HỌC VIỆN CHÍNH TRỊ QUỐC GIA HỒ CHÍ MINH
--------------------
ĐÀO THỊ HOA SEN
HOàN THIệN PHáP LUậT
Về KIểM TRA SAU THÔNG QUAN ở VIệT NAM
LUẬN ÁN TIẾN SĨ
CHUYấN NGÀNH: Lí LUẬN VÀ LỊCH SỬ NHÀ NƯỚC VÀ PHÁP LUẬT
HÀ NỘI - 2017
HỌC VIỆN CHÍNH TRỊ QUỐC GIA HỒ CHÍ MINH
--------------------
ĐÀO THỊ HOA SEN
HOàN THIệN PHáP LUậT
Về KIểM TRA SAU THÔNG QUAN ở VIệT NAM
LUẬN ÁN TIẾN SĨ
CHUYấN NGÀNH: Lí LUẬN VÀ LỊCH SỬ NHÀ NƯỚC VÀ PHÁP LUẬT
Mó số: 62 38 01 01
Người hướng dẫn
172 trang |
Chia sẻ: huong20 | Ngày: 14/01/2022 | Lượt xem: 470 | Lượt tải: 0
Tóm tắt tài liệu Luận án Hoàn thiện pháp luật về kiểm tra sau thông quan ở Việt Nam, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
khoa học: GS.TS Lê Hồng Hạnh
HÀ NỘI - 2017
LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan đây là công trình nghiên cứu của
riêng tôi. Các số liệu, kết quả nêu trong luận án là trung
thực, có nguồn gốc rõ ràng và được trích dẫn đầy đủ theo
quy định.
Tác giả
Đào Thị Hoa Sen
MỤC LỤC
Trang
MỞ ĐẦU
Chương 1: TỔNG QUAN TÌNH HÌNH NGHIÊN CỨU LIÊN
QUAN ĐẾN ĐỀ TÀI VÀ NHỮNG VẤN ĐỀ ĐẶT RA CẦN TIẾP
TỤC NGHIÊN CỨU
1
8
1.1.
1.2.
Tình hình nghiên cứu liên quan đến đề tài luận án
Đánh giá chung tình hình nghiên cứu và những vấn đề đặt ra
cần giải quyết trong luận án
8
23
Chương 2: CƠ SỞ LÝ LUẬN HOÀN THIỆN PHÁP LUẬT VỀ
KIỂM TRA SAU THÔNG QUAN Ở VIỆT NAM
29
2.1.
2.2.
2.3.
Khái niệm, nội dung điều chỉnh, đặc điểm và vai trò của pháp
luật về kiểm tra sau thông quan
Các tiêu chí hoàn thiện và yếu tố ảnh hưởng đến hoàn thiện
pháp luật về kiểm tra sau thông quan
Pháp luật quốc tế và một số quốc gia về kiểm tra sau thông
quan và giá trị tham khảo đối với Việt Nam
29
49
59
Chương 3: QUÁ TRÌNH HÌNH THÀNH, PHÁT TRIỂN VÀ
THỰC TRẠNG PHÁP LUẬT VỀ KIỂM TRA SAU THÔNG
QUAN Ở VIỆT NAM
76
3.1.
3.2.
Quá trình hình thành và phát triển của pháp luật về kiểm tra sau
thông quan ở Việt Nam
Thực trạng pháp luật hiện hành về kiểm tra sau thông quan
76
87
Chương 4: QUAN ĐIỂM VÀ GIẢI PHÁP HOÀN THIỆN PHÁP
LUẬT VỀ KIỂM TRA SAU THÔNG QUAN Ở VIỆT NAM
123
4.1.
4.2.
Quan điểm hoàn thiện pháp luật về kiểm tra sau thông quan ở
Việt Nam hiện nay
Những giải pháp hoàn thiện pháp luật về kiểm tra sau thông
quan ở Việt Nam hiện nay
123
135
KẾT LUẬN 149
DANH MỤC CÁC CÔNG TRÌNH KHOA HỌC LIÊN QUAN
ĐẾN LUẬN ÁN
151
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO 152
PHỤ LỤC 164
DANH MỤC CÁC TỪ VIẾT TẮT
ASEAN : Hiệp hội các quốc gia Đông Nam Á
ASW : Cơ chế một cửa ASEAN
GATT : Hiệp định chung về thuế quan và thương mại
KTSTQ : Kiểm tra sau thông quan
NSW : Cơ chế một cửa quốc gia
PCA : Post Clearance Audit (Kiểm tra sau thông quan)
TPP : Hiệp định đối tác xuyên Thái Bình Dương
VCIS : Hệ thống thông tin tình báo Hải quan Việt Nam
VNACC : Hệ thống thông quan hàng hóa tự động
WCO : Tổ chức Hải quan thế giới
WTO : Tổ chức Thương mại thế giới
1
MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài nghiên cứu
Hội nhập kinh tế quốc tế là chủ trương nhất quán, xuyên suốt trong
chính sách đối ngoại, hợp tác quốc tế của Việt Nam trong quá trình đổi mới
đất nước. Sau 30 năm đổi mới và sau 10 năm gia nhập Tổ chức thương mại
thế giới (WTO), quá trình hội nhập của Việt Nam đã diễn ra ngày càng sâu
rộng và có tác động tích cực đến sự phát triển kinh tế - chính trị - xã hội.
Trong giai đoạn hiện nay, hội nhập kinh tế càng trở nên mạnh mẽ hơn với
việc ký kết và thực hiện các Hiệp định thương mại (FTA) thế hệ mới, không
chỉ nhằm mở cửa thị trường mà còn là bước đi quan trọng khẳng định cam kết
của Việt Nam hội nhập với khu vực và thế giới. Tiến trình này đã tác động
đến thể chế hải quan với vai trò là lực lượng quản lý nhà nước đối với hoạt
động xuất nhập khẩu. Cơ quan hải quan đứng trước yêu cầu thông quan nhanh
hàng hóa để tạo thuận lợi cho thương mại, đồng thời vẫn phải đảm bảo quản
lý chặt chẽ chính sách chế độ, chống gian lận thương mại, bảo vệ sản xuất nội
địa và không để thất thu thuế.
Cùng với tiến trình hội nhập kinh tế, Việt Nam đang thể hiện quyết tâm
đổi mới, xây dựng Chính phủ liêm chính, kiến tạo, hành động phục vụ người
dân và doanh nghiệp. Phát biểu tại Diễn đàn phát triển Việt Nam 2016 (VDF
2016), Thủ tướng Chính phủ Nguyễn Xuân Phúc khẳng định Chính phủ xây
dựng hệ thống hành chính quốc gia thống nhất, lấy sự hài lòng của người dân,
doanh nghiệp làm thước đo đánh giá hiệu lực, hiệu quả, chất lượng, công tác
quản lý nhà nước, với giải pháp tập trung cải cách thủ tục hành chính, giảm
thiểu chi phí và thời gian thực hiện thủ tục hành chính, hoàn thiện cơ chế,
chính sách pháp luật về đầu tư, kinh doanh [43]...
Những yêu cầu của hội nhập kinh tế và cải cách thủ tục hành chính đã
và đang có những tác động đòi hỏi sự hoàn thiện của thể chế hải quan hiện đại
2
mà trước hết là các quy định pháp luật về hải quan để tạo cơ chế pháp lý cho
các doanh nghiệp xuất nhập khẩu được hoạt động thuận lợi, bình đẳng, tạo
điều kiện nâng cao năng lực cạnh tranh quốc gia. Một trong những nội dung
đáp ứng đòi hỏi này là hoàn thiện pháp luật về kiểm tra sau thông quan
(KTSTQ), nhằm đảm bảo thủ tục hải quan thông thoáng tại cửa khẩu, thông
quan nhanh chóng cho hàng hóa xuất nhập khẩu và chuyển thời hiệu, mở rộng
phạm vi và đối tượng kiểm tra khi hàng hóa đã thông quan.
Pháp luật về KTSTQ ở Việt Nam được hình thành và phát triển kể từ
khi Luật Hải quan 2001 được ban hành và có hiệu lực từ 01/01/2002. Qua 15
năm thực hiện, KTSTQ đã đem lại hiệu quả tích cực cho hoạt động của
Ngành Hải quan, góp phần chống gian lận thương mại hiệu quả toàn diện hơn
mà vẫn giải phóng hàng nhanh; đồng thời, ngăn chặn tình trạng thất thu ngân
sách, truy thu hàng ngàn tỷ đồng từ công tác KTSTQ.... Tuy nhiên, pháp luật
về KTSTQ cũng đang thể hiện nhiều hạn chế cần được hoàn thiện nhằm đảm
bảo môi trường pháp lý cho Hải quan Việt Nam tổ chức và triển khai hoạt
động KTSTQ. Một số nội dung quy định của pháp luật về KTSTQ còn chưa
phù hợp với chuẩn mực pháp lý quốc tế về KTSTQ; thiếu đồng bộ giữa các
văn bản Luật, giữa văn bản luật và hệ thống văn bản hướng dẫn thi hành; còn
thiếu vắng những quy định về trách nhiệm của cán bộ công chức hải quan ở
khâu thông quan đối với những sai phạm phát hiện trong quá trình kiểm tra
sau thông quan; về các ưu đãi hải quan trong trường hợp người khai hải quan
tuân thủ tốt pháp luật, quy định về KTSTQ đối với một số loại hình liên quan
chính sách thương mại và số thuế khai báo; về KTSTQ trong thực hiện cơ chế
một cửa quốc gia và một cửa ASEAN Bên cạnh đó, việc nghiên cứu lý luận
pháp luật về KTSTQ còn nhiều hạn chế. Ở phạm vi nghiên cứu khoa học luật,
khái niệm KTSTQ cũng như pháp luật về KTSTQ còn là vấn đề mới, thiếu
các nghiên cứu chuyên sâu nên chưa hình thành được hệ thống tư duy đầy đủ,
vững chắc của pháp luật về KTSTQ.
3
Những phân tích trên cho thấy, việc nghiên cứu một cách có hệ thống,
chuyên sâu về cơ sở lý luận và thực tiễn pháp luật về KTSTQ để từ đó đưa ra
quan điểm và giải pháp hoàn thiện pháp luật có ý nghĩa cả trên phương diện
lý luận và thực tiễn. Trong điều kiện xây dựng Hải quan hiện đại, nâng cao
hiệu quả hiện lực công tác quản lý nhà nước về hải quan, đáp ứng với yêu cầu
hội nhập và tự do hóa thương mại, vấn đề này trở thành một đòi hỏi bức thiết.
Với lý do đó, tác giả lựa chọn đề tài “Hoàn thiện pháp luật về kiểm
tra sau thông quan ở Việt Nam” làm đề tài luận án tiến sĩ.
2. Mục đích, nhiệm vụ nghiên cứu của luận án
Mục đích của luận án là trên cơ sở nghiên cứu những vấn đề lý luận về
hoàn thiện pháp luật về KTSTQ, đánh giá đúng thực trạng pháp luật và mức
độ hoàn thiện pháp luật trong lĩnh vực KTSTQ ở Việt Nam, góp phần hình
thành những tri thức lý luận cũng như những luận cứ khoa học để đề xuất
quan điểm và giải pháp cho việc hoàn thiện pháp luật về KTSTQ ở Việt Nam.
Để hoàn thành được mục đích đề ra, luận án thực hiện các nhiệm vụ sau:
- Thứ nhất: Nghiên cứu làm sáng tỏ những vấn đề lý luận của pháp luật
và hoàn thiện pháp luật về KTSTQ trên các phương diện: khái niệm, nội
dung, đặc điểm, vai trò của pháp luật về KTSTQ; phân tích các tiêu chí hoàn
thiện, các yếu tố ảnh hưởng đến việc hoàn thiện pháp luật về KTSTQ; tìm
hiểu KTSTQ theo chuẩn mực quốc tế và một số nước trên thế giới để rút ra
giá trị tham khảo cho hoàn thiện pháp luật về KTSTQ ở Việt Nam. Thực hiện
nhiệm vụ này, luận án góp phần xây dựng hệ thống tư duy lý luận đầy đủ,
vững chắc về pháp luật KTSTQ.
- Thứ hai: Phân tích, đánh giá thực trạng các quy định pháp luật về
KTSTQ ở Việt Nam, tìm ra những hạn chế, bất cập cần hoàn thiện và chỉ ra
những nguyên nhân của hạn chế đó.
- Thứ ba: Đề xuất các quan điểm và giải pháp hoàn thiện pháp luật về
KTSTQ phù hợp với tiến trình cải cách hiện đại hóa ngành Hải quan, góp
phần nâng cao hiệu quả công tác quản lý nhà nước của Hải quan Việt Nam.
4
3. Đối tượng, phạm vi nghiên cứu của luận án
- Đối tượng nghiên cứu của luận án là vấn đề hoàn thiện pháp luật về
KTSTQ ở Việt Nam dưới góc độ lý luận và lịch sử nhà nước và pháp luật, bao
gồm: những vấn đề lý luận và thực trạng pháp luật về KTSTQ; các quan điểm
và giải pháp nhằm hoàn thiện pháp luật về KTSTQ ở Việt Nam.
- Phạm vi nghiên cứu: Dưới góc độ khoa học pháp lý và phù hợp với
chuyên ngành nghiên cứu, luận án tập trung nghiên cứu những vấn đề lý luận
và thực tiễn về pháp luật KTSTQ tạo cơ sở cho việc hoàn thiện pháp luật
KTSTQ ở Việt Nam trong giai đoạn hiện nay. Các vấn đề thuộc kỹ thuật
nghiệp vụ chuyên sâu trong KTSTQ, luận án chỉ đề cập ở mức độ nhất định
trong mối tương quan với các vấn đề chính mà luận án nghiên cứu.
Về thời gian, luận án nghiên cứu pháp luật về KTSTQ ở Việt Nam từ
năm 2002 đến 2016. Đây là khoảng thời gian hình thành và phát triển của
pháp luật về KTSTQ, được đánh dấu bằng sự ra đời của Luật Hải quan.
4. Cơ sở lý luận và phương pháp nghiên cứu của luận án
Luận án dựa trên cơ sở lý luận của chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ
Chí Minh về nhà nước, pháp luật; các quan điểm, định hướng của Đảng và
Nhà nước về hoàn thiện pháp luật, hội nhập kinh tế quốc tế, cải cách hành
chính, xây dựng Hải quan hiện đáp ứng yêu cầu phát triển và hội nhập.
Phương pháp nghiên cứu được sử dụng trong luận án là các phương
pháp của triết học Mác - Lênin, trọng tâm là phương pháp kết hợp lý luận và
thực tiễn, phân tích và tổng hợp, lịch sử và lôgic. Ngoài ra, luận án còn sử
dụng một số phương pháp của các khoa học chuyên ngành như phương pháp
của lý thuyết hệ thống, phương pháp so sánh, phương pháp của khoa học
thống kê. Cụ thể như sau:
- Chương 1 sử dụng phương pháp tổng hợp, phương pháp thống kê,
phương pháp lịch sử, lôgic để chỉ ra những vấn đề lý luận, thực tiễn đã được
nghiên cứu ở trong nước và nước ngoài có liên quan đến hoàn thiện pháp luật
về KTSTQ, qua đó xác định những vấn đề còn chưa được nghiên cứu, đề cập
và chỉ rõ những vấn đề mà luận án cần tiếp tục triển khai nghiên cứu.
