HỌC VIỆN CHÍNH TRỊ QUỐC GIA HỒ CHÍ MINH
NGUYỄN VĂN PHA
HOÀN THIỆN PHÁP LUẬT VỀ MỐI QUAN HỆ
GIỮA ỦY BAN TRUNG ƯƠNG MẶT TRẬN TỔ QUỐC
VIỆT NAM VỚI CÁC CƠ QUAN TRUNG ƯƠNG
CỦA NHÀ NƯỚC CỘNG HÒA XÃ HỘI CHỦ NGHĨA
VIỆT NAM HIỆN NAY
LUẬN ÁN TIẾN SĨ
NGÀNH: LÝ LUẬN VÀ LỊCH SỬ NHÀ NƯỚC VÀ PHÁP LUẬT
HÀ NỘI - 2020
HỌC VIỆN CHÍNH TRỊ QUỐC GIA HỒ CHÍ MINH
NGUYỄN VĂN PHA
HOÀN THIỆN PHÁP LUẬT VỀ MỐI QUAN HỆ
GIỮA ỦY BAN TRUNG ƯƠNG MẶT TRẬN TỔ QUỐC
VIỆT NAM VỚI CÁC CƠ QUAN TRUNG ƯƠNG
CỦA NHÀ N
185 trang |
Chia sẻ: huong20 | Ngày: 17/01/2022 | Lượt xem: 331 | Lượt tải: 0
Tóm tắt tài liệu Luận án Hoàn thiện pháp luật về mối quan hệ giữa ủy ban trung ương mặt trận tổ quốc Việt Nam với các cơ quan trung ương của nhà nước cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam hiện nay, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
ƯỚC CỘNG HÒA XÃ HỘI CHỦ NGHĨA
VIỆT NAM HIỆN NAY
LUẬN ÁN TIẾN SĨ
NGÀNH: LÝ LUẬN VÀ LỊCH SỬ NHÀ NƯỚC VÀ PHÁP LUẬT
Mã số: 9 38 01 06
Người hướng dẫn khoa học: PGS,TS. QUÁCH SĨ HÙNG
HÀ NỘI - 2020
LỜI CAM ĐOAN
Đây là công trình nghiên cứu của cá nhân tôi. Các số liệu, kết quả nêu trong luận án này là trung thực, có nguồn gốc rõ ràng từ các tài liệu chính thống và được trích dẫn theo đúng quy định.
Tác giả luận án
Nguyễn Văn Pha
MỤC LỤC
Trang
DANH MỤC CÁC TỪ VIẾT TẮT
CT-XH
CHXHCN
CQNN
ĐBQH
GS
HTCT
HĐND
HTND
MTTQ
MTTQVN
MQH
NN
NQLT
PL
PBXH
QPPL
TCTV
TAND
TW
UBTVQH
UBTWMTTQVN
VKSND
XHCN
: Chính trị - xã hội
: Cộng hòa xã hội chủ nghĩa
: Cơ quan nhà nước
: Đại biểu Quốc hội
: Giám sát
: Hệ thống chính trị
: Hội đồng nhân dân
: Hội thẩm nhân dân
: Mặt trận Tổ quốc
: Mặt trận Tổ quốc Việt Nam
: Mối quan hệ
: Nhà nước
: Nghị quyết liên tịch
: Pháp luật
: Phản biện xã hội
: Quy phạm pháp luật
: Tổ chức thành viên
: Tòa án nhân dân
: Trung ương
: Ủy ban Thường vụ Quốc hội
: Ủy ban Trung ương Mặt trận Tổ quốc Việt Nam
: Viện kiểm sát nhân dân
: Xã hội chủ nghĩa
MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Mặt trận Tổ quốc Việt Nam (MTTQVN) tiền thân là Mặt trận Dân tộc thống nhất Việt Nam do Đảng Cộng sản Việt Nam và Chủ tịch Hồ Chí Minh sáng lập, lãnh đạo, được thành lập ngày 18 tháng 11 năm 1930. “Trải qua các thời kỳ hoạt động với những tên gọi khác nhau, Mặt trận không ngừng phát huy tinh thần yêu nước, truyền thống đoàn kết dân tộc Việt Nam - một nhân tố quyết định thắng lợi của sự nghiệp giành độc lập dân tộc, thống nhất đất nước, xây dựng và bảo vệ Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa (XHCN)” [75].
Trên cơ sở những thành tựu của đổi mới tư duy kinh tế, Đảng ta chủ trương tiếp tục đổi mới tư duy chính trị. Khái niệm hệ thống chính trị (HTCT) được hình thành, trong đó Nhà nước là trung tâm của HTCT. Đảng Cộng sản Việt Nam là đảng cầm quyền, là lực lượng lãnh đạo nhà nước và xã hội; MTTQVN và các tổ chức chính trị - xã hội là các thiết chế của HTCT. Mối quan hệ giữa các tổ chức trong HTCT ngày càng được củng cố, hoàn thiện và được vận hành theo cơ chế Đảng lãnh đạo, Nhà nước quản lý, nhân dân làm chủ. Ngoài việc thực hiện quyền làm chủ trực tiếp, nhân dân còn thực hiện quyền làm chủ của mình thông qua Nhà nước, thông qua Ủy ban MTTQ các cấp và các tổ chức chính trị - xã hội mà mình là hội viên, đoàn viên.
Từ yêu cầu xây dựng nhà nước pháp quyền XHCN của nhân dân, do nhân dân, vì nhân dân, Nhà nước phải được tổ chức trên cơ sở Hiến pháp và pháp luật, quản lý xã hội theo Hiến pháp và pháp luật. Theo đó, các cơ quan nhà nước (CQNN), tổ chức chính trị, các tổ chức chính trị - xã hội, tổ chức chính trị - xã hội - nghề nghiệp, tổ chức xã hội, các đơn vị kinh tế và mọi công dân đều phải tôn trọng và thực hiện Hiến pháp và pháp luật.
Chính vì vậy, trong Nghị quyết số 48-NQ/TW ngày 24/5/2005 của Bộ Chính trị về chiến lược xây dựng và hoàn thiện hệ thống pháp luật Việt Nam đến năm 2010, định hướng đến năm 2020 đã xác định "Xây dựng và hoàn thiện pháp luật về tổ chức và hoạt động của các thiết chế trong HTCT, phù hợp với yêu cầu xây dựng Nhà nước pháp quyền XHCN Việt Nam của nhân dân, do nhân dân, vì nhân dân" [11].
Tổ chức thực hiện chiến lược xây dựng và hoàn thiện hệ thống pháp luật nói chung cũng như xây dựng và hoàn thiện pháp luật về mối quan hệ giữa MTTQVN với Nhà nước nói riêng, đồng thời thể chế hóa các quan điểm, đường lối của Đảng về tổ chức, hoạt động của MTTQVN bằng pháp luật, Nhà nước đã ban hành nhiều văn bản pháp luật. Các quy định về tổ chức, hoạt động của MTTQVN, mối quan hệ giữa MTTQVN với Nhà nước trong Hiến pháp năm 1980, Hiến pháp năm 1992, Hiến pháp năm 2013, Luật Mặt trận Tổ quốc Việt Nam (MTTQVN), Luật Tổ chức Quốc hội, Luật Tổ chức Chính phủ, Luật Tổ chức Tòa án nhân dân, Luật Tổ chức Viện kiểm sát nhân dân, Luật Bầu cử đại biểu Quốc hội (ĐBQH) và đại biểu Hội đồng nhân dân (HĐND), Luật Hoạt động giám sát của Quốc hội và HĐND, Luật Ban hành văn bản quy phạm pháp luật (QPPL), các nghị quyết liên tịch (NQLT) giữa Ủy ban Trung ương Mặt trận Tổ quốc Việt Nam (UBTWMTTQVN) với Chủ tịch nước, Ủy ban Thường vụ Quốc hội (UBTVQH), Chính phủ và nhiều văn bản pháp luật khác trong hơn 20 năm qua đã hình thành một lĩnh vực pháp luật về mối quan hệ giữa UBTWMTTQVN với các cơ quan Trung ương của nhà nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa (CHXHCN) Việt Nam.
Từ khi hình thành, pháp luật về mối quan hệ giữa UBTWMTTQVN với các cơ quan Trung ương của nhà nước CHXHCN Việt Nam đã đi vào cuộc sống và đã đạt được những kết quả nhất định. Đó là việc xác định ngày càng rõ hơn vị trí của UBTWMTTQVN với tư cách là chủ thể trong mối quan hệ với các cơ quan Trung ương của nhà nước CHXHCN Việt Nam. Vị thế của MTTQVN được nâng lên rõ rệt, phát huy ngày càng cao vai trò “là cơ sở chính trị của chính quyền nhân dân, đại diện, bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp, chính đáng của nhân dân; tập hợp, phát huy sức mạnh đại đoàn kết toàn dân tộc, thực hiện dân chủ, tăng cường đồng thuận xã hội, tham gia xây dựng Đảng và Nhà nước” [96]. Mối quan hệ giữa UBTWMTTQVN với các cơ quan Trung ương của nhà nước CHXHCN Việt Nam trong hoạt động giám sát và phản biện xã hội (PBXH) đã góp phần tăng cường và mở rộng quyền dân chủ của nhân dân trong tham gia quản lý nhà nước, kiểm soát quyền lực nhà nước (các quyền lập pháp, quyền hành pháp và quyền tư pháp).
Tuy nhiên, hệ thống pháp luật và quá trình thực hiện pháp luật về mối quan hệ giữa UBTWMTTQVN với các cơ quan Trung ương của nhà nước CHXHCN Việt Nam trong thời gian qua cũng có nhiều hạn chế, bất cập. Hệ thống các quy định không đồng bộ; nhiều quy định của Hiến pháp chưa được cụ thể hóa đầy đủ thành pháp luật; các quy định rải rác, tản mạn ở nhiều văn bản pháp luật có thứ bậc khác nhau (từ Hiến pháp cho đến luật, bộ luật, nghị quyết của Quốc hội, NQLT, nghị định, thông tư); không ít những quy định còn hình thức, thiếu tính khả thi; tính quy phạm của pháp luật chưa chặt chẽ, thiếu tính ràng buộc trong việc thực hiện quyền và nghĩa vụ của mỗi bên. Quá trình thực hiện pháp luật về mối quan hệ giữa UBTWMTTQVN với các cơ quan Trung ương của nhà nước CHXHCN Việt Nam, bên cạnh những kết quả đạt được thì nhiều nội dung thiếu hiệu quả có nguyên nhân từ những bất cập, hạn chế của pháp luật như vừa nêu trên và những nguyên nhân chủ quan từ hai phía trong quá trình thực hiện pháp luật. Vì vậy vấn đề hoàn thiện pháp luật về mối quan hệ giữa UBTWMTTQVN với các cơ quan Trung ương của nhà nước CHXHCN Việt Nam cần được nghiên cứu về mặt lý luận, tổng kết thực tiễn cả về pháp luật và thực hiện pháp luật để có các giải pháp hoàn thiện theo yêu cầu xây dựng và phát triển nền dân chủ XHCN và yêu cầu xây dựng nhà nước pháp quyền thực sự của nhân dân, do nhân dân, vì nhân dân.
Vì các lý do trên, nghiên cứu sinh chọn đề tài: "Hoàn thiện pháp luật về mối quan hệ giữa Ủy ban Trung ương Mặt trận Tổ quốc Việt Nam với các cơ quan Trung ương của nhà nước Cộng hòa xã hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam hiện nay" làm đề tài luận án tiến sĩ chuyên ngành “Lý luận và lịch sử nhà nước và pháp luật”.
2. Mục đích, nhiệm vụ nghiên cứu của luận án
2.1. Mục đích nghiên cứu
Trên cơ sở phân tích làm rõ hơn những vấn đề lý luận và đánh giá thực trạng để xác định quan điểm và đề xuất các giải pháp hoàn thiện pháp luật về mối quan hệ giữa UBTWMTTQVN với các cơ quan Trung ương của nhà nước CHXHCN Việt Nam hiện nay.
2.2. Nhiệm vụ nghiên cứu
Để thực hiện mục đích trên, Luận án định ra và giải quyết các nhiệm vụ sau đây:
- Đánh giá tổng quan tình hình nghiên cứu trong nước và ngoài nước liên quan đến đề tài của Luận án. Xác định những vấn đề đặt ra cần tiếp tục nghiên cứu, đặt ra giả thuyết nghiên cứu và câu hỏi nghiên cứu của đề tài Luận án.
- Làm sáng tỏ cơ sở lý luận về hoàn thiện pháp luật về mối quan hệ giữa UBTWMTTQVN với các cơ quan Trung ương của nhà nước CHXHCN Việt Nam.
- Khái quát lịch sử hình thành và phát triển, đánh giá thực trạng pháp luật và thực hiện pháp luật về mối quan hệ giữa UBTWMTTQVN với các cơ quan Trung ương của nhà nước CHXHCN Việt Nam.
- Luận chứng quan điểm, giải pháp bảo đảm hoàn thiện pháp luật về mối quan hệ giữa UBTWMTTQVN với các cơ quan Trung ương của nhà nước CHXHCN Việt Nam.
3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
3.1. Đối tượng nghiên cứu
Đối tượng nghiên cứu của luận án là những vấn đề lý luận và thực tiễn của pháp luật về mối quan hệ giữa UBTWMTTQVN với các cơ quan Trung ương của nhà nước CHXHCN Việt Nam; tham khảo kinh nghiệm một số nước. Từ đó Luận án luận chứng khoa học và đề xuất các quan điểm, giải pháp nhằm hoàn thiện pháp luật về mối quan hệ giữa UBTWMTTQVN với các cơ quan Trung ương của nhà nước CHXHCN Việt Nam hiện nay.
3.2. Phạm vi nghiên cứu
- Phạm vi về không gian: Luận án tập trung nghiên cứu cơ sở lý luận của pháp luật và hoàn thiện pháp luật về mối quan hệ giữa UBTWMTTQVN (thông qua hoạt động của Ban Thường trực UBTWMTTQVN, Đoàn Chủ tịch UBTWMTTQVN) với các cơ quan Trung ương của nhà nước CHXHCN Việt Nam bao gồm Quốc hội (UBTVQH, Hội đồng Dân tộc, các Ủy ban của Quốc hội), Chủ tịch nước, Chính phủ, Tòa án nhân dân (TAND) tối cao và Viện kiểm sát nhân dân (VKSND) tối cao. Đánh giá quá trình hình thành, phát triển và thực trạng của pháp luật về các mối quan hệ này. Từ đó, nêu quan điểm, đưa ra giải pháp bảo đảm hoàn thiện pháp luật về mối quan hệ giữa UBTWMTTQVN với các cơ quan Trung ương của nhà nước CHXHCN Việt Nam hiện nay.
- Phạm vi về thời gian: Luận án nghiên cứu pháp luật về mối quan hệ giữa UBTWMTTQVN với các cơ quan Trung ương của nhà nước CHXHCN Việt Nam từ năm 1980 (khi lần đầu tiên Hiến pháp có quy định về MTTQVN); trong đó chủ yếu đánh giá thực trạng pháp luật về mối quan hệ giữa UBTWMTTQVN với các cơ quan Trung ương của nhà nước CHXHCN Việt Nam từ khi có Hiến pháp năm 2013 đến nay.
4. Cơ sở lý luận và phương pháp nghiên cứu của luận án
4.1. Cơ sở lý luận
Luận án được nghiên cứu trên cơ sở lý luận khoa học của Chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, quan điểm của Đảng ta về xây dựng và hoàn thiện mối quan hệ giữa các cơ quan, tổ chức trong HTCT; về vị trí, vai trò của MTTQVN; về xây dựng nhà nước pháp quyền XHCN của nhân dân, do nhân dân, vì nhân dân; về hoàn thiện hệ thống pháp luật Việt Nam hiện nay.
