VIỆN HÀN LÂM
KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM
HỌC VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI
TẠ THỊ LÊ
HOẠT ĐỘNG CỦA GIÁO ĐOÀN NI
THUỘC HỆ PHÁI KHẤT SĨ TẠI THÀNH PHỐ
HỒ CHÍ MINH
LUẬN ÁN TIẾN SĨ TÔN GIÁO HỌC
Hà Nội – 2020
VIỆN HÀN LÂM
KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM
HỌC VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI
TẠ THỊ LÊ
HOẠT ĐỘNG CỦA GIÁO ĐOÀN NI
THUỘC HỆ PHÁI KHẤT SĨ TẠI THÀNH PHỐ
HỒ CHÍ MINH
Ngành: Tôn giáo học
Mã số: 9 22 90 09
LUẬN ÁN TIẾN SĨ TÔN GIÁO HỌC
Người hướng dẫn khoa học:
1. PGS.TS Trần Hồng Liên
194 trang |
Chia sẻ: huong20 | Ngày: 17/01/2022 | Lượt xem: 353 | Lượt tải: 0
Tóm tắt tài liệu Luận án Hoạt động của giáo đoàn ni thuộc hệ phái khất sĩ tại thành phố Hồ Chí Minh, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
2. PGS.TS Nguyễn Thị Minh Ngọc
Hà Nội – 2020
LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan đây là công trình nghiên cứu của riêng tôi. Các số
liệu, kết quả nêu trong luận án là trung thực. Kết quả trình bày của luận án
chưa từng được ai công bố trong bất kỳ công trình nào khác.
Hà Nội, ngày 12 tháng 16 năm 2020
Nghiên cứu sinh
Tạ Thị Lê
LỜI CẢM ƠN
Tôi xin chân thành cảm ơn Ban Giám đốc Học viện Khoa học xã hội, Phòng
Quản lý Đào tạo, Khoa Tôn giáo học cùng quý thầy cô của Học viện Khoa học xã
hội đã giúp đỡ, tạo điều kiện để tôi hoàn thành chương trình học tập, nghiên cứu và
hoàn thành luận án.
Tôi xin cảm ơn lãnh đạo, cán bộ Học viện Chính trị khu vực II đã tạo điều
kiện thuận lợi để tôi học tập và nghiên cứu.
Đặc biệt, tôi xin bày tỏ lòng biết ơn sâu sắc đến hai cô hướng dẫn đề tài luận
án là: PGS.TS Trần Hồng Liên và PGS.TS Nguyễn Thị Minh Ngọc đã hết lòng dìu
dắt, tận tình chỉ bảo; xin cảm ơn các thầy cô trong Hội đồng chấm tuyển Nghiên
cứu sinh đầu vào, Hội đồng chấm các chuyên đề luận án, Hội đồng chấm luận án
cấp cơ sở và hai phản biện độc lập đã cho tôi những ý kiến quý báu để tôi hoàn
thành luận án này.
Xin cảm ơn quý thầy cô, các bạn ở Viện Nghiên cứu Tôn giáo, Tạp chí
Nghiên cứu Tôn giáo; các bạn trực tiếp làm công tác quản lý nhà nước về hoạt động
tôn giáo ở thành phố Hồ Chí Minh, các Sư, Ni, đặc biệt là các Ni tại Tịnh xá Ngọc
Phương, Ngọc Chơn, Ngọc Phú, Ngọc Văn mà tôi có cơ hội được gặp gỡ đã tạo
điều kiện giúp đỡ tôi trong suốt thời gian sưu tầm tài liệu và nghiên cứu.
Xin cảm ơn gia đình, các bạn hữu và đồng nghiệp đã khích lệ và động viên tôi
trong suốt quá trình học tập, nghiên cứu.
Xin chân thành cảm ơn./.
Hà Nội, ngày tháng năm 2020
Nghiên cứu sinh
Tạ Thị Lê
MỤC LỤC
MỞ ĐẦU ................................................................................................................... 1
Chƣơng 1: TỔNG QUAN TÌNH HÌNH NGHIÊN CỨU ..................................... 7
1.1. Nguồn tài liệu ..................................................................................................... 7
1.1.1. Nguồn tài liệu gốc của Hệ phái Khất sĩ ........................................................... 7
1.1.2. Nguồn tài liệu của Giáo hội Phật giáo Việt Nam. ........................................... 9
1.2. Các công trình nghiên cứu ................................................................................ 10
1.2.1. Các công trình nghiên cứu về Phật giáo và Phật giáo Việt Nam .................. 10
1.2.2. Các công trình nghiên cứu về Hệ phái Khất sĩ và Ni giới Hệ phái Khất sĩ ... 19
1.2.3. Đánh giá chung về tình hình nghiên cứu ....................................................... 25
1.2.4. Những vấn đề cần tiếp tục nghiên cứu: ......................................................... 26
1.3. Khung lý thuyết và một số khái niệm ............................................................... 26
1.3.1. Khung lý thuyết nghiên cứu .......................................................................... 26
1.3.2. Mô hình khung phân tích ............................................................................... 30
1.3.3. Một số khái niệm công cụ sử dụng trong luận án .......................................... 31
Chƣơng 2: QUÁ TRÌNH HÌNH THÀNH, PHÁT TRIỂN, ĐẶC ĐIỂM CỦA
HỆ PHÁI KHẤT SĨ, NI GIỚI KHẤT SĨ VÀ GIÁO ĐOÀN NI THUỘC HỆ
KHẤT SĨ TẠI THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH ................................................... 36
2.1. Khát quát về quá trình hình thành và phát triển của hệ phái Khất Sĩ ............ 36
2.1.1. Hoàn cảnh ra đời ............................................................................................ 36
2.1.2. Quá trình hình thành và phát triển ................................................................. 38
2.2. Khái quát quá trình hình thành và phát triển của của tổ chức Ni giới thuộc Hệ
phái Khất sĩ .............................................................................................................. 47
2.2.1. Khái quát về quá trình hình thành Ni giới Hệ phái Khất sĩ. .......................... 47
2.2.2 Khái quát về các phân đoàn Ni ....................................................................... 54
2.2.3. Khái quát về Giáo Đoàn Ni thuộc Hệ phái Khất sĩ tại thành phố Hồ Chí
Minh ......................................................................................................................... 58
2.3. Một số đặc điểm của Hệ phái Khất sĩ, Ni giới Hệ phái khất sĩ và Giáo đoàn Ni
thuộc Hệ phái Khất sĩ tại thành phố Hồ Chí Minh .................................................. 61
2.3.1. Một số đặc điểm của Hệ phái Khất sĩ ............................................................ 61
2.3.2. Một số đặc điểm của Ni giới Hệ phái Khất sĩ và Giáo đoàn Ni thuộc Hệ phái
Khất sĩ tại thành phố Hồ Chí Minh ......................................................................... 70
Chƣơng 3: VAI TRÒ CỦA GIÁO ĐOÀN NI THUỘC HỆ PHÁI KHẤT SĨ
TẠI THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH TRONG CÁC HOẠT ĐỘNG TÔN GIÁO
VÀ HOẠT ĐỘNG HƢỚNG ĐẾN XÃ HỘI ........................................................ 76
3.1. Một số điều lệ quy định hoạt động của Giáo đoàn Ni thuộc Hệ phái Khất sĩ .. 76
3.2. Vai trò của Giáo đoàn Ni thuộc Hệ phái Khất sĩ tại thành phố Hồ Chí Minh
hoạt động thuần túy tôn giáo ................................................................................... 82
3.2.1. Hoạt động hoằng pháp .................................................................................... 82
3.2.2. Khất thực và tụng niệm ................................................................................. 87
3.2.3. Giảng kinh, thuyết pháp và tập trung Tự tứ ................................................ 101
3.2.4. Hoạt động giáo dục ...................................................................................... 110
3.3. Vai trò của Giáo đoàn Ni thuộc Hệ phái Khất sĩ tại thành phố Hồ Chí Minh
hoạt động hướng đến xã hội .................................................................................. 115
3.3.1. Hoạt động bảo vệ và xây dựng đất nước ..................................................... 115
3.3.2. Hoạt động từ thiện xã hội ............................................................................ 121
Chƣơng 4: XU HƢỚNG, MỘT SỐ VẤN ĐỀ ĐẶT RACỦAGIÁO ĐOÀN NI
THUỘC HỆ PHÁI KHẤT SĨ TẠI THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH HIỆN NAY 126
4.1. Một số xu hướng chuyển biến ........................................................................ 126
4.1.3. Xu hướng trở thành một nguồn lực xã hội .................................................. 130
4.2. Những vấn đề đặt ra ....................................................................................... 132
4.2.1. Vấn đề đặt ra về hoạt động thuần túy tôn giáo ............................................ 133
4.2.2. Vấn đề đặt ra trong hoạt động xã hội của Giáo đoàn Ni thuộc Hệ phái Khất sĩ
............................................................................................................................... 137
4.2.3. Những vấn dề đặt ra đối với việc quản lý của chính quyền đối với Giáo đoàn
Ni thuộc Hệ phái Khất sĩ ......................................................................................... 143
KẾT LUẬN .......................................................................................................... 148
DANH MỤC CÔNG TRÌNH ĐÃ CÔNG BỐ CỦA TÁC GIẢ ....................... 151
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO ........................................................... 152
DANH MỤC SƠ ĐỒ
Sơ đồ 1.1: Khung phân tích nghiên cứu hoạt động của Giáo đoàn Ni thuộc Hệ phái
Khất sĩ tại thành phố Hồ Chí Minh ......................................................................... 31
1
MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Trong ngôi nhà của Phật giáo Việt Nam có một số hệ phái Phật giáo mang
tính đặc thù trong đó có Hệ phái Khất sĩ. Người sáng lập ra Hệ phái Khất sĩ là Tổ
sư Minh Đăng Quang. Ngay từ thời kỳ đầu thành lập trong hàng ngũ xuất gia của
Hệ phái ngoài Tăng còn có Ni giới. Theo thời gian, Ni giới của Hệ phái thấy cần
thiết phải thành lập một tổ chức riêng, người có công đầu là Ni trưởng Huỳnh
Liên. Tổ chức Ni giới của Hệ phái có tên gọi: Giáo hội Ni giới Khất sĩ Việt Nam.
Trụ sở của Giáo hội đặt tại tịnh xá Ngọc Phương (nay tạisố 491/1 đường Lê
Quang Định, phường 1, Quận Gò Vấp, thành phố Hồ Chí Minh).
Giáo đoàn Ni thuộc Hệ phái Khất sĩ, ngoài những hoạt động mang tính
chất chung của Hệ phái Khất sĩ, trong đó có Ni đoàn còn có những biểu hiện
riêng bởi tính độc lập tương đối của tổ chức này. Kể từ khi thành lập, đặc biệt là
từ thời điểm tháng 11 năm 1981, Hệ phái Khất sĩ trong đó có Giáo đoàn Ni Hệ
phái Khất sĩ gia nhập ngôi nhà chung của Giáo hội Phật giáo Việt Nam, Giáo
đoàn Ni Hệ phái Khất sĩ có những điều kiện mới để hình thành và phát triển.
Quá trình hình thành và phát triển của Giáo đoàn Ni Hệ phái Khất sĩ tại
thành phố Hồ Chí Minh theo thời gian đã có những bước tiến dài trong tiến trình
chấn hưng Phật giáo ở Nam bộ nói chung và thành phố Hồ Chí Minh nói riêng.
Đời sống tu hành, cơ sở thờ tự, hoạt động hoằng pháp, hoạt động giáo dục đào
tạo tăng tài, hoạt động hướng đến xã hội của giáo đoàn có vai trò hết sức quan
trọng đến sự phát triển của Ni giới Hệ phái Khất sĩ nói chung và Ni giới Hệ phái
Khất sĩ tại thành phố Hồ Chí Minh nói riêng.
Bên cạnh đó, hoạt động của Ni giới Hệ phái Khất sĩ ngày càng khẳng định
ảnh hưởng trong cộng đồng tín đồ, góp phần định hướng nhận thức và hành vi
tín đồ đến những giá trị chân, thiện, mỹ, đặc biệt là lối sống từ bi, trí tuệ của Phật
giáo. Những hoạt động hướng đến xã hội của Giáo đoàn Ni thuộc Hệ phái Khất
sĩ tại thành phố Hồ Chí Minh đã và đang đóng góp một phần chia sẻ gánh nặng
cho xã hội. Nhưng hơn hết, những hoạt động của Giáo đoàn Ni thuộc Hệ phái
Khất sĩ tại thành phố Hồ Chí Minh trên hai phương diện “đạo” và “đời” đã lan
2
tỏa những giá trị nhân văn cao cả của Phật giáo Việt Nam nói chung và Hệ phái
Khất sĩ nói riêng.
Trong thời kỳ mới của đất nước cũng như của Phật giáo Việt nam, Giáo
đoàn Ni thuộc Hệ phái Khất sĩ tại thành phố Hồ Chí Minh cần tiếp tục phát huy
thành tựu đạt được trong quá khứ, vững bước vào tương lai cả “đạo” và “đời” để
thực hiện tốt phương châm hành đạo của Giáo hội Phật giáo Việt Nam: Đạo
pháp - Dân tộc - Chủ nghĩa xã hội. Tuy nhiên, hoạt động của Giáo đoàn Ni thuộc
Hệ phái Khất sĩ tại thành phố Hồ Chí Minh cho đến nay còn ít được đầu tư
nghiên cứu. Các công trình nghiên cứu thường nhỏ lẻ, tiếp cận một hoặc một vài
nội dung hoạt động của Giáo đoàn mà chưa có được một công trình nghiên cứu
toàn diện, hệ thống về hoạt động của Giáo đoàn. Với tầm quan trọng và ý nghĩa
như trên, Nghiên cứu sinh chọn đề tài: “Hoạt động của Giáo đoàn Ni thuộc Hệ
phái Khất sĩ tại thành phố Hồ Chí Minh” làm đề tài luận án Tiến sĩ Tôn giáo
học. Luận án mô tả và phân tích một số hoạt động thuần túy tôn giáo và hoạt
động hướng đến xã hội của Giáo đoàn, qua đó có những nhận định, đánh giá,
đưa ra một số khuyến nghị nhằm phát huy tính tích cực của Giáo đoàn.
2. Mục đích và nhiệm vụ của luận án
2.1. Mục đích nghiên cứu
Trên cơ sở trình bày toát yếu về Hệ phái Khất sĩ nói chung và quá trình
hình thành và phát triển của Ni giới Khất sĩ ở thành phố Hồ Chí Minh nói riêng,
luận án phân tích một số hoạt động chủ yếu của Giáo đoàn Ni thuộc Hệ phái
Khất sĩ ở thành phố Hồ Chí Minh rút ra những đặc điểm mang tính đặc thù.
Từ đó, đưa ra quan điểm và một số khuyến nghị chủ yếu nhằm phát huy
mặt lợi thế của Giáo đoàn Ni thuộc Hệ phái Khất sĩ ở thành phố Hồ Chí Minh
hiện nay.
2.2. Nhiệm vụ nghiên cứu
Làm rõ quá trình hình thành và phát triển của Ni giới Khất sĩ tại thành phố
Hồ Chí Minh.
Phân tích các loại hình hoạt động tôn giáo của Giáo đoàn Ni thuộc Hệ
phái Khất sĩ ở thành phố Hồ Chí Minh. Từ những phân tích và mô tả đó có thể
3
thấy được những hoạt động cụ thể, đồng thời chỉ ra những biểu hiện đặc thù hoạt
động của Giáo đoàn Ni thuộc Hệ phái Khất sĩ tại thành phố Hồ Chí Minh.
Đề xuất một số khuyến nghị nhằm phát huy những lợi thế của Giáo đoàn
Ni thuộc Hệ phái Khất sĩ ở thành phố Hồ Chí Minh đối với đời sống tinh thần
người dân thành phố Hồ Chí Minh hiện nay.