5
- Chương 2 sử dụng các phương pháp hệ thống hóa, khái quát hóa,
phương pháp phân tích và tổng hợp, so sánh nhằm làm rõ cơ sở lý luận của
luận án và để làm rõ các các quy định pháp lý về KTSTQ theo chuẩn mực
quốc tế và của pháp luật một số nước, từ đó chỉ ra những giá trị mà Việt Nam
có thể tham khảo.
- Chương 3 sử dụng phương pháp so sánh và thống kê, lịch sử và lôgic,
phân tích tài liệu thứ cấp để đánh giá quá trình hình thành và phát triển, thực
trạng của pháp luật KTSTQ; những kết quả, thành tựu, hạn chế và nguyên
nhân của những bất cập, hạn chế của thực trạng pháp luật về KTSTQ ở Việt
Nam. Khi thực hiện nghiên cứu nội dung của chương 3, Luận án tiếp cận một
cách tổng thể, gắn kết việc đánh giá thực trạng pháp luật đi từ các qui định
pháp luật trong các văn bản qui phạm pháp luật hiện hành trong sự đối chiếu
với lý luận và thực tiễn thực hiện các qui định này. Cách tiếp cận tạo cho
Luận án một điểm khác biệt so với nhiều luận án chuyên ngành lý luận khác
khi nhiều tác giả tách việc đánh giá thực trạng pháp luật với hai mảng riêng
biệt là thực trạng quy định pháp luật và thực trạng thực hiện pháp luật.
- Chương 4 luận án sử dụng phương pháp phân tích và tổng hợp, hệ
thống hóa, khái quát hóa để đề xuất quan điểm và các nhóm giải pháp hoàn
thiện pháp luật về KTSTQ ở Việt Nam.
5. Những đóng góp mới của luận án
Một là: Từ việc nghiên cứu tổng quan tình hình nghiên cứu liên quan
đề tài, luận án xác định những vấn đề cần tiếp tục nghiên cứu để hoàn thiện
pháp luật về KTSTQ trên các phương diện lý luận, thực tiễn và quan điểm
giải pháp. Những công trình đã công bố về KTSTQ ở trong nước và ngoài
nước được tổng hợp và đánh giá trong Luận án bổ sung cho khoa học pháp lý
mảng tài liệu bổ ích mà từ trước đến nay chưa có.
Hai là: Từ khái niệm KTSTQ, luận án tiếp cận khái niệm pháp luật về
KTSTQ, xác định được 3 đặc điểm của pháp luật về KTSTQ, phân tích làm rõ
vai trò của pháp luật về KTSTQ trong việc thể chế hóa quan điểm của Đảng về
6
xây dựng hải quan hiện đại, nâng cao hiệu lực hiệu quả của quản lý nhà nước
đối với hoạt động xuất nhập khẩu hàng hóa, tạo khung pháp lý cho hoạt động
hậu kiểm của hải quan. Những vấn đề này có ý nghĩa quan trọng trong việc tạo
nền tảng cơ sở lý luận về pháp luật và hoàn thiện pháp luật về KTSTQ. Đây là
đóng góp về mặt lý luận của công trình vì nó sẽ bổ sung cho khoa học pháp lý
một khái niệm đầy đủ, chính xác về pháp luật về KTSTQ, tạo cơ sở pháp lý cho
hoạt động “hậu kiểm” của cơ quan hải quan đối với hàng hóa xuất nhập khẩu
trong bối cảnh thương mại toàn cầu đang phát triển.
Ba là: Từ các tiêu chí hoàn thiện pháp luật nói chung, luận án phân
tích, làm rõ tiêu chí hoàn thiện pháp luật về KTSTQ, đảm bảo tính toàn diện,
thống nhất, đồng bộ và phù hợp với chuẩn mực pháp lý quốc tế cũng như đặc
thù pháp luật quốc gia. Đồng thời luận án nghiên cứu, phân tích các yếu tố về
chính trị, kinh tế và những yếu tố pháp lý khác ảnh hưởng đến quá trình hoàn
thiện pháp luật về KTSTQ. Việc xác định các tiêu chí hoàn thiện pháp luật về
KTSTQ là điểm mới và là đóng góp của Luận án đối với lĩnh vực pháp luật về
hải quan, có ý nghĩa tham khảo và ứng dụng đối với các cơ quan lập pháp và
hành pháp Việt Nam.
Bốn là: Qua nghiên cứu KTSTQ và pháp luật về KTSTQ theo chuẩn
mực quốc tế và của các quốc gia trên thế giới, luận án đã góp phần làm sâu
sắc thêm kinh nghiệm xây dựng và thực tiễn điều chỉnh pháp luật về KTSTQ
và rút ra những kinh nghiệm có thể vận dụng trong thực tiễn xây dựng và
hoàn hiện pháp luật KTSTQ ở Việt Nam, phù hợp với yêu cầu cải cách hiện
đại hóa của Hải quan Việt Nam.
Năm là: Nghiên cứu quá trình hình thành và phát triển của pháp luật
KTSTQ ở Việt Nam từ năm 2002 đến nay, luận án đã phân tích, làm rõ những
thành tựu của pháp luật về KTSTQ cũng như và hạn chế, bất cập đồng thời
chỉ ra nguyên nhân của những hạn chế, bất cập đó. Những phát hiện và đánh
giá của Luận án về thành tựu và hạn chế của pháp luật KTSTQ chưa được
thực hiện và công bố trước đó.
7
Sáu là: Qua nghiên cứu lý luận, thực trạng pháp luật về KTSTQ, luận
án đề xuất 3 quan điểm và 4 nhóm giải pháp toàn diện, khoa học và khả thi
cho việc hoàn thiện pháp luật KTSTQ ở Việt Nam. Những đề xuất này là kết
quả của những nghiên cứu trong công trình này, chưa được công bố ở những
nghiên cứu khoa học pháp lý khác.
6. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn của luận án
Những kết quả nghiên cứu được nêu trong luận án góp phần bổ sung tri
thức lý luận của pháp luật chuyên ngành về hải quan, tạo cơ sở cho việc tiếp
tục xây dựng, phát triển và hoàn thiện pháp luật về KTSTQ ở Việt Nam, nâng
cao hiệu quả áp dụng phương pháp KTSTQ trong quản lý hải quan hiện đại.
Luận án có thể được dùng là tài liệu tham khảo trong giảng dạy, học
tập, bồi dưỡng và đào tạo tại các trường đại học, học viện chuyên ngành kinh
tế - tài chính - hải quan; tài liệu tham khảo cho các cơ quan, cán bộ công chức
hải quan, các doanh nghiệp xuất nhập khẩu để bổ sung những kiến thức cần
thiết để thực hiện KTSTQ một cách khoa học, đúng pháp luật, vừa đảm bảo
tạo điều kiện thông thoáng cho hoạt động ngoại thương, vừa đảm bảo tính
tuân thủ pháp luật và sự kiểm soát của các cơ quan quản lý.
7. Kết cấu của luận án
Ngoài phần mở đầu, kết luận, danh mục tài liệu tham khảo và phụ lục,
luận án gồm 4 chương như sau:
Chương 1: Tổng quan tình hình nghiên cứu liên quan đến đề tài và
những vấn đề đặt ra cần tiếp tục nghiên cứu
Chương 2: Cơ sở lý luận hoàn thiện pháp luật về kiểm tra sau thông
quan ở Việt Nam
Chương 3: Quá trình hình thành, phát triển và thực trạng pháp luật về
kiểm tra sau thông quan ở Việt Nam
Chương 4: Quan điểm và giải pháp hoàn thiện pháp luật về kiểm tra sau
thông quan ở Việt Nam
8
Chương 1
TỔNG QUAN TÌNH HÌNH NGHIÊN CỨU LIÊN QUAN ĐẾN ĐỀ TÀI
VÀ NHỮNG VẤN ĐỀ ĐẶT RA CẦN TIẾP TỤC NGHIÊN CỨU
1.1. TÌNH HÌNH NGHIÊN CỨU LIÊN QUAN ĐẾN ĐỀ TÀI LUẬN ÁN
1.1.1. Các công trình nghiên cứu trong nước
1.1.1.1. Các công trình nghiên cứu về kiểm tra sau thông quan trong
thực hiện cải cách, hiện đại hóa hải quan
Kiểm tra sau thông quan là một nội dung của phương pháp quản lý hải
quan hiện đại nhằm đáp ứng yêu cầu của hội nhập kinh tế và phát triển thương
mại quốc tế. Do ý nghĩa quan trọng đó của KTSTQ, đa phần các công trình
nghiên cứu về Hải quan Việt Nam trong tiến trình cải cách và hiện đại hóa hải
quan đều đề cập đến KTSTQ với tư cách là một nội dung thiết yếu và cấp
bách để đảm bảo cho sự phù hợp với chuẩn mực quốc tế về hải quan trong
tiến trình hội nhập.
Ở thể loại công trình nghiên cứu là các luận án, luận văn, có thể kể đến
các công trình sau:
- Hải quan Việt Nam trong tiến trình hội nhập kinh tế khu vực và quốc
tế của tác giả Lê Văn Tới [101] đã làm rõ mối quan hệ giữa hội nhập kinh tế
khu vực, quốc tế với hoạt động của hải quan, vai trò và sự tác động của công
tác hải quan đối với hội nhập kinh tế khu vực và quốc tế. Luận án đề xuất
những giải pháp nhằm thực hiện tốt nhiệm vụ của hải quan khi Việt Nam hội
nhập vào nền kinh tế khu vực và thế giới. KTSTQ được nghiên cứu dưới góc
độ là nghiệp vụ chuyên sâu mà hải quan các nước tiến hành trong quá trình
cải cách, hiện đại hóa hải quan đáp ứng yêu cầu của hội nhập quốc tế. Tác giả
đã có những nghiên cứu ban đầu về kinh nghiệm thực hiện nghiệp vụ này của
Hải quan Hàn Quốc, Trung Quốc và Nhật Bản. Tuy chưa tiếp cận KTSTQ
một cách toàn diện về lý luận và thực tiễn, nhưng vấn đề được nêu tại luận án
9
này có giá trị tham khảo sâu sắc trong quá trình tìm hiểu vai trò của KTSTQ
trong cải cách hiện đại hóa, xây dựng mô hình hải quan hiện đại đáp ứng với
tốc độ phát triển và hội nhập của nền kinh tế.
- Tiếp tục cải cách, hiện đại hóa Hải quan Việt Nam đáp ứng yêu cầu
hội nhập kinh tế quốc tế của tác giả Nguyễn Ngọc Túc [105] được thực hiện
vào thời điểm Việt Nam đang có những bước tiến mạnh mẽ hội nhập kinh thế
khu vực và thế giới với việc tham gia WTO vào ngày 7/11/2006. Trong bối
cảnh thương mại quốc tế tăng trưởng mạnh, Việt Nam phải thực hiện các
Hiệp định của WTO liên quan đến lĩnh vực hải quan, sự bùng nổ của công
nghệ thông tin và sự phát triển gia tăng của nạn buôn lậu, gian lận thương
mại, Hải quan Việt Nam mặc dù đã nhiều cải cách nhưng vẫn phải tiếp tục đổi
mới về mọi mặt để theo kịp tiến độ hiện đại hóa của hải quan các nước. Tác
giả đã nghiên cứu làm rõ khái niệm của cải cách, hiện đại hóa hải quan với
yêu cầu toàn bộ hoạt động hải quan từng bước được tự động hóa, tiến tới tự
động hóa hoàn toàn theo chuẩn mực và thông lệ quốc tế. Điểm mấu chốt là
phải thay đổi hẳn phương thức quản lý từ quản lý hải quan truyền thống (chủ
yếu dựa vào kiểm tra, kiểm soát) sang phương thức quản lý hải quan hiện đại
dựa trên nền tảng công nghệ tiên tiến và dựa vào kỹ thuật quản lý mới như
quản lý rủi ro, quản lý thông tin tình báo... KTSTQ được nghiên cứu dưới góc
độ là một trong những nội dung của phương pháp quản lý hải quan hiện đại để
đáp ứng chuẩn mực quốc tế. Luận án đã chỉ rõ quá trình triển khai thực hiện
đã bộc lộ một số bất cập như văn bản quy phạm pháp luật chưa hoàn toàn theo
chuẩn mực quốc tế, các vấn đề về áp dụng quản lý rủi ro, chỉ kiểm tra theo
dấu hiệu vi phạm...
- Nghiên cứu ứng dụng phương pháp quản lý hải quan hiện đại nhằm
tạo thuận lợi cho thương mại quốc tế của Hải quan Việt Nam của tác giả
Nguyễn Công Bình [9] tập trung đánh giá phương pháp quản lý của hải quan
thời gian qua để tìm ra những kết quả, hạn chế và nguyên nhân làm cơ sở thực
10
tiễn cho việc đề xuất các giải pháp hoàn thiện phương pháp quản lý hải quan
hiện đại, trong đó có hoạt động KTSTQ, nhằm tạo thuận lợi cho thương mại
của Việt Nam.
- Đổi mới quản lý hoạt động Hải quan Việt Nam góp phần thúc đẩy
phát triển kinh tế của tác giả Phạm Đức Hạnh [44] đã phân tích, đánh giá thực
trạng tiến trình đổi mới hoạt động quản lý hải quan từ 1986 đến nay, những
thành công, hạn chế, yếu kém và nguyên nhân, qua đó đề xuất giải pháp khả
thi nhằm đổi mới hoạt động hải quan trong thời kỳ hội nhập, trong đó có hoạt
động KTSTQ.
- Đổi mới hoạt động hải quan đáp ứng yêu cầu hội nhập kinh tế quốc tế
của tác giả Nguyễn Phạm Hải [41] luận giải đặc điểm của hải quan hiện đại là
một cơ quan hải quan tinh thông nghiệp vụ, được tổ chức chặt chẽ, có khả
năng hoàn thành tốt nhiệm vụ thu đúng thu đủ và tuân thủ các quy định của
pháp luật, trong khi chỉ can thiệp rất ít vào sự vận động hợp pháp của hàng
hóa, phương tiện vận tải và con người khi qua lại biên giới quốc gia. Để hiện
đại hóa hải quan phải thực hiện một số nguyên tắc cơ bản, trong đó chuyển
hướng từ vai trò quản lý đối với hàng hóa tại thời điểm nhập khẩu sang vai trò
KTSTQ là một trong những trọng tâm hàng đầu. Nghiên cứu thực trạng hoạt
động KTSTQ, luận án đã đưa ra một số bất cập của các quy định pháp luật
khiến cho việc triển khai KTSTQ kém hiệu quả, từ đó đưa ra giải pháp đẩy
mạnh hoạt động KTSTQ theo hướng chuyên sâu chuyên nghiệp, hiệu quả,
dựa trên nguyên tắc áp dụng quản lý rủi ro. Giá trị tham khảo quan trọng là
luận án đã đưa ra giải pháp hoàn thiện pháp luật về KTSTQ đó là trên cơ sở
tổng kết thực tiễn áp dụng Luật Hải quan, Luật Quản lý thuế và các luật thuế
đối với hàng hóa xuất khẩu, nhập khẩu, các văn bản hướng dẫn, các quy trình
nghiệp vụ KTSTQ; tham khảo kinh nghiệm và chuẩn mực quốc tế để có một
hệ thống pháp luật KTSTQ đầy đủ, hệ thống, chuẩn mực, minh bạch. Tuy chỉ
là giải pháp mang tính khái quát, tổng thể trong các giải pháp chung về đổi
11
mới hoạt động hải quan đáp ứng yêu cầu hội nhập nhưng cũng có giá trị tham
khảo cao trong định hướng hoàn thiện pháp luật về KTSTQ.