4.2. Phương pháp nghiên cứu
Luận án vận dụng phương pháp luận của chủ nghĩa duy vật biện chứng và chủ nghĩa duy vật lịch sử của triết học Mác - Lênin trong thực hiện toàn bộ Luận án, đồng thời sử dụng các phương pháp nghiên cứu của khoa học xã hội nhân văn, với các phương pháp cụ thể sau đây:
- Phương pháp phân tích tài liệu. Phương pháp này được áp dụng để phân tích các công trình nghiên cứu trong nước và ngoài nước có liên quan đến đề tài luận án; phân tích các văn kiện của Đảng cộng sản Việt Nam, các văn bản quy phạm pháp luật liên quan trực tiếp đến đề tài luận án (các chương 1, 2).
- Phương pháp thống kê. Phương pháp này được áp dụng để thống kê số liệu, phân tích và đánh giá thực trạng pháp luật về mối quan hệ giữa UBTWMTTQVN với các cơ quan Trung ương của nhà nước CHXHCNVN (Chương 3).
- Phương pháp tổng hợp. Phương pháp này được sử dụng để tổng hợp các số liệu từ các nguồn chính thống, đáng tin cậy để từ đó đưa ra những nhận xét, luận giải và những đề xuất của tác giả luận án về quan điểm, giải pháp hoàn thiện pháp luật về mối quan hệ giữa UBTWMTTQVN với các cơ quan Trung ương của nhà nước CHXHCNVN (các chương 3, 4).
- Phương pháp luật học so sánh. Phương pháp này được sử dụng nhằm nghiên cứu tổ chức và hoạt động của một số tổ chức có tính chất tương tự như MTTQVN ở một số nước có giá trị tham khảo cho Việt Nam (Chương 1).
- Phương pháp chuyên gia. Phương pháp này được sử dụng để thu thập ý kiến các chuyên gia, nhà khoa học, người có hoạt động thực tiễn lâu năm, có nhiều kinh nghiệm trong công tác lập pháp, công tác Mặt trận nhằm đánh giá thực trạng của pháp luật và thực hiện pháp luật về mối quan hệ giữa Ủy ban Trung ương Mặt trận Tổ quốc Việt Nam với các cơ quan Trung ương của nhà nước CHXHCN Việt Nam (Chương 3).
- Phương pháp quy nạp và diễn dịch. Phương pháp này được áp dụng để khái quát hóa hoặc cụ thể hóa nội dung, đối tượng, vấn đề nghiên cứu nhằm đảm bảo tính chính xác, khách quan đối với việc xây dựng các vấn đề có tính lý luận và thực tiễn của luận án (được sử dụng trong toàn bộ luận án).
5. Đóng góp mới về khoa học của luận án
Luận án "Hoàn thiện pháp luật về mối quan hệ giữa Ủy ban Trung ương Mặt trận Tổ quốc Việt Nam với các cơ quan Trung ương của nhà nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam hiện nay" có một số đóng góp mới sau đây:
Một là, Luận án đã xây dựng khái niệm pháp luật về mối quan hệ giữa UBTWMTTQVN với các cơ quan Trung ương của nhà nước CHXHCN Việt Nam; làm rõ đặc điểm, nội dung điều chỉnh và vai trò của pháp luật, các tiêu chí đánh giá mức độ hoàn thiện pháp luật về mối quan hệ giữa UBTWMTTQVN với các cơ quan Trung ương của nhà nước CHXHCN Việt Nam. Đồng thời xác định các yếu tố bảo đảm hoàn thiện pháp luật về mối quan hệ giữa UBTWMTTQVN với các cơ quan Trung ương của nhà nước CHXHCN Việt Nam hiện nay. Luận án đã rút ra những giá trị tham khảo cho Việt Nam trong quá trình hoàn thiện pháp luật qua nghiên cứu pháp luật về mối quan hệ giữa các tổ chức có tính chất tương tự như MTTQVN với các CQNN ở một số nước.
Hai là, trên cơ sở khái quát quá trình hình thành, phát triển, đánh giá thực trạng pháp luật và thực hiện pháp luật về mối quan hệ giữa UBTWMTTQVN với các cơ quan Trung ương của nhà nước CHXHCN Việt Nam từ năm 1980 đến nay nhằm khẳng định những kết quả đạt được, đồng thời chỉ ra những hạn chế, bất cập và nguyên nhân của những hạn chế, bất cập ấy, từ đó xác định các quan điểm, các giải pháp bảo đảm hoàn thiện pháp luật về mối quan hệ giữa UBTWMTTQVN với các cơ quan Trung ương của nhà nước CHXHCN Việt Nam hiện nay.
6. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn của luận án
Về lý luận: Luận án góp phần làm phong phú thêm lý luận về hoàn thiện pháp luật nói chung và hoàn thiện pháp luật về mối quan hệ giữa UBTWMTTQVN với các cơ quan Trung ương của nhà nước CHXHCN Việt Nam. Theo đó, cũng góp phần hoàn thiện mối quan hệ giữa các thiết chế trong HTCT nói chung và hoàn thiện mối quan hệ giữa MTTQVN với Nhà nước hiện nay.
Về thực tiễn: Luận án là công trình đầu tiên nghiên cứu một cách toàn diện, hệ thống có tính chuyên sâu về mối quan hệ giữa UBTWMTTQVN với Quốc hội, Chủ tịch nước, Chính phủ, TAND tối cao, VKSND tối cao. Kết quả nghiên cứu của Luận án có giá trị tham khảo đối với việc hoạch định chính sách, pháp luật của các cơ quan Đảng, CQNN có thẩm quyền về mối quan hệ giữa UBTWMTTQVN với các cơ quan Trung ương của Nhà nước; đồng thời luận án có thể sử dụng làm tài liệu tham khảo phục vụ cho công tác nghiên cứu, giảng dạy, học tập.
7. Kết cấu của luận án
Ngoài phần mở đầu, kết luận, danh mục công trình nghiên cứu của tác giả đã công bố liên quan đến luận án, danh mục tài liệu tham khảo, nội dung Luận án gồm 4 chương, 12 tiết:
- Chương 1: Tổng quan tình hình nghiên cứu liên quan đến đề tài luận án
- Chương 2: Cơ sở lý luận của hoàn thiện pháp luật về mối quan hệ giữa Ủy ban Trung ương MTTQ Việt Nam với các cơ quan Trung ương của Nhà nước CHXHCN Việt Nam
- Chương 3: Quá trình phát triển và thực trạng pháp luật về mối quan hệ giữa Ủy ban Trung ương MTTQ Việt Nam với các cơ quan Trung ương của Nhà nước CHXHCN Việt Nam
- Chương 4: Quan điểm và giải pháp hoàn thiện pháp luật về mối quan hệ giữa Ủy ban Trung ương MTTQ Việt Nam với các cơ quan Trung ương của Nhà nước CHXHCN Việt Nam.
Chương 1
TỔNG QUAN TÌNH HÌNH NGHIÊN CỨU LIÊN QUAN
ĐẾN ĐỀ TÀI LUẬN ÁN
1.1. NHỮNG CÔNG TRÌNH NGHIÊN CỨU Ở TRONG NƯỚC CÓ LIÊN QUAN ĐẾN ĐỀ TÀI LUẬN ÁN
1.1.1. Nhóm các công trình nghiên cứu có liên quan đến mối quan hệ giữa Mặt trận Tổ quốc Việt Nam với Nhà nước
Vấn đề nghiên cứu lý luận về xây dựng nhà nước pháp quyền thể hiện tính đặc thù ở Việt Nam, nhất là những vấn đề giám sát đã được đề cập chính thức sau Đại hội X của Đảng (2006) đến nay. Nhiều công trình khoa học nghiên cứu cấp nhà nước, cấp bộ, nhiều sách chuyên khảo, ấn phẩm các tạp chí khoa học về giám sát quyền lực nhà nước nói chung, giám sát của cơ quan quyền lực nhà nước, giám sát của nhân dân, giám sát của MTTQVN nói riêng đã được công bố. Có thể kể các công trình tiêu biểu sau đây:
- Cuốn sách “Cơ sở lý luận về tổ chức và hoạt động của HTCT trong quá trình xây dựng chủ nghĩa xã hội Việt Nam” của Lê Minh Thông [121] là kết quả nghiên cứu của đề tài KX.10-01 thuộc Chương trình khoa học cấp nhà nước “Tiếp tục đổi mới, hoàn thiện HTCT ở nước ta trong thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước và chủ động hội nhập quốc tế”. Nội dung cuốn sách khẳng định đổi mới HTCT thực chất phát huy quyền làm chủ của nhân dân trong HTCT. Nhân dân là chủ thể duy nhất tối cao của quyền lực chính trị, các tổ chức trong HTCT chỉ là chủ thể thực hiện quyền lực chính trị của nhân dân. Do vậy, quyền hạn, trách nhiệm của Đảng cầm quyền, của Nhà nước, các tổ chức chính trị - xã hội đều phục tùng ý chí, nguyện vọng của nhân dân và chịu sự kiểm soát của nhân dân. Công trình nghiên cứu đã chỉ ra rằng, HTCT bao gồm Đảng lãnh đạo, nhà nước quản lý, nhân dân làm chủ thông qua các tổ chức chính trị - xã hội. Đảng lãnh đạo về chính trị, tư tưởng và tổ chức, nhưng không áp đặt đối với các tổ chức chính trị - xã hội, quan hệ chính trị giữa Nhà nước và các tổ chức chính trị - xã hội là quan hệ chủ thể cùng một cấp trong hệ thống. Nhưng thực tế cho thấy hoạt động của các tổ chức chính trị - xã hội đã bị “Nhà nước hoá”, vô hình chung trở thành công cụ của Nhà nước; do vậy một trong những biện pháp khắc phục trong thời gian tới là đổi mới HTCT và mỗi tổ chức trong HTCT, nhất là đổi mới tổ chức, hoạt động của MTTQ, các tổ chức chính trị - xã hội trong mối quan hệ dân sự đang hình thành và phát triển ở nước ta. Do đó, trên phương diện lý luận và thực tiễn, cần nhận thức đúng đắn, đầy đủ vai trò, trách nhiệm của mỗi tổ chức Đảng, Nhà nước, Mặt trận và các tổ chức chính trị - xã hội trong HTCT để khắc phục bất cập hiện nay.
- Cuốn sách “Một số vấn đề lý luận - thực tiễn về chủ nghĩa xã hội và con đường đi lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam qua 30 năm đổi mới” của Phùng Hữu Phú, Lê Hữu Nghĩa, Vũ Văn Hiến, Nguyễn Viết Thông [87]. Sách gồm 4 phần đều là những kết quả nghiên cứu liên quan tới đề tài Luận án này, nhất là nội dung phần thứ nhất: “Một số vấn đề lý luận - thực tiễn về chính trị và xây dựng Đảng”. Theo đó các đề tài nghiên cứu khoa học sau đây là các công trình khoa học có liên quan đến đề tài nghiên cứu Luận án: "Đổi mới phương thức lãnh đạo của Đảng đối với Nhà nước, MTTQ và các tổ chức chính trị - xã hội trong điều kiện mới”. Mã số KX.04.02/11-15; "Thực hành dân chủ trong điều kiện một đảng duy nhất cầm quyền, xây dựng nhà nước pháp quyền, phát triển kinh tế thị trường định hướng XHCN và hội nhập quốc tế". Mã số KX.04.03/11-15; "Đổi mới bộ máy Đảng, bộ máy nhà nước trong điều kiện mới". Mã số KX.04.04/11-15; "Xây dựng nhà nước pháp quyền XHCN Việt Nam do Đảng Cộng sản Việt Nam lãnh đạo trong điều kiện phát triển nền kinh tế thị trường hội nhập quốc tế". Mã số KX.04.08/11-15.
Cũng trong phần thứ nhất của cuốn sách này, các nhà khoa học lý luận chính trị đã đề cập thấu đáo về "thực hành dân chủ trong điều kiện một đảng cầm quyền, xây dựng nhà nước pháp quyền, phát triển kinh tế thị trường định hướng XHCN và hội nhập quốc tế”, trong đó nêu các giải pháp đổi mới phương thức lãnh đạo của Đảng đối với Nhà nước, MTTQVN và các tổ chức chính trị - xã hội.
- Đề tài khoa học cấp bộ “Tổng quan 10 năm thực hiện và những đề xuất sửa đổi, bổ sung Luật Mặt trận Tổ quốc Việt Nam” do UBTWMTTQVN chủ trì [160]. Đề tài tập hợp được các tác giả đã và đang công tác tại UBTWMTTQVN, Văn phòng Quốc hội, Văn phòng Chính phủ, TAND tối cao, VKSND tối cao, Ban Dân vận Trung ương, với các chuyên đề tập trung vào các nội dung về quan hệ giữa Quốc hội, các cơ quan của Quốc hội, Chính phủ, TAND tối cao, VKSND tối cao với UBTWMTTQVN trong việc thực hiện nhiệm vụ, quyền hạn của mỗi bên theo các quy định pháp luật.
- Công trình nghiên cứu “Đổi mới tổ chức và hoạt động của Mặt trận Tổ quốc và các tổ chức chính trị - xã hội ở nước ta hiện nay” của Thang Văn Phúc và Nguyễn Minh Phương [88]. Các tác giả cho rằng trong giai đoạn hiện nay, việc đổi mới về tổ chức và hoạt động của MTTQ và các tổ chức chính trị - xã hội là một tất yếu khách quan. Công trình nghiên cứu cũng khẳng định vai trò đại diện của MTTQ và các đoàn thể nhân dân từ khâu đề xuất, xây dựng chính sách, pháp luật đến khâu thực thực hiện chính sách, pháp luật. PBXH của MTTQ và các tổ chức chính trị - xã hội góp phần đưa lại kết quả tích cực là chính sách, pháp luật sát hợp với thực tiễn và có tính khả thi...
- Cuốn sách “Mối quan hệ pháp lý giữa cá nhân công dân với nhà nước” của các tác giả Trần Ngọc Đường và Chu Văn Thành [51]. Các tác giả cuốn sách cho rằng quan hệ giữa nhà nước và công dân là bình đẳng về quyền và nghĩa vụ. Ở nước ta, nhân dân là người chủ của đất nước, vì thế phải có đầy đủ quyền của người làm chủ và cũng phải thực hiện các nghĩa vụ của người làm chủ. Các quyền và nghĩa vụ đó phải được thể chế hóa thành pháp luật để có cơ chế pháp lý thực thi trong thực tiễn. Bên cạnh đó, phải có cơ chế để thực hiện quyền giám sát của MTTQ, các tổ chức thành viên (TCTV) của Mặt trận và nhân dân đối với quyền lực nhà nước, bảo đảm quyền, nghĩa vụ của nhân dân không bị xâm phạm.
- Về vấn đề giám sát và cơ chế giám sát quyền lực nhà nước, đáng chú ý là cuốn sách: “Giám sát và cơ chế giám sát việc thực hiện quyền lực nhà nước ở nước ta hiện nay” của Đào Trí Úc, Võ Khánh Vinh [131]. Các tác giả đã phân tích làm rõ lý luận về giám sát quyền lực nhà nước, đã khẳng định giám sát quyền lực nhà nước là tất yếu: quyền giám sát là một loại quyền lực cấu thành quyền lực nhà nước. Bên cạnh các nội dung về lý luận chung về giám sát và cơ chế giám sát quyền lực nhà nước, đối tượng, nội dung giám sát của Quốc hội đối với Chính phủ, VKSND và TAND, thanh tra, kiểm tra của Chính phủ và các cơ quan hành chính nhà nước, kiểm tra, giám sát của VKSND và TAND, còn có các nội dung về giám sát xã hội bao gồm giám sát của MTTQ và các đoàn thể nhân dân trong việc phát huy dân chủ, góp phần xây dựng nhà nước trong sạch, vững mạnh, hoạt động có hiệu lực, hiệu quả.