3. Đối tƣợng và phạm vi nghiên cứu
3.1. Đối tượng nghiên cứu
Luận án tập trung nghiên cứu hoạt động của Giáo đoàn Ni thuộc Hệ phái
Khất sĩ tại thành phố Hồ Chí Minh hiện nay.
3.2. Phạm vi nghiên cứu
Phạm vi thời gian: Đề tài giới hạn khoảng từ năm 1944 (từ khi Hệ phái Khất
sĩ thành lập) đến nay (năm 2018).
Phạm vi không gian: tại thành phố Hồ Chí Minh, có những nghiên cứu điển
hình tại Tổ đình Ni giới Khất sĩ là Tịnh xá Ngọc Phương và một số tịnh xá khác
thuộc Ni giới Khất sĩ.
Phạm vi các vấn đề nghiên cứu: Ni giới Khất sĩ ở thành phố Hồ Chí Minh
nói chung và hoạt động của Giáo đoàn Ni thuộc Hệ phái Khất sĩ tại thành phố
Hồ Chí Minh hiện nay là những vấn đề chưa được nhiều tác giả quan tâm nghiên
cứu ở những mức độ và khía cạnh ở từng chuyên ngành nghiên cứu khác nhau.
Tuy nhiên, trong luận án này, nghiên cứu sinh tập trung khảo sát một số hoạt động
điển hình của Giáo đoàn Ni thuộc Hệ phái Khất sĩ tại thành phố Hồ Chí Minh
hiện nay như:
Những hoạt động thuần túy tôn giáo như hoạt động hoằng pháp, hoạt động khất
thực, tụng niệm và hoạt động giảng kinh, thuyết pháp và tập trung tự tứ.
Những hoạt động hướng đến xã hội như: Hoạt động giáo dục, hoạt động từ
thiện xã hội và hoạt động trong các Ban, Ngành Giáo hội Phật giáo của Giáo đoàn
Ni thuộc Hệ phái Khất sĩ tại thành phố Hồ Chí Minh.
Từ những hoạt động nêu trên nghiên cứu sinh sẽ đưa ra một số đề xuất, khuyến
nghị để phát huy những hoạt động tích cực của Giáo đoàn Ni thuộc Hệ phái Khất sĩ
tại thành phố Hồ Chí Minh.
4
4. Cơ sở lý luận và phƣơng pháp nghiên cứu
4.1. Cơ sở lý luận
Đề tài được thực hiện trên cơ sở phương pháp luận duy vật biện chứng, duy
vật lịch sử, quan điểm, đường lối, chính sách của Đảng Cộng sản Việt Nam và
pháp luật của Nhà nước Việt Nam về tín ngưỡng, tôn giáo, đặc biệt là quan điểm
tôn giáo, là một nguồn lực phát triển đất nước. Chú trọng sử dụng tổng hợp các
phương pháp nghiên cứu của tôn giáo học, nghiên cứu liên ngành, cụ thể như:
Phương pháp nghiên cứu tài liệu, Các phương pháp nghiên cứu thực tiễn,
Phương pháp phân tích, tổng hợp, Phương pháp lịch sử, Phương pháp so sánh,
Phương pháp chuyên gia
4.2. Phương pháp nghiên cứu
Luận án sử dụng cách tiếp cận liên ngành, trong đó chủ yếu là cách tiếp cận
tôn giáo học, sử học, xã hội học để thực hiện các vấn đề đặt ra trong mục đích
nghiên cứu. Từ cách tiếp cận đó, luận án sử dụng lý thuyết nghiên cứu thực thể tôn
giáo.
Do tính đặc thù của vấn đề nghiên cứu nên luận án sử dụng phương pháp
phân tích tư liệu gốc và tư liệu thứ cấp việc thu thập, phân tích, đánh giá về giá
trị của các loại tư liệu gốc được coi là nhiệm vụ rất quan trọng của đề tài luận án
vì tư liệu gốc giúp cho nghiên cứu sinh tiếp cận với gốc rễ của vấn đề nghiên
cứu. Tư liệu thứ cấp là tư liệu thu thập trong Hệ phái và nguồn tư liệu từ các cơ
quan quản lý tôn giáo tại địa phương.
Phương pháp tham vấn chuyên gia: nghiên cứu sinh đưa ra các vấn đề
nghiên cứu liên quan đến luận án nhằm trao đổi với các chuyên gia nghiên cứu
có nhiều kinh nghiệm đối với vấn đề thuộc Ni giới Khất sĩ, từ đó có được cái
nhìn hệ thống, toàn diện và sâu sắc hơn đối với vấn đề nghiên cứu.
Phương pháp khảo sát điền dã: Nghiên cứu sinh tiến hành quan sát thực tế,
sử dụng các công cụ như phỏng vấn sâu, đối tượng phỏng vấn sâu đa dạng gồm
những Ni cô có uy tín trong các tịnh xá... trong đó tác giả lồng ghép các công tác
thu thập tư liệu. Bên cạnh đó, tác giả luận án sử dụng phương pháp quan sát
tham dự.
5
5. Đóng góp mới của luận án
Một là, Luận án cung cấp một cái nhìn khái quát về Ni giới Khất sĩ ở
thành phố Hồ Chí Minh;
Hai là, Cung cấp một cái nhìn khái quát, khoa học và toàn diện về một số
hoạt động của Giáo đoàn Ni thuộc Hệ phái Khất sĩ tại thành phố Hồ Chí Minh;
Ba là, Cung cấp một cái nhìn khái quát về những quan điểm và một số
khuyến nghị nhằm nâng cao hiệu quả, phát huy ảnh hưởng tích cực của Ni
giới Khất sĩ đến đời sống người dân thành phố Hồ Chí Minh.
Luận án có thể dùng làm tài liệu tham khảo cho nghiên cứu và giảng
dạy, các môn học có liên quan đến tư tưởng Triết học (Phật giáo) tại các
trường Cao đẳng, Đại học trên cả nước và những ai quan tâm tìm hiểu về Phật
giáo nói chung, và thành phố Hồ Chí Minh nói riêng. Nghiên cứu này cho
thấy Giáo đoàn Ni thuộc Hệ phái Khất sĩ là một cộng đồng tôn giáo rất đáng
chú ý về hoạt động tôn giáo và đóng góp cho xã hội, thể hiện vị trí và vai trò
đáng quan tâm khi nghiên cứu về hệ thống tôn giáo ở thành phố Hồ Chí Minh.
6. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn
Ý nghĩa lý luận:
Làm rõ được lịch sử hình thành và phát triển của Hệ phái Khất sĩ và
Giáo đoàn Ni thuộc Hệ phái Khất sĩ nói chung và tại thành phố Hồ Chí Minh
nói riêng.
Xác định và mô tả được những hoạt động của Giáo đoàn Ni thuộc Hệ
phái Khất sĩ tại thành phố Hồ Chí Minh hiện nay.
Ý nghĩa thực tiễn
Cung cấp luận chứng khoa học cho các nhà quản lý và hoạch định
chính sách đối với các vấn đề của Hệ phái Khất sĩ nói chung và Giáo đoàn Ni
thuộc Hệ phái Khất sĩ tại thành phố Hồ Chí Minh nói riêng.
Là tài liệu tham khảo có tính hệ thống đối với công tác giảng dạy và
nghiên cứu về Tôn giáo học.
6
7. Cấu trúc của luận án
Ngoài phần mở đầu, kết luận, danh mục tài liệu tham khảo và phụ lục, nội
dung luận án gồm 4 chương chính như sau:
Chương 1: Tổng quan tình hình nghiên cứu
Chương 2: Quá trình hình thành phát triển, đặc điểm của Hệ phái Khất sĩ, Ni
giới Khất sĩ và Giáo đoàn Ni thuộc Hệ phái Khất sĩ tại thành phố Hồ Chí Minh
Chương 3: Vai trò của Giáo đoàn Ni thuộc Hệ phái Khất sĩ tại thành phố Hồ
Chí Minh trong các hoạt động tôn giáo và hoạt động hướng đến xã hội
Chương 4: Xu hướng, một số vấn đề đặt ra của Giáo đoàn Ni thuộc Hệ
phái Khất sĩ tại thành phố Hồ Chí Minh hiện nay
7
Chƣơng 1
TỔNG QUAN TÌNH HÌNH NGHIÊN CỨU
1.1. Nguồn tài liệu
1.1.1. Nguồn tài liệu gốc của Hệ phái Khất sĩ
Đó là bộ sách “Chơn lý”, tập hợp 69 bài giảng cũng là 69 đề tài do Tổ sư
Minh Đăng Quang viết trong khoảng 3 năm (1951 - 1953). Nội dung được sắp
xếp theo thứ tự Chơn lý 1, Chơn lý 2 Giáo hội Tăng già Khất sĩ Việt Nam kết
tập thành một bộ với tựa đề Chơn lý. Năm 1993, Thành hội Phật giáo thành phố
Hồ Chí Minh ấn hành: “Tổ sư Minh Đăng Quang, Chơn lý. Năm 2009, Nhà xuất
bản Tôn giáo tái bản bộ Chơn lý 950 trang. Đầu thập niên 1970 bộ Chơn lý được
chia làm hai với hai tựa đề: 1. Chơn lý gồm 60 bài vè, 2. Luật nghi Khất sĩ gồm
9 bài, in thành hai bộ riêng. Ngoài ra bộ Chơn lý còn được tách in thành 3 tập:
Chơn lý, tập I; Chơn lý, tập II; Chơn lý, tập III đều do Nhà xuất bản Tôn giáo in
ấn và phát hành năm 2009, theo đó mỗi tập tập hợp một số chủ đề như: Có và
Không (tập I); tôn giáo (tập II); Đạo Phật (tập III). Trong lời cẩn bạch (lần in
lại nhân lễ tưởng niêm 55 năm ngày Tổ sư Minh Đăng Quang vắng bóng (01/02
Âl 1954 - 01/02 Âl 2009), Sa môn Giác Toàn cho biết: “Những lời giảng dạy của
Tổ sư được chư đệ tử đúc kết lại thành bộ Chơn lý có 69 chủ đề. Từ ngày Tổ sư
vắng bóng đến nay, bộ Chơn lý được in và ấn tống nhiều lần với nhiều hình thức
khác nhau. Có khi là trọn bộ toàn tập; có khi là từng quyển rời với từng chủ đề.
Lần tái bản lần thứ nhất là vào dịp lễ tưởng niệm 50 năm ngày Tổ sư vắng bóng
(1954 - 2004); lần đó chúng tôi xin phép chư tôn đức Giáo hội Hệ phái in ra
thành hai phần:
Phần liên hệ đến giới Luật, dành riêng cho chư Tăng Ni xuất gia có 9 chủ đề,
in thành một tập “Luật nghi Khất sĩ”. Phần còn lại 60 chủ đề liên hệ Kinh, Luận do
Tổ sư luận giảng in chung thành bộ Chơn lý (3 tập 1,2 và 3) đóng bìa cứng.
Nay nhân lễ tưởng niệm 55 ngày Tổ sư vắng bóng, Hệ phái xin phép in lại
Bộ Chơn lý (3 tập, 1,2 và 3). Ngoài ấn phẩm toàn tập, lần này thể theo tâm
nguyện của chư tôn đức giám phẩm, đại chúng Tăng Ni và nam nữ Phật tử
chúng tôi có chọn ra 16 chủ đề in từng tập rời với số lượng nhiều, để có thể
giới thiệu rộng ra các miền, tịnh xá giúp bá tánh, cư gia có dịp tiếp cận những lời
8
luận giảng quý báu, cùng những nhận thức, những phương pháp hướng dẫn tu
tập của Tổ sư về Chánh pháp trước thời đại văn minh”.
Mười sáu (16) tập được in rời lần này gồm ba chủ đề chính
A. Luận giảng liên hệ về ý pháp Giáo lý có 6 tập:
1. Bát Chánh đạo (Chơn lý 5), 2. Ăn chay (Chơn lý 13), 3. Tâm (Chơn lý
17), 4. Tánh thủy (Chơn lý 18), 5. Trên mặt nước (Chơn lý 20), 6. Chánh kiến
(Chơn lý 22).
B. Luận giải về thiền định và tư tưởng Đại thừa có 5 tập:
1. Nhập định (Chơn lý 14), 2. Thần mật (Chơn lý 25), 3. Số tức quan
(Chơn lý 53), 4. Quán Thế Âm (Chơn lý 47), 5. Đại Thái Thức (Chơn lý 48) .
C. Luận giảng về Hệ phái và quan điểm tu tập có 5 tập:
1. Bài học Cư sĩ (Chơn lý 16), 2. Học Chơn lý (Chơn lý 19), 3. Thờ
phượng (Chơn lý 51), 4. Chơn như (Chơn lý 55), 5. Đạo Phật Khất sĩ (Chơn lý
58) [79].
Như vậy, những trước tác của Tổ sư Minh Đăng Quang có thể in thành
trọn bộ (69 bài) hoặc thành hai bộ (Chơn lý - 60 bài; Luật nghi Khất sĩ - 9 bài)
hay in thành 3 tập, hoặc in thành các tập rời. Tuy nhiên, nghiên cứu sinh chủ yếu
tiếp cận nguồn tư liệu ở hai tác phầm: 1. Chơn lý (60 bài); 2. Luật nghi Khất sĩ
(9 bài). [78]
Bộ Chơn lý gồm 60 bài được trước tác trên nền tảng Kinh - Luận của Phật
giáo. Tổ sư Minh Đăng Quang khẳng định: “Khất sĩ chúng tôi nối truyền chánh
pháp của Phật Thích ca - Mâu ni xuất hiện nơi xứ Việt Nam này, với mục đích
cố gắng noi y gương Phật, thay Phật đền ơn và để đáp nghĩa chúng sanh trong
môn một”. Tông chỉ của Hệ phái là “Nối truyền Thích - ca Chánh pháp”. Chơn lý đề
cập đến tu Giới, Định Tuệ, hành đúng Tứ y pháp là đúng với chánh pháp của Chư
Phật mười phương ba đời, là giáo lý y bát chơn truyền. Cuốn Luật nghi Khất sĩ (riêng
giới xuất gia), Nhà xuất bản Tổng hợp thành phố Hồ Chí Minh, 2012 (291 trang).
Cuốn sách ngoài phần lời nói đầu gồm 15 nội dung trong đó đáng chú ý là các nội
dung: Luật Khất sĩ; Giáo hội Tăng già Khất sĩ; Giới bổn Tăng, Giới bổn Ni, Giới Phật
tử, Luật nghi. Các nội dung trên cung cấp cho nghiên cứu sinh những quy định về y,
bát, tứ Pháp (Luật Khất sĩ); về thủ tục xuất gia, thụ giới, về sự đi khất thực, phép đi
9
đến nhà Cư sĩ, cùng các quy tắc về mặc, đi, đứng (Giáo hội Tăng già Khất sĩ); 250
giới (Giới bổn Tăng), 348 giới (Giới bổn Ni).
Nguồn tài liệu trên cung cấp cho nghiên cứu sinh tìm hiểu về tông chỉ, về
giáo lý (Kinh, Luận) cũng như về giới Luật, hình thức tu tập của Hệ phái Khất sĩ.
1.1.2. Nguồn tài liệu của Giáo hội Phật giáo Việt Nam.
Năm 1981, Hệ phái Khất sĩ gia nhập ngôi nhà chung của Phật giáo Việt Nam
- Giáo hội Phật giáo Việt Nam. Ngoài một số truyền thống của Hệ phái cũng như các
pháp môn và phương tiện tu hành chính pháp được tôn trọng, duy trì (lời nói đầu, Hiến
chương Giáo hội Phật giáo Việt Nam 1981). Hệ phái Khất sĩ còn phải tuân thủ những
quy định của Giáo hội Phật giáo Việt Nam thể hiện qua Hiến chương, nội quy Ban
Tăng sự và các nguyên tắc khác của Giáo hội Phật giáo Việt Nam. Vì vậy, tiếp cận
nguồn tư liệu của Giáo hội Phật giáo Việt Nam là một phần không thể thiếu khi nghiên
cứu về Hệ phái Khất sĩ trong đó có Giáo đoàn Ni Hệ phái Khất sĩ.
