị phân liệt thành nhiều nhóm trong giai
đoạn 1968-1971.
Tại Nepal, bất đồng trong phong trào cộng sản quốc tế những nhăm 1960 đã
khoét sâu thêm chia rẽ trong nội bộ Đảng Cộng sản Nepal (CPN). Từ năm 1962 sau
Đại hội Đảng CPN lần thứ III (tháng 4/1962), quá trình phân liệt trong Đảng CPN
dẫn tới sự hình thành nhiều nhóm cộng sản khác nhau như nhóm Pushpalal thành
lập năm 1968, nhóm Jhapa thành lập năm 1971 đại diện cho phong trào nông dân
cấp tiến hoạt động ở vùng viễn đông của Nepal, nhóm “Đại hội IV”... Đến nay, tuy
quá trình sáp nhập một số nhóm đã diễn ra nhưng tại Nepal vẫn tồn tại hàng chục
nhóm cộng sản khác nhau.
Tại Afghanistan, từ năm 1966, Đảng Dân chủ Nhân dân Afghanistan cũng bị
chia rẽ thành hai nhóm và hoạt động song song, đối đầu nhau, mặc dù cùng chung
cương lĩnh, điều lệ và tên đảng. Sự chia rẽ trong nội bộ phong trào tác động một
phần không nhỏ làm suy yếu Đảng.
Tại Pakistan, bất đồng giữa các đảng cộng sản do tác động tiêu cực từ mâu
thuẫn phong trào cộng sản quốc tế, kết hợp với điều kiện hoạt động khó khăn vì bị
chính quyền quân sự đàn áp khiến các đảng cộng sản ở Pakistan phải rút vào hoạt
động bí mật, mất dần ảnh hưởng và cho tới nay hầu như không xuất hiện trong các
diễn đàn khu vực.
30
Như vậy, từ kết quả hoạt động trong giai đoạn trước năm 1991 có thể thấy rõ
ưu điểm lớn nhất của các đảng cộng sản tại Nam Á là tinh thần trung kiên và truyền
thống, sức đấu tranh bền bỉ, tuy nhiên cơ sở chính trị, ảnh hưởng của các đảng rất
yếu, nội bộ phong trào bất đồng, chia rẽ và chịu tác động bởi những hạn chế mang
tính kinh niên của khu vực Nam Á. Sự tồn tại song song của những ưu điểm và hạn
chế này cho thấy phong trào cộng sản tại khu vực tuy vẫn duy trì nhưng khó có
những bước phát triển đột phá. Đặc điểm này sẽ tiếp tục tác động và quy định quá
trình vận động cũng như hoạt động của các đảng trong giai đoạn 1991-2011.
2.2.2 Bối cảnh thế giới sau Chiến tranh lạnh
2.2.2.1 Cục diện thế giới đa cực ngày càng rõ hơn
Sau Chiến tranh lạnh, thế giới bước vào thời kỳ quá độ hình thành một trật tự
thế giới mới. Qua tương quan so sánh lực lượng, cục diện thế giới hiện nay, nhất là
từ đầu thế kỷ XXI, đang ngày càng định hình rõ theo hướng đa cực [3, tr.183]:
Trong đó, Mỹ vẫn khẳng định vị trí vượt trội nhưng vị thế suy giảm tương đối, phải
chấp nhận vai trò lớn hơn của các nước lớn khác, coi trọng sử dụng biện pháp ngoại
giao và cơ chế đa phương để xử lý các vấn đề toàn cầu [20, tr.56]. Các nước lớn và
trung tâm quyền lực khác, đặc biệt là Trung Quốc đang vươn lên rất nhanh, ngày
càng thu hẹp khoảng cách so với Mỹ cũng như đấu tranh mạnh mẽ để có tiếng nói
lớn hơn trên trường quốc tế.
Thực vậy, sau khi Liên Xô tan rã, Mỹ - với vị trí là siêu cường duy nhất còn
lại và ưu thế vượt trội về khoa học kỹ thuật, kinh tế, chính trị, quân sự và vai trò chủ
đạo trong các thiết chế kinh tế, tài chính, thương mại chủ chốt thế giới – đang thúc
đẩy xây dựng trật tự thế giới đơn cực, trong đó Mỹ giữ vị trí bá chủ thế giới. Tuy
nhiên, Mỹ đang bị suy yếu tương đối, mất dần vai trò là đầu tàu kinh tế thế giới, khả
năng sử dụng sức mạnh quân sự ngày càng hạn chế, nhất là bị sa lầy trong cuộc
chiến tại Afghanistan, Iraq và phải dựa vào sự ủng hộ và hợp tác của các nước lớn
khác cũng như các thể chế đa phương để giải quyết những vấn đề quốc tế lớn.
Các nước lớn và trung tâm quyền lực khác như Trung Quốc, Nga, Nhật Bản,
Liên minh châu Âu (EU) tuy sức mạnh chưa vượt Mỹ nhưng cũng đang tìm cách vươn
lên, mở rộng ảnh hưởng nhằm tiến tới một xây dựng một trật tự thế giới đa cực. Trong
số đó, sự trỗi dậy của Trung Quốc được coi là mối đe dọa tiềm tàng đối với vị trí siêu
cường của Mỹ. Trung Quốc đang tích cực mở rộng ảnh hưởng ở châu Á-Thái Bình
31
Dương, hội nhập kinh tế thế giới, vừa cạnh tranh vừa hợp tác chiến lược với các nước
lớn nhằm đấu tranh trở thành một cực trong một trật tự thế giới đa cực. Nga là nước kế
thừa Liên Xô cũ, có cơ sở hùng hậu về công nghiệp, khoa học kỹ thuật cơ bản, quân sự
mạnh, có vị thế địa - chính trị đặc thù nằm trên hai lục địa Á – Âu đang xây dựng “Học
thuyết đối ngoại” mới với mục tiêu chiến lược toàn cầu là bảo đảm an ninh cũng như vị
thế của Nga trong “câu lạc bộ” các nước lớn, biến Nga thành một trung tâm quyền lực
của thế giới và thúc đẩy quá trình xây dựng trật tự đa cực để hạn chế ảnh hưởng của
Mỹ và phương Tây [20, tr.54]. Nhật Bản là một trong những nền kinh tế lớn nhất thế
giới, đang điều chỉnh chiến lược quốc phòng nhằm trở thành “cường quốc bình
thường” để nâng cao vai trò chính trị, an ninh ở khu vực và thế giới. Liên minh châu Âu
(EU) vẫn là một thực thể quan trọng, trung tâm quyền lực thế giới, đang tìm cách tăng
cường liên kết về chiều sâu và chiều rộng, đẩy mạnh quá trình nhất thể hoá, kể cả trong
vấn đề quốc phòng-an ninh, đối ngoại nhằm đưa EU thành một cực có tiếng nói và vai
trò trong thế giới đa cực.
2.2.2.2. Quan hệ quốc tế có những biến đổi sâu sắc
Trước những thay đổi mạnh mẽ trong tương quan lực lượng, quan hệ quốc tế
có những biến đổi sâu sắc: Tập hợp lực lượng thế giới trở nên năng động, phức tạp
với nhiều tầng nấc đan xen lẫn nhau; linh hoạt, thực dụng hơn, dựa trên diễn biến
thực tế của so sánh lực lượng và lợi ích quốc gia; vừa hợp tác vừa đấu tranh, vừa
tranh thủ, vừa kiềm chế lẫn nhau tùy thuộc từng vấn đề, từng khu vực và thời điểm
cụ thể. Lợi ích quốc gia dân tộc đóng vai trò chi phối các lợi ích khác, quy định mức
độ, phạm vi, tính chất, hành động của các quốc gia và chính sách của các quốc gia.
Trên cơ sở lợi ích quốc gia dân tộc, các nước với chế độ chính trị xã hội và
trình độ phát triển khác nhau cùng tồn tại và hợp tác, vừa đấu tranh, cạnh tranh gay
gắt với nhau. Các nước lớn vừa hòa hoãn, tránh xung đột và đối đầu trực tiếp, thỏa
hiệp, nhượng bộ cục bộ với nhau vì lợi ích riêng, vừa cạnh tranh, kiềm chế lẫn nhau
nhằm tranh giành ảnh hưởng tại các khu vực chiến lược trên thế giới. Mỹ, sau sự
kiện 11/9/2001, sử dụng chiêu bài chống khủng bố để thiết lập liên minh chống
khủng bố toàn cầu như là một cách tập hợp lực lượng mới, củng cố quan hệ với các
đồng minh và chia rẽ, kiềm chế các đối thủ; các nước lớn khác như Trung Quốc,
Nhật Bản sử dụng sức mạnh mềm như kinh tế, văn hóa làm “bàn đạp” mở rộng ảnh
hưởng và lôi kéo các đối tác. Các nước vừa và nhỏ tập hợp nhau thông qua các liên
32
kết riêng theo khu vực địa lý, sự tương đồng về trình độ phát triển và lợi ích chung
nhằm củng cố độc lập về chính trị, phát triển kinh tế và xây dựng một trật tự quốc tế
mới, dân chủ và công bằng hơn.