- Cuốn sách chuyên khảo “Vai trò Mặt trận Tổ quốc Việt Nam đối với việc thực hiện quyền làm chủ của nhân dân ở nước ta hiện nay” của Nguyễn Thị Hiền Oanh [84]. Dưới góc độ chính trị học, tác giả đề cập đến cơ sở lý luận và thực tiễn về hoạt động của MTTQVN, tập trung nghiên cứu về mối quan hệ giữa MTTQVN và quyền làm chủ của nhân dân, trước hết chủ yếu là quyền làm chủ về chính trị. Trên cơ sở thực tiễn, tác giả tìm hiểu và đánh giá thực trạng của MTTQVN trong việc thực hiện quyền làm chủ của nhân dân thời gian qua, đó là những quy định của pháp luật còn chung chung, chưa có quy định cụ thể về trách nhiệm, cơ chế, hiệu quả pháp lý cũng như điều kiện để bảo đảm quyền giám sát của Mặt trận đối với quyền lực nhà nước, do đó chất lượng, hiệu quả hoạt động còn thấp chưa đáp ứng đòi hỏi của người dân...
- Cuốn sách “Mô hình tổ chức và hoạt động của nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam” của Đào Trí Úc [132]. Tác giả đã phân tích rõ nhà nước pháp quyền là yêu cầu, giá trị cơ bản của chế độ dân chủ, tạo nên sự đồng thuận xã hội; cuốn sách cũng nêu khái quát những đặc trưng của Nhà nước pháp quyền XHCN. Sau khi phân tích các nội dung trên, tác giả đề xuất mô hình tổng thể các cơ chế kiểm tra, giám sát việc thực hiện quyền lực nhà nước, trong đó đáng chú ý là đề xuất, xây dựng mô hình kiểm tra, giám sát ngoài bộ máy nhà nước bao gồm: kiểm tra Đảng, giám sát của MTTQ, các đoàn thể nhân dân... đối với hoạt động của bộ máy nhà nước.
- Trong cuốn sách “Đổi mới quan hệ giữa Đảng, Nhà nước và các tổ chức chính trị - xã hội trong HTCT Việt Nam” của Lê Hữu Nghĩa, Hoàng Chí Bảo, Bùi Đình Bôn [80] các tác giả cho rằng thực hiện đổi mới HTCT phải dựa trên chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh và quan điểm của Đảng. Phải xác định rõ, chính xác và phân định chức năng, nhiệm vụ, thẩm quyền, nội dung, phương thức hoạt động, phương thức làm việc của mỗi bộ phận trong HTCT để khắc phục tình trạng chồng chéo, trùng lắp chức năng, bao biện làm thay hoặc buông lỏng lãnh đạo. Các tác giả chỉ rõ những nguy cơ như xa dân, quan liêu, lạm quyền trong điều kiện một đảng duy nhất lãnh đạo và là hạt nhân của HTCT. Vì vậy, nhằm tránh sai lầm do quan liêu, chủ quan duy ý chí trong quá trình lãnh đạo và điều hành quản lý đất nước thì cần phải bảo đảm tính độc lập, chủ động, sáng tạo trong việc thực hiện chức năng, nhiệm vụ của MTTQ và các đoàn thể chính trị - xã hội, nhất là việc thực hiện giám sát và PBXH đối với Đảng, Nhà nước.
- Cuốn sách “Quan điểm và nguyên tắc đổi mới HTCT ở Việt Nam giai đoạn 2005 - 2020” của Trần Đình Hoan [58]. Trong cuốn sách này tác giả đã làm rõ tính tất yếu khách quan của việc đổi mới HTCT hiện nay, nêu ra các mục tiêu, quan điểm và nguyên tắc đối mới HTCT; đồng thời đề xuất phương hướng và các giải pháp đổi mới HTCT Việt Nam giai đoạn 2005 - 2020. Công trình nghiên cứu đã chỉ rõ: đổi mới HTCT phải chú trọng xây dựng cơ chế, quy chế phối hợp trên cơ sở làm rõ chức năng Đảng, chức năng Nhà nước, chức năng MTTQ và các tổ chức chính trị - xã hội; bảo đảm tính độc lập tương đối về tổ chức của MTTQ và các tổ chức chính trị - xã hội, phân công, ràng buộc trách nhiệm cụ thể, giám sát lẫn nhau giữa cấp ủy đảng, chính quyền, Mặt trận và các tổ chức chính trị - xã hội, tạo sự vận hành đồng bộ thông suốt của HTCT, mở rộng phát huy dân chủ trong xã hội, nâng cao chất lượng hoạt động của HTCT.
- Cuốn sách "Kết hợp chế độ tập trung dân chủ trong Đảng với chế độ hiệp thương dân chủ trong tổ chức Mặt trận" do UBTWMTTQVN chỉ đạo biên soạn [150]. Cuốn sách này được xuất bản trên cơ sở kết quả nghiên cứu đề tài cùng tên. Nội dung gồm 2 phần: “Tập trung dân chủ trong Đảng và hiệp thương dân chủ trong tổ chức Mặt trận, lý luận và vấn đề đặt ra” và “Kết hợp chế độ dân chủ trong Đảng với hiệp thương dân chủ trong tổ chức Mặt trận - thực trạng và giải pháp”. Cuốn sách có nhiều bài viết khá sâu sắc về mối quan hệ giữa nguyên tắc tập trung dân chủ trong tổ chức và hoạt động của Đảng, Nhà nước với nguyên tắc hiệp thương dân chủ trong tổ chức và hoạt động của MTTQVN.
- Cuốn sách “Cơ chế giám sát của nhân dân đối với hoạt động của bộ máy Đảng và Nhà nước - Một số vấn đề lý luận và thực tiễn” của Đào Trí Úc [130] có thể coi là một trong những công trình lần đầu tiên ở nước ta tập trung nghiên cứu về cơ chế và hình thức kiểm tra, giám sát của nhân dân đối với hoạt động của bộ máy Đảng và Nhà nước. Tác giả phân tích sâu, chính luận khoa học về bản chất nền dân chủ XHCN, đó là xuất phát điểm căn bản của nhiệm vụ xây dựng cơ chế giám sát của nhân dân đối với bộ máy Đảng và Nhà nước, với tính đặc thù dân chủ trong điều kiện một đảng cầm quyền và nhu cầu khách quan của giám sát nhân dân và MTTQ, các TCTV của Mặt trận; đánh giá những ưu điểm và thực trạng cơ chế giám sát của nhân dân đối với hoạt động của bộ máy Đảng và Nhà nước; nghiên cứu, phân tích kinh nghiệm một số nước về cơ chế và hình thức kiểm tra giám sát xã hội, sự phối hợp cơ chế và hình thức này với cơ chế và hình thức giám sát của nhà nước trong quá trình tổ chức thực hiện quyền lực chính trị, quyền lực nhà nước. Tác giả đã nêu lên các quan điểm, yêu cầu, mục tiêu, nguyên tắc bảo đảm sự giám sát của nhân dân; xây dựng và đề xuất mô hình nội dung và hình thức giám sát của nhân dân đối với hoạt động của Đảng và Nhà nước.
- Cuốn sách "Một số vấn đề lý luận và thực tiễn công tác Mặt trận" do UBTWMTTQVN chỉ đạo biên soạn [153]. Cuốn sách tổng hợp nội dung kết quả nghiên cứu 5 chuyên đề khoa học do BTT UBTWMTTQVN chủ trì, trong đó đáng chú ý là Chuyên đề 1: “Phát huy vai trò của MTTQVN thực hiện nhiệm vụ tổng hợp, xây dựng khối đại đoàn kết dân tộc trong thời kỳ đổi mới và hội nhập quốc tế”, Chuyên đề 2: “Phát huy vai trò của MTTQVN trong hoạt động giám sát và PBXH góp phần xây dựng Đảng và Nhà nước trong sạch vững mạnh” và Chuyên đề 3: “Đổi mới nội dung và phương thức hoạt động của MTTQVN các cấp trong thời kỳ mới”.
- Cuốn sách “Xây dựng Nhà nước pháp quyền XHCN Việt Nam trong giai đoạn hiện nay - Một số vấn đề lý luận và thực tiễn” của Đào Trí Úc, Phạm Hữu Nghị [135]. Các tác giả cuốn sách này đã nghiên cứu về đặc trưng của Nhà nước pháp quyền Việt Nam; khẳng định giám sát xã hội đối với việc thực hiện quyền lực nhà nước là điều tất yếu. Theo các tác giả, để bảo đảm quyền lực nhà nước vận hành đúng bản chất nhà nước XHCN Việt Nam, bên cạnh việc phải xây dựng một hệ thống pháp luật hoàn chỉnh thì cần bảo đảm quyền giám sát của nhân dân đối với việc thực thi quyền lực nhà nước.
- Cuốn sách “Phát huy sức mạnh đại đoàn kết toàn dân tộc, nâng cao vị trí, vai trò MTTQVN trong thời kỳ đổi mới, hội nhập quốc tế” do Nguyễn Quang Du chủ biên [26]. Đáng chú ý là bài viết của các tác giả là lãnh đạo, nguyên lãnh đạo của Đảng, Nhà nước và MTTQVN: Nông Đức Mạnh: “Nâng cao năng lực lãnh đạo và sức chiến đấu của Đảng, phát huy sức mạnh toàn dân tộc, đẩy mạnh toàn diện công cuộc đổi mới, sớm đưa nước ta ra khỏi tình trạng kém phát triển”. Lê Khả Phiêu: “Phải làm gì để nhân dân, Mặt trận giám sát được hoạt động của Đảng và Nhà nước”. Hoàng Tùng: “Mặt trận dân tộc trong cuộc cách mạng mới”. Lê Quang Đạo: “MTTQVN không ngừng đổi mới để phát triển đi lên”. Phạm Thế Duyệt: “Phát huy vai trò của MTTQVN trong thời kỳ hội nhập quốc tế”. Nguyễn Khánh: “Đổi mới tư duy về Mặt trận và công tác Mặt trận”. Đỗ Phượng: “Đảng cầm quyền và Mặt trận dân tộc thống nhất Việt Nam”...
- Cuốn sách “Mặt trận dân tộc thống nhất Việt Nam những chặng đường vẻ vang” do UBTWMTTQVN chỉ đạo biên soạn [151]. Sách tập hợp các bài phát biểu của các vị lãnh đạo, nguyên lãnh đạo Đảng, Nhà nước và MTTQVN, các bài viết của các nhà khoa học trong cuộc hội thảo khoa học do UBTWMTTQVN phối hợp với Ban Tuyên giáo Trung ương và Học viện Chính trị - Hành chính quốc gia Hồ Chí Minh tổ chức ngày 10/11/2010 tại Hà Nội. Các tham luận và ý kiến phát biểu được trình bày tại hội thảo đã nêu bật ý nghĩa to ...các dân tộc, các giới trong Chính Hiệp tham chính, nghị chính.
Mục đích của việc thực hiện ba chức năng là nhằm phát huy dân chủ XHCN, phản ánh ý kiến và yêu cầu xã hội, tập hợp trí tuệ đông đảo để khoa học hóa và dân chủ hóa quá trình hoạch định các quyết sách của Đảng và Nhà nước. giám sát việc thực hiện Hiến pháp, pháp luật, đường lối, chính sách, nâng cao hiệu quả công tác của cơ quan và cán bộ nhà nước, chống quan liêu, hủ bại. Thúc đẩy xây dựng văn minh vật chất và văn minh tinh thần, xây dựng pháp chế XHCN, thúc đẩy phát triển thị trường XHCN và phát triển lực lượng sản xuất. Góp phần điều chỉnh các mối quan hệ xã hội, tăng cường hiểu biết lẫn nhau, tăng cường sự đoàn kết của các đảng phái dân chủ dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản.
- Về chức năng hiệp thương chính trị: Hội nghị toàn thể Ủy ban toàn quốc Chính Hiệp hoặc Hội nghị Chủ tịch Chính Hiệp tổ chức hiệp thương các nội dung sau đây: Đường lối chính sách, bước đi trong việc xây dựng văn minh vật chất, văn minh tinh thần XHCN, xây dựng pháp chế XHCN và những vấn đề lớn trong công cuộc cải cách mở cửa; báo cáo của Chính phủ hàng năm; dự toán ngân sách nhà nước hàng năm; quy hoạch phát triển kinh tế - xã hội hàng năm và dài hạn; những vấn đề lớn trong đời sống chính trị đất nước; dự thảo các đạo luật quan trọng; danh sách đề cử của TW Đảng vào các chức vụ quan trọng của nhà nước; đường lối chính sách đối ngoại quan trọng; đường lối chính sách thống nhất đất nước
- Về chức năng giám sát dân chủ: Chính Hiệp giám sát các nội dung chủ yếu sau đây: Tình hình chấp hành Hiến pháp, pháp luật; tình hình chấp hành chủ trương, chính sách của TW Đảng và Quốc vụ viện; tình hình thực hiện kế hoạch kinh tế, tài chính, dự toán ngân sách
- Về chức năng tham chính, nghị chính: Thực chất đây là sự tiếp nối và phát triển của hai chức năng trên. Theo đó, ngoài những nội dung của hai chức năng trên, đối với những vấn đề mà nhân dân quan tâm, Đảng và Nhà nước coi trọng và Chính Hiệp có điều kiện tham gia, sẽ tổ chức điều tra, nghiên cứu rồi đưa ra kiến nghị. Ủy ban toàn quốc Chính Hiệp có thể căn cứ vào đề nghị của TW Đảng, UBTVQuốc hội, các đảng phái dân chủ, các đoàn thể, các bộ ngành mà xét thấy cần thiết thì sẽ triệu tập Hội nghị hiệp thương. Chính Hiệp có thể mời những người phụ trách các cơ quan chức năng hoặc mời các chuyên gia đến tham dự và trình bày tại các hội nghị hiệp thương. Các hội nghị hiệp thương sẽ thảo luận, kiến nghị về việc xây dựng, xác định các quyết sách và việc thực hiện trong thực tế các quyết sách của TW và địa phương; giám đốc việc thực hiện Hiến pháp, pháp luật, chính sách lớn, việc làm của CQNN và nhân viên công vụ; tuyên truyền giáo dục Hiến pháp, pháp luật, đường lối, chính sách của Đảng, động viên toàn xã hội tham gia xây dựng văn minh vật chất, văn minh tinh thần; đấu tranh chống mọi hành vi phá hoại và tội phạm
1.2.2.2. Về Mặt trận Lào Xây dựng đất nước
Về Mặt trận Lào Xây dựng đất nước, một số tài liệu sau đây đã được tác giả Luận án nghiên cứu, tham khảo:
- Luật Mặt trận Lào Xây dựng đất nước [109].
- Bài viết “Tăng cường hơn nữa mối quan hệ đoàn kết, gắn bó anh em giữa Mặt trận Lào xây dựng đất nước và Mặt trận Tổ quốc Việt Nam” của đồng chí Xi-xa-vạt Kẹo-bun-phăn, Ủy viên Bộ Chính trị Đảng Nhân dân Cách mạng Lào, Chủ tịch Ủy ban Trung ương Mặt trận Lào Xây dựng đất nước [170]
- Báo cáo “Kết quả thực hiện Chiến lược hợp tác kinh tế, văn hóa, giáo dục, khoa học - kỹ thuật giữa Việt Nam và Lào giai đoạn 2011-2020 và Hiệp định hợp tác Việt Nam - Lào giai đoạn 2016 - 2020” của UBTWMTTQVN [144].