Trước hết là Hiến chương Giáo hội Phật giáo Việt Nam. Cho đến thời
điểm 2017, Giáo hội Phật giáo Việt Nam trải qua tám kỳ Đại hội với 7 lần ban
hành Hiến chương, bản đầu tiên ban hành tại Đại hội lần thứ nhất (11/1981), tiếp
theo là sáu lần tu chỉnh. Lần tu chỉnh thứ VI tại Đại hội lần thứ VIII (2017). Hiến
chương cung cấp cho nghiên cứu sinh những vấn đề cơ bản của Giáo hội Phật
giáo Việt Nam về tông chỉ, hệ thống tổ chức, nguyên tắc hoạt động, hàng giáo
phẩm để từ đó nghiên cứu sinh quán chiếu vào Hệ phái Khất sĩ trong đó có
Giáo đoàn Ni Hệ phái Khất sĩ, chỉ ra tính đặc thù của Hệ phái Khất sĩ cũng như
Giáo đoàn Ni.
Nguồn tư liệu của Giáo hội Phật giáo Việt Nam ngoài Hiến chương là văn
kiện các kỳ đại hội. Theo đó là ba tập:
Giáo hội Phật giáo Việt Nam: Văn phòng Hội đồng Trị sự: Giáo hội Phật giáo
Việt Nam từ Đại hội đến Đại hội (1981 - 2012) Nhà xuất bản Tôn giáo 2012.
Giáo hội Phật giáo Việt Nam: Văn kiện Đại hội đại biểu Phật giáo toàn
quốc lần thứ VII (nhiệm kỳ 2012 - 2017) Nhà xuất bản Hải Phòng 2012.
Giáo hội Phật giáo Việt Nam: Văn kiện Đại hội Đại biểu Phật giáo toàn
quốc lần thứ VIII nhiệm kỳ 2017 - 2022.
Ba tập sách tập hợp các Văn kiện của tám kỳ đại hội. Trong các Văn kiện
đáng chú ý là: Chương trình hoạt động của từng nhiệm kỳ, Nghị quyết của Hội
10
đồng trị sự. Riêng Đại hội lần thứ nhất có thêm Văn kiện “Báo cáo về quá trình
vận động thống nhất”. Báo cáo tổng kết của các kỳ từ Đại hội II đến Đại hội VIII
đều có những phần nội dung về Hệ phái Khất sĩ như nội dung về công tác Tăng
sự, về Tu viện, Tịnh xá, Tịnh thất, niệm Phật đường và một số hoạt động Phật sự
của Hệ phái. Đặc biệt trong Hội đồng Trị sự Giáo hội Phật giáo Việt Nam từ đại
hội I đến Đại hội VIII đều thấy ghi danh một số Ni sư, Ni trưởng Giáo đoàn Ni
thuộc Hệ phái Khất sĩ thành phố Hồ Chí Minh. Đại hội I có Ủy viên kiểm soát là
Ni sư Thích Nữ Huỳnh Liên (Ban Thường trực) và là thành viên Hội đồng Trị
sự. Đại hội II, Ni sư Thích Nữ Ngoạt Liên, Ủy viên phó thủ quỹ (Ban thường
trực) và cũng là thành viên Hội đồng Trị sự. Nhiệm kỳ II, Ni sư Thích nữ Ngoạt
Liên là Ủy viên Thủ quỹ (Ban thường trực) và là thành viên Hội đồng Trị sự. Đại
hội IV, Ni trưởng Thích nữ Ngoạt Liên là Ủy viên thủ quỹ (Ban thường trực) và
là thành viên Hội đồng trị sự. Đại hội V, Ni trưởng Thích nữ Ngoạt Liên tiếp tục
trong Ban thường trực với chức Ủy viên thủ quỹ và là thành viên Hội đồng Trị
sự, Đại hội V còn ghi nhận Ni trưởng Thích nữ Tràng Liên là thành viên Hội
đồng Trị sự. Đại hội VI, Ni trưởng Thích Nữ Ngoạt Liên là Ủy viên thường trực
và cũng là Ủy viên Hội đồng Trị sự Ni trưởng thích nữ Tràng Liên là thành viên
Hội đồng Trị sự. Tại Đại hội VI, sư cô Thích Nữ Tín Liên được bầu làm Ủy viên
dự khuyết Hội đồng Trị sự. Đáng tiếc, Văn kiện Đại hội Đại biểu Phật giáo toàn
quốc nhiệm kỳ VI (2012 - 2017) và nhiệm kỳ VIII (2017 - 2022) không có phần
nội dung nhân sự nên không rõ Ni giới thuộc Giáo đoàn Ni tại thành phố Hồ Chí
Minh có nhân sự nào tham gia và giữ cương vị gì. Song ở nhiệm kỳ VII và
nhiệm kỳ VIII trong phần báo cáo tham luận có báo cáo tham luận của Ni giới.
Với Đại hội VII là tham luận của Ni trưởng Thích Đàm Nghiêm với bài: “Ni giới
Việt Nam đóng góp trang nghiêm Giáo hội”. Tại phân ban Ni giới phía Bắc, cả
hai bài tham luận ở hai kỳ Đại hội (VII và VIII) nội dung đề cập toát yếu hoạt
động của Ni giới của các hệ phái nói chung mà không thấy đề cập đến hoạt động
Ni giới Hệ phái Khất sĩ tại thành phố Hồ Chí Minh.
1.2. Các công trình nghiên cứu
1.2.1. Các công trình nghiên cứu về Phật giáo và Phật giáo Việt Nam
1.2.1.1. Các công trình nghiên cứu về Phật giáo
11
Cho đến nay có nhiều công trình nghiên cứu về Phật giáo, Phật học, về
tam tạng kinh điển Phật giáo. Tuy nhiên, nghiên cứu sinh chỉ điểm một số công
trình nghiên cứu về Phật giáo mà các công trình ấy ít nhiều có liên quan đến vấn
đề nghiên cứu của luận án.
Cuốn Đức Phật và Phật pháp, tác giả Nãrada Mahã There - Phạm Kim
Khánh dịch, Nhà xuất bản Tổng hợp thành phố Hồ Chí Minh, 2013; đúng như
tựa đề, cuốn sách gồm 2 phần:
1. Đức Phật
2. Phật Pháp
Ở phần thứ nhất cuốn sách cung cấp cho người đọc gia thế đức thế tôn,
quá trình xuất gia, đạt quả đạo Phật. Tiếp theo là quá trình hoằng hóa, lập Tăng
đoàn, ban hành giới luật. Phần thứ hai Phật pháp với Tam tạng kinh điển (Kinh,
Luật, Luận). Theo đó là năm bộ tạng kinh, bảy bộ tạng luật. Tạng kinh chứa
đựng những lời dạy thông thường (vohãra desanã), còn tạng Luận gồm những
Giáo lý cùng tột (paramattha desanã) (Đức Phật và Phật pháp, trang 269). Phật
pháp còn bao hàm các nội dung: Vài đặc điểm của Phật giáo (chương 16); Bốn
chân lý thâm diệu hay tứ diệu đế (chương 17); Nghiệp báo (chương 18); Nghiệp
là gì (chương 19); sự báo ứng của nghiệp (chương 20); tính chất của nghiệp
(chương 21); thập nhị nhân duyên (chương 25); những cảnh giới (chương 27)
phần hai đề cập một cách cơ bản giáo pháp của Phật đà.
Bộ Chơn lý của Tổ sư Minh Đăng Quang về cơ bản có cả hai nội dung
trên. Đây là một trong những công trình giúp nghiên cứu sinh hiểu một cách căn
bản về Đức Phật và Phật pháp.
Một số cuốn sách đề cập đến một số lĩnh vực của Phật giáo như Thích
Chơn Thiện, Tăng già thời Đức Phật, nhà xuất bản Tôn giáo, 2000, cung cấp tri
thức về sự thành lập Tăng già (chương II), sự hình thành các Tịnh xá (chương
III); một thành viên của Tăng già (chương IV); sinh hoạt của Tăng già (chương
V); Tam học: Giới học, Định học, Tuệ học (chương VI) từ những tri thức này,
nghiên cứu sinh nhận biết về Tăng đoàn và Ni đoàn Hệ phái Khất sĩ.
Bộ sách hai tập: sắc tu Bách Trương Thanh quy, viện nghiên cứu Phật
học, Thiền sư Đức Huy trùng biên, Thích Phước Sơn và Lý Việt Dũng dịch, nhà
12
xuất bản Phương Đông, 2010. Lời nói đầu của cuốn sách cho biết: “Sách Bách
Trương Thanh quy do Tổ Bách Trương - Hoài Hải (720 - 784) biên soạn vào thế
kỷ thứ VIII đời Đường để làm cương lĩnh sinh hoạt cho Tăng, Ni tại các Tòng
lâm ở Trung Hoa, sau khi Phật giáo đã du nhập và phát triển nơi đất nước rộng
lớn này gần bảy thế kỷ. Bách Trượng Thanh Quy đã được lưu hành rộng khắp
nơi, có giá trị như một kim chỉ nam hướng dẫn mọi sinh hoạt trong đời sống của
người xuất gia”. Song do thời gian, một số nội dung bị thất lạc và được sưu tầm,
biên tập lại. Sách gồm hai phần, tám quyển, chín chương, khoảng 200 tiêu đề:
“Bộ sách này cung cấp cho chúng ta hầu như gần hết các thuật ngữ chuyên dụng ... sinh hoạt trì bình khất
thực, thọ trai của Chư tôn đức Tăng Ni mà rút ra những bài học trong cuộc sống.
Những điều nêu trên giúp mọi người nhận thức được thế nào là khất thực đúng
pháp và phi pháp, thấy được nét văn hóa thọ trai, từ đó đưa ra những kiến nghị
duy trì và khôi phục hình thức sinh hoạt khất thực trong đời sống xã hội. Đây là
một luận văn viết có tính hệ thống và nghiên cứu rõ về việc khất thực, thọ trai
của Hệ phái Khất sĩ tại thành phố Hồ Chí Minh từ góc nhìn văn hóa học.
1.2.3. Đánh giá chung về tình hình nghiên cứu
Ngoài nguồn tư liệu về Hệ phái Khất sĩ, tư liệu các kỳ Đại hội đại biểu của
Giáo hội Phật giáo Việt Nam và một số công trình nghiên cứu về lịch sử Phật giáo
Việt Nam mà luận án lấy đó làm nền tảng là những công trình nghiên cứu về Hệ
phái Khất sĩ nói chung và Giáo đoàn Ni giới Khất sĩ nói riêng. Các công trình
nghiên cứu trước hết đề cập đến lịch sử phát triển Hệ phái Khất sĩ (quá trình ra đời,
hình thành và phát triển). Trong đó đề cập đến sự hình thành, phát triển của các Ni
đoàn, bao gồm cả Ni đoàn Hệ phái Khất sĩ thành phố Hồ Chí Minh.
Một số công trình nghiên cứu hoặc trực tiếp, hoặc gián tiếp đề cập đến hoạt
động của Giáo đoàn Ni thuộc Hệ phái Khất sĩ Thành phồ Hồ Chí Minh dưới hai
phương diện: hoạt động tôn giáo và hoạt động hướng đến xã hội.
Hoạt động tôn giáo của Giáo đoàn Ni giới thuộc Hệ phái Khất sĩ tại thành
phố Hồ Chí Minh vẫn mang những nét chung của Ni giới Hệ phái Khất sĩ vẫn có
những nét đặc thù riêng. Theo đó là những hoạt động chủ yếu như: xây dựng,
củng cố hệ thống tổ chức; hoạt động hoằng pháp, hoạt động giáo dục; đời sống
tu hành. Hoạt động hướng đến xã hội là những hoạt động từ thiện xã hội, cử đại
26
diện tham gia vào hệ thống tổ chức chính quyền, mặt trận và các tổ chức chính
trị xã hội khác. Tuy nhiên, các công trình nghiên cứu thường rời rạc, mỗi công
trình thường đề cập đến một mảng của hoạt động tôn giáo hoặc họa động hướng
đến xã hội. Hoặc các công trình nghiên cứu đề cập đến một số hoạt động nhưng
thường là chưa thực sự nổi bật. Chưa có một công trình nào đề cập một cách hệ
thống những hoạt động của Giáo đoàn Ni thuộc Hệ phái Khất sĩ tại thành phố Hồ
Chí Minh hiện nay và đó chính là nhiệm vụ của luận án.
1.2.4. Những vấn đề cần tiếp tục nghiên cứu:
Luận án tập trung làm rõ những vấn đề nghiên cứu chính sau đây:
Một là, làm rõ quá trình hình thành, phát triển, nêu bật tính đặc thù của Hệ
phái Khất sĩ và Ni giới thuộc Hệ phái Khất sĩ tại thành phố Hồ Chí Minh.
Hai là, nêu bật những hoạt động của Giáo đoàn Ni giới Khất sĩ tại thành
phố Hồ Chí Minh với tư cách là nghiên cứu trường hợp (case study) trên hai lĩnh
vực: hoạt động tôn giáo và hoạt động hướng đến xã hội.
Về hoạt động tôn giáo, luận án tập trung vào một số lĩnh vực chủ chốt như:
hoạt động hoằng pháp, tu tập, tu học.
Về hoạt động hướng đến xã hội, luận án tập trung vào một số lĩnh vực như:
tham gia các tổ chức và đoàn thể chính trị xã hội (Quốc hội, Hội đồng Nhân dân,
Mặt trận Tổ quốc các cấp, Hội liên hiệp phụ nữ...); hoạt động tham gia các
phong trào thi đua yêu nước, phát triển lĩnh vực từ thiện xã hội.
Ba là, tìm ra những nét đặc thù của Giáo đoàn Ni Hệ phái Khất sĩ tại thành
phố Hồ Chí Minh; đưa ra một số khuyến nghị đối với Hệ phái và chính quyền để
Giáo đoàn Ni Hệ phái Khất sĩ tại thành phố Hồ Chí Minh tiếp tục phát huy những
thành tựu tốt đẹp, khắc phục những hạn chế về hoạt động trên cả hai lĩnh vực Tôn
giáo và hướng đến xã hội.
1.3. Khung lý thuyết và một số khái niệm
1.3.1. Khung lý thuyết nghiên cứu
1.3.1.1. Câu hỏi nghiên cứu
1.Quá trình hình thành và phát triển của Hệ phái Khất sĩ và Ni giới Hệ
phái Khất sĩ tại thành phố Hồ Chí Minh như thế nào?
2.Hoạt động của Giáo đoàn Ni thuộc Hệ phái Khất sĩ tại thành phố Hồ Chí
27
Minh diễn ra như thế nào?
3. Giáo đoàn Ni có vai trò gì? Có những vấn đề gì đặt ra đối với giáo đoàn
ni trong thời gian tới?
1.3.1.2. Giả thuyết nghiên cứu
Hệ phái Khất sĩ là một Hệ phái Phật giáo nội sinh tồn tại bên cạnh hai Hệ
phái lớn ở Việt Nam là Bắc truyền và Nam truyền trong những năm 1940. Tại
Miền Nam Việt nam, khoảng thời gian này đã chứng kiến sự ra đời của một loạt
tôn giáo nội sinh như Phật Giáo Hòa Hảo, đạo Cao Đài Những hệ phái và tôn
giáo này đã có ảnh hưởng nhất định trong cộng đồng tín đồ tại Nam bộ. Tuy
nhiên, sự ra đời của Hệ phái Khất sĩ đã làm thay đổi diện mạo bức tranh tôn
giáo của Nam bộ thời kỳ này. Tại thành phố Hồ Chí Minh, Ni giới Hệ phái
Khất sĩ đã có rất nhiều những bước trưởng thành theo thời gian để khẳng định
mình tại thành phố và khu vực Nam bộ.