Một đặc điểm nổi bật khác của quan hệ quốc tế giai đoạn này là xu thế dân
chủ hóa ngày càng phát triển với sự gia tăng số lượng và vai trò của các nước vừa
và nhỏ, các chủ thể phi nhà nước như các tổ chức quốc tế, khu vực, thể chế đa
phương và các trào lưu chính trị-xã hội mới nổi trên thế giới
Nhóm các nước vừa và nhỏ với số lượng ngày càng tăng đang tham gia nhiều
hơn vào việc giải quyết các vấn đề quốc tế, đấu tranh nhằm dân chủ hóa Liên hợp
quốc và các thể chế quốc tế, vì một trật tự dân chủ và bình đẳng với sự tham gia của
tất cả các nước trong việc giải quyết các công việc quốc tế.
Các công ty xuyên quốc gia có ảnh hưởng lớn đến quá trình hoạch định
chính sách quốc tế, không chỉ kinh tế mà còn cả vấn đề chính trị, an ninh do nắm
giữ nguồn tài chính, công nghệ, nguồn nhân lực có chất lượng cao, trình độ tổ chức,
quản lý tiên tiến và đóng vai trò quan trọng trong việc tạo dựng mạng lưới sản xuất
xuyên quốc gia và dịch chuyển các yếu tố sản xuất trên phạm vi toàn cầu.
Các phong trào chính trị-xã hội như trào lưu xã hội-dân chủ, trào lưu cánh tả,
phong trào chống toàn cầu hóa trở thành lực lượng có tiếng nói ngày càng quan
trọng trong đấu tranh vì lợi ích của người lao động, chống chiến tranh, chống vũ khí
hạt nhân, tăng quyền cho phụ nữ, bảo vệ môi trường sinh thái, chống mặt trái của
toàn cầu hóa, góp phần bảo vệ hòa bình, dân chủ, dân sinh và tiến bộ trên toàn thế
giới.
Đối với các đảng cộng sản tại Nam Á, những nét mới của tình hình chính
trị thế giới và quan hệ quốc tế đặt ra thách thức lẫn cơ hội cho các đảng. Cuộc đấu
tranh gay gắt giữa các nước lớn, trung tâm quyền lực nhằm xây dựng một trật tự thế
giới mới khiến quan hệ quốc tế trở nên phức tạp. Sự đan xen lợi ích khác nhau và
hình thức vừa hợp tác, vừa đấu tranh và ranh giới “bạn-thù” không rõ ràng, rành
mạch như thời Chiến tranh lạnh đòi hỏi các đảng cộng sản tại Nam Á phải giải
quyết nhiều vấn đề lý luận mới, nhất là xác định lại khái niệm đối tượng, đối tác và
lựa chọn các hình thức đấu tranh phù hợp.
Mặc dù vậy, đặc điểm vừa hợp tác vừa đấu tranh trong quan hệ quốc tế hiện
nay và việc lợi ích quốc gia dân tộc trở thành cơ sở chủ yếu trong tập hợp lực
33
lượng khiến mâu thuẫn ý thức hệ bớt gay gắt, tuy không mất đi, giúp các đảng
tránh sự đàn áp, chống phá trực diện của lực lượng tư sản phản động, được tự do
mở rộng hợp tác, xây dựng liên minh nhằm tăng cường ảnh hưởng trên chính
trường.
Xu thế dân chủ hóa trong quan hệ quốc tế và sự thức tỉnh lương tri của
nhân loại cũng là điều kiện thuận lợi cho cơ sở hoạt động của các đảng, nhất là
trong việc thu hút sự ủng hộ của nhân dân thế giới đấu tranh bảo vệ hòa bình,
công lý, vì các quyền dân sinh, dân chủ, độc lập dân tộc và tiến bộ xã hội.
Trong khi đó, sự gia tăng các phong trào chính trị và các tổ chức xã hội đặt
ra yêu cầu mới đối với các đảng cộng sản Nam Á về chiến lược và các biện pháp
phối hợp hoạt động với những tổ chức này trong cuộc đấu tranh vì các quyền dân
sinh, dân chủ và tiến bộ xã hội, đồng thời nỗ lực tự đổi mới để thể hiện sự ưu việt
trong cạnh tranh mở rộng ảnh hưởng.
2.2.2.3 Hòa bình, độc lập dân tộc, dân chủ, hợp tác và phát triển là xu thế
lớn
Hòa bình, ổn định để phát triển luôn là nhu cầu bức xúc của nhân loại, nhất
là trong bối cảnh ngày nay khi các nước đều mong muốn xây dựng môi trường hòa
bình, xây dựng mối quan hệ quốc tế ổn định, thuận lợi để tập trung phát triển kinh
tế, duy trì ổn định chính trị-xã hội, mở rộng quan hệ quốc tế, tìm kiếm được nhiều
đối tác, mở rộng thị trường và tạo “thế” phát huy ảnh hưởng trên trường quốc tế.
Xu hướng cải thiện, đa dạng hóa quan hệ đối ngoại, vừa hợp tác vừa đấu
tranh, tăng cường hợp tác và hội nhập quốc tế, chuyển từ chiến tranh, đối đầu sang
đối thoại, hòa hoãn, từ chạy đua vũ trang sang chạy đua về kinh tế, khoa học-kỹ
thuật trở nên phổ biến hơn bao giờ hết.
Xu thế này được biểu hiện sinh động qua việc phối hợp giải quyết các xung
đột bằng phương pháp hòa bình, tăng cường hợp tác trong phát triển kinh tế, văn
hóa-xã hội, khoa học-công nghệ, an ninh-quốc phòng, gia tăng các hình thức liên
kết khu vực và quốc tế vì hòa bình, hợp tác và phát triển.
Tuy vậy, trên thế giới vẫn tiếp tục diễn ra nhiều cuộc chiến tranh, xung đột,
chạy đua vũ trang, xung đột dân tộc, tôn giáo, hoạt động can thiệp lật đổ, khủng bố,
cạnh tranh thương mại, tài nguyên với tính chất phức tạp ngày càng tăng. Nguyên
nhân chính là chính sách phản động của chủ nghĩa đế quốc, đứng đầu là Mỹ đẩy
34
mạnh chính sách cường quyền, hiếu chiến, đơn phương, phát động nhiều cuộc chiến
tranh xâm lược cục bộ nhằm thiết lập trật tự thế giới một cực, thống trị thế giới, gây
nên nhiều điểm nóng, xung đột mới như Iraq, Nam Tư, Afghanistan...; thiếu các cơ
chế hữu hiệu kiểm soát và giải quyết các xung đột đã tạo cơ hội bùng nổ các trào
lưu tư tưởng cực đoan và các cuộc xung đột vũ trang, xung đột sắc tộc, tôn giáo,
chạy đua vũ trang, can thiệp, lật đổ; sự tương phản giữa nguồn dự trữ có hạn của tài
nguyên thiên nhiên với tốc độ khai thác tài nguyên thiên nhiên.
Hoạt động trong môi trường an ninh thế giới hòa bình nhưng vẫn bị đan xen
bởi căng thẳng, xung đột và chiến tranh cục bộ, các đảng cộng sản tại Nam Á vừa
gặp thuận lợi lẫn bất lợi. Mặt tích cực là các đảng cộng sản có quyền hoạt động hợp
pháp, bình đẳng với các chính đảng khác trên chính trường, không phải hoạt động bí
mật, ngoài vòng pháp luật như trước đây. Mặt thách thức là tình hình an ninh thế giới
còn nhiều bất ổn đặt ra nhiều thách thức lớn cho các đảng cộng sản, đòi hỏi các đảng
phải nỗ lực hơn nữa nhằm đối phó với âm mưu hiếu chiến, phá hoại nền hòa bình thế
giới của các thế lực phản động và tư tưởng cực đoan.
Ngoài ra, hình thức đấu tranh nghị trường thông qua các biện pháp dân chủ và
giành lá phiếu của cử tri trở thành phổ biến đặt ra không ít thách thức cho các đảng cộng
sản tại Nam Á trong đấu tranh vươn lên nắm quyền, do đa số các đảng đều thiếu cơ sở
vật chất và thiếu kinh nghiệm thực tiễn, trong khi phải cạnh tranh với các đảng tư sản
luôn có ưu thế về tài chính và dày dặn kinh nghiệm trong vận động bầu cử.
2.2.2.4. Cuộc cách mạng khoa học và công nghệ, kinh tế tri thức và quá trình
toàn cầu hóa diễn ra mạnh mẽ
Một là, sự phát triển như vũ bão của cuộc cách mạng khoa học và công nghệ
làm tăng năng suất lao động và thay đổi căn bản tính chất và trình độ của lực lượng sản
xuất. Khoa học và công nghệ trở thành lực lượng sản xuất trực tiếp; con người và tri
thức trở thành nhân tố quyết định sự phát triển của quốc gia.