Nghiên cứu trực tiếp về hoạt động KTSTQ của Hải quan Việt Nam
trong tiến trình cải cách hiện đại hóa hải quan, có các công trình sau:
- Hoàn thiện hoạt động kiểm tra sau thông quan ở nước ta trong giai
đoạn hiện nay của tác giả Hoàng Việt Cường [37] đã phân tích, làm rõ cơ sở
lý luận và thực tiễn về KTSTQ, nội dung hoạt động KTSTQ đặt trong mối
quan hệ với hoạt động thương mại quốc tế trong xu thế hội nhập kinh tế quốc
tế. Pháp luật về KTSTQ đã được đề cập đến là một trong những giải pháp để
hoàn thiện hoạt động KTSTQ. Tác giả đã đề xuất giải pháp hoàn thiện pháp
luật về KTSTQ trên cơ sở hoàn thiện pháp luật hải quan, pháp luật về thuế,
pháp luật về xử lý vi phạm hành chính về KTSTQ. Đây là công trình có giá trị
tham khảo lớn trong việc hình thành cơ sở lý luận về KTSTQ cũng như đánh
giá bước đầu về pháp luật KTSTQ. Tuy nhiên, với tính chất là luận văn thạc sĩ
chuyên ngành kinh doanh và quản lý, nên những vấn đề về pháp luật KTSTQ
chưa được nghiên cứu, đề cập một cách thấu đáo đi từ cơ sở lý luận và thực
tiễn pháp luật.
- Dịch vụ kiểm tra sau thông quan của Hải quan Việt Nam đối với hoạt
động xuất nhập khẩu của tác giả Phạm Hồng Thanh [72]. Tác giả tiếp cận
KTSTQ với tư cách là một loại hình dịch vụ quản lý nhà nước của cơ quan
hải quan đối với lĩnh vực xuất nhập khẩu. Sự hình thành và phát triển của dịch
vụ KTSTQ xuất phát từ yêu cầu nâng cao hiệu lực, hiệu quả quản lý nhà nước
về kinh tế đối ngoại, đặc biệt là đối với lĩnh vực ngoại thương trong xu thế
mở rộng hội nhập kinh tế khu vực và quốc tế. Luận văn đã làm rõ bản chất, vị
trí, vai trò của dịch vụ KTSTQ đối với xuất, nhập khẩu, từ đó đánh giá thực
trạng công tác KTSTQ của Hải quan Việt Nam thời kỳ 2002 - 2007 và đề xuất
các giải pháp hoàn thiện dịch vụ KTSTQ trong thời gian tới. Hệ thống pháp
luật KTSTQ được nhìn nhận và đánh giá là một trong những nhân tố ảnh
12
hưởng đến dịch vụ KTSTQ, bên cạnh hệ thống pháp luật về thuế và hệ thống
pháp luật có liên quan khác như Luật thương mại, các quy định của pháp luật
về kế toán thống kê, thanh toán quốc tế, các quy định của tập quán thương
mại quốc tế... Tuy vấn đề nghiên cứu về pháp luật KTSTQ còn hạn chế cả về
cơ sở lý luận và thực tiễn, nhưng là những vấn đề nền tảng có giá trị tham
khảo cao.
- Mô hình kiểm tra sau thông quan ở một số nước trên thế giới và khả
năng áp dụng cho Việt Nam của tác giả Trần Vũ Minh [55] là một công trình
nghiên cứu công phu và khá hoàn thiện về mô hình KTSTQ dưới góc độ của
khoa học kinh tế. Bằng cách tiếp cận mô hình tổng quát, tác giả đã sáng tỏ các
nội dung: Cơ sở khoa học của việc phải áp dụng mô hình KTSTQ đối với Hải
quan Việt Nam trong điều kiện hội nhập; Nghiên cứu mô hình KTSTQ của
một số nước trên thế giới, đặc biệt là các nước tiên tiến như Nhật Bản, Hàn
Quốc, Trung Quốc, Pháp và liên kết kinh tế ASEAN; Đánh giá thực trạng mô
hình KTSTQ của Hải quan Việt Nam, trên cơ sở đó phân tích những điểm
mạnh và điểm yếu của mô hình KTSTQ của Việt Nam; Đề xuất mô hình mới
và những giải pháp vận dụng cũng như xây dựng lộ trình thực hiện đáp ứng
yêu cầu hội nhập kinh tế quốc tế. Pháp luật về KTSTQ được luận án đề cập
đến với tư cách là giải pháp tiên quyết để triển khai mô hình đề xuất cho Hải
quan Việt Nam. Tác giả nhấn mạnh việc phải hoàn thiện hệ thống các quy
định pháp luật về KTSTQ là cấp thiết cả về lý luận và thực tiễn. Ngoài việc rà
soát hệ thống các văn bản trong nước, ngành Hải quan cần nghiên cứu các
quy định liên quan đến công tác Hải quan tại các điều ước quốc tế để đối
chiếu, sửa đổi, xây dựng hệ thống pháp luật đồng bộ và đảm bảo thực thi hữu
hiệu. Tuy nhiên, do nghiên cứu về mô hình KTSTQ dưới góc độ khoa học
kinh tế, nên các vấn đề về pháp luật chỉ được nhắc đến một cách khái lược.
- Kiểm tra sau thông quan ở Việt Nam trong bối cảnh tự do hóa thương
mại của tác giả Nguyễn Thị Kim Oanh [57]. Trên cơ sở khẳng định tính tất
13
yếu của KTSTQ trong bối cảnh tự do hóa thương mại đang diễn ra mạnh mẽ
cũng như sự cần thiết phải hoàn thiện hệ thống KTSTQ ở Việt Nam, luận án
đã đi sâu nghiên cứu những vấn đề sau: Xây dựng khung lý thuyết về hệ
thống KTSTQ trong bối cảnh tự do hóa thương mại; Khái quát thực trạng
KTSTQ và đánh giá hệ thống KTSTQ ở Việt Nam trong bối cảnh tự do hóa
thương mại; nghiên cứu kinh nghiệm KTSTQ của Hải quan một số nước trên
thế giới để xây dựng luận cứ mang tính thực tiễn cho các giải pháp hoàn thiện
hệ thống KTSTQ ở Việt Nam trong điều kiện tự do hóa thương mại. Vấn đề
về xây dựng hệ thống pháp luật về KTSTQ được tác giả tiếp cận dưới góc độ
là kinh nghiệm KTSTQ trong bối cảnh tự do hóa thương mại của hải quan
một số nước trên thế giới. Từ thực tiễn hoạt động KTSTQ của các nước trên
thế giới, tác giả cho rằng hiệu quả hoạt động KTSTQ chỉ có được khi hệ
thống các quy định của pháp luật đồng bộ và đầy đủ, quy định chi tiết các vấn
đề như: Đối tượng, phạm vi, nguyên tắc hoạt động KTSTQ; Thẩm quyền của
lực lượng KTSTQ; Nghĩa vụ của đối tượng KTSTQ; Cơ cấu tổ chức bộ máy;
Thực hiện kết quả KTSTQ, thủ tục truy thu, truy hoàn; Quy định về xử phạt,
trình tự và thủ tục giải quyết khiếu nại Từ đó, tác giả đi sâu nghiên cứu cơ
sở pháp lý về KTSTQ của Hải quan Việt Nam, thể hiện thông qua các văn bản
pháp luật về KTSTQ gắn kết với chiến lược phát triển của Hải quan Việt Nam
và phù hợp với điều kiện tự do hóa thương mại của Việt Nam, những vấn đề
còn bất cập và từ đó nghiên cứu đưa ra giải pháp hoàn thiện cơ sở pháp lý về
KTSTQ. Dưới góc độ của khoa học quản lý, những nội dung này tuy chưa
mang tính đầy đủ cho cơ sở lý luận thực tiễn hoàn thiện nhưng là tài liệu có
giá trị tham khảo cao cho quá trình nghiên cứu pháp luật về KTSTQ.
- Kiểm tra sau thông quan về trị giá hải quan ở Việt Nam của tác giả
Phạm Thị Bích Ngọc [56] đã hệ thống hóa các vấn đề lý luận và thực tiễn của
KTSTQ về trị giá hải quan với tư cách là một nội dung chủ yếu và quan trọng
nhất trong KTSTQ của ngành Hải quan. Kiểm tra xác định trị giá hàng hóa
14
xuất, nhập khẩu liên quan trực tiếp tới kết quả và hiệu quả công tác hải quan,
cũng như quyết định đến kết quả thu thuế xuất khẩu, thuế nhập khẩu; nó quyết
định đến kết quả cạnh tranh, bảo hộ sản xuất trong nước. Với việc nghiên cứu
chuyên sâu về KTSTQ về trị giá hải quan, tác giả đã góp phần bổ sung và
hoàn thiện thêm các vấn đề lý luận cơ bản về KTSTQ. Qua đó, đánh giá xác
đáng thực trạng KTSTQ về trị giá hải quan ở Việt Nam, chỉ ra những điểm
còn tồn tại và làm rõ nguyên nhân của những tồn tại đó; Đề xuất một số giải
pháp hữu ích nhằm nâng cao hiệu quả công tác KTSTQ đối với trị giá hải
quan ở Việt Nam trong thời gian tới.
Với thể loại đề tài nghiên cứu khoa học cấp Ngành, một số công trình
liên quan KTSTQ đã được thực hiện như:
- Cơ sở lý luận, thực tiễn, nội dung và tác nghiệp cụ thể nghiệp vụ kiểm
tra sau thông quan của tác giả Mai Văn Huyên [49] đã có những nghiên cứu
ban đầu về cơ sở lý luận, song do hoạt động KTSTQ tại thời điểm thực hiện
đề tài mới được áp dụng từ Luật Hải quan 2001, nên chưa có nhiều thực tiễn
để đánh giá, chưa đề cập đến kinh nghiệm một số nước làm bài học cho Hải
quan Việt Nam.
- Các giải pháp nâng cao hiệu quả công tác kiểm tra sau thông quan
đáp ứng yêu cầu, nhiệm vụ kế hoạch cải cách, phát triển và hiện đại hóa hải
quan giai đoạn 2004 – 2006, của tác giả Nguyễn Viết Hồng [48] được thực
hiện khi công tác hải quan có những bước tiến rất căn bản trong phương pháp
quản lý từ thủ công sang hiện đại, Ngành Hải quan đã xây dựng chiến lược
phát triển đến năm 2010 và triển khai thực hiện “Kế hoạch cải cách, phát triển
và hiện đại hóa ngành Hải quan giai đoạn 2004 - 2006”. Đề tài đã tổng quan
về công tác KTSTQ với sơ lược sự hình thành và khái niệm về KTSTQ,
nghiên cứu kinh nghiệm KTSTQ của một số nước trên thế giới như Hàn
Quốc, Nhật Bản, Australia và Indonesia. Qua thực trạng công tác KTSTQ...ịnh quyền của nhân viên hải quan kiểm tra, thanh tra, sao chụp hoặc trích lục
các hồ sơ, chứng từ để phục vụ cho các cuộc kiểm tra... Dưới góc độ là một
nội dung mang tính thỏa thuận quốc tế, từ những năm 60 của thế kỷ XX, Hội
đồng hợp tác Hải quan thế giới (Tổ chức Hải quan thế giới- WCO ngày nay)
đã có những nghiên cứu đầu tiên về các biện pháp quản lý hải quan tiên tiến,
trong đó có biện pháp tiến hành kiểm tra sau khi hàng hóa đã được thông
quan. Theo WCO, thì: “Duy trì và phát triển hệ thống KTSTQ là tuyệt đối cần
thiết, vì một hệ thống KTSTQ đủ mạnh có thể phát hiện và ngăn chặn mọi
hình thức gian lận thương mại, đặc biệt là gian lận qua giá, dù cho hệ thống
giá tính thuế đó được xác định theo bất cứ phương pháp nào” [52, tr.12].
Trên thế giới, KTSTQ được thể hiện bằng nhiều ngôn ngữ khác nhau,
đối với tiếng Anh là “Post Clearance Audit”, tiếng Pháp là “Contrôle Apès
Desdouanement” và tiếng Việt có thể gọi là “kiểm tra trên cơ sở kiểm toán”.
Ngày nay thuật ngữ tiếng Việt được sử dụng phổ biến là “kiểm tra sau thông
quan” [72].
31
Trước khi làm rõ về khái niệm KTSTQ, cần tiếp cận với một số khái
niệm sau:
Khái niệm “kiểm tra”: Theo Từ điển Tiếng Việt, kiểm tra được hiểu là
“việc xem xét thực chất, thực tế” [102, tr.36]. Từ khái niệm này có thể hiểu
kiểm tra là những hành vi nhằm mục đích xem xét về mặt thực chất và thực tế
theo yêu cầu của chủ thể kiểm tra.
Khái niệm “Hải quan”: Theo WCO, Hải quan được hiểu là cơ quan
của Chính phủ chịu trách nhiệm thi hành Luật hải quan và thu thuế hải quan
và thuế khác, đồng thời, cũng chịu trách nhiệm thi hành các luật lệ khác có
liên quan đến việc nhập khẩu, xuất khẩu, vận chuyển hay lưu kho hàng hóa
[78]. Theo từ điển Tiếng Việt thì Hải quan là “việc kiểm soát và đánh thuế
đối với hàng hóa xuất nhập cảnh”. Theo Luc De Wulf và José B.SoKol trong
Sổ tay hiện đại hóa hải quan thì cơ quan Hải quan được coi là “cơ quan kiểm
soát biên giới chủ yếu” chịu trách nhiệm cho tất cả các giao dịch liên quan
đến các vấn đề phát sinh từ vận chuyển hàng hóa và hành khách qua biên
giới [120, tr.13].
Khái niệm “Kiểm tra hải quan”: Theo chuẩn mực quốc tế, kiểm tra hải
quan là các biện pháp do hải quan áp dụng nhằm đảm bảo sự tuân thủ Luật
Hải quan [77, định nghĩa E7.F3]. Cụ thể hơn, kiểm tra hải quan là việc cơ
quan hải quan kiểm tra hồ sơ hải quan, các chứng từ, tài liệu liên quan và
kiểm tra thực tế hàng hóa, phương tiện vận tải [104, Điều 4].
Khái niệm “Thông quan”: là việc hoàn thành các thủ tục hải quan cần
thiết để cho phép hàng hóa được đưa vào phục vụ tiêu dùng trong nước, được
xuất khẩu hay đặt dưới một chế độ hải quan khác [77, định nghĩa E5.F9].
Từ những khái niệm trên, WCO nêu định nghĩa KTSTQ tại Công ước
quốc tế về đơn giản hóa và hài hòa thủ tục hải quan (Công ước Kyoto): Kiểm
tra trên cơ sở kiểm toán là các biện pháp do cơ quan hải quan tiến hành để
kiểm tra sự chuẩn xác và trung thực của các tờ khai hàng hóa thông qua kiểm
32
tra sổ sách chứng từ, hệ thống kinh doanh hay các số liệu thương mại do các
bên có liên quan đang quản lý [77, định nghĩa E3.F4].