Theo các tài liệu trên, về Mặt trận Lào Xây dựng đất nước có một số nội dung đáng chú ý sau đây:
HTCT của Cộng hòa dân chủ nhân dân Lào có nhiều điểm tương đồng với HTCT nước ta. Lào cũng có tổ chức Mặt trận với tên gọi là Mặt trận Lào Xây dựng đất nước. Mặt trận Lào Xây dựng đất nước cũng có chức năng xây dựng chính quyền như MTTQVN. Tuy nhiên, qua nghiên cứu thì bạn chưa có nhiều luật hoặc văn bản dưới luật quy định về mối quan hệ giữa Trung ương Mặt trận Lào Xây dựng đất nước với các CQNN ở Trung ương như ở ta. Một trong những văn bản có những quy định nhiều nhất về vấn đề này, đó là “Luật về Mặt trận Lào Xây dựng đất nước” được Quốc hội nước Cộng hòa dân chủ nhân dân Lào thông qua ngày 08/7/2009 [109]. Luật có 12 chương, 48 điều.
Về quyền hạn và nhiệm vụ của Mặt trận Lào xây dựng đất nước trong hoạt động giám sát, Luật này quy định: Mặt trận tham gia giám sát các hoạt động của cơ quan quản lý nhà nước, hội viên Quốc hội, TAND, công tố viên nhân dân, cán bộ và công chức nói chung; giám sát, kiểm tra việc giải quyết các mâu thuẫn đã xảy ra theo trách nhiệm của mình; đề nghị áp dụng biện pháp và quy tắc giải quyết kết quả của việc kiểm tra; thực hiện quyền và nhiệm vụ khác theo quy định của pháp luật.
Sau 9 năm thực hiện, ngày 06/8/2018 Quốc hội Lào đã thông qua Luật sửa đổi, bổ sung Luật về Mặt trận Lào Xây dựng đất nước và được Chủ tịch nước Cộng hòa dân chủ nhân dân Lào ký lệnh công bố ngày 20/6/2018. Luật mới có 13 Chương và 63 Điều.
Liên quan đến mối quan hệ giữa Mặt trận Lào Xây dựng đất nước với Nhà nước, Luật mới có một số nội dung đáng chú ý sau đây:
Trung ương Mặt trận Lào Xây dựng đất nước có nhiệm vụ:
- Nghiên cứu xây dựng chính sách, chiến lược, luật pháp và quy chế về công tác Mặt trận để đề xuất các cơ quan liên quan xem xét;
- Triển khai đường lối, chính sách, chiến lược, luật pháp, kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội quốc gia, nghị quyết của Đại hội theo kế hoạch, chương trình và tổ chức thực hiện;
- Tuyên truyền, phổ biến, giáo dục đường lối, chính sách, luật pháp, điều lệ của Mặt trận Lào Xây dựng đất nước;
- Theo dõi, hướng dẫn thúc đẩy việc tổ chức thực hiện công tác Mặt trận, luật và quy chế về Mặt trận Lào Xây dựng đất nước;
- Vận động, tập trung sự đoàn kết, giáo dục nhân dân Lào các dân tộc, tầng lớp, tôn giáo, giới tính, lứa tuổi giác ngộ chính trị, là công dân tốt, phát huy truyền thống yêu nước, tôn trọng, thi hành Hiến pháp và luật tham gia vào việc bảo vệ và xây dựng phát triển đất nước
Về giám sát của Mặt trận Lào Xây dựng đất nước, có một số nội dung đáng chú ý:
- Khái niệm, mục đích giám sát của Mặt trận, Luật quy định: “Là sự giám sát được thông qua sự góp ý, đề nghị, phản ánh nguyện vọng của nhân dân các bộ tộc Lào về tổ chức thực hiện đường lối, chính sách, Hiến pháp, luật và kế hoạch phát triển kinh tế- xã hội của nhà nước từng giai đoạn”.
- Về đối tượng giám sát bao gồm: Quốc hội, HĐND tỉnh, và hội viên Quốc hội; cơ quan quản lý nhà nước; thẩm phán và công tố viên; cán bộ, công chức và thành viên của Mặt trận Lào.
- Về nội dung giám sát bao gồm: Việc thực hiện nghĩa vụ, quyền và nhiệm vụ của Quốc hội, HĐND và hội viên; việc thực hiện luật của cơ quan quản lý nhà nước liên quan đến quyền và nghĩa vụ cơ bản của công dân; việc thực hiện nhiệm vụ của thẩm phán và công tố viên; việc sử dụng quyền, thực hiện nghĩa vụ và nhiệm vụ của cán bộ công chức; các hoạt động của thành viên Mặt trận; đơn khiếu nại, nguyện vọng của nhân dân các bộ tộc; việc giải quyết mâu thuẫn của nghĩa vụ, quyền và nhiệm vụ của bản thân.
1.2.2.3. Về Hiệp hội nhân dân Singapore (People’s Association - PA)
Về Hiệp hội nhân dân Singapore, một số tài liệu sau đây đã được tác giả Luận án nghiên cứu, tham khảo:
- Bài viết “Hiệp hội nhân dân Singapore hoạt động đoàn kết các tầng lớp nhân dân” của Đàm Văn Lợi [70].
- Cuốn sách “Văn minh tinh thần Singapore”: Đoàn khảo sát Trung Quốc khảo sát về văn minh tinh thần Singapore [47].
- Bài “Hiệp hội nhân dân trong hệ thống chính trị ở Singapore” của Lê Văn Đính [41].
Theo các tài liệu trên, về Hiệp hội nhân dân Singapore có một số nội dung đáng chú ý sau đây:
- Về lịch sử ra đời của Hiệp hội nhân dân Singapore (People’s Association):
Hiệp hội nhân dân Singapore được thành lập ngày 01/7/1960 theo Luật Hiệp hội nhân dân được Quốc hội thông qua. Hiệp hội thuộc Bộ Phát triển Cộng đồng, Thanh niên và Thể thao. Thủ tướng là người đứng đầu Hiệp hội và Chủ nhiệm văn phòng Chính phủ là Giám đốc điều hành. Hiệp hội được xem là cầu nối giữa đảng cầm quyền và nhân dân trong việc hậu thuẫn cho chính phủ, đóng vai trò quan trọng trong việc giáo dục ý thức của nhân dân, xây dựng môi trường chính trị ổn định. Hiệp hội có bốn chức năng chính là: tổ chức và tạo điều kiện để người dân tham gia các nhóm trong các hoạt động xã hội, văn hóa, giáo dục và thể thao; truyền cho các nhà lãnh đạo về ý thức của bản sắc dân tộc và tinh thần cống hiến cho một cộng đồng đa chủng tộc, qua đó thực hiện mục đích đào tạo người lãnh đạo; tạo lập sự liên kết cộng đồng và tăng cường sự gắn kết xã hội giữa những người dân Singapore; là một kênh thông tin liên lạc giữa các chính phủ cầm quyền và những người dân nhằm mở đường cho Chính phủ đáp ứng tốt hơn quá trình lãnh đạo của mình.
- Cơ cấu tổ chức và hoạt động của Hiệp hội nhân dân Singapore:
Hiệp hội nhân dân Singapore gồm 12 tổ chức trong đó mỗi tổ chức đều có vai trò, chức năng riêng của mình và cùng hướng tới thực hiện sứ mệnh của Hiệp hội là tạo lập sự liên kết cộng đồng, thúc đẩy sự hòa hợp chủng tộc và tăng cường sự gắn kết xã hội giữa những người dân Singapore, đồng thời là cầu nối giữa Chính phủ và người dân.
Tuy mỗi tổ chức của Hiệp hội nhân dân Singapore đều có vai trò, chức năng riêng nhưng mục tiêu chung trong hoạt động của Hiệp hội và của các tổ chức này đều hướng tới xây dựng một xã hội hòa hợp trong một cộng đồng đa chủng tộc. Vì vậy, Chính phủ Singapore và Hiệp hội trong mọi hoạt động của mình đều nhất quán chủ trương “Một dân tộc, một Singapore”. Ngoài chức năng quan trọng là tạo lập sự liên kết cộng đồng và tăng cường sự gắn kết xã hội giữa những người dân Singapore, giữa các dân tộc, tôn giáo, một trong những chức năng thể hiện tính đại diện, bảo vệ quyền và lợi ích chính đáng, hợp pháp của nhân dân của Hiệp hội là chức năng làm cây cầu kết nối Chính phủ và người dân; Hiệp hội được coi như một kênh thông tin liên lạc giữa Chính phủ cầm quyền và người dân, tạo điều kiện cho Chính phủ đáp ứng tốt hơn quá trình lãnh đạo của mình. Cụ thể là bằng việc tổ chức thường xuyên các cuộc tiếp xúc giữa quan chức Chính phủ với người dân tại các Trung tâm cộng đồng thông qua các hoạt động tập thể mang đậm nét văn hóa truyền thống (hoạt động thể thao, văn hóa, nghệ thuật, ẩm thực, tuyên truyền, cổ động ) có sự tham dự của các quan chức như ĐBQuốc hội, các bộ trưởng, Hiệp hội đã tạo cho người dân Singapore những cơ hội, điều kiện tiếp xúc một cách dễ dàng, thường xuyên với quan chức Chính phủ để nói lên những tâm tư, suy nghĩ và những ý kiến phản hồi rất cụ thể của họ đối với các chủ trương, chính sách của Chính phủ mà họ là người trực tiếp thụ hưởng, hoặc phản ánh với quan chức Chính phủ bất cứ một vấn đề gì gặp phải trong đời sống xã hội mà họ thấy chưa hợp lý, cần phải điều chỉnh Mặt khác, quy định về việc tiếp dân định kỳ của các đại biểu Quốc hội, các quan chức Chính phủ tại các khu dân cư, trong đó Hiệp hội cũng đóng vai trò là người đứng ra tổ chức, Hiệp hội đã kết nối Chính phủ lại rất gần với người dân, giúp Chính phủ biết lắng nghe, thấu hiểu những gì người dân cần, những gì có lợi cho dân để từ đó xây dựng chính sách phù hợp, đem đến một cuộc sống ngày càng hạnh phúc, trọn vẹn cho người dân Singapore.
Trong nhiều năm qua, giữa UBTWMTTQVN và Hiệp hội nhân dân Singapore có mối quan hệ khá chặt chẽ. Hai bên thường xuyên tổ chức các chuyến thăm cấp cao; ký kết một số chương trình hợp tác trên tinh thần mở rộng các hoạt động giao lưu, đối ngoại nhân dân. Hiệp hội nhân dân Singapore có một số hoạt động rất đáng tham khảo về cách thức tổ chức vận hành một tổ chức đại diện cho nhân dân tham gia vào công việc của nhà nước, giám sát các hoạt động của CQNN và công chức nhà nước
Kinh nghiệm từ hoạt động của Hiệp hội nhân dân Singapore cũng cho thấy rằng sự đầu tư về mặt ý tưởng để cho đất nước Singapore phát triển là làm sao phát huy được quyền làm chủ của nhân dân. Người dân ngày càng thoả mãn những nhu cầu tinh thần và đời sống thường ngày khi được Chính phủ lắng nghe và giải quyết những khúc mắc thông qua cầu nối Hiệp hội. Cuộc sống chính là do người dân và Chính phủ cùng nhau xây dựng. Như vậy sự gắn bó không chỉ bằng chủ trương mà bằng những công việc hết sức cụ thể. Nhân dân sẽ yêu mến đất nước, từ đó sẵn sàng lao động, cống hiến, hy sinh để phục vụ đất nước.
1.3. MỘT SỐ NHẬN XÉT VỀ CÁC CÔNG TRÌNH NGHIÊN CỨU ĐÃ TIẾP CẬN VÀ NHỮNG VẤN ĐỀ ĐẶT RA CẦN TIẾP TỤC ĐƯỢC NGHIÊN CỨU TRONG LUẬN ÁN
1.3.1. Một số nhận xét về các công trình nghiên cứu đã tiếp cận
Các công trình khoa học nêu trong tổng quan nghiên cứu có liên quan đến đề tài luận án: "Hoàn thiện pháp luật về mối quan hệ giữa Ủy ban Trung ương Mặt trận Tổ quốc Việt Nam với các cơ quan Trung ương của nhà nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam hiện nay" có thể đánh giá khái quát như sau:
1.3.1.1. Về nghiên cứu lý luận
Một là, vấn đề dân chủ, xây dựng một chế độ xã hội trong đó người dân có quyền làm chủ trong xã hội dân sự cũng như trong xã hội công dân đã được các tác giả đặt ra và luận giải sâu rộng ở phần phương diện tư tưởng chính trị, triết học và luật học. Từ thời cổ đại, trung đại, cận đại và đời sống xã hội đương đại, vấn đề dân chủ luôn được đặt ra và giải quyết như một nhu cầu tất yếu của đời sống con người trong mọi thời đại. Đặc biệt trong điều kiện xã hội phát triển và quản lý xã hội phát triển trong mỗi quốc gia dân tộc và hội nhập toàn cầu.
Hai là, quyền lực nhà nước (quyền lập pháp, quyền hành pháp, quyền tư pháp) thuộc về nhân dân. Nhân dân tham gia xây dựng nhà nước, tham gia xây dựng pháp luật và tham gia vào quản lý nhà nước bằng hai hình thức, dân chủ trực tiếp và dân chủ đại diện.
Ba là, vấn đề kiểm soát quyền lực nhà nước là yêu cầu tất yếu khách quan. Kiểm soát quyền lực nhà nước bên trong là giám sát, kiểm soát, thanh tra, kiểm toán, kiểm tra giữa các CQNN với nhau. Kiểm soát quyền lực nhà nước từ "bên ngoài" là giám sát, PBXH của MTTQ và các TCTV của Mặt trận (các tổ chức chính trị - xã hội, các tổ chức chính trị - xã hội - nghề nghiệp, các tổ chức xã hội - nghề nghiệp, các tổ chức xã hội...) và sự giám sát trực tiếp của người dân.
Bốn là, vai trò và vấn đề đổi mới sự lãnh đạo của Đảng trong xây dựng hoàn thiện HTCT nói chung và sự lãnh đạo, đổi mới phương thức lãnh đạo của Đảng đối với HTCT (trong đó có MTTQVN) nói riêng.
1.3.1.2. Về thực trạng pháp luật và hoàn thiện pháp luật
Một là, các kết quả nghiên cứu đã làm rõ hơn về vị trí, vai trò của MTTQVN trong xây dựng chính quyền nhân dân; trong xây dựng khối đại đoàn kết dân tộc; trong giám sát, PBXH đối với việc thực hiện các quyền lập pháp, hành pháp và tư pháp của các CQNN.
Hai là, các kết quả nghiên cứu đã chỉ ra sự cần thiết tất yếu của việc Nhà nước coi MTTQVN là cơ sở chính trị của mình; dựa vào Mặt trận để thực hiện nhiệm vụ quản lý, điều hành đất nước; chủ động thể chế hóa chủ trương của Đảng, cụ thể hóa quy định của Hiến pháp về mối quan hệ giữa Nhà nước với Mặt trận thành pháp luật để có cơ sở pháp lý thực hiện mối quan hệ, trên cơ sở quyền hạn và nhiệm vụ của mỗi bên.
Ba là, các nghiên cứu về một số tổ chức có tính chất tương tự như MTTQVN ở một số nước là những thông tin có thể tham khảo kinh nghiệm cho việc thực hiện đề tài của Luận án.
Bốn là, một số công trình đã đánh giá được thực trạng những quy định của pháp luật về MTTQVN, nhất là thực trạng thực hiện các quy định pháp luật về mối quan hệ giữa MTTQVN với Nhà nước.
1.3.1.3. Về các giải pháp hoàn thiện pháp luật
Một là, các công trình khoa học bên cạnh nêu được một số kết quả chủ yếu trong việc thực hiện pháp luật về mối quan hệ giữa MTTQVN với Nhà nước còn nêu được nhiều tồn tại, hạn chế và nguyên nhân (cả chủ quan và khách quan) dẫn đến nhiều quy định pháp luật chưa phát huy hiệu quả cao trong thực tiễn.
Hai là, một số công trình đặt ra và nêu một số giải pháp về phát huy vai trò của MTTQVN trong bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của nhân dân và các TCTV của Mặt trận. Một số giải pháp có thể kế thừa trực tiếp để hoàn thiện luận án.