Nhằm bắt kịp với sự biến đổi từng giờ của các phát minh, sáng chế khoa học,
các quốc gia đều điều chỉnh chính sách, ưu tiên phát triển kinh tế, cải cách, đổi mới cơ
chế quản lý cũng như thực hiện chính sách mở cửa, hội nhập và hợp tác khu vực.
Như vậy, vấn đề kinh tế trở thành nổi trội và là mối quan tâm chính tại mỗi quốc gia
cũng như trong quan hệ giữa các quốc gia; vấn đề chính trị, đấu tranh ý thức hệ tuy
không mất đi nhưng đã giảm tính thời sự. Đây là một đặc điểm mới trong đời sống xã
35
hội đòi hỏi các đảng cộng sản phải điều chỉnh theo, nếu không sẽ không thu hút sự ủng
hộ của quần chúng.
Ngoài ra, cơ cấu giai cấp công nhân, cơ sở giai cấp - xã hội của các đảng cộng
sản có sự biến đổi to lớn, biểu hiện ở sự thay đổi về cơ cấu, số lượng và chất lượng
của giai cấp công nhân và thay đổi về trình độ giác ngộ và trình độ tổ chức của giai
cấp công nhân. Tỷ lệ công nhân cổ trắng có trình độ học vấn, tay nghề, thu nhập cao
tăng nhanh, trong khi tỷ lệ công nhân công nghiệp cổ xanh (cơ khí) giảm mạnh [26,
tr.23-30] và xuất hiện tầng lớp công nhân trí thức hay còn gọi là tầng lớp trung gian
mới). Cùng với đó là sự đồng cảm và nhận thức về giai cấp ở một bộ phận công nhân
bị phai nhạt, ngộ nhận về bản chất của CNTB hiện đại rằng đã có thay đổi trong quan
hệ sở hữu, không còn bóc lột [26, tr.116-118], giảm nhu cầu đấu tranh để thay đổi
chế độ TBCN mà chủ yếu đòi các quyền lợi về kinh tế, khả năng tổ chức động viên
của giai cấp công nhân đối với các hành động bị giảm sút, nhất là với đội ngũ công
nhân có trình độ kỹ thuật cao, đời sống khá giả. Tình hình trên đặt ra một loạt vấn đề
mới đối với các đảng cộng sản tại Nam Á về xây dựng đảng, đổi mới, mở rộng cơ sở
giai cấp-xã hội của đảng, tập hợp lực lượng
Hai là, việc sử dụng phổ biến internet và sự bùng nổ các trang mạng xã
hội trên phạm vi toàn cầu nhờ những thành tựu ngành công nghệ thông tin làm
thay đổi phương tiện giao tiếp với công chúng. Các hình thức giao tiếp trực
tuyến ngày càng phát huy ưu thế, nhất là trong vận động giới trẻ so với những
hình thức gặp gỡ truyền thống. Đây là một đòi hỏi mới nhưng cũng là thách thức
lớn đối với các đảng cộng sản Nam Á trong việc đổi mới, cập nhật hình thức và
biện pháp vận động quần chúng.
Ba là, quá trình toàn cầu hóa hình thành do phân công lao động quốc tế, chuyên
môn hóa sản xuất sâu dưới tác động của cách mạng khoa học và công nghệ làm tăng
tính phụ thuộc lẫn nhau giữa các quốc gia. Cùng với quá trình đó, việc giao lưu, mở
rộng quan hệ trở thành xu thế tất yếu. Biểu hiện sinh động của nó là bầu không khí hòa
bình, hợp tác, phát triển và việc nở rộ của các cơ chế, diễn đàn và liên kết đa phương,
đa tầng nấc. Điều này tạo điều kiện để các đảng mở rộng quan hệ quốc tế, tăng cường
các hình thức phối hợp hoạt động và chia sẻ, trao đổi lý luận và kinh nghiệm thực tiễn
cũng như nâng cao vị thế, ảnh hưởng trên trường quốc tế.
36
Mặc dù vậy, trong quá trình toàn cầu hóa, các nước tư bản phát triển và công
ty xuyên quốc gia vẫn là lực lượng chủ đạo, chi phối và không ngừng lợi dụng quá
trình này để bành trướng mô hình sản xuất tư bản trên toàn thế giới, tăng cường bá
quyền về kinh tế, thao túng chính trị, can thiệp thô bạo vào công việc nội bộ của
nước khác.
Chưa kể, toàn cầu hóa cũng làm phát tán các rủi ro ra phạm vi toàn cầu như ô
nhiễm môi trường, dịch bệnh, khủng hoảng kinh tế Qua quá trình phát triển lâu
dài và ở trình độ cao như hiện nay, loài người nhận ra nhu cầu phát triển bền vững
là một trong những nhu cầu sống còn và trở nên ngày càng cấp thiết. Một số vấn đề
liên quan đến hòa bình, chiến tranh, khủng bố, ô nhiễm môi trường, suy kiệt tài
nguyên, biến đổi khí hậu toàn cầu, bùng nổ về dân số, dịch bệnh hiểm nghèo
đang trở thành những vấn đề nóng bỏng và vô cùng khẩn cấp đối với thế giới.
Điều đáng chú ý là số lượng các vấn đề toàn cầu này có xu hướng ngày càng
gia tăng và do tác động bởi quá trình toàn cầu hóa, những vấn đề này không còn
giới hạn trong phạm vi riêng biệt từng quốc gia, mà đã vượt ra quy mô toàn cầu; để
giải quyết thì đòi hỏi sự phối hợp và tinh thần trách nhiệm cao của cả cộng đồng
quốc tế. Đây sẽ là những nội dung đấu tranh mới và có ý nghĩa đối với các đảng
cộng sản tại Nam Á.
Những mặt trái đó của nó đặt ra rất nhiều thách thức cho các đảng trong quá
trình truyền bá tư tưởng, mở rộng hoạt động cũng như tìm kiếm các nội dung và
biện pháp đấu tranh phù hợp. Đồng thời, việc thể hiện thái độ và đề xuất giải pháp
như thế nào để đối phó với những vấn đề toàn cầu sẽ thể hiện uy tín và trách nhiệm
của các đảng trước nhân dân và vận mệnh của thế giới.
2.2.3. Tình hình phong trào cộng sản quốc tế và tương quan lực lượng
giữa chủ nghĩa xã hội với chủ nghĩa tư bản
Liên Xô tan rã và chế độ XHCN ở Đông Âu sụp đổ đã khiến CNXH trên thế
giới tạm thời lâm vào thoái trào, cán cân lực lượng trên trường quốc tế nghiêng về
phía có lợi cho CNTB. Sự đổ vỡ của phe XHCN là một tổn thất lớn đối với phong
trào cách mạng thế giới, gây nên tâm trạng dao động, hoài nghi, mất lòng tin vào
chủ nghĩa Mác-Lênin, đảng cộng sản và chế độ XHCN trong bản thân những đảng
viên cũng như đông đảo quần chúng. Nhiều đảng cộng sản trên thế giới rơi vào
khủng hoảng sâu sắc về đường lối, tổ chức, nội bộ phân hóa nghiêm trọng, bị chia
37
rẽ, phân liệt, số lượng đảng viên sụt giảm, một số đảng bị tê liệt, bị gạt ra lề đời
sống chính trị, bị đặt ra ngoài vòng pháp luật; thậm chí một số đảng bị tan rã hoặc
chuyển hóa thành đảng xã hội-dân chủ. Thêm vào đó, lợi dụng tình hình này, các
thế lực chống cộng, cơ hội, xét lại và phản động quốc tế đẩy mạnh chống phá các
đảng cộng sản nhằm thủ tiêu hoàn toàn phong trào cộng sản quốc tế và chủ nghĩa xã
hội hiện thực trên thế giới.
Về phía CNTB, nhờ nắm vốn, khoa học công nghệ, kinh nghiệm quản lý nên
đang chiếm ưu thế, tiếp tục thao túng đời sống kinh tế, chính trị, văn hóa xã hội thế
giới, đồng thời ra sức điều chỉnh thích nghi, tăng cường củng cố liên kết, liên minh
chính trị, kinh tế, quân sự hỗ trợ lẫn nhau để bảo vệ và mở rộng phạm vi thống trị
và ảnh hưởng của CNTB. Đặc biệt, các nước tư bản, thế lực đế quốc chủ nghĩa đang
triệt để lợi dụng quá trình toàn cầu hóa để bành trướng quan hệ tư bản chủ nghĩa và
chủ nghĩa tư bản ra toàn thế giới nhằm củng cố và duy trì vĩnh viễn hệ thống phân
công lao động thế giới theo mô hình “trung tâm-ngoại vi”, trong đó các nước tư bản
phát triển đóng vai trò là “trung tâm” và phần còn lại của thế giới chỉ là “ngoại vi”
chuyên cung cấp các nguồn lực cho sự phát triển của trung tâm, hứng chịu những
bất ổn và khủng hoảng nảy sinh từ sự phát triển của “trung tâm” và là dư địa cho sự
phát triển của “trung tâm”. Các nước này cũng sẵn sàng sử dụng sức mạnh, kể cả
sức mạnh quân sự, áp đặt, can thiệp và gây chiến tranh để thực hiện ý đồ bành
trướng, mở rộng ảnh hưởng và giành siêu lợi nhuận tối đa.