Ở các nước ASEAN, trong Sổ tay hướng dẫn về KTSTQ của Tổ chức
Hải quan ASEAN được công bố tại cuộc họp Tổng cục trưởng ASEAN tại
Thái Lan tháng 8/2003 đã nêu: KTSTQ là một biện pháp hải quan có hệ thống
mà cơ quan hải quan tự thỏa mãn về độ chính xác và tính trung thực của việc
khai báo hải quan thông báo việc kiểm tra sổ sách, hồ sơ có liên quan, hệ
thống kinh doanh và dữ liệu thương mại của các cá nhân/các công ty tham gia
trực tiếp hoặc gián tiếp vào thương mại quốc tế. Hiệp định Hải quan ASEAN
2012 nêu: Sau khi giải phóng hàng hóa và nhằm đảm bảo độ chính xác của
các chi tiết cụ thể trong khai báo hải quan, cơ quan hải quan của nước thành
viên kiểm tra bất cứ chứng từ và dữ liệu nào liên quan đến các hoạt động đối
với hàng hóa nghi vấn [112, Điều 28].
Ở Việt Nam, Luật Hải quan quy định: KTSTQ là hoạt động kiểm tra
của cơ quan hải quan đối với hồ sơ hải quan, sổ kế toán, chứng từ kế toán và
các chứng từ khác, tài liệu, dữ liệu có liên quan đến hàng hóa; kiểm tra thực tế
hàng hóa trong trường hợp cần thiết và còn điều kiện sau khi hàng hóa đã
được thông quan. Việc KTSTQ nhằm đánh giá tính chính xác, trung thực nội
dung các chứng từ, hồ sơ mà người khai hải quan đã khai, nộp, xuất trình với
cơ quan hải quan; đánh giá việc tuân thủ pháp luật hải quan và các quy định
khác của pháp luật liên quan đến quản lý xuất khẩu, nhập khẩu người khai hải
quan [67, Điều 77].
Từ các khái niệm liên quan, các quan niệm có tính quốc tế và theo quy
định của pháp luật Việt Nam hiện hành, có thể xây dựng một khái niệm chung
về KTSTQ như sau: KTSTQ là hoạt động kiểm tra của cơ quan hải quan được
thực hiện đối với hàng hóa sau khi đã thông quan để đảm bảo tính chính xác
và trung thực của các nội dung khai báo hải quan trong quá trình xuất khẩu,
nhập khẩu đối với hàng hóa đó.
33
Như vậy, xét trong tổng thể hệ thống kiểm tra hải quan, KTSTQ là
khâu nghiệp vụ kiểm tra cuối cùng và đóng vai trò như một nghiệp vụ thẩm
định lại những nghiệp vụ kiểm tra trước của các đối tượng tham gia vào hoạt
động xuất nhập khẩu. Đây là một công cụ hữu hiệu đối với công tác kiểm tra
hải quan, vì nó đưa ra bức tranh rõ ràng và đầy đủ về các giao dịch có liên
quan tới hàng hóa xuất nhập khẩu, được phản ánh trong các sổ sách và ghi
chép của doanh nghiệp. KTSTQ cho phép cơ quan hải quan áp dụng các biện
pháp kiểm tra hải quan theo hướng đơn giản, ưu tiên làm thủ tục hải quan
nhanh chóng, thuận tiện đối với doanh nghiệp chấp hành tốt pháp luật hải
quan nhưng vẫn đảm bảo việc ngăn chặn và xử lý hành vi vi phạm pháp luật
về hải quan, gian lận thuế, vi phạm chính sách quản lý xuất nhập khẩu, đấu
tranh chống gian lận thương mại hữu hiệu nhất.
2.1.1.2. Khái niệm pháp luật về kiểm tra sau thông quan
Từ khái niệm KTSTQ, cho thấy KTSTQ phát sinh, phát triển trong hoạt
động hải quan là một đòi hỏi tất yếu khách quan từ sự phát triển của thương
mại quốc tế và yêu cầu của quản lý hải quan hiện đại. Việc thực hiện KTSTQ
nhằm đáp ứng mục đích vừa tạo thuận lợi cho hoạt động xuất nhập khẩu, vừa
đảm bảo được yêu cầu của công tác quản lý nhà nước về hải quan. Để mục tiêu
này trở thành hiện thực và được thực hiện thống nhất, các quốc gia đều ban
hành các quy phạm pháp luật để KTSTQ trở thành một hoạt động chính thống,
luật định, mang tính bắt buộc và đảm bảo thực hiện bằng cưỡng chế nhà nước.
Dưới góc độ lý luận chung về nhà nước và pháp luật, hệ thống các quy
phạm pháp luật điều chỉnh về lĩnh vực nào thì tạo nên pháp luật về lĩnh vực
đó. Các quy định pháp luật về thực hiện KTSTQ của cơ quan hải quan đối với
hàng hóa xuất nhập khẩu tạo nên pháp luật về KTSTQ. Pháp luật về KTSTQ
được hình thành để điều chỉnh các quan hệ pháp luật phát sinh trong quá trình
cơ quan hải quan thực hiện kiểm tra đối với hàng hóa xuất nhập khẩu đã được
thông quan để thẩm định tính chính xác, trung thực của quá trình khai báo hải
34
quan. Để tạo thuận lợi cho hoạt động KTSTQ, các quốc gia cần xây dựng các
quy định pháp luật làm cơ sở pháp lý để cơ quan hải quan tiến hành KTSTQ,
làm rõ quyền và nghĩa vụ của các bên tham gia quan hệ pháp luật về KTSTQ,
cách thức thực hiện các quyền và nghĩa vụ ấy theo trình tự, thủ tục, thẩm
quyền, phạm vi và nội dung luật định. Mỗi quốc gia sẽ xây dựng luật và quy
định dựa theo yêu cầu của quản lý hải quan ở từng nước hoặc ở cấp độ khu
vực trong trường hợp nước đó là thành viên của một liên minh hải quan [125,
tr.7]. Tổng thể các quy phạm pháp luật đó có mối quan hệ chặt chẽ, thống
nhất điều chỉnh các quan hệ phát sinh trong hoạt động KTSTQ đảm bảo sự
tuân thủ pháp luật của các đối tượng tham gia vào quá trình xuất nhập khẩu
hàng hóa, đảm bảo tạo điều kiện thuận lợi thương mại quốc tế và hướng đến
lợi ích của nhà nước và toàn xã hội.
Theo quan niệm đó, có thể đưa ra khái niệm pháp luật về KTSTQ như
sau: pháp luật về KTSTQ là hệ thống các quy tắc xử sự chung do nhà nước
ban hành hoặc thừa nhận nhằm điều chỉnh các quan hệ phát sinh trong quá
trình thực hiện KTSTQ đối với hàng hóa xuất nhập khẩu đã được thông quan
nhằm thẩm định tính tuân thủ pháp luật của đối tượng thực hiện hoạt động
xuất nhập khẩu.
2.1.1.3. Nội dung điều chỉnh của pháp luật về kiểm tra sau thông quan
Kiểm tra sau thông quan của các nước không giống nhau về tên gọi, cơ
cấu tổ chức, môi trường pháp lý... nhưng lại hoàn toàn giống nhau về chức
năng cơ bản đó là phát hiện và ngăn chặn gian lận thương mại trong hoạt
động xuất khẩu, nhập khẩu thông qua việc thực hiện các cuộc KTSTQ [52,
tr.15]. Pháp luật về KTSTQ là tổng thể các quy phạm pháp luật điều chỉnh
những nhóm quan hệ sau đây:
Một là, nhóm các quy phạm pháp luật xác định địa vị pháp lý của các
chủ thể KTSTQ và đối tượng KTSTQ. Pháp luật về KTSTQ điều chỉnh quan
hệ giữa một bên là cơ quan hải quan và một bên là tổ chức, cá nhân tham gia
35
hoạt động xuất nhập khẩu nhằm thẩm định việc tuân thủ pháp luật trong quá
trình làm thủ tục hải quan đối với hàng hóa xuất khẩu, nhập khẩu đã được
thông quan. Chủ thể quan hệ pháp luật KTSTQ là cơ quan hải quan - đại diện
cho quyền lực nhà nước có trách nhiệm kiểm tra, thẩm định tính chính xác,
trung thực, mức độ tuân thủ pháp luật đối với hàng hóa xuất nhập khẩu. Pháp
luật các nước quy định quyền và nghĩa vụ pháp lý của chủ thể để đảm bảo cho
cán bộ hải quan được hành động trong khuôn khổ chức năng nhiệm vụ và
quyền hạn luật định khi tiến hành hoạt động KTSTQ, bao gồm quyền ra vào
trụ sở doanh nghiệp; quyền kiểm tra hồ sơ doanh nghiệp, hệ thống kinh doanh
và dữ liệu thương mại liên quan tới tờ khai hải quan; quyền thu giữ tài liệu, hồ
sơ kinh doanh; quyền kiểm tra, lấy mẫu hàng hóa.
Cùng với việc xác định quyền, nghĩa vụ của cơ quan hải quan, pháp
luật quy định quyền và nghĩa vụ của đối tượng KTSTQ là các doanh nghiệp
liên quan tới hoạt động xuất nhập khẩu hàng hóa hoặc tiếp nhận, lưu giữ, sản
xuất và vận chuyển hàng hóa chịu sự kiểm soát hải quan. Các đối tượng này
bao gồm: Chủ sở hữu hàng hóa xuất nhập khẩu, người khai hải quan, người
giao nhận hàng hóa, đại lý hải quan hàng hóa xuất nhập khẩu. Các chủ thể
khác liên quan gián tiếp đến kinh doanh xuất nhập khẩu - tham gia quan hệ
pháp luật về KTSTQ với tư cách là người phối hợp cung cấp thông tin về hoạt
động xuất nhập khẩu hàng hóa: như tổ chức ngân hàng, bảo hiểm, cơ quan
thuế nội địa, hãng vận tải hàng hóa xuất nhập khẩu, các cơ quan, tổ chức giám
định hàng hóa, người mua hàng nội địa....
Trong quá trình tham gia quan hệ pháp luật về KTSTQ, chủ thể này có
nghĩa vụ lưu giữ tài liệu, thông tin hồ sơ theo quy định; cung cấp tài liệu,
thông tin hồ sơ kịp thời. Đồng thời, pháp luật quy định cho các đối tượng chịu
kiểm tra quyền khiếu nại, quyền được giải trình, quyền được giữ bí mật hồ sơ
kinh doanh và quyền được thông quan hàng hóa tại cửa khẩu với điều kiện an
ninh [125, tr.8].
36
Hai là, nhóm các quy phạm pháp luật xác định phạm vi, nội dung tiến
hành KTSTQ. Xuất phát từ đặc thù của hoạt động KTSTQ là để thẩm định
tính tuân thủ pháp luật đối với hàng hóa đã được thông quan, phạm vi KTSTQ
được xác định với mặt hàng, lĩnh vực, loại hình xuất nhập khẩu của các doanh
nghiệp trong một khoảng thời gian nhất định. Tùy vào các quy định pháp luật
về thủ tục hải quan trong quá trình thông quan, mà phạm vi KTSTQ sẽ hướng
đến kiểm tra chính sách mặt hàng, chính sách thuế, hay kiểm tra trị giá, mã số,
thuế suất, xuất xứ của các loại hình nhập khẩu, xuất khẩu.
Để thẩm định tính chính xác, trung thực của hàng hóa xuất nhập khẩu
đã được thông quan, nội dung kiểm tra là nhằm tái hiện bức tranh chân thực
nhất của quá trình giao dịch. Do vậy, các quy phạm pháp luật quy định nội
dung KTSTQ để đảm bảo kiểm tra được tính hợp pháp, hợp lệ của hồ sơ sơ
hải quan và chứng từ tài liệu liên quan, tính chính xác của các căn cứ tính
thuế liên quan đến hàng hóa xuất nhập khẩu và việc kê khai các khoản thuế
phải nộp, được miễn, không thu, được hoàn và kiểm tra việc thực hiện các
quy định của pháp luật trong quản lý đối với hàng hóa xuất nhập khẩu.
Ba là, nhóm các quy phạm pháp luật xác định trình tự, thủ tục tiến
hành KTSTQ. Trình tự, thủ tục thực hiện KTSTQ là cách thức, biện pháp cụ
thể tiến hành hoạt động KTSTQ được sắp xếp theo quy định của pháp luật
nhằm đảm bảo hiệu quả của hoạt động kiểm tra của cơ quan hải quan đối với
hàng hóa xuất nhập khẩu đã được thông quan. Không có một khuôn mẫu trình
tự nhất định áp dụng cho mọi cuộc kiểm tra, nhưng nói một cách khái quát nhất
thì trình tự tiến hành một cuộc KTSTQ sẽ được pháp luật các quốc gia quy
định có thể có 3 bước cơ bản sau: Chuẩn bị kiểm tra; Thực hành kiểm tra; Kết
thúc kiểm tra và xử lý kết quả kiểm tra.Với mỗi bước này, pháp luật của mỗi
nước có thể phân chia thành nhiều bước công việc tùy theo tình hình thực tế.
Bốn là, nhóm các quy phạm pháp luật quy định hậu quả pháp lý của
hoạt động KTSTQ. Với chức năng cơ bản là thẩm định tính trung thực của
37
doanh nghiệp xuất nhập khẩu trong quá trình làm thủ tục hải quan, mục đích
của KTSTQ là phát hiện và ngăn chặn gian lận thương mại, các hành vi vi
phạm pháp luật quản lý hoạt động xuất nhập khẩu. Hậu quả pháp lý sẽ gắn với
các kết luận của hoạt động KTSTQ. Trường hợp doanh nghiệp chấp hành tốt
pháp luật sẽ được hưởng các ưu đãi thực hiện trong quá trình xuất nhập khẩu
tiếp theo. Trường hợp doanh nghiệp có hành vi vi phạm, hậu quả pháp lý của
KTSTQ sẽ mang tính quyền lực, cưỡng chế nhà nước với việc xử lý truy thu
số thuế còn thiếu trong thông quan, xử phạt vi phạm hành chính, khởi tố vụ án
nếu xét thấy có dấu hiệu tội phạm.
2.1.2. Đặc điểm của pháp luật về kiểm tra sau thông quan
2.1.2.1. Pháp luật về kiểm tra sau thông quan là một bộ phận đặc thù
của pháp luật hải quan
Dưới góc độ khoa học pháp lý, pháp luật hải quan là tổng thể các quy
phạm pháp luật điều chỉnh các quan hệ xã hội trong lĩnh vực quản lý nhà nước
về hải quan, bao gồm hoạt động của các cơ quan hải quan và của các chủ thể
khác được hình thành trong quá trình tổ chức và thực hiện các hoạt động chấp
hành điều hành của nhà nước trong lĩnh vực hải quan nhằm bảo vệ và thúc đẩy
sản xuất trong nước, bảo vệ chủ quyền, lợi ích đất nước về mặt kinh tế; góp
phần bảo vệ an ninh kinh tế, trật tự, an toàn xã hội và bảo vệ cộng đồng [20].
Pháp luật hải quan điều chỉnh các quan hệ xã hội theo từng lĩnh vực
quản lý cụ thể, mà tương ứng mỗi lĩnh vực quản lý đó là một chế định pháp
luật điều chỉnh để đảm bảo từng mục tiêu mục đích riêng, từ đó tạo ra mục
đích chung của chế định pháp luật hải quan. Pháp luật điều chỉnh ở từng lĩnh
vực quản lý đó sẽ tạo thành các thành phần của pháp luật hải quan. Với cách
tiếp cận đó, có thể xác định pháp luật hải quan gồm các thành phần chính sau:
Pháp luật về thủ tục hải quan, kiểm tra, giám sát hải quan; Pháp luật về
KTSTQ; Pháp luật về ưu tiên hải quan; Pháp luật về quản lý rủi ro hải quan;
Pháp luật về thu thuế hàng hóa xuất nhập khẩu; Pháp luật về kiểm soát chống
38
buôn lậu, vận chuyển trái phép hàng hóa qua biên giới và xử lý vi phạm trong
lĩnh vực hải quan; Pháp luật về tổ chức bộ máy hải quan.