1.3.2. Giả thuyết nghiên cứu và câu hỏi nghiên cứu
1.3.2.1. Các giả thuyết nghiên cứu
Giả thuyết thứ nhất: MTTQVN và Nhà nước CHXHCNVN là các chủ thể độc lập, bình đẳng trong HTCT nước ta. Mỗi tổ chức có cơ cấu tổ chức, nhiệm vụ, quyền hạn khác nhau trên cơ sở các quy định của Hiến pháp và pháp luật. Mối quan hệ giữa MTTQVN với Nhà nước chủ yếu được thực hiện theo quy định của Hiến pháp và pháp luật. UBTWMTTQVN là cơ quan Trung ương của MTTQVN. Quốc hội, Chủ tịch nước, Chính phủ, TAND tối cao và VKSND tối cao là các cơ quan nhà nước ở Trung ương. Vì thế, nghiên cứu pháp luật và thực hiện pháp luật về mối quan hệ giữa các chủ thể này chủ yếu là ở cấp Trung ương. Tuy nhiên, kết quả của việc thực hiện pháp luật về các mối quan hệ này lại tác động trực tiếp đến cả các cơ quan, tổ chức khác trong HTCT cả cấp trung ương và địa phương.
Giả thuyết thứ hai: Pháp luật về mối quan hệ giữa UBTWMTTQVN với các cơ quan Trung ương của nhà nước CHXHCN Việt Nam bao gồm hệ thống các QPPL được quy định rải rác ở rất nhiều văn bản pháp luật có thứ bậc khác nhau (từ Hiến pháp đến các luật, bộ luật, nghị quyết của Quốc hội, NQLT, nghị định, thông tư). Vì vậy không tránh khỏi những mâu thuẫn, chồng chéo, nếu không thường xuyên rà soát, phát hiện để đề xuất sửa đổi, bổ sung thì sẽ làm giảm hiệu lực của mối quan hệ giữa các tổ chức này. Bên cạnh đó, rất nhiều quy định về giám sát, PBXH của MTTQVN còn chung chung, thiếu cơ chế để thực hiện. Vậy làm thế nào để hoàn thiện các quy định này, hạn chế tính hình thức và có hiệu quả thiết thực trong quá trình thực hiện.
Giả thuyết thứ ba: Hoàn thiện pháp luật về mối quan hệ giữa UBTWMTTQVN với các cơ quan Trung ương của nhà nước CHXHCN Việt Nam trước hết phải đặt trong tổng thể hoàn thiện hệ thống pháp luật Việt Nam nói chung bao gồm những quan điểm, nguyên tắc, tiêu chí, điều kiệm bảo đảm. Mặt khác, cần coi trọng những nét đặc thù trong tổ chức và hoạt động của MTTQVN nói chung, UBTWMTTQVN nói riêng để Mặt trận thực sự là cơ sở chính trị của chính quyền nhân dân như tinh thần của Hiến pháp.
Giả thuyết thứ tư: Các giải pháp để hoàn thiện pháp luật về mối quan hệ giữa UBTWMTTQVN với các cơ quan Trung ương của nhà nước CHXHCN Việt Nam cần tính đến các tác động hai chiều, giữa UBTWMTTQVN đối với các cơ quan nhà nước ở Trung ương và giữa các cơ quan nhà nước ở Trung ương đối với UBTWMTTQVN. Không thể vì quá nhấn mạnh quyền của UBTWMTTQVN mà gây khó khăn, trở ngại cho hoạt động bình thường của Nhà nước. Và cũng không thể quá nhấn mạnh vai trò của Nhà nước để rồi làm mờ nhạt vai trò của MTTQVN với tư cách là “cơ sở chính trị của chính quyền nhân dân”. Các giải pháp đưa ra phải làm cho cả “hai phía” cùng mạnh lên trên cơ sở chủ trương, đường lối của Đảng và tinh thần của Hiến pháp năm 2013. Đây là vấn đề cần được quán triệt sâu sắc để các giải pháp có tính thiết thực, khả thi.
1.3.2.2. Các câu hỏi nghiên cứu
Trong quá trình triển khai nghiên cứu đề tài, Luận án cần phải trả lời một số câu hỏi nghiên cứu chủ yếu sau đây:
(1) Vì sao pháp luật lại điều chỉnh mối quan hệ giữa UBTWMTTQVN với các cơ quan Trung ương của nhà nước CHXHCN Việt Nam. Pháp luật này có vai trò như thế nào?
(2) Pháp luật về mối quan hệ giữa UBTWMTTQVN với các cơ quan Trung ương của nhà nước CHXHCN Việt Nam hiện nay là gì; nó có những đặc điểm gì. Nó có những điểm giống và khác nhau như thế nào đối với pháp luật điều chỉnh các quan hệ xã hội khác?
(3) Nội dung, đối tượng, phương pháp điều chỉnh của pháp luật về mối quan hệ giữa UBTWMTTQVN với các cơ quan Trung ương của nhà nước CHXHCN Việt Nam hiện nay ra sao?
(4) Việc đánh giá mức độ hoàn thiện của pháp luật về mối quan hệ giữa UBTWMTTQVN với các cơ quan Trung ương của nhà nước CHXHCN Việt Nam hiện nay dựa vào những tiêu chí nào?
(5) Các yếu tố bảo đảm cho việc hoàn thiện pháp luật về mối quan hệ giữa UBTWMTTQVN với các cơ quan Trung ương của nhà nước CHXHCN Việt Nam hiện nay là những yếu tố gì?
(6) Quá trình phát triển cũng như thực trạng pháp luật về mối quan hệ giữa UBTWMTTQVN với các cơ quan Trung ương của nhà nước CHXHCN Việt Nam trong thời gian qua với những kết quả đạt được, những hạn chế, bất cập và nguyên nhân là gì?
(7) Hoàn thiện pháp luật về mối quan hệ giữa UBTWMTTQVN với các cơ quan Trung ương của nhà nước CHXHCN Việt Nam hiện nay cần xuất phát từ những quan điểm nào? Các giải pháp hoàn thiện pháp luật về mối quan hệ giữa UBTWMTTQVN với các cơ quan Trung ương của nhà nước CHXHCN Việt Nam hiện nay là gì? Có những điểm gì giống và khác với việc hoàn thiện pháp luật ở các lĩnh vực khác?
1.3.3. Những vấn đề cần tiếp tục nghiên cứu
Qua nghiên cứu các công trình khoa học đã trình bày ở trên, tác giả nhận thấy Luận án này cần giải quyết những vấn đề cụ thể sau:
Một là, luận chứng để làm sáng tỏ hơn nữa về vai trò của MTTQVN “là cơ sở chính trị của chính quyền nhân dân; đại diện, bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp, chính đáng của nhân dân; tập hợp, phát huy sức mạnh đại đoàn kết toàn dân tộc, thực hiện dân chủ, tăng cường đồng thuận xã hội; giám sát, PBXH; tham gia xây dựng Đảng, Nhà nước" [96].
Hai là, xác định vị trí, vai trò của UBTWMTTQVN trong HTCT nói chung và trong quan hệ với Quốc hội, các cơ quan của Quốc hội đối với các hoạt động xây dựng pháp luật, tổ chức các cuộc bầu cử ĐBQH, đại biểu HĐND, giám sát hoạt động của Quốc hội và đại biểu Quốc hội.
Ba là, xác định vị trí, vai trò và mối quan hệ giữa UBTWMTTQVN với tư cách là tổ chức đại diện, bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp, chính đáng của nhân dân với Chủ tịch nước với tư cách là người đứng đầu Nhà nước, thay mặt nước Cộng hoà XHCN Việt Nam về đối nội và đối ngoại [96].
Bốn là, xác định vị trí, vai trò và mối quan hệ giữa UBTWMTTQVN với Chính phủ, các bộ, cơ quan ngang bộ. Đồng thời xác định mối quan hệ giữa UBTWMTTQVN với Chính phủ trong việc vận động, tập hợp các tầng lớp nhân dân hưởng ứng các chương trình kinh tế - xã hội; xây dựng ban hành các văn bản pháp quy của Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ; giám sát hoạt động quản lý hành chính của Chính phủ; giám sát hoạt động của cán bộ, công chức, viên chức.
Năm là, xác định các mối quan hệ giữa UBTWMTTQVN với TAND tối cao và VKSND tối cao trong hoạt động tư pháp, chủ yếu là hoạt động tuyển chọn, giám sát Thẩm phán, Kiểm sát viên; giám sát hoạt động tố tụng và tổ chức, hoạt động của TAND tối cao, VKSND tối cao.
Sáu là, luận chứng xây dựng khái niệm, tiêu chí hoàn thiện, điều kiện bảo đảm hoàn thiện pháp luật về mối quan hệ giữa UBTWMTTQVN với các cơ quan Trung ương của nhà nước CHXHCN Việt Nam.
Bảy là, đánh giá được thực trạng pháp luật về mối quan hệ giữa UBTWMTTQVN với các cơ quan Trung ương của nhà nước CHXHCN Việt Nam, tìm nguyên nhân và rút ra các bài học kinh nghiệm để tiếp tục xây dựng và hoàn thiện.
Tám là, xác định quan điểm, phương hướng giải pháp hoàn thiện pháp luật về mối quan hệ giữa UBTWMTTQVN với các cơ quan Trung ương của nhà nước CHXHCN Việt Nam theo yêu cầu và điều kiện hiện nay.
Tiểu kết Chương 1
Trong Chương 1, Luận án đã đánh giá một cách tổng quan tình hình nghiên cứu trong và ngoài nước liên quan đến đề tài “Hoàn thiện pháp luật về mối quan hệ giữa Ủy ban Trung ương Mặt trận Tổ quốc Việt Nam với các cơ quan Trung ương của Nhà nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam”. Cụ thể, tác giả đã đánh giá tổng quan tình hình nghiên cứu về HTCT, về vấn đề dân chủ, về sự tham gia của các tổ chức xã hội nói chung, của MTTQVN nói riêng vào công việc của nhà nước ở cả góc độ tham gia xây dựng pháp luật, phản biện cơ chế chính sách, giám sát hoạt động của CQNN, cán bộ công chức nhà nước được các nhà khoa học đã công bố qua các đề tài khoa học cấp nhà nước, cấp bộ, các sách chuyên khảo, các giáo trình, các luận văn tiến sĩ, các bài báo khoa học dưới các góc độ chính trị học, triết học, xã hội học, luật học...
Nhìn chung, các công trình trên đã tiếp cận khá toàn diện về các vấn đề liên quan đến cơ cấu tổ chức, phương thức vận hành của HTCT nước ta và một số nước trên thế giới; sự tham gia của nhân dân và các tổ chức ngoài nhà nước vào các hoạt động của nhà nước. Các nghiên cứu trong nước đã có đề cập, tuy chưa được cụ thể và sâu sắc đến vị trí, vai trò của tổ chức MTTQVN trong HTCT; mối quan hệ giữa Mặt trận với Nhà nước với tư cách MT “là cơ sở chính trị của chính quyền nhân dân, đại diện, bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp, chính đáng của nhân dân, thực hiện giám sát và PBXH”. Tuy nhiên, những nghiên cứu này về cơ bản là những vấn đề có tính chất lý luận và chưa có nghiên cứu nào trực tiếp về mối quan hệ giữa UBTWMTTQVN với các CQNN ở Trung ương từ góc độ các quy định của Hiến pháp và pháp luật.
Tác giả Luận án đã chắt lọc, kế thừa và phát triển các công trình đã công bố để làm phong phú thêm các nghiên cứu của mình, từ đó đề ra những giải pháp nhằm hoàn thiện pháp luật về mối quan hệ giữa UBTWMTTQVN với các cơ quan Trung ương của Nhà nước CHXHCN Việt Nam trong giai đoạn hiện nay.
Chương 2
CƠ SỞ LÝ LUẬN CỦA HOÀN THIỆN PHÁP LUẬT VỀ MỐI
QUAN HỆ GIỮA ỦY BAN TRUNG ƯƠNG MẶT TRẬN TỔ QUỐC VIỆT NAM VỚI CÁC CƠ QUAN TRUNG ƯƠNG CỦA NHÀ NƯỚC
CỘNG HÒA XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM
2.1. MẶT TRẬN TỔ QUỐC VIỆT NAM TRONG HỆ THỐNG CHÍNH TRỊ, MỐI QUAN HỆ GIỮA ỦY BAN TRUNG ƯƠNG MẶT TRẬN TỔ QUỐC VIỆT NAM VỚI CÁC CƠ QUAN TRUNG ƯƠNG CỦA NHÀ NƯỚC CỘNG HÒA XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM VÀ SỰ CẦN THIẾT PHẢI ĐIỀU CHỈNH BẰNG PHÁP LUẬT
2.1.1. Khái niệm, cấu trúc và đặc điểm của hệ thống chính trị xã hội chủ nghĩa Việt Nam
2.1.1.1. Khái niệm hệ thống chính trị xã hội chủ nghĩa Việt Nam
Mỗi một chế độ chính trị, cũng như một chế độ nhà nước đều phản ánh bản chất của giai cấp cầm quyền và các cấp độ khác nhau về dân chủ; bảo vệ quyền tự do, lẽ công bằng cho các giai tầng xã hội, các dân tộc và nhân dân lao động nói chung, đặc biệt là bảo vệ chủ quyền và lợi ích của quốc gia dân tộc đó. Chính trị, HTCT cũng như nguyên tắc cơ chế vận hành của nó do điều kiện vật chất của xã hội cũng như cơ sở hạ tầng kinh tế quy định. Nhưng nhu cầu đòi hỏi về một nền dân chủ thật sự là xu thế tất yếu, khách quan của đời sống xã hội, là nhu cầu chính đáng của nhân dân. Từ những góc độ nghiên cứu khác nhau nên có những định nghĩa khác nhau về HTCT. Từ góc độ chính trị học GS.TSKH Phan Xuân Sơn đưa ra định nghĩa:
"HTCT là tổ hợp có tính chỉnh thể các thể chế chính trị (các cơ quan quyền lực nhà nước, các đảng chính trị, các phong trào xã hội, các tổ chức chính trị xã hội) được xây dựng trên các quyền và các chuẩn mực xã hội, phân bố theo một kết cấu chức năng nhất định, vận hành theo những nguyên tắc, cơ chế và quan hệ cụ thể, nhằm thực thi quyền lực chính trị" [112, tr.37].
Khái niệm HTCT nêu trên có tính khái quát cao, phản ánh về HTCT nói chung, của các chế độ chính trị trong các quốc gia trên thế giới. Các thể chế (tổ chức) trong HTCT bao gồm: Nhà nước, các đảng chính trị, các tổ chức xã hội có vị trí trong cấu trúc HTCT. Mỗi một tổ chức trong HTCT đều được xây dựng trên các quyền và chuẩn mực xã hội có những chức năng khác nhau nhưng đều có mối quan hệ với nhau trong một thể thống nhất và đều nhằm thực thi quyền lực chính trị theo chức năng của mình.
Một quan niệm khác về HTCT XHCN của PGS.TS Nguyễn Văn Động: "HTCT XHCN được coi là toàn bộ các tổ chức do giai cấp công nhân và nhân dân lao động lập nên để cùng thực hiện quyền lực của nhân dân dưới sự lãnh đạo của Đảng cộng sản" [39, tr.466].
Hệ thống chính trị XHCN Việt Nam là một khái niệm chính trị - pháp lý, là công cụ, phương tiện bảo đảm quyền lực chính trị thuộc về nhân dân. Các thiết chế trong HTCT có chức năng, phương thức hoạt động, có vị trí, vai trò khác nhau nhưng đều hướng đến việc xây dựng một nhà nước dân chủ, một xã hội dân chủ, công bằng cho nhân dân. Nhân dân là chủ thể quyền lực chính trị. Như Chủ tịch Hồ Chí Minh đã chỉ rõ:
“Nước ta là một nước dân chủ
Bao nhiêu quyền lợi đều vì dân
Bao nhiêu quyền hạn đều là của dân
Công việc đổi mới, xây dựng là trách nhiệm của dân.