Mặc dù vậy, xu thế quá độ từ chủ nghĩa tư bản lên CNXH vẫn là xu thế lớn,
được khẳng định qua sự tiếp tục tồn tại, đổ...w Age (tiếng Anh), ngoài ra còn nhiều tờ
báo xuất bản bằng tiếng địa phương như Mukti Sangharsh.
- Website của đảng:
- Địa chỉ liên hệ của đảng:
+ Ajoy Bhawan, 15 Kotla Marg Road, New Delhi- 110 002.
+ E-mail của đảng: cpindia@de13.vsnl.net.in
+ Điện thoại: +91 323 5546, 3235058, 3235099
+ Fax: +91 11 3235543
- Các tổ chức quần chúng do đảng lãnh đạo: CPI có các tổ chức quần chúng
lớn như sau:
+ Tổ chức Hoà bình và Đoàn kết Toàn Ấn (AIPSO)
+ Đại hội Công đoàn Toàn Ấn (AITUC)
+ Liên đoàn Thanh niên Toàn Ấn (AIYF)
+ Liên đoàn Sinh viên Toàn Ấn (AISF)
+ Liên đoàn Quốc gia Phụ nữ Ấn Độ (NFIW)
+ Hội Nông dân Toàn Ấn (AIKS)
+ Hội Công nhân Nông nghiệp (Bharatiya Khet Mazdoor Union)
159
2. Tóm tắt lịch sử Đảng:
Đảng Cộng sản Ấn Độ (CPI) được thành lập ngày 26/12/1925. Đến năm 1964
bị phân liệt, một bộ phận tách ra thành lập đảng Cộng sản Ấn Độ Mác-xít (CPI-M), bộ
phận còn lại giữ nguyên tên Đảng Cộng sản ấn Độ (CPI) cho đến ngày nay.
Trong giai đoạn thuộc Anh, Đảng đã tích cực tham gia vào phong trào đấu
tranh của nhân dân Ấn Độ giành độc lập. Năm 1950, CPI bị cấm hoạt động, nhiều
lãnh đạo đảng bị chính quyền Quốc đại lúc đó đàn áp và bắt giam.
Từ 6/1996-11/1997, CPI lần đầu tiên tham gia Chính phủ Trung ương do
Mặt trận Thống nhất lãnh đạo gồm 13 đảng sau Bầu cử Hạ viện 11 (5/1996) với 02
Bộ trưởng (Indrajit Gupta, cố Tổng Bí thư, giữ chức Bộ trưởng Nội vụ và C.Mishra
giữ chức Bộ trưởng Nông nghiệp).
CPI không cầm quyền ở bang nào, nhưng là thành viên của Mặt trận Cánh tả cầm
quyền ở bang West Bengal và Tripura và Mặt trận Dân chủ Cánh tả ở bang Kerala. Tại
Tami Nadu, Đảng tham gia Liên minh Dân chủ Tiến bộ. Sau thất bại trong cuộc bầu cử
tháng 5/2001, CPI hiện chỉ còn tham gia cầm quyền ở bang West Bengal và Tripura.
Sau bầu cử Hạ viện 14 (tháng 5/2004), CPI giành 10 ghế, cùng với CPI-M và
các đảng Cánh tả ủng hộ Đảng Quốc đại thành lập chính phủ Liên minh Tiến bộ Thống
nhất, nhưng không tham gia chính phủ, và đóng vai trò quan trọng trên chính trường ấn
Độ. Đảng được Ủy ban Bầu cử công nhận là Đảng Quốc gia (National Party).
Tháng 7/2008, CPI cùng với CPI-M đã rút sự ủng hộ Chính phủ Liên minh
Tiến bộ thống nhất vì phản đối việc thúc đẩy quan hệ chiến lược với Mỹ qua việc
ký Hiệp định Hợp tác Hạt nhân dân sự (Hiệp định 123), dẫn đến cuộc bỏ phiếu bất
tín nhiệm Chính phủ Liên minh Tiến bộ thống nhất. Tuy vậy, Chính phủ Liên minh
Tiến bộ thống nhất đã vượt qua cuộc bỏ phiếu bất tín nhiệm (8/2008).
Đến bầu cử Hạ viện 15 (5/2009), CPI cùng các đảng Cánh tả đã thất bại nặng
nề, riêng CPI chỉ giành được 4 ghế (mất 6 ghế), hiện ở vị thế đối lập. Trong bầu cử
Viện lập pháp bang West Bengal và Kerala (tháng 5-2011), Mặt trận Cánh tả thất
bại nặng. Tại West Bengal, CPI chỉ được 2 ghế; tại Kerala, CPI được 13 ghế.
Tháng 3/2012, CPI tổ chức Đại hội XXI, bầu Phó Tổng Bí thư S. Reddy làm
Tổng Bí thư, thay đồng chí A. B. Bardhan.
Năm 3/2015, CPI tổ chức Đại hội XXII, tiếp tục bầu đồng chí S.Reddy làm
Tổng Bí thư.
3. Quan hệ với Đảng Cộng sản Việt Nam:
Hai Đảng thiết lập quan hệ chính thức từ năm 1978 và cho đến nay, quan hệ
hai đảng phát triển tốt đẹp. Hai đảng thường xuyên cử đoàn dự Đại hội đảng của
nhau và trao đổi điện mừng trong các dịp Đại hội và bầu lãnh đạo mới.
160
Về phía Bạn, Tổng Bí thư CPI thăm Việt Nam (6/1985); Phó Tổng Bí thư A.B.
Bardhan dự Đại hội VIII (6/1996); Tổng Bí thư A.B. Bardhan dự Đại hội IX (4/2001)
Đảng Đảng CSVN; Tổng Bí thư A. B. Bardhan đã dẫn đầu đoàn đại biểu cấp cao CPI
thăm chính thức Việt Nam (25/9 - 02/10/2007). Dịp Đại hội XI (2011), Đảng bạn cử
đồng chí Fraizee, Bí thư Trung ương, Tổng Biên tập Báo New Age, tham gia đoàn nhà
báo vào đưa tin về Đại hội Đảng Đảng CSVN. Gần đây nhất, Tổng Bí thư CPI S.Reddy
đã dẫn đầu đoàn đại biểu cấp cao CPI thăm Việt Nam (23-29/5/2013).
Về phía Đảng CSVN, đồng chí Vũ Oanh, Bí thư Trung ương dự Đại hội XIV
Đảng bạn (5/1988); đồng chí Đỗ Quang Thắng, Bí thư Trung ương dự Đại hội XV
(4/1991); đồng chí Nguyễn Đức Bình, Uỷ viên Bộ Chính trị dự Đại hội XVI (10/1995);
đồng chí Hữu Thọ, Ủy viên Trung ương dự Đại hội XVII (9/1998); đồng chí Nguyễn
Đức Triều, Ủy viên Trung ương, Chủ tịch Hội Nông dân Việt Nam dự Đại hội XVIII
(3/2002); đồng chí Tòng Thị Phóng, Bí thư Trung ương, Trưởng ban Dân vận Trung
ương dự Đại hội XIX (4/2005); đồng chí Nguyễn Bắc Son, Phó Ban Tuyên giáo Trung
ương dự Đại hội XX (23-27/3/2008). Do từ Đại hội XXI, Đảng CPI không chủ trương
mời đoàn quốc tế tham dự, nên Đảng Cộng sản Việt Nam gửi điện mừng Đại hội XXI
và Tổng Bí thư mới của Đảng (5/2012) và Điện mừng Đại hội XXII (2015) của CPI.
Trong dịp các đoàn cấp cao của Đảng CSVN do các đồng chí Tổng Bí thư Lê
Duẩn, Nguyễn Văn Linh, Đỗ Mười, Chủ Tịch Trần Đức Lương, Tổng Bí thư Nông
Đức Mạnh và gần đây là Thủ tướng Nguyễn Tấn Dũng, Phó Chủ tịch nước Nguyễn
Thị Doan dẫn đầu thăm Ấn Độ, Đảng bạn đều cử đoàn cấp Tổng Bí thư đến chào.
161
PHỤ LỤC 2
ĐẢNG CỘNG SẢN ẤN ĐỘ (MÁC-XÍT)
1. Thông tin cơ bản:
- Tên đảng (tiếng Việt): Đảng Cộng sản Ấn Độ (Mác-xít)
- Tên đảng (tiếng Anh): Communist Party of India (Marxit)
- Tên viết tắt của đảng: CPI-M
- Ngày thành lập đảng: 1964
- Tính chất chính trị của đảng: Cộng sản Mác xít
- Vị thế của đảng trên chính trường quốc gia: Là đảng toàn quốc
- Số lượng đảng viên: hơn 1.000.000 (theo số liệu của Đaị hội XXI của Đảng
CPI-M năm 2015).