Như vậy, pháp luật KTSTQ không phải là một ngành luật độc lập mà là
một bộ phận của pháp luật hải quan. Nghiên cứu, xem xét mối quan hệ giữa
pháp luật KTSTQ với các bộ phận của pháp luật hải quan để làm rõ tính đặc
thù của pháp luật về KTSTQ. Tính đặc thù thể hiện:
Thứ nhất, trong mối quan hệ với pháp luật về thủ tục hải quan, kiểm tra
giám sát ở khâu thông quan, pháp luật về KTSTQ điều chỉnh hoạt động hậu
kiểm của cơ quan hải quan.
Pháp luật hải quan quy định hoạt động kiểm tra hải quan được thực hiện
với các hình thức: Kiểm tra trước khi thông quan, kiểm tra trong quá trình
thông quan và kiểm tra sau khi hàng hóa đã được thông quan [111, tr.10-11].
Trong đó, pháp luật về thủ tục hải quan, kiểm tra giám sát quy định kiểm tra
trước thông quan là khâu sử dụng hệ thống cơ sở thông tin dữ liệu có liên
quan đến hàng hóa xuất nhập khẩu để cơ quan hải quan đánh giá và đưa ra
hình thức kiểm tra thích hợp như miễn kiểm tra, kiểm tra theo tỷ lệ hoặc kiểm
tra toàn bộ. Kiểm tra trong quá trình thông quan là việc kiểm tra hồ sơ, kiểm
tra thực tế đối với hàng hóa tại cửa khẩu để đảm bảo hàng hóa xuất nhập khẩu
đúng với khai báo hải quan về hình dáng, kiểu cách, tính chất lý hóa... Pháp
luật về KTSTQ là biểu hiện của yêu cầu cải cách, hiện đại hóa hải quan với
việc chuyển quá trình kiểm tra của hải quan từ “tiền kiểm” sang “hậu kiểm”.
Điều này giảm thiểu việc ách tắc hàng hóa, giảm thời gian thông quan, giảm
chi phí doanh nghiệp góp phần nâng cao năng lực cạnh tranh quốc gia, thúc
đẩy phát triển thương mại quốc tế.
Kiểm tra sau thông quan thay cho việc kiểm tra trước và trong thông
quan đáp ứng đòi hỏi của quá trình lưu thông hàng hóa, là yếu tố giảm thiểu
chi phí sản xuất, chi phí lưu thông, nâng cao khả năng cạnh tranh của hàng
hóa trên thị trường trong nước và quốc tế. Để đảm bảo được yếu tố này, pháp
39
luật về KTSTQ sẽ được triển khai thực hiện dựa trên cơ sở đầu vào của pháp
luật về quản lý rủi ro để xác định đối tượng, phạm vi KTSTQ, giúp cho cơ
quan hải quan tập trung được nguồn lực chủ yếu vào việc KTSTQ các lĩnh
vực, đối tượng có rủi ro cao để tạo điều kiện cho thương mại phát triển cũng
như hạn chế các khó khăn do tự do hóa thương mại đem lại [57]. Đồng thời,
thể hiện yếu tố đầu ra cho pháp luật về ưu tiên hải quan, áp dụng đối với
doanh nghiệp đảm bảo các tiêu chí luật định của pháp luật quốc gia, trong đó
có yếu tố được xác định tuân thủ pháp luật sau khi có kết quả KTSTQ, qua đó
phát huy tối đa thuận lợi pháp luật dành cho doanh nghiệp, nâng cao hiệu quả
quản lý của cơ quan hải quan. Chế độ ưu tiên của doanh nghiệp được thực
hiện trong cả quá trình thông quan và sau thông quan đối với hàng hóa xuất
nhập khẩu của doanh nghiệp. Kết quả KTSTQ với những kết luận doanh
nghiệp đảm bảo tuân thủ pháp luật cũng cần được xem xét để xác định ưu đãi
cho doanh nghiệp xuất nhập khẩu trong quá trình thông quan.
Thứ hai, pháp luật về KTSTQ song hành cùng pháp luật về thuế và
pháp luật về xử lý vi phạm, đảm bảo chống thất thu ngân sách, chống gian
lận thương mại và thực hiện xử lý các hành vi vi phạm trong lĩnh vực hải
quan và trong lĩnh vực thuế.
Xuất phát từ nhiệm vụ cơ bản của cơ quan Hải quan là thực hiện việc
thu thuế đối với hàng hóa xuất khẩu, nhập khẩu, mục tiêu của hải quan hiện
đại là đảm bảo tạo điều kiện thuận lợi cho thương mại phát triển nhưng cũng
phải đảm bảo quản lý chặt chẽ để chống thất thu ngân sách. Pháp luật về
KTSTQ nhằm thẩm định tính chính xác trung thực của việc khai báo hải
quan, đảm bảo thu đúng, thu đủ, đảm bảo tính xác thực của người khai hải
quan trong quá trình kê khai các thuế phải nộp, được miễn, không thu, được
hoàn. Trong quá trình thực thi pháp luật về KTSTQ, trường hợp xác định việc
khai báo hải quan có sai phạm, cơ quan hải quan sẽ tiến hành truy thu thuế và
xử lý vi phạm theo luật định.
40
Thứ ba, pháp luật về KTSTQ trong quan hệ với pháp luật về tổ chức bộ
máy hải quan, thể hiện chiến lược quốc gia và yêu cầu phát triển lực lượng
hải quan hiện đại.
Nằm trong hệ thống tổ chức bộ máy hải quan, bộ máy tổ chức trong
KTSTQ thể hiện cơ cấu tổ chức của các bộ phận trong hệ thống KTSTQ. Quy
mô bộ máy tổ chức trong KTSTQ sẽ tùy thuộc vào chiến lược phát triển hệ
thống KTSTQ của mỗi quốc gia, tùy thuộc vào nguồn nhân lực KTSTQ và
khối lượng công việc mà công chức hải quan phải thực hiện trong quá trình
KTSTQ, thông thường sẽ được thể hiện dưới các hình thức như:
- Không tổ chức đơn vị chuyên trách trong lĩnh vực KTSTQ mà phân
công các bộ phận đảm nhiệm các công việc của KTSTQ. Điển hình là bộ máy
tổ chức KTSTQ của Hải quan Pháp, các bộ phận chuyên trách có chức năng
tương tự như KTSTQ đó là: Cấp tổng Cục có Cục DED trực thuộc DRNED
(Cơ quan quốc gia về điều tra và tình báo hải quan), Cục DED là đơn vị điều
tra chống gian lận thương mại, trốn thuế và được quyền kiểm tra tại doanh
nghiệp tương tự như bộ phận KTSTQ ở các nước khác; Cấp Hải quan vùng có
3 bộ phận liên quan đến KTSTQ là phòng POC (định hướng kiểm tra), phòng
CROC (thu thập thông tin phục vụ KTSTQ), phòng SRE (trực tiếp kiểm tra).
- Tổ chức đơn vị chuyên trách thực hiện KTSTQ. Trong bộ máy
chuyên trách đó, sẽ gồm các bộ phận được phân cấp. Cách thức tổ chức bộ
máy này được nhiều nước xây dựng và thực hiện. Chẳng hạn bộ máy tổ chức
KTSTQ của Hải quan Trung Quốc bao gồm các bộ phận như: Cao ủy Hải
quan, Cục Điều tra, Hải quan vùng và các bộ phận kiểm toán; Bộ máy tổ chức
KTSTQ theo mẫu của hải quan ASEAN: mỗi đơn vị KTSTQ sẽ có hai bộ
phận trực thuộc phụ trách công việc thông tin và kiểm tra doanh nghiệp
Để hệ thống KTSTQ phát triển và có hiệu quả, hải quan các nước cần
phải xây dựng bộ máy tổ chức KTSTQ hiện đại, chuyên nghiệp, chuyên sâu
phù hợp với chuẩn mực quốc tế, hoạt động hiệu quả tập trung thống nhất từ
trung ương đến địa phương đáp ứng với yêu cầu của quản lý hải quan hiện đại.
41
Thứ tư, pháp luật về KTSTQ có liên quan với nhiều ngành luật khác.
Với chức năng thẩm định tính trung thực của quá trình khai báo hải
quan đối với hàng hóa xuất nhập khẩu, pháp luật về KTSTQ liên quan đến
pháp luật thương mại với các quy định về chính sách thương mại, chính sách
mặt hàng, các quy định về sở hữu trí tuệ, xuất xứ hàng hóa...; việc thực hiện
pháp luật về thuế với các sắc thuế xuất khẩu, thuế nhập khẩu, thuế giá trị gia
tăng; thuế tiêu thụ đặc biệt; thuế bảo vệ môi trường... Liên quan đến quản lý
hải quan đối với hàng hóa xuất nhập khẩu có yếu tố nước ngoài, pháp luật về
KTSTQ có quan hệ với pháp luật về tài chính - ngân hàng với các quy định
về thanh toán quốc tế, ngoại hối nhằm xác định tính chân thực của giao dịch
ngoại thương; đồng thời liên quan đến xử lý các hành vi gian lận trong quá
trình thực hiện thủ tục hải quan; pháp luật về KTSTQ có mối quan hệ với
pháp luật khiếu nại tố cáo; pháp luật xử lý vi phạm hành chính và cưỡng chế
thi hành quyết định hành chính; pháp luật hình sự, tố tụng hình sự, tổ chức
điều tra hình sự...
Bên cạnh đó, Pháp luật về KTSTQ có mối quan hệ ngày càng chặt chẽ
với các quy định của pháp luật quốc tế do quá trình liên kết hóa, quốc tế hóa
quan hệ kinh tế giữa các quốc gia trong khu vực và toàn cầu. Hoạt động hải
quan luôn có liên quan đến yếu tố nước ngoài với nhiều thỏa thuận, công ước
quốc tế đa phương và song phương được các quốc gia ký kết, tham gia hoặc
công nhận với mục đích điều chỉnh quan hệ hải quan giữa các nước nhằm tạo
thuận lợi cho hoạt động thương mại, du lịch... như: Công ước thành lập Hội
đồng hợp tác hải quan, Công ước Kyoto về đơn giản hóa thủ tục hải quan,
Hiệp định chung về thuế quan và thương mại (GATT) và Công ước thi hành
Điều VII Hiệp định này về xác định trị giá hải quan, Hiệp định Hải quan
ASEAN, Hiệp định đối tác xuyên Thái Bình Dương (TPP)...
Sự đa dạng trong mối liên hệ giữa pháp luật về KTSTQ với các ngành
luật khác, làm cho pháp luật về KTSTQ trở thành một bộ phận đặc thù của
pháp luật hải quan.
42
2.1.2.2. Pháp luật về kiểm tra sau thông quan xuất hiện muộn và gắn
với sự ra đời của pháp luật về quản lý rủi ro
Xét về logic và lịch sử, sự hình thành, phát triển của hoạt động hải quan
gắn liền với sự hình thành, phát triển của trao đổi, lưu thông hàng hóa và
thương mại [101, tr.7]. Hoạt động hải quan vì thế đã xuất hiện từ rất sớm từ
thế kỷ VI trước Công nguyên ở Hy Lạp cổ đại với việc đánh thuế hải quan đối
với lúa mì nhập từ Ai Cập và vùng Hắc Hải [101, tr.9]. Lần lượt đến các thời
kỳ trung cổ, phong kiến rồi tư bản chủ nghĩa, qua các thời kỳ của bảo hộ sản
xuất (thế kỷ XVII) cho đến thời kỳ tự do hóa thương mại (từ giữa thế kỷ XX),
hoạt động hải quan thực hiện bảo hộ sản xuất trong nước, thu ngân sách quốc
gia và thực hiện bảo vệ an ninh kinh tế đối ngoại. Để tạo điều kiện cho Hải
quan thực hiện vai trò, chức năng, nhiệm vụ đó, các nước đã hoàn thiện chính
sách pháp luật hải quan của quốc gia cho phù hợp sự phát triển chung của
thương mại quốc tế và sự phát triển chính trị - kinh tế quốc gia. Do vậy, pháp
luật hải quan đã hình thành từ rất sớm cùng với sự ra đời và phát triển của
hoạt động hải quan. Tuy nhiên, chỉ đến khi tự do hóa thương mại phát triển
với sự đòi hỏi của phát triển kinh tế và giao lưu thương mại đặt ra cho hoạt
động hải quan yêu cầu thực hiện cải cách để đáp ứng cho việc thúc đẩy luân
chuyển hàng hóa, thì KTSTQ mới ra đời. Pháp luật về KTSTQ vì thế cũng
được “sinh sau đẻ muộn” hơn nhiều so với pháp luật hải quan.
Dưới góc độ pháp lý quốc tế, KTSTQ chỉ mới được đề cập vào những
năm 60 của thế kỷ XX với những nghiên cứu về biện pháp quản lý hải quan
tiên tiến của Hội đồng Hợp tác Hải quan (WCO ngày nay), cho đến khi được
đưa vào nội dung của Công ước quốc tế về đơn giản hóa và hài hước hóa thủ
tục hải quan (Công ước Kyoto) ngày 18/05/1973 có hiệu lực ngày
25/09/1974. Vào tháng 9/1999 khi Công ước Kyoto được sửa đổi bổ sung tại
Phụ lục tổng quát, Chương VI có quy định về các hoạt động kiểm tra này với
tên gọi là kiểm toán sau thông quan và kiểm toán hệ thống sổ sách doanh
43
nghiệp. WCO đã khuyến nghị các nước thành viên nhanh chóng hoàn chỉnh
và tiến tới áp dụng rộng rãi hệ thống kiểm tra hàng hóa sau khi thông quan
nhằm tạo thuận lợi nhất cho hoạt động thương mại và nhấn mạnh rằng kiểm
tra hải quan là một hệ thống tổng thể bao gồm các biện pháp kiểm tra khác
nhau như kiểm tra hải quan trước thông quan, kiểm tra hải quan trong quá
trình thông quan hàng hóa xuất nhập khẩu và KTSTQ. Trên cơ sở đó, pháp
luật về KTSTQ mới được quy định và triển khai tại Nhật Bản năm 1968;
Trung Quốc 1994, Hàn Quốc 1996 và áp dụng tại Việt Nam từ Luật Hải quan
Việt Nam 2001, có hiệu lực từ 2002.
Sự xuất hiện của pháp luật về KTSTQ gắn liền với sự ra đời và phát
triển của khoa học về quản lý rủi ro trong hoạt động của cơ quan hải quan.