Sự nghiệp kháng chiến, kiến quốc là công việc của dân, chính quyền từ xã đến chính phủ Trung ương do dân cử ra, Đoàn thể từ xã đến chính phủ do dân tổ chức nên. Nói tóm lại, mọi quyền hành và lực lượng đều ở nơi dân" [77, tr.698].
Hệ thống chính trị XHCN Việt Nam được thành lập lên để nhằm xây dựng nền dân chủ XHCN. Nhân dân thực hiện quyền làm chủ thông qua hoạt động của Nhà nước và của HTCT với các hình thức dân chủ trực tiếp, dân chủ đại diện. Nhà nước và các thiết chế khác trong HTCT là công cụ phương tiện mà qua đó nhân dân thực hiện quyền làm chủ của mình (hình thức dân chủ đại diện). Hình thức dân chủ trực tiếp thể hiện sự đa dạng, phong phú của việc thực hiện quyền dân chủ của nhân dân ở mọi lĩnh vực của đời sống xã hội. Dân chủ XHCN là bản chất của chế độ xã hội XHCN. HTCT nước ta bao gồm Đảng cộng sản Việt Nam, Nhà nước, MTTQ Việt Nam, các đoàn thể nhân dân. Trong đó Đảng cộng sản Việt Nam vừa là một tổ chức trong HTCT vừa là lực lượng lãnh đạo Nhà nước, lãnh đạo HTCT và toàn xã hội. Trong sự nghiệp xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội Đảng ta xác định:
"Dân chủ XHCN là bản chất của chế độ ta, vừa là mục tiêu, là động lực của sự phát triển đất nước. Xây dựng và từng bước hoàn thiện nền dân chủ XHCN, bảo đảm dân chủ thực hiện trong thực tế đời sống ở mỗi cấp, trên tất cả các lĩnh vực, Dân chủ gắn liền với kỷ luật, kỷ cương và phải được thể chế hóa bằng pháp luật, được pháp luật bảo đảm.
Nhà nước tôn trọng vào bảo đảm các quyền con người, quyền công dân; chăm lo hạnh phúc, sự phát triển tự do của mỗi người. Quyền và nghĩa vụ công dân do Hiến pháp và pháp luật quy định. Quyền của công dân không tách rời nghĩa vụ công dân.
Nhân dân thực hiện quyền làm chủ thông qua hoạt động của Nhà nước và cả HTCT và các hình thức dân chủ trực tiếp, dân chủ đại diện" [36, tr.28-29].
Từ sự phân tích ở trên, dựa vào các khái niệm về HTCT đã nêu ở trên, đồng thời căn cứ vào quy định về chế độ chính trị trong Hiến pháp năm 2013 có thể đưa ra khái niệm HTCT XHCN Việt Nam như sau: "HTCT XHCN Việt Nam bao gồm Đảng Cộng sản Việt Nam, các cơ quan nhà nước, MTTQ Việt Nam và các tổ chức chính trị - xã hội (Công đoàn Việt Nam, Hội Nông dân Việt Nam, Đoàn Thanh niên cộng sản Hồ Chí Minh, Hội liên hiệp phụ nữ Việt Nam, Hội Cựu chiến b...uan hệ giữa UBTWMTTQVN với các cơ quan Trung ương của Nhà nước CHXHCN Việt Nam là yêu cầu khách quan và cần thiết trong giao đoạn hiện nay.
Bằng phương pháp tiếp cận và nghiên cứu khoa học phù hợp, Luận án “Hoàn thiện pháp luật về mối quan hệ giữa UBTWMTTQVN với các cơ quan Trung ương của Nhà nước CHXHCN Việt Nam” đã đạt được mục đích và hoàn thành mục tiêu nghiên cứu đề ra. Kết quả nghiên cứu có thể khái quát như sau:
Trên cơ sở nghiên cứu có hệ thống những vấn đề về lý luận của chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, quan điểm của Đảng Cộng sản Việt Nam về nhà nước và pháp luật, Luận án đã xây dựng được khái niệm pháp luật và hoàn thiện pháp luật về mối quan hệ giữa UBTWMTTQVN với các cơ quan Trung ương của Nhà nước CHXHCN Việt Nam, đồng thời phân tích làm sáng tỏ những đặc điểm, nội dung điều chỉnh, vai trò và các tiêu chí đánh giá mức độ hoàn thiện pháp luật về mối quan hệ giữa UBTWMTTQVN với các cơ quan Trung ương của Nhà nước CHXHCN Việt Nam.
Luận án đã tiến hành phân tích, đánh giá quá trình hình thành và phát triển, những kết quả đạt được, những hạn chế, nguyên nhân hạn chế của pháp luật về mối quan hệ giữa UBTWMTTQVN với các cơ quan Trung ương của Nhà nước CHXHCN Việt Nam trong giai đoạn hiện nay.
Từ thực trạng của hệ thống pháp luật về mối quan hệ giữa UBTWMTTQVN với các cơ quan Trung ương của Nhà nước CHXHCN Việt Nam, Luận án đã đề xuất các quan điểm và các nhóm giải pháp nhằm hoàn thiện pháp luật về mối quan hệ giữa UBTWMTTQVN với các cơ quan Trung ương của Nhà nước CHXHCN Việt Nam hiện nay. Nếu thực hiện được các giải pháp này sẽ góp phần nâng cao chất lượng, hiệu quả phối hợp giữa UBTWMTTQVN với các cơ quan Trung ương của nhà nước CHXHCN Việt Nam, góp phần giúp cho MTTQVN nói chung, UBTWMTTQVN nói riêng ngày càng thực hiện tốt hơn vai trò “là cơ sở chính trị của chính quyền nhân dân; đại diện, bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp, chính đáng của nhân dân; tập hợp, phát huy sức mạnh đại đoàn kết toàn dân tộc, thực hiện dân chủ, tăng cường đồng thuận xã hội; giám sát, PBXH; tham gia xây dựng Đảng, Nhà nước” như các chủ trương của Đảng và quy định Hiến pháp năm 2013.
DANH MỤC CÔNG TRÌNH CỦA TÁC GIẢ ĐÃ ĐƯỢC CÔNG BỐ LIÊN QUAN ĐẾN LUẬN ÁN
Nguyễn Văn Pha (2012), “Mặt trận Tổ quốc Việt Nam giám sát cán bộ, công chức, đảng viên, góp phần nâng cao hiệu lực hệ thống chính trị cơ sở”, Tạp chí Cộng sản.
Nguyễn Văn Pha (2012), “Vai trò của Mặt trận Tổ quốc và các đoàn thể chính trị - xã hội trong công tác xây dựng Đảng”, Tạp chí Nhịp cầu tri thức.
Nguyễn Văn Pha (2013), "Mặt trận Tổ quốc Việt Nam tham gia phòng, chống tham nhũng, góp phần xây dựng nhà nước trong sạch, vững mạnh", Tạp chí Mặt trận.
Nguyễn Văn Pha (2013), "Hoạt động tham gia xây dựng và củng cố chính quyền của Mặt trận Tổ quốc Việt Nam trong Dự thảo sửa đổi Hiến pháp năm 1992", Tạp chí Cộng sản.
Nguyễn Văn Pha (2013), "Một số vấn đề về hoạt động góp ý, phản biện xã hội của Mặt trận Tổ quốc Việt Nam trong công tác xây dựng pháp luật", Tạp chí Nghiên cứu lập pháp.
Nguyễn Văn Pha (2014), “Vị trí, vai trò, chức năng, nhiệm vụ của Mặt trận Tổ quốc Việt Nam trong Hiến pháp”, Tạp chí Nghiên cứu lập pháp.
Nguyễn Văn Pha (2020), “Hoàn thiện pháp luật về vai trò của Mặt trận Tổ quốc Việt Nam giám sát hoạt động các cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng”, Tạp chí Pháp lý.
Nguyễn Văn Pha (2020), “Một số vấn đề về quan hệ phối hợp giữa Mặt trận Tổ quốc Việt Nam với Tòa án nhân dân”, Tạp chí Tòa án nhân dân.
Nguyễn Văn Pha (2020), “Quan hệ phối hợp giữa Ủy ban Mặt trận Tổ quốc Việt Nam với Viện Kiểm sát nhân dân”, Tạp chí Kiểm sát.
Nguyễn Văn Pha (2020), “Một số vấn đề về hoàn thiện pháp luật về Mặt trận Tổ quốc Việt Nam tham gia công tác bầu cử đại biểu Quốc hội và đại biểu Hội đồng nhân dân”, Tạp chí Mặt trận.
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO
Đào Duy Anh (2003), Từ điển Hán-Việt, NXB Văn hoá thông tin, Hà Nội.
Ban Thường trực Ủy ban Trung ương Mặt trận Tổ quốc Việt Nam (1998), Thông tri hướng dẫn tổ chức hội nghị nhân dân lấy ý kiến nhận xét người được giới thiệu tuyển chọn làm Thẩm phán Tòa án nhân dân (số 02/TTr-MTTW ngày 10/6/1998), Hà Nội
Ban Thường trực Ủy ban Trung ương Mặt trận Tổ quốc Việt Nam (2009), Báo cáo tổng kết công tác tham gia thực hiện Nghị quyết 45/1008/NQ-UBTVQH 10 và Pháp lệnh số 34/2007/PL -UBTVQH về việc thực hiện Quy chế dân chủ ở xã, phường, thị trấn của Mặt trận Tổ quốc Việt Nam (số 423/BC-MTTW-BTT, ngày 29/6/2009), Hà Nội.
Ban Thường trực Ủy ban Trung ương Mặt trận Tổ quốc Việt Nam (2013), Kế hoạch số 317/KH-MTTW-BTT ngày 02/01/2013 của Ban Thường trực Ủy ban Trung ương Mặt trận Tổ quốc Việt Nam, Hà Nội.
Ban Thường trực Ủy ban Trung ương Mặt trận Tổ quốc Việt Nam (2018), Kỷ yếu Hội thảo khoa học Mặt trận Tổ quốc Việt Nam với nhiệm vụ tham gia xây dựng chính sách, pháp luật, Hà Nội.
Ban Thường trực Ủy ban Trung ương Mặt trận Tổ quốc Việt Nam (2019), Báo cáo sơ kết 05 năm thực hiện Quyết định số 217 và Quyết định số 218-QĐ/TW ngày 12/12/2013 của Bộ Chính trị (Khóa XI) (số 714/BC-MTTW-BTT ngày 05/3/2019), Hà Nội.
Ban Thường trực Ủy ban Trung ương Mặt trận Tổ quốc Việt Nam (2019), Báo cáo sơ kết 05 năm thi hành Hiến pháp năm 2013 của Mặt trận Tổ quốc Việt Nam, (số 763/BC-MTTW-BTT ngày 18/6/2019), Hà Nội.
Ban Thường trực Ủy ban Trung ương Mặt trận Tổ quốc Việt Nam (2020), Báo cáo kết quả công tác giám sát và phản biện xã hội năm 2019 của Mặt trận Tổ quốc Việt Nam (số 77/BC-MTTW-BTT ngày 08/01/20200), Hà Nội.
Báo điện tử Đảng Cộng sản Việt Nam (2007), "Chế ước quyền lực", tại trang http:/www. cpv.org.vn, [truy cập ngày 12/9/2019].
Hoàng Chí Bảo (2002), "Từ những đặc điểm của thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội đến việc xây dựng nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa hiện nay", Tạp chí Triết học, (138).
Bộ Chính trị (2005), Nghị quyết số 48-NQ/TW, ngày 24/5/2005 về chiến lược xây dựng và hoàn thiện hệ thống pháp luật Việt Nam đến năm 2010, định hướng đến năm 2020, Hà Nội.
Bộ Chính trị (2009), Kết luận số 62-KL/TW ngày 08/12/2009 của Bộ Chính trị về tiếp tục đổi mới nội dung, phương thức hoạt động của Mặt trận Tổ quốc Việt Nam và các đoàn thể chính trị - xã hội, Hà Nội.
Bộ Chính trị (2013), Quyết định số 217-QĐ/TW ngày 12/12/2013 ban hành Quy chế giám sát và phản biện xã hội của Mặt trận Tổ quốc Việt Nam và các đoàn thể chính trị - xã hội, Hà Nội.
Bộ Chính trị (2013), Quyết định số 218-QĐ/TW ngày 12/12/2013 ban hành Quy định về việc Mặt trận Tổ quốc Việt Nam, các đoàn thể chính trị - xã hội và nhân dân tham gia góp ý xây dựng Đảng, xây dựng chính quyền, Hà Nội.
Bộ Chính trị (2016), Kết luận số 01-KL/TW ngày 04/4/2016 của Bộ Chính trị Về việc tiếp tục thực hiện Nghị quyết số 48-NQ/TW của Bộ Chính trị khóa IX, Hà Nội.
Bộ Thông tin và Truyền thông (2009), 40 năm học tập và thực hiện Di chúc Bác Hồ, NXB Thông tin và Truyền thông, Hà Nội.
Bộ Tư pháp, Học viện Khoa học pháp lý (2006), Từ điển luật học, NXB Từ điển - NXB Tư pháp, Hà Nội.
Nguyễn Cảnh Chất (biên dịch) (2005), Hành chính công và quản lý hiệu quả của Chính phủ, NXB Lao động xã hội, Hà Nội.
Chính phủ (2018), Tờ trình về dự án Luật Đặc xá (sửa đổi) (số 162/TTr-CP, ngày 09/5/2018), Hà Nội.
Chính phủ - Ủy ban Trung ương Mặt trận Tổ quốc Việt Nam (2008), Nghị quyết liên tịch ban hành Quy chế phối hợp giữa Chính phủ và Ủy ban Trung ương Mặt trận Tổ quốc Việt Nam (số 19/2008/NQLT/CP-UBTWMTTQVN ngày 22/8/2008), Hà Nội.
Chủ tịch nước - Đoàn Chủ tịch Ủy ban Trung ương Mặt trận Tổ quốc Việt Nam (2004), Quy chế phối hợp công tác giữa Chủ tịch nước và Đoàn Chủ tịch Ủy ban Trung ương Mặt trận Tổ quốc Việt Nam (số 01/2004/QC/CTN - MTTQVN, ngày 09/01/2004), Hà Nội.
Nguyễn Đăng Dung (2005), Sự hạn chế quyền lực nhà nước, NXB Đại học quốc gia, Hà Nội.
Nguyễn Đăng Dung (2006), Nhà nước và trách nhiệm của nhà nước, NXB Pháp lý, Hà Nội.
Nguyễn Đăng Dung, Nguyễn Đăng Duy (2017), "Chính phủ kiến tạo và những thử thách", Tạp chí Nghiên cứu lập pháp, (336).
Đỗ Tiến Dũng (2018), "Ban hành Luật Chủ tịch nước: nhìn nhận từ lý thuyết và thực tế", Tạp chí Nghiên cứu lập pháp, (5).
Nguyễn Quang Du (Chủ biên) (2009), Phát huy sức mạnh đại đoàn kết toàn dân tộc, nâng cao vị trí, vai trò Mặt trận Tổ quốc Việt Nam trong thời kỳ đổi mới, hội nhập quốc tế, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.
Ngô Văn Dụ, Hồng Hà, Trần Xuân Giá (2006), Tìm hiểu một số thuật ngữ trong văn kiện Đại hội X của Đảng, NXB Chính trị quốc gia, Hà Nội.
Đảng Cộng sản Việt Nam (1986, 1991), Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VI, lần thứ VII, NXB Sự thật, Hà Nội.
Đảng Cộng sản Việt Nam (1991), Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội, NXB Sự thật, Hà Nội.
Đảng Cộng sản Việt Nam (1996), Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VIII, NXB Chính trị quốc gia, Hà Nội.