Trước hết người dân có nhiều sự lựa chọn hơn trong việc đặt niềm tin của
mình vào tôn giáo, dù đó chỉ là một chỗ dựa trong tinh thần. Họ đến với Hệ
phái Khất sĩ vì nhận thấy sự gần gũi trong niềm tin, trong thực hành tôn giáo và
sự dễ dàng trong cố kết cộng đồng. Phật giáo vốn quen thuộc trong đời sống
tâm linh của người dân, tuy nhiên đối với Giáo đoàn Ni thuộc Hệ phái Khất sĩ
thì những đường hướng hoạt động mang tính chất thuần túy tôn giáo hoặc
những hoạt động hướng đến xã hội mang lại cảm giác gần gũi hơn đối với
người dân Nam bộ. Chính vì vậy nên những hoạt động của Giáo đoàn Ni tại
thành phố hiện tại là rất sôi nổi và tích cực. Vì vậy cần xem xét kỹ lưỡng những
hoạt động này nó có ảnh hưởng như thế nào đối với cộng đồng tin theo, có
hướng tích cực nào và một số những điểm cần khắc phục.
Hoạt động của Giáo đoàn Ni thuộc Hệ phái Khất sĩ tại thành phố Hồ Chí
Minh đã góp phần làm phong phú thêm đời sống tôn giáo của người dân Nam
bộ nói chung và người dân thành phố Hồ Chí Minh nói riêng. Chính quyền
thành phố Hồ Chí Minh trong quản lý tôn giáo nói chung, Phật giáo nói riêng đã
tạo điều kiện cho chư Ni của Hệ phái Khất sĩ có thể yên tâm với những hoạt động
tôn giáo của mình. Chính quyền, Giáo hội cũng như Ni giới Hệ phái đã có những
sự kết hợp các hoạt động giáo dục và hoạt động hướng đến xã hội.
28
1.3.1.3. Lý thuyết tiếp cận trong nghiên cứu
Để nghiên cứu sự ra đời, quá trình phát triển và đặc biệt là một số hoạt
động của Ni giới Khất sĩ tại thành phố Hồ Chí Minh hiện nay, luận án vận dụng
một số lý thuyết nghiên cứu thuộc các khoa học nhân văn sau đây:
Tiếp cận theo lý thuyết thực thể tôn giáo: Thực thể tôn giáo là một khái
niệm dùng để chỉ toàn bộ hiện thực tôn giáo tồn tại trong lịch sử đồng thời là
một thiết chế và kết cấu của đời sống xã hội, chịu sự tác động từ các mối quan
hệ và tương tác với các thiết chế xã hội khác. Thực thể tôn giáo là tổng thể
(holisme) các niềm tin và thực hành tôn giáo trong cộng đồng gồm cá nhân và
nhóm người theo các giá trị chung với các tính chất xác định là tính lịch sử, tính
tập thể, tính tài liệu, tính biểu tượng và tính kinh nghiệm và nhạy cảm đã từng
và đang tồn tại trong đời sống xã hội [86].
Đã có một thời kỳ rất dài, tôn giáo được nhìn nhận thuộc hình thái ý thức
xã hội, nhưng nếu đặt tôn giáo dưới góc nhìn như vậy, không phản ánh hết được
bản chất thực của tôn giáo, bởi thực tế không có một tôn giáo nào tồn tại dưới
một loại hình độc lập mà phải phản ánh mối quan hệ nào đó giữa con người với
cái thiêng. Nói như Durkheim: “Một tôn giáo là một hệ thống vững chắc các
niềm tin tôn giáo và thực hành liên hệ với các vật thiêng, tức là các vật được
phân biệt, được kiêng cữ, các niềm tin và thực hành thống nhất thành một cộng
đồng luân lý (Commurauté morate), được gọi là Giáo hội, đối với tất cả những
ai tin theo” [85].
Để phản ánh được thực chất tồn tại của tôn giáo trong xã hội chỉ cách tiếp
cận hệ thống, hay còn gọi là hệ thống luận (systémique) để giải quyết và phân
tích hệ thống gồm: tương tác, toàn thể, tổ chức, phức hợp và từ đó coi tôn giáo
là thực thể xã hội tồn tại một cách khách quan.
Vận dụng lý thuyết thực thể tôn giáo để nghiên cứu hoạt động của Ni giới
Khất sĩ tại thành phố Hồ Chí Minh, trong đó mỗi hoạt động không phải là
những hoạt động độc lập mà còn gắn liền với hệ thống lớn để tạo thành những
hoạt động tôn giáo mang tính chỉnh thể. Luận án đặt yếu tố hoạt động thuần túy
tôn giáo và hoạt động hướng đến xã hội trong Giáo đoàn này được coi là một
nghiên cứu trường hợp (case study), nhằm làm rõ hơn bức tranh hoạt động của
29
Giáo đoàn Ni thuộc Hệ phái Khất sĩ tại thành phố Hồ Chí Minh trong những
năm qua. Hai hoạt động thuần túy tôn giáo và hoạt động hướng đến xã hội cần
thiết phải nhìn nhận trong sự tương tác với nhau, hoạt động này bổ trợ cho hoạt
động kia. Lý thuyết này được áp dụng ở các Chương hai, Chương ba và một
phần của Chương bốn để nghiên cứu quá trình hình thành, phát triển, thực
trạng, cũng như một số khuyến nghị phát huy những tích cực trong hoạt động
của Giáo đoàn Ni thuộc Hệ phái Khất sĩ tại thành phố cũng như khắc phục một
vài điểm còn hạn chế.
Lý thuyết cấu trúc chức năng: Durkheim, E.Tylor và B.Malinowski là những
người đặt nền móng khởi nguồn cho phương pháp nghiên cứu cấu trúc chức
năng trong xã hội học nói chung và xã hội học tôn giáo nói riêng. Trường phái
coi tôn giáo như một thực thể tối thượng, coi tôn giáo là yếu tố hạt nhân quyết
định bộ phận tinh thần và tinh thần lại là yếu tố quyết định sự phát triển xã hội
nên các tác giả này chỉ muốn lấy chức năng để coi đó là bản chất tôn giáo [61;
tr. 57 – 58]. Tiếp cận hoạt động của Giáo đoàn Ni thuộc Hệ phái Khất sĩ tại
thành phố Hồ Chí Minh theo thuyết cấu trúc chức năngcho thấy những hoạt
động này luôn có những chức năng, vai trò của nó.Mỗi bộ phận cấu thành thực
thể tôn giáo đều giữ những chức năng khác nhau, luôn có mối liên hệ mật thiết
với nhau theo cơ chế phân công - hợp tác và chính điều này tạo cho những hoạt
động này trở nên hiệu quả và đi đúng hướng. Mỗi thành tố cấu thành thực thể
tôn giáo đều có vai trò, chức năng riêng của mình đối với các hoạt động, luôn
vận động, nương tựa lẫn nhau, bổ sung cho nhau làm cho Ni giới Hệ phái tồn
tại như một thực thể.
Lý thuyết cấu trúc chức năng được áp dụng vào Chương 2 và một số phần
Chương 3, của luận án, nhằm làm rõ các vấn đề:
Một là, làm rõ chức năng của từng bộ phận trong hệ thống tổ chức của Hệ
phái Khất sĩ cũng như hệ thống tổ chức của Giáo đoàn Ni.
Hai là, mối quan hệ tương tác của từng bộ phận trong tổ chức.
Ba là, tính chỉnh thể của tổ chức.
Lý thuyết về sự lựa chọn duy lý: Sự lựa chọn duy lý (Rational Choice)
được đề cập nhiều đến trong ngành nhân học, xã hội học, kinh tế học vào nửa
30
đầu thế kỷ XX. Lý thuyết này có nguồn gốc từ kinh tế học, bởi một số nhà tâm
lý cho rằng, hành vi của con người luôn có sự tính toán. Nội dung cốt lõi của lý
thuyết lựa chọn duy lý đề cập đến chiến lược lựa chọn hành động của cá nhân
để đạt lợi ích tối đa cho mình trong quan hệ xã hội và xem trọng mục đích đạt
được trong hành động của chủ thể [22; tr. 447]. Lý thuyết sự lựa chọn duy lý
nhấn mạnh đến việc phải cân nhắc, tính toán nhằm đạt được những tối đa lợi
nhuận với chi phí tối thiểu. Từ những điều đạt được này không chỉ là yếu tố vật
chất mà còn là yếu tố tinh thần và cả lợi ích xã hội.
Nhìn từ góc độ của lý thuyết lựa chọn duy lý, tìm hiểu tại sao người dân
thành phố Hồ Chí Minh lại lựa chọn Hệ phái Khất sĩ? Trong khi đó ở địa bàn
thành phố tồn tại nhiều tôn giáo. Người theo Hệ phái Khất sĩ thấy rằng họ được
thỏa mãn cao nhất mà những chi phí phải trả (kinh tế, thời gian) cho việc thỏa
mãn nhu cầu tôn giáo của mình là thấp nhất.Sự gần gũi trong tôn giáo mang
các yếu tố như thể chế hóa (institutionalization) trong tổ chức, thế tục hóa
(secularization) trong hoạt động và duy lý hóa (rationalization) trong lựa chọn
niềm tin và thực hành.
Tiếp cận lý thuyết về Sự lựa chọn duy lý niềm tin và thực hành tôn giáo để
thực hiện đề tài nghiên cứu cụ thể “Hoạt động của Giáo đoàn Ni thuộc Hệ phái
Khất sĩ tại thành phố Hồ Chí Minh”, Luận án áp dụng chủ yếu ở Chương 2 và
Chương 3
1.3.2. Mô hình khung phân tích
Trên cơ sở nêu và phân tích câu hỏi nghiên cứu, giả thuyết nghiên cứu, các
lý thuyết nghiên cứu mà lý thuyết thực thể tôn giáo là cốt lõi để nghiên cứu hoạt
động của Giáo đoàn Ni thuộc Hệ phái Khất sĩ tại thành phố Hồ Chí Minh trên
cơ sở 02 trụ cột: hoạt động thuần túy tôn giáo và Hoạt động hướng đến xã hội,
luận án đưa ra mô hình khung phân tích như sau:
31
Sơ đồ 1.1: Khung phân tích nghiên cứu hoạt động của Giáo đoàn Ni
thuộc Hệ phái Khất sĩ tại thành phố Hồ Chí Minh có thể được mô hình hóa
như sau:
1.3.3. Một số khái niệm công cụ sử dụng trong luận án
Hệ phái Khất sĩ: một Hệ phái của Phật giáo Việt Nam được khai sáng bởi
Tổ sư Minh Đăng Quang vào thập niên cuối thế kỷ XX. Tông chỉ của Hệ phái
là “Nối truyền Thích ca Chánh pháp”. Hệ phái Khất sĩ còn có các tên gọi: Đạo
Phật Khất sĩ, Đạo Phật Khất sĩ Việt Nam, Giáo hội Tăng già Khất sĩ Việt Nam.
Trong luận án thống nhất sử dụng tên Hệ phái Khất sĩ.
Bộ Chơn lý: gồm 69 chủ đề về Phật giáo, đạo Phật Khất sĩ do Tổ sư Minh
Đăng Quang trước tác sau khi Tổ sư qua đời các đệ tử đúc kết lại thành bộ
Hoạt động của Giáo đoàn Ni tại thành phố Hồ Chí Minh
Sự ra đời của Hệ phái Khất sĩ và sự ra đời của
Ni giới Khất sĩ
Quá trình hình thành và phát triển của Giáo
đoàn Ni tại Thành phố Hồ Minh
Vai trò trong hoạt động thuần
túy tôn giáo
Vai trò trong hoạt động hướng
đến xã hội
Xu hướng và đặt ra một số vấn đề cần giải quyết để phát huy
những điểm tích cực và đưa ra những điểm còn hạn chế trong hoạt
động thuần túy tôn giáo cũng như hoạt động hướng đến xã hội nhằm
mục đích Giáo đoàn Ni tại thành phố Hồ Chí Minh ngày càng có
những hoạt động ích cho cộng đồng .
32
Chơn lý. Nhân lễ tưởng niệm 50 năm ngày Tổ sư vắng bóng (1954 - 2004),
Samôn Giác Toàn xin phép chư tôn đức giáo phẩm Hệ phái in tách ra làm hai
phần: phần liên hệ đến Giới luật, dành riêng cho Tăng, Ni, có 9 chủ đề, in
chung thành tập Luật nghi Khất sĩ (riêng cho giới xuất gia). Phần còn lại 60
chủ đề liên hệ Kinh, Luật do Tổ sư giảng in chung thành Bộ Chơn lý.
Như vậy có bộ Chơn lý tập hợp 69 bài giảng của Tổ sư Minh Đăng Quang và
bộ Chơn lý tập hợp 60 bài giảng về Kinh Luận, và cuốn Luật nghi Khất sĩ (riêng
cho giới xuất gia). Các bộ sách trên được in và xuất bản nhiều lần. Trong luận án,
nghiên cứu sinh sử dụng bộ Chơn lý 60 bài giảng của Tổ sư Minh Đăng Quang,
nhà xuất bản Tôn giáo, 2009 và tác phẩm Luật nghi Khất sĩ (riêng cho giới xuất
gia) 9 bài giảng, nhà xuất bản Tổng hợp thành phố Hồ Chí Minh, 2012.
Ni giới Khất sĩ: đây là cộng đồng nữ giới xuất gia đi tu nằm trong Hệ phái
Khất sĩ.
Giáo đoàn Ni thuộc Hệ phái Khất sĩ: Giáo đoàn là tổ chức, đoàn thể tôn
giáo có tính độc lập tự trị nhất định. Giáo đoàn Ni thuộc Hệ phái Khất sĩ là tổ
chức, đoàn thể nữ giới xuất gia đi tu nằm trong Hệ phái Khất sĩ.
Khất Sĩ: có nghĩa là khất thực và khất pháp, tức là xin vật thực của người
đời để nuôi thân và xin Pháp của Phật để tu hành nuôi tâm. Hiện nay,
Giáo Hội Phật Giáo Việt Nam phải ra thông tư giới hạn nghiêm ngặt việc khất
thực để bảo vệ danh dự của tăng đoàn nhất là tăng đoàn của Hệ phái Khất
sĩ và Phật giáo Nguyên Thuỷ Việt Nam. Đối với Hệ phái Khất sĩ và Nam tông,
sau ngày 01.5.2001, nếu vị nào vẫn muốn giữ hạnh khất thực thì phải xin phép
với giáo hội và sẽ được giáo hội cấp gấy chứng nhận cùng với phù hiệu đàng
hoàng. Các vị này phải hành trì đúng chánh pháp, đúng luật qui định của
giới khất sĩ, tức là chỉ đi khất thực từ 8 giờ đến 10 giờ sáng. Sau 10 giờ sáng là
phải trở về trú xứ. Chỉ được thọ nhận vật thực, không được nhận tiền bạc. Về
hành trang chỉ gồm có một chiếc bình bát duy nhất, không được mang theo túi
hay đãy. Đối với Ni giới, khi đi khất thực, phải đi từ hai vị trở lên, không được
đi một mình riêng lẻ.
Tập sự: Người có nguyện vọng xuất gia, được xuống tóc, ở tịnh xá một
thời gian để tìm hiểu. Hết thời gian tìm hiểu và bổn sư cho phép thì sẽ được thụ
33
giới sadi. Đây là bước tu tập đầu tiên của Hệ phái Khất sĩ.