Đối lập với việc kiểm tra hải quan được thực hiện hoàn toàn tại các cửa khẩu,
trên cơ sở của quản lý rủi ro, cơ quan hải quan thực hiện cải cách ở khâu
thông quan và chuyển việc kiểm tra hải quan về chế độ hậu kiểm. Theo WCO,
rủi ro là nguy cơ tiềm ẩn đối với việc không tuân thủ pháp luật hải quan [77,
tr.6]. Quản lý rủi ro trong hoạt động của cơ quan hải quan là cách thức thu
thập, quản lý thông tin trong lĩnh vực hải quan để phục vụ chức năng quản lý
nhà nước của cơ quan hải quan, đảm bảo cho kiểm tra hải quan phải giữ ở
mức tối thiểu và phải được thực hiện dựa trên các cơ sở chọn lựa việc sử dụng
các kỹ thuật quản lý rủi ro nhằm đạt được mọi ưu điểm mà nó mang lại [77,
tr.6]. Tùy hệ thống quản lý rủi ro của mỗi quốc gia, quy định pháp luật về
quản lý rủi ro trong KTSTQ là việc xác định mức độ rủi ro trên các tiêu chuẩn
như thân nhân đối tượng, kim ngạch xuất nhập khẩu, mặt hàng xuất nhập
khẩu, kết quả kiểm tra và xử lý vi phạm trước đó... để lựa chọn đối tượng
kiểm tra từ dữ liệu thống kê khai báo hải quan. Quản lý rủi ro vì thế không chỉ
được coi là xương sống của quản lý hải quan hiện đại mà là còn là nguyên tắc
tiến hành KTSTQ, gắn liền với sự xuất hiện, tồn tại của pháp luật về KTSTQ,
được pháp luật quốc tế và pháp luật các nước quy định và tuân thủ, đảm bảo
điều kiện tối đa cho phát triển thương mại và hội nhập.
44
2.1.2.3. Pháp luật về kiểm tra sau thông quan dựa trên giả định hàng
hóa xuất nhập khẩu đáp ứng tiêu chuẩn thông quan
Với mục đích thẩm định tính chính xác trung thực, đánh giá tính tuân thủ
pháp luật của người khai hải quan trong quá trình thông quan hàng hóa, đặc
điểm của pháp luật về KTSTQ là dựa trên giả định hàng hóa hàng hóa xuất
nhập khẩu đáp ứng các quy định pháp luật về thông quan hàng hóa, bao gồm:
- Quy định pháp luật về khai, nộp hồ sơ hải quan đối với từng loại hình
xuất nhập khẩu như: xuất kinh doanh, nhập kinh doanh, nhập đầu tư, gia
công, sản xuất xuất khẩu, tạm nhập tái xuất, tạm xuất tái nhập...;
- Quy định pháp luật về chính sách mặt hàng: hàng hóa cấm xuất khẩu,
cấm nhập khẩu; hàng hóa xuất nhập khẩu có giấy phép, điều kiện; hàng hóa
thuộc diện kiểm tra chuyên ngành...;
- Quy định pháp luật về trị giá hải quan, mã số, thuế suất, xuất xứ
hàng hóa;
- Quy định pháp luật xuất trình hàng hóa để kiểm tra, giám sát thực tế.
Việc tiến hành KTSTQ là để thẩm định các quy định này được thực
hiện đúng quy định, tiêu chuẩn điều kiện luật định. Do vậy, giả định hàng hóa
xuất nhập khẩu đáp ứng tiêu chuẩn thông quan sẽ là chuẩn mực, thước đo để
tiến hành các quy định pháp luật về KTSTQ. Chính vì vậy, mà KTSTQ còn
được gọi là phương pháp kiểm tra ngược thời gian [111, tr.21], diễn ra sau khi
thông quan để thẩm định tính trung thực của quá trình khai báo, thực hiện
pháp luật của người khai hải quan trong thông quan hàng hóa.
2.1.3. Vai trò của pháp luật về kiểm tra sau thông quan
Thứ nhất, pháp luật về KTSTQ thể chế hóa quan điểm của Đảng cầm
quyền về xây dựng hải quan hiện đại đáp ứng với yêu cầu phát triển thương
mại và hội nhập kinh tế.
Toàn cầu hóa, hội nhập kinh tế quốc tế và tự do hóa thương mại đã và
đang là xu thế nổi bật của thế giới đương đại. Xây dựng hải quan hiện đại là
45
mục tiêu và là yêu cầu của bất kỳ quốc gia nào nhằm đáp ứng với xu thế hội
nhập và phát triển đó. KTSTQ là công cụ chuẩn quốc tế của quản lý hải quan
hiện đại, do vậy pháp luật về KTSTQ chính là sự thể chế hóa quan điểm của
Đảng để xây dựng hải quan hiện đại đáp ứng với tốc độ phát triển ngày càng
tăng của thương mại và hội nhập.
Hiện nay, hầu hết Hải quan các nước đều đã tiến hành cải cách hiện đại
hóa hải quan đáp ứng với yêu cầu hải quan hiện đại. Tại các nước tỷ lệ kiểm
tra thực tế hàng hóa tại các cử...TSTQ phù hợp với địa bàn hải quan. Bên cạnh đó, cần thiết triển khai
các chính sách đãi ngộ, trích thưởng theo tỷ lệ trên số tiền phát hiện truy thu
để tạo điều kiện, khuyến khích động viên công chức thực hiện KTSTQ, đồng
thời cũng có những biện pháp kỷ luật nghiêm minh, ngăn ngừa các hành vi
tiêu cực, sách nhiễu.
Về tổ chức bộ máy, việc tổ chức KTSTQ theo mô hình mới từ cuối
năm 2016 cần được thẩm định, đánh giá tính ưu việt để có sự điều chỉnh hợp
lý, kịp thời đảm bảo cho việc triển khai tổ chức thực hiện pháp luật về
KTSTQ thực sự phát huy hiệu quả.
Bốn là, tăng cường công tác phối hợp, trao đổi thông tin phục vụ
KTSTQ. Trong xu thế hội nhập kinh tế và phát triển thương mại hiện nay,
KTSTQ cần tăng cường cơ chế phối hợp trong nước và hợp tác quốc tế trong
quá trình trao đổi và cung cấp thông tin phục vụ KTSTQ.
147
Về phối hợp trong nước, cần triển khai một số giải pháp sau: i, Thiết
lập cơ chế phối kết hợp trong quá trình trao đổi, cung cấp thông tin với các
đơn vị liên quan đến doanh nghiệp xuất nhập khẩu như cơ quan bảo hiểm, các
công ty vận chuyển...; ii, Xây dựng cơ chế phối hợp và tạo lập cơ sở dữ liệu
chung giữa cơ quan Hải quan với cơ quan Thuế, Công an, Ngân hàng để trao
đổi thông tin về khai thuế, nợ thuế, thanh toán quốc tế... phục vụ hoạt động
KTSTQ; iii, Cơ quan Hải quan phối hợp kiểm toán nhà nước xây dựng bộ
chuẩn mực kiểm toán hải quan để giúp công chức hải quan có định hướng,
phương pháp cụ thể, rõ ràng trong thực hiện KTSTQ và xử lý kết quả
KTSTQ; iv,Tăng cường phát triển quan hệ đối tác Hải quan - Doanh nghiệp,
xây dựng các tiêu chí hợp tác để đảm bảo lợi ích doanh nghiệp trong quá trình
xuất nhập khẩu hàng hóa. Cơ quan hải quan cần chủ động đẩy mạnh hơn nữa
các hoạt động tổ chức tham vấn, đối thoại doanh nghiệp, tháo gỡ khó khăn
vướng mắc, giúp doanh nghiệp hiểu và chấp hành đúng pháp luật, hạn chế các
sai sót trong quá trình thực hiện thủ tục hải quan; đồng thời tạo điều kiện cho
doanh nghiệp quyền được tham gia giám sát thực thi pháp luật, tham gia khảo
sát đánh giá hài lòng của doanh nghiệp đối với hoạt động hải quan. Về phía
doanh nghiệp, thực hiện cung cấp thông tin, báo cáo định kỳ cho hải quan
đảm bảo minh bạch hóa hoạt động xuất nhập khẩu, các số liệu về thuế... làm
cơ sở cho cơ quan hải quan phân loại và xác định đối tượng KTSTQ.
Về hợp tác quốc tế, Hải quan Việt Nam cần thúc đẩy, tăng cường hợp
tác với WCO, Hải quan ASEAN và hải quan các nước trong khu vực. KTSTQ
là nghiệp vụ đặc thù của cơ quan hải quan liên quan đến hoạt động ngoại
thương, nhiều thông tin cần phải được tiến hành thu thập, xác minh ở nước
ngoài như những vấn đề liên quan đến trị giá, xuất xứ hàng hóa, xác minh đối
tác xuất nhập khẩu, xác minh dòng tiền thanh toán quốc tế... Do vậy Hải quan
Việt Nam cần có sự trợ giúp của cơ quan Hải quan các nước trong khu vực và
trên thế giới để học tập kinh nghiệm, tranh thủ sự trợ giúp kỹ thuật, nghiên
cứu khoa học và công nghệ, xây dựng hệ thống thông tin phục vụ KTSTQ.
148
Kết luận chương 4
Chương 4 luận án đề xuất quan điểm và giải pháp hoàn thiện pháp luật
về KTSTQ trong giai đoạn hiện nay.
Các quan điểm hoàn thiện pháp luật về KTSTQ được nghiên cứu trên
cơ sở các chủ trương, chính sách của Đảng, Nhà nước về hoàn thiện pháp luật
trong điều kiện hội nhập kinh tế quốc tế của Việt Nam, đảm bảo hướng đến sự
phù hợp với các chuẩn mực pháp luật quốc tế, điều kiện của Việt Nam trong
quá trình hội nhập và định hướng phát triển của Hải quan Việt Nam.
Các giải pháp được đề xuất để hoàn thiện pháp luật KTSTQ trong giai
đoạn hiện nay, bao gồm: i, Nhóm giải pháp hoàn thiện pháp luật về KTSTQ
đảm bảo phù hợp với chuẩn mực pháp lý quốc tế; ii, Nhóm giải pháp đảm bảo
tính thống nhất, đồng bộ với pháp luật quốc gia, iii, Nhóm giải pháp đảm bảo
các yêu cầu cơ bản cho việc thiết lập quan hệ pháp luật về KTSTQ hướng tới
quản lý hải quan hiện đại; iv, Nhóm một số giải pháp khác để đảm bảo hiệu
quả của quá trình xây dựng và thực hiện pháp luật về KTSTQ.
149
KẾT LUẬN
Dưới góc độ khoa học lý luận và lịch sử nhà nước và pháp luật, luận án
đã đi sâu nghiên cứu vấn đề lý luận và thực trạng hoàn thiện pháp luật về
KTSTQ ở Việt Nam và đã được những kết quả sau:
1. Kiểm tra sau thông quan là phương thức quản lý hải quan hiện đại
đối với hoạt động thương mại trong điều kiện hội nhập quốc tế. Những nghiên
cứu của các công trình trước đây và của luận án đã cố gắng tiếp cận đầy đủ
hơn, toàn diện hơn phương thức quản lý hải quan này. Tuy nhiên, sự vận động
và phát triển của thương mại quốc tế luôn đặt ra những vấn đề mới cho hoạt
động hải quan, trong đó có KTSTQ. Chính vì vậy, cần nối tiếp những hoạt
động nghiên cứu mới đối với KTSTQ căn cứ vào những yêu cầu mới của quá
trình toàn cầu hóa thương mại và hội nhập quốc tế của Việt Nam.
2. Nền tảng cơ bản nhất cho hoạt động KTSTQ là hệ thống các nguyên
tắc và quy định pháp luật được xây dựng và ban hành theo những giai đoạn
phát triển khác nhau. Luận án đã tiếp cận và cố gắng làm rõ vấn đề pháp lý
của KTSTQ kể cả từ khía cạnh lý luận lẫn thực tiễn của pháp luật.
3. Về lý luận, luận án làm rõ cơ sở lý luận của hoàn thiện pháp luật về
KTSTQ với các vấn đề căn bản của khoa học pháp lý về khái niệm, nội dung,
đặc điểm, vai trò của pháp luật về KTSTQ, tiêu chí đánh giá và các yếu tố ảnh
hưởng đến hoàn thiện pháp luật nhằm đánh giá đúng thực trạng và mức độ
hoàn thiện của pháp luật về KTSTQ ở Việt Nam. Bên cạnh đó, luận án cũng
đã tập trung khảo cứu các chuẩn mực pháp lý quốc tế về KTSTQ của WCO,
Hải quan ASEAN và một số quốc gia có nhiều kinh nghiệm trong thực hiện
KTSTQ theo mô hình hải quan hiện đại, từ đó rút ra những giá trị cần tham
khảo, học tập của Việt Nam trong quá trình hoàn thiện pháp luật về KTSTQ.
4. Về thực trạng hoàn thiện pháp luật về KTSTQ ở Việt Nam, trên cơ
sở đánh giá những thành tựu của pháp luật hiện hành, luận án làm rõ vai trò
150
của pháp luật về KTSTQ trong việc xây dựng mô hình quản lý hải quan hiện
đại, thể hiện khả năng kiểm soát chặt chẽ và tuân thủ quy định pháp luật về
xuất nhập khẩu hàng hóa, tạo điều kiện thuận lợi cho luân chuyển hàng hóa
xuất nhập khẩu, vừa phải đảm bảo công tác quản lý hải quan, ổn định và phát
triển kinh tế quốc gia. Bên cạnh đó, luận án cũng đã phân tích những bất cập
hạn chế của pháp luật về KTSTQ, đồng thời làm rõ nguyên nhân của các hạn
chế bất cập đó. Những phân tích này chính là cơ sở để luận án đề xuất những
giải pháp mang tính khoa học và thực tiễn hoàn thiện pháp luật về KTSTQ ở
Việt Nam.
5. Từ nghiên cứu lý luận và thực trạng pháp luật về KTSTQ, luận án đã
đưa ra các quan điểm và đề xuất các nhóm giải pháp nhằm hoàn thiện pháp
luật về KTSTQ ở Việt Nam. Trong đó, quan điểm hoàn thiện được gắn với
chính sách của Đảng và Nhà nước về hoàn thiện pháp luật, cải cách hành
chính, định hướng cải cách và hiện đại hóa ngành Hải quan. Trên cơ sở đó,
luận án đề xuất 4 nhóm giải pháp để hoàn thiện về nội dung của hệ thống luật
thực định, đẩy mạnh công tác xây dựng và thực thi pháp luật nhằm nâng cao
hiệu quả của KTSTQ trong mô hình quản lý hiện đại của Hải quan Việt Nam.
Quan điểm và các giải pháp đề xuất để hoàn thiện pháp luật về KTSTQ sẽ
góp phần thực hiện đường lối hội nhập của Đảng và Nhà nước, thực hiện chủ
trương cải cách nền hành chính đảm bảo tính hiệu lực và hiệu quả, xây dựng
Hải quan Việt Nam chính quy, chuyên nghiệp, hiện đại, đáp ứng yêu cầu quản
lý nhà nước về hải quan trong tiến trình phát triển và hội nhập đất nước.
151
DANH MỤC CÁC CÔNG TRÌNH KHOA HỌC CỦA TÁC GIẢ
ĐÃ CÔNG BỐ LIÊN QUAN ĐẾN LUẬN ÁN
1. Đào Thị Hoa Sen (2012), “Một số giải pháp cơ bản hoàn thiện pháp
luật về kiểm tra sau thông quan ở Việt Nam”, Tạp chí Nghiên cứu Hải quan, (6).
2. Đào Thị Hoa Sen (2012), “Hoàn thiện quy định xử lý vi phạm hành
chính phát hiện trong quá trình kiểm tra sau thông quan”, Tạp chí Nghiên cứu
Hải quan, (11).