- Cơ cấu tổ chức của đảng: CPI-M có cơ sở đảng từ cấp trung ương xuống
các bang/địa phương, được tổ chức theo mô hình sau:
+ Cấp Trung ương đứng đầu là Tổng Bí thư; Bộ chính trị (17 uỷ viên); Ban
chấp hành TW (85 uỷ viên); Ban kiểm tra Trung ương (05 uỷ viên).
+ Cấp địa phương: CPI có đảng bộ bang do một đồng chí Bí thư đảng bộ phụ trách;
+ Cấp quận, huyện: CPI có đảng bộ quận, huyện.
+ Cấp cơ sở là các chi bộ.
- Báo và Tạp chí lý luận của đảng:
+ Tuần báo Dân chủ Nhân dân (People’s Democracy) bằng Tiếng Anh và
Lok Lehar bằng tiếng Hindi (phát hành 2 tuần/1 lần). Ngoài ra còn các báo tháng,
báo tuần và báo hàng ngày xuất bản bằng tiếng địa phương.
+ Tạp chí nghiên cứu lý luận Người Mác-xít (Marxists) bằng tiếng Anh;
Marxvadi Path, ChinĐảng Cộng sản Việt Nam, Prajasakti Idelogical Bulletin (bằng
tiếng địa phương).
- Địa chỉ liên hệ của đảng: A. K. Gopalan Bhawan, 27-29 Bhai Vir Singh
Marg, New Delhi-110001.
+ Website của đảng: www.cpim.org
+ Địa chỉ e-mail của đảng: cpim@vsnl.com.
+ Điện thoại: 374 7435, 374 7436
+ Fax: 3747483
- Các tổ chức quần chúng do đảng lãnh đạo:
+ Liên đoàn thành niên dân chủ Ấn Độ (DYFI)
+ Liên đoàn sinh viên Ấn Độ (SFI)
+ Trung tâm tổ chức công đoàn Ấn Độ (CITU)
+ Tổ chức nông dân toàn Ấn(AIKS) có số lượng hội viên khoảng 30 triệu người.
162
+ Tổ chức liên minh công nhân nông nghiệp toàn Ấn (AIAWU)
+ Hiệp hội phụ nữ dân chủ toàn Ấn (AIDWA)
+ Liên đoàn nhân viên ngân hàng Ấn Độ (BEFI)
+ Liên hiệp luật sư toàn Ấn (AILU)
2. Tóm tắt lịch sử Đảng:
Ngay từ khi thành lập năm 1964, CPI-M đã cương quyết chống đảng Quốc
Đại cầm quyền, nhiều lần bị chính quyền khủng bố, đàn áp. CPI-M luôn là một
trong những đảng đối lập chủ yếu chống lại các chính sách đối nội “phản dân chủ,
phản nhân dân” của các chính phủ Quốc Đại kế tiếp nhau, của Indira Gandhi, Rajiv
Gandhi, và chính sách kinh tế mới của Naharasima Rao. Tuy nhiên, CPI-M vẫn ủng
hộ những mặt tích cực, tiến bộ trong chính sách đối ngoại của các chính phủ này.
Những năm gần đây, CPI-M đặc biệt lo ngại trước ảnh hưởng của Đảng
Nhân dân Ấn Độ mang tư tưởng phân biệt cộng đồng sẽ phá vỡ nền móng dân chủ
và khối đoàn kết quốc gia, coi việc Đảng Nhân dân Ấn Độ lên nắm quyền (3/1998)
đánh dấu một bước sang hữu của nền chính trị Ấn Độ. CPI-M xác định Đảng Nhân
dân Ấn Độ là kẻ thù số 1 cần đánh đổ. Do đó, tại bầu cử Hạ viện 14 (5/2004), CPI-
M giành được 43/544 ghế, cùng với Đảng Cộng sản Ấn Độ (CPI) và hai đảng cánh
tả (Khối Tiến lên Toàn Ấn và Đảng Cách mạng Xã hội chủ nghĩa) ủng hộ Đảng
Quốc Đại từ bên ngoài để lập Chính phủ Liên minh Tiến bộ thống nhất (UPA),
nhằm ngăn Đảng Nhân dân Ấn Độ lên cầm quyền và thúc đẩy các chính sách vì
người nghèo. Trong giai đoạn này, vai trò của CPI-M cũng như của các đảng Cộng
sản và Cánh tả khác gia tăng, có tiếng nói quan trọng trong quyết sách của chính
phủ. Trong cuộc bầu cử Tổng thống Ấn Độ (7/2007), CPI-M đã cùng CPI và các
đảng cánh tả khác đóng vai trò quan trọng, ủng hộ bà P. Patil là ứng cử viên do Liên
minh Tiến bộ thống nhất giới thiệu, trở thành nữ Tổng thống đầu tiên của Ấn Độ.
Dựa trên thỏa thuận “Chương trình Chung Tối thiểu” với Liên minh Tiến bộ thống
nhất, CPI-M cùng các đảng Cánh tả đóng một vai trò độc lập, luôn tạo áp lực và đấu
tranh nhằm đạt được những chính sách có lợi cho nhân dân và các chính sách vì
người nghèo.
Tuy nhiên, vào giai đoạn cuối nhiệm kỳ Chính phủ Liên minh Tiến bộ thống
nhất (tháng 7/2008), CPI-M đã rút sự ủng hộ Chính phủ vì phản đối việc ký Hiệp
định Hợp tác Hạt nhân dân sự với Mỹ (Hiệp định 123), dẫn đến cuộc bỏ phiếu bất
tín nhiệm Chính phủ Liên minh Tiến bộ thống nhất. Tuy vậy, Chính phủ Liên minh
Tiến bộ thống nhất đã vượt qua cuộc bỏ phiếu bất tín nhiệm (8/2008).
Bầu cử Hạ viện 15 (5/2009), CPI-M chỉ giành được 16 ghế (mất 27 ghế) và ở
vị thế đối lập. Trong bầu cử Viện lập pháp bang West Bengal và Kerala (tháng
5/2011), Mặt trận Cánh tả thất bại nặng. Tại West Bengal, nơi Mặt trận Cánh tả cầm
163
quyền suốt 34 năm từ 1977, CPI-M chỉ được 40 ghế (mất 136 ghế), Mặt trận Cánh
tả chỉ được 63/294 ghế (mất 166 ghế so). Tại Kerala, Mặt trận Dân chủ Cánh tả
(LDF) cầm quyền thất cử, chỉ được 68/140 ghế (giảm 24 ghế), riêng Đảng CPI-M
được 47 ghế (giảm 18 ghế). Hiện nay, CPI-M cùng Mặt trận Cánh tả chỉ cầm quyền
ở bang nhỏ Tripura, Đông Bắc Ấn Độ.
Sau các thất bại bầu cử, uy tín và ảnh hưởng của Cánh tả có phần giảm sút,
nội bộ Cánh tả rạn nứt. CPI-M chủ trương củng cố đoàn kết trong đảng cũng Mặt
trận Cánh tả, thực hiện chiến dịch chỉnh đốn đội ngũ đảng, tiếp tục cùng với các
đảng Cộng sản, Cánh tả khác phấn đấu lập một “Lựa chọn thứ ba” thay thế cho
Đảng Quốc Đại và Đảng Nhân dân Ấn Độ. CPI-M sẽ tiếp tục các chính sách làm cô
lập và đánh bại Đảng Cách mạng Xã hội chủ nghĩa nhưng không tham gia vào bất
kỳ một liên minh nào với Đảng Quốc Đại.
Đại hội XX tháng 4/2012, CPI-M đã thông qua chương trình hành động hai
điểm là tăng cường sức mạnh của Đảng và hợp tác vì sự thống nhất của Cánh tả,
bầu lại đồng chí Prakash Karat làm Tổng Bí thư.
3. Quan hệ với Đảng Cộng sản Việt Nam:
- Lịch sử quan hệ: Nối lại quan hệ từ năm 1978.
- Mức độ quan hệ hiện nay: Chính thức
Quan hệ hai đảng hiện phát triển tốt đẹp, thường xuyên cử đoàn dự Đại hội của
nhau và trao đổi điện mừng. Cố Tổng Bí thư E.M/S. Namboodiripad thăm Việt Nam
(10/1985); đồng chí H.S. Surjeet, Tổng Bí thư hiện nay đã vào Đảng Cộng sản Việt Nam
nhiều lần: dự Đại hội V, VI, VIII và IX của Đảng Cộng sản Việt Nam. Đồng chí
Batacharya, Bộ trưởng Nội vụ và Văn hoá chính phủ bang West Bengal thăm Việt Nam
(5/1997).
Về phía Đảng Cộng sản Việt Nam cũng đã cử đoàn đ/c Đặng Xuân Kỳ, Ủy
viên Trung ương đảng, dự Hội thảo “Bảo vệ sự trong sáng của chủ nghĩa Mác”
(5/1993); đồng chí Đào Duy Tùng, Ủy viên Bộ Chính trị dự Đại hội XV (4/1995);
đồng chí Nguyễn Văn Son, Ủy viên Trung ương, dự Đại hội XVI (10/1998); đồng
chí Nguyễn Đức Triều, Ủy viên Trung ương, dự Đại hội XVII (3/2002); đ/c Tòng
Thị Phóng, Bí thư Trung ương Đảng, Trưởng Ban Dân vận Trung ương dự Đại hội
XVIII (4/2004) và gửi điện mừng Đại hội XIX và XX của CPI-M. Đồng chí H.S.