Sadi: Phiên âm từ chữ Sramanera. Sadi là người xuất gia giữ đủ 10 giới
nhưng chưa đủ tuổi hoặc chưa đủ điều kiện để lên tỳ kheo. Sadi phải theo một vị
thầy lớn tuổi đạo để được răn dạy.
Tỳ kheo (tỳ khƣu, tỷ kheo): Phiên âm từ chữ Bhiksu trong tiếng Sankrit và
Bhikkhu trong tiếng Pali, nghĩa là thầy tu giữ hạnh thanh tịnh. Tỳ kheo phải trên
20 tuổi, trước khi lên tỳ kheo phải làm tập sự là sadi, tỳ kheo là người giữ 250
giới đối với Tăng, 348 giới đối với Ni.
Tăng già: Phiên âm từ chữ Sangha,1. Chỉ giới xuất gia; 2. Tổ chức của
những người xuất gia Phật giáo; 3. Một trong tam bảo
Sƣ: Người xuất gia theo Hệ phái Khất sĩ hoặc Nam tông được gọi là sư.
Bố thí: Nghĩa là cho, gồm tài thí (cho tiền bạc), pháp thí (ban cho giáo
pháp của Phật). Bố thí là hạnh lớn, đứng đầu trong Lục độ, bao gồm: bố thí, trì
giới, nhẫn nhục, tinh tấn, thiền định, trí huệ.
Chúng sinh (còn gọi là chúng hữu tình): Dịch nghĩa từ chữ Sattva, nghĩa
là những loài có sinh ra. Chúng sinh có sinh ắt có tử, triền miên trong vòng luân
hồi sinh tử, chưa tự thức tỉnh.
Chƣ Phật ba đời (Chƣ Phật mƣời phƣơng ba đời): nghĩa là Phật của ba
thời: quá khứ, hiện tại và vị lai, chỉ tất cả các vị Phật trong ba đời và mười
phương thế giới (phương đông, phương tây, phương nam, phương bắc, phương
dưới, phương trên, phương tây nam, phương đông nam, phương tây bắc,
phương đông bắc). Ý nghĩa của thuật ngữ này là nói đến chư Phật ở mọi thời
gian và không gian, ở khắp mọi nơi trong càn khôn vũtrụ.
Độ ngọ: Độ nghĩa là phương pháp, đại hạnh (chẳng hạn lục độ) đưa đến
Niết bàn. Ngọ là trước giờ trưa. Độ ngọ là ăn một bữa trước giờ trưa như một
phương pháp tu hành.
Du tăng, du phƣơng: Là vị sư du hành khắp bốn phương để học đạo và
truyền đạo.
Giáo hóa (khuyến hóa): Dạy dỗ cho người ta tu tập, làm lành lánh dữ.
Hóa duyên: Vị sư đi nơi này, nơi khác khuyến hóa, tạo điều kiện cho
chúng sinh cúng dường.
34
Hoằng pháp: nghĩa là mở rộng ra làm cho giáo Pháp của Phật được lan
toả khắp nơi. Hay nói cách khác đem giáo lý của Đức Phật đến với mọi người
muốn tìm hiểu và ứng dụng lời Phật dạy để có một đời sống an lạc giải thoát
giác ngộ. Hoằng Pháp không chỉ là những buổi thuyết pháp trên pháp toà mà
phải được thể hiện trong mọi sinh hoạt của con người qua nhiều phương tiện
khác nhau: ngôn ngữ diễn đạt qua văn hóa nghệ thuật, in ấn kinh điển...
Phật sự: Công việc của Phật, những việc Phật thường làm như: thuyết
pháp, giáo hóa, tế độ chúng sinh. Phật sự còn có nghĩa rộng là tất cả những
công việc tu hành và hoằng pháp của nhà sư, như: tu lục độ, in kinh, xây chùa
Thụ thực, thụ trai: Thụ nghĩa là nhận lãnh cái được cho, trai nghĩa là
chay. Thụ trai là nhận lãnh bữa ăn chay mà người cúng cho. Thụ thực là nhận
lãnh đồ ăn được cúng dường.
Tịnh xá: chữ Phạn Vihāra. Là cách gọi của người Ấn độ Phật giáo nói về tịnh
thất trong các ngôi chùa, là các công trình kiến trúc nhà cửa theo phong cách Phật
giáo dành cho những người tu hành nghỉ ngơi, cầu nguyện , thiền định. Thời Đức
Phật còn tại thế, nơi tu tập của cộng đồng tu sĩ gọi là Tịnh xá. Khi Phật giáo truyền
vào Việt Nam, nơi thờ tự và tu tập được gọi là Chùa. Riêng Hệ phái Khất sĩ vẫn giữ
hình thức tu tập và hành trì khất thực, lối kiến trúc chỗ thờ Phật hình bát giác, các
am thất dung quanh dùng để chư Tăng an trú, ngôi tam bảo đó vẫn được gọi tên thời
Phật còn tại thế là Tịnh xá.
Trung đạo: Đạo trung hòa, không thái quá cũng không bất cập.
Tứ sự: Bốn việc lớn nhất của con người, bao gồm: ăn, mặc, ở, bệnh.
Tự tứ: Là ngày lễ diễn ra vào dịp rằm tháng bảy âm lịch, kết thúc ba tháng
hạ. Trong lễ này, chư tăng tự nêu ra tội lỗi của mình đã phạm phải trước mặt
các vị Tỳ kheo khác và tự sám hối.
Tứ ý pháp:
1. Nhà sư khất thực: phải lượm những vải bỏ mà đấu lại thành áo, nhưng có
ai cúng vải, đồ cũ thì được nhận.
2. Nhà sư khất thực: chỉ ăn đồ xin mà thôi nhưng ngày hội, thuyết pháp,
đọc giới bổn thì được ăn tại chùa.
35
3. Nhà sư khất thực: phải nghỉ dưới cội cây, nhưng có ai cúng lều, am nhỏ
lá một cửa thì được ở.
4. Nhà sư khất thực: chỉ dùng cây, cỏ, vỏ, lá, làm thuốc trong khi đau
nhưng có ai cúng thuốc, dầu, đường thì được dùng
Không lấy để trừ tham
Không tự làm để tránh ác
Uống hỏi xin thuốc, nằm hỏi xin đất. Ăn hỏi xin lá, trái; ở hỏi xin cốc,
hang. Không ngắt lá cây, không bẻ trái, phải lượng xin. Ăn quả chừa hột, đừng
bứng gốc ông xin thái quá), không dùng đồ vật về sanh mạng của thú, người.
Dứt tham ác thì sân si vọng động chẳng phát sanh. [70; tr. 47, 48]
36
Chƣơng 2
QUÁ TRÌNH HÌNH THÀNH, PHÁT TRIỂN, ĐẶC ĐIỂM CỦA HỆ PHÁI
KHẤT SĨ, NI GIỚI KHẤT SĨ VÀ GIÁO ĐOÀN NI THUỘC HỆ KHẤT SĨ
TẠI THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH
2.1. Khát quát về quá trình hình thành và phát triển của hệ phái Khất Sĩ
2.1.1. Hoàn cảnh ra đời
Phật giáo du nhập vào Việt Nam đã hơn hai ngàn năm và trải qua bao sự
thăng trầm của lịch sử, có những giai đoạn Phật giáo Việt Nam ở vào thời kỳ
vàng son như thời Lý, Trần. Phật giáo được xem như tôn giáo chủ lưu, nhưng
cũng có những giai đoạn lặng chìm trong xã hội như thời Nguyễn, thời kỳ Pháp
thuộc. Trong thời kỳ Pháp thuộc ở Nam bộ Việt Nam, trước khi Hệ phái Khất sĩ
ra đời (1944), Phật giáo có chiều hướng suy yếu. Thời kỳ này, tại Nam bộ còn
xuất hiện và tồn tại nhiều tôn giáo nội sinh như Bửu Sơn Kỳ Hương, Tứ Ân Hiếu
Nghĩa, Phật giáo Hòa Hảo, Phật giáo hiếu nghĩa Tà Lơn. Phần lớn các tôn giáo
này dạy tín đồ những điều cơ bản như ăn chay, tin luật nhân quả, làm thiện tích
đức v.v gần giống với tinh thần của Phật giáo. Những tôn giáo nội sinh này đã
tạo được lòng tin và thu nhận nhiều tín đồ ở Nam bộ, nhưng vẫn chưa phát triển.
Phật giáo cần được chấn hưng, một trong những kết quả của sự chấn hưng Phật
giáo ở Nam bộ là sự ra đời của Hệ phái Khất sĩ, Hệ phái ra đời từ các nguyên
nhân chủ yếu sau:
Nguyên nhân khách quan:
Bối cảnh lịch sử Việt Nam trước cách mạng tháng Tám năm 1945 là một
nước thuần nông với nền nông nghiệp cổ truyền. Dưới ách đô hộ của thực dân
Pháp khiến nền kinh tế Việt Nam thời kỳ này gặp rất khó khăn, đời sống người
dân cực khổ nên muốn hướng về tâm linh để tìm nguồn an lạc nội tâm. Đây là
điều kiện thuận lợi cho sự xuất hiện những hiện tượng tôn giáo mới, nhằm đáp
ứng nhu cầu của một bộ phận người dân.
Hơn thế nữa, vùng đất mới Nam bộ Việt Nam được khai phá vào thời Chúa
Nguyễn (thế kỷ XVII). Trước Cách mạng tháng Tám năm 1945, nơi này còn
hoang vu, rậm rạp, nhiều thú dữ, thiên tai, lụt lội... khiến cuộc sống người dân
nhiều khó khăn. Ngược lại, nơi này đất đai màu mỡ do hai con sông Tiền và sông
37
Hậu bồi đắp phù sa. Vùng đồng bằng Nam bộ ít đồi núi cản trở, giao thông đường
thủy thuận lợi vì hệ thống sông ngòi dày đặc. Bởi thế, từ khoảng thế kỷ XVII trở
đi, nhiều thành phần cư dân từ các nơi khác đến Nam bộ sinh sống đã mang theo
các phong tục tập quán, tín ngưỡng, tôn giáo góp phần cho sự hình thành và xuất
hiện nhiều hiện tượng tôn giáo mới.
Trên đây là những nguyên nhân từ bên ngoài xã hội tác động, ảnh hưởng
tạo điều kiện thuận lợi cho sự hình thành Phật giáo Khất sĩ. Không những thế,
nội tình Phật giáo Việt Nam trong giai đoạn đó cũng tạo nhiều ảnh hưởng đến sự
xuất hiện Hệ phái Khất sĩ tại Việt Nam.
Nguyên nhân chủ quan:
Phật giáo Việt Nam trong thời suy yếu: Từ khi thực dân Pháp đặt chân lên vùng
đất Nam bộ cũng là khi người Việt Nam chịu nỗi đau mất nước. Phật giáo cũng
chung số phận ấy, khi chủ quyền dân tộc không còn, giáo lý đạo Phật bị chà đạp trắng
trợn hơn bao giờ hết. Tình trạng khốn đốn của Phật giáo thời kỳ này trở nên nguy cấp
hơn bao giờ hết, vì chẳng còn hệ thống (đoàn thể), tổ chức như trước kia. Nguyên do
thực dân Pháp cố tình cắt đứt sự tổ hợp của Phật giáo, sợ dân chúng mượn danh Phật
giáo để chống đối. Vì vậy, hoạt động Phật giáo bị tê liệt, đội ngũ tu sĩ thời kỳ này
chẳng biết làm gì hơn trước sự theo dõi của thực dân, nên sống hết sức rời rạc, không
có sự gắn kết trong một cộng đồng tôn giáo.
Phong trào “Chấn hưng Phật giáo Trung Hoa” những năm đầu thế kỷ XX
đã ảnh hưởng tới đất nước láng giềng Việt Nam. Vào khoảng năm 1920, phong
trào chấn hưng Phật giáo đã khởi lên ở nước ta. Lúc đầu chỉ là những cố gắng lẻ
tẻ của một số vị Cao tăng trong nước như miền Bắc có các Sư cụ Vĩnh Nghiêm
(Thanh Hanh), Tế Cát (Phan Trung Thứ); miền Trung có các Sư: Tâm Tịnh, Huệ
Pháp; miền Nam có hòa thượng Khánh Hòa, Huệ Quang Đối với Phật giáo
Việt Nam vùng Nam bộ “vì hoàn cảnh thúc giục, trong xứ Nam Kỳ Lục tỉnh còn
một số Tăng già tiền bối có thực học, thực tu tìm mọi phương châm để duy trì
mối đạo”. Tuy nhiên, khi phong trào chấn hưng Phật giáo Việt Nam đang lên thì
chiến tranh Thế giới thứ II bùng nổ và sau đó là chiến tranh Việt - Pháp làm gián
đoạn hoạt động của các hội Phật học trong nước.
38
Hệ phái Khất sĩ ra đời bắt nguồn từ nhu cầu thực tiễn của người dân Miền
Nam Việt Nam trong thời điểm bấy giờ. Với mong muốn được độc lập, tự chủ về
tư tưởng, không lệ thuộc văn tự Hán truyền, cũng không muốn sử dụng ngôn ngữ
Pali hoặc bị ảnh hưởng bởi tiếng Pháp, Hệ phái Khất sĩ đã sáng tạo rất đúng đắn
nhằm mục đích giữ lại tiếng Việt của dân tộc, diễn đạt bằng ngôn ngữ của dân tộc
để phổ biến giáo lý, giới luật căn bản của Phật giáo vào cộng đồng người dân Miền
Nam Việt Nam đang có xu thế phản kháng lại những nền văn hóa ngoại lai làm lu
mờ bản sắc văn hóa dân tộc Việt. Hầu hết giáo lý căn bản của Hệ phái nằm trong bộ
kinh Chơn Lý do Tổ sư Minh Đăng Quang soạn, ngắn gọn và dễ hiểu.
Trong thời Pháp thuộc, ở Nam bộ Việt Nam trước khi Hệ phái Khất sĩ ra
đời, Phật giáo đang trong chiều hướng suy yếu, thời kỳ này xuất hiện nhiều tôn
giáo, tông phái Phật giáo khác nhau như Phật giáo Nam tông Kinh, Phật giáo
Hòa Hảo, Phật giáo hiếu nghĩa Tà Lơn, Tịnh độ cư sĩ Phật hội Các nhánh phái
Phật giáo và những tôn giáo nội sinh có giáo lý gần Phật giáo ra đời thời kỳ này
đã tạo được lòng tin và thu nhận nhiều tín đồ Nam bộ. Tuy nhiên, khi Hệ phái
Khất sĩ hình thành với tiêu chí “nối truyền Thích Ca chánh pháp” nâng cao về tu
tập của tu sĩ và cư sĩ. Đồng thời, Tổ sư Minh Đăng Quang không muốn có sự
chia rẽ Phật giáo thành Nam - Bắc truyền mà hợp nhất trong Hệ phái Khất sĩ
Phật giáo Việt Nam nên đã được nhiều người quan tâm tìm hiểu, học hỏi. Phật
giáo Khất sĩ ra đời, vì vậy đã thể hiện những đặc sắc riêng của mình.