3. Đào Thị Hoa Sen (2013), “Lực lượng kiểm tra sau thông quan: Hiệu
quả từ công tác chống gian lận hoàn thuế giá trị gia tăng hàng hóa xuất kinh
doanh từ nội địa vào Khu Kinh tế - Thương mại đặc biệt Lao Bảo”, Tạp chí
Nghiên cứu Hải quan, (11).
4. Đào Thị Hoa Sen (2014), “Kiểm tra sau thông quan đối với doanh
nghiệp xuất khẩu khoáng sản - một số vấn đề nhìn từ góc độ pháp lý”, Tạp chí
Nghiên cứu Hải quan, (10).
5. Đào Thị Hoa Sen (2015), “Cục Hải quan Quảng Trị: Nâng cao ý thức
tuân thủ pháp luật của doanh nghiệp qua hoạt động kiểm tra sau thông quan”,
Tạp chí Nghiên cứu Hải quan, (3).
6. Đào Thị Hoa Sen (2016), “Kiểm tra sau thông quan tại trụ sở cơ
quan hải quan - một số vướng mắc từ góc độ pháp lý”, Tạp chí Nghiên cứu
Hải quan, (9).
7. Đào Thị Hoa Sen (2016), “Pháp luật về kiểm tra sau thông quan ở
Việt Nam - Thực trạng và một số giải pháp hoàn thiện”, Tạp chí Lý luận
chính trị, ngày 17/10/2016
8. Đào Thị Hoa Sen (2016), “Xây dựng tiêu chí hoàn thiện pháp luật về
kiểm tra sau thông quan ở Việt Nam đáp ứng yêu cầu hội nhập kinh tế”, Tạp
chí Pháp luật và Phát triển, (9+10).
152
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO
Tài liệu trong nước
1. Vũ Ngọc Anh (1996), Đổi mới và hoàn thiện pháp luật về hải quan ở nước
ta hiện nay, Luận án Phó Tiến sĩ Luật học, Học viện Chính trị quốc
gia Hồ Chí Minh, Hà Nội.
2. Minh Anh (2012), “Giới thiệu về Tổ chức Hải quan thế giới”, tại trang
[truy cập ngày 16/6/2016].
3. Ban cải cách hiện đại hóa - Tổng cục Hải quan (2012), “Cơ chế một cửa
ASEAN - cánh cửa hướng tới cộng đồng kinh tế ASEAN”, tại trang
[truy cập ngày 10/8/2016].
4. Bộ Chính trị Ban chấp hành Trung ương Đảng cộng sản Việt Nam (2005),
Nghị quyết 48-NQ/TW ngày 24/5/2005 về Chiến lược xây dựng và
hoàn thiện hệ thống pháp luật Việt Nam đến năm 2010 định hướng
đến năm 2020, tại trang [truy cập ngày
6/8/2016].
5. Bộ Chính trị Ban chấp hành Trung ương Đảng cộng sản Việt Nam (2016),
Kết luận 01-KL/TW ngày 4/4/2016 về việc tiếp tục thực hiện Nghị
quyết 48-NQ/TW của Bộ Chính trị khóa IX về Chiến lược xây dựng
và hoàn thiện hệ thống pháp luật Việt Nam đến năm 2010, định
hướng đến năm 2020, Hà Nội.
6. Bộ Tài chính (2013), Quyết định 1202/QĐ-BTC ngày 24/5/2013 của Bộ
trưởng Bộ Tài chính phê duyệt Đề án “Tăng cường năng lực kiểm
tra sau thông quan đến năm 2015 và tầm nhìn đến 2020”, Hà Nội.
7. Bộ Tài chính (2016), Quyết định 1219/QĐ-BTC ngày 6/9/2016 của Bộ
trưởng Bộ Tài chính quy định chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn và
cơ cấu tổ chức của Cục Hải quan tỉnh, liên tỉnh, thành phố trực
thuộc trung ương, Hà Nội.
153
8. Bộ Tài chính (2016), Quyết định 1614/QĐ-BTC ngày 19/7/2016 của Bộ
trưởng Bộ Tài chính về ban hành Kế hoạch cải cách, phát triển và
hiện đại hóa ngành Hải quan giai đoạn 2016-2020, Hà Nội.
9. Nguyễn Công Bình (2008), Nghiên cứu ứng dụng phương pháp quản lý
hải quan hiện đại nhằm tạo thuận lợi cho thương mại quốc tế của
Hải quan Việt Nam, Luận án tiến sĩ kinh tế, Viện Nghiên cứu
Thương mại, Hà Nội.
10. Nguyễn Văn Bình (2007), Nâng cao hiệu quả kiểm tra sau thông quan
đối với hàng hóa xuất nhập khẩu theo loại hình gia công, Đề tài
khoa học cấp Ngành, Tổng cục Hải quan, Hà Nội.
11. Chính phủ (1996), Nghị định 16/CP ngày 20/3/1996 của Chính phủ quy
định việc xử phạt vi phạm hành chính trong lĩnh vực quản lý nhà
nước về hải quan, Hà Nội.
12. Chính phủ (1999), Nghị định số 16/1999/NĐ-CP ngày 27/03/1999 của
Chính phủ về thủ tục hải quan, giám sát và lệ phí hải quan, Hà Nội.
13. Chính phủ (2011), Nghị quyết 30c/NQ-CP ngày 8/11/2011 của Chính phủ
ban hành Chương trình tổng thể cải cách hành chính nhà nước giai
đoạn 2011-2020, Hà Nội.
14. Chính phủ (2013), Nghị định 127/2013/NĐ-CP của Chính phủ quy định
xử phạt vi phạm hành chính và cưỡng chế thi hành quyết định hành
chính trong lĩnh vực hải quan, Hà Nội.
15. Chính phủ (2014), Nghị quyết 31/NQ-CP ngày 13/5/2014 ban hành
chương trình hành động của Chính Phủ thực hiện Nghị quyết 22-
NQ/TW ngày 10/4/2013 của Bộ Chính trị Ban chấp hành Trung
ương Đảng Cộng sản Việt Nam về hội nhập quốc tế, Hà Nội.
16. Chính phủ (2014), Nghị quyết 49/NQ-CP ngày 10/7/2014 của Chính phủ về
Chương trình hành động tiếp tục thực hiện Nghị quyết về chủ trương,
chính sách lớn để nền kinh tế phát triển nhanh và bền vững khi Việt
Nam là thành viên của Tổ chức Thương mại thế giới, Hà Nội.
154
17. Chính phủ (2015), Nghị quyết số 36a/NQ-CP ngày 14/10/2015 về Chính
phủ điện tử, Hà Nội.
18. Chính phủ (2016), Nghị định 45/2016/NĐ-CP sửa đổi Nghị định
127/2013/NĐ-CP quy định xử phạt vi phạm hành chính và cưỡng chế
thi hành quyết định hành chính trong lĩnh vực hải quan, Hà Nội.
19. Chính phủ (2016), Nghị quyết 19-2016/NQ-CP ngày 28/4/2016 của Chính
phủ về những nhiệm vụ, giải pháp chủ yếu cải thiện môi trường kinh
doanh, nâng cao năng lực cạnh tranh quốc gia hai năm 2016-2017,
định hướng đến năm 2020, Hà Nội.
20. Hoàng Anh Công (2003), Một số giải pháp đổi mới và hoàn thiện pháp
luật về kiểm tra giám sát hải quan ở nước ta hiện nay, Luận văn
thạc sĩ luật học, Học viện Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh, Hà Nội.
21. Cục Kiểm tra sau thông quan (2003), Báo cáo tổng kết năm 2002 của Cục
Kiểm tra sau thông quan, Hà Nội.
22. Cục Kiểm tra sau thông quan (2004), Báo cáo tổng kết năm 2003 của Cục
Kiểm tra sau thông quan, Hà Nội.
23. Cục Kiểm tra sau thông quan (2005), Báo cáo tổng kết năm 2004 của Cục
Kiểm tra sau thông quan, Hà Nội.
24. Cục Kiểm tra sau thông quan (2006), Báo cáo tổng kết năm 2005 của Cục
Kiểm tra sau thông quan, Hà Nội.
25. Cục Kiểm tra sau thông quan (2007), Báo cáo tổng kết năm 2006 của Cục
Kiểm tra sau thông quan, Hà Nội.
26. Cục Kiểm tra sau thông quan (2008), Báo cáo tổng kết năm 2007 của Cục
Kiểm tra sau thông quan, Hà Nội.
27. Cục Kiểm tra sau thông quan (2009), Báo cáo tổng kết năm 2008 của Cục
Kiểm tra sau thông quan, Hà Nội.
28. Cục Kiểm tra sau thông quan (2010), Báo cáo tổng kết năm 2009 của Cục
Kiểm tra sau thông quan, Hà Nội.
155
29. Cục Kiểm tra sau thông quan (2011), Báo cáo tổng kết năm 2010 của Cục
Kiểm tra sau thông quan, Hà Nội.
30. Cục Kiểm tra sau thông quan (2012), Báo cáo tổng kết năm 2011 của Cục
Kiểm tra sau thông quan, Hà Nội.
31. Cục Kiểm tra sau thông quan (2012), Nghiên cứu xây dựng chế độ ưu tiên
đặc biệt trong lĩnh vực quản lý nhà nước về hải quan đối với doanh
nghiệp, Đề tài nghiên cứu khoa học cấp Ngành, Hà Nội.
32. Cục Kiểm tra sau thông quan (2013), Báo cáo tổng kết năm 2012 của Cục
Kiểm tra sau thông quan, Hà Nội.
33. Cục Kiểm tra sau thông quan (2014), Báo cáo tổng kết năm 2013 của Cục
Kiểm tra sau thông quan, Hà Nội.
34. Cục Kiểm tra sau thông quan (2015), Báo cáo tổng kết năm 2014 của Cục
Kiểm tra sau thông quan, Hà Nội.
35. Cục Kiểm tra sau thông quan (2016), Báo cáo tổng kết năm 2015 của Cục
Kiểm tra sau thông quan, Hà Nội.
36. Cục Kiểm tra sau thông quan (2016), Báo cáo 6 tháng đầu năm 2016 và
phương hướng nhiệm vụ 6 tháng cuối năm, Hà Nội.
37. Hoàng Việt Cường (2006), Hoàn thiện hoạt động kiểm tra sau thông
quan ở nước ta trong giai đoạn hiện nay, Luận văn thạc sĩ kinh
doanh và quản lý, Học viện Chính trị - Hành chính quốc gia Hồ Chí
Minh, Hà Nội.
38. Hoàng Việt Cường (2007), Nâng cao hiệu quả nghiệp vụ kiểm tra sau
thông quan đối với hoạt động thanh toán quốc tế qua ngân hàng, Đề
tài khoa học cấp Ngành, Tổng cục Hải quan, Hà Nội.
39. Ngô Tùng Dương (2012), Hoạt động kiểm tra sau thông quan tại Cục Hải
quan Quảng Ninh trong giai đoạn hiện nay, Luận văn thạc sĩ kinh tế
phát triển, Hà Nội.
156
40. Đảng cộng sản Việt Nam (2011), “Cương lĩnh xây dựng đất nước trong
thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội (bổ sung, phát triển năm 2011)”,
tại trang [truy cập ngày 8/8/2016]
41. Nguyễn Phạm Hải (2012), Đổi mới hoạt động hải quan đáp ứng yêu cầu
hội nhập kinh tế quốc tế, Luận án tiến sĩ kinh tế, Viện Khoa học xã
hội Việt Nam, Hà Nội.
42. Nguyễn Phạm Hải (2012), “Vai trò của hải quan trong nền kinh tế hiện
đại - hội nhập và yêu cầu đổi mới hải quan ở Việt Nam”, Tạp chí
Nghiên cứu Châu Âu - European Studies Review N05, tại trang
[truy cập ngày 16/6/2016].
43. Minh Hạnh (2016), “Chinh phủ liêm chính kiến tọa động lực để phát
triển”, tại trang www.laodongthudo.vn, [truy cập ngày 6/12/2016]
44. Phạm Đức Hạnh (2009), Đổi mới quản lý hoạt động Hải quan Việt Nam góp
phần thúc đẩy phát triển kinh tế, Luận án tiến sĩ kinh tế, Học viện
Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh, Hà Nội.
45. Trần Thị Thanh Hiền (2012), Hoàn thiện công tác kiểm tra kế toán các
doanh nghiệp xuất nhập khẩu trong kiểm tra sau thông quan tại Cục
Hải quan thành phố Đà Nẵng, Luận văn Thạc sĩ quản trị kinh
doanh, Đại học Đà Nẵng, Đà Nẵng.
46. Học viện tài chính (2012), Giáo trình Kiểm tra sau thông quan, Nxb Tài
Chính, Hà Nội.
47. Hội đồng Nhà nước (1990), “Pháp lệnh Hải quan”, tại trang
[truy cập ngày 15/10/2015].
48. Nguyễn Viết Hồng (2005), Các giải pháp nâng cao hiệu quả công tác
kiểm tra sau thông quan đáp ứng yêu cầu, nhiệm vụ kế hoạch cải
cách, phát triển và hiện đại hóa hải quan giai đoạn 2004 - 2006, Đề
tài nghiên cứu khoa học cấp Ngành, Mã số 08-N2005.
157
49. Mai Văn Huyên (2002), Cơ sở lý luận, thực tiễn, nội dung và tác nghiệp
cụ thể nghiệp vụ kiểm tra sau thông quan, Đề tài nghiên cứu khoa
học cấp Ngành, Tổng cục Hải quan, Hà Nội.
50. Nguyễn Thị Thu Hường (2009), Pháp luật về kiểm tra sau thông quan,
chuẩn mực quốc tế và thực tiễn áp dụng của Hải quan Việt Nam,
Luận văn thạc sĩ Luật, Đại học Quốc gia Hà Nội, Hà Nội.
51. Phùng Thị Bích Hường (2013), Một số luận cứ khoa học để phục vụ việc
xây dựng các nội dung sửa đổi, bổ sung trong Luật Hải quan sửa
đổi, Đề tài nghiên cứu khoa học cấp Ngành.
52. Phạm Ngọc Hữu (2003), Nghiệp vụ kiểm tra sau thông quan, Tổng Cục
Hải quan - Tài liệu nghiệp vụ lưu hành nội bộ, Hà Nội.
53. Không rõ tác giả (2003), Luật Hải quan một số nước, Sách tham khảo,
Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.
54. Tạ Thị Mão (2010), Xây dựng phần mềm thu thập, khai thác thông tin phục
vụ công tác kiểm tra sau thông quan, Đề tài khoa học cấp Ngành, Tổng
cục Hải quan, Hà Nội.
55. Trần Vũ Minh (2008), Mô hình kiểm tra sau thông quan ở một số nước
trên thế giới và khả năng áp dụng cho Việt Nam, Luận án tiến sĩ
kinh tế, Đại học Ngoại thương, Hà Nội.
56. Phạm Thị Bích Ngọc (2014), Kiểm tra sau thông quan về trị giá hải quan
ở Việt Nam, Luận án Tiến sĩ Tài chính ngân hàng, Đại học Kinh tế
quốc dân, Hà Nội.
57. Nguyễn Thị Kim Oanh (2011), Kiểm tra sau thông quan ở Việt Nam trong
bối cảnh tự do hóa thương mại, Luận án tiến sĩ kinh tế, Hà Nội.
58. Quốc hội (1998), “Luật Thuế xuất khẩu, thuế nhập khẩu”, tại trang
[truy cập ngày 15/9/2015].