Surjeet, Tổng Bí thư CPI-M đã đến chào Tổng Bí thư Đảng Cộng sản Việt Nam
nhân dịp Tổng Bí thư Đảng Cộng sản Việt Nam thăm chính thức Ấn Độ (4/2003).
164
PHỤ LỤC 3
ĐẢNG CỘNG SẢN NEPAL (MÁC-XÍT LÊ-NIN-NÍT THỐNG NHẤT)
1. Thông tin cơ bản:
- Tên đảng (tiếng Việt): Đảng Cộng sản Nepal (Mác xít Lêninít Thống nhất)
- Tên đảng (tiếng Anh): Communist Party of Nepal (Unified Marxist Leninnist)
- Tên viết tắt của đảng: CPN-UML
- Ngày thành lập đảng: 05/01/1991
- Tính chất chính trị của đảng: Cộng sản Mác-xít.
- Vị thế của đảng trên chính trường quốc gia: Là 1 trong 7 đảng chính trị chủ
chốt trên chính trường Nepal.
- Số lượng đảng viên: 260.000 đảng viên (số liệu Đại hội IX của Đảng CPN-
UML năm 2014).
- Cơ cấu tổ chức của đảng: CPN-UML có cơ sở đảng từ trung ương tới địa
phương, được tổ chức như sau:
+ Ở trung ương: Chủ tịch đảng, Bộ chính trị (13 uỷ viên) và Ban chấp hành
TW (43 ủy viên chính thức và 12 dự khuyết).
+ Ở cấp địa phương: CPN-UML có các đảng bộ bang/quận/huyện và các chi bộ.
- Báo và Tạp chí của Đảng: Báo Đảng xuất bản bằng tiếng Nepal và Tạp chí
Kỷ nguyên Mới (New Era) xuất bản bằng tiếng Anh.
- Địa chỉ liên hệ: 5471 Mandan Nagar, Balkhu, Kathmandu, Nepal
+ Website của Đảng: www.cpnuml.org
+ Địa chỉ e-mail của đảng:
+ Điện thoại: 977-1- 4231012, 977-1- 4278081, 977-1- 4278082
+ Fax: 977-1-4278084
- Các tổ chức quần chúng do đảng lãnh đạo: GEFONT (Tổng công đoàn);
ANWA (Hội phụ nữ); ANFYA (Đoàn Thanh niên); ANFSA (Hội sinh viên); ANPA
(Hội Nông dân)
2. Tóm tắt lịch sử Đảng
Tiền thân của Đảng Cộng sản Nepal Mác-xít Lê-nin-nít Thống nhất là Đảng
Cộng sản Nepal (CPN) được thành lập vào ngày 22/4/1949 dưới sự lãnh đạo của
đồng chí Pushpalal khi nhân dân đang tiến hành cuộc đấu tranh chống lại chế độ
chuyên quyền Rana.
Trong những năm đầu thành lập, Đảng CPN đã vận động quần chúng từ
nông dân, công nhân, phụ nữ, sinh viên và thanh niên, đấu tranh đòi thiết lập nền
dân chủ mới giải phóng đất nước khởi sự bóc lột của CNĐQ và chế độ phong kiến
và củng cố độc lập dân tộc. Đảng đã bị cấm hoạt động trong 3 năm từ 1952. Đại hội
165
đầu tiên của Đảng được tổ chức vào ngày 30/1/1954. Đại hội thứ II của Đảng được
tổ chức từ ngày 8/5/1957 và đồng chí Dr.Keshar Jung Rayamajhi được bầu làm
Tổng Bí thư của Đảng.
Đảng CPN đã tham gia cuộc bầu cử Quốc hội năm 1959, giành 4/109 ghế ở
Quốc hội. Năm 1960, Đảng phản đối cuộc đảo chính hoàng gia (12/1960), lên án
việc giải tán Quốc hội dân cử và lệnh cấm tất cả các chính đảng và tổ chức quần
chúng hoạt động.
Đại hội lần thứ III của Đảng được tổ chức tháng 4/1962, bầu đồng chí
Tulsilal Amatya làm Tổng Bí thư và thông qua Cương lĩnh Dân chủ quốc gia, tuy
nhiên Đại hội không điều phối các ý kiến khác biệt trong Đảng và dẫn tới xuất hiện
nhiều nhóm phân liệt trong Đảng.
Năm 1978, Đảng Cộng sản Nepal Mác-xít Lê-nin-nít (CPN-ML) được thành
lập và đồng chí C.P Mainali đã trở thành Tổng bí thư đầu tiên của Đảng. Đại hội lần
thứ IV của CPN-ML diễn ra vào năm 1989 và đồng chí Madan Kumar Bhandari
được bầu làm Tổng Bí thư của Đảng. Trong những năm 1980, Đảng tổ chức nhiều
cuộc vận động khác nhau như cuộc vận động củng cố và chỉnh đốn Đảng. Đảng
thành lập nhiều tổ chức quần chúng khác nhau nhằm mở rộng, tăng cường và làm
sâu sắc thêm cuộc đầu tranh chính trị.
Năm 1986, hai Đảng cộng sản do đồng chí Man Mohan Adhikari và đồng chí
Sahana Pradhan đã sáp nhập và thành lập Đảng Cộng sản Nepal Mác-xít (CPN-M).
Năm 1990, một số đảng cộng sản khác bao gồm cả CPN-ML và CPN-M đã thành
lập Mặt trận cánh tả thống nhất tiến hành phong trào quần chúng chống lại chế độ
chuyên quyền Panchayat. Phong trào quần chúng đã thành lập nền dân chủ đa đảng
tại Nê-pan. Sau khi hệ thống đa đảng được thiết lập năm 1990, đảng CPN-ML và
CPN-M đã sáp nhập thành Đảng CPN-UML vào tháng 1/1991.
Đại hội lần thứ V của CPN-UML được tổ chức vào tháng 1/1993 tại
Kathmandu. Đại hội là dấu mốc quan trọng trong lịch sử của phong trào cộng sản
Nepal. Đại hội lần thứ V được tổ chức trong bầu không khí cởi mở và dân chủ và có
sự tham dự của nhiều lãnh đạo chính trị nước ngoài. Đại hội đã thông qua Cương
lĩnh chính trị Nền Dân chủ đa đảng của nhân dân (PMPD) do cố đồng chí Madan
Bhandari đề xuất – người bị chết sau đó trong một vụ tai nạn xe jeep bí ấn vào ngày
16/5/1993. Đại hội lần thứ V cũng thông qua Điều lệ Đảng mới với cơ cấu tổ chức
được xác định lại rõ ràng. Đồng chí Man Mohan Adhikari được bầu làm Chủ tịch và
đồng chí Madan Bhandari là Tổng Bí thư của Đảng. Sau cái chết của đồng chí
Madan Bhandari và Jivaraj Ashrit, đồng chí Madhav Kumar Nepal đã giữ vị trí
Tổng Bí thư Đảng.
166
Đại hội lần thứ VI của Đảng diễn ra từ ngày 25-31/1/1998. Tình hình chính
trị đất nước bất ổn định sau năm 1993 đã gây ra các tác động bất lợi cho Đảng. Tuy
nhiên, ngay sau Đại hội VI, Đảng đối mặt với tình hình khó khăn khác vào năm
1998, đó là một nhóm lãnh đạo và đảng viên đã rời khỏi đảng và lập nên một chính
đảng khác với tên gọi CPN-ML. Nhận ra những sai lầm trước đây, CPN-ML lại tái
sáp nhập với CPN-UML vào ngày 15/3/2002.
Đại hội lần thứ VII đã bầu Ban chấp hành TW gồm 35 đồng chí và đồng chí
Man Mohan Adhikari làm Chủ tịch Đảng và đồng chí Madhav Kumar Nê-pan làm
Tổng Bí thư.
Đại hội lần thứ VIII được tổ chức từ ngày 16-21/2/2009 tại Butwal, Lumbini
với sự tham dự của 1.700 đại biểu. Đại hội thảo luận các vấn đề của đất nước như
hòa bình, quá trình xây dựng hiến pháp, tổ chức bộ máy nhà nước và phát triển kinh
tế cũng như các vấn đề tổ chức Đảng và chính trị nội bộ.
Đại hội lần thứ IX của Đảng được tổ chức tại Kathmandu năm 2014, bầu
đồng chí K.P Oli làm Chủ tịch Đảng.
3. Quan hệ với Đảng Cộng sản Việt Nam:
- Hai Đảng thiết lập vào tháng 4/1992 nhân chuyến thăm Nepal của Đoàn đại
biểu Đảng Cộng sản Việt Nam do đồng chí Đỗ Quang Thắng, Bí thư trung ương
dẫn đầu.