2.1.2. Quá trình hình thành và phát triển
2.1.2.1. Vài nét về Tổ sư Minh Đăng Quang
Tổ sư Minh Đăng Quang tên thật là Nguyễn Thành Đạt. Lúc nhỏ, Ngài đi
học mượn giấy khai sinh của một người tên Lý Hườn, nên được gọi bằng cái tên
đó. Ngài sinh ngày 26 tháng 9 năm 1923 trong một gia đình Nho giáo, tại làng
Phú Hậu, tổng Bình Phú, quận Tam Bình, tỉnh Vĩnh Long (nay là ấp 6, xã Hậu
Lộc, huyện Tam Bình, tỉnh Vĩnh Long. Thân phụ là Nguyễn Tồn Hiếu (1894 –
1968), thân mẫu là Phạm Thị Nhàn (1892 – 1924). Khi mang thai, thân mẫu
Ngài không hay biết mà tưởng là mắc bệnh, đã hốt thuốc mạnh để xổ tiêu phá
độc chướng nhiều lần. Sau bà mang thai đến mười hai tháng mới sinh. Chín
tháng sau khi sinh bà bị bệnh tim và qua đời. Gia đình Ngài có tất cả năm người
39
con, Ngài là con út, khi mẹ mất, cô Út đem về nuôi một tháng, bác dâu thứ tám
đưa về nuôi thêm tuần, rồi Ngài được gửi về quê ngoại. Bà ngoại nuôi đến 3 tuổi,
năm ấy thân phụ có kế mẫu Hà Thị Song và được kế mẫu tiếp tục nuôi dưỡng.
Năm lên bảy, được cha cho lên thị xã Vĩnh Long học cùng các anh. Lúc
đó, Ngài còn nhỏ nhưng rất có lòng từ bi. Khi trời nắng cha cho tiền đi xe kéo,
xe ngựa nhưng không nỡ đi vì thương người, xót vật. Có thể thấy, tinh thần nhân
đạo của một con người được hình thành từ khi Ngài còn rất nhỏ.
Thuở nhỏ đi học, Ngài rất thông minh, ham thích đọc lịch sử các danh nhân,
kinh sám truyện, sự tích. Khác với những đứa trẻ bình thường, Ngài không bao giờ
giao du với bạn xấu, không đùa nghịch, đạo mạo trang nghiêm, lại có lòng thương
người, cha mẹ cho ăn quà hay quần áo mới thì đều cho người nghèo khổ hơn.
Phụ thân Ngài thuộc phái Nho gia, nhưng sau theo Phật học, tu cư sĩ tại gia,
mỗi tháng ăn chay mười ngày. Ngài cũng ăn chay theo cha, cũng niệm hương
cúng Phật mỗi tối. Thế là lòng từ bi thương người, vật, lòng kính ngưỡng đạo
Phật của Ngài từ đó đã phát hiện rõ rệt.
Người chị thứ ba của đức Tổ hiện nay còn ở phường 3 thành phố Vĩnh
Long cho biết Ngài học đến bằng Thành chung (tương đương với lớp 9 hiện
nay). Năm 15 tuổi (1938), Ngài quyết tâm chấm dứt con đường học tập để đi
theo con đường học đạo. Ngài qua Nam Vang (Campuchia) tìm thầy học đạo,
gặp thầy Lục Tà Keo, ở với thầy được 3 năm. Sau đó, thấy lối tu của thầy không
thích hợp nên trở về quê (1941) ở với thân phụ thêm vài tháng rồi lên Sài Gòn ở nhà
hàng của người Nhật, sau đó làm cho hãng xà bông Việt Nam. Tại đây cậu thanh
niên Thành Đạt thông minh, đĩnh ngộ, nhân hậu được ông chủ hãng gả con gái tên
Kim Huê. Một năm sau, ngày 23 tháng giêng năm Qúy Mùi 1943 hạ sinh bé Kim
Liên, đứa bé khó nuôi nên được 1 tháng tuổi đem về gửi cho người chị Ba ở Vĩnh
Long nuôi dưỡng, nuôi đến 2 tuổi, cha Ngài đem về nuôi vài tháng thì cháu ngã
bệnh rồi mất. Sau vài tháng sinh con, bà Kim Huê thọ bệnh qua đời. Ngài ở nhà một
thời gian lo hương khói rồi quyết chí đi tu [11].
Năm 1943 Ngài lại trốn nhà ra đi, vào vùng Thất Sơn, nơi nổi tiếng với
những bậc đạo sĩ “tu tiên”, phát xuất hầu hết các tôn giáo thời cận đại, để ẩn tu
và nghiên cứu giáo lý Nam – Bắc truyền. Ít lâu sau, Ngài xuống núi qua Hà Tiên,
40
định lần ra Phú Quốc rồi tìm sang các nước học đạo truyền giáo, nhưng bị trễ
tàu. Ngài ở lại, ra đầu gềnh bãi biển Mũi Nai ngồi tham thiền bảy ngày bảy đêm,
quán xét nhân duyên. “ Trước cảnh thiên nhiên trời nước bao la, những chiếc
thuyền nhấp nhô, bọt nước tụ tán, vào một buổi chiều Ngài ngộ Phật pháp,
chứng đạt đạo lý vô thường, vô ngã, cảnh khổ trầm luân, đầy vơi, có không, còn
mất, sống chết, khổ vui của cuộc đời. Chính nơi đây Ngài tỏ ...ng
Nguồn: tác giả sưu tầm, thống kê năm 2018
PL7
Bảng 3.4: Tổng kết số lượng tịnh xá và số lượng Ni của Hệ phái Khất sĩ
Đoàn
Số lƣợng Số lƣợng ni
Tịnh Chùa Tịnh Ni Ni Sƣ
Tổ đình Ngọc Phương
I 11 1 11 36
III 43 5 16 151
IV 43 1 8 11 30 140
VI 4 2 4 16
Tổng cộng 292 23 37 65 195 996
Bảng 3.5: Tổng hợp trình độ Phật học của Giáo đoàn Ni thuộc Hệ phái Khất sĩ
Trình độ
Ghi
chú Thức xoa Sa di Tiến sỹ Thạc sỹ Cử nhân Cao đẳng
Trung
cấp
167 203 26 11 159 105 125
23 5 2 5 7 3
23 52 5 5 38 14 30
35 36 2 1 9 24 26
3 7 3 2 2
252 302 33 18 214 152 186
Nguồn: Báo cáo tổng kết Phật sự của Giáo đoàn Ni thuộc Hệ phái Khất sĩ năm
2015
PL8
PHỤ LỤC 2: CÂU HỎI VÀ TRẢ LỜI PHỎNG VẤN SÂU
NI SƢ CỦA GIÁO ĐOÀN NI THUỘC HỆ PHÁI KHẤT SĨ
TẠI THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH
Nội dung phỏng vấn
Xin Ni cô cho biết tại sao hai Giáo đoàn Tăng còn lại là Giáo đoàn II và VI
không có Giáo đoàn Ni nƣơng vào?
Theo Ni sư T.L: Sở dĩ hai giáo đoàn Tăng còn lại không có Ni nương vào như
những giáo đoàn Tăng khác là vì những Tăng sư thuộc hai giáo đoàn này chấp nhận
sự tồn tại của Giáo đoàn Ni tại tịnh xá Ngọc Phương là một tổ chức nữ tu sĩ tồn tại độc
lập nên không để cho Ni nương vào hoạt động nữa.
Theo PGS. TS T.H.L: Hiện nay có rất nhiều những quan điểm khác nhau trong
cách phân chia từng giáo đoàn trong Hệ phái Khất sĩ, có cách phân chia dựa trên
quan điểm của tổ chức trong Hệ phái, nhưng cũng có những cách phân chia theo tổ
chức thì cho rằng mỗi tổ chức sẽ là một Giáo đoàn
Xin Ni cô cho biết trong Giáo hội Tăng già Khất sĩ Việt Nam hiện tại liệu có
sự kỳ thị hay không công bằng giữa những giáo đoàn Ni nƣơng Tăng và Giáo đoàn
Ni độc lập hay không?
Theo Ni sư L.L: Không em, mọi việc diễn ra bình thường.
Theo Ni sư N.L: Việc của ai người đó làm không có sự không công bằng đâu em
Xin Ni cô cho biết trong Tịnh xá Ngọc Phƣơng trung bình có khoảng bao
nhiêu Ni cô sinh sống?
Theo Ni cô H.L: Số lượng các Ni sinh sống tại tịnh xá Ngọc Phương hay dao
động dựa vào tình hình học hành rèn luyện của quý Ni trong Giáo đoàn và ở một số
các tỉnh khác đến ở, tuy nhiên trung bình khoảng trên dưới 200 người.
Xin Ni cô cho biết những hoạt động của quý Ni cô sinh sống trong Tịnh xá
Ngọc Phương diễn ra như thế nào?
Theo Ni sư T. L: các hoạt động thì có rất nhiều , nhưng ví dụ như những hoạt
động tụng niệm diễn ra vào hai thời khóa tụng chính, khóa giờ chiều từ 6 giờ rưỡi,
PL9
một thời khóa khuya nữa là 4 giờ. Thường các Ni sư 3 giờ 45 hoặc 3 giờ 10 là tụng
rồi, nhưng trung bình 4 giờ kém 10 hay 4 giờ là tụng một thời khóa.
Ngồi thiền: có 1 giờ ngồi thiền chính sau tụng đêm khuya. Hồi xưa lúc mấy cô
còn học, buổi chiều ở đây 5 giờ có một thời khóa thiền nữa nhưng thời thiền đó là
không bắt buộc. Lớp sơ cấp mấy khóa đầu, các em còn được thầy cô khuyến khích
ngồi thiền giờ khuya, cả lớp ngồi thiền. Các em nào ở nội trú đây đều phải ngồi thiền
để chấm điểm về siêng năng, thành ra các em ngồi thiền tốt. Lúc sau do mấy cô bận
lo công việc phật sự nhiều quá thành ra không bám được, nên các em có tự giác thì
ngồi thiền buổi khuya, em nào không ngồi thiền thì thôi, nhưng giờ thiền đó vẫn giữ.
Ngoài ra buổi sáng 9 giờ rưỡi thường có một thời khóa tụng kinh phi thời. Thì ngày
đám giỗ của cha, của mẹ hay là mình tụng thất của những người mất cho nên gia
đình thân nhân người ta vô yêu cầu mình tụng phi thời thường là tụng vào 9 giờ rưỡi,
tụng cầu siêu hoặc là có gia đình người bệnh nặng quá người ta vô xin tụng cầu an
thành ra tụng phi thời buổi sáng”
Xin Ni cô cho biết việc tụng kinh hàng ngày của các Ni cô có quan trọng hay
không?
Rất có ý nghĩa. Tụng để hiểu nghĩa lý diệu huyền của kinh, có lợi cho tăng
trưởng niềm tin, đức tin với Phật – Pháp – Tăng. Và có một số kinh tăng trưởng trí
tuệ, hiểu biết thâm sâu hơn. Ví dụ như tụng Adi đà phổ môn, đồng thời học theo các
hạnh của các vị đó. Với kinh Phổ môn, mình tụng Nam mô đại từ đại bi hỷ xả, mình
học theo từ bi hỷ xả. Kinh pháp cú, từng lời dạy của Phật nhập tâm thì sẽ hiểu thâm
sâu hơn lời dạy của Phật khi mình hiểu sâu sắc. Học theo các hạnh của các vị bồ tát.
Đọc kinh Pháp cú để trong từng kinh như vậy là lời dạy của Phật. Khi chúng ta nhập
tâm thì từ từ chúng ta sẽ hiểu thâm sâu hơn lời dạy của Phật và bản thân mình khi
hiểu sâu sắc thì trí tuệ sáng hỗ trợ tâm mình ngày mỗi sáng, trí tuệ phát sinh nhiều đủ
trí tuệ để mình thấu được bản chất thật của vạn pháp vô thường của vô ngã. Khi
mình có trí tuệ đủ sáng như vậy thì tâm mình mới khởi lên một cái gọi là nhàm chán
ly tan niết bàn tức là trạng thái không bị nhàm chán không bị dính mắc say đắm vào
những cái vật dục của thế gian. Vì những cái say đắm dính mắc đó thì thường một
PL10
người bị say đắm dính mắc sẽ bị những sự sai xử của những cái tâm cái đó gọi là tâm
tham. Cái gì mình ham muốn thì nó khởi tâm tham mình thấy không vừa ý thì khởi
tâm sân. Những cái tâm tham, tâm sân đó thường sai xử mình. Nó đều là điều bất
thiện. Lời nói, hành động bị sai xử bởi tâm tham tâm sanh đều là hành động bất
thiện, mà hành động bất thiện là gieo nhân thì sẽ ra quả xấu. Luật nhân quả trong
Phật giáo là gieo nhân nào là gặp quả nấy mặc dù đức Phật không cứng nhắc là hễ gieo
nhân nào cũng phải quả. Nhưng mà hễ có gieo nhân thì có quả, những cái quả này tùy
theo duyên nữa cho nên chúng ta làm phước đức thì có thể giảm bớt được nghiệp, mình
tụng kinh mình hiểu cái nghĩa lý diệu huyền của kinh, trí tuệ mình sáng ra mình hiểu ra
Phật dạy về nhân quả như thế nào, Phật dạy về giữa ảnh hưởng của cái tâm tác động tới
thân khẩu ý như thế nào, hộ trì thân khẩu ý như thế nào. Trong những lời kinh Phật dạy
đó mình tụng mình thuộc mình nhập tâm trong lúc rãnh mình suy nghĩ lời dạy của Phật
từ cái trí tuệ mình”
Xin Ni cô cho biết việc tụng kinh hàng ngày diễn ra nhƣ thế nào, thời
gian, địa điểm, cuốn kinh tụng là kinh gì?
“Tụng trung bình cỡ nửa tiếng hoặc là tụng theo có nghi thức dài dài thì
thường 45 phút. Tụng cuốn kinh Nam Bảo do Ni trưởng dịch, đầu hôm tụng kinh
A Di Đà cầu siêu, những vong linh bị mất. Trong niềm tin của tất cả những
người trong Phật giáo thì người mất của mình mà chưa được siêu thoát ở thế
giới bên ta là ma quỷ. Hai là cầu an giờ sáng, thường tụng kinh Phổ Môn. Sáng
thường tụng nhiều kinh, kinh Phổ Môn là chính nhưng thay phiên nhau là để cho
những vị tụng kinh có tăng trưởng về trí tuệ. Cho nên có khi đầu hôm cũng tụng
kinh Pháp Cú, tăng trưởng trí tuệ lời phật dạy. Rồi khuya tụng kinh Di Giáo, tứ
thập nhị chương ngoài kinh phổ môn và một số kinh khác. Hay đầu hôm tụng
theo yêu cầu phật tử, tụng cho cha con hay mẹ con gì đó, 3 cuốn kinh Địa Tạng
tụng cầu siêu. Hay là có người bệnh lâu năm quá không mất thì gia đình muốn
cầu nguyện rằng muốn mất thì phải xin mất nhẹ nhàng, đi cho lẹ, còn nếu sống
thì xin cho khỏe. Thành ra tụng đầu hôm cũng tụng cầu nguyện từ bi thủy xám,
lương hoàng xám, kinh địa tạng, tụng dược sư khi có yêu cầu nhưng mà khi đột
xuất thôi, khi có yêu cầu còn thông thường mình tụng a di đà với tụng kinh Pháp
Cú. Còn sáng tụng kinh Vũ Môn với kinh Di giáo (lời Phật dạy trước khi nhập
PL11
niết bàn), kinh khóa hư, hoặc trong cuốn tinh hoa bí yếu, hoặc kệ trích lục mà Ni
trưởng lược trong Đức Phật và Phật pháp mà Ni trưởng dịch ra thành thơ kệ.
Còn ngày sám hối thì lại Hồng Danh sám hối” NS. TL
Xin Ni cô cho biết trong tu tập thì Giáo đoàn Ni thuộc Khất sĩ của mình hiện
tại chú trọng nhất đến hình thức nào?
“Nói chung lại là việc tu tập thì kết hợp nhiều phương cách khác nhau,
nhưng hiện tại thì các cô chú trọng và chỉ dạy các cô mới tu thiền” NS. T.l
Xin Ni cô cho biết trong Giáo đoàn Ni thuộc Hệ phái Khất sĩ hiện tại muốn
phát triển Giáo đoàn của mình thì Ni giới quan tâm nhất đến hoạt động nào?