Đảng Cộng sản Việt Nam (1997), Văn kiện Hội nghị lần thứ ba Ban Chấp hành Trung ương khóa VIII, NXB Chính trị quốc gia, Hà Nội.
Đảng Cộng sản Việt Nam (2001), Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ IX, NXB Chính trị quốc gia, Hà Nội.
Đảng Cộng sản Việt Nam (2006), Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ X, NXB Chính trị quốc gia, Hà Nội.
Đảng Cộng sản Việt Nam (2007), Văn kiện Hội nghị lần thức năm Ban Chấp hành trung ương khóa IX, NXB Chính trị quốc gia, Hà Nội.
Đảng Cộng sản Việt Nam (2011), Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XI, NXB Chính trị quốc gia, Hà Nội.
Đảng Cộng sản Việt Nam (2011), Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội (bổ sung, phát triển năm 2011), NXB Chính trị quốc gia, Hà Nội.
Đảng Cộng sản Việt Nam (2017), Nghị quyết số 18-NQ/TW ngày 25/10/2017 Hội nghị lần thứ sáu Ban Chấp hành Trung ương khóa XII "Một số vấn đề về tiếp tục đổi mới, sắp xếp tổ chức bộ máy của hệ thống chính trị, tinh gọn, hoạt động hiệu lực, hiệu quả", Hà Nội.
Đảng đoàn Mặt trận Tổ quốc Việt Nam (2019), Báo cáo tổng kết 15 năm Mặt trận Tổ quốc Việt Nam thực hiện Nghị quyết số 48-NQ/TW của Bộ Chính trị về Chiến lược xây dựng và hoàn thiện hệ thống pháp luật đến năm 2010, định hướng đến năm 2020 (số 149/BC-MTTW-ĐĐ, ngày 23/10/2019), Hà Nội.
Đại học Luật Hà Nội (2010), Giáo trình Lý luận nhà nước và pháp luật, NXB Nhân dân, Hà Nội.
Lưu Văn Đạt (2006), "Tăng cường hoạt động giám sát của Mặt trận Tổ quốc đối với hoạt động của cơ quan nhà nước, cán bộ, công chức", Tạp chí Mặt trận, (31).
Lê Văn Đính “Hiệp hội nhân dân trong hệ thống chính trị ở Singapore”, (https://dised.danang.gov.vn/LinkClick.aspx?fileticket=dwJ%2BT3yoKZM%3D&tabid=70)
Đặng Quang Định (2016), "Quan điểm của Đảng về phát huy sức mạnh đại đoàn kết dân tộc trong quá trình phát triển đất nước", Tạp chí Thông tin khoa học lý luận chính trị, (6).
Nguyễn Minh Đoan (2008), Vai trò của pháp luật trong đời sống xã hội, NXB Chính trị quốc gia, Hà Nội.
Nguyễn Minh Đoan (2019), "Tiếp tục đổi mới tư duy pháp lý về kiểm soát quyền lực chính trị, quyền lực nhà nước ở nước ta", Tạp chí Nghiên cứu lập pháp, (12).
Đoàn Chủ tịch Ủy ban Trung ương Mặt trận Tổ quốc Việt Nam (2018), Báo cáo tổng hợp ý kiến, kiến nghị của cử tri và Nhân dân (Tại phiên khai mạc các kỳ họp Quốc hội khóa XII, XIII, XIV), Hà Nội.
Đoàn Chủ tịch Ủy ban Trung ương Mặt trận Tổ quốc Việt Nam (2018), Báo cáo số 627/BC-MTTW-ĐCT ngày 21/10/2018 kết quả giám sát của Mặt trận Tổ quốc Việt Nam từ sau kỳ họp thứ 5 đến kỳ họp thứ 6 Quốc hội khóa XIV, Hà Nội.
Đoàn khảo sát Trung Quốc khảo sát về văn minh tinh thần Singapore (1997), Văn minh tinh thần Singapore, NXB Chính trị quốc gia, Hà Nội.
Nguyễn Văn Động (1996), Học thuyết về nhà nước pháp quyền - Lịch sử và hiện đại, Tạp chí Luật học, (4).
Nguyễn Văn Động (2006), Các quyền Hiến định về chính trị của công dân Việt Nam, NXB Tư pháp, Hà Nội.
Bùi Xuân Đức (2009), "Vai trò giám sát của Mặt trận đối với Ủy ban nhân dân huyện, quận, phường sẽ ra sao khi không còn Hội đồng nhân dân", Tạp chí Mặt trận, (63).
Trần Ngọc Đường, Chu Văn Thành (1994), Mối quan hệ pháp lý giữa cá nhân công dân với nhà nước, NXB Chính trị quốc gia, Hà Nội.
Trần Ngọc Đường (2004), Quyền con người, quyền công dân trong Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam, NXB Chính trị quốc gia, Hà Nội.
Trần Ngọc Đường (2008), "Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam với quyền được thông tin", Tạp chí Nghiên cứu lập pháp, (112).
Trần Ngọc Đường (2016), "Tiếp tục xây dựng và hoàn thiện cơ chế kiểm soát quyền lực nhà nước ở nước ta", Tạp chí Cộng sản, (2).
Trần Ngọc Đường (2019), "Đổi mới quy trình lập pháp hiện hành theo Hiến pháp năm 2013", Tạp chí Nghiên cứu lập pháp, (13).
Nguyễn Ngọc Giao (2006), "Bàn về xã hội dân sự", Tạp chí Nhà nước và pháp luật, (30).
Trần Hậu (2009), "Góp ý tìm hiểu về PBXH", Tạp chí Lý luận chính trị, (36).
Trần Đình Hoan (Chủ biên) (2008), Quan điểm và nguyên tắc đổi mới HTCT ở Việt Nam giai đoạn 2005 - 2020, NXB Chính trị quốc gia, Hà Nội.
Học viện Chính trị - Hành chính quốc gia Hồ Chí Minh, Viện Nhà nước và pháp luật (2009), Tư tưởng Hồ Chí Minh về pháp luật, pháp chế và sự vận dụng trong xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa, NXB Lý luận chính trị, Hà Nội.
Học viện Chính trị Quốc gia Hồ Chí Minh (2014), Giáo trình cao cấp lý luận Chính trị, tập 11 - Nhà nước và pháp luật, NXB Lý luận chính trị, Hà Nội.
Học viện Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh (2018), Giáo trình cao cấp lý luận chính trị Nhà nước và pháp luật Việt Nam, NXB Lý luận chính trị,
Hà Nội.
Hội đồng bầu cử quốc gia (2016), Báo cáo tổng kết cuộc bầu cử đại biểu Quốc hội khóa XIV và đại biểu Hội đồng nhân dân các cấp nhiệm kỳ 2016-2021, (số 695/BC-HĐBCQG, ngày 19/7/2016), Hà Nội.
Hoàng Minh Hội (2018), "Thể chế pháp lý giám sát của nhân dân đối với cơ quan hành chính nhà nước hiện nay - thực trạng và giải pháp", Tạp chí Nghiên cứu lập pháp, (10).
Hoàng Minh Hội (2018), "Giám sát của Mặt trận Tổ quốc Việt Nam và các tổ chức chính trị - xã hội trong cơ chế kiểm soát quyền lực nhà nước - thực trạng và một số kiến nghị", Tạp chí Nghiên cứu lập pháp, (21).
Quách Sĩ Hùng (2009), "Vai trò của Mặt trận và các tổ chức chính trị - xã hội trong kiểm soát quyền lực nhà nước", Tạp chí Mặt trận, (38).
Quách Sĩ Hùng (2009), “Vấn đề xây dựng và hoàn thiện pháp luật dân chủ ở nước ta hiện nay”, Tạp chí Dân chủ pháp luật, (6).
C.Mác và Ph.Ăngghen (1995), Toàn tập, tập 1, NXB Chính trị quốc gia, Hà Nội.
C.Mác và Ph.Ăngghen (1995), Toàn tập, tập 4, NXB Chính trị quốc gia
Hà Nội.
Nguyễn Thị Lan (2007), Mặt trận Tổ quốc Việt Nam với việc xây dựng sự đồng thuận xã hội ở nước ta hiện nay, Luận án tiến sĩ Chính trị học,
Hà Nội.
Đàm Văn Lợi (2007), “Hiệp hội nhân dân Singapore hoạt động đoàn kết các tầng lớp nhân dân”, Tạp chí Mặt trận số 42 (4/2007).
Đặng Đình Luyến (2018), "Vai trò, trách nhiệm của Chính phủ trong việc soạn thảo, chính lý, hoàn thiện dự thảo luật, pháp lệnh", Tạp chí Nghiên cứu lập pháp, (7).
Nguyễn Văn Mạnh (1995), Xây dựng và hoàn thiện đảm bảo pháp lý thực hiện quyền con người trong điều kiện đổi mới ở nước ta hiện nay, Luận án Phó tiến sĩ, Hà Nội.
Nguyễn Văn Mạnh (2008), Quá trình nhận thức và phát triển tư tưởng về nhà nước pháp quyền trong văn kiện của Đảng Cộng sản Việt Nam thời kỳ đổi mới, Đảng Cộng sản Việt Nam trong tiến trình lãnh đạo sự nghiệp đổi mới, NXB Lý luận chính trị, Hà Nội.
Trần Thị Mai (2016), "Đổi mới phương thức lãnh đạo của Đảng để xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa", Tạp chí Mặt trận, (6).
Mặt trận Tổ quốc Việt Nam (2014), Điều lệ Mặt trận Tổ quốc Việt Nam, NXB Chính trị quốc gia, Hà Nội.
Mặt trận Tổ quốc Việt Nam (2018), Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc Mặt trận Tổ quốc Việt Nam lần thứ V, VI, VII, VIII, IX, Hà Nội.
Hồ Chí Minh (1995), Toàn tập, các tập 3, 7, 9, NXB Chính trị quốc gia, Hà Nội.
Hồ Chí Minh (2000), Toàn tập, tập 11, NXB Chính trị quốc gia, Hà Nội.
Montesquieu (2006), Bàn về tinh thần pháp luật, NXB Lý luận chính trị, Hà Nội.
Lê Hữu Nghĩa, Hoàng Chí Bảo, Bùi Đình Bôn (Đồng chủ biên) (2008), Đổi mới quan hệ giữa Đảng, Nhà nước và các tổ chức chính trị - xã hội trong hệ thống chính trị Việt Nam, NXB Chính trị quốc gia, Hà Nội.
Nhà xuất bản Văn hóa thông tin (1999), Đại từ điển Tiếng Việt, Hà Nội.
Lê Mậu Nhiệm (2020) “Tăng cường quan hệ hữu nghị giữa Mặt trận Tổ quốc Việt Nam và Chính hiệp toàn quốc Trung Quốc”, Tạp chí Mặt trận, số 170 (10/2017)
Phạm Văn Nhuận (2010), "Để Đảng thực sự là hạt nhân lãnh đạo xây dựng nền dân chủ xã hội chủ nghĩa ở nước ta hiện nay", Tạp chí Lý luận chính trị, (8).
Nguyễn Thị Hiền Oanh (2005), Vai trò Mặt trận Tổ quốc Việt Nam đối với việc thực hiện quyền làm chủ của nhân dân ở nước ta hiện nay, NXB Lý luận chính trị, Hà Nội.
Lê Khả Phiêu (2014), “Phải làm gì để nhân dân, Mặt trận giám sát được hoạt động của Đảng và Nhà nước”, Tạp chí Mặt trận, (9), tr.4.
Đặng Đình Phú, Trần Duy Hưng (Đồng chủ biên) (2008), Công tác giám sát trong Đảng giai đoạn hiện nay, NXB Lý luận chính trị, Hà Nội.
Phùng Hữu Phú, Lê Hữu Nghĩa, Vũ Văn Hiến, Nguyễn Viết Thông (Đồng chủ biên) (2016), Một số vấn đề lý luận - thực tiễn về chủ nghĩa xã hội và con đường đi lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam qua 30 năm đổi mới, NXB Chính trị quốc gia - Sự thật, Hà Nội.
Thang Văn Phúc, Nguyễn Minh Phương (chủ biên) (2007), Đổi mới tổ chức và hoạt động của Mặt trận Tổ quốc Việt Nam và các tổ chức chính trị xã hội ở nước ta hiện nay, NXB Chính trị quốc gia, Hà Nội.
Nguyễn Minh Phương (2009), "Đổi mới nhận thức về vai trò, chức năng của Mặt trận Tổ quốc Việt Nam hiện nay", Tạp chí Mặt trận, (67).
Nguyễn Văn Quân (2018), "Vai trò của tổ chức xã hội trong quản trị nhà nước hiện nay", Tạp chí Luật học, (7).
Quốc hội (1988), Bộ luật Tố tụng hình sự năm 1988, Hà Nội.
Quốc hội (2003), Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2003, Hà Nội
Quốc hội (1995), Bộ luật Tố tụng hình sự năm 1995, Hà Nội.
Quốc hội (2015), Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015, Hà Nội.
Quốc hội (2002), Hiến pháp năm 1946, năm 1959, năm 1980, năm 1992 và Nghị quyết về việc bổ sung sửa đổi một số điều của Hiến pháp năm 1992, NXB Chính trị quốc gia, Hà Nội.
Quốc hội (2013), Hiến pháp năm 2013, NXB Chính trị quốc gia, Hà Nội.
Quốc hội (2015), Luật Ban hành văn bản quy phạm pháp luật, NXB Chính trị quốc gia, Hà Nội.
Quốc hội (2015), Luật Bầu cử đại biểu Quốc hội và đại biểu Hội đồng nhân dân, NXB Chính trị quốc gia, Hà Nội.
Quốc hội (2008), Luật Đặc xá, Hà Nội.
Quốc hội (2019), Luật Đặc xá (sửa đổi), Hà Nội.
Quốc hội (2015), Luật Hoạt động giám sát của Quốc hội và Hội đồng nhân dân, Hà Nội.
Quốc hội (2007), Luật Mặt trận Tổ quốc Việt Nam, NXB Chính trị quốc gia, Hà Nội.
Quốc hội (2015), Luật Mặt trận Tổ quốc Việt Nam, NXB Chính trị quốc gia, Hà Nội.
Quốc hội (2020), Luật Sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật Ban hành văn bản quy phạm pháp luật, Hà Nội.
Quốc hội (2015), Luật Tổ chức Chính phủ năm 2015, Hà Nội.
Quốc hội (2015), Luật Tổ chức Quốc hội năm 2015, Hà Nội.
Quốc hội (2014), Luật Tổ chức Tòa án nhân dân năm 2014, Hà Nội.
Quốc hội (2014), Luật Tổ chức Viện kiểm sát nhân dân năm 2014, Hà Nội
Quốc hội nước Cộng hòa dân chủ nhân dân Lào (2009), Luật về Mặt trận Lào Xây dựng đất nước, Website của Quốc hội nước CHDCND Lào.
Rousseau J.J. (2006), Bàn về khế ước xã hội, NXB Lý luận chính trị, Hà Nội
Hồ Tấn Sáng (2016), "Bàn thêm về cơ chế vận hành của Hệ thống chính trị ở nước ta", Tạp chí Lý luận chính trị, (2).
Phan Xuân Sơn (Chủ biên) (2010), Các chuyên đề bài giảng chính trị học, NXB Chính trị - Hành chính, Hà Nội.
Phan Xuân Sơn (2002), Các đoàn thể nhân dân với việc đảm bảo dân chủ ở cơ sở hiện nay, NXB Chính trị quốc gia, Hà Nội.
Tạp chí Nghiên cứu lập pháp (2014), Hiến pháp nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam - nền tảng chính trị, pháp lý cho công cuộc đổi mới toàn diện đất nước trong thời kỳ mới, NXB Lao động xã hội, Hà Nội.
Đặng Đình Tân (Chủ biên) (2006), Nhân dân giám sát các cơ quan dân cử ở Việt Nam trong thời kỳ đổi mới, NXB Chính trị quốc gia, Hà Nội.