59. Quốc hội (2001), “Luật Hải quan”, tại trang [truy cập
ngày 23/9/2015].
158
60. Quốc hội (2003), “Bộ luật Tố tụng hình sự”, tại trang
[truy cập ngày 18/10/2015].
61. Quốc hội (2005), “Luật Sửa đổi bổ sung một số điều của Luật Hải quan
2005”, tại trang [truy cập ngày 15/9/2015].
62. Quốc hội (2005), “Luật Thuế xuất khẩu, thuế nhập khẩu”, tại trang
[truy cập ngày 18/10/2015].
63. Quốc hội (2006), “Luật Quản lý thuế”, tại trang
[truy cập ngày 16/10/2015].
64. Quốc hội (2011), “Luật Khiếu nại”, tại trang [truy cập
ngày 26/7/2015].
65. Quốc hội (2012), “Luật Sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật Quản lý
thuế”, tại trang [truy cập ngày 15/9/2015].
66. Quốc hội (2012), “Luật Xử lý vi phạm hành chính”, tại trang
[truy cập ngày 16/10/2015].
67. Quốc hội (2014), “Luật Hải quan”, tại trang
[truy cập ngày 14/10/2015].
68. Quốc hội (2015), “Luật Tố tụng hành chính”, tại trang
[truy cập ngày 15/9/2015].
69. Quốc hội (2016), “Luật Sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật Thuế Giá
trị gia tăng, Luật Thuế Tiêu thụ đặc biệt và Luật Quản lý thuế”,
[truy cập ngày 16/8/2015].
70. Quốc hội (2016), “Luật Thuế xuất khẩu, thuế nhập khẩu”, tại trang
[truy cập ngày 15/9/2015].
71. Quốc hội (2016), “Nghị quyết 142/2016/QH13 ngày 12/4/2016 về Kế
hoạch phát triển kinh tế - xã hội 5 năm 2016-2020”, tại trang
[truy cập ngày 10/8/2016].
159
72. Phạm Hồng Thanh (2007), Dịch vụ kiểm tra sau thông quan của Hải
quan Việt Nam đối với hoạt động xuất nhập khẩu, Luận văn thạc sĩ
kinh tế, Hà Nội.
73. Trịnh Phương Thảo (2011), Cải cách thủ tục hành chính trong ngành Hải
quan hiện nay, Luận văn thạc sĩ luật học, Đại học Quốc gia Hà Nội,
Hà Nội.
74. Nguyễn Bằng Thắng (2014), Hoàn thiện thủ tục hải quan điện tử Việt
Nam theo hướng áp dụng các chuẩn mực hải quan hiện đại đến
năm 2020, Luận án tiến sĩ kinh tế, Viện nghiên cứu quản lý kinh tế
Trung ương, Hà Nội.
75. Ngô Chí Thong (2008), Hoàn thiện pháp luật về thủ tục hải quan ở Việt
Nam, Luận văn thạc sĩ luật học, Học viện Chính trị - Hành chính
quốc gia Hồ Chí Minh, Hà Nội.
76. Thủ tướng Chính phủ (2011), Quyết định 448/QĐ-TTg ngày 25/3/2011
của Thủ tướng Chính phủ phê duyệt Chiến lược phát triển hải quan
đến năm 2020, Hà Nội.
77. Tổ chức Hải quan thế giới (1999), “Công ước quốc tế về đơn giản hóa và
hài hoà hóa thủ tục hải quan”, tại trang
[truy cập ngày 15/9/2015].
78. Tổ chức Hải quan thế giới (1999), “Nghị định thư về sửa đổi Công ước
quốc tế về đơn giản hóa và hài hoà hóa thủ tục hải quan”, tại trang
[truy cập ngày 18/9/2015].
79. Tổ chức thương mại thế giới (2015), “Hiệp định tạo thuận lợi của Tổ
chức thương mại thế giới”, tại trang [truy
cập ngày 10/8/2016].
80. Tổng cục Hải quan (2002), Báo cáo tình hình công tác và phương
hướng nhiệm vụ năm của Ngành Hải quan năm 2002, Hà Nội.
160
81. Tổng cục Hải quan (2003), Báo cáo tình hình công tác và phương
hướng nhiệm vụ năm của Ngành Hải quan năm 2003, Hà Nội.
82. Tổng cục Hải quan (2004), Báo cáo tình hình công tác và phương
hướng nhiệm vụ năm của Ngành Hải quan năm 2004, Hà Nội.
83. Tổng cục Hải quan (2005), Báo cáo tình hình công tác và phương
hướng nhiệm vụ năm của Ngành Hải quan năm 2005, Hà Nội.
84. Tổng cục Hải quan (2006), Báo cáo nghiên cứu tại Học viện Hải quan
Thượng Hải, Tài liệu tham khảo nội bộ, Hà Nội.
85. Tổng cục Hải quan (2006), Báo cáo tình hình công tác và phương
hướng nhiệm vụ năm của Ngành Hải quan năm 2006, Hà Nội.
86. Tổng cục Hải quan (2007), Báo cáo tình hình công tác và phương
hướng nhiệm vụ năm của Ngành Hải quan năm 2007, Hà Nội.
87. Tổng cục Hải quan (2008), Báo cáo tình hình công tác và phương
hướng nhiệm vụ năm của Ngành Hải quan năm 2008, Hà Nội.
88. Tổng cục Hải quan (2009), Báo cáo tình hình công tác và phương
hướng nhiệm vụ năm của Ngành Hải quan năm 2009, Hà Nội.
89. Tổng cục Hải quan (2010), Báo cáo tình hình công tác và phương
hướng nhiệm vụ năm của Ngành Hải quan năm 2010, Hà Nội.
90. Tổng cục Hải quan (2011), Chỉ thị 568/CT-TCHQ ngày 9/2/2011 của
Tổng cục trưởng Tổng cục Hải quan về tăng cường công tác kiểm
tra sau thông quan, Hà Nội.
91. Tổng cục Hải quan (2011), Báo cáo tình hình công tác và phương
hướng nhiệm vụ năm của Ngành Hải quan năm 2011, Hà Nội.
92. Tổng cục Hải quan (2012), Báo cáo đánh giá 1,5 năm thực hiện chỉ thị
568/CT-TCHQ ngày 9/2/2011 của Tổng cục trưởng Tổng cục Hải
quan về tăng cường công tác kiểm tra sau thông quan, Tài liệu
nội bộ, Hà Nội.
161
93. Tổng cục Hải quan (2012), Báo cáo tình hình công tác và phương
hướng nhiệm vụ năm của Ngành Hải quan năm 2012, Hà Nội.
94. Tổng cục Hải quan (2013), Báo cáo tình hình công tác và phương
hướng nhiệm vụ năm của Ngành Hải quan năm 2013, Hà Nội.
95. Tổng cục Hải quan (2014), Báo cáo về công tác tham gia tố tụng hành
chính của ngành Hải quan, Tài liệu nội bộ, Hà Nội.
96. Tổng cục Hải quan (2014), Báo cáo tình hình công tác và phương
hướng nhiệm vụ năm của Ngành Hải quan năm 2014, Hà Nội.
97. Tổng cục Hải quan (2015), Báo cáo tình hình công tác và phương
hướng nhiệm vụ năm của Ngành Hải quan năm 2015, Hà Nội.
98. Tổng cục Hải quan (2016), Báo cáo đánh giá về công tác tham gia tố
tụng hành chính của ngành Hải quan, Tài liệu nội bộ, Hà Nội.
99. Tổng cục Hải quan (2016), Báo cáo tình hình công tác và phương
hướng nhiệm vụ năm của Ngành Hải quan 6 tháng đầu năm 2016
và phương hướng nhiệm vụ 6 tháng cuối năm, Hà Nội.
100. Tổng cục Hải quan (2016), Quyết định 1722/QĐ-TCHQ ngày 10/6/2016
ban hành Kế hoạch hành động thực hiện Nghị quyết 19-2016/NQ-CP
ngày 28/4/2016 của Chính phủ về những nhiệm vụ, giải pháp chủ
yếu cải thiện môi trường kinh doanh, nâng cao năng lực cạnh tranh
quốc gia hai năm 2016-2017, định hướng đến năm 2020, Hà Nội.
101. Lê Văn Tới (2005), Hải quan Việt Nam trong tiến trình hội nhập kinh tế
khu vực và quốc tế, Luận án tiến sĩ kinh tế, Học viện Chính trị quốc
gia Hồ Chí Minh, Hà Nội.
102. Trung tâm từ điển học (2005), Từ điển Tiếng Việt, Nxb Đà Nẵng, Đà Nẵng.
103. Trường Đại học Luật Hà Nội (2003), Giáo trình lý luận chung nhà nước
và pháp luật, Nxb Công an nhân dân, Hà Nội.
104. Trường Hải quan Việt Nam (2012), Tài liệu đào tạo Kiểm tra sau thông
quan, Nxb Tài chính, Hà Nội.
162
105. Nguyễn Ngọc Túc (2007), Tiếp tục cải cách, hiện đại hóa Hải quan Việt
Nam đáp ứng yêu cầu hội nhập kinh tế quốc tế, Luận án Tiến sĩ
kinh tế, Đại học Ngoại thương, Hà Nội.
106. Nguyễn Mạnh Tùng (2016), “2016: Hải quan sẽ cung cấp dịch vụ công
trực tuyến mức 4”, tại trang [truy cập
ngày 10/8/2016].
107. Uỷ ban thường vụ quốc hội (2004), “Pháp lệnh tổ chức điều tra hình sự”,
tại trang [truy cập ngày 15/9/2015].
108. Hồng Vân (2016), “30% thủ tục đã kết nối Cơ chế một cửa quốc gia”, tại
trang [truy cập ngày 10/8/2016].
109. Nguyễn Cửu Việt (2008), Giáo trình Luật hành chính Việt Nam, Nxb
Chính trị quốc gia, Hà Nội.
110. Viện Nghiên cứu Hải quan (2013), Nghiên cứu tác động của việc Việt
Nam trở thành thành viên Hiệp định đối tác kinh tế xuyên Thái Bình
Dương đến các chỉ số hoạt động của Hải quan Việt Nam, Đề tài
nghiên cứu khoa học cấp Ngành, Hà Nội.
111. Đoàn Ngọc Xuân (2013), Kiểm tra sau thông quan và một số quy định
cần có tính chuẩn mực, Sách chuyên khảo, Nxb Y học, Hà Nội.
Tài liệu nước ngoài
112. ASEAN Customs (2012), “Asean agreement on customs”, tại trang
[truy cập ngày 17/6/2016].
113. Association of Southeast Asian Nation (2004), ASEAN Customs
Valuation Guide Edition 1/2004, Jakarta.
114. Association of Southeast Asian Nation (2004), “ASEAN Post -
Clearance Audit Manual - The Final Draft 2004, Jakarta”, tại trang
[truy cập ngày 17/6/2016].
115. Igarashi K. (2005), P.R. China Post-Clearance Audit, Seminar on Risk
Management and Post-Entry Audit Entry Audit.
163
116. Japan Customs (2004), Customs Administration in Japan 2004.
117. Japan Customs (2007), “History of Japan Customs”, tại trang
[truy cập ngày 15/9/2015].
118. Kitaura M. (2005), Outline of Valuation and PCA in Japan, Osaka Customs.
119. Korea Customs (2007), “History of Korea Customs”, tại trang
[truy cập ngày 15/9/2015].
120. Luc De Wulf and José B.Sokol (2005), Customs Modernization
Initiatives, The Internation Bank for Reconstruction and
Development/The World Bank, Nxb Thế giới.
121. Nobuyuki Shokai (2006), ASEAN Post Clearance Audit Manual.
122. Nobuyuki Shokai (2006), The blueprint of Asean customs post clearance
audit, JICA Expert.
123. Tanaka M. (2006), Computer Assisted Audit, Asean PCA Training on
Trainer 20 February 2006.
124. Tanaka M. (2006), Japan’s Experience on finding irregularities, Asean
PCA Training on Trainer 20 February 2006.
125. World Customs Organization (2012), “Guidelines for Post Clearance
Audit”, tại trang [truy cập ngày 15/9/2015].
126. World Trade Organization (Negotiating Group on Trade Facilitation),
Document TN/TF/W/55 - 22 July 2005 (05-3315), tại trang
[truy cập ngày 15/9/2015].
127. Yamahara T. (2004), Document on Technical Cooperation Project for
“Capacity Building of Master Trainers for Modernization of
Customs Administration”, PMU Workshop November 2, Ha Noi.
164
PHỤ LỤC
Biểu 1. Kết quả kiểm tra sau thông quan từ 2002 đến năm 2015
Nguồn: Tác giả tổng hợp từ báo cáo của Cục Kiểm tra sau thông quan –
Tổng cục Hải quan [21; 22; 23; 24; 25; 26; 27; 28; 29; 30; 32; 33; 34; 35]
165
Biểu 2. Kết quả thu ngân sách từ kiểm tra sau thông quan
từ 2002 đến 6 tháng 2016
Năm
Số thu từ KTSTQ
(tỷ đồng)
Số thu của toàn
Ngành
(tỷ đồng)
Tỷ lệ số thu
KTSTQ/số thu
toàn Ngành (%)
2002 20,44 37.221 0.06
2003 22,01 39.224 0.06
2004 33,7 46.032 0.07
2005 35,68 53.136 0.07
2006 127,2 61.040 0.21
2007 195,18 85.080 0.23
2008 212,33 125.163 0.17
2009 345,82 143.853 0.24
2010 309,37 168.000 0.18
2011 545,38 216.820 0.25
2012 1.373,06 197.845 0.69
2013 1.643,71 222.421 0.74
2014 1.104,79 244.944 0.45
2015 1.363,7 261.824 0.63
6 tháng
2016
940,95 127.733 0.71
Nguồn: Tác giả tổng hợp từ Báo cáo tổng kết năm của Tổng cục Hải quan và
Cục Kiểm tra sau thông quan [80; 81; 82; 83; 85; 86; 87; 88; 89; 91; 93; 94;
96; 97; 99]
166
Biểu 3: Tỷ lệ số doanh nghiệp được kiểm tra sau thông quan
trên số doanh nghiệp xuất nhập khẩu
Năm
Số doanh nghiệp
được KTSTQ
Số doanh nghiệp
xuất nhập khẩu
Tỷ lệ
(%)
2005 139 44.581 0.31
2006 559 44.992 1.24
2007 715 45.454 1.57
2008 793 46.899 1.69
2009 783 47.112 1.66
2010 904 47.483 1.90
2011 2.065 47.444 4.35
2012 2.672 51.018 5.24
2013 2.327 60.000 3.88
2014 3.697 55.100 6.71
2015 7.561 63.420 11.92
6 tháng 2016 3.626 (1754) 73.170 5.35
Nguồn: Tác giả tổng hợp từ Báo cáo tổng kết năm của Tổng cục Hải quan và
Cục Kiểm tra sau thông quan [83; 85; 86; 87; 88; 89; 91; 93; 94; 96; 97; 99]
167
Biểu 4: So sánh tốc độ tăng của kim ngạch và tờ khai xuất nhập khẩu
với tốc độ tăng của kiểm tra sau thông quan
Nguồn: Tác giả tổng hợp từ Báo cáo tổng kết năm của Tổng cục Hải quan và
Cục Kiểm tra sau thông quan [83; 85; 86; 87; 88; 89; 91; 93; 94; 96; 97; 99]