“Hiện tại trong Ni giới quan trọng nhất vẫn là việc chú trọng việc tu tập của
mỗi Ni sao cho tốt nhất, các cô vẫn để ý chuyện tu tập hơn cả, tuy nhiên những hoạt
động để việc tu hành tốt hơn thì không thể tách khỏi việc học tập nâng cao trình độ,
hiện tại hầu hết các cô đều có học để nâng cao trình độ của mình cả về Phật học và
thế học, không có Ni cô nào không tham gia việc học cả, học cả ngoại ngữ với hai
loại ngoại ngữ là tiếng Anh và tiếng Trung, sau đó mới là những hoạt động từ
thiện” NC. LL
Trong hệ phái, thì hoằng pháp căn bản là khuyến khích tất cả các tịnh xá ni giới,
những nơi có điều kiện, nhất là những nơi thành lập càng lâu, gọi là cúng hội. Một tháng
có thể cúng hội 1 ngày 2 ngày , xen kẽ giữa cúng hội là các khóa tu bát quan trai giới và
khóa niệm Phật. Các cô khuyến khích học khóa tu bát quan trai giới nhiều hơn, khóa tu
bát quan trai giới là truyền tám giới cho Phật tử để giữ giới trong ngày hôm đó. Ngày
này, ngoài tụng kinh niệm Phật còn có pháp đàm cho Phật tử hỏi để mở rộng kiến thức,
thắc mắc, khoảng một giờ Buổi chiều có một giờ rưỡi để giảng, giảng sâu hơn về kinh,
tùy theo có những vị giảng theo chủ đề tự do, có những vị giảng theo Phật học phổ thông,
có những vị giảng theo kinh của Phật, kinh pháp cố, kinh tạng”. Bên cạnh đó, việc phổ
biến các thông tin hoàng pháp trên mạng Internet cũng được chú trọng, tùy theo, điều
kiện có những đạo tràng do Phật tử tổ chức để quay video, rồi đưa lên internet, hoặc có
những video phổ biến ra. Nhưng đa số những đạo tràng không tổ chức ghi hình thì không
có video để đưa lên. Vì vậy các cô chú trọng gây dựng đạo tràng ở tất cả các tịnh xá phải
có lớp giáo lý, phải có những buổi sinh hoạt để giảng pháp cho các Phật tử, Niệm Phật
PL12
cũng được nhưng các cô khuyến khích mở các lớp, đài thọ bát quan trai giới, tu bát quan
trai giới để Phật tử giữ giới thật nghiêm chỉnh trong ngày đó và đồng thời trong ngày bát
quan trai giới sẽ học hỏi các giáo lý nhiều hơn”. Phỏng vấn Ni sư T. L tịnh xá Ngọc
Phương.
Xin Ni cô cho biết việc phát triển giáo dục hiện tại trong giáo đoàn của mình
chú trọng Phật học hay thế học?
“Chú trọng cả hai không có cái nào xếp sau cái nào cả” NS. N.L Tịnh xá
Ngọc Phương
Trong hệ phái, thì hoằng pháp căn bản là khuyến khích tất cả các tịnh xá ni giới,
những nơi có điều kiện, nhất là những nơi thành lập càng lâu, gọi là cúng hội. Một tháng
có thể cúng hội 1 ngày 2 ngày , xen kẽ giữa cúng hội là các khóa tu bát quan trai giới và
khóa niệm Phật. Các cô khuyến khích học khóa tu bát quan trai giới nhiều hơn, khóa tu
bát quan trai giới là truyền tám giới cho Phật tử để giữ giới trong ngày hôm đó. Ngày
này, ngoài tụng kinh niệm Phật còn có pháp đàm cho Phật tử hỏi để mở rộng kiến thức,
thắc mắc, khoảng một giờ Buổi chiều có một giờ rưỡi để giảng, giảng sâu hơn về kinh,
tùy theo có những vị giảng theo chủ đề tự do, có những vị giảng theo Phật học phổ thông,
có những vị giảng theo kinh của Phật, kinh pháp cố, kinh tạng”. Bên cạnh đó, việc phổ
biến các thông tin hoàng pháp trên mạng Internet cũng được chú trọng, tùy theo, điều
kiện có những đạo tràng do Phật tử tổ chức để quay video, rồi đưa lên internet, hoặc có
những video phổ biến ra. Nhưng đa số những đạo tràng không tổ chức ghi hình thì không
có video để đưa lên. Vì vậy các cô chú trọng gây dựng đạo tràng ở tất cả các tịnh xá phải
có lớp giáo lý, phải có những buổi sinh hoạt để giảng pháp cho các Phật tử, Niệm Phật
cũng được nhưng các cô khuyến khích mở các lớp, đài thọ bát quan trai giới, tu bát quan
trai giới để Phật tử giữ giới thật nghiêm chỉnh trong ngày đó và đồng thời trong ngày bát
quan trai giới sẽ học hỏi các giáo lý nhiều hơn”. Phỏng vấn Ni sư T. L Tịnh xá Ngọc
Phương
Xin Ni cô cho biết những thuận lợi và khó khăn trong hoạt động giáo dục
của Giáo đoàn Ni thuộc Hệ phái Khất sĩ hiện tại là gì?
“Các ni đều rất ham học, đặc biệt là giáo lý, về văn hóa đều đạt lớp 12, các em còn
PL13
được học thêm giáo lý. Hiện giờ các em cố gắng ít nhất là đạt cử nhân. Những em có
điều kiện còn đi du học. Cho nên số lượng đỗ dạt tiễn sĩ ra trường theo thống kê thuộc Ni
giới của hệ phái trên ba mươi mấy người, ra trường và về địa phương kết hợp với địa
phương. Từ đây về sau các em học đạt tiến sĩ xong sẽ về đây để phục vụ Giáo hội hệ phái
là 5 năm. Nghĩa là tổ đình sẽ bố trí để cho có chổ ở, xong rồi làm việc cho Giáo hội hoặc
Hệ phái giảng dạy 5 năm sau đó mới trở về địa phương để phục vụ nhu cầu của địa
phương.
Trong hệ phái có lớp sơ cấp phật học ở quận Gò Vấp, đây là phân hiệu của giáo hội.
Hệ phái bên tăng cũng như bên ni đang muốn xin mở tiếp trung cấp, để có môi trường
chư ni học xong về giảng dạy, ôn bài vở tạo điều kiện để nghiên cứu, đồng thời tạo sinh
khí cho các em có hoạt động, người đi trước rước người đi sau. Nhưng hiện giờ lớp
trung cấp thì chưa được chấp thuận, có hai em được giới thiệu lên trung cấp của phật
giáo Thành phố Hồ Chí Minh, nhưng mà mới có một em chính thức đứng lớp, còn một
em hình như chưa có chỗ trống. Nhưng từ lúc trung cấp phật học mở ra lâu lắm ni giới
mới được tham gia”. NS T. L Tịnh xá Ngọc Phương
Hiện nay tại tịnh xá Ngọc Phƣơng đã tổ chức đƣợc bao nhiêu khóa tu, thƣa cô?
Từ năm 2011 đến nay, mỗi năm có 4 khóa tu vào tháng giêng, tháng 3
tháng 8 và tháng 11 và mỗi khóa tu trung bình có khóa 100 người, có khóa 150
người trở lại , kém nhất cũng 90 người, chứ không thấp hơn.
Khóa tu truyền thống của Hệ phái Khất sĩ, không có chủ đề riêng từng
khóa, vì vậy những khóa tu truyền thống khóa thứ nhất, khóa thứ hai và cho
đến nay Tịnh xá Ngọc Phương đã tổ chức đến khóa tu hay 27 hoặc 28. Trong
nội dung khóa tu có chương trình học tập chân lý của Tổ sư thì các bài học
sẽ thay đổi, mà mỗi một khóa thì bài học sẽ thay đổi khác nhau. Phỏng vấn Ni
sư T. L, Tịnh xá Ngọc Phương
Xin Ni cho biết việc mở lớp Phật học của Giáo đoàn tại Tịnh xá Ngọc Phƣơng
để tiện cho việc đi lại của các cô nhƣ thế nào?
Muốn mở lớp trung cấp cần phải được sự đồng ý của Ban Trị sự Phật giáo Thành
phố. Căn bản Ban Giáo dục tăng ni của Thành phố nói chung có ưu ái cho địa phương
toàn quyền quyết định, nhưng phải theo một hệ thống chung của Giáo hội. Các vị nói
PL14
rằng nếu cho Tịnh xá Ngọc Phương mở thì các nơi khác cũng muốn mở theo. Trong
Thành phố có nhiều trường sơ cấp, Bình Thạnh, Phú Lâm quận 6, Tân Bình, nếu cho mở
trung cấp ở một phường thì các lớp kia cũng đề nghị mở lớp trung cấp sẽ khó cho Ban
Trị sự, thành ra chưa giải quyết. Hiện giờ về mặt giáo dục các cô rất khuyến khích cho
các em, đặc biệt là các em có năng khiếu các cô khuyến khích học anh văn giỏi. Các hoạt
động ở viện nghiên cứu cũng như ở Giáo hội Phật giáo Việt Nam Thành phố học giả các
nước, các sư các nước như Mỹ, Anh đến tổ chức những cuộc hội thảo, thành ra nếu mình
học anh văn không giỏi sẽ không nghe kịp. Mặc dù mình có hiểu loáng thoáng nhưng để
trả lời mạnh dạn thì ngại, nên khó để trao đổi, vì vậy các cô khuyến khích theo học Anh
văn. Một số em có xu hướng học Hán văn nhưng cô cũng có trao đổi là hiện tại Hán văn
nhiều rồi nên không nhất thiết phải học nữa mà nên theo đuổi Anh văn”. NS. T. L Tịnh
xá Ngọc Phương
Xin Ni cô cho biết trong hoạt động hƣớng đến xã hội của Giáo đoàn Ni của
mình chú trọng nhất là hoạt động gì?
“Chú trọng hơn đến hoạt động từ thiện. Hoạt động từ thiện là hoạt động có truyền
thống từ thời của Sư bà (Ni trưởng Huỳnh Liên), các Ni cô ở đây noi gương làm theo.
Hàng năm có rất nhiều chuyến từ thiện đã được vạch sẵn, nhưng nếu đất nước gặp thiên
tai bão lũ thì sẽ có những chuyến cứu trợ đột xuất đến những vùng khó khăn này.” NS.
N.L tịnh xá Ngọc Chơn
Xin Ni cô cho biết trong hoạt động từ thiện xã hội thì nguồn tiền mình có thể
huy động từ đâu?
“Nguồn tiền thì mình vận động các mạnh thường quân thôi em, hoặc quận,
phường hay thành phố nhiều khi cũng có hỗ trợ” NS. TL Tịnh xá Ngọc Phương
Thông thường nguồn tài chính được vận động từ những Phật tử là mạnh thường
quân đã có gắn bó nhiều trong hoạt động từ thiện xã hội này. Có một phần hỗ trợ từ giáo
hội, một phần từ ngay chính Tịnh xá. Tịnh xá Ngọc Phương có tự làm một số vật phẩm
như bánh trung thu chay, mứt tết và một số vật phẩm chay khác, nguồn tiền thu được một
phần để lo cho đời sống của Ni, một phần sẽ làm từ thiện. S.C. N. L Tịnh xá Ngọc
Phương.
PL15
Xin Ni cô cho biết trong hoạt động từ thiện nhƣ vậy có đƣợc ghi chép lại và
công khai trong Giáo hội không?
“Có em, đều ghi chép rõ ràng, tại tịnh xá Ngọc Phương hiện tại cô Phụng Liên là
người chịu trách nhiệm ghi chép lại những hoạt động từ thiện xã hội” NS T.L Tịnh xá
Ngọc Phương.
Xin Ni cô cho biết Ni giới của mình đang gặp những thuận lợi và khó khăn
gì?
“Hiện tại thì không gặp khó khăn gì em, thuận lợi thì việc tu tập về cơ bản là
không có gì, mọi việc đều hoạt động bình thường”
Hiện tại quý cô có đi khất thực không ạ?
Đối với chúng tôi, cho đến thời điểm hiện tại ít thực hiện nghi thức khất thực bởi vì
một phần do Giáo hội quy định, một phần bối cảnh xã hội tại Thành phố Hồ Chí Minh ở
một số quận đường xá quá đông đúc, đi khất thực đôi khi cũng gây ra những
nguy hiểm nhất định. Chỉ ở một số quận vắng vẻ hơn thì thỉnh thoảng chúng tôi
có thực hiện. N.S. L.L Tịnh xá Ngọc Chơn.
Thƣa sƣ việc thờ hình tƣợng Quán Thế Ân bồ tát tại Hệ phái của mình có từ
bao giờ ạ?
Việc để tượng thờ Quán Thế Âm Bồ Tát tại các Tịnh xá trong Hệ phái hiện
nay bắt đầu manh nha từ những năm 1960, tuy nhiên chỉ xuất hiện rải rác. Sau
năm 1975 thì việc thờ phụng mới rõ rệt hơn và hầu như các Tịnh xá hiện nay đều
có. Việc thờ này có ý nghĩa đáp ứng nhu cầu tín ngưỡng của quần chúng và chủ
trương của Hệ phái là không quan trọng hình thức, chủ yếu là chơn tu Sư G.H.
Tịnh xá Trung tâm.
Ni trƣởng N L Giáo đoàn 4, Tịnh xá Ngọc Văn, Huyện Củ Chi
Dạ thƣa cô, ở trong tịnh xá của mình có thƣờng xuyên làm từ thiện không?
PL16
Có con!
“Bình thường thì một năm mình đi từ thiện? À nó tùy theo , ví dụ như ít bão lụt
thì mình đi những tỉnh cũng như người ta khó khăn, vùng cao này nọ: Quảng Ngãi,
Quãng Nam, Quảng Bình, Quảng Trị, mấy vùng cao, vùng dân tộc. Năm vừa rồi là
bão lụt nhiều, mấy cô đi nhiều, đi Quảng Trị, Quảng Bình, Ninh Bình,.. rồi đi các
tỉnh miền Bắc, rất là nhiều,.. bị sạt đá, lỡ,thành thử mấy cô đi nhiều, đi rất là
nhiều.”
Thông thƣờng một tháng, mình đi khoảng mấy lần?
“Nó tùy theo nữa, cô đã nói là: ví dụ như là bão lụt nhiều thì mình đi nhiều,
không nhất định một tháng mình đi mấy lần, một năm mình đi mấy lần, nhưng mà
hễ bão lụt nhiều thì mình đi nhiều.”
Thƣa cô, nguồn kinh phí mà mình vận động để mình làm từ thiện, thông
thƣờng thì mình sẽ vận động nhƣ thế nào?
“Cũng như mình vận động mạnh thường quân, ví dụ thấy bão lụt, sạt lở rất là
nhiều,người ta coi trên đài, trên tivi đồ người ta biết,thế là mình vận động người ta,
người ta sẽ ủng hộ cho mình để cho mình có phương tiện để mình đi, tới chỗ để
mình cho họ.”
Trong tịnh xá của mình ,một ngày thì mình tụng niệm mấy lần vậy cô?
“4h sáng dậy ngồi thuyền tới 5h, đến 5h mấy cô coi kinh sách, hay cô nào
nhỏ thì tụng kinh, đến 6h 6h15 quét dọn, cô nào nấu ăn thì nấu ăn, đến 7h cũng như
điểm tâm sáng, điểm tâm sáng rồi thì cô nào công chuyện cũng phải làm, có thể lên
tụng kinh đến 10h xong xuôi rồi 11h (giờ Ngọ) sau 12h, 12h30ph mình chỉ định,
14h dậy đọc chân lý đến 15h 15h30 nghĩ ngơi, vệ sinh cá nhân. Xong rồi đến 19h
tụng kinh xám hối, đến 20h ngồi thiền, 21h đến 21h30 mình nghỉ.”