Đặng Đình Tân (2008), "Về giám sát và PBXH của Mặt trận Tổ quốc trong giai đoạn hiện nay", Tạp chí Mặt trận, (33).
Tạ Ngọc Tấn (2006), "Giám sát xã hội như một giải pháp phòng, chống tham nhũng, lãng phí", Tạp chí Cộng sản, (16).
Thái Vĩnh Thắng (2009), "Quyền tiếp cận thông tin - Điều kiện thực hiện các quyền con người và quyền công dân", Tạp chí Nghiên cứu lập pháp, (154).
Trịnh Đức Thảo (2006), Kiện toàn bộ máy Quốc hội, Quốc hội Việt Nam những vấn đề lý luận và thực tiễn, NXB Tư pháp, Hà Nội.
Trịnh Đức Thảo (2017), "Các điều kiện bảo đảm thực hiện cơ chế kiểm soát quyền lực nhà nước", Tạp chí Nghiên cứu lập pháp, (24).
Lê Minh Thông (Chủ biên) (2007), Cơ sở lý luận về tổ chức hoạt động của hệ thống chính trị trong quá trình xây dựng chủ nghĩa xã hội Việt Nam, NXB Chính trị quốc gia, Hà Nội.
Tòa án nhân dân tối cao (2004), Thông tư liên tịch số 01/2004/TTLT-TANDTC-UBTWMTTQVN ngày 01-03-2004 của Tòa án nhân dân tối cao - Ủy ban Trung ương Mặt trận Tổ quốc Việt Nam hướng dẫn về việc chuẩn bị nhân sự và giới thiệu bầu Hội thẩm Tòa án nhân dân, Hà Nội.
Tòa án nhân dân tối cao (1961) Luật lệ về Tư pháp, tập 3, Hà Nội.
Lê Truyền (2008), "Mấy ý kiến về sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật Mặt trận Tổ quốc Việt Nam", Tạp chí Mặt trận, (26).
Đỗ Quang Tuấn (Chủ biên) (2006), Đổi mới phương thức lãnh đạo của Đảng đối với Mặt trận Tổ quốc và các đoàn thể nhân dân trong thời kỳ mới, NXB Chính trị quốc gia, Hà Nội.
Nguyễn Túc (2019), "Những thay đổi về vị trí, vai trò của Mặt trận Tổ quốc Việt Nam qua các kỳ Đại hội", Tạp chí Mặt trận, (185+186).
Từ điển bách khoa Việt Nam (2005), tập 4, NXB Từ điển bách khoa, Hà Nội.
Từ điển Chủ nghĩa cộng sản khoa học (1986), NXB Tiến bộ, Mátxcơva.
Đinh Xuân Tý (2016), "Xây dựng hệ thống chính trị theo quan điểm của Đại hội XII của Đảng", Tạp chí Lý luận chính trị, (6).
Đào Trí Úc (Chủ biên) (2009), Cơ chế giám sát của nhân dân đối với bộ máy Đảng và Nhà nước, một số vấn đề lý luận và thực tiễn, NXB Chính trị quốc gia, Hà Nội.
Đào Trí Úc, Võ Khánh Vinh (Đồng chủ biên) (2003), Giám sát và cơ chế giám sát việc thực hiện quyền lực nhà nước ở nước ta hiện nay, NXB Công an nhân dân, Hà Nội.
Đào Trí Úc (Chủ biên) (2007), Mô hình tổ chức và hoạt động của Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam, NXB Pháp lý, Hà Nội.
Đào Trí Úc (2003), Quan niệm về giám sát thực hiện quyền lực nhà nước và cơ chế thực hiện giám sát, Tạp chí Nhà nước và pháp luật, (6).
Đào Trí Úc (Chủ biên) (2006), Xây dựng cơ chế pháp lý bảo đảm sự kiểm tra, giám sát của nhân dân đối với hoạt động của bộ máy Đảng, Nhà nước và các thiết chế tổ chức trong hệ thống chính trị, Báo cáo tổng hợp Đề tài KX10-07, Chương trình nghiên cứu khoa học cấp Nhà nước, Hà Nội.
Đào Trí Úc, Phạm Hữu Nghị (Đồng chủ biên) (2009), Xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam trong giai đoạn hiện nay - Một số vấn đề lý luận và thực tiễn, NXB Từ điển bách khoa, Hà Nội.
Ủy ban Thường vụ Quốc hội (2016), Nghị quyết số 1213/2016/UBTVQH13, ngày 13/6/2016 ban hành “Quy chế tổ chức và hoạt động của Đoàn Hội thẩm”, Hà Nội.
Ủy ban Thường vụ Quốc hội, Đoàn Chủ tịch Ủy ban Trung ương Mặt trận Tổ quốc Việt Nam (2003), Nghị quyết liên tịch giữa Ủy ban Thường vụ Quốc hội và Đoàn Chủ tịch Ủy ban Trung ương Mặt trận Tổ quốc Việt Nam (số 01/2003/UBTVQH-MTTQVN ngày 28/3/2003), Hà Nội.
Ủy ban Thường vụ Quốc hội, Đoàn Chủ tịch Ủy ban Trung ương Mặt trận Tổ quốc Việt Nam (2012), Nghị quyết liên tịch giữa Ủy ban Thường vụ Quốc hội và Đoàn Chủ tịch Ủy ban Trung ương Mặt trận Tổ quốc Việt Nam (số 525/2012/NQLT/ UBTVQH13-ĐCTUBTWMTTQVN), Hà Nội.
Ủy ban Thường vụ Quốc hội, Chính phủ, Đoàn Chủ tịch Ủy ban Trung ương Mặt trận Tổ quốc Việt Nam (2017), Nghị quyết liên tịch của Ủy ban Thường vụ Quốc hội, Chính phủ và Đoàn Chủ tịch Ủy ban Trung ương Mặt trận Tổ quốc Việt Nam quy định chi tiết các hình thức giám sát, phản biện xã hội của Mặt trận Tổ quốc Việt Nam (số 403/2017/NQLT-UBTVQH14-CP-ĐCT UBTWMTTQVN), Hà Nội.
Ủy ban Thường vụ Quốc hội, Đoàn Chủ tịch Ủy ban Trung ương Mặt trận Tổ quốc Việt Nam (2018), Báo cáo tổng kết 15 năm thực hiện Quy chế phối hợp công tác giữa Ủy ban Thường vụ Quốc hội và Đoàn Chủ tịch Ủy ban Trung ương Mặt trận Tổ quốc Việt Nam (số 539/BC-UBTVQH-MTTW, ngày 14/3/2018), Hà Nội.
Ủy ban Thường vụ Quốc hội, Đoàn Chủ tịch Ủy ban Trung ương Mặt trận Tổ quốc Việt Nam (2018), Quy chế phối hợp công tác của Ủy ban Thường vụ Quốc hội và Đoàn Chủ tịch Ủy ban Trung ương Mặt trận Tổ quốc Việt Nam (số 02/QC-UBTVQH14-MTTQVN, ngày 14/3/2018), Hà Nội.
Ủy ban Thường vụ Quốc hội, Đoàn Chủ tịch Ủy ban Trung ương Mặt trận Tổ quốc Việt Nam (2019), Báo cáo kết quả thực hiện Quy chế phối hợp công tác giữa Ủy ban Thường vụ Quốc hội và Đoàn Chủ tịch Ủy ban Trung ương Mặt trận Tổ quốc Việt Nam năm 2018, trọng tâm phối hợp công tác năm 2019 (số 741/BC-UBTVQH-MTTW, ngày 24/4/2019), Hà Nội.
Ủy ban Trung ương Mặt trận Tổ quốc Việt Nam (2019), Báo cáo chính trị của Ủy ban Trung ương Mặt trận Tổ quốc Việt Nam khóa VIII, nhiệm kỳ 2014 - 2019 trình Đại hội Mặt trận Tổ quốc Việt Nam khóa IX, Hà Nội.
Ủy ban Trung ương Mặt trận Tổ quốc Việt Nam (2020), “Báo cáo kết quả thực hiện Chiến lược hợp tác kinh tế, văn hóa, giáo dục, khoa học - kỹ thuật giữa Việt Nam và Lào giai đoạn 2011-2020 và Hiệp định hợp tác Việt Nam - Lào giai đoạn 2016 - 2020” (số 155/BC-MTTW-BTT, ngày 15/6/2020), Hà Nội.
Ủy ban Trung ương Mặt trận Tổ quốc Việt Nam (2007), Báo cáo tổng kết công tác Mặt trận tham gia cuộc bầu cử đại biểu Quốc hội khóa XII (247/BC-MTTW, ngày 25/6/2007), Hà Nội.
Ủy ban Trung ương Mặt trận Tổ quốc Việt Nam (2011), Báo cáo tổng kết công tác Mặt trận tham gia cuộc bầu cử đại biểu Quốc hội khóa XIII và đại biểu Hội đồng nhân dân các cấp nhiệm kỳ 2011 - 2016 (Số: 168/BC-MTTW-BTT, ngày 01/7/2011), Hà Nội.
Ủy ban Trung ương Mặt trận Tổ quốc Việt Nam (2016), Báo cáo tổng kết công tác Mặt trận tham gia cuộc bầu cử đại biểu Quốc hội khóa XIV và đại biểu Hội đồng nhân dân các cấp nhiệm kỳ 2016 - 2021 (Số: 259/BC-MTTW-BTT, ngày 08/7/2016), Hà Nội.
Ủy ban Trung ương Mặt trận Tổ quốc Việt Nam (2018), Các giải pháp nâng cao chất lượng phản biện xã hội của Mặt trận Tổ quốc Việt Nam, Báo cáo tổng hợp đề tài khoa học cấp bộ, Hà Nội.
Ủy ban Trung ương Mặt trận Tổ quốc Việt Nam (2013), Hệ thống văn bản của Đảng và Nhà nước về đại đoàn kết toàn dân tộc và Mặt trận Tổ quốc Việt Nam, NXB Chính trị quốc gia, Hà Nội.
Ủy ban Trung ương Mặt trận Tổ quốc Việt Nam, Trung tâm Công tác lý luận (2008), Kết hợp chế độ tập trung dân chủ trong Đảng với chế độ hiệp thương dân chủ trong tổ chức Mặt trận, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.
Ủy ban Trung ương Mặt trận Tổ quốc Việt Nam (2011), Mặt trận dân tộc thống nhất Việt Nam những chặng đường vẻ vang, NXB Chính trị quốc gia, Hà Nội.
Ủy ban Trung ương Mặt trận Tổ quốc Việt Nam (1998), Một số vấn đề về tổ chức bộ máy và phương thức hoạt động của Hội nghị Hiệp thương chính trị nhân dân Trung Quốc, Hà Nội.
Ủy ban Trung ương Mặt trận Tổ quốc Việt Nam (2009), Một số vấn đề lý luận và thực tiễn công tác Mặt trận, NXB Chính trị quốc gia, Hà Nội.
Ủy ban Trung ương Mặt trận Tổ quốc Việt Nam (2020), Nâng cao chất lượng hoạt động của Ủy ban Trung ương Mặt trận Tổ quốc Việt Nam trong xây dựng pháp luật, Kỷ yếu đề tài khoa học cấp bộ, Hà Nội.
Ủy ban Trung ương Mặt trận Tổ quốc Việt Nam (1998), Thông tri số 02/MTTW ngày 10/6/1998 hướng dẫn tổ chức hội nghị nhân dân lấy ý kiến nhận xét người được giới thiệu tuyển chọn làm Thẩm phán Tòa án nhân dân, Hà Nội.
Ủy ban Trung ương Mặt trận Tổ quốc Việt Nam (2017), Thực trạng và giải pháp nâng cao hiệu quả công tác giám sát xã hội của Mặt trận Tổ quốc Việt Nam, Báo cáo tổng hợp đề tài khoa học cấp bộ, Hà Nội.
Ủy ban Trung ương Mặt trận Tổ quốc Việt Nam (2019), Thực trạng và giải pháp xây dựng đội ngũ cán bộ Mặt trận cấp cơ sở trong giai đoạn hiện nay, Kỷ yếu đề tài khoa học cấp bộ, Hà Nội.
Ủy ban Trung ương Mặt trận Tổ quốc Việt Nam (2016), Tổng kết thực tiễn qua 30 năm đổi mới (1986 - 2016), Hà Nội.
Ủy ban Trung ương Mặt trận Tổ quốc Việt Nam (2012), Tổng kết việc thi hành và một số kiến nghị sửa đổi, bổ sung Hiến pháp năm 1992 của Mặt trận Tổ quốc Việt Nam, Kỷ yếu Hội thảo khoa học, Hà Nội.
Ủy ban Trung ương Mặt trận Tổ quốc Việt Nam (2010), Tổng quan 10 năm thực hiện và những đề xuất sửa đổi, bổ sung Luật Mặt trận Tổ quốc Việt Nam, Kỷ yếu đề tài khoa học cấp bộ, Hà Nội.
Văn phòng Chủ tịch nước (2014), Công văn số 241/VPCTN-PL, ngày 27/2/2014 của Văn phòng Chủ tịch nước, Hà Nội.
Văn phòng Chính phủ, Ban Thường trực Ủy ban Trung ương Mặt trận Tổ quốc Việt Nam (2018), Báo cáo Kết quả thực hiện Quy chế phối hợp công tác giữa Thủ tướng Chính phủ và Ủy ban Trung ương Mặt trận Tổ quốc Việt Nam năm 2018, trọng tâm phối hợp công tác năm 2019, Hà Nội.
Văn phòng Chủ tịch nước, Ban Thường trực Ủy ban Trung ương Mặt trận Tổ quốc Việt Nam (2018), Báo cáo Kết quả thực hiện Quy chế phối hợp công tác giữa Chủ tịch nước và Đoàn Chủ tịch Ủy ban Trung ương Mặt trận Tổ quốc Việt Nam năm 2018, trọng tâm phối hợp công tác năm 2019, Hà Nội.
Viện kiểm sát nhân dân tối cao - Ủy ban Trung ương Mặt trận Tổ quốc Việt Nam (2014), Quy chế phối hợp giữa Ủy ban Trung ương Mặt trận Tổ quốc Việt Nam và Viện kiểm sát nhân dân tối cao, Hà Nội.
Viện Nghiên cứu lập pháp của Ủy ban Thường vụ Quốc hội (2017), Cơ sở lý luận và thực tiễn xây dựng và hoàn thiện cơ chế giám sát, phản biện xã hội của Mặt trận Tổ quốc Việt Nam ở nước ta hiện nay, Kỷ yếu đề tài khoa học cấp bộ, Hà Nội.
Viện Ngôn ngữ học (1993), Từ điển Anh Việt, NXB Thành phố Hồ Chí Minh.
Viện Ngôn ngữ học (1997), Từ điển Tiếng Việt, Trung tâm từ điển học, NXB Đà Nẵng.
Đàm Đức Vũ (2007), "Phát triển dân chủ xã hội chủ nghĩa và xây dựng xã hội hài hoà", Thông tin Những vấn đề lý luận, (13).
Trần Quốc Vượng (2016), “Nhiệm vụ trọng tâm của công tác kiểm tra giám sát kỷ luật Đảng trong nhiệm kỳ Đại hội XII của Đảng”, Tạp chí Mặt trận, (883), tr.8
Xi-xa-vạt Kẹo-bun-phăn (2005), “Tăng cường hơn nữa mối quan hệ đoàn kết, gắn bó anh em giữa Mặt trận Lào xây dựng đất nước và Mặt trận Tổ quốc Việt Nam”, Tạp chí Mặt trận, số 26 (12/2005).
Trịnh Thị Xuyến (2008), Kiểm soát quyền lực nhà nước - một số vấn đề lý luận và thực tiễn ở Việt Nam, NXB Chính trị quốc gia, Hà Nội.
Nguyễn Như Ý (1998), (Chủ biên), Đại từ điển Tiếng Việt, NXB Văn hóa thông tin, Hà Nội.