- Mức độ quan hệ hiện nay: Chính thức.
Từ 1992 đến nay quan hệ hai đảng phát triển tốt. Đảng bạn gửi điện mừng
Đại hội VIII (6/1996) và Đại hội IX của Đảng Cộng sản Việt Nam (4/2001). Tháng
7/1997, đồng chí Tổng Bí thư Madhav Kumar Nepal dẫn đầu đoàn đảng CPN-UML
thăm chính thức Việt Nam. Đảng Cộng sản Việt Nam đã gửi điện mừng Đại hội V của
CPN-UML (1/1993), cử đoàn do đồng chí Nguyễn Đức Triều, Ủy viên Trung ương
dẫn đầu dự Đại hội VI Đảng CPSL (1/1998), cử đoàn do đồng chí Trần Đức Lượng
dẫn đầu dự Hội thảo “CNXH trong thế kỷ XXI” do Đảng bạn tổ chức (12/2000).
Tháng 2/2003, đoàn do đồng chí Đỗ Nguyên Phương, Ủy viên Trung ương Đảng,
Trưởng Ban Khoa giáo Trung ương dẫn đầu dự Đại hội VII của CPN(UML). Tiếp theo
đó, Đảng CSVN đều cử đoàn sang dự Đại hội VIII (2009) và Đại hội IX (2014) của
CPN-UML.
167
PHỤ LỤC 4
ĐẢNG CỘNG SẢN SRI LANKA
1. Thông tin cơ bản:
- Tên đảng (tiếng Việt): Đảng Cộng sản Sri Lanka
- Tên đảng (tiếng Anh): Communist Party of Sri Lanka
- Tên viết tắt của đảng: CPSL
- Ngày thành lập đảng: 03/7/1943
- Tính chất chính trị của đảng: Cộng sản Mác-xít
- Vị thế của đảng trên chính trường quốc gia: Là đảng tham chính trong Liên
minh Nhân dân cầm quyền.
- Số lượng đảng viên: khoảng 5.000 đảng viên (theo số liệu Đại hội XIX của
CPSL năm 2010).
- Cơ cấu tổ chức của đảng: Tổng Bí thư: Là người đứng đầu Đảng; Bộ chính
trị: 15 thành viên; Ban chấp hành TW: 55 thành viên (số liệu ĐH XVII 12/2002);
Ủy Ban kiểm tra Trung ương.
- Báo và tạp chí lý luận của Đảng:
- Địa chỉ liên hệ của đảng: 91, Dr. N. M. Perera Mawatha, Colombo 8.
+ Địa chỉ e-mail của đảng: dew 128@dialogsl.net
+ Điện thoại: 94+2695328
+ Fax: 94+2691610
- Các tổ chức quần chúng do đảng lãnh đạo: CPSL có các tổ chức công đoàn,
thanh niên, phụ nữ, nhưng mạnh nhất là Hội sinh viên: Liên đoàn thanh niên cộng
sản (CYF). CYF là tổ chức thành viên của Liên đoàn thanh niên dân chủ thế giới.
2. Tóm tắt lịch sử Đảng:
Thành lập ngày 03/7/1943, tách ra từ đảng Xã hội Bình đẳng Sri Lanka. Từ
khi thành lập năm 1943, Đảng Cộng sản Sri Lanka hoạt động trong phong trào công
nhân và tham gia đấu tranh giành độc lập chống thực dân Anh. Tại Đại hội 4 năm
1950, Đảng quyết định đấu tranh công khai bằng con đường nghị trường nhằm
giành chính quyền để đưa đất nước tiến lên Chủ nghĩa Xã hội. Những năm 1960,
Đảng ủng hộ chính phủ của ông Bandaranaike trong các chính sách đối nội và đối
ngoại tiến bộ. Từ năm 1968, Đảng tham gia Mặt trận Thống nhất gồm 3 Đảng: Tự
do, Xã hội và Cộng sản, tham gia chính phủ Mặt trận từ năm 1970 khi Mặt trận lên
cầm quyền, nhưng sau đó rút ra để phản đối việc chính phủ này thân hữu. Nội bộ
Đảng cũng có bất đồng trong chủ trương đối với Đảng tư sản cầm quyền (2/1977).
Tại Đại hội 11 của Đảng họp năm 1980 đã tự phê bình việc Đảng tham gia
chính phủ liên hiệp với đảng Tự do. Tuy nhiên, để duy trì tính độc lập của mình,
168
đấu tranh vì quyền lợi cơ bản của nhân dân, Đảng cũng nhận định rằng trong điều
kiện hiện nay muốn giành chính quyền phải tiến hành bằng phương pháp hoà bình,
thông qua đấu tranh quần chúng để thực hiện những biến đổi xã hội, trước mắt là
đấu tranh bảo vệ các quyền dân sinh, dân chủ của quần chúng, chống các chính sách
đối nội và đối ngoại của chính quyền do đảng quốc gia thống nhất (UNP) lãnh đạo.
Tại cuộc bầu cử 1970, đảng giành được 6 ghế Quốc hội. Đảng tham gia
chính phủ Liên hiệp của Mặt trận Thống nhất gồm 3 đảng : Tự do, Xã hội và Cộng
sản, giữ một chức Bộ trưởng và hai Thứ trưởng trong chính phủ. Tháng 2/1977,
Đảng rút khỏi chính phủ liên hiệp. Trong bầu cử Quốc hội tháng 7/1977, Đảng
không giành được ghế nào, nhưng đến tháng 9/1986, Đảng được quyền chỉ định một
nghị sỹ thay thế cho một nghị sỹ cánh tả ốm chết.
Do sự bùng nổ xung đột chủng tộc trong nước, Đại hội XII dự định họp vào
tháng 8/1983 buộc phải hoãn lại đến tháng 1/1984. Đại hội XIII của Đảng họp
tháng 3/1987 nhận định rằng tình hình chính trị khủng hoảng trong nước một phần
do mưu đồ của giai cấp cầm quyền, họ tiến hành những chiến dịch trực tiếp chống
người Đảng Cộng sản Việt Nammil thiểu số, chống lại các lực lượng cánh tả và
tiến bộ, phục vụ cho ý đồ chống Liên Xô và ấn Độ của Mỹ tại khu vực này. Đảng
Cộng sản Sri Lanka chủ trương tập hợp các lực lượng cánh tả và dân chủ trong
một Mặt trận thống nhất mà nòng cốt là Đảng cộng sản, Đảng Dân chủ Nhân dân
(nhóm tách ra từ Đảng Tự do), đấu tranh cho chủ quyền và độc lập thực sự, chống
đàn áp và duy trì cuộc sống hoà bình. Về vấn đề người Đảng Cộng sản Việt
Nammil, Đảng chủ trương ủng hộ một giải pháp lâu dài trên cơ sở quyền tự trị của
người Đảng Cộng sản Việt Nammil trong một nước Sri Lankathống nhất.
Đại hội XIV của Đảng họp tháng 3/1991, đồng chí K.P.Silva được bầu làm
Tổng Bí thư. Sau các cuộc bầu cử Quốc hội tháng 8 và tháng 11 năm 1994, CPSL
quyết định tham gia Liên minh Nhân dân (LA) cầm quyền do đảng Tự do của bà C.
Kumaratunga lãnh đạo; CPSL giữ một chức Bộ trưởng trong chính phủ và có 5 nghị sỹ
Quốc hội.
Đại hội XV họp tháng 2/1995 đồng chí Raja Collure được bầu làm Tổng Bí thư
thay đồng chí K.P.Silva, đồng chí Pieter Keuneman làm Chủ tịch Đảng, đồng chí Dew
Gunasekera làm Phó Chủ tịch. Đại hội khẳng định vai trò và đóng góp tích cực của
Đảng Cộng sản Sri Lanka trong Liên minh Nhân dân. Đại hội thông qua quyết định của
Đảng tham gia chính phủ hiện nay với mục tiêu bảo vệ và mở rộng các quyền dân chủ
và tự do, mở rộng hệ thống phúc lợi xã hội và bảo đảm công bằng xã hội.
Từ Đại hội XV đến Đại hội XIX năm 2010, Đảng CPSL thiết lập quan hệ đồng
minh với Đảng Tự do Sri Lanka với việc tham gia Liên minh Nhân dân (PA).
169
3. Quan hệ với Đảng Cộng sản Việt Nam:
- Đảng Cộng sản Việt Nam và Đảng Cộng sản Sri Lanka có quan hệ từ khi
Đảng CPSL còn thống nhất. Trong thời gian 1964-1978, quan hệ bị gián đoạn. Từ
năm 1980 quan hệ chính thức giữa hai đảng được tiếp tục.
- Mức độ quan hệ hiện nay: Quan hệ chính thức.
Đảng Cộng sản Việt Nam đã cử đoàn dự Đại hội XI (1980). Năm 1982, đồng
chí Tổng Bí thư K.P. Silva vào dự Đại hội V của Đảng Cộng sản Việt Nam. Những
năm gần đây trao đổi đoàn tăng lên, Đảng Cộng sản Việt Nam cử đoàn dự Đại hội
XV (1991) và Đại hội XVI (11/1998) của CPSL. Đồng chí Nguyễn Quang Tạo, Chủ
tịch Liên hiệp Việt Nam thăm Sri Lanka (9/1997); đồng chí Sudasinghe, Phó Chủ tịch
CPSL, Hội hữu nghị Sri Lanka-Việt Nam thăm Việt Nam tháng 11/1998, 11/2000,
10/2003 và tháng 2/2004. Đảng Cộng sản Việt Nam cử đoàn do đ/c Phạm Tất Dong,
Phó Ban Khoa giáo Trung ương làm trưởng đoàn, dự Đại hội XVII của Đảng bạn
(12/2002) và các đoàn cấp Phó Trưởng Ban dự Đại hội XVIII (2006) và XIX (2010)
của CPSL.
170
PHỤ LỤC 5
ĐẢNG CỘNG SẢN BANGLADESH
1. Thông tin cơ bản:
- Tên đảng (tiếng Việt): Đảng Cộng sản Bangladesh
- Tên đảng (tiếng Anh): Communist Party of Bangladesh
- Tên viết tắt của đảng: CPB
- Ngày thành lập đảng: 06/3/1948
- Tính chất chính trị của đảng: Cộng sản Mác-xít
- Vị thế của đảng trên chính trường quốc gia: đảng đối lập
- Số lượng đảng viên: 10.000 đảng viên (Số liệu Đại hội X của Đảng
CPB năm 2013).
- Cơ cấu tổ chức của đảng: CPB được tổ chức theo cơ cấu sau: Đứng đầu
đảng là Chủ tịch Đảng; Bộ Chính trị; Hội đồng Toàn quốc (160 thành viên); Ban
chấp hành TW (37 thành viên); Ủy Ban kiểm tra Trung ương
- Báo và tạp chí của Đảng
- Địa chỉ liên hệ của đảng: 21/1 Purana PalĐảng Cộng sản Việt Namn
Dhaka-1000
+ Website của đảng: www.cpbdhaka.org
+ Địa chỉ e-mail của đảng: cpbdhaka@aitlbd.net
+ Điện thoại: 9558612, 9554703
+ Fax: (880-2)9552333
- Các tổ chức quần chúng do Đảng lãnh đạo: Liên đoàn thanh niên
Bangladesh và Liên đoàn sinh viên Bangladesh
2. Tóm tắt lịch sử Đảng:
Đảng được thành lập ngày 06/3/1948 khi phe Đông Pakistan của Đảng Cộng
sản Pakistan trở thành 1 đảng độc lập. Ban đầu đảng được biết dưới tên Đảng Cộng
sản Đông Pakistan.
Đảng đã cùng các lực lượng yêu nước tham gia chiến tranh giải phóng năm
1971. Từ 1975, Bangladesh trải qua nhiều cuộc đảo chính (8/1975, 10/1977, 3/1980,
3/1982, 1985) và giới quân sự lên nắm quyền. Đảng Cộng sản nhiều lần bị cấm hoạt
động, nhiều lãnh tụ của đảng bị giam cầm.
Từ giữa năm 1985, CPB ra hoạt động công khai, tham gia cuộc bầu cử quốc
hội 6/1986 và giành được 05 ghế.
Đại hội IV (4/1987) của CPB chủ trương đoàn kết tất cả các lực lượng cánh
tả và dân chủ trong hai liên minh đối lập với chính phủ Ershad nhằm xoá bỏ chế độ
quân luật, thực hiện tổng tuyển cử một cách dân chủ và các quyền tự do cơ bản của
171
nhân dân lao động, chống các chính sách thân Mỹ của chính quyền và lực lượng
phản động.
Trong bối cảnh Liên xô và các nước XHCN ở Đông Âu sụp đổ, một bộ phận
lãnh đạo CPB (15 Uỷ viên Trung ương) không tán thành quan điểm tránh đối đầu
với chính quyền Ershad (có từ sau Đại hội IV tháng 4/1997) đã tách ra tổ chức Đại
hội, thành lập đảng mới vào tháng 6/1993. Phái còn lại (gồm đa số Uỷ viên Trung
ương) tiếp tục giữ nguyên tên đảng CPB và nêu mục tiêu đấu tranh: phát triển, dân
chủ, dân tộc chủ nghĩa và công bằng xã hội”.
CPB chủ trương làm cách mạng dân tộc dân chủ tiến lên chủ nghĩa xã hội
không qua giai đoạn phát triển tư bản chủ nghĩa. Đảng tuyên bố là đảng của giai cấp
công nhân và theo chủ nghĩa Mác Lê-nin.
Đại hội VIII (5/2003) nêu khẩu hiệu: nền độc lập của Bangladesh đang bị đe
dọa bởi chủ nghĩa phân biệt cộng đồng, trào lưu chính thống và chủ nghĩa khủng bố;
nhiệm vụ chủ yếu của Đảng là tìm kiếm một sự “chuyển hoá dân chủ về xã hội”, có
nghĩa là xây dựng một nền kinh tế tự lực, tự cường, thoát khỏi những chính sách tự do
mới và ảnh hưởng của đế quốc, đi đôi với tiêu diệt tận gốc chủ nghĩa phong kiến và nền
chính trị bị tiền bạc thao túng. Mặt khác, Đại hội cũng cho rằng CPB không thể tự
mình thực hiện được nhiệm vụ nói trên, mà cần phải đóng vai trò nòng cốt để xây dựng
một Mặt trận Dân chủ Cánh tả bao gồm tất cả các đảng các tả và các lực lượng dân
chủ, thế tục, tiến bộ khác ở Bangladesh. CPB tham gia tích cực vào cả Mặt trận Dân
chủ Cánh tả 7 đảng (với CPB, Đảng Công nhân và Đảng Xã hội Chủ nghĩa Băng-la-đét
(BSD) làm nòng cốt) và Mặt trận Thống nhất rộng rãi hơn được gọi là “Liên minh 11
đảng” trong đó có sự tham gia của 7 đảng cánh tả và 4 đảng dân chủ, thế tục và tự do.
Bên cạnh nhiệm vụ là lực lượng chủ trì việc xây dựng các mặt trận nói trên
và phát triển lực lượng thay thế thứ ba, CPB cũng chủ trương đấu tranh chống lại
ảnh hưởng ngày càng tăng của chủ nghĩa phân biệt cộng đồng và của trào lưu chính
thống Hồi giáo có lực lượng chính là Đảng Jamaat-e-Islami.
Đại hội cũng đề cập những nội dung và biện pháp tổ chức nhằm từng bước
xây dựng một Đảng Cộng sản Bangladesh vững mạnh, trong sạch, đáp ứng được vĩ
trí, vai trò của Đảng trong phong trào cộng sản, cánh tả của Bangladesh trong giai
đoạn mới.
Đại hội IX (tháng 8/2008) khẳng định sự cần thiết của việc tiến hành
“chuyển hoá dân chủ cách mạng”, dưới sự lãnh đạo của một lực lượng dân chủ cánh
tả do CPB đóng vai trò nòng cốt, nhằm thay thế cho hai lực lượng chính hiện nay là
Đảng Dân tộc Bangladesh (BNP) và Liên đoàn Nhân dân (AL). Đại hội kêu gọi các
tổ chức quần chúng và mọi tầng lớp nhân dân lao động tại Bangladesh hãy đoàn kết,
thống nhất trong cuộc đấu tranh chống chủ nghĩa tư bản, chủ nghĩa đế quốc, các lực
172
lượng phát-xít, phản động và chế độ chuyên quyền; tăng cường hơn nữa mối liên
kết giữa CPB với Đảng Công nhân và một số đảng cánh tả khác ở Bangladesh, cũng
như sự hợp tác giữa các đảng cộng sản, công nhân, cánh tả và các lực lượng tiến bộ
ở khu vực và trên toàn thế giới.
3. Quan hệ với Đảng Cộng sản Việt Nam:
Mức độ quan hệ hiện nay: quan hệ chính thức (từ 5/2003).
Trước đây Đảng Cộng sản Việt Nam có quan hệ tốt với CPB, đã từng cử
đoàn cấp Đại sứ (Ấn Độ) dự Đại hội IV Đảng CPB (tháng 4/1987), gửi điện mừng
Đại hội V vào tháng 11/1990. Nhưng từ đầu năm 1993, quan hệ hai bên bị gián
đoạn do Đảng CPB bị phân liệt do bất đồng nội bộ.
Tại Đại hội VIII của CBP (06/5-09/5/2003), Đảng Cộng sản Việt Nam cử
đoàn do đồng chí Nguyễn Huy Quang, Phó Trưởng Ban Đối ngoại Trung ương làm
trưởng đoàn dự, sự kiện được xem như dấu mốc nối lại quan hệ chính thức giữa hai
Đảng. Từ đó, Đảng CSVN cử đoàn cấp Phó Trưởng Ban Đảng dự Đại hội IX
(2008) và Đại hội X (2013) của CPB.