Theo cô, những hoạt động mà mình tụng niệm nhƣ vậy, thì nó có vai trò
nhƣ thế nào trong quá trình tu tập của mình không?
PL17
Nó tốt lắm chứ, nếu mà mình tụng niệm ngồi thiền, để cho mình tịnh tâm mình
lại, tụng niệm những lời kinh của phật để cho mình trao sửa, tâm mình ngồi thuyền
để cho mình tịnh tâm, an lạc,Việc gì đến mình cũng thấy an lạc, dễ thoát, mình
không có bận bịu và không có khổ đau giống như cuộc đời không có tu, còn mấy cô
có tu thì mấy cô sẽ an lạc hơn, với lại ngồi thiền để cho mình có sức khỏe, hít sâu
và thở ra, mình có sức khỏe.”
Theo cô, thì hàng năm thì mình tham dự bao nhiêu khóa tu truyền thống,
mình có bao nhiêu khóa và mình tham dự khoảng bao nhiêu khóa?
“Một năm có 4 khóa tu trong phân đoàn, 3 tháng Nhật Hạ: rằm tháng 4 với
rằm tháng 7 Nhật Hạ. Học một khóa bồi dưỡng trụ trì, hiện giờ đang học khóa bồi
dưỡng trụ trì”
Ở trọng tịnh xá của mình, việc mà cử các cô đi học, có quan trọng không?
“Cũng quan trọng chớ, mấy cô còn nhỏ thì phải đi học, để nắm vững được
ngoài xã hội, mà cũng nắm vững giáo lý của nhà Phật để mình hành trì mỗi ngày.”
Thông thƣờng các cô trụ trì, cô cử các cô nhỏ đi học thì thƣờng cử đi học
những lớp nhƣ nào?
“Thì trước nhất,mấy cô này nếu còn nhỏ, chưa có học văn hóa hết ,thì phải đi
học hết lớp 12. Học hết lớp 12 xong thì cho mấy cô đi học cơ bản, cơ bản xong thì
qua trung cấp, trung cấp xong thì vô cao cấp, khi nào có trình độ nữa thì cho đi du
học nước ngoài, thạc sỹ, tiến sỹ:Ấn Độ, Trung Quốc, Đài Loan, Mianma. Tạo điều
kiện tối đa cho việc học.”
Đối với lại các cô ở trong giáo đoàn của mình, các cô có gặp khó khăn gì
trong việc Nhà nƣớc quản lý, quan hệ trong Giáo Hội?
“Tốt”
Bên Nhà nƣớc thì sao?
PL18
“Bên Nhà nước thì rất là tốt, đã tạo mọi điều kiện cho mình, để mình thành đạt
tốt.”
Việc cử các cô đi học trung cấp, cao cấp thì có việc gì khó khăn trong việc
đi học không cô?
“Cũng không con, nếu mà đi học cũng không tốn kém gì nhiều. Phật tử ủng hộ
trong việc đổ xăng cho việc đi lại.”
Hoạt động làm từ thiện cũng nhƣ việc đi học cũng đều Phật tử ủng hộ, từ
Giáo đoàn của mình có ủng hộ cho tịnh xá của mình cho việc đi học về kinh phí
không cô?
“Có, 1 năm cái kinh phí này, các Tịnh Xá đóng góp. Nhưng nếu người nào học
tốt,học giỏi thì được học bổng, những người học khá thì không có.”
Vậy họ lấy nguồn tiền ở đâu vậy cô?
“Thì cũng như nguồn tiền Phật tử cho để mua cặp sách, đổ xăng,Khi đi học,
phật tử ủng hộ dữ lắm, đủ cho mình sinh hoạt.”
Trong tịnh xá của cô, việc sinh hoạt, sinh sống hàng ngày có làm thêm gì để
bán không cô, nhƣ là làm bánh, thức ăn chay để bán không?
“Không, Mô Phật mình lo tu, mình không có làm. Nói về cuộc sống, nói về vật chất
đầy đủ để cho mình ăn tu đầy đủ, thoải mái, không có gì thiếu thốn. Điều mình cần
làm gì, thì kinh phí thì mình nhờ Phật tử xa như cất chùa.”
Xin chân thành cảm ơn sự giúp đỡ nhiệt tình của Ni sư. Xin kính chúc Ni sư
thân tâm an lạc!
PL19
BẢNG PHỎNG VẤN SÂU
TÍN ĐỒ CỦA GIÁO ĐOÀN NI THUỘC HỆ PHÁI KHẤT SĨ
TẠI THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH
Nội dung phỏng vấn
Phỏng vấn Phật tử A. T tại tịnh xá Ngọc Chơn, nghề nghiệp buôn bán đất
Anh có thƣờng xuyên đến đây không?
“Có, anh thường xuyên đến đây, chiều nào anh cũng đến”
Mỗi chiều anh đến đây làm gì?
“Mỗi chiều anh đến đây để quét dọn sân chùa và mua bông đến để thay các bàn
thờ. Ban đầu anh đến thì cũng bị những ánh mắt nghi kỵ dò xét, của các cô cũng có,
của hàng xóm quanh đây cũng có, sợ anh vào trộm cướp hay làm chuyện xấu nhưng
một thời gian sau thì thấy anh không làm gì nên mọi người không nghĩ vậy nữa,
quen dần”
Tại sao anh lại chọn Tịnh xá này để đến?
“Phần là cũng gần nhà anh, phần là do trước anh buôn bán đất lúc không ổn
lắm anh ghé đây ngồi, thấy khỏe, thế là anh ghé thường xuyên hơn”
Anh có tham gia tụng niệm hay những hoạt động khác tại Tịnh xá không?
“Không em, anh chỉ đến thay bông với quét dọn thôi chứ anh không tham gia
đọc kinh hay gì cả”
Phỏng vấn Phật tử H.N tại Tịnh xá Ngọc Phương, nghề nghiệp bán tạp hóa
Khi đến Tịnh xá chị thƣờng tham gia vào những hoạt động gì?
“Thường ban ngày thì chị có đến một lúc phụ các cô làm gì thì làm, đến tối thì
chị đến đây vào mỗi tối cùng chị em trong xóm tham gia tụng niệm cùng quý Ni cô vào
mỗi buổi tối”
PL20
Trong những hoạt động mà chị tham gia cùng mọi ngƣời thích nhất là hoạt
động nào của Giáo đoàn Ni Hệ phái Khất sĩ?
“Chị thích tụng niệm cùng quý cô mỗi tối và tham gia vào các hoạt động tự
thiện, cúng dường, mỗi lần tham gia như vậy chị cảm thấy vui vẻ, thoải mái”
Cảm nhận của các chị khi tham gia những hoạt động tôn giáo?
“Khi chúng tôi nhìn thấy hình ảnh của các Ni sư của tịnh xá Ngọc Phương hành
lễ, tôi cảm thấy rất trang nghiêm và nghiêm túc trong quá trình hành lễ của các Ni cô ở
đây. Trong các thời khóa kinh tối, tôi thường tham gia tương đối đầy đủ các khóa khóa
tụng này, tôi còn mang theo con trai của tôi đi cùng để cháu có thể cảm nhận được sự
thoải mái mà tôi cũng đang cảm thấy được.”
Chị cho biết những hoạt động của Giáo đoàn Ni Hệ phái Khất sĩ hiện tại
chị đã tham gia thì đánh giá nhƣ thế nào về những hoạt động này có nghiêm
túc hay không?
“Chị thấy rất nghiêm túc em, mọi hoạt động ở đây đều nghiêm túc, tham gia
mình không phải nghĩ ngợi gì nhiều về chuyện đó. ”
Chị cho biết những hoạt động mà mọi ngƣời đã tham gia ở Tịnh xá có
thấy bóng dáng của những hoạt động mà chị cho là mê tín dị đoan hay không?
“Không em”
Chị cho biết có thƣờng xuyên tham gia vào hoạt động từ thiện xã hội hay
không? Nếu có tham gia nhƣ thê nào? Hình thức nào?
“Chị thường xuyên tham gia vào những hoạt động từ thiện, có thể chị cùng
nhiều người đến phụ nấu ăn, đóng góp cúng dường cùng các Ni sư cứu trợ những nơi
đối nghèo khác”
Phỏng vấn ông H tại Tịnh xá Ngọc Phương, nghề nghiệp buôn bán tự do
Xin chú cho biết ông thƣờng đến đây làm gì ạ?
PL21
“Chú thường đến đây để phụ các cô làm mấy việc lặt vặt bên ngoài như coi xe
cho các Phật tử đến tịnh xá cúng Phật hoặc quét dọn phụ ngoài sân cho các cô. Tối
chú có đến đây tụng kinh cùng các cô, khi các cô có việc gì nhờ chú đều giúp”
Chú thƣờng đọc kinh vào mỗi tối vậy chú thấy kinh sách tại Giá đoàn đọc
tụng có dễ hiểu không?
“Chú thấy kinh sách viết như thơ nên rất dễ đọc cũng như dễ hiểu, viết tiếng
Việt nên chú đọc hiểu được bình thường”
Trong những buổi giảng Pháp của tịnh xá Ngọc Phƣơng chú có tham dự
không, và sau khi tham dƣ ông thấy đƣợc điều gì?
“Trong những buổi giảng bài của các Ni tại Tịnh xá chú đều tham dự đầy đủ,
tôi thấy các Ni cô tại tịnh xá được giảng bài đều là những người giảng rất dễ hiểu,
dùng từ ngữ dễ hiểu để chú hiểu ý được các cô muốn nói gì, chứ không như khi chú
nghe ở một vài nơi khác thì có khi khó hiểu”
Xin chú cho biết là khi thƣờng xuyên tham gia những hoạt động của Tịnh
xá ông có cảm thấy cuộc sống mình thay đổi không?
“Có thay đổi chứ, chú thấy thoải mái hơn, mình bớt nóng nảy hơn trong cuộc
sống hàng ngày”
Phỏng vấn Phật tử L.T.H tại tịnh xá Ngọc Phương, nghề nghiệp giáo viên về
hưu.
Chị đến tịnh xá Ngọc Phƣơng có thƣờng xuyên không?
“Tôi đến đây thường xuyên, giờ nghỉ hưu rồi chỉ khi nào nhà có việc bận thì
không đến”
Chị thƣờng tham gia những hoạt động gì cùng các cô Ni tại Tịnh xá?
“Chị thường cùng các chị em đến tụng kinh vào mỗi tối, khi có những việc từ
thiện cứu trợ chị sẽ đóng góp cùng các cô hoặc nếu sắp xếp được chị sẽ đi cùng các cô
đến các tỉnh có những nơi cần cứu trợ”
Những hoạt động cùng các Ni cô nhƣ hoạt động từ thiện nhƣ vậy chị có
cảm thấy yên tâm về việc tổ chức không?
PL22
“Yên tâm em, có gì đâu mà không yên tâm, chị thấy các cô làm việc hiệu quả,
quy củ, chị tin tưởng tuyệt đối chị mới tham gia cùng”
Phỏng vấn N.M..Đ. Chuyên viên Ban tôn giáo thành phố Hồ Chí Minh
Anh có biết các cô Giáo đoàn Ni thuộc Hệ phái Khất sĩ tại Tịnh xá Ngọc
Phƣơng không?
“Có, tôi có biết các cô tu tại Tịnh xá Ngọc Phương, Quân Gò Vấp tại Thành
phố”
Việc quản lý các hoạt động tôn giáo tại đây có gì khó khăn không anh?
“Chúng tôi quản lý tình hình Phật giáo chung toàn Thành phố, nếu hiện
tại riêng về Ni giới Hệ phái Khất sĩ nói chung và Giáo đoàn Ni tại tịnh xá
Ngọc Phương nói riêng không có ghi nhận một trường hợp nào xảy ra những
sự việc cần phải giải quyết liên quan đến sự khác biệt. Quý cô tu hành giữ gìn
giới luật rất nghiêm cẩn, không có vấn đề gì đặt ra cả”
Phỏng vấn L.H.N Ban dân vận thành phố Hồ Chí Minh
Trong quá trình quản lý các vấn đề liên quan đến tôn giáo trên địa
bàn Thành phố anh nhận thấy có vấn đề gì cần chú ý trên địa bàn thành
phố?
Thành phố cũng đã có những biện pháp kết hợp ngăn chặn và vạch trần
những hiện tượng mượn tu, giả tu đối với những đối tượng này. Đồng thời trong
quá trình xử lý thành phố cũng đã có sự kết hợp với Giáo hội Phật giáo tại
thành phố để không còn việc này tái diễn.
Xin chân thành cảm ơn sự giúp đỡ nhiệt tình của ông/ bà/ anh/ chị. Xin kính
chúc ông/ bà/anh/ chị thân tâm an lạc!
PL23
PHỤ LỤC 3:BIỂU ĐỒ HỆ PHÁI KHẤT SĨ VIỆTNAM
HỆ PHÁI KHẤT SĨ VIỆT NAM
Tổ sƣ Minh Đăng Quang
Trụ sở HP: Pv Minh Đăng Quang
Chú thích:
*GĐ: Giáo Đoàn
*TXTĐ: Tịnh xá Tổ đinh
*PĐ: Phân Đoàn
*HP: Hệ Phái
*PV: Pháp Viện
GĐ I
TXTĐ Ngọc
Viên
(Vĩnh Long)
GĐ II
TXTĐ Ngọc Đăng
(TP.HCM)
GĐ III
TXTĐ Ngọc Tòng
(Khánh Hòa)
GĐ IV
TXTĐ TX
TRUNG TÂM
(BT-TP.HCM)
GĐ V
TXTĐ Trung tâm
(Q6-TP.HCM)
GĐ Ni giới của
NT. Huỳnh Liên
TXTĐ Ngọc
Phương
(TP.HCM)
PĐ1 - NI GĐ IV
TXTĐ Ngọc Tiên
(Hà Tiên)
PĐ2 - NI GĐ IV
TXTĐ Ngọc Hiệp
(Tiền Giang)
HỘI CHỨNG
Ni trưởng
Mai Liên
HỘI CHỨNG
Ni trưởng
Cung Liên
NI GĐ I
TXTĐ Ngọc Tân
(Long An)
NI GĐ III
TXTĐ Ngọc Long)
(Bình Định)
GĐ VI
TXTĐ Trung tâm
(Q6-TP.HCM)
NI GĐ VI
Chùa Phước Hưng
(Đồng Nai)
PL24
PHỤ LỤC 4
PL25
PHỤ LỤC 5: Một số hình ảnh tại Pháp viện Minh Đăng Quang
và Tịnh xá Ngọc Phương
Chính điện Tịnh xá Ngọc Phương, ảnh tác giả chup năm 2018
Thiền đường Pháp viện Minh Đăng Quang, ảnh tác giả chụp năm 2018
PL26
Buổi học Chơn lý tại Pháp viện Minh Đăng Quang, ảnh tác giả chụp năm 2018
phỏng vấn Ni sư Nguyệt Liên và quý Ni sư khác đến từ các tịnh xá khác nhau tai Pháp
viện Minh Đăng Quang năm 2018.
PL27
Ảnh tác giả chụp cùng Ni sư Trạng Liên tại Tịnh xá Ngọc Phương năm 2018
Ảnh tác giả chụp cùng Ni sư Nguyệt Liên tịnh xá Ngọc Văn năm 2018
PL28
Ảnh tác giả chụp cùng Ni Sư Lý Liên tại Tịnh xá Ngọc Chơn năm 2018
Ảnh tác giả chụp cùng Ni sư Tín Liên tại tịnh xá Ngọc Phương năm 2018
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- luan_an_hoat_dong_cua_giao_doan_ni_thuoc_he_phai_khat_si_tai.pdf
- Trichyeu_TaThiLe.